intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Một số giọng điệu trong truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư

Chia sẻ: Thi Thi | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:5

283
lượt xem
16
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Cuộc sống và con người Nam Bộ đã được thể hiện một cách tài năng qua các truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư. Đặc biệt, người đọc có thể nhận thấy tất cả chiều sâu tư tưởng, thái độ, vị thế, phong cách tài năng cũng như sở trường ngôn ngữ, cảm hứng sáng tạo của người nghệ sĩ thông qua giọng điêu. Giọng điệu trong truyện ngắn của chị rất đa dạng: có giọng dân dã mộc mạc, có giọng buồn mênh mang, có giọng trầm tĩnh, đắng đót… Điều này góp phần tạo nên phong cách độc đáo của nhà văn Nguyễn Ngọc Tư.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Một số giọng điệu trong truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư

Phạm Thị Hồng Nhung<br /> <br /> Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br /> <br /> 112(12)/1: 273 - 277<br /> <br /> MỘT SỐ GIỌNG ĐIỆU TRONG TRUYỆN NGẮN CỦA NGUYỄN NGỌC TƯ<br /> Phạm Thị Hồng Nhung*<br /> Trường ĐH Công nghệ Thông tin và Truyền thông – ĐH Thái Nguyên<br /> <br /> TÓM TẮT<br /> Cuộc sống và con người Nam Bộ đã được thể hiện một cách tài năng qua các truyện ngắn của<br /> Nguyễn Ngọc Tư. Đặc biệt, người đọc có thể nhận thấy tất cả chiều sâu tư tưởng, thái độ, vị thế,<br /> phong cách tài năng cũng như sở trường ngôn ngữ, cảm hứng sáng tạo của người nghệ sĩ thông<br /> qua giọng điêu. Giọng điệu trong truyện ngắn của chị rất đa dạng: có giọng dân dã mộc mạc, có<br /> giọng buồn mênh mang, có giọng trầm tĩnh, đắng đót… Điều này góp phần tạo nên phong cách<br /> độc đáo của nhà văn Nguyễn Ngọc Tư.<br /> Từ khóa: Nam Bộ, giọng điệu, phong cách, sở trường ngôn ngữ, thái độ.<br /> <br /> VÀI NÉT VỀ NGUYỄN NGỌC TƯ*<br /> Nguyễn Ngọc Tư (sinh năm 1976, quê ở xã<br /> Tân Duyệt, huyện Đầm Dơi, tỉnh Cà Mau) là<br /> một nữ nhà văn trẻ, quê ở đồng bằng sông<br /> Cửu Long. Chị khá nổi tiếng bởi đã liên tục<br /> cho ra đời các tác phẩm văn học và liên tục<br /> đạt những giải thưởng cao của Hội nhà văn<br /> Việt Nam. Văn của chị không chỉ thu hút độc<br /> giả mà còn thu hút sự chú ý của những nhà<br /> nghiên cứu, phê bình… Nguyễn Ngọc Tư trở<br /> thành một trong số ít những cây bút trẻ hiện<br /> nay được dư luận đặc biệt quan tâm. Có thể<br /> nói, với những truyện ngắn ở giai đoạn đầu,<br /> Nguyễn Ngọc Tư đã mang đến một “hơi gió<br /> mát” (chữ dùng của Nguyên Ngọc) cho văn<br /> xuôi đương đại, trong bối cảnh văn chương<br /> hiện nay quá chú trọng vào khai thác những<br /> mảng đề tài về hiện thực cuộc sống đang diễn<br /> ra với những bụi bặm, va chạm và nóng bỏng<br /> của đời thường.<br /> Có thể nói, thành công đầu tiên của Nguyễn<br /> Ngọc Tư là tập truyện ngắn “Ngọn đèn không<br /> tắt” (2000) - tác phẩm đạt giải nhất cuộc vận<br /> động sáng tác văn học tuổi 20 lần 2 do Hội<br /> Nhà văn Thành phố Hồ Chí Minh phối hợp<br /> với báo Tuổi trẻ tổ chức. Từ thành công này,<br /> Nguyễn Ngọc Tư đã có những bước đi mạnh<br /> dạn hơn. Nhiều tác phẩm của chị liên tục xuất<br /> hiện, như: Ông ngoại (tập truyện thiếu nhi),<br /> 2001; Biển người mênh mông (tập truyện),<br /> *<br /> <br /> ĐT: 0916044507<br /> <br /> 2003; Giao thừa (tập truyện), 2003 Nước<br /> chảy mây trôi (tập truyện và kí), 2004; Truyện<br /> ngắn Nguyễn Ngọc Tư (tập truyện),<br /> 2005…Và đặc biệt năm 2005, Nguyễn Ngọc<br /> Tư “đánh ùm” một tiếng trong làng văn Việt<br /> Nam với sự xuất hiện của “Cánh đồng bất<br /> tận”. Từ đây, cái tên Nguyễn Ngọc Tư đã làm<br /> dấy lên mối quan tâm trong giới phê bình văn<br /> học và trở thành đề tài bàn luận trong các câu<br /> chuyện văn chương.<br /> Tiếp nối thành công của “Cánh đồng bất tận”,<br /> Nguyễn Ngọc Tư tiếp tục ra mắt truyện Khói<br /> trời lộng lẫy (tháng 12.2010), và một lần nữa<br /> độc giả đắm mình trong không gian sông<br /> nước, cây trái, quang cảnh và lối sống của<br /> vùng đất phương Nam trù phú, mênh mông…<br /> Năm 2008, Nguyễn Ngọc Tư được Hội nhà<br /> văn đề cử là nhà văn trẻ nhất từ trước đến nay<br /> được nhận giải thưởng văn học của khối<br /> Đông Nam Á tại Thái Lan. Chị cũng được<br /> Hội Nhà văn đề cử vì những đóng góp của chị<br /> vào đời sống văn học Việt Nam khoảng 10<br /> năm gần đây. Có thể nói, các tác phẩm của<br /> Nguyễn Ngọc Tư được người đọc và giới<br /> nghiên cứu phê bình văn học đánh giá cao,<br /> một phần bởi những nét độc đáo trong văn<br /> phong của chị.<br /> MỘT SỐ GIỌNG ĐIỆU TRONG TRUYỆN<br /> NGẮN NGUYỄN NGỌC TƯ<br /> Theo Từ điển thuật ngữ văn học thì: “Giọng<br /> điệu phản ánh lập trường xã hội, thái độ<br /> tình cảm và thị hiếu thẩm mỹ của tác giả, có<br /> vai trò rất lớn tạo nên phong cách nhà văn<br /> 273<br /> <br /> Phạm Thị Hồng Nhung<br /> <br /> Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br /> <br /> và tác dụng truyền cảm cho người đọc” [3,<br /> tr 122].<br /> Giáo sư Trần Đình Sử trong Một số vấn đề về<br /> thi pháp học hiện đại cũng cho rằng: “Phân<br /> tích tác phẩm mà bỏ qua giọng điệu tức là<br /> tước đi cái phần quan trọng tạo nên bản sắc<br /> độc đáo của nhà văn”. [6, tr 27]<br /> Như vậy, giọng điệu là một yếu tố đặc trưng<br /> của hình tượng tác giả trong tác phẩm. Nếu<br /> như trong đời sống, ta thường chỉ nghe giọng<br /> nói nhận ra con người thì trong văn học,<br /> giọng điệu giúp chúng ta nhận ra tác giả.<br /> <br /> Một giọng buồn mênh mang<br /> Có thể nói, ngay trong tập truyện Cánh đồng<br /> bất tận người đọc đã gặp một giọng<br /> buồn“mênh mang, sầu rứt” đang lan toả<br /> khắp. Buồn vì cái nghèo vẫn đang đồng hành<br /> cùng những người nông dân quanh năm “bán<br /> mặt cho đất, bán lưng cho trời” trên những<br /> “cánh đồng bất tận”:<br /> “Suốt những năm tháng sống tù đọng trên<br /> đồng, tôi có biết ai ngoài những người đàn<br /> ông quê mùa cũ kỹ. Tôi biết lấy ai trong số<br /> đó?Lấy một người cắm mặt xuống đất, mệt<br /> nhừ với vườn ruộng để mỗi khi giáp hạt, tôi<br /> nghe tiếng cạo cơm cháy của con, tiếng<br /> muổng dừa vét gạo dưới đáy thạp mà rát<br /> bỏng trong lòng? Hay tôi sẽ chọn một người<br /> chăn vịt, mê mỏi với những chuyến đi xa,<br /> sống cuộc sống hờ hửng tạm bợ, thấp thỏm<br /> với rủi ro...” [8, tr.207] .<br /> Và buồn vì những mặt trái của đô thị hoá<br /> nông thôn làm nảy sinh nhiều vấn nạn tiêu<br /> cực như trong truyện ngắn Cải ơi!:<br /> “Mùa nắng quay trở lại, ngã ba Sương mọc<br /> thêm chừng chục quán nhậu nữa, muốn hay<br /> không quán công an phòng chống tệ nạn xã<br /> hội cũng phải để ý cái chòm lu bù nầy. Phía<br /> báo đài đang dòm ngó. Một bữa, họ ập vào,<br /> quay phim chụp hình búa la xua. Đám tiếp<br /> viên che mặt, ôm đầu, chỉ còn Diễm Thương<br /> là điềm nhiên trơ mắt ngó” [8 tr.12].<br /> Như vậy, buồn trước hết chính là giọng điệu,<br /> là âm hưởng chung chi phối cả hệ thống<br /> 274<br /> <br /> 112(12)/1: 273 - 277<br /> <br /> truyện ngắn của chị góp phần làm nên một<br /> “cái nhìn khắc khoải” về thân phận con<br /> người, về những nỗi đau, những dâu bể trong<br /> cuộc đời người dân thôn quê vùng Đồng bằng<br /> sông Cửu Long. Trong truyện ngắn của<br /> Nguyễn Ngọc Tư, chúng ta thấy con người<br /> tuy phải hứng chịu nhiều bất hạnh, oan trái<br /> nhưng trong từng lời nói và trong sâu thẳm<br /> suy nghĩ của họ vẫn luôn ánh lên một niềm<br /> tin: những khó khăn, vất vả cùng những đau<br /> khổ nhất định rồi sẽ qua đi như: Cải ơi! , Cuối<br /> mùa nhan sắc, Làm má đâu có dễ, Biển người<br /> mênh mông, Thương quá rau răm, Nhà cổ,<br /> Một dòng suôi mải miết, Cánh đồng bất tận,<br /> Khói trời lộng lẫy, Nước như nước mắt...<br /> Nói như Trần Hữu Dũng, “Giọng buồn của<br /> Nguyễn Ngọc Tư không là tiếng than vãn thì<br /> thầm của một người lớn tuổi, nhưng là một<br /> lời thốt, lửng lơ, đứt ngang nhưng rất đủ của<br /> một người trẻ bỗng nhiên phát giác bất hạnh<br /> của cuộc đời, mà vẫn hi vọng” [2, tr10].<br /> Trong Biển người mênh mông là truyện nói về<br /> ông Sáu Đèo phải ngược xuôi tìm vợ suốt bốn<br /> mươi năm, trải qua không biết bao nhiêu là cơ<br /> cực khó khăn. Trên hành trình ấy ông tình cờ<br /> gặp được Phi- một anh thanh niên sống rất có<br /> tình nghĩa và họ xem nhau như những người<br /> tri âm, tri kỷ. Có thể thấy âm hưởng và giọng<br /> điệu chung trong truyện ngắn này là nỗi buồn<br /> của hai con người một già một trẻ tình cờ gặp<br /> nhau. Cuộc đời của họ nhìn chung đều trải<br /> qua những nỗi đau nên trong lòng cả hai đều<br /> chất chứa những tâm sự và kỉ niệm riêng mà<br /> đã lâu lắm rồi mới có dịp chia sẻ với người<br /> khác. Tuy rất buồn nhưng qua cách nói năng,<br /> giao tiếp của hai nhân vật, người đọc cảm<br /> nhận được họ đều có một sự tin yêu vào cuộc<br /> sống và con người. Ví dụ như lời của ông già<br /> Sáu Đèo tâm sự với Phi:<br /> Ông biểu,“Sống một mình thì buồn lắm, chú<br /> em nên nuôi con gì đó, con... vợ thì tốt nhất,<br /> nếu chưa tính chuyện đó thì nuôi chó, mèo,<br /> chim chóc. Đừng nuôi sáo, nuôi sáo kết cuộc<br /> rồi cũng chia ly hà, nó hay sổ lồng, chết yểu.<br /> Kiếm thứ dân dã mà nuôi, để nhớ quê, nhớ<br /> <br /> Phạm Thị Hồng Nhung<br /> <br /> Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br /> <br /> gốc rễ mình, để đi đâu cũng muốn về nhà.<br /> Như qua, phò con bìm bịp này như phò bà già<br /> vợ vậy mà vui” [8, tr 100]<br /> Hay: “Ông Sáu cười,“Cha để coi, chỗ nào<br /> chưa đi thì đi, còn sống là còn tìm. Qua nhờ<br /> chú em một chuyện, chú em nuôi dùm con quỷ<br /> sứ nầy. Qua yếu rồi, sợ có lúc giữa đường lăn<br /> ra chết, để con “trời vật” nầy lại không ai lo.<br /> Qua tin tưởng chú em nhiều, đừng phụ lòng<br /> qua nghe””[8, tr 102-103]<br /> Có thể nói, trước những dâu bể thăng trầm<br /> của cuộc đời, con người không thể không<br /> buồn nhưng quan trọng hơn trước những dâu<br /> bể thăng trầm ấy, con người ta biết chấp nhận<br /> nó để có thể sống tốt hơn, để hiểu mình và<br /> hiểu đời hơn...<br /> Tóm lại, trong cái nhìn hiện thực cuộc sống,<br /> Nguyễn Ngọc Tư thường hướng cái nhìn xót<br /> xa và thông cảm đến những phận người<br /> không may trong cuộc đời. Điều này đã tạo<br /> nên một giọng buồn trong truyện ngắn của<br /> chị. Tuy vậy, Nguyễn Ngọc Tư không chỉ xót<br /> xa và thông cảm, chị còn tin yêu và luôn<br /> mong mỏi cho những số phận không may ấy<br /> có được cuộc sống hạnh phúc dù là những<br /> hạnh phúc bình dị và nhỏ nhoi nhất để bù đắp<br /> cho sự độ lượng, vị tha và nghĩa khí của họ<br /> trong cuộc sống. Đây cũng chính là cái nhìn<br /> mang đầy tính nhân văn của nhà văn trẻ này.<br /> Một giọng trầm tĩnh, có phần đượm chua<br /> xót đắng cay<br /> Trước hết, có thể thấy giọng điềm nhiên, trầm<br /> tĩnh trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư được<br /> thể hiện qua nhịp điệu kể chuyện rất từ tốn,<br /> chậm rãi của nhân vật người kể chuyện.<br /> Mở đầu truyện ngắn Cải ơi! người đọc bắt gặp<br /> nhịp kể chậm rãi, từ tốn của người kể dù đang<br /> thuật lại tình cảnh khó khăn bi đát của các<br /> nhân vật - một nhịp kể thể hiện sự tỉnh táo và<br /> điềm tĩnh của tác giả trong quá trình phản ánh<br /> sự khốn khó của con người trong cuộc sống.<br /> Bên cạnh lối kể chuyện với nhịp điệu chậm<br /> rãi, từ tốn, thái độ trần thuật, điềm nhiên đôi<br /> khi đến lạnh lùng của Nguyễn Ngọc Tư cũng<br /> là một minh chứng cho giọng điệu trầm tĩnh<br /> của tác giả.<br /> <br /> 112(12)/1: 273 - 277<br /> <br /> Khi nhập vai nhân vật kể chuyện, trước<br /> những vấn đề tiêu cực trong cuộc sống hay<br /> những bi kịch trong cuộc đời của nhân vật,<br /> Nguyễn Ngọc Tư – (nhân vật kể chuyện)<br /> không dùng những từ ngữ thô tục hoặc cách<br /> nói mạt sát. Đặc biệt tác giả không chửi rủa<br /> hay tỏ ra cay cú khi đề cập đến những vấn đề<br /> tiêu cực trong cuộc sống .<br /> Nguyễn Ngọc Tư thường chọn cách nói nhẹ<br /> nhàng, mềm mại khi thuật về tình cảnh đáng<br /> thương của Sương - cô gái giang hồ sau một<br /> đêm đi “thương lượng” với “những người có<br /> trách nhiệm” của địa phương (về việc đàn vịt<br /> của gia đình Út Vũ bị nhiễm bệnh) trong<br /> truyện ngắn Cánh đồng bất tận:<br /> “Một người nuốt nước miếng, ánh nhìn ham<br /> muốn như mũi kim thò ra khỏi bọc, lơ láo.<br /> Mắt ông ta lột trần chị, và toan tính một<br /> thoáng. Người còn lại có vẻ thú vị, háo hức<br /> như sắp xem được một vở cải lương hay. Chị<br /> thấu hiểu đàn ông đến nỗi, ngay lập tức chị<br /> ngó về phía chúng tôi, ngầm báo, cuộc<br /> thương lượng (về một sự đổi chác) đã kết thúc<br /> rồi... chị trở về khi trăng rạng rỡ trên đầu<br /> (mãi sau nầy, tôi vẫn còn ghê sợ cái màu<br /> trắng ấy). Ống quần quệt vào cỏ ướt đẫm<br /> sương. Hơi rượu quyện với mùi thuốc lá làm<br /> tôi chạo chực. Nhác thấy hai chị em tôi ngồi<br /> thù lù, chị kêu lên, “trời đất, hai cưng chờ chị<br /> chi vậy”. “Chị đã làm đĩ quen rồi, mấy<br /> chuyện nầy nhằm bà gì mà mấy cưng buồn?”<br /> [8, tr.203].<br /> Có thể nói, tuy không dùng những lời lẽ đao to<br /> búa lớn, không quát tháo, không thoá mạ...<br /> nhưng người đọc vẫn cảm nhận được cái nhìn<br /> phê phán của Nguyễn Ngọc Tư trước những<br /> vấn đề tiêu cực trong cuộc sống. Đồng thời<br /> cũng cảm nhận nỗi xót xa và thương cảm, đau<br /> đớn của nhà văn dành cho số phận không may<br /> trong cuộc đời. Đây là thành công của chị<br /> trong việc sử dụng cách nói mềm mại, nhẹ<br /> nhàng, đầy nữ tính để tạo nên một giọng điệu<br /> điềm nhiên, trầm tĩnh nhằm lột tả bản chất của<br /> những sự việc mà chị phản ánh. Về điều này,<br /> nói như nhà văn Dạ Ngân, là Nguyễn Ngọc Tư<br /> có giọng “điềm đạm mà thấu đáo”. Hay như<br /> Tấn Kiệt trong “Sông nước Hậu Giang và<br /> 275<br /> <br /> Phạm Thị Hồng Nhung<br /> <br /> Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br /> <br /> Nguyễn Ngọc Tư” thì Nguyễn Ngọc Tư có<br /> giọng văn “... thành thật hiền hoà, không xốc<br /> táp ngang ngược; không có những kiểu nói om<br /> sòm mà rỗng tuếch”.<br /> Một điểm quan trọng nữa giúp nhận ra<br /> giọng điệu của chị chính là lối kể chuyện<br /> bình thản, có phần dửng dưng của chị.<br /> Những lúc như vậy, người đọc, nhân vật<br /> người kể chuyện có khi đứng ngoài xưng<br /> “tôi”, có khi nhập vào nhân vật nhưng thực<br /> chất trong lòng đau đớn, xót xa... Tâm trạng<br /> đó được thể hiện rõ nhất ở những câu văn<br /> mà tác giả cố tình (để cho nhân vật kể<br /> chuyện trong quá trình trần thuật) mở ngoặt<br /> đơn để “giải thích”, “chú thích” thêm một<br /> điều gì đó. Ví dụ như trong Một trái tim<br /> khô:<br /> “Hậu chỉ biết tê tái hỏi một câu, “sao anh đành<br /> đoạn giết em”,(trời đất ơi, chắc là hết chuyện<br /> nói rồi.) [8, tr.146]. Hay trong Thương quá rau<br /> răm: “Quẹo qua quẹo lại, nói đất nói trời (chỉ<br /> thiếu nói lời thương yêu), cuối cùng hai đứa ra<br /> bãi đào khoai” [8, tr.23].<br /> Theo thống kê của chúng tôi, dấu ngoặc đơn<br /> được sử dụng trong ba tập truyện với 36<br /> truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư là 288<br /> lượt. Cụ thể: Tập truyện Cánh đồng bất tận:<br /> 115 lượt; Tập truyện Giao thừa: 95 lượt; Tập<br /> truyện Khói trời lộng lẫy: 78 lượt<br /> Có thể nói, đây là nét sáng tạo trong cách trần<br /> thuật của Nguyễn Ngọc Tư, góp phần làm nên<br /> giọng điệu điềm nhiên, trầm tĩnh rất độc đáo<br /> của chị. Chính sự xuất hiện những dấu ngoặt<br /> đơn làm cho câu chuyện thêm phần khách<br /> quan và sinh động hơn.<br /> Một giọng dân dã mộc mạc<br /> Giọng điệu dân dã mộc mạc của Nguyễn<br /> Ngọc Tư được thể hiện trong những trang văn<br /> tả cảnh thiên nhiên, tả cảnh cuộc sống sinh<br /> hoạt của người dân Nam Bộ. Đó là những<br /> trang viết về dòng sông như một người bạn<br /> tâm tình“Đêm sông trăng, ngồi trên nhà có<br /> thể nhìn thấy một dòng chảy líu ríu, sáng<br /> loáng. Ban đêm, con sông trước nhà tôi<br /> không ngủ, nó thức theo những chiếc tàu rầm<br /> rì chảy qua, theo tiếng mái chèo quẩy chách<br /> 276<br /> <br /> 112(12)/1: 273 - 277<br /> <br /> bụp rất đều”. Câu văn êm ả như ru, những<br /> dòng sông cuộc đời, những dòng sông thời<br /> gian thấm thía tình người, niềm đau và nỗi<br /> buồn. Những dòng sông-thơ cứ thênh thang<br /> chảy mãi từ ngôn ngữ rất riêng, rất trong trẻo,<br /> độc đáo và đa âm sắc của Nguyễn Ngọc Tư.<br /> Giọng điệu dân dã, mộc mạc này xuất hiện với<br /> tần số cao trong truyện ngắn của chị, đôi khi<br /> lắng đọng ở những câu văn kể hòa trộn với<br /> tả “Bây giờ, gió chướng non xập xòe trên khắp<br /> cánh đồng bất tận. Ven các bờ ruộng, bông cỏ<br /> mực như những điền viền nhỏ liu riu làm dịu lại<br /> mảng rực vàng của lúa”. Câu văn có chất thơ,<br /> nó là khúc nhạc lòng thiên nhiên Nam Bộ dân<br /> dã, tự nhiên nhưng cũng đầy vẻ quyến rũ vút lên<br /> từ những trang văn nồng nàn tình người.<br /> Viết về cuộc sống sinh hoạt đời thường gần<br /> gũi của người dân Nam Bộ, Nguyễn Ngọc Tư<br /> đã chọn cho mình giọng điệu dân dã, mộc<br /> mạc cứ tự nhiên chảy ra từ vốn sống của nhà<br /> văn, gắn bó với mảnh đất Nam Bộ cùng với<br /> niềm đồng cảm, chia sẻ. Giọng mộc mạc, dân<br /> dã ấy xuất phát từ cảm hứng của nhà văn về<br /> cuộc sống và số phận của những “nhân vật<br /> nhỏ bé”- những người nông dân nhếch nhác<br /> bùn đất và những người nghệ sỹ nghèo khổ,<br /> bất hạnh nhưng giàu lòng yêu nghề. Giọng<br /> điệu ấy được chưng cất bằng mật độ đậm đặc<br /> của ngôn ngữ Nam Bộ (như từ chỉ địa hình<br /> ,sản vật gắn với một vùng sông nước; cử chỉ<br /> hoạt động, sinh hoạt, cách xưng gọi mang sắc<br /> thái Nam Bộ; tình thái từ có màu sắc Nam<br /> Bộ, cách diễn đạt kiểu Nam Bộ…) và sự ùa<br /> vào của khẩu ngữ. Điều này góp phần tạo bối<br /> cảnh cho truyện đậm đặc chất Nam Bộ từ<br /> cảnh sắc thiên nhiên tới cuộc sống sinh hoạt<br /> và tạo cho Nguyễn Ngọc Tư một phong cách<br /> độc đáo.<br /> KẾT LUẬN<br /> Như vậy, có thể thấy bên cạnh âm hưởng và<br /> giọng buồn, nhưng không chán chường ủ dột,<br /> thì sự điềm nhiên và trầm tĩnh là giọng điệu<br /> chủ yếu góp phần làm nên phong cách nhà<br /> văn trẻ Nguyễn Ngọc Tư. Nói như Trần Thị<br /> Ngọc Lang: “mỗi người một ít, như những<br /> con ong rừng gom từng giọt mật một bồi đắp<br /> <br /> Phạm Thị Hồng Nhung<br /> <br /> Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br /> <br /> cho văn hóa, văn học Việt Nam thêm phong<br /> phú, đa dạng, bằng cách đóng góp cho văn<br /> hóa, văn học Nam Bộ ngày càng phát triển<br /> với sắc thái riêng, phong cách riêng.”[5]<br /> TÀI LIỆU THAM KHẢO<br /> [1]. Nguyễn Trọng Bình. Phong cách truyện<br /> ngắn Nguyễn Ngọc Tư nhìn từ phương diện<br /> nghệ thuật con người, www. viet-studies.<br /> info/NNTu<br /> [2]. Trần Hữu Dũng. Nguyễn Ngọc Tư, Đặc sản<br /> miền Nam, www. viet-studies. info/NNTu<br /> [3]. Lê Bá Hân, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc<br /> Phi (2007), Từ điển thuật ngữ văn học,<br /> Nxb Giáo dục<br /> <br /> 112(12)/1: 273 - 277<br /> <br /> [4]. Nguyễn Thị Hoa ( 2008), Giọng điệu trần<br /> thuật của Nguyễn Ngọc Tư qua tập truyện<br /> Cánh đồng bất tận, kỷ yếu sinh viên khoa<br /> học toàn quốc, Huế<br /> [5]. Trần Thị Ngọc Lang (2011), Phương ngữ<br /> Nam Bộ trong tác phẩm Đồng bằng sông Cửu<br /> Long, Từ điển học và Bách khoa thư, số 4.<br /> [6]. Trần Đình Sử (1993), Một số vấn đề về thi<br /> pháp học hiện đại, Bộ GD&ĐT. Vụ giáo<br /> viên.<br /> [7]. Nguyễn Ngọc Tư (2003), Giao thừa Nxb Trẻ<br /> [8]. Nguyễn Ngọc Tư (2008), Cánh đồng bất tận<br /> Nxb Trẻ<br /> [9]. Nguyễn Ngọc Tư (2010), Khói trời lộng lẫy<br /> Saigon Media & Nxb Thời đại<br /> <br /> SUMMARY<br /> <br /> THE TONES IN NGUYEN NGOC TU’S SHORT STORIES<br /> Pham Thi Hong Nhung*<br /> College of Information and Communication Technology – TNU<br /> <br /> Nam Bo’s life and people were shown marvelously in short stories by Nguyen Ngoc Tu. Specially,<br /> readers might notice all deep thoughts, attitude, position, talented style as well as language<br /> strength and creative inspiration of the artist through her tones. The tones in her short stories are<br /> diverse: some are folk and rustic, some are immense sad, and some are calm and bitter. These<br /> contribute to the unique style of the writer Nguyen Ngoc Tu.<br /> Key words: Nam Bo, language strength, tones, style, attitude.<br /> <br /> Phản biện khoa học: Đào Thị Vân – Trường Đại học Sư phạm – ĐHTN<br /> <br /> *<br /> <br /> ĐT: 0916044507<br /> <br /> 277<br /> <br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2