intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Một số khái niệm và chiến thuật điều trị gãy xương lớn trong đa chấn thương

Chia sẻ: Ni Ni | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:7

67
lượt xem
2
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết trình bày một số khái niệm và chiến thuật điều trị gãy xương lớn trong đa chấn thương. Phẫu thuật kiểm soát tổn thương là một cách tiếp cận khá mới trong quy trình cấp cứu ĐCT. Kiểm soát tổn thương xương là một kỹ thuật trong quy trình cấp cứu và điều trị ĐCT có gãy xương lớn.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Một số khái niệm và chiến thuật điều trị gãy xương lớn trong đa chấn thương

TẠP CHÍ Y - DƯỢC HỌC QUÂN SỰ SỐ 1-2013<br /> <br /> MỘT SỐ KHÁI NIỆM VÀ CHIẾN THUẬT ĐIỀU TRỊ<br /> GÃY XƯƠNG LỚN TRONG ĐA CHẤN THƯƠNG<br /> Nguyễn Trường Giang*<br /> TÓM TẮT<br /> Cấp cứu và điều trị bệnh nhân (BN) đa chấn thương (ĐCT) đã có thay đổi rõ rệt trong nhiều năm<br /> qua do sự tiến bộ của kỹ thuật phẫu thuật và hồi sức cấp cứu.<br /> Trước những năm 1970, BN ĐCT chủ yếu điều trị không mổ, các phẫu thuật viên cho rằng, BN<br /> quá nặng để có thể chịu được một cuộc phẫu thuật. Trong thập kỷ 1970, do sự phát triển nhanh<br /> chóng của kỹ thuật mổ xẻ dẫn đến xu hướng phẫu thuật kết xương sớm, với quan điểm điều trị toàn<br /> diện sớm. Nhưng sau đó, các phẫu thuật viên nhận ra rằng phẫu thuật kết xương sớm không mang<br /> đến kết quả tốt đối với BN ĐCT.<br /> Phẫu thuật kiểm soát tổn thương là một cách tiếp cận khá mới trong quy trình cấp cứu ĐCT.<br /> Kiểm soát tổn thương xương là một kỹ thuật trong quy trình cấp cứu và điều trị ĐCT có gãy<br /> xương lớn.<br /> * Từ khóa: Đa chấn thương; Chiến thuật điều trị; Gãy xương lớn.<br /> <br /> CONCEPT AND tACTICS OF TREATMENT OF BONE<br /> FRACTURE IN POLYTRAUMA<br /> SUMMARY<br /> The management of polytrauma patient has changed considerably in recent years. This is in keeping<br /> with the developments that have occurred in the fields of operation techniques and intensive care.<br /> Prior the 1970s, patients with multiple injuries were treated non-operatively, as it was believed<br /> that they were too ill to withstand surgery. In the 1970 decade, fracture fixation techniques were<br /> developed rapidly leading to the advent of early fracture stabilisation surgery of polytrauma patients.<br /> In the following decade, the surgical world came to recognise that early stabilisation of skeletal<br /> injuries produced poor results in certain patients, known as early total care.<br /> Damage control surgery has evolved as a new approach to minimize the impact of primary surgery.<br /> Damage control orthopaedics should be regarded as a part of the resusciation and treatment process<br /> of polytrauma patients, who have long bone injuries.<br /> * Key words: Polytrauma; Tactics of treatment; Bone fracture.<br /> <br /> LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN ĐIỀU TRỊ ĐCT<br /> Theo Partel và Trilliat (1971), đa chấn<br /> thương là những BN có nhiều (≥ 2) thương<br /> tổn nặng ở nhiều (≥ 2) hệ thống cơ quan<br /> <br /> khác nhau, trong đó, có ít nhất một thương<br /> tổn đe dọa tính mạng (làm rối loạn các chức<br /> năng sống quan trọng như: tuần hoàn,<br /> hô hấp, thần kinh). Theo Trentz (2000),<br /> <br /> * Bệnh viện 103<br /> Chịu trách nhiệm nội dung khoa học: PGS. TS. Trần Đình Chiến<br /> PGS. TS. Phạm Đăng Ninh<br /> <br /> 155<br /> <br /> TẠP CHÍ Y - DƯỢC HỌC QUÂN SỰ SỐ 1-2013<br /> <br /> ĐCT là khi BN có nhiều tổn thương ở nhiều<br /> hệ thống cơ quan với ISS ≥ 18 (bảng điểm<br /> độ nặng tổn thương - Injury Severity Score),<br /> dẫn đến rối loạn chức năng sống cũng như<br /> cơ quan không bị tổn thương ban đầu.<br /> <br /> hội chứng suy hô hấp cấp, tắc mạch mỡ,<br /> tắc mạch phổi và viêm phổi ở BN ĐCT. Bên<br /> cạnh đó thời gian nằm viện cũng giảm ở<br /> nhóm kết xương sớm.<br /> <br /> Trong nửa đầu thế kỷ 20, những BN<br /> ĐCT chủ yếu điều trị không mổ, vì các phẫu<br /> thuật viên cho rằng, BN quá nặng để có thể<br /> chịu được một cuộc phẫu thuật. Do đó, phẫu<br /> thuật kết xương là chống chỉ định, thay vào<br /> đó là nhiều kỹ thuật như: kéo liên tục, bó<br /> bột. Kèm theo đó là nhiều biến chứng xảy<br /> ra như viêm phổi, viêm tắc tĩnh mạch, nhồi<br /> máu phổi, cứng khớp, loét điểm tỳ.<br /> <br /> Đầu những năm 1990, hàng loạt biến<br /> chứng liên quan đến phẫu thuật kết xương<br /> sớm đã được báo cáo. Một điều được thấy<br /> rõ là điều trị toàn diện sớm không có kết<br /> quả tốt ở tất cả BN, dẫn đến tỷ lệ biến<br /> chứng cao ở một nhóm BN.<br /> <br /> - Điều trị toàn diện sớm (early total care):<br /> Đầu những năm 1970, do sự phát triển<br /> nhanh chóng của gây mê, hồi sức, các kỹ<br /> thuật cận lâm sàng và mổ xẻ, phẫu thuật<br /> viên chủ trương phẫu thuật sớm điều trị<br /> thực thụ tổn thương. BN ĐCT được phẫu<br /> thuật kết xương sớm (trong 24 giờ đầu)<br /> cùng với xử trí các tổn thương khác.<br /> Theo Riska và CS, phẫu thuật kết xương<br /> sớm tránh được biến chứng tắc mạch, loét<br /> điểm tỳ, teo cơ cứng khớp, thậm chí giảm<br /> tỷ lệ tử vong. Goris và CS nghiên cứu trên<br /> 58 trường hợp gãy xương đùi thấy, phẫu<br /> thuật kết xương sớm giúp giảm tỷ lệ biến<br /> chứng suy hô hấp tiến triển (ARDS), nhiễm<br /> khuẩn huyết.<br /> Bone và CS nghiên cứu tiến cứu 178 BN<br /> gãy thân xương đùi được phẫu thuật kết<br /> xương sớm (24 giờ đầu) và muộn (sau 48<br /> giờ), loại trừ gãy xương đùi ở người già ><br /> 65 tuổi. Những BN phẫu thuật kết xương<br /> muộn được cố định tạm thời bằng kéo liên<br /> tục, tính điểm ISS khi vào viện, xét nghiệm<br /> khí máu và chụp X quang phổi hàng ngày.<br /> Kết quả cho thấy, kết xương sớm làm giảm<br /> tỷ lệ biến chứng phổi nói chung cũng như<br /> <br /> - BN "nguy kịch" (borderline patient):<br /> <br /> Pape và CS nghiên cứu những BN ĐCT<br /> có ISS ≥ 18, gãy thân xương đùi, được điều<br /> trị bằng kết xương đinh nội tủy, kết quả cho<br /> thấy, kết xương sớm ở BN không có chấn<br /> thương ngực có tỷ lệ biến chứng phổi thấp.<br /> Ngược lại, những BN chấn thương ngực<br /> nặng có kết quả xấu vì liên quan đến biến<br /> chứng hội chứng suy hô hấp cấp. Pape cho<br /> rằng, có 3 yếu tố liên quan đến chức năng<br /> hô hấp sau chấn thương: độ nặng chấn<br /> thương (liên quan trực tiếp đến mức độ<br /> sốc); có hay không chấn thương ngực và<br /> phẫu thuật kết xương đùi. Từ đó, ông kết<br /> luận rằng, BN có chấn thương ngực nặng là<br /> nhóm BN có tình trạng "nguy kịch" (borderline)<br /> và phẫu thuật kết xương sớm ở nhóm này<br /> sẽ làm tăng nguy cơ biến chứng về hô hấp.<br /> Ở một số nghiên cứu khác, Pape và CS<br /> đã đưa ra những "tiêu chuẩn" để xác định<br /> nhóm BN "nguy kịch" không nên phẫu thuật<br /> kết xương sớm.<br /> BN "nguy kịch" (borderline patient): ĐCT<br /> với ISS > 20 có chấn thương ngực nặng<br /> (AIS > 2); ĐCT có chấn thương bụng hoặc<br /> khung chậu (OIS > 2) và sốc; ĐCT với ISS<br /> > 40; ĐCT có tổn thương đụng dập nhu mô<br /> phổi 2 bên (X quang hoặc CT); áp lực động<br /> mạch phổi lúc vào viện > 24 mmHg; áp lực<br /> động mạch phổi tăng > 6 mmHg sau phẫu<br /> thuật kết xương.<br /> <br /> 157<br /> <br /> TẠP CHÍ Y - DƯỢC HỌC QUÂN SỰ SỐ 1-2013<br /> <br /> AIS: Abbreviated Injury Scale; OIS: Organ<br /> Injury Scale)<br /> - Tác động thứ cấp (second hit):<br /> Hai tác động ngoại lai gây rối loạn tại<br /> chỗ và toàn thân, quyết định đến kết quả<br /> điều trị BN chấn thương:<br /> + Tính chất và mức độ chấn thương<br /> (first hit);<br /> + Tính chất của can thiệp phẫu thuật<br /> (second hit).<br /> Tác động thứ cấp do phẫu thuật có<br /> nhiều nguyên nhân như: mất máu, đau đớn,<br /> nhiễm khuẩn, thiếu oxy, tụt huyết áp. Hiện<br /> nay, bằng nhiều xét nghiệm hiện đại đã<br /> chứng minh tác động của phẫu thuật lên<br /> phản ứng viêm hệ thống thông qua các yếu<br /> tố như: cytokin, TNF-α, interleukine (nghiên<br /> cứu của Pape, Roumen và CS). Các yếu tố<br /> trên tăng lên có liên quan trực tiếp đến biến<br /> chứng hội chứng suy hô hấp cấp hoặc rối<br /> loạn chức năng đa tạng. Vì vậy, lựa chọn<br /> thời điểm và loại phẫu thuật là hết sức quan<br /> trọng, đặc biệt đối với BN chấn thương<br /> nặng, ĐCT.<br /> Đối với những BN chấn thương nặng,<br /> thực hiện cuộc mổ kéo dài với nhiều nguy<br /> cơ được xem như một tác động (thứ cấp)<br /> tiêu cực sau chấn thương, dẫn đến nhiều<br /> biến chứng. Để hạn chế tác động tiêu cực<br /> của những cuộc mổ kéo dài, "phẫu thuật<br /> kiểm soát tổn thương" được áp dụng trong<br /> điều trị BN ĐCT.<br /> - Phẫu thuật kiểm soát tổn thương (damage<br /> control surgery):<br /> Khái niệm "phẫu thuật kiểm soát tổn<br /> thương" được Rotondo và Schwad (1993)<br /> đưa ra để chỉ quy trình (cách thức) điều trị<br /> BN chấn thương bụng nặng. Theo tác giả,<br /> <br /> những BN tổn thương bụng trong tình trạng<br /> nguy kịch, quan trọng nhất là nhanh chóng<br /> mở bụng cầm máu (bằng kỹ thuật đơn giản,<br /> nhanh), sau đó, đóng bụng tạm thời và hồi<br /> sức BN, khi BN ổn định sẽ mở bụng lại xử<br /> trí thực thụ các tổn thương.<br /> Hiện nay, "phẫu thuật kiểm soát tổn<br /> thương" được áp dụng để xử trí tổn thương<br /> ở những cơ quan khác nhau (bụng, ngực,<br /> chi thể, xương chậu) trong điều trị BN ĐCT.<br /> Với những BN đang trong tình trạng nguy<br /> kịch, cuộc mổ lớn, kéo dài sẽ dẫn đến rối<br /> loạn nặng thêm chức năng cơ quan. Việc<br /> ưu tiên hàng đầu trong giai đoạn này là cứu<br /> sống tính mạng, do đó, chỉ tiến hành cuộc<br /> mổ ngắn, can thiệp tối thiểu nhằm kiểm<br /> soát những tổn thương là nguyên nhân gây<br /> sốc hoặc rối loạn hô hấp.<br /> Theo các tác giả, quy trình "phẫu thuật<br /> kiểm soát tổn thương" gồm 3 bước: bước<br /> 1: tiến hành phẫu thuật trong thời gian<br /> ngắn, can thiệp tối thiểu nhằm khống chế<br /> chảy máu, đè ép và ô nhiễm; bước 2: tiếp<br /> tục hồi sức tích cực nhằm giải quyết các rối<br /> loạn về hô hấp, tuần hoàn, đông máu...;<br /> bước 3: thường thực hiện từ 24 - 36 giờ<br /> sau chấn thương, khi BN đã ổn định, tiến<br /> hành mổ lại để xử trí tổn thương. Giai đoạn<br /> hồi sức thường được thực hiện tại phòng<br /> điều trị tích cực với mục tiêu đưa BN thoát<br /> khỏi tình trạng "đe dọa tính mạng", BN phải<br /> đạt được các chỉ tiêu sau: huyết động ổn<br /> định mà không phải dùng các thuốc vận<br /> mạch; chức năng hô hấp tốt, không còn tình<br /> trạng thiếu oxy hoặc tăng CO2; nồng độ<br /> lactae máu < 2 mmol/l; chức năng đông<br /> máu bình thường; không có tình trạng hạ<br /> nhiệt độ; số lượng nước tiểu > 1 ml/kg/giờ.<br /> <br /> 158<br /> <br /> TẠP CHÍ Y - DƯỢC HỌC QUÂN SỰ SỐ 1-2013<br /> <br /> CHIẾN THUẬT ĐIỀU TRỊ GÃY XƯƠNG<br /> LỚN TRONG ĐCT<br /> Gãy xương chi thể đều có liên quan đến<br /> chảy máu và tổn thương phần mềm, là<br /> nguyên nhân dẫn đến phản ứng viêm tại<br /> chỗ và tăng yếu tố viêm toàn thân. Nhiều<br /> nghiên cứu chứng minh mức tăng cytokine<br /> liên quan với mức độ tổn thương phần<br /> mềm và gãy xương. Cytokine luôn tăng<br /> trong mọi thời điểm sau chấn thương,<br /> chứng tỏ nó được giải phóng từ tổn thương<br /> tại chỗ. Hậu quả của phản ứng viêm hệ<br /> thống là phù nề tổ chức, giảm tưới máu,<br /> cuối cùng là rối loạn chức năng đa tạng. Do<br /> đó, cố định tốt và sớm các ổ gãy xương,<br /> đặc biệt là xương lớn có ý nghĩa rất quan<br /> trọng, ảnh hưởng đến chất lượng hồi sức,<br /> tỷ lệ biến chứng và kết quả điều trị.<br /> Tác động của phẫu thuật lên hệ thống<br /> miễn dịch và hậu quả của nó ở BN ĐCT đã<br /> được chứng minh, đặc biệt là những phẫu<br /> thuật lớn xử trí tổn thương gãy xương đùi,<br /> xương cẳng chân hoặc gãy khung chậu.<br /> Tác động của chấn thương ban đầu và cuộc<br /> phẫu thuật kết hợp ảnh hưởng đến chức<br /> năng các cơ quan, dẫn đến biến chứng.<br /> Tác động thứ cấp do phẫu thuật cần được<br /> hạn chế tối đa ở nhóm BN có tiên lượng<br /> xấu, đặc biệt những BN có chấn thương ngực,<br /> sọ não, sốc nặng. Như vậy, không nên<br /> phẫu thuật kết xương sớm đối với BN ĐCT.<br /> Từ những lý do trên, trong cấp cứu ĐCT<br /> cần có phương pháp cố định tạm thời xương<br /> gãy cố định tốt, nhanh và có thể thực hiện<br /> tại phòng hồi sức với mục đích nhanh chóng<br /> cố định vững chắc, hạn chế chảy máu và<br /> tổn thương thứ phát, giảm đau, giúp hồi<br /> sức BN. Hiện nay, nhiều tác giả gọi kỹ thuật<br /> <br /> đó là "kiểm soát tổn thương gãy xương"<br /> (damage control orthopaedics).<br /> - Kiểm soát tổn thương gãy xương:<br /> Có 3 giai đoạn trong quy trình kiểm soát<br /> tổn thương xương: một là cố định tạm thời<br /> xương gãy và cầm máu; giai đoạn thứ hai<br /> liên quan đến hồi sức tích cực đến khi BN<br /> ổn định, đánh giá bằng mức độ tưới máu<br /> mô, tình trạng huyết động, xét nghiệm khí<br /> máu, lactat máu, dữ trữ kiềm, số lượng<br /> nước tiểu; giai đoạn ba là phẫu thuật cố<br /> định thực thụ xương gãy khi giai đoạn hai<br /> đã hoàn tất.<br /> + Đối với gãy xương đùi hoặc xương<br /> cẳng chân, cố định ngoài là phương pháp<br /> đạt được những yêu cầu trên và đang được<br /> nhiều phẫu thuật viên sử dụng như kỹ thuật<br /> kiểm soát tổn thương. Kỹ thuật có thể thực<br /> hiện tại phòng mổ hoặc ngay tại giường hồi<br /> sức với dụng cụ và phương tiện đơn giản.<br /> + Chảy máu sau phúc mạc do gãy khung<br /> chậu: gãy khung chậu không vững, đặc biệt<br /> gãy cả xương cùng cụt có thể dẫn đến mất<br /> máu trầm trọng, lên đến 4.000 - 5.000 ml.<br /> BN cần được nén ép kín diện gãy xương<br /> chậu ngay tại phòng cấp cứu bằng băng đai<br /> ép hai bên và sau đó cố định ngoài khung<br /> chậu. Ở các nước phát triển, sau các biện<br /> pháp trên không kết quả, có thể chỉ định<br /> phẫu thuật "bao bọc" khung chậu cầm máu.<br /> Can thiệp gây tắc mạch chọn lọc với những<br /> BN chảy máu từ động mạch, tỷ lệ thành<br /> công thấp, khoảng < 2%. Hơn nữa, can<br /> thiệp mạch cũng có nhiều bất lợi, cần có<br /> trang bị kỹ thuật, nhiều thời gian và phải<br /> vận chuyển BN. Do đó, khống chế tổn<br /> thương cho BN sốc nặng do gãy chậu bao<br /> gồm nắn ép kín bằng đai hoặc cố định<br /> ngoài khung chậu.<br /> <br /> 159<br /> <br /> TẠP CHÍ Y - DƯỢC HỌC QUÂN SỰ SỐ 1-2013<br /> <br /> Pape và CS nghiên cứu những BN ĐCT<br /> với ISS ≥ 18 (từ 1981 - 2000) thấy rằng,<br /> những BN kết xương thực thụ sớm có tỷ lệ<br /> biến chứng suy đa tạng cao hơn so với<br /> nhóm BN thực hiện quy trình phẫu thuật<br /> kiểm soát tổn thương. Bên cạnh đó, biến<br /> chứng hội chứng suy hô hấp cấp cao hơn ở<br /> những BN phẫu thuật sớm kết xương bằng<br /> đinh nội tủy so với kết xương cố định ngoài.<br /> Scalea và CS nghiên cứu những BN<br /> ĐCT có gãy thân xương đùi cho thấy, nhóm<br /> BN được cố định tạm thời bằng cố định<br /> ngoài, sau đó, phẫu thuật kết xương đinh<br /> nội tủy khi BN ổn định có kết quả tốt hơn,<br /> lượng máu mất ít hơn và thời gian mổ ngắn<br /> hơn. Tác giả cho rằng, cố định tạm thời<br /> bằng cố định ngoài, sau đó phẫu thuật kết<br /> xương đinh nội tủy khi BN ổn định là<br /> phương pháp an toàn có nhiều ưu thế.<br /> Cố định ngoài tạm thời có nguy cơ<br /> nhiễm khuẩn chân đinh, nguy cơ nhiễm<br /> khuẩn lan rộng từ chân đinh, Hildebrand<br /> cho rằng, có trường hợp nhiễm khuẩn nông<br /> nhưng chưa thấy biến chứng nặng về<br /> nhiễm khuẩn. Bhandari và CS lại thấy, phẫu<br /> thuật kết xương thực thụ sau cố định ngoài<br /> trong thời gian trước 14 ngày sẽ giảm nguy<br /> cơ biến chứng nhiễm khuẩn.<br /> - Thời điểm phẫu thuật kết xương thì hai:<br /> Khi BN đã ổn định, tiến hành phẫu thuật<br /> xử trí thực thụ tổn thương xương. Có thể là<br /> phẫu thuật thay cố định ngoài bằng phương<br /> tiện kết xương khác hoặc chỉnh sửa lại cố<br /> định ngoài nếu không có chỉ định thay đổi.<br /> Một vấn đề lớn đặt ra là thời điểm phẫu<br /> thuật kết xương thực thụ (kết xương thì<br /> hai). Nhiều nghiên cứu chỉ ra rằng, ngày<br /> thứ 2 - 4 (thời kỳ tăng viêm hệ thống) không<br /> thích hợp cho can thiệp phẫu thuật. Trong<br /> giai đoạn này, các yếu tố trung gian hóa<br /> <br /> học tăng và sản phẩm viêm khác làm tăng<br /> phù nề tổ chức, giảm tưới máu cơ quan,<br /> tăng nguy cơ rối loạn chức năng đa tạng.<br /> Pape và CS chỉ ra kết xương thực thụ<br /> ngày thứ 2 - 4 sau chấn thương làm tăng<br /> phản ứng viêm toàn thân so với kết xương<br /> ở ngày thứ 6 - 8. Nghiên cứu cho thấy,<br /> phẫu thuật trong khoảng ngày 2 - 4 làm<br /> tăng IL-6 là yếu tố liên quan đến biến<br /> chứng suy đa tạng. Do đó, những BN có<br /> tăng IL-6 ban đầu nên trì hoãn kết xương<br /> đến ngày thứ 4 trở đi sau chấn thương.<br /> Theo Ogura và CS, BN ĐCT có ISS<br /> trung bình 31,1; chỉ số bạch cầu đa nhân<br /> (một trong các yếu tố biểu hiện tình trạng<br /> viêm hệ thống) tăng lên đáng kể từ ngày<br /> thứ 2 - 13 sau chấn thương, tăng cao nhất<br /> là từ ngày thứ 2 - 5 và trở về bình thường<br /> từ ngày 14 - 21. Nghiên cứu cũng cho thấy<br /> nồng độ IL-6 vẫn cao kể từ ngày thứ 5.<br /> Hiện nay, các tác giả đều thống nhất cho<br /> rằng, đáp ứng toàn thân sau chấn thương<br /> trải qua 4 giai đoạn:<br /> + Giai đoạn tăng viêm hệ thống;<br /> + Giai đoạn "cửa sổ";<br /> + Giai đoạn suy giảm miễn dịch;<br /> + Giai đoạn hồi phục.<br /> Giai đoạn tăng viêm hệ thống từ ngày<br /> thứ 2 - 4 sau chấn thương, thường dễ có<br /> những biến chứng, do đó, không nên can<br /> thiệp phẫu thuật vào giai đoạn này, ngoại<br /> trừ những can thiệp phẫu thuật ngắn như:<br /> cắt lọc tổ chức hoại tử, cắt lọc vết thương,<br /> dẫn lưu vết thương, với mục đích làm giảm<br /> nguy cơ nhiễm độc, giảm yếu tố gây viêm<br /> toàn thân, giảm nguy cơ nhiễm khuẩn,<br /> nhiễm khuẩn huyết hoặc suy đa tạng.<br /> Giai đoạn tiếp theo là giai đoạn cửa sổ,<br /> từ ngày thứ 5 - 10 sau chấn thương, là giai<br /> <br /> 160<br /> <br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2