intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Một số KỸ THUẬT HỖ TRỢ SINH SẢN

Chia sẻ: Van Thuong | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:53

115
lượt xem
17
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Cuộc cạnh tranh giữa 2 loài chim sẻ ở quần đảo Galapagos đã khiến cho mỏ của một loài nhỏ lại, giúp chúng tìm thức ăn dễ dàng hơn. Các nhà khoa học đã chứng kiến được sự thay đổi này. Việc quan sát thấy quá trình thu nhỏ của mỏ chim mang lại một trong những mô tả tốt nhất về sự tiến hoá điển hình trong tự nhiên.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Một số KỸ THUẬT HỖ TRỢ SINH SẢN

  1. Cuộc cạnh tranh giữa 2 loài chim sẻ ở quần đảo Galapagos đã khiến cho mỏ của một loài nhỏ lại, giúp chúng tìm thức ăn dễ dàng hơn. Các nhà khoa học đã chứng kiến được sự thay đổi này. Việc quan sát thấy quá trình thu nhỏ của mỏ chim mang lại một trong những mô tả tốt nhất về sự tiến hoá điển hình trong tự nhiên. Trong bài báo mới đây trên Science, Peter Grant và Rosemary Grant, cả hai đều là nhà sinh học tại Đại học Princeton, bang NewJersey (Mỹ) đã mô tả cuộc cạnh tranh giữa loài chim sẻ đất trung bình (Geospiza fortis) và loài chim sẻ đất lớn (Geospiza magnirostris). Loài sẻ đất trung bình G.fortis đã bị dồn dép và phải tiến hoá ra một cái mỏ nhỏ hơn khi xuất hiện kẻ cạnh tranh (loài chim sẻ đất lớn Geospiza magnirostris, bay đến hòn đảo này hơn 20 năm trước) và điều kiện hạn hán khắc nghiệt gần đây. "Điều đó xảy ra rất nhanh", Peter Grant cho biết. Trên thực tế, nó xảy ra chỉ trong một thế hệ chim duy nhất, Grant nói. Cú huých tiến hoá bắt đầu khi một vài con chim sẻ lớn đến định cư trên đảo trong một đợt El Nino ẩm ướt khác thường năm 1982. Kể từ đó, loài sẻ lớn G. magnirostris này đã ăn hầu hết loại hạt lớn có gai của những cây leo trên đảo và dần dần buộc loài sẻ trung bình phải phụ thuộc vào các loại hạt nhỏ hơn của những cây khác. Kết quả là sẻ G. fortis với cái mỏ nhỏ hơn không cạnh tranh được với loài lớn, và thường không nuôi nổi con của chúng. Điều này buộc một số con phải phát triển theo hướng thu gọn lại dụng cụ kiếm ăn của mình. Nhưng vấn đề thực sự xảy ra vào giữa năm 2004-2004, khi mà hạn hán khắc nghiệt trên đảo xảy ra và tất cả các loại hạt cây đều khan hiếm. "Hầu hết các con chim có mỏ lớn trước hạn hán đã biến mất", Grant nói. Trong đó bao gồm đa số cá thể của loài sẻ mới đến G. magnirostris và những con thuộc loài G. fortis vẫn còn giữ cái mỏ lớn. "Đây là một ví dụ kinh điển về sự tiến hoá nhanh chóng", David Skelly, một nhà sinh thái học và tiến hoá tại Đại học Yale nhận xét về tình huống này. Thông thường tiến hoá được xem là diễn ra chậm chạp ở những loài động vật lớn như cá, chim, bò sát và thú. Kích cỡ mỏ thay đổi trong vài thập kỷ
  2. dường như đã là quá nhanh. Chính vì thế, những con chim sẻ ở Galapagos được xem là trường hợp tiến hoá nhanh tột độ gây ra bởi môi trường khắc nghiệt. "Giờ đây dường như như công trình của Grant đã chỉ ra một xu hướng mà có thể rất phổ biến", Skelly nói. T. An (theo Discovery) Việt Báo Loài sẻ đất lớn (trên) đã cạnh tranh với loài sẻ đất trung bình để ăn các hạt lớn, khiến cho loài trung bình có xu hướng tiến hoá ra những cái mỏ nhỏ hơn (dưới). Ảnh: Nature http://vietbao.vn/Khoa-hoc/Bat-gap-bang-chung-ve-su-tien- hoa/10966423/188/ Vô sinh, hỗ trợ sinh sản Thứ tư, 12/5/2010 16:55 2007-08-24 12:34:55 KỸ THUẬT HỖ TRỢ SINH SẢN TẠI VIỆT NAM BS. Hồ Mạnh Tường A.R.T. Ở VIỆT NAM – 10 NĂM PHÁT TRIỂN (1997-2007) Ngày 19/8/1997, Bộ Trưởng Bộ Y tế ký quyết định cho phép Bệnh viện Từ Dũ thực hiện những trường hợp TTTON đầu tiên ở Việt nam. Bệnh viện Từ Dũ, đứng đầu là BS. Nguyễn Thị Ngọc Phượng, với những nỗ lực qua nhiều năm cho một quá trình chuẩn bị và thành công trong vi ệc tranh thủ được các nguồn lực từ hợp tác quốc tế đã tạo một sự khởi đầu
  3. thật ấn tượng cho sự phát triển của lãnh vực này ở Việt nam. Với sự hợp tác và hỗ trợ của các chuyên gia người Pháp, các bác sĩ Bệnh viện Từ Dũ đã tiến hành các trường hợp TTTON đầu tiên t ại Vi ệt nam vào tháng 8 năm 1997. Gần 9 tháng sau, vào ngày 30/4/1998, 3 em bé từ 3 trường hợp trường hợp TTTON thành công đầu Việt nam đã cùng chào đời vào một ngày. Đến nay, ước tính cả nước Việt nam đã có hơn 4000 em bé ra đời từ kỹ thuật hỗ trợ sinh sản trong tổng số trên 1 triệu em bé đã ra đời trên thế giới. Mặc dù đi sau thế giới khỏang 20 năm và sau các nước trong khu vực gần 15 năm, lãnh vực hỗ trợ sinh sản ở Việt nam đã đạt được những bước tiến lớn trong 10 năm qua. Việt nam hiện là nước có số chu kỳ điều trị hỗ trợ sinh sản cao nhất trong các nước Đông Nam Á. Việt nam cũng đang dẫn đầu khu vực về một số kỹ thuật điều trị như: ICSI với tinh phẫu thuật, xin trứng, nuôi trưởng thành trứng trong ống nghiệm, áp dụng phác đồ kích thích buồng trứng mới… Nhiều đồng nghiệp trong khu vực trong những năm qua đã đến Việt nam để học hỏi kinh nghi ệm. Ngày càng có nhiều báo cáo khoa học của các chuyên gia Việt nam về kỹ thuật hỗ trợ sinh sản xuất hiện tại các hội thảo, hội nghị, tạp chí khoa học của khu vực và trên thế giới. KỸ THUẬT HỖ TRỢ SINH SẢN LÀ GÌ ? Kỹ thuật hỗ trợ sinh sản (ART) bao gồm các kỹ thuật giúp tăng khả năng sinh sản của người. Theo định nghĩa, ART là những kỹ thuật trong đó có thực hiện đem tế bào trứng người ra khỏi cơ thể. Đây là những kỹ thuật được phát triển cơ bản dựa trên kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm
  4. (TTTON) trên người. Nguyên tắc cơ bản của TTTON là tinh trùng và trứng được đem ra khỏi cơ thể người, sau đó được xử lý và nuôi cấy trong đi ều kiện phòng thí nghiệm. Quá trình tạo phôi và nuôi cấy phôi trong những ngày đầu cũng diễn ra bên ngòai cơ thể. Sau đó, phôi hình thành sẽ được chọn l ựa đ ể cấy trở lại vào buồng tử cung của người vợ. Sự phát triển và làm tổ c ủa phôi, sự phát triển của thai sau đó diễn ra t ương tự như những tr ường hợp có thai tự nhiên. Vào năm 1978, em bé đầu tiên từ TTTON, Louis Brown, ra đời t ại Anh đánh dấu bước đầu cho sự phát triển của TTTON trên người. Đến nay, TTTON và các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản nói chung, đã được thực hi ện thành công ở hầu hết các nước trên thế giới. THỤ TINH TRONG ỐNG NGHIỆM CỔ ĐIỂN VÀ CHUYỂN PHÔI (IVF/ET) Kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm (TTTON) có nghĩa là cho trứng và tinh trùng kết hợp với nhau trong phòng thí nghiệm (thay vì trong vòi trứng người phụ nữ). Sau đó phôi hình thành sẽ được chuyển trở lại vào buồng tử cung. Quá trình phát triển của phôi và thai sẽ diễn ra hoàn toàn bình thường trong tử cung người mẹ. Kỹ thuật này được thực hiện thành công trên thế giới lần đầu tiên năm 1978 và thành công lần đầu tiên ở Việt nam
  5. năm 1998. Phác đồ thực hiện TTTON và chuyển phôi hiện nay: - Trong phác đồ kích thích buồng trứng tiêu chuẩn, bệnh nhân được tiêm thuốc kiểm soát nội tiết khoảng 2 tuần. Sau đó, tiêm thuốc FSH để kích buồng trứng (khoảng 2 tuần). Với phác đồ kích thích buồng trứng mới hiện nay, thời gian kích thích buồng trứng giảm từ khỏang 4 tuần xuống còn dưới 2 tuần. Các phác đồ mới này giúp đem lại sự tiện lợi và giảm chi điều trị bệnh phí cho nhân. - Chọc hút trứng được thực hiện dưới hướng dẫn của siêu âm đầu dò âm đạo. Một cây kim chọc hút dài sẽ được đưa vào âm đạo, đâm xuyên qua cùng đồ để đi đến 2 buồng trứng và chọc hút các nang noãn. Dịch chọc được sẽ được dưới hiển để trứng. hút soi kính vi tìm - Lấy tinh dịch chồng bằng cách thủ dâm hoặc sử dụng bao cao su chuyên dụng. Tinh dịch sẽ được xử lý để tách tinh trùng có chất lượng tốt nhất. Cấy trứng với tinh trùng trong môi trường nuôi cấy ở phòng thí nghiệm. - Ngày hôm sau, chuyên viên về phôi học sẽ kiểm tra sự thụ tinh của trứng. Trứng thụ tinh sẽ được nuôi cấy tiếp tục và kiểm tra mỗi ngày - Chọn phôi tốt và chuyển vào buồng tử cung (thường vào ngày 2-3 sau chọc trứng, thể dời đến đồ) chút có ngày 5, tùy phác - Hai tuần sau khi chuyển phôi, người phụ nữ được lấy máu để thử thai. Nếu kết quả thử thai dương tính, 2-3 tuần sau, sản phụ sẽ được siêu âm để định buồng tử xác túi thai và tim thai trong cung. - Quá trình theo dõi thai sẽ diễn ra bình thường như những thai kỳ khác. Tỉ lệ thành công của mỗi chu kỳ điều trị TTTON trung bình trên thế gi ới hiện nay khoảng 25%-30%. Tỉ lệ này phụ thuộc vào tuổi bệnh nhân, chỉ
  6. định điều trị và phác đồ điều trị của từng trung tâm. Chỉ định Chỉ định ban đầu của TTTON là tổn thương vòi trứng không có khả năng hồi phục do bệnh lý vùng chậu hoặc do phẫu thuật trước đó. Tuy nhiên, sau đó TTTON được mở rộng cho nhiều chỉ định khác như: vô sinh nam, vô sinh không rõ nguyên nhân, lạc nội mạc tử cung… TƯƠNG TRỨNG TIÊM TINH TRÙNG VÀO BÀO (INTRACYTOPLASMIC SPERM INJECTION - ICSI) Kỹ thuật được ra đời nhằm khắc phục tình trạng tỉ lệ thụ tinh thấp hoặc không thụ tinh khi thực hiện TTTON, do bất thường quá trình thụ tinh hay chất lượng tinh trùng kém. Trong kỹ thuật TTTON cổ điển, để tinh trùng kết hợp tự nhiên với trứng trong môi trường nhân tạo, người ta phải cần đến hàng trăm nghìn hay hàng triệu tinh trùng để thụ tinh được một trứng. Với kỹ thuật ICSI này, người ta có thể tạo một hợp tử hoàn chỉnh bằng một trứng và một tinh trùng duy nhất. Đây được xem là một cuộc cách mạnh trong điều trị vô sinh do nguyên nhân ở nam gi ới. Kỹ thuật này được thực hiện thành công đầu tiên trên thế giới vào năm 1993 và thành công đầu tiên ở Việt nam năm 1999. Ở các trung tâm hỗ trợ sinh sản lớn, kỹ thuật ICSI hiện đang thay th ế dần kỹ thuật TTTON cổ điển. Ở một số trung tâm, 100% các chu kỳ
  7. HTSS đều thực hiện ICSI. Kỹ thuật này thường cho tỉ lệ thụ tinh cao hơn, làm số phôi có được nhiều hơn, nhiều khả năng chọn lọc được phôi t ốt để chuyển vào buồng tử cung, dẫn đến tỉ lệ có thành công cao hơn và tránh được một số trường hợp không có phôi để chuyển do thất bại thụ tinh. Mặc dù có một số quan ngại, cho đến nay, ICSI được xem là một kỹ thuật điều trị an toàn và đang được áp dụng rộng rãi trên toàn thế giới. Kỹ thuật ICSI hiện nay có thể thực hiện với tinh trùng tươi hoặc sau tr ữ lạnh; tinh trùng trong tinh dịch hoặc tinh trùng sinh thi ết t ừ mào tinh và tinh hoàn. Nhờ đó, một số trường hợp các cặp vợ chồng vô sinh do chồng không có tinh trùng, vẫn có có con bằng cách mổ để tìm tinh trùng trong tinh hoàn hoặc mào tinh hoàn. XIN TRỨNG Xã hội ngày càng phát triển, người phụ nữ càng l ập gia đình muộn và tuổi bắt đầu mong con cũng muộn hơn. Sau 30 tuổi, buồng tr ứng c ủa người phụ nữ bắt đầu suy giảm chức năng và khả năng có thai cũng giảm dần. Sau 35 tuổi khả năng có thai giảm càng nhanh hơn và đến 40 tuổi, hơn 1/3 phụ nữ đã không còn khả năng có thai tự nhiên, chủ yếu do sự suy giảm chức năng buồng trứng. Ngoài ra, một số bệnh lý hoặc các phẫu thuật trên buồng trứng khiến buồng trứng suy giảm hoặc mất hẳn chức năng sớm hơn. Với kỹ thuật hỗ trợ sinh sản, các phụ nữ bất hạnh trên có thể mang thai,
  8. sinh nở và làm mẹ bằng cách xin trứng của những người hi ến t ặng. Các phụ nữ hiến tặng trứng sẽ được tiêm thuốc, theo dõi và chọc hút tr ứng như một trường hợp TTTON bình thường. Sau đó, trứng được hiến tặng sẽ được cho thụ tinh với tinh trùng chồng của người xin trứng. Phôi sau đó sẽ được cấy vào tử cung của người xin trứng. Người phụ nữ này có thể tiếp tục mang thai và sinh đẻ bình thường. Kỹ thuật này được thực hiện thành công trên thế giới năm 1986 và thành công đầu tiên ở Việt nam năm 2000. Cho đến nay, ở Việt nam đã có hàng nghìn trẻ được ra đời từ hỗ trợ sinh sản bằng trứng hiến tặng, đem l ại hạnh phúc cho nhiều gia đình. KỸ THUẬT ĐÔNG LẠNH VÀ LƯU TRỮ GIAO TỬ VÀ PHÔI Nhằm lưu giữ khả năng sinh sản và gia tăng hi ệu quả của các k ỹ thuật hỗ trợ sinh sản, người ta đã nghiên cứu đông lạnh và l ưu tr ữ thành công tinh trùng, phôi và trứng người. Bình thường tinh trùng người chỉ tồn tại được vài ngày sau khi xuất tinh; trứng người tồn tại không quá 1 ngày sau khi rụng trứng; phôi người nếu không phát triển và làm tổ được trong buồng tử cung sẽ t ự thoái hóa. Bằng các kỹ thuật đông lạnh, lưu trữ hiện nay, người ta có thể lưu trữ tinh trùng, phôi và trứng người trong nhiều năm. Hiện nay, các kỹ thuật đông lạnh và lưu trữ trên đều có thể thực hiện ở Việt nam. Gần đây, với việc triển khai thành công phương pháp đông l ạnh cực
  9. nhanh bằng kỹ thuật thủy tinh hóa (vitrification) giúp tăng hi ệu quả và giảm giá thành điều trị, các chuyên gia ở Việt nam đã đạt đến trình độ thế giới trong công nghệ trữ lạnh phôi và trứng người. SỨC KHỎE CÁC BÉ SINH RA TỪ CÁC KỸ THUẬT HỖ TRỢ SINH SẢN Người ta ước tính hiện nay đã có hàng triệu người trên thế giới được sinh ra từ KTHTSS. Tại Châu Au, hiện nay có từ 1-5% trẻ sinh ra hàng năm là kết quả của KTHTSS. Ở một số nước Bắc Au, hàng năm có gần 2000 trường hợp KTHTSS trên mỗi triệu dân. Ở nhiều các nước phát triển, chi phí thực hiện các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản được nhà nước tài trợ một phần hoặc toàn phần. KTHTSS hiện là một phân ngành quan trọng trong Sản Phụ khoa hiện đại và một bộ phận không thể thiếu ở hầu hết các trung tâm Sản-Phụ khoa trên thế giới. Từ gần 30 năm qua, nhiều nghiên cứu qui mô lớn, theo dõi trong thời gian dài, được thực hiện trên thế giới để theo dõi sức khỏe và sự phát triển của các bé sinh ra từ kỹ thuật hỗ trợ sinh sản đã được thực hi ện.. Các báo cáo cho đến nay đều khẳng định sự an toàn của các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản. Đây là cơ sở cho sự phát triển ngày càng mạnh c ủa các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản trên thế giới. Ở Việt nam một số nghiên c ứu l ớn trên hàng trăm bé cũng đã được thực hiện và cho kết quả t ương đương với các báo cáo khác trên thế giới. Các nghiên cứu này của Việt nam cũng đã được báo cáo tại các hội nghị khoa học khu vực và thế giới. Tuy
  10. nhiên, người ta cũng ghi nhận một số bất thường hoặc bệnh lý có liên quan đến nguyên nhân gây hiếm muộn, vô sinh ở bố mẹ có thể truyền sang cho con. http://www.hosrem.org.vn/index.php?cid=1&l=2&f=14&spid=20 Hỗ trợ sinh sản & các kỹ thuật liên quan Một kỹ thuật mới làm tăng khả năng có thai - Hỗ trợ phôi thoát màng bằng Laser Hơn 10 năm sau khi 3 em bé đầu tiên ra đời từ kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm tại Việt Nam, nhiều phương pháp mới trong điều trị vô sinh đã được ứng dụng tại bệnh viện Từ Dũ.08/09/2008 Hỗ trợ phôi thoát màng có thể làm tăng tỷ lệ có thai cho những bệnh nhân thụ tinh trong ống nghiệm Hỗ trợ phôi thoát màng (Assisted hatching) đã được thực hiện từ những năm đầu của thập niên 90. Đây là kỹ thuật làm mỏng hoặc tạo một lỗ thoát trên màng của phôi nhằm cải thiện tỉ lệ có thai và tỉ lệ làm tổ của phôi. Có 4 cách để hỗ trợ phôi thoát màng18/06/2009 Những nhân tố ảnh hưởng đến kết quả ICSI Yếu tố tinh trùng: Nagy và các cộng sự đã tiến hành đánh giá ảnh hưởng của yếu tố tinh trùng lên kết quả ICSI trong 966 chu kỳ điều trị. Mặc dù không có hình dạng bình thường trong mẫu tinh dịch, không có tinh trùng “ảo”, hay không có tinh trùng di động khi xuất tinh, nhưng vẫn có thể mang thai.13/06/2009 Các kỹ thuật Hỗ trợ sinh sản tại bệnh viện Từ Dũ
  11. Kỹ thuật hỗ trợ sinh sản (Assisted Reproductive Technologies – ART) bao gồm những kỹ thuật điều trị vô sinh trong đó có chọc hút trứng và đem trứng ra ngoài cơ thể01/06/2009 Trữ lạnh phôi Như chúng ta đã biết, trữ lạnh mô hay trữ lạnh tế bào là để bảo tồn nó cho tương lai. Với những kỹ thuật hiện nay, trữ lạnh phôi là một trong những phương pháp hỗ trợ hiệu quả trong qúa trình điều trị vô sinh cho những trường hợp bệnh nhân có phôi dư sau chu kỳ chuyển phôi tươi31/05/2009 Trữ lạnh trứng Trữ lạnh trứng đầu tiên thành công vào năm 1986. hiện nay trữ lạnh trứng được ứng dụng rộng rãi trên thế giới nhờ vào các thuận lợi sau: • Trữ lạnh trứng thích hợp đối với những phụ nữ chưa muốn có con vào thời điểm hiện tại...31/05/2009 Bạn cần biết gì về ICSI Kỹ thuật IVF cổ điển còn một số mặt hạn chế như đòi hỏi chất lượng tinh trùng người chồng phải tương đối khá tốt, bất thường nhẹ hay trung bình. Do vậy, những bệnh nhân nam có chất lượng tinh trùng kém, rất kém, hoặc bất thường nặng hay thậm chí không có tinh trùng thì cơ hội làm cha gần như là không có. Mãi đến năm 1992, kỹ thuật ICSI lần đầu tiên được công bố đã thật sự là một cuộc cách mạng trong lĩnh vực hỗ trợ sinh sản31/05/2009 Lịch sử phát triển của kỹ thuật hổ trợ sinh sản trên thế giới và tại Việt nam
  12. 1959, Chang lần đầu tiên thành công trong việc cho thụ tinh giữa tinh trùng và trứng động vật có vú (thỏ) trong điều kiện phòng thí nghiệm. Đây được xem là thành tựu quan trọng nhất trong lịch sử phát triển của TTTON.26/04/2004 Thụ tinh trong ống nghiệm: Tiêm tinh trùng vào bào tương trứng Hơn 20 năm qua thụ tinh trong ống nghiệm (TTTON) đã gặt hái rất nhiều thành công trong điều trị hiếm muộn do vòi trứng, hiếm muộn vô căn hoặc do chồng.Tuy nhiên, tỉ lệ thành công của TTTON với nguyên nhân do chồng thấp hơn so với trường hợp tinh trùng chồng bình thường27/01/2004 Ðánh giá kết quả chương trình thụ tinh trong ống nghiệm-cho trứng đầu tiên ở Việt Nam Thụ tinh trong ống nghiệm (TTTON) với trứng người cho lần đầu tiên trên thế giới thành công vào năm 1983 và đứa bé đầu tiên của kỹ thuật này đã ra đời 1984 tại Monash. Từ đó đến nay, kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm cho trứng ngày càng phát triển rộng rãi20/01/2004 http://www.ivftudu.com.vn/articlegroup/6202/ Ðánh giá kết quả chương trình thụ tinh trong ống nghiệm-cho trứng đầu tiên ở Việt Nam Vương Thị Ngọc Lan, Hồ Mạnh Tường, Phạm Việt Thanh, 20/01/2004 Thụ tinh trong ống nghiệm (TTTON) với trứng người cho lần đầu tiên trên thế giới thành công vào năm 1983 và đứa bé đầu tiên của kỹ thuật này đã ra đời 1984 tại Monash. Từ đó đến nay, kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm cho trứng ngày càng phát triển rộng rãi và trở thành một phương pháp điều trị thường qui tại các trung tâm TTTON trên thế giới với tỉ lệ có thai lâm sàng từ 22 - 67% tùy trung tâm.
  13. Đây là một nghiên cứu hồi cứu, được thực hiện nhằm xác định tỷ lệ thai lâm sàng từ kỹ thuật TTTON-xin trứng và một số yếu tố ảnh hưởng đến tỷ lệ có thai. Trong khoảng thời gian từ tháng 01 đến 08 năm 2000, có 59 chu kỳ điều trị được tiến hành. Bệnh nhân được kích thích buồng trứng bằng phác đồ down regulation, sử dụng FSH tái tổ hợp. Niêm mạc tử cung của người nhận được chuẩn bị bằng estradiol (đường uống) phối hợp với progesterone (đặt âm đạo). Chuyển phôi được tiến hành hai ngày sau chọc hút trứng, với số phôi chuyển trung bình là 3.7 ( 0.8 phôi. Số liệu được so sánh giữa hai nhóm có thai và không có thai. Các chỉ định điều trị bao gồm suy buồng trứng sớm (27.1%), đáp ứng kém với kích thích buồng trứng trong các chu kỳ TTTON trước đây (56%) và phụ nữ mãn kinh (16.9%). Tuổi trung bình người nhận là 40 ( 5.3 tuổi. Thời gian vô sinh trung bình là 11.5 ( 5.4 năm. Nồng độ FSH vào ngày 2 vòng kinh là 22.8 ( 24.9 IU/L. tuổi trung bình của người cho là 29.9 ( 4.2 tuổi, thay đổi từ 20 đến 38 tuổi, với nồng độ FSH vào ngày 2 vòng kinh là 4.6 ( 1.3 IU/L. Tỷ lệ thai lâm sàng và thai diễn tiến (trên chu kỳ chuyển phôi) trong nghiên cứu lần lượt là 55.9% và 47.5%. Tỷ lệ sảy thai và đa thai lần lượt là 6.8% và 25.4%. Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa hai nhóm có thai và không có thai về tuổi người nhận, tuy nhiên, có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê khi so sánh tuổi người cho giữa hai nhóm (28.8 ( 4.5 so với 31.2 ( 3.6, p = 0/03). Ngoài ra, tỷ lệ thai diễn tiến cũng cao hơn đáng kể khi tuổi người cho ( 29 so với nhóm phụ nữ từ 30 tuổi trở lên (57.6% so với 42.4%, p < 0.01). Không có mối liên hệ nào giữa tuổi người nhận và độ dày niêm mạc tử cung được tìm thấy. Tuy nhiên, có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa hai nhóm có và không có thai về các yếu tố như số trứng chọc hút được, số phôi được hình thành, số phôi có chất lượng tốt cũng như độ dày niêm mạc tử cung vào ngày cho hCG (lần lượt là 14.6 ( 7.1, 11.1 ( 6.3, 4.9 ( 3.2, 11.0 ( 1.7 so với. 10.3 ( 5.2, 6.4 ( 2.7; p± 4.1, 2.3 ( 2.5, 8.5 < 0.01). Kết quả nghiên cứu này cho thấy TTTON-cho trứng là một biện pháp điều trị đem lại thành công khá cao cho những phụ nữ vô sinh do dự trữ buồng trứng giảm. Sự đáp ứng của niêm mạc tử cung với nội tiết ngoại sinh sử dụng trong nghiên cứu có vẻ không phụ thuộc tuổi người nhận. Bên cạnh tuổi người cho, độ dày niêm mạc tử cung, số trứng chọc hút được và số phôi có chất lượng tốt có thể được xem là các yếu tố tiên lượng tỷ lệ thành công của chương trình TTTON-cho trứng. http://www.ivftudu.com.vn/article/1140/ Thụ tinh trong ống nghiệm: Tiêm tinh trùng vào bào tương trứng
  14. BS. Hồ Mạnh Tường, BS.Vương Thị Ngọc Lan, BS. Phạm Việt Thanh, BS. Nguyễn Thị Ngọc Phượng 27/01/2004 ĐẶT VẤN ĐỀ Hơn 20 năm qua thụ tinh trong ống nghiệm (TTTON) đã gặt hái rất nhiều thành công trong điều trị hiếm muộn do vòi trứng, hiếm muộn vô căn hoặc do chồng. Tuy nhiên, tỉ lệ thành công của TTTON với nguyên nhân do chồng thấp hơn so với trường hợp tinh trùng chồng bình thường. Nếu tinh trùng chồng có vấn đề, tỉ lệ TTTON chỉ đạt khoảng 20-30% (bình thường 60-70%) và khoảng 1/3 bệnh nhân hoàn toàn không có hiện tượng thụ tinh giữa tinh trùng và trứng. Đa số các trung tâm TTTON đều có tiêu chuẩn nhất định cho tinh trùng khi nhận bệnh nhân làm TTTON (trên 0,5 triệu tinh trùng di động tốt sau rửa). Do đó, nhiều cố gắng nhằm cải thiện tỉ lệ thụ tinh cho những trường hợp tinh trùng yếu đã được thử nghiệm trong những năm gần đây. Năm 1991, Ng và cộng sự (Singapore) báo cáo trường hợp thành công đầu tiên bằng phương pháp tiêm tinh trùng vào khoang quanh noãn (SUZI). Năm 1992, Cohen và cộng sự (Mỹ) công bố trường hợp thành công đầu tiên bằng phương pháp tạo lỗ thủng nhân tạo ở zona pellucida (PZD). Tuy nhiên hai phương pháp nêu trên vẫn không làm tăng đáng kể tỉ lện thụ tinh ở những trường hợp tinh trùng chồng yếu. Cũng vào năm 1992, phương pháp ICSI được giới thiệu sau một loạt những trường hợp thành công của Palermo (Bỉ) và cộng sự khi tiêm tinh trùng trưc tiếp vào bào tương trứng. Từ đó đến nay, kỹ thuật ICSI đã không ngừng được cải tiến và áp dụng ngày càng rộng rãi. Ở Mỹ, năm 1996, ICSI đã chiếm hơn 30% các chu kỳ hỗ trợ sinh sản. Hiện nay tỉ lệ này có thể còn cao hơn. ICSI là kỹ thuật hỗ trợ cho quá trình thụ tinh giữa tinh trùng và trứng in-vitro. Khi điều trị với ICSI, các bước tiến hành hoàn toàn tương tượng như TTTON thông thường, chì khác ở giai đoạn thụ tinh, 1 tinh trùng được tiêm trực tiếp vào trứng dưới sự hỗ trợ của hệ thống vi thao tác. Việc thành công của kỹ thuật ICSI đã tạo một tiếng vang lớn và làm thay đổi nhiều quan niệm về quá trình thụ tinh ở người và động vật nói chung. Kỹ thuật ICSI từ khi thành công đã được xem là một cuộc cách mạng trong điều trị vô sinh nam. Trong một khảo sát về ICSI với qui mô lớn nhất cho đến nay của Hiệp hội sinh sản người và Phôi học Châu Aâu (ESHRE) báo cáo năm 1998, tỉ lệ thụ tinh của noãn sau khi tiêm tinhg trùng vào bào tương noãn của 174 bệnh nhân là 55,4%; tỉ lệ noãn thụ tinh tiếp tục phát triển là 44,0% (số liệu năm 1994, số liệu từ 30 trung tâm khác nhau).
  15. Các em bé sinh ra do thụ tinh trong ống nghiệm đầu tiên tại Việt Nam vào tháng 4 năm 1998 tại Bệnh viện Phụ sản Từ Dũ. Đây cũng là nơi đầu tiên ở Việt Nam thực hiên thành công kỹ thuật tiêm trùng vào bào tương trứng năm 1998, em bé đầu tiên được sinh ra kỹ thuật này vào tháng 2/1999. cho đến nay chưa có nghiên cứu nào báo cáo về khả năng ứng dụng và kết quả kỹ thuật ICSI trong điều trị vô sinh nam tại Việt Nam. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Đây là một nghiên cứu. Chúng tôi thu thập các số liệu từ tất cả các trường hợp được điều trị với kỹ thuật ICSI tại khoa Hiếm muộn, Bệnh viện Phụ Sản Từ Dũ từ tháng 5/1999 đến tháng 3/2000. Qui trình thực hiện ICSI Người vợ được cho thuốc kích thích buồng trứng để tăng tối đa nang noãn phát triển trong chu kỳ điều trị. Chúng tôi sử dụng phác đồ dài, phối hợp GnRH agonist (Decapeptyl 0,1 mg) và FSH tái tổ hợp (Puregon). Bệnh nhân sau đó được theo dõi bằng siêu âm vá định lượng nội tiết (LH, E2) để điều chỉnh liều thuốc và xác định thời điểm nang noãn trưởng thành. hCG (Pregnyl) được sử dụng để kích thích sự trưởng thành của noãn. Chọc hút trứng qua âm đạo, dưới hướng dẫn của siêu âm với đầu dò âm đạo. Trứng chọc hút được tiến hành khoảng 35 giờ sau khi tiêm hCG. Trứng chọc hút được sẽ được cấy với môi trường cấy (IVF-20) trong tủ cấy CO2 từ 5 đến 6 giờ. Tinh dịch được lấy khoảng 2 giờ sau khi chọc hút. Sau đó chúng tôi tiến hành lọc tinh trùng bằng Sperm Grad-100 và rửa lại 2 lần với các môi trường Sperm Rinse-20 và Gamete-20. Khoảng 5-6 giờ sau khi chọc hút trứng, trứng được cho vào môi trừơng Gamete-20 chứa men hyaluronidase nồng độ 80IU/ml để tách các lớp tế bào nang xung quanh trứng. Việc bóc tách các tế bào quanh trứng được hỗ trự vói pipette Pasteru kéo nhỏ có đường kính nhỏ dần từ 100-150 mm dưới kính hiển vi soi nổi. Trứng sau đó được cho vào các giọt môi trường trên đĩa cấy đường kính 30mm. Tinh trùng sau khi lọc và rửa cũng được cho vào giọt PVP 10% trên đĩa cấy. Tất cả các giọt môi trường trong đĩa cấy được phủ một lớp dầu (Ovoil-150). Sau đó đĩa cấy được đặt vào kính hiển vi đảo ngược có bệ sưởi ấm 370C để thực hiện tiêm tinh trùng vào trứng được thực hiên dưới kính hiển vi đảo ngược với hệ thống vi thao tác (micromanipulation) ở độ phóng đại 200 lần.
  16. Kim tiêm tinh trùng (microinjection pipette) với đường kính khoảng 5-6 m sẽ được đặt vào giọt PVP 10% để cố định và bắt tinh trùng. Sau đó đặt kim giữ trứng (holding pipette) với đường kính trong khoảng 30-40 m cùng với kim tiêm tinh trùng vào giọt môi trường chứa trứng. Tạo áp lực âm trong kim giữ trứng để giữ cố định trứng lúc tịem tinh trùng. Kim tiêm tinh trùng được đâm xuên qua màng trong suốt và màng tế bào trứng. Tinh trùng sau đó được tiêm vào bào tương trứng. Trứng sau khi tiêm tinh trùng sẽ được nuôi cấy trong tủ cấy CO2. việc kiểm tra thụ tinh được thực hiên từ 16-18 giờ sau. Sau đó trứng sẽ được đặt trở lại tủ cấy. Trứng thụ tinh sẽ đựơc kiểm tra lần thứ hai vào ngày hôm sau để đánh giá sự phát triển của phôi và chọn phôi chuyển vào buồng tử cung. Hai tuần sau khi chuyển phôi, bệnh nhân được làm xét nghiệm thử thai bằng cách định lượng kCG trong huyết thanh (phư8ơng pháp mễim dịch men). Nếu xét nghiêm thử thai dương tính, bệnh nhân sẽ được hẹn siêu âm 3 tuần sau để siêu âm xác định túi thai trong buồng tử cung. Thai lâm sàng được định nghĩa khi trên siêu âm thấy có túi thai và tim trong lòng tử cung. Tất cả các số liệu đều được ghi nhận từ hồ sơ bệnh án theo dõi và xử lý bằng phần mềm Microsoft Excel 97. KẾT QUẢ Từ tháng 5/1999 đến 2/2000, chúng tôi đã thực hiện ICSI cho 37 trường hợp với tổng số trứng được tiêm tinh trùng là 403 trứng. Các đặc điểm về tuổi vợ, tuổi chồng, mật độ tinh trùng, số trứng chọc hút được và số trứng được tiêm tinh trùng được ghi nhận như sau: Bảng 1. Đặc điểm bệnh nhân
  17. Tuổi trung bình của chồng là 37,6 (4,8. ở đa số các cặp vợ chồng tham gia chương trình này, tuổi không cao. Số trứng được tiêm tinh trùng ít hơn số trứng được chọc hút do có một tỉ lệ nhất định trứng chưa trưởng thành khi đánh giá dưới kính hiển vi. Chúng tôi chỉ thực hiên ICSI đối với các trứng trưởng thành. Trứng trưởng thành được xác định bởi sự xuất hiện của thể cực thứ nhất ở khoang quanh noãn. Bảng 2. Kết quả kỹ thuật của ICSI Cột thứ 2 cho thấy kết quả kỹ thuật của kỹ thuật ICSI thực hiện tại Phòng thụ tinh trong ống nghiệm, Bệnh viện Phụ Sản Từ Dũ. Các tỉ lệ phần trăm được tính trên tổng số trứng đã được ICSI. Trứng sống sau ICSI được tính là số trứng không bị thoái hóa hoặc vỡ sau khi thực hiện ICSI. Số trứng này có thể thụ tinh hoặc không thụ tinh. Trứng thụ tinh được xác nhận dựa trên sự xuất hiện của các tiền nhân (pronulei) khi kiểm tra thụ tinh và 16-18 giờ sau ICSI. Số phôi được tính dựa trên sự phân chia của các trứng đã thụ tinh Bảng 3. kết quả điều trị .
  18. Có 2 trường hợp không chuyển phôi do sau khi tiêm ICSI, các trứng không có thụ tinh hoặc có thụ tinh nhưng không phát triển thành phôi. Thai lâm sàng được xác định khi phát hiện thấy túi thai và tim thai trong lòng tử cung qua siêu âm, 3 tuần sau khi thử hCG dương tính. Tỉ lệ làm tổ của phôi được tính bằng tổng só túi thai phát hiện trên siêu âm trên tổng số phôi chuyển vào buồng tử cung. BÀN LUẬN Tuổi trung bình của người vợ không cao (bảng 1) so với tuổi trung bình của các bệnh nhân tham gia chương trình TTTON tại Bênh viện Phụ Sản Từ Dũ (trên 35 tuổi). Chúng tôi không tiến hành chọn lọc tuổi trên bệnh nhân ICSI trong nghiên cứu này. Đặc điểm này có thể do các cặp vợ chồng hiến muộn do nguyên nhân tinh trùng quá ít, yếu thường không bị mất nhiều thời gian để theo đuổi các phương pháp điều trị khác trứơc khi tham gia chương trình ICSI. Tuổi trung bình của chồng không cao (bảng 1) cho thấy yếu tố tuổi có thể không đóng vai trò quan trọng trong số lượng và chất lựơng tinh trùng trong các trường hợp hiếm muộn do nam giới. Mật độ tinh trùng được gọi là bình thường khi có ít nhất 20 triệu tinh trùng di động trong 1 ml tinh dịch. Tỉ lệ di động của tinh trùng được gọi là bình thường khi có ít nhất 50% tinh trùng có di động tíên tới. Mật độ tinh trùng trung bình và tỉ lệ di động trung bình cao tương đối cao trong mẫu nghiên cứu (bảng 2) do các yếu tố sau: (1) có một số trường hợp tinh trùng có chất lượng tương đối bình thường nhưng bệnh nhân thất bại trong các chu kỳ
  19. thụ tinh trong ống nghiệm trước do tỷ lệ thụ tinh thấp khi cấy trứng và tinh trùng và (2) một số trường hợp số lượng tinh trùng bình thường nhưng tỷ lệ dị dạng cao. Thực tế trên 80% trường hợp của mẫu nghiên cứu có bất bình thường về tinh trùng vừa hoặc nặng (mật độ tinh trùng < 5 triệu/ml kèm với bất thường về tỉ lệ di động và tỉ lệ dị dạng của tinh trùng). Để có dữ liệu để đánh giá các số liệu của chương trình ICSI tại bệnh viện Từ Dũ, chúng tôi tham khảo với số liệu liên quan với chương trình ICSI tại Trung tâm Y học sinh sản, thuộc Bệnh Viện Trường Đại học Brussels, Bỉ. Đây là trung tâm thực hiện ICSI đầu tiên trên thế giới. So với số liệu trong 5 năm đầu của trung tâm trên, các số liệu của chúng tôi đạt được gần tương đương. Các số liệu về số trứng sống, số trứng thụ tinh và số phôi sau ICSI thể hiện thành công của kỹ thuật thực hiên ICSI. Tỷ lệ thành công của kỹ thuật ICSI phụ thuộc vào nhiều yếu tố: phác đồ chuẩn bị trứng, phác đồ chuẩn bị tinh trùng, chất lượng kỹ thuật của máy móc và dụng cụ hỗ trợ như: kính hiển vi, kim giữ trứng, kim tiêm tinh trùng… tuy nhiên vấn đề quan trọng nhất là kỹ thuật tiêm tinh trùng vào bào tương trứng và kỹ thuật nuôi cấy trứng và phôi. Kỹ thuật ICSI bao gồm một sự phối hợp rất chính xác của 2 tay của người thực hiện trên nhiều công đoạn: bất động tinh trùng, hút tinh trùng vào kim, giữ trứng và đặt kim đúng vị trí, đâm kim qua màng trong suốt làm thủng màng tế bào trứng, tiêm tinh trùng… Để đảm bảo một tỷ lệ trứng sống thụ tinh và có khả năng phát triển thành phôi cao, người thực hiện cần phải có sự kiên nhẫn, khéo tay và tiû mỉ. Các kết quả trên cho thấy dù mới bắt đầu một kỹ thuật rất mới ở Việt Nam, chúng tôi đã đạt được một kết quả hết sức khả quan, mở ra triển vọng ứng dụng và phát triển kỹ thuật này ở Việt Nam. Kết quả điều trị còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác ngoài các yếu tố kỹ thuật của ICSI như chọn phôi chuyển vào buồng tử cung, kỹ thuật chuyển phôi, phác đồ chuẩn bị nội mạc tử cung tạo điều kiện thuận lợi cho phôi làm tổ. Do số trứng chọc hút được ở mỗi chu kỳ tương đối cao, nên dù kết quả kỹ thuật ICSI của chúng tôi có thấp hơn so với nghiên cứu tham khảo, chúng tôi đạt được tỷ lệ có phôi chuyển cao tương đương. Đây có thể là yếu tố góp phần làm cho tỷ lệ có thai lâm sàng đạt được của chúng tôi tương đối cao (bảng 2 và bảng 3). Tỷ lệ làm tổ của phôi là chỉ số quan trọng nhất thể hiện hiệu quả của toàn bộ công nghệ tạo phôi và nuôi cấy phôi cùng với sự chuẩn bị nội mạc tử cung. Chỉ số này nói lên khả năng tồn tại và phát triển của phôi sau khi đặt
  20. vào buồng tử cung. Nhiều báo cáo ước tính với phác đồ chuyền phôi vào ngày 2 sau khi cấy, tỷ lệ làm tổ của phôi nói chung trên Thế Giới cho đến hiện nay là khoảng trên dưới 15%. Tỷ lệ làm tổ của phôi trong nghiên cứu của chúng tôi cũng tương đương với tỷ lệ chung trên thế giới (bảng 3) Kết quả ở một số trường hợp cho thấy tỷ lệ làm tổ của phôi của chúng tôi có thể đạt ở mức rất cao (50%-80%). Công nghệ tạo phôi với kỹ thuật ICSI bước đầu đưa vào ứng dụng đã đạt được thành công. Tuy nhiên chúng tôi cần thiết nghiên cứu cải tiến nhiều hơn để đạt được kết quả cao và ổn định. Một vấn đề thường đựơc đặt ra kể từ khi kỹ thuật ICSI được đưa vào ứng dụng trên người để điều trị vô sinh và tỷ lệ dị tật và bất thường nhiễm sắc thể ở trẻ sinh ra do ICSI. Rất nhiều nghiên cứu trên thế giới đã được thực hiện để xác định các nguy cơ có thể có, đặc biệt là về bất thường về di truyền đối với trẻ sinh ra do kỹ thuật ICSI. Hầu hết các nghiên cứu lớn, với số liệu và phân tích hoàn chỉnh đều cho thấy ICSI là một kỹ thuật an toàn cho đến thời điểm hiện nay (gần 10 năm sau khi đưa vào ứng dụng). Nhiều nghiên cứu cho thấy trẻ sinh ra do ICSI có tỷ lệ dị tật bẩm sinh và bất thường nhiễm sắc thể tương đương với dân số bình thường hoặc cao hơn không đáng kể (OR từ 1-1,28). Trong đó, người ta ghi nhận có một số yếu tố chủ quan và khách quan trong khi thống kê có thể làm tỷ lệ dị tật và bất bình thường nhiễm sắc thể ở trẻ sinh ra do ICSI cao hơn: - Các trẻ sinh ra do ICSI được theo dõi trước và sau khi sanh kỹ hơn neân taàn suaát phaùt hieän baát thöôøng cao hôn. - Tỷ lệ đa thai cao hơn ở các chu kỳ ICSI (so với bình thường) nên tỷ lệ các bất thường cao hơn. - Các bất thường về cấu trúc nhiễm sắc thể thường do truyền từ cha (cha có bất thường về cấu trúc nhiễm sắc thể gây thiểu năng tinh trùng). Ít có nghiên cứu nào ghi nhận các dị tật và bất thường nhiễm sắc thể do bản thân kỹ thuật ICSI gây ra. Do đó cho đến nay, kỹ thuật ICSI vẫn được đánh gía là một kỹ thuật điều trị an toàn, mặc dù vấn đề theo dõi lâu dài vẫn được đặt ra. Trong số các trẻ sinh ra do ICSI tại bệnh viện Từ Dũ cho đến nay, chúng tôi chưa phát hiện trừơng hợp dị tật bẩm sinh và bất thường nhiễm sắc thể nào trên việc theo dõi sau sanh và nhiễm sắc thể đồ. Chúng tôi cũng chưa phát hiện dị tật bẩm sinh nào trên siêu âm theo dõi tiền sản của các trường hợp có thai sau thực hiện ICSI. Kỹ thuật ICSI từ khi được báo cáo thành công năm 1992 đã phát triển rất nhanh trên toàn thế giới. Ơû một số trung tâm lớn, tỷ lệ áp dụng ICSI vào
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2