Taïp chí Khoa hoïc - Coâng ngheä Thuûy saûn<br />
<br />
Soá 1/2012<br />
<br />
THOÂNG BAÙO KHOA HOÏC<br />
<br />
MỘT SỐ TÍNH CHẤT CỦA DỊCH BACTERIOCIN TỪ HAI CHỦNG<br />
VI KHUẨN LACTIC CHỨNG TỎ TIỀM NĂNG ỨNG DỤNG<br />
CỦA CHÚNG TRONG BẢO QUẢN NGUYÊN LIỆU THỦY SẢN Ở VIỆT NAM<br />
SOME CHARACTERISTICS OF BACTERIOCIN EXTRACTS FROM TWO STRAINS<br />
OF LACTIC ACID BACTERIA REVEAL THEIR POTENTIAL APPLICATION<br />
FOR SEAFOOD PRESERVATION IN VIETNAM<br />
TS. Nguyễn Văn Duy1, ThS. Nguyễn Thị Hải Thanh2<br />
TÓM TẮT<br />
Việc sử dụng bacteriocin - peptide kháng khuẩn từ vi khuẩn lactic để ức chế sự phát triển của các vi sinh vật nhằm<br />
kéo dài thời gian bảo quản và nâng cao mức độ an toàn thực phẩm là một hướng nghiên cứu có nhiều triển vọng. Mục<br />
tiêu của nghiên cứu này là khảo sát hiệu suất tách chiết bacteriocin thô từ dịch canh trường của hai chủng vi khuẩn lactic<br />
T8 và T13, đồng thời xác định độ bền của dịch bacteriocin với nhiệt độ, pH và enzyme. Kết quả chỉ ra rằng qui trình tách<br />
bacteriocin thô từ canh trường vi khuẩn lactic đạt hiệu suất 92,1% đối với chủng T8 và 77,2% với T13. Hoạt độ bacteriocin<br />
thô từ chủng T8 là 6000 AU/ml và từ chủng T13 là 8000 AU/ml khi sử dụng chủng chỉ thị là Bacillus 1.1. Bacteriocin từ 2<br />
chủng này đều bền với điều kiện nhiệt độ khử trùng, với khoảng pH rộng từ 4-10 và với enzym proteinase K nhưng bị bất<br />
hoạt hoàn toàn bởi enzym α-chymotrypsin. Những tính chất này chứng tỏ tiềm năng ứng dụng của bacteriocin trong bảo<br />
quản thực phẩm nói chung và nguyên liệu thủy sản nói riêng ở Việt Nam.<br />
Từ khóa: bacteriocin, bảo quản thực phẩm, nguyên liệu thủy sản, vi khuẩn lactic<br />
<br />
ABSTRACT<br />
Bacteriocins - antimicrobial peptides from lactic acid bacteria are expected to be popularly used for expanding the<br />
preservation time and enhancing the safety of foods. The present study aims to investigate the efficiency of bacteriocin<br />
extraction from cell cutlture of two lactic acid bacteria strains T8 and T13, and to define the stability of bacteriocins<br />
to heat, pH and enzyme. Results have shown that the efficiency of bacteriocin extraction from the strains T13 and T8<br />
approaches 92.1% and 77.2%, respectively. The activity of bacteriocin from the strain T8 is determined as 6000 AU/ml and<br />
from the strain T13 as 8000 AU/ml against with the indicator strain Bacillus 1.1. Bacteriocins from both strains are stable in<br />
autoclave condition, to a broad pH range of 4-10 and to enzyme proteinase K but completely inactivated by α-chymotrypsin.<br />
These characteristics of bacteriocins reveal their potential application for preservation of seafoods in Vietnam.<br />
Keywords: bacteriocin, food preservation, lactic acid bacteria, seafood<br />
<br />
I. ĐẶT VẤN ĐỀ<br />
<br />
trình sản xuất cũng như chất lượng, độ an toàn và<br />
<br />
Một trong những ứng dụng của công nghệ<br />
<br />
ổn định của các sản phẩm thực phẩm. Trong nhiều<br />
<br />
sinh học trong chế biến thực phẩm là tuyển chọn<br />
<br />
thập kỷ qua, việc sử dụng ồ ạt các chất phụ gia<br />
<br />
và cải thiện các chủng vi sinh vật và các sản phẩm<br />
<br />
trong bảo quản và chế biến thực phẩm đã trở thành<br />
<br />
từ chúng, với mục tiêu hướng tới là tối ưu các qui<br />
<br />
một vấn đề đáng lo ngại với sức khỏe người tiêu<br />
<br />
, Viện Công nghệ Sinh học & Môi trường – Trường Đại học Nha Trang<br />
<br />
1 2<br />
<br />
88 ❖ TRÖÔØNG ÑAÏI HOÏC NHA TRANG<br />
<br />
Taïp chí Khoa hoïc - Coâng ngheä Thuûy saûn<br />
<br />
Soá 1/2012<br />
<br />
dùng. Nhiều nghiên cứu, vì thế, đã tập trung vào các<br />
<br />
lactic để ức chế sự phát triển của các vi sinh vật<br />
<br />
hợp chất kháng khuẩn tự nhiên được tiết ra từ các<br />
<br />
nhằm kéo dài thời gian bảo quản thực phẩm nói<br />
<br />
loài vi khuẩn lên men thực phẩm nhằm ức chế các<br />
<br />
chung và nguyên liệu thủy sản nói riêng là một<br />
<br />
vi sinh vật không mong muốn. Bacteriocin là một<br />
<br />
hướng nghiên cứu được cho là có nhiều triển vọng.<br />
<br />
hợp chất kháng khuẩn được sản sinh từ các vi sinh<br />
<br />
Trong nghiên cứu này, chúng tôi tiến hành khảo<br />
<br />
vật. Chúng có thể được dùng trong bảo quản thực<br />
<br />
sát hiệu suất tách chiết bacteriocin thô từ dịch canh<br />
<br />
phẩm vì có bản chất peptide/protein, nên dễ dàng<br />
<br />
trường của 2 chủng vi khuẩn lactic, đồng thời xác<br />
<br />
bị thủy phân bởi các protease trong đường ruột của<br />
<br />
định độ bền của dịch bacteriocin với nhiệt độ, pH<br />
<br />
người, và vì thế mà không gây dị ứng cho con người<br />
<br />
và enzym (protease) làm cơ sở cho việc sản xuất<br />
<br />
(Vuyst, Leroy, 2007; Zhang et al., 2010).<br />
<br />
bacteriocin ứng dụng trong bảo quản các loại<br />
<br />
Các vi khuẩn lactic và các sản phẩm chuyển<br />
hóa của chúng từ lâu đã được sử dụng trong các<br />
loại thực phẩm lên men truyền thống và không hề có<br />
tác dụng phụ. Do đó bacteriocin từ nhóm vi khuẩn<br />
<br />
nguyên liệu thủy sản. Đây là thông báo đầu tiên ở<br />
Việt Nam về tính chất của dịch bacteriocin thuộc lớp I<br />
(lantibiotic) từ vi khuẩn lactic.<br />
<br />
này thường được sử dụng trong thực phẩm. Hiện<br />
<br />
II. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU<br />
<br />
nay, sử dụng bacteriocin trong bảo quản thực phẩm<br />
<br />
1. Chủng vi sinh vật<br />
<br />
đang được quan tâm nghiên cứu vì chúng có thể<br />
kéo dài thời gian bảo quản, tăng cường bảo vệ thực<br />
phẩm trong các điều kiện nhiệt độ bất thường, làm<br />
giảm nguy cơ truyền bệnh qua chuỗi thức ăn, giảm<br />
thiệt hại kinh tế do hư hỏng thực phẩm, và giảm tỷ<br />
lệ sử dụng chất bảo quản hóa học (Deegan et al.,<br />
2006; Gálvez et al., 2010).<br />
Trong những năm qua, ngành thuỷ sản đã phát<br />
triển và vươn lên thành một trong những ngành kinh<br />
tế hàng đầu trong sản xuất thực phẩm xuất khẩu và<br />
tiêu dùng trong nước. Nhưng thực tế cho thấy việc<br />
bảo quản nguyên liệu sau đánh bắt của nhiều loại<br />
nguyên liệu thủy sản như cá, tôm, mực... còn nhiều<br />
hạn chế. Hiện các loại nguyên liệu thủy sản chủ yếu<br />
<br />
Các chủng vi khuẩn lactic T8 và T13 sinh<br />
bacteriocin phân lập từ nước dưa lên men truyền<br />
thống và chủng vi khuẩn gây thối thực phẩm<br />
(Bacillus sp. 1.1) được lấy từ bộ sưu tập chủng của<br />
nhóm nghiên cứu chúng tôi tại Phòng thí nghiệm<br />
Công nghệ sinh học, Trường Đại học Nha Trang<br />
(Nguyễn Văn Duy, Lưu Thị Thúy, 2011). Chủng<br />
Bacillus 1.1 được sử dụng làm chủng chỉ thị để đánh<br />
giá khả năng kháng khuẩn của dịch bacteriocin. Các<br />
chủng vi khuẩn lactic và Bacillus được nuôi trên các<br />
môi trường tương ứng lần lượt là MRS và TSB theo<br />
mô tả của Trần Linh Thước (2007), và được bảo<br />
quản trong glycerol 20% ở nhiệt độ -70oC.<br />
<br />
được bảo quản theo phương pháp ướp đá nhưng<br />
<br />
2. Thu nhận bacteriocin thô từ canh trường nuôi<br />
<br />
thường không có đủ lượng đá để giữ nhiệt độ của<br />
<br />
vi khuẩn lactic<br />
<br />
nguyên liệu ≤ 4 C. Mặt khác bảo quản nguyên liệu<br />
<br />
Hai chủng vi khuẩn lactic được nuôi cấy trong<br />
<br />
theo phương pháp ướp đá thường đòi hỏi phải có<br />
<br />
môi trường MRS lỏng ở pH 6,2 - 6,8 và nhiệt độ<br />
<br />
dụng cụ chứa đựng lớn, nên giá thành cao. Do đó<br />
<br />
370C trong 18-20 giờ. Dịch nuôi cấy được ly tâm ở<br />
<br />
người dân thường lạm dụng các loại phụ gia độc<br />
<br />
5000 vòng/phút ở 40C trong 30 phút. Thu dịch nổi và<br />
<br />
hại như kháng sinh, hàn the, ure... trong bảo quản<br />
<br />
loại cặn. Sau đó dịch nổi được điều chỉnh pH đến 7<br />
<br />
nguyên liệu thủy sản, gây nên tình trạng mất an<br />
<br />
bằng NaOH 1N để loại bỏ ảnh hưởng của các acid<br />
<br />
toàn thực phẩm. Vì vậy, việc nghiên cứu, tìm kiếm<br />
<br />
hữu cơ do vi khuẩn sinh ra. Cuối cùng, dịch này<br />
<br />
các phương pháp bảo quản nguyên liệu an toàn với<br />
<br />
được sử dụng trực tiếp cho các thử nghiệm xác định<br />
<br />
người sử dụng là yêu cầu rất cấp thiết. Hướng sử<br />
<br />
hoạt độ bacteriocin thô. Hiệu suất của qui trình tính<br />
<br />
dụng bacteriocin - tác nhân sinh học từ vi khuẩn<br />
<br />
bằng tỉ lệ giữa khối lượng dịch nổi thu được với khối<br />
<br />
0<br />
<br />
TRÖÔØNG ÑAÏI HOÏC NHA TRANG ❖ 89<br />
<br />
Taïp chí Khoa hoïc - Coâng ngheä Thuûy saûn<br />
lượng của dịch bacteriocin ban đầu.<br />
3. Xác định hoạt độ của bacteriocin thô<br />
Chủng chỉ thị Bacillus 1.1 được nuôi trong môi<br />
<br />
Soá 1/2012<br />
thô từ 2 chủng T13 và T8 với nhiệt độ, pH và enzym<br />
được chỉ ra ở Bảng 1 và Hình 1.<br />
Bảng 1. Độ bền của dịch bacteriocin thô với<br />
nhiệt độ, pH và enzym<br />
<br />
trường TSB thạch mềm (0,75% agar) có bổ sung<br />
chất nhuộm màu methylene blue 0,4% ở 370C trong<br />
24 giờ. Thạch được đục lỗ với đường kính 5 mm,<br />
lấp đầy lỗ với 50-100 µl dịch vi khuẩn lactic và ủ ở<br />
nhiệt độ 370C trong 12-24h. Hoạt tính bacteriocin<br />
của mẫu thí nghiệm được xác định theo đường<br />
<br />
Điều kiện xử lý<br />
<br />
Đối chứng<br />
<br />
Hoạt tính còn lại (AU/ml)<br />
Chủng T8<br />
<br />
Chủng T13<br />
<br />
6000<br />
<br />
8000<br />
<br />
Xử lý nhiệt độ:<br />
<br />
kính vòng ức chế d (mm) và theo đơn vị hoạt độ<br />
<br />
60oC, 60 phút<br />
<br />
5200<br />
<br />
7200<br />
<br />
AU/ml. Hoạt tính của bacteriocin (AU/ml) là nghịch<br />
<br />
100oC, 60 phút<br />
<br />
3600<br />
<br />
6400<br />
<br />
đảo của nồng độ pha loãng cao nhất (D), tại đó<br />
<br />
121oC, 15 phút<br />
<br />
4800<br />
<br />
7000<br />
<br />
pH 2, 30 phút<br />
<br />
2200<br />
<br />
3200<br />
<br />
nhỏ vào giếng trên đĩa thạch (Deraz et al., 2005;<br />
<br />
pH 4, 30 phút<br />
<br />
5600<br />
<br />
7400<br />
<br />
Gao et al., 2010).<br />
<br />
pH 6, 30 phút<br />
<br />
5800<br />
<br />
7800<br />
<br />
4. Xác định độ bền với nhiệt độ, pH và enzym<br />
<br />
pH 8, 30 phút<br />
<br />
5900<br />
<br />
8000<br />
<br />
pH 10, 30 phút<br />
<br />
5800<br />
<br />
7200<br />
<br />
pH 12, 30 phút<br />
<br />
0<br />
<br />
0<br />
<br />
6000<br />
<br />
7800<br />
<br />
0<br />
<br />
0<br />
<br />
bacteriocin vẫn thể hiện vòng kháng rõ ràng với<br />
chủng chỉ thị (d ≥ 6 mm). Công thức tính như sau:<br />
AU/ml = (1000/V)*D trong đó V (ml) là thể tích dịch<br />
<br />
Dịch bacteriocin được xử lí với nhiệt độ,<br />
enzym và pH khác nhau. Hoạt tính bacteriocin còn lại<br />
được xác định bằng phương pháp khuếch tán trên<br />
thạch như mô tả ở trên. Để xác định độ bền nhiệt,<br />
<br />
Xử lý pH:<br />
<br />
Xử lý enzym:<br />
<br />
dịch bacteriocin được xử lý ở nhiệt độ 60oC, 100oC<br />
<br />
proteinase K<br />
<br />
trong 60 phút và 121oC trong 15 phút. Để xác định<br />
<br />
α-chymotrypsin<br />
<br />
độ bền với enzym, dịch bacteriocin được trộn với<br />
proteinase K hoặc α-chymotrypsin (Promega) ở<br />
nồng độ cuối cùng đạt 1 mg/ml, ủ ở 50oC trong 3h,<br />
sau đó bất hoạt enzym tại 80oC trong 20 phút. Để<br />
xác định độ bền pH, dịch nổi được điều chỉnh đến<br />
các giá trị pH trong khoảng từ 2-12 bằng cách sử<br />
dụng dung dịch HCl 1N hoặc NaOH 1N, và ủ trong<br />
30 phút ở nhiệt độ 37oC. Sau đó các mẫu được<br />
trung hòa tới pH 7 trước khi xác định hoạt tính còn<br />
lại của bacteriocin (Lee et al., 2007).<br />
III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN<br />
<br />
Kết quả từ Bảng 1 cho thấy dịch bacteriocin thô<br />
từ 2 chủng vi khuẩn lactic này rất bền nhiệt, hoạt<br />
tính chỉ giảm 10-13% khi xử lý ở nhiệt độ 60oC trong<br />
60 phút, giảm 13-20% ở điều kiện khử trùng 121oC<br />
trong 15 phút và 20-40% ở 100oC trong 60 phút<br />
(Hình 1A-B). Kết quả này phù hợp với một nghiên<br />
cứu khác về các chủng Lactobacillus phân lập từ<br />
phế liệu rau quả tại các chợ địa phương ở Ấn Độ.<br />
Theo nghiên cứu này, các chủng vi khuẩn lactic có<br />
thể sinh tổng hợp các loại bacteriocin bền nhiệt ở<br />
100°C hoặc 121°C trong 10 phút (Lade et al., 2006).<br />
<br />
Sau khi ly tâm ở tốc độ 5000 vòng/phút trong 30<br />
<br />
Thêm vào đó, bacteriocin từ các chủng vi khuẩn<br />
<br />
phút, hiệu suất thu nhận bacteriocin của các chủng<br />
<br />
lactic T8 và T13 có thể được xếp vào các bacteriocin<br />
<br />
T8 và T13 đạt lần lượt là 92,1% và 77,2% và hoạt độ<br />
<br />
lớp I (lớp lantibiotic) bao gồm các peptide có khối<br />
<br />
bacteriocin được xác định lần lượt là 6000 AU/ml và<br />
<br />
lượng phân tử thấp và bền nhiệt (Chen, Hoover,<br />
<br />
8000 AU/ml. Kết quả về độ bền của dịch bacteriocin<br />
<br />
2003).<br />
<br />
90 ❖ TRÖÔØNG ÑAÏI HOÏC NHA TRANG<br />
<br />
Taïp chí Khoa hoïc - Coâng ngheä Thuûy saûn<br />
<br />
Soá 1/2012<br />
<br />
Hình 1. A-B) Độ bền của dịch bacteriocin từ chủng T13 với nhiệt độ và enzym<br />
(T13 ĐC: mẫu đối chứng, T13 100: xử lý ở nhiệt độ 100oC, T13 121: xử lý ở nhiệt độ 121oC, proK: xử lý với<br />
proteinase K, α-chymotrypsin: xử lý với α-chymotrypsin). C-D) Độ bền pH của dịch bacteriocin từ chủng T8<br />
(Các giá trị pH xử lý tại 2, 4, 6, 7, 8 và 10 được chỉ ra). Chủng Bacillus 1.1 được sử dụng làm chủng chỉ thị.<br />
<br />
Hơn nữa, dịch bacteriocin thô từ 2 chủng T8 và<br />
<br />
bền với ảnh hưởng của nhiệt độ, hoạt tính giảm từ<br />
<br />
T13 có độ bền rất tốt trong dải pH rộng 4-10. Khi xử<br />
<br />
100% xuống còn 50% khi xử lí ở nhiệt độ 121oC<br />
<br />
lý ở những giá trị pH trên trong 30 phút, hoạt tính<br />
<br />
trong 15 phút. Nisin là một polypeptide thuộc lớp<br />
<br />
đối kháng còn lại của bacteriocin vẫn được duy trì<br />
<br />
lantibiotic, trong mạch có 34 amino acid được tạo<br />
<br />
hoặc chỉ bị giảm ít hơn 10% (Hình 1C-D). Kết quả<br />
<br />
ra nhờ quá trình lên men của Lactococcus lactis<br />
<br />
này có ý nghĩa thực tiễn rất lớn bởi phần lớn các<br />
<br />
(Kojic et al., 1991). Do khả năng kháng lại các vi sinh<br />
<br />
bacteriocin từ vi khuẩn lactic có khoảng hoạt động<br />
<br />
vật Gram dương gây ngộ độc thực phẩm chính như<br />
<br />
pH rất hẹp, và chủ yếu hoạt động tốt ở pH acid do<br />
<br />
Staphylococcus aureus và Listeria monocytogenes,<br />
<br />
sản sinh ra acid lactic và acid acetic trong quá trình<br />
<br />
nisin trở thành chất phụ gia trong công nghiệp thực<br />
<br />
lên men. Chẳng hạn, mặc dù là một bacteriocin đã<br />
<br />
phẩm được hơn 50 nước sử dụng trên toàn thế giới<br />
<br />
được thương mại hóa và được biết đến rộng rãi<br />
<br />
(Hata et al., 2010).<br />
<br />
nhất trong số các protein có hoạt tính kháng vi sinh<br />
<br />
Cuối cùng, kết quả nghiên cứu về độ bền khi xử<br />
<br />
vật, nisin chỉ thể hiện độ bền cao trong điều kiện<br />
<br />
lý với các enzym protease khác nhau cho thấy dịch<br />
<br />
acid. Khi tăng pH từ 3 tới 7, nisin trở nên không<br />
<br />
bacteriocin từ 2 chủng T8 và T13 vẫn giữ được hoạt<br />
<br />
TRÖÔØNG ÑAÏI HOÏC NHA TRANG ❖ 91<br />
<br />
Taïp chí Khoa hoïc - Coâng ngheä Thuûy saûn<br />
<br />
Soá 1/2012<br />
<br />
tính với proteinase K nhưng bị bất hoạt hoàn toàn<br />
<br />
cao hơn mẫu đối chứng 37%, trong đó các chỉ tiêu<br />
<br />
với α-chymotrypsin (Hình 1A-B). Điều này xác nhận<br />
<br />
màu và mùi cho điểm cảm quan khác biệt rõ nhất<br />
<br />
bản chất protein của bacteriocin từ 2 chủng nghiên<br />
<br />
giữa hai mẫu (Nguyễn Văn Duy, Phạm Ngọc Minh<br />
<br />
cứu, đồng thời phù hợp với một số nghiên cứu<br />
<br />
Quỳnh, 2011). Hơn nữa, hàm lượng protein tương<br />
<br />
trước đây. Chẳng hạn, plantaricin C, một peptide có<br />
<br />
đối của mẫu cá thí nghiệm lớn hơn mẫu đối chứng<br />
<br />
khối lượng 3,5 kDa, có nguồn gốc từ Lactobacillus<br />
<br />
27,4% nhưng hàm lượng NH3 tương đối thấp hơn<br />
<br />
plantarum LL441 là một bacteriocin rất bền nhiệt<br />
<br />
18,9%. Cuối cùng, sau khi lây nhiễm với vi khuẩn<br />
<br />
(bền trong điều kiện xử lý nhiệt 100oC trong 60 phút,<br />
<br />
Salmonella và Vibrio cholerae, các mẫu cá giò có<br />
<br />
121 C trong 15 phút), bền với các dung môi hữu cơ<br />
<br />
nhúng dịch bacteriocin giảm được tương ứng 4 lần<br />
<br />
(methanol, chloroform, acetonitrile) và các enzym<br />
<br />
và 3 lần sự gia tăng mật độ tế bào của 2 loại vi<br />
<br />
pepsin, proteinase K, α-amylase và lipase, nhưng<br />
<br />
khuẩn này so với mẫu đối chứng. Những kết quả<br />
<br />
bị bất hoạt bởi pronase, trypsin, và α-chymotrypsin<br />
<br />
trên cho thấy chất lượng cảm quan, hóa học và vi<br />
<br />
(1 mg/ml) (Gonzalez et al., 1994).<br />
<br />
sinh của cá giò vẫn được duy trì sau 7 ngày bảo<br />
<br />
o<br />
<br />
Những kết quả trên chỉ ra rằng bacteriocin từ<br />
<br />
quản bằng dịch bacteriocin từ vi khuẩn lactic chủng<br />
<br />
2 chủng T8 và T13 có thể thuộc vào lớp lantibiotic<br />
<br />
T8. Điều này chứng tỏ khả năng ứng dụng rất tốt<br />
<br />
bền nhiệt, bền pH, có trọng lượng phân tử thấp<br />
<br />
của dịch bacteriocin từ vi khuẩn này trong bảo quản<br />
<br />
(