YOMEDIA
ADSENSE
Một vài trao đổi về đánh giá phát triển bền vững
50
lượt xem 3
download
lượt xem 3
download
Download
Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ
Bài viết trình bày một vài phương thức/cách tiếp cận (approach) và các chủ đề (themes) trong việc xây dựng bộ chỉ thị nhằm đánh giá tiến trình phát triển ở cấp quốc gia và địa phương. Đánh giá sự phát triển bền vững đòi hỏi tính khách quan, bảo đảm sự tích hợp bắt đầu từ việc tiếp cận, lựa chọn bộ chỉ số và các chỉ thị cũng như thiết kế hệ thống đánh giá đối với tiến trình phát triển.
AMBIENT/
Chủ đề:
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Một vài trao đổi về đánh giá phát triển bền vững
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản<br />
<br />
Số 2/2017<br />
<br />
VAÁN ÑEÀ TRAO ÑOÅI<br />
<br />
MỘT VÀI TRAO ĐỔI VỀ ĐÁNH GIÁ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG<br />
SOME ISSUES ABOUT ASSESSING SUSTAINABLE DEVELOPMENT<br />
Nguyễn Văn Quỳnh Bôi1<br />
Ngày nhận bài: 12/10/2016; Ngày phản biện thông qua: 24/02/2017, Ngày duyệt đăng: 15/6/2017<br />
<br />
TÓM TẮT<br />
Đánh giá tính bền vững của sự phát triển là một công việc không những yêu cầu nhiều nỗ lực mà còn kinh<br />
nghiệm của những người chuyên làm về công tác đánh giá. Đến nay, đã có rất nhiều bộ chỉ số/chỉ thị được đề<br />
xuất nhằm đánh giá phát triển bền vững. Thông qua các tài liệu tham khảo, bài viết trình bày một vài phương<br />
thức/cách tiếp cận (approach) và các chủ đề (themes) trong việc xây dựng bộ chỉ thị nhằm đánh giá tiến trình<br />
phát triển ở cấp quốc gia và địa phương. Đánh giá sự phát triển bền vững đòi hỏi tính khách quan, bảo đảm<br />
sự tích hợp bắt đầu từ việc tiếp cận, lựa chọn bộ chỉ số và các chỉ thị cũng như thiết kế hệ thống đánh giá đối<br />
với tiến trình phát triển.<br />
Từ khóa: Đánh giá phát triển bền vững, tiếp cận và lựa chọn các chỉ thị<br />
ABSTRACT<br />
Development sustainability assessement is a task that requires not only efforts but also experience of<br />
professionals in the field of assessement. Presently, there are many indices/indicators proposed in the the<br />
assessment of sustainable development which includes researching literature in the field. The paper presents<br />
some approaches and themes of indicator setting to assess development process at both national and local<br />
levels. Development assessement requires objectivity to ensure intergration starting at approaching, selecting<br />
indices and indicators as well as designing rating system for development process<br />
Keywords: Sustainable development assesement, Approach and Indicators selection<br />
I. MỞ ĐẦU<br />
Ngày nay thuật ngữ “Phát triển bền vững”<br />
đã trở nên quen thuộc với những người làm<br />
công tác nghiên cứu khoa học nói chung.“Phát<br />
triển bền vững là sự phát triển nhằm đáp ứng<br />
nhu cầu của thế hệ hiện tại mà không làm tổn<br />
hại đến khả năng đáp ứng nhu cầu của các thế<br />
hệ tương lai”.<br />
Đối với Việt Nam, theo Mục 4, Điều 3, Luật<br />
Bảo vệ môi trường năm 2014, phát triển bền<br />
vững được định nghĩa: “Phát triển bền vững<br />
là phát triển đáp ứng được nhu cầu của thế hệ<br />
hiện tại mà không làm tổn hại đến khả năng<br />
<br />
1<br />
<br />
đáp ứng nhu cầu đó của các thế hệ tương lai<br />
trên cơ sở kết hợp chặt chẽ, hài hòa giữa tăng<br />
trưởng kinh tế, bảo đảm tiến bộ xã hội và bảo<br />
vệ môi trường” [5].<br />
Về mặt tổng thể, phát triển bền vững được<br />
thống nhất phải thể hiện sự giao thoa và kết<br />
hợp giữa 3 khía cạnh, đó là có thể gánh chịu<br />
được (bearable) về mặt môi trường, công bằng<br />
(equitable) về mặt xã hội và có thể đem lại hiệu<br />
quả (viable) về mặt kinh tế. Sự kết hợp và giao<br />
thoa này thể hiện tính chất bền vững của quá<br />
trình phát triển.<br />
<br />
Viện Nuôi trồng thủy sản, Trường Đại học Nha Trang<br />
<br />
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 127<br />
<br />
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản<br />
<br />
Số 2/2017<br />
<br />
Vì lý do này, phát triển bền vững và đánh<br />
giá sự phát triển đã được Chương trình nghị sự<br />
21 (Agenda 21) của Liên hiệp quốc khởi xướng<br />
từ 1992 [14] với sự tham gia của các quốc gia,<br />
tổ chức quốc tế và tổ chức phi chính phủ. Đến<br />
nay đã có nhiều công bố liên quan đến việc đề<br />
xuất và thảo luận các giải pháp nhằm đánh giá<br />
hoặc đo lường tính bền vững trong quá trình<br />
phát triển cả ở cấp địa phương lẫn quốc gia.<br />
Thông qua các tài liệu tham khảo, bài viết này<br />
trình bày một số quan điểm về phương thức/<br />
cách tiếp cận (approach), các chủ đề (themes)<br />
và việc xây dựng bộ chỉ thị trong đánh giá quá<br />
trình phát triển ở cấp quốc gia và địa phương.<br />
II. NỘI DUNG<br />
1. Xây dựng bộ chỉ thị đánh giá phát triển<br />
bền vững<br />
Điểm khác biệt giữa các bộ chỉ thị đánh<br />
giá sự phát triển trước hết là phương pháp<br />
luận và sau đó là việc lựa chọn cũng như cách<br />
tính giá trị chỉ thị. Do phát triển bền vững liên<br />
quan đến mọi lĩnh vực xã hội nên bộ chỉ thị<br />
đánh giá thông thường được xây dựng bởi các<br />
nhóm chuyên gia ở các lĩnh vực bao gồm cả<br />
những chuyên gia về đánh giá tiến trình phát<br />
triển. Theo định nghĩa của sự phát triển bền<br />
vững, quá trình phát triển đòi hỏi sự đánh giá<br />
<br />
kết hợp (integrated assessment) bao gồm cả 3<br />
khía cạnh kinh tế, xã hội và môi trường. Theo<br />
Hak và cộng sự (2007), việc sử dụng các chỉ<br />
thị trong việc đánh giá kết hợp phải giải quyết<br />
nhiều thách thức tương tự như những áp<br />
dụng khác của chỉ thị; đó là lựa chọn chỉ thị<br />
phù hợp, tính sẵn có của dữ liệu, các so sánh<br />
giữa những chủ đề riêng biệt và cách thức đo<br />
lường, trọng số và số lượng tổng thể các chỉ thị<br />
được chọn. Để giải quyết vấn đề này, một cách<br />
tiếp cận là thông qua các mô hình tính toán để<br />
đưa đến giá trị cuối cùng. Điều đó cho phép<br />
các hệ thống đánh giá tính vừa có tính chặt<br />
chẽ vừa có tính linh hoạt [11].<br />
Bản phát thảo ban đầu của Ủy ban phát<br />
triển bền vững (CSD) bao gồm 134 chỉ thị<br />
giảm dần xuống còn 58 chỉ thị vào năm 2001<br />
và 50 chỉ thị cốt lõi vào năm 2005 sau nhiều<br />
lần xem xét [14]. Phương pháp luận của các<br />
chỉ thị thường xuyên được cập nhật trên “trang<br />
mạng” (website) của “Phân ban phát triển bền<br />
vững” (Division of Sustainable development<br />
- DSD) của Liên hiệp quốc. Tập hợp chỉ thị<br />
bao hàm khung chủ đề/chủ đề phụ (thematic/<br />
sub-thematic framework) được thông qua năm<br />
2001. Tuy nhiên, có thể thấy rằng vấn đề này<br />
cần phải được rà soát tùy theo tình hình cụ thể<br />
đối với mỗi quốc gia, mỗi khu vực.<br />
<br />
Bảng 1. Các chủ đề của chỉ thị theo Ủy ban phát triển bền vững Liên Hiệp Quốc (CDS)<br />
Tai biến thiên nhiên<br />
(Natural hazards)<br />
<br />
Nghèo đói<br />
<br />
Quản trị (Governance)<br />
<br />
Khí quyển<br />
<br />
Sức khỏe<br />
<br />
Đất đai (Land)<br />
<br />
Giáo dục<br />
<br />
Đại dương, biển và bờ biển<br />
<br />
Nhân khẩu (Demographics)<br />
<br />
Nước ngọt<br />
<br />
Phát triển kinh tế<br />
<br />
Quan hệ đối tác kinh tế toàn<br />
cầu<br />
Các mô hình tiêu thụ và sản<br />
xuất<br />
<br />
Đa dạng sinh học<br />
Nguồn: [14]<br />
<br />
Việc tập trung và làm rõ điều cần đo<br />
lường, điều được mong đợi từ việc đo lường<br />
và những loại chỉ thị cần vận dụng được thể<br />
hiện qua các “khung hoạt động” (framework)<br />
mang tính khái niệm đối với những chỉ thị<br />
(United Nations, 2007). Đã có sự phát triển<br />
và áp dụng nhiều “khung hoạt động” khác<br />
<br />
128 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG<br />
<br />
nhau mà những khác biệt giữa chúng là<br />
các phương thức theo đó những người xây<br />
dựng (“khung hoạt động”) đã khái quát hóa<br />
các phương hướng chủ yếu của sự phát<br />
triển bền vững, những liên hệ qua lại giữa<br />
các phương hướng này, và cũng là phương<br />
thức mà những người xây dựng tổ hợp các<br />
<br />
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản<br />
vấn đề cần được đo lường, và các khái niệm<br />
mà theo đó những người xây dựng biện<br />
minh cho việc lựa chọn và tích hợp các chỉ<br />
thị. Theo đó, đã có các “khung hoạt động”<br />
như là “khung hoạt động dựa theo lực dẫn<br />
động – trạng thái – đáp ứng” (Driving forcestate-response frameworks), “khung hoạt<br />
động dựa trên vấn đề (hoặc chủ đề)” (Issueor theme-based frameworks), “khung nguồn<br />
lực” (Capital frameworks), “khung kế toán”<br />
<br />
Số 2/2017<br />
(Accounting frameworks); đồng thời với việc<br />
áp dụng chỉ số tích hợp như là dấu chân sinh<br />
thái (Ecological Footprint), chỉ số bền vững<br />
về môi trường (Environmental Sustainability<br />
Index - ESI) và chỉ số năng lực môi trường<br />
(Environmental Performance Index - EPI),<br />
hoặc những tiếp cận chỉ báo khác (nằm<br />
ngoài khung hoạt động chính thống) (United<br />
Nations, 2007). Một ví dụ khung hoạt động<br />
được minh họa dưới đây:<br />
<br />
Hình 1. Khung hoạt động theo Áp lực – Tình trạng/trạng thái – Đáp ứng<br />
Nguồn: ODEC, 1998; dẫn theo Singh và cộng sự, 2012<br />
<br />
Theo nguyên tắc, mỗi chủ đề bao gồm<br />
bao gồm nhiều chủ đề phụ được thể hiện bởi<br />
các chỉ thị cốt lõi và cả những chỉ thị mở rộng<br />
khác. Điều cần lưu ý là bản chất đa chiều và<br />
tính kết hợp của sự phát triển bền vững nên<br />
việc phân nhóm các chủ đề/chủ đề phụ luôn<br />
phải được cân nhắc để đo lường tiến trình<br />
hướng đến phát triển bền vững qua hàng loạt<br />
chủ đề được thể hiện bởi những chỉ số. Ví dụ<br />
chủ đề “đại dương, biển và bờ biển” thể hiện<br />
theo 3 chủ đề phụ là “vùng ven bờ, nghề cá<br />
và môi trường biển”, được cụ thể hóa bởi các<br />
chỉ thị cốt lõi là phần trăm dân số sống ở các<br />
khu vực ven bờ đối với chủ đề phụ “vùng ven<br />
bờ”, tỷ lệ trữ lượng cá trong phạm vi giới hạn<br />
an toàn về mặt sinh học đối với chủ đề phụ<br />
“nghề cá” và tỷ lệ diện tích đại dương được<br />
bảo vệ đối với chủ đề phụ “môi trường biển”.<br />
Tuy nhiên, chủ đề này hiển nhiên sẽ được thay<br />
đổi (hoặc loại trừ) đối với các quốc gia không<br />
có biển. Theo cách tiếp cận như vậy, các chỉ số<br />
như là “Chỉ số hành tinh sống” (Living Planet<br />
<br />
Index - LPI), Dấu chân sinh thái (Ecological<br />
Footprint - EF), Chỉ số phát triển đô thị (City<br />
Development Index - CDI), Chỉ số phát triển<br />
con người (Human Development Index - HDI),<br />
Chỉ số bền vững về môi trường (Environmental<br />
Sustainability Index - ESI), Chỉ số năng lực môi<br />
trường (Environmental Performance Index EPI), Chỉ số khả năng tổn thương môi trường<br />
(Environmental Vulnerability Index - EVI),<br />
“Chỉ số phúc lợi xã hội bền vững” (Index of<br />
Sustainable Economic Welfare - ISEW), “Chỉ<br />
số đời sống tốt” (Well Being Index - WI), “Chỉ số<br />
lợi nhuận thật” (Genuine Savings Index - GS)<br />
hay “Tổng sản phẩm quốc nội thích ứng môi<br />
trường” (Environmental Adjusted Domestic<br />
Product - EDP),… cũng được lựa chọn áp<br />
dụng trong nhiều trường hợp đánh giá thực<br />
tế [9].<br />
Tương tự như Bộ chỉ thị của Hội đồng<br />
phát triển bền vững Liên Hiệp Quốc (CSD),<br />
Bộ chỉ số thịnh vượng hay Thước đo độ bền<br />
vững BS (Barometer of sustainability hay<br />
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 129<br />
<br />
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản<br />
BSI - Barometer of Sustainability Index) do<br />
Liên minh Quốc tế Bảo tồn Thiên nhiên và<br />
Tài nguyên Thiên nhiên (International Union<br />
for Conservation of Nature and Natural<br />
Resources – IUCN) đề xuất năm 1994 nhằm<br />
mục đích so sánh các địa phương, vùng [2]<br />
hoặc quốc gia [7]. Thước đo này bao gồm<br />
88 chỉ thị, được kết hợp lại thành 2 nhóm là<br />
những chỉ thị thịnh vượng nhân văn và các<br />
chỉ thỉ phúc lợi sinh thái. Chỉ số thịnh vượng<br />
<br />
Số 2/2017<br />
nhân văn bao gồm một tập hợp các đo lường<br />
về sức khoẻ và dân số, sự giàu có, kiến thức<br />
và văn hoá, cộng đồng và sự bình đẳng. Chỉ<br />
số phúc lợi sinh thái gồm một tập hợp các<br />
đo lường về đất đai, nguồn nước, không khí,<br />
đa dạng sinh học và việc sử dụng nguồn lợi<br />
sinh vật.<br />
Tổ hợp các chỉ thị đơn để hình thành chỉ thị<br />
tổng hợp thể hiện theo thứ bậc từ trên xuống<br />
như sau:<br />
<br />
Hình 2. Sơ đồ liên hệ thứ bậc giữa các chỉ thị đơn và chỉ thị tổng hợp<br />
Nguồn: [3]<br />
<br />
Bảng 2. Các yếu tố phúc lợi sinh thái và xã hội - nhân văn<br />
Phúc lợi sinh thái<br />
<br />
Tỷ trọng<br />
<br />
Phúc lợi xã hội – nhân văn<br />
<br />
Tỷ trọng<br />
<br />
Đất<br />
<br />
20<br />
<br />
Sức khỏe cộng đồng<br />
<br />
20<br />
<br />
Nước<br />
<br />
20<br />
<br />
Việc làm/thu nhập<br />
<br />
20<br />
<br />
Không khí<br />
<br />
20<br />
<br />
Học vấn<br />
<br />
20<br />
<br />
Đa dạng sinh học<br />
<br />
20<br />
<br />
Trật tự an toàn xã hội<br />
<br />
20<br />
<br />
Sử dụng hợp lý tài nguyên<br />
<br />
20<br />
<br />
Bình đẳng xã hội<br />
<br />
20<br />
<br />
Tổng tỷ trọng<br />
<br />
100<br />
<br />
Tổng tỷ trọng<br />
<br />
100<br />
<br />
Nguồn: [2]<br />
<br />
Trong trường hợp hiệu quả tốt nhất, mức<br />
<br />
(CSD) đối với các quốc gia, có nhiều tiêu chí<br />
<br />
lựa chọn các chỉ thị được xác định bởi kết quả<br />
của tập hợp chỉ thị và mục tiêu bao quát của<br />
các chỉ thị (theo CSD) phải thể hiện chính sách<br />
ở cấp quốc gia, phù hợp với chiến lược phát<br />
triển bền vững cấp quốc gia. Do vậy, cần điều<br />
chỉnh các chỉ thị phát triển bền vững của CSD<br />
nhằm thích ứng với bối cảnh của quốc gia.<br />
Việc điều chỉnh này dựa trên cơ sở một ma<br />
trận 2 chiều đơn giản với sự có sẵn và tương<br />
<br />
để lựa chọn các chỉ thị. Gợi ý ban đầu là việc<br />
<br />
thích của dữ liệu (Hình 3).<br />
<br />
đạt được của mỗi yếu tố là 20. Tác động môi<br />
trường xấu sẽ làm giảm tỷ trọng các tham số<br />
môi trường cho đến 0.<br />
2. Thực tiễn áp dụng<br />
Trong việc áp dụng những chỉ thị phát triển<br />
bền vững của Ủy ban phát triển bền vững<br />
<br />
130 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG<br />
<br />
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản<br />
<br />
Số 2/2017<br />
<br />
Sự có sẵn của dữ liệu<br />
<br />
Tính tương thích của dữ liệu<br />
Tương thích<br />
<br />
Chỉ thị liên<br />
quan tương<br />
thích<br />
<br />
Tương thích<br />
nhưng không<br />
có sẵn<br />
<br />
Không tương<br />
thích<br />
<br />
Có sẵn<br />
<br />
(được sử<br />
dụng)<br />
<br />
(phải điều<br />
chỉnh)<br />
<br />
(phải đồng<br />
nhất)<br />
<br />
(phải loại bỏ)<br />
<br />
Có sẵn mang tính<br />
tiềm năng<br />
<br />
(được sử<br />
dụng)<br />
<br />
(phải điều<br />
chỉnh)<br />
<br />
(phải đồng<br />
nhất)<br />
<br />
(phải loại bỏ)<br />
<br />
Dữ liệu liên quan<br />
có sẵn<br />
<br />
(phải điều<br />
chỉnh)<br />
<br />
(phải điều<br />
chỉnh)<br />
<br />
(phải đồng<br />
nhất)<br />
<br />
(phải loại bỏ)<br />
<br />
(phải loại bỏ)<br />
<br />
(phải loại bỏ)<br />
<br />
(phải loại bỏ)<br />
<br />
(phải loại bỏ)<br />
<br />
Không có sẵn<br />
<br />
Hình 3. Ma trận điều chỉnh các chỉ số phát triển bền vững<br />
Nguồn: [14]<br />
<br />
Một vấn đề cần lưu ý rằng các chỉ thị phát<br />
triển bền vững được xây dựng thông qua tiến<br />
trình tương tác và đối thoại của rất nhiều các<br />
bên liên quan (stakeholder) bao gồm những<br />
đại biểu chính phủ, các chuyên gia kỹ thuật<br />
và những đại diện quần chúng. Tiến trình này<br />
cho phép những người tham dự xác định khả<br />
năng bền vững theo quan điểm của mình,<br />
cân nhắc các khía cạnh tương ứng mang tính<br />
địa phương cũng như những hệ thống giá trị<br />
của chính họ [14]. Trong thực tế, vấn đề này<br />
thường không dễ dàng do nhận thức về những<br />
khái niệm liên quan đến hệ thống chỉ thị - chỉ<br />
số thường không thống nhất, đặc biệt trong<br />
<br />
bối cảnh thiếu các nghiên cứu về thống kê<br />
môi trường [4].<br />
Theo Chế Đình Lý (2006), có thể hiểu chỉ<br />
thị (indicator) “là một tham số (parameter) hay<br />
“số đo” (metric) hay một giá trị kết xuất từ tham<br />
số, dùng cung cấp thông tin, mô tả tình trạng<br />
của một hiện tượng/môi trường/khu vực. Nó<br />
là thông tin khoa học về tình trạng và chiều<br />
hướng của các thông số liên quan môi trường”.<br />
Các chỉ thị này kết xuất từ các biến số, dữ liệu<br />
trong khi chỉ số (index) là “một tập hợp của các<br />
tham số hay chỉ thị được tích hợp hay nhân với<br />
trọng số” [4].<br />
<br />
Hình 4. Minh họa các mức thông tin trong hệ thống chỉ thị - chỉ số đánh giá phát triển<br />
<br />
Nguồn: Phỏng theo [4]<br />
(1) Dữ liệu thô (các phép đo – Measurements) - (2) Số đo (độ đo – Metric) - (3) Chỉ thị (Indicator) - (4) Chỉ số (Index)<br />
<br />
Những trình bày trên đây cho thấy một vấn<br />
đề quan trọng khác trong việc đánh giá tính<br />
tính bền vững của sự phát triển là xây dựng<br />
các chi thị đơn. Nguyên tắc xây dựng chỉ thị<br />
<br />
đơn (Indicator) cần bảo đảm chỉ thị đơn là một<br />
phép đo khách quan và phải được lượng hóa.<br />
Đồng thời với sự phản ánh bản chất cốt lõi của<br />
một thành phần trong hệ thống, việc thu thập<br />
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 131<br />
<br />
Thêm tài liệu vào bộ sưu tập có sẵn:
Báo xấu
LAVA
AANETWORK
TRỢ GIÚP
HỖ TRỢ KHÁCH HÀNG
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn