intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Nâng cao chất lượng đào tạo đại học chính quy cần gắn kết với phát triển công nghệ ngân hàng số

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:9

16
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết tập trung phân tích những nền tảng cơ bản mối quan hệ giữa công nghệ ngân hàng số và nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực trong trường đại học; nội dung đào tạo cần được trang bị cho sinh viên hiểu rõ vai trò của phát triển công nghệ ngân hàng số; tính tất yếu khách quan của đào tạo kiến thức về công nghệ ngân hàng số trong các trường đại học.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Nâng cao chất lượng đào tạo đại học chính quy cần gắn kết với phát triển công nghệ ngân hàng số

  1. KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA 43. NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG ĐÀO TẠO ĐẠI HỌC CHÍNH QUY CẦN GẮN KẾT VỚI PHÁT TRIỂN CÔNG NGHỆ NGÂN HÀNG SỐ PGS.TS. Nguyễn Đắc Hưng* Tóm tắt Một nội dung cơ bản, có tính chất cốt lõi của nền kinh tế số đó chính là công nghệ ngân hàng số. Bởi vì ngân hàng số có liên quan mật thiết trong hệ sinh thái của chính quyền điện tử, dịch vụ công điện tử, cơ sở dữ liệu quốc gia về doanh nghiệp và dân cư, hoạt động thương mại và dịch vụ điện tử; quản lý các hoạt động giáo dục và đào tạo (GD&ĐT), hoạt động y tế và khám, chữa bệnh, phát triển nguồn nhân lực, quản lý hệ thống giao thông tự động… Hiện nay, cạnh tranh phát triển công nghệ ngân hàng số đang là xu hướng tất yếu khách quan đối với các ngân hàng trên thế giới cũng như đang đặt ra có tính cấp bách đối với các ngân hàng thương mại (NHTM) tại Việt Nam, đồng thời cũng đặt ra yêu cầu cấp thiết cần phải đổi mới đào tạo về công nghệ số tại các trường đại học trong lĩnh vực này này. Bài viết tập trung phân tích những nền tảng cơ bản mối quan hệ giữa công nghệ ngân hàng số và nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực trong trường đại học; nội dung đào tạo cần được trang bị cho sinh viên hiểu rõ vai trò của phát triển công nghệ ngân hàng số; tính tất yếu khách quan của đào tạo kiến thức về công nghệ ngân hàng số trong các trường đại học. Bài viết cũng đưa ra một só nhận xét về ứng dụng công nghệ ngân hàng số trong quản lý tài chính, về thực tiễn đào tạo sinh viên tại các trường đại học có chuyên ngành Kinh tế, chuyên ngành Công nghệ thông tin (CNTT) về Công nghệ ngân hàng số tại Việt Nam hiện nay và đưa ra các khuyến nghị. Từ khóa: Ngân hàng số; đổi mới đào tạo; trường đại học 1. GIỚI THIỆU Ngày nay, công nghệ ngân hàng số được nhắc đến thường xuyên hơn trong cuộc sống thường nhật của cộng đồng doanh nghiệp, người dân, trong các dịch vụ công, tại các trường đại học, trong đội ngũ sinh viên, cán bộ nghiên cứu và giảng viên. Đây là xu hướng tất yếu trong hoạt động ngân hàng kỷ nguyên số đang diễn ra mạnh mẽ trên thế giới, thu hút sử dụng công nghệ số tại các lĩnh vực khác của hoạt động kinh tế - xã hội. Tại Việt Nam, công nghệ ngân hàng số cũng * Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Hưng Yên 384
  2. CHẤT LƯỢNG ĐÀO TẠO ĐẠI HỌC CHÍNH QUY TRONG BỐI CẢNH CHUYỂN ĐỔI SỐ đang được các NHTM chủ động nắm bắt, đầu tư nguồn lực tài chính, nhân lực, công nghệ triển khai và đạt được kết quả bước đầu, được lan rộng sang quản lý dịch vụ công, dịch vụ GD&ĐT và y tế, giao thông, thương mại điện tử, tuy nhiên cũng còn nhiều vấn đề đặt ra. Vì vậy, nghiên cứu về vấn đề này có tính cấp bách đang đặt ra ở Việt Nam hiện nay. Bài viết tập trung vào chủ đề này. Bài viết nghiên cứu về thực tiễn, không có điều kiện sử dụng phương pháp nghiên cứu định lượng, xây dựng mô hình nghiên cứu, giả thiết nghiên cứu, xây dựng hàm số, thiết kế phiếu điều tra, khảo sát, tiến hành phỏng vấn, xử lý dữ liệu. Thực hiện nội dung bài viết, tác giả sử dụng phương pháp nghiên cứu định tính, dựa trên các nguồn số liệu và tư liệu của các tổ chức nước ngoài, tổ chức trong nước đã công bố, tiến hành tổng hợp, phân tích, so sánh và đánh giá, đưa ra khuyến nghị theo mục tiêu nghiên cứu đề ra. 2. NỘI DUNG 2.1. Một số cơ sở lý thuyết cơ bản về ngân hàng số 2.1.1. Nền tảng cơ bản mối quan hệ giữa công nghệ ngân hàng số và nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực trong trường đại học Hiện nay, nâng cao chất lượng đào tạo chính quy tại các trường đại học có liên quan mật thiết đến công nghệ ngân hàng số ở ba góc độ chính. Các chuyên ngành về kinh tế, bao gồm: từ quản trị kinh doanh, quản trị nguồn nhân lực, marketing, thương mại và dịch vụ, du lịch, đến kinh tế đầu tư, kế toán, kiểm toán, tài chính doanh nghiệp, ngân hàng thương mại, quản lý dịch vụ công, quản lý guao thông vận tải… chiếm khoảng 50% quy mô sinh viên, của các trường đại học trong toàn quốc. Trong đó, đào tạo về vốn, tiền tệ, thanh toán, ngoại hối, đầu tư, dịch vụ thanh toán là nội dung không thể thiếu được trong đào tạo về chuyên ngành Kinh tế. Bên cạnh đó, trong kỷ nguyên số đang phát triển như vũ bão hiện nay, mọi tổ chức, đơn vị, doanh nghiệp nói chung, các trường đại học, bệnh viện và cá nhân nói riêng, từ giảng viên, cán bộ nghiên cứu khoa học đến sinh viên đều hưởng lợi rất lớn của những thành tựu trong lĩnh vực công nghệ ngân hàng số mang lại. Các tổ chức ngân hàng, tài chính cũng đang nắm bắt mạnh mẽ những tiến bộ của công nghệ số để phát triển các sản phẩm dịch vụ tiện ích. Các trường đại học cũng đang phối hợp chặt chẽ với các NHTM trong ứng dụng dịch vụ công nghệ số để quản lý tài chính có hiệu quả, từ quản lý thu học phí, đến quản lý học bổng, quản lý tiền lương và các khoản chi thu nhập cho nguồn nhân lực, đến quản lý đầu tư phát triển, thực hiện các hoạt động thanh toán điện tử, quản lý ngân quỹ tự động trong kỷ nguyên số. Sử dụng công nghệ ngân hàng số thực sự tiết kiệm nguồn nhân lực và các chi tài chính rất lớn cho chính các trường đại học. Trên cơ sở đó, các trường đại học có điều kiện nâng cao chất lượng đào tạo. Một nội dung khác có liên quan rất mật thiết, đó là đào tạo các chuyên ngành về CNTT, quản lý mạng, kỹ thuật máy tính trong các trường đại học không thể thiếu được nội dung công nghệ ngân hàng số. Ngược lại, chính các tổ chức ngân hàng, tài chính là thị trường rộng lớn cho các chuyên gia CNTT; giảng viên và sinh viên CNTT nghiên cứu, sáng tạo, đưa ra các sáng chế mới nhất, các công ty cung ứng giải pháp công nghệ cạnh tranh nhau đưa ra các sản phẩm tối ưu của mình để ứng dụng cho lĩnh vực công nghệ ngân hàng số. 385
  3. KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA 2.1.2. Khái niệm ngân hàng số Digital Banking hay ngân hàng số là ngân hàng có thể thực hiện hầu hết các giao dịch sản phẩm, dịch vụ ngân hàng bằng hình thức trực tuyến thông qua Internet trên các thiết bị di động và máy tính để bàn. Giao dịch của ngân hàng số không phải đến chi nhánh hay phòng giao dịch ngân hàng, hoặc điểm đặt ATM, sử dụng POS, giảm thiểu đến mức tối đa những thủ tục giấy tờ liên quan tốn kém chi phí, thời gian và gây ô nhiễm môi trường, mất diện tích văn phòng để lưu trữ chứng từ giấy. Đồng thời, tính năng của ngân hàng số có thể thực hiện mọi lúc mọi nơi không phụ vào thời gian, không gian nên khách hàng hoàn toàn chủ động, cho dù khách hàng đang di chuyển trên máy bay, du thuyền ngoài đại dương, cắm trại trên núi, di chuyển trên đường cao tốc mà không phải là người lái, trên giảng đường hay trong phòng hội thảo… miễn là có mạng Internet và thiết bị di động, đều có thể thực hiện được các giao dịch tài chính của mình (Thebank, 2021). 2.1.3. Nội dung đào tạo cần được trang bị cho sinh viên hiểu rõ vai trò của phát triển công nghệ ngân hàng số Giảng viên, sinh viên cần có nhận thức đầy đủ và nhận thức rõ ràng rằng, ngân hàng số mang lại rất nhiều lợi ích cho ngân hàng, cho khách hàng và cho các bên có liên quan, trong cho chính các trường đại học: Thứ nhất, đó là hiệu quả kinh doanh, hiệu quả hoạt động tự chủ tài chính cho các trường đại học: Không chỉ làm nền tảng kỹ thuật số cải thiện sự tương tác với khách hàng và giúp nhu cầu của khách hàng được đáp ứng nhanh hơn, ngân hàng số còn cung cấp các phương pháp để làm cho các chức năng nội bộ trong mỗi trường đại học hoạt động hiệu quả hơn. Thứ hai, tiết kiệm chi phí: Ngân hàng số là một trong những chìa khóa để các ngân hàng cắt giảm chi phí thông qua các ứng dụng tự động thay cho lao động thủ công. Nền tảng kỹ thuật số trong tương lai có thể giảm chi phí thông qua sự hỗ trợ của dữ liệu mạng và phân tích, xử lý nhanh hơn với những thay đổi của thị trường tài chính, thị trường CNTT, thị trường hàng hóa và dịch vụ khác, trong đó có dịch vụ đào tạo, quản lý của các trường đại học kể cả thị trường nguồn nhân lực. Thứ ba, độ chính xác cao: Nền tảng công nghệ của ngân hàng số sẽ giúp tính toán, xử lý cũng như ghi nhận những giao dịch, biến động một cách chính xác tuyệt đối. Nếu thao tác của khách hàng không chính xác sẽ phải thực hiện lại, hoặc bị từ chối. Chính công nghệ giám sát tự động các giao dịch của khách hàng đảm bảo chính xác và xác thực chính bạn là người chủ của tài khoản, chủ của giao dịch. Ứng dụng này thấy rất rõ trong quản lý thu học phí và các khoản thu các của sinh viên, trong chi trả lương, chi hỗ trợ nghiên cứu khoa học, đổi mới sáng tạo và các khoản thu nhập khác của giảng viên, cán bộ, nhân viên trong các trường đại học. Thứ tư, tăng cường bảo mật: Đây là yêu cầu tất yếu đối với tất cả các giao dịch tài chính, liên quan đến tài sản, kèm theo đó là các thông tin cá nhân. Các giao dịch hay bất kỳ phát sinh nào trên tài khoản ngân hàng, khách hàng đều nhận được mã OTP trên điện thoại cá nhân cho mỗi lần giao dịch và nhận được tin nhắn trên điện thoại thông mình với hạn mức thời gian có giá trị là hữu hạn, hoặc email thông báo. Khách hàng hoàn toàn có thể yên tâm về tính bảo mật của ngân hàng số. Đội ngũ giảng viên và cán bộ nhân viên các trường đại học, đội ngũ sinh viên đông đảo cũng thấy rất rõ vai trò này. 386
  4. CHẤT LƯỢNG ĐÀO TẠO ĐẠI HỌC CHÍNH QUY TRONG BỐI CẢNH CHUYỂN ĐỔI SỐ 2.2. Tính tất yếu khách quan của đào tạo kiến thức về công nghệ ngân hàng số trong các trường đại học Phát triển công nghệ số là yêu cầu tất yếu khách quan trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam. Tình hình đó đòi hỏi tính cấp bách về số lượng và chất lượng nguồn nhân lực về kinh tế, về CNTT, kỹ thuật phần mềm được đào tạo trong các trường đại học cũng phải chuyển động nhanh theo kịp xu hướng công nghệ số, thanh toán điện tử. Tính tất yếu khách quan và yêu cầu cấp bách này được xác định trên 5 yếu tố khác nhau sau đây: (i) Nền kinh tế Việt Nam tiếp tục hội nhập sâu rộng với cộng đồng kinh tế quốc tế và khu vực, nên cũng phải hội nhập về thanh toán kỹ thuật số, thanh toán điện tử, giao dịch tài chính điện tử, đảm bảo các yêu cầu tất yếu khách quan về thanh toán nhanh, chính xác, an toàn của các doanh nghiệp FDI, người nước ngoài đến Việt Nam ngắn hạn, thăm quan, du lịch, hội thảo, giảng dạy, đào tạo, khảo sát cũng như những người nước ngoài sinh sống và kinh doanh tại Việt Nam. Bên cạnh đó, công dân Việt Nam và các doanh nghiệp trong nước cũng phải sử dụng các hình thức thanh toán kỹ thuật số, thanh toán điện tử theo xu thế chung của thời đại. Quy mô và doanh số giao dịch thanh toán điện tử tăng trưởng mạnh và ngày càng đa dạng, đòi hỏi số lượng đội ngũ kế toán - kiểm toán và chuyên gia CNTT có trình độ đại học ngày càng tăng lên, năng suất lao động và khối lượng công việc của một kế toán viên, kiểm toán viên, chuyên viên CNTT tăng lên. Cũng theo đó, đòi hỏi chất lượng đội ngũ nhân sự tốt nghiệp đại học về kinh tế, CNTT, kỹ thuật phần mềm được đào tạo trọng các trường đại học tăng lên, sử dụng công nghệ số thường xuyên hơn với mức độ phức tạp hơn. (ii) Khách du lịch quốc tế và người nước ngoài đến Việt Nam ngày càng đông, nhất là những người đến làm việc và đem theo cả gia đình đến cứ trú ngắn hạn, trung hạn, thậm chí là lâu dài. Họ sử dụng các phương tiện thanh toán hiện đại theo thông lệ quốc tế, yêu cầu được minh bạch về thuế nên hệ thống thanh toán của của Việt Nam cũng phải chuyển động hết sức nhanh chóng; đội ngũ kế toán - kiểm toán, chuyên gia CNTT, chuyên gia quản lý dịch vụ công của Việt Nam cũng phải chuyển động theo, kể cả chuyên môn, sử dụng CNTT, quy định về kế toán và kiểm toán quốc tế và kể cả ngoại ngữ, lề lối làm việc. (iii) Trong cuộc cách mạng công nghệ số đang phát triển mạnh mẽ hiện nay, mọi người dân, tổ chức, doanh nghiệp, trường đại học, bệnh viện phải nắm bắt xu hướng này, tiết kiệm chi phí, tiết kiệm thời gian trong các giao dịch thanh toán, chuyển tiền, quản lý tiền thu học phí và chi cho nhứng người tham gia đào tạo. Hầu hết người dân có tài khoản tại NHTM và làm quen với thanh toán điện tử của NHTM, cũng như sử dụng các ví điện tử khác. Quan hệ thanh toán giữa doanh nghiệp và tổ chức, trường đại học và bệnh viện, với nhân viên, khách hàng cá nhân, người dân, người học và người đào tạo cũng chủ yếu dựa trên công nghệ số, thanh toán điện tử. Các báo cáo tài chính của các trường đại học, của các doanh nghiệp, báo cáo kiểm toán đòi hỏi chất lượng cao hơn và thời gian ngắn hơn, dựa trên chứng từ điện tử, hóa đơn điện tử, chữ ký điện tử. Đặc biệt là các yêu cầu về quyết toán thuế thu nhập cá nhân, minh bạch hoạt động từ thiện và an sinh xã hội cũng tăng lên nhanh chóng. Bên cạnh đó, các báo cáo tài chính của doanh nghiệp, báo cáo tài chính của trường đại học đã được kiểm toán dựa trên công nghệ số cũng đòi hỏi ngày càng nhiều, phục vụ tham gia đấu thầu các dự án, các hợp đồng trong nước và quốc tế. 387
  5. KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA (iv) Cải cách hành chính, minh bạch thông tin, chống tham nhũng, chống thất thu thuế, chống gian lận thương mại và nguồn gốc, xuất xứ của sản phẩm, các yêu cầu về phòng, chống rửa tiền và minh bạch thu nhập cá nhân chịu thuế… đòi hỏi ngày càng cao, quy mô ngày càng lớn, phạm vi ngày càng rộng và chất lượng và độ tin cậy về kinh tế, CNTT, kỹ thuật phần mềm được đào tạo trọng các trường đại học ngày càng cao. Vì vậy, đây là cơ hội cũng như thách thức cho phát triển nhân lực về kinh tế, CNTT, kỹ thuật phần mềm được đào tạo trong các trường đại học Việt Nam, cần phải có giải pháp tối ưu thực hiện mục tiêu đó. (v) Phát triển Chính phủ điện tử, chính quyền điện tử, dịch vụ công điện tử, xây dựng cơ sở điện tử dữ liệu quốc gia về doanh nghiệp và dân cư, phát triển nền kinh tế số, phát triển thương mại điện tử, dịch vụ thuế điện tử và hải quan điện tử, giao dịch kho bạc điện tử và dịch vụ công điện tử; tiết kiệm nhân lực trong quản lý tài chính của cơ quan nhà nước, trường đại học, bệnh viện, các tổ chức và các doanh nghiệp, tất yếu phải gắn liền với phát triển công nghệ ngân hàng số, phát triển thanh toán không dùng tiền mặt dựa trên nền tảng kỹ thuật số. Tình hình đó tạo ra môi trường cạnh tranh mới cho hoạt động đào tạo sinh viên trong các trường đại học, môi trường phát triển và nâng cao chất lượng đào tạo sinh viên kinh tế, CNTT, quản lý dịch vụ công trong nền kinh tế số và thanh toán điện tử dựa trên nền tảng công nghệ số. (vi) Kinh tế thế giới và kinh tế Việt Nam có những diễn biến bất thường, trên phạm vi rộng, đặc biệt là đại dịch COVID-19 hiện nay, Việt Nam đang trải qua làn sóng dịch thứ tư. Quốc hội, Chính phủ, chính quyền các cấp và ngân sách các cấp ở các nước cũng như ở Việt Nam đưa ra các gói cứu trợ tài chính, các chính sách tài chính - tiền tệ bất thường, phi truyền thống, có tính chất đặc thù và chưa có tiền tệ. Doanh nghiệp và các trường đại học cũng phát sinh các khoản chi phí bất thường cho 3 tại chỗ, cho hoạt động logistics gia tăng chóng mặt, cho các hoạt động y tế, môi trường và an sinh xã hội, từ thiện. Hầu hết các các giao dịch đó được thực hiện qua thanh toán điện tử dựa trên nền tảng công nghệ số. Tình hình đó đòi hỏi quản lý tài chính công, tài chính doanh nghiệp, tài chính trường đại học, tài chính tổ chức phi chính phủ và tổ chức xã hội, chứng từ điện tử các quy định liên quan đến giao dịch điện tử, số lượng và chất lượng về kinh tế, CNTT, kỹ thuật phần mềm được đào tạo trong các trường đại học nâng lên. Cũng theo đó, các nghiệp vụ kế toán, nghiệp vụ kiểm toán, quản lý tài chính công, quản lý tài chính các trường đại học cũng phải linh hoạt, thay đổi để thích ứng với tình hình mới. 2.3. Một số nhận xét và đánh giá Một là, hành lang pháp lý cho thanh toán không dùng tiền mặt, thanh toán điện tử, công nghệ ngân hàng số về cơ bản được ban hành đầy đủ, đồng bộ, an toàn và được đông đảo các bên có liên quan chấp nhận, tuân thủ. Tuy nhiên, quy định về chữ ký điện tử, hóa đơn điện tử, chứng từ điển tử đến nay chưa được ban hành, hoặc chưa được ban hành đồng bộ, chưa có đầy đủ tính pháp lý, gây khó khăn cho công tác quản lý tài chính tại các trường đại học, cho hoạt động kế toán kiểm toán trong trường đại học, cho người hành nghề, thao tác nghiệp vụ kế toán - kiểm toán, cũng như trong hoàn thiện nội dung bài giảng cho sinh viên tại các trường đại học. Hai là, một số trường đại học chưa có nhận thức đầy đủ về vai trò của công nghệ ngân hàng số trong quản lý tài chính. Một số trường đại học chủ động phối hợp tích cực với các NHTM trong sử dụng công nghệ ngân hàng số để quản lý thu học phí và các khoản thu khác của sinh viên và người học, quản lý các khoản kinh phí hỗ trợ cho đào tạo và nghiên cứu khoa học, chi 388
  6. CHẤT LƯỢNG ĐÀO TẠO ĐẠI HỌC CHÍNH QUY TRONG BỐI CẢNH CHUYỂN ĐỔI SỐ lương, phụ cấp và các khoản chi khác cho giảng viên, cán bộ, nhân viên, ứng dụng trong quản lý tài chính của nhà trường. Do đó chưa thực sự tiết kiệm thời gian, nguồn nhân lực, chi phí cho các bên có liên quan. Các cơ sở giáo dục vẫn duy trì lề lối làm việc cũ, với đội ngũ thu ngân, kế toán khá đông, bộ máy cồng kềnh, nhiều thủ tục giấy tờ hành chính, đến kỳ sinh viên phải xếp hàng nộp học phí, nộp các khoản thu khác cho nhà trường. Cuối ngày nhà trường lại phải chuyển tiền mặt ra nộp tại chi nhánh NHTM, hay để tiền mặt tồn quỹ nhà trường vài ngày mới đem ra NHTM nộp, gây nên tình trạng mất an toàn kho quỹ, chưa kể nỗi lo tiền giả, tiền không đủ tiêu chuẩn lưu thông. Trong một trường đại học có quá nhiều đầu mối thu tiền khác nhau: tài vụ của trường, thu ngân của các trung tâm, các đơn vị trực thuộc. Ba là, tại một số trường đại học, phần mềm CNTT và hạ tầng CNTT chưa được đầu tư tương ứng cho quản lý tài chính, đồng bộ, tích hợp các khoản phải thu khác nhau: học phí chính khóa, học lại, học bổ sung, học tăng cường, bồi dưỡng, học theo tín chỉ… với các phòng, ban và bộ phận có liên quan: tài chính kế toán, quản lý đào tạo, các trung tâm và các viện… nên vẫn phải đối chiếu thủ công, tốn kém giấy in ấn, chậm xử lý các khâu có liên quan và dẫn đến nhầm lẫn. Do đó, hiệu quả ứng dụng công nghệ ngân hàng số trong trường đại học chưa cao. Bốn là, nhiều trường đại học chưa ứng dụng hiệu quả công nghệ ngân hàng số trong quản lý nguồn lực tài chính của mình để gia tăng thêm nguồn thu đầu tư cho nâng cao chất lượng đào tạo trong kỷ nguyên công nghệ số. Nguồn tiền nhàn rỗi thu từ học phí và các khoản thu khác chưa sử dụng đến chưa được áp dụng nghiệp vụ quản lý thanh khoản tự động và tối ưu. Nguồn tiền đó chưa sử dụng đến trong ngắn hạn, trung hạn hay dài hạn cần được đầu tư trên các khoản tài khoản tiền gửi có kỳ hạn phù hợp có lãi suất cao. Số tiền đó nhiều trường chủ yếu để trên tài khoản thanh toán tại NHTM, nên lãng phí một khoản thu nhập đáng kể từ lãi suất của trường. Cá biệt có trường đại học thường xuyên để số dư tiền gửi lên tới 10 tỷ đến 20 tỷ đồng, thậm chí là cao hơn, lên tới 30 tỷ đồng trên tài khoản thanh toán, trong khi đó kế hoạch chi hàng tháng, hàng quý trường đều dự toán chính xác được. Tiền gửi thanh toán trường đại học chỉ được NHTM trả lãi suất dưới 1%/ năm, trong khi đó, lãi suất tiền gửi kỳ hạn từ 3 tháng đến 6 tháng là 4% - 5%/năm, tính ra mất đi khoản chênh lệch lãi suất 40 - 80 triệu đồng, đủ cấp 20 - 40 suất học bổng cho sinh viên có hoàn cảnh khó khăn, sinh viên học giỏi. Nhiều trường đại học có nguồn thu ổn định hàng trăm tỷ đồng mỗi năm, dự trữ cho đầu tư xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật nhưng chưa triển khai được, nếu chuyển sang tài khoản tiền gửi 13 hay 15 tháng, lãi suất tới 7% - 8%/năm, mỗi năm có nguồn thu ổn định ít nhất cũng từ 7 - 8 tỷ đồng hay nhiều hơn, có ý nghĩa rất lớn cho đầu tư cho công nghệ số các lĩnh vực giảng dạy, đào tạo của nhà trường. Năm là, nội dung đào tạo và giảng dạy về công nghệ ngân hàng số, quản lý tài chính công nghệ số, dịch vụ ngân hàng điện tử, quản trị ngân hàng số… chưa chính thức được biên soạn là nội dung cơ bản, nội dung chính. Tại một số trường đại học có chuyên ngành đào tạo về Tài chính - Ngân hàng, bước đầu có giảng về công nghệ ngân hàng số, tuy nhiên số tiết dạy không nhiều, chưa hình thành một môn hay chưa được một tín chỉ đào tạo. Nội dung đào tạo cũng chủ yếu là lý thuyết, thiếu tính thực tiễn. Một số giảng viên chậm hay né tránh cập nhật kiến thức mới nhất về công nghệ ngân hàng số nên ngại giảng cho sinh viên về nội dung này. Do đó, sinh viên tốt nghiệp chuyên ngành Tài chính, Ngân hàng, Kế toán, Kiểm toán, Kinh tế đầu tư, Quản trị kinh doanh... khi được tuyển dụng vào các NHTM lại cần từ 2 - 3 tháng đào tạo lại nghiệp vụ ngân hàng số và các nghiệp vụ khác có liên quan; được tuyển dụng vào làm phòng Tài chính - Kế 389
  7. KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA toán, đầu tư các doanh nghiệp và cơ quan, tổ chức cũng phải được NHTM hướng dẫn cụ thể về nghiệp vụ ngân hàng số. Kỹ sư CNTT thiết kế các phần mềm cho ngân hàng nhưng không hiểu nghiệp vụ ngân hàng số, phải có chuyên gia ngân hàng kèm cặp nghiệp vụ. Sáu là, khách quốc tế đến Việt Nam ngày càng đông, người nước ngoài đến Việt Nam định cư ngắn hạn trung và dài hạn cũng ngày càng nhiều, tất nhiên loại trừ khoảng thời gian do ảnh hưởng của COVID-19. Tuy nhiên, hệ thống cơ sở hạ tầng thanh toán điện tử, môi trường thanh toán kỹ thuật số, hoạt động thanh toán hiện đại của Việt Nam đáp ứng kịp thời nhu cầu của người nước ngoài, hội nhập với khu vực và quốc tế, được người nước ngoài an tâm, chấp nhận. Do đó, khi COVID-19 được hoàn toàn khống chế ở Việt Nam và trên toàn cầu, khách quốc tế trở lại Việt Nam như năm 2019 và cao hơn, thì thị trường thanh toán điện tử của Việt Nam tiếp tục bùng nổ. Bên cạnh đó, các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) và người nước ngoài đến Việt Nam ngày càng đông. Tuy nhiên, các trường đại học của Việt Nam chưa thực sự chuyển động, đổi mới đào tạo cho đội ngũ kế toán, kiểm toán, tài chính, ngân hàng, quản trị kinh doanh, CNTT nắm vững quy định pháp lý, nghiệp vụ cơ bản và cốt lõi của thanh toán điện tử dựa trên công nghệ số, hạn chế về trình độ ngoại ngữ và chuyên môn hạch toán kế toán, quản lý tài chính theo nguyên tắc quốc tế. Nghiệp vụ ngân hàng số, quản tài chính số, đào tạo công nghệ số trong các trường đại học của Việt Nam chưa được cập nhật trong nội dung đào tạo, chưa nâng cao năng lực cạnh tranh trước các đối thủ nước ngoài, cung cấp nguồn nhân lực cho công ty và tổ chức nước ngoài tại Việt Nam. 3. KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ GIẢI PHÁP (i) Các NHTM Việt Nam, các trường đại học đào tạo chuyên ngành Kinh tế, CNTT, Quản lý dịch vụ công cần tham khảo, học hỏi kinh nghiệm của các ngân hàng, trường đại học trong khu vực; các ngân hàng và trung gian thanh toán, các trường đại học và học viện chuyên ngành của Trung Quốc, tranh thủ sự trợ giúp của các tổ chức quốc tế, của các ngân hàng là cổ đông chiến lược để đáp ứng ngày càng tốt nhất yêu cầu đảm bảo an toàn trong giao dịch thẻ, thanh toán điện tử của khách hàng, giảm thiểu rủi ro, nâng cao chất lượng đào tạo sinh viên trong thời đại công nghệ số. (ii) Các NHTM cần tích cực hơn nữa, chủ động làm việc quyết liệt hơn nữa với các trường học, các trường đại học, bệnh viện, trạm thu phí giao thông, trạm đăng kiểm xe cơ giới, công ty du lịch, công ty xăng dầu, công ty viễn thông, công ty điện lực, công ty nước sạch, bến xe, siêu thị, truyền hình cáp… để phát triển mạng lưới POS, chấp nhận thanh toán điện tử; nhưng cũng kịp thời phát hiện những hành vi thu phí thanh toán thẻ, cố tình trây ỳ không chịu chấp nhận dịch vụ thanh toán thẻ, thanh toán điện tử... để thông tin cơ quan quản lý nhà nước có biện pháp xử lý kiên quyết trong không thực hiện chủ trương phát triển thanh toán không dùng tiền mặt của Chính phủ. Kiểm toán Nhà nước/Bộ Tài chính chỉ đạo, quyết định, hay trình cấp có thẩm quyền tiến hành kiểm toán một số bệnh viện công, trường đại học công, trường đào tạo khác thuộc mô hình hưởng thu ngân sách nhà nước trong tuân thủ báo cáo kế toán, nhất là trong điều kiện nhiều vụ việc trong mua sắm và đấu thầu thiết bị y tế, thuốc, hóa chất y tế, sách và thiết bị dạy học ở nhiều địa phương trong thời gian qua. Đồng thời, mở rộng kiểm toán tại một số lĩnh vực xăng dầu, nước sạch. Bộ Công Thương thanh tra và kiểm tra các doanh nghiệp và hộ kinh doanh về chấp hành 390
  8. CHẤT LƯỢNG ĐÀO TẠO ĐẠI HỌC CHÍNH QUY TRONG BỐI CẢNH CHUYỂN ĐỔI SỐ các quy định có liên quan trong hoạt động kinh doanh thương mại điện tử, chấp hành quy định hạch toán kế toán và thanh toán không dùng tiền mặt các đơn vị trực thuộc Bộ. (iii) Các NHTM cần chủ động cung cấp thông tin cho các trường đại học đào tạo về tài chính, ngân hàng, quản lý công, thương mại điện tử, kế toán kiểm toán, nắm bắt những sản phẩm và dịch vụ ngân hàng tiện ích mới xuất hiện được sử dụng trong các ngân hàng tại Việt Nam. Song chính các trường đại học cần tăng cường đầu tư ứng dụng công nghệ số vào hoạt động chuyên môn nghiệp vụ của trường mình; tăng cường đầu tư nguồn lực tài chính, đầu tư cho công tác đào tạo lại nguồn nhân lực cho ứng dụng công nghệ số, hoạt động Fintech… trong lĩnh vực quản lý tài chính, trong giảng dạy và đào tạo, tư vấn, kế toán, kiểm toán; bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên môn về lĩnh vực tài chính - ngân hàng, về thanh toán điện tử cho đội ngũ kiểm toán viên, tư vấn thuế, nắm bắt các quy định pháp lý mới nhất về lĩnh vực này. Các NHTM cần đẩy mạnh tuyên truyền, khuyến mại, hướng dẫn việc ứng dụng mã QR thanh toán trên các thiết bị di động và phối hợp với các trường đại học nâng cao chất lượng đào tạo kế toán và kiểm toán có chuyên môn sâu hơn, cập nhật hơn về thanh toán điện tử. (iv) Về phía các bộ, ngành chức năng như: Bộ Tài chính, Bộ Công Thương, Bộ Giao thông vận tải, Bộ Y tế, Bộ GD&ĐT, Bộ Thông tin và Truyền thông… cần rà soát lại và ban hành đủ các quy định đảm bảo tính đồng bộ về chữ ký điện tử, hóa đơn điện tử, giao dịch điện từ, thương mại điện tử, thuế điện tử và hải quan điện tử, giao dịch kho bạc điện tử, phù hợp với các hoạt động thanh toán thẻ, thanh toán điện tử. Các bộ chức năng cần có chính sách bắt buộc chấp nhận thanh toán thẻ, thanh toán điện tử, chuyển khoản đối với các trường đại học, các đơn vị kinh doanh hàng hóa, dịch vụ ở một số lĩnh vực, đặc biệt là lệ phí giao thông đường bộ và đăng kiểm; xăng dầu, học phí, viện phí, cước phí viễn thông, điện lực… Cần có cơ chế ưu đãi như hỗ trợ miễn, giảm, hoàn thuế cho đơn vị chấp nhận thẻ và chủ thẻ. Bộ Giao thông vận tải cần quyết liệt, rút ngắn thời gian thực hiện dự án thu phí tự động không dừng (ETC) đã được phê duyệt, bên cạnh đó, quyết liệt mở rộng thanh toán thẻ qua thu phí đăng kiểm ô tô, phí giao thông đường bộ đối với vé tháng, các loại phí giao thông khác. (v) Bộ Tài chính cần tham mưu và trình cấp có thẩm quyền cho triển khai hệ thống tài khoản quốc tế tại Việt Nam. Bộ Tài chính cần thanh tra một số công ty tư vấn kế toán và kiểm toán về tuân thủ pháp luật, đặc biệt là tư vấn thuế cho các doanh nghiệp. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và các cơ quan chức năng ở Việt Nam cần tham khảo kinh nghiệm của Trung Quốc trong quản lý QR, xây dựng một khuôn khổ pháp lý đầy đủ và đồng bộ cho hoạt động Fintech tại Việt Nam. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cần khẩn trương thúc đẩy sớm việc ra đời văn bản pháp lý về Mobile Money theo chỉ đạo của Chính phủ. (vi) Các trường đại học và học viện có chuyên ngành đào tạo về kinh tế và CNTT, về quản lý công, đặc biệt là về tài chính - ngân hàng, kinh tế đầu tư và quản trị kinh doanh, kế toán và kiểm toán cần thực sự đổi mới đào tạo, gắn đào tạo lý thuyết và thực hành, tăng số giờ thực hành, làm bài tập thực tiến, viết tiểu luận gắn với thực tiến về ngân hàng số, về dịch vụ tài chính điện tử, thanh toán điện tử và kế toán công nghệ số. Cần có các chuyên đề nghiên cứu chuyên sâu, các chủ đề tiểu luận về kế toán và kiểm toán, về báo cáo kế toán và báo cáo kiểm toán trong các lĩnh vực thanh toán điện tử, hoạt động của các công ty trung gian thanh toán và ví điện tử, công ty chứng khoán và công ty tài chính, thuế điện tử và hải quan điện tử… Đồng thời, các trường đại 391
  9. KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA học đào tạo chuyên ngành về kinh tế, CNTT, kỹ thuật phần mềm cần chủ động và tăng cường phối hợp với ngành Ngân hàng, các NHTM, đào tạo và nắm bắt những nghiệp vụ mới về thanh toán điện tử dựa trên công nghệ ngân hàng số và môi trường pháp lý có liên quan, mời chuyên gia về kinh tế, CNTT, kỹ thuật phần mềm được đào tạo trong các trường đại học và thanh toán điện tử của NHTM về thuyết trình các chuyên đề chuyên sâu cho giảng viên và sinh viên. (vii) Cần đẩy nhanh tiến độ xây dựng và mở rộng phạm vi Chính phủ điện tử, chính quyền điện tử, đẩy nhanh tiến độ thay thế sổ hộ khẩu thay bằng dữ liệu cá nhân điện tử, tiến độ gắn chip điện tử trên căn cước công dân, kết nối với cơ sở dữ liệu về đào tạo đại học trong tất cả các trường đại học. Dựa trên nền tảng này, ứng dụng cấp bằng tốt nghiệp đại học điện tử, tra soát tự động việc cấp bằng và cấp chứng chỉ của người được đào tạo cũng như dữ liệu lịch sử của người học trong các trường đại học. Chính phủ cần chỉ đạo triển khai Visa điện tử, thẻ Bảo hiểm y tế điện tử, cấp bằng đại học điện tử; Sổ lương hưu điện tử, rà soát quy định về thương mại điện tử, chứng từ điện tử. Chính phủ chỉ đạo triển khai đồng bộ, hiệu quả hoạt động Mobile Money theo Quyết định 316/QĐ-TTg ngày 9/3/2021 của Thủ tướng Chính phủ. (viii) Chính phủ chỉ đạo tất cả các dịch vụ công trong tất cả các lĩnh vực, từ các trung tâm giao dịch một cửa của các cấp chính quyền, các sở, ban ngành, đến các đơn vị cung ứng dịch vụ công bắt buộc phải trang bị các thiết bị thanh toán không dùng tiền mặt, thực hiện thanh toán không dùng tiền mặt. Cần đẩy nhanh và kiên quyết trong ứng dụng công nghệ thu phí không dừng trên các trạm thu phí đường bộ, không dùng tiền mặt tại các trạm đăng kiểm phương tiện cơ giới và các điểm bán lẻ xăng dầu trong toàn quốc. Các trường đại học cũng nhanh chóng áp dụng mô hình giao dịch một cửa trong xử lý các thủ tục hành chính đối với sinh viên, cán bộ giảng dạy, đội ngũ cán bộ và nhân viên nói chung. (ix) Các NHTM cần triển khai đồng bộ về ngân hàng số: lựa chọn giải pháp kỹ thuật và nhà thầu, đào tạo cán bộ các cấp, rà soát và ban hành đầy đủ các quy định nội bộ, xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật số, tuyên truyền và giới thiệu cho khách hàng. Các NHTM cần tư vấn cho các trường đại học quản lý tài chính có hiệu quả, tối ưu hóa nguồn lực tài chính nhàn rỗi, nâng cao hiệu quả tài chính của trường đại học để tăng cường đầu tư cho công nghệ số. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (2021), Báo cáo của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam gửi Quốc hội, tháng 9/2021, bản cứng. 2. SBV (2021), Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, truy cập tại www.sbv.gov.vn, các mục có liên quan, truy cập từ 11 - 13/9/2021 3. Thebank (2021), truy cập tại: www.thebank.vn: các mục có liên quan; truy cập ngày 26/9/2021 - 2/10/2021. 4. VNBA (2021), Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam, truy cập tại www.vnba.org.vn, các mục có liên quan, thời gian tuy cập từ 11 - 13/9/2021. 392
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
3=>0