intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Nâng cao chất lượng nghiên cứu khoa học của giảng viên trường Đại học Văn hóa Hà Nội

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:6

35
lượt xem
5
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Nội dung bài viết đề cập đến 3 vấn đề cơ bản: Sự cần thiết của nghiên cứu khoa học đối với nâng cao chất lượng đào tạo; thực trạng nghiên cứu khoa học của cán bộ giảng viên nhà trường; một số giải pháp góp phần nâng cao chất lượng nghiên cứu khoa học của giảng viên Trường Đại học Văn hóa Hà Nội.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Nâng cao chất lượng nghiên cứu khoa học của giảng viên trường Đại học Văn hóa Hà Nội

  1. VĂN HÓA NGHIÊN CỨU NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CỦA GIẢNG VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC VĂN HÓA HÀ NỘI CHỬ THỊ THU HÀ Tóm tắt Đại học Văn hóa Hà Nội là trường đại học lớn nhất của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch. Trong 60 năm qua, Trường không chỉ đào tạo cho đất nước hàng chục nghìn cán bộ văn hóa, mà còn có nhiều đóng góp trong công tác nghiên cứu văn hóa, tham gia hoạch định chính sách của Nhà nước về văn hóa. Trong bối cảnh phát triển, hội nhập hiện nay, công tác nghiên cứu khoa học của Trường cần đẩy mạnh hơn nữa, vì nó có ý nghĩa quan trọng trong việc nâng cao chất lượng đào tạo và là một thước đo khẳng định thương hiệu của nhà trường. Nội dung bài viết đề cập đến 3 vấn đề cơ bản: Sự cần thiết của nghiên cứu khoa học đối với nâng cao chất lượng đào tạo; thực trạng nghiên cứu khoa học của cán bộ giảng viên nhà trường; một số giải pháp góp phần nâng cao chất lượng nghiên cứu khoa học của giảng viên Trường Đại học Văn hóa Hà Nội. Từ khóa: Đại học Văn hóa Hà Nội, nghiên cứu khoa học, giảng viên Abstract Hanoi University of Culture (HUC) is one of the largest universities under the Ministry of Culture, Sports and Tourism. In the past 60 years, the university has not only trained tens of thousands of cultural cadres for the country, but also contributed to cultural research activities, participated in making the State’s policy on culture. In the current context of development and integration, the scientific research of the University needs to be further promoted, because it has an important meaning in improving the quality of training and is a measure of affirming the brand name of the University. The article mentions 3 basic issues: The necessity of scientific research on improving the quality of training; the current status of scientific research of HUC’s lecturers; some solutions to improving the quality of scientific research of HUC’ lecturers. Keywords: Hanoi University of Culture, scientific research, lecturers 1. Sự cần thiết của nghiên cứu khoa học đối hai nhiệm vụ giảng dạy và nghiên cứu khoa với nâng cao chất lượng đào tạo bậc đại học học (NCKH). Trong đó, hoạt động NCKH có ý D anh ngôn có câu “Một gánh sách nghĩa quan trọng, giúp giảng viên luôn cập không bằng một người thầy giỏi” nhật, trau dồi, mở rộng kiến thức và kỹ năng nhằm khẳng định tầm quan trọng để phục vụ tốt hơn cho công tác giảng dạy. của người thầy trong sự nghiệp giáo dục đào Qua nghiên cứu, giảng viên mới có cơ hội tạo. Đối với giáo dục đại học, vai trò của người cập nhật kiến thức, sáng tạo tri thức. Nói tóm thầy lại càng quan trọng bởi ảnh hưởng đến lại, NCKH không chỉ giúp nâng cao trình độ chất lượng nguồn nhân lực cho xã hội mai sau. chuyên môn cho giảng viên, đáp ứng đòi hỏi Người thầy ở đại học không chỉ làm tốt nhiệm ngày càng cao của xã hội đối với nghề dạy học, vụ truyền đạt kiến thức như các cấp học khác, mà hơn thế, thành tích NCKH của giảng viên mà còn phải là một nhà khoa học, là chuyên sẽ là thước đo năng lực chuyên môn của họ, gia về lĩnh vực mà mình giảng dạy. Nói cách khẳng định chỗ đứng của họ trong trường đại khác, giảng viên đại học cần thực hiện tốt cả học và trong giới khoa học; đồng thời là tấm 18 Số 27 - Tháng 3 - 2019
  2. Số chuyên đề Kỷ niệm 60 năm thành lập Trường ĐHVHHN gương cho sinh viên noi theo về năng lực sáng bộ giảng viên mà rộng hơn, nó quyết định đến tạo khoa học, tinh thần tự học, tự nghiên cứu chất lượng đào tạo, uy tín và sự phát triển của và đào tạo suốt đời. nhà trường trong tương lai. Cũng như mọi trường đại học trên cả nước 2. Thực trạng nghiên cứu khoa học của và quốc tế, Trường Đại học Văn hóa Hà Nội song giảng viên Trường Đại học Văn hóa Hà Nội song thực hiện hai chức năng cơ bản là đào Nhận thức được tầm quan trọng của NCKH tạo và NCKH. Với 60 năm xây dựng và trưởng đối với việc nâng cao chất lượng đào tạo, trong thành, Trường Đại học Văn hóa Hà Nội đến thời gian qua Trường Đại học Văn hóa Hà Nội nay đã có 12 Khoa cơ bản, đào tạo và nghiên đã đẩy mạnh công tác NCKH. Hoạt động NCKH cứu chuyên sâu về mọi lĩnh vực văn hóa như: được triển khai dưới nhiều hình thức đa dạng Quản lý văn hóa nghệ thuật; Di sản văn hóa; và phong phú như: Tổ chức nhiều hội nghị, Xuất bản, phát hành; Thông tin, Thư viện; Văn hội thảo khoa học có quy mô cấp Khoa, cấp hóa dân tộc thiểu số; Du lịch; Văn hóa học; Viết Trường, cấp Bộ, cấp Quốc gia và Quốc tế; văn, Báo chí; Ngôn ngữ và văn hóa quốc tế; triển khai các đề tài NCKH cấp Trường, cấp Gia đình và công tác xã hội; Kiến thức cơ bản; Bộ; Trường có riêng một tạp chí nghiên cứu Luật. Bên cạnh đó còn có Viện Văn hóa là đơn chuyên ngành là Tạp chí Nghiên cứu Văn hóa vị chuyên sâu về NCKH (được định hướng là đạt chuẩn ISSN - Đây là một diễn đàn uy tín viện chiến lược trong NCKH của trường). Nhà để công bố các công trình nghiên cứu về lĩnh trường luôn xác định sứ mệnh là nơi đào tạo, nghiên cứu khoa học hàng đầu trong lĩnh vực vực văn hóa, nghệ thuật không chỉ cho cán văn hóa ở Việt Nam. Và tầm nhìn mà Trường bộ giảng viên trong Trường mà còn cho các hướng đến là cơ sở đào tạo, NCKH đa ngành, nhà khoa học trong và ngoài nước. Bên cạnh đa cấp về khoa học xã hội nhân văn, được xếp đó, Nhà trường còn chú trọng biên soạn giáo hạng ngang tầm với các đại học tiên tiến trong trình, sách tham khảo, tập bài giảng làm tài khu vực châu Á. liệu học tập cho sinh viên… Rõ ràng, để thực hiện được sứ mệnh và tầm Giảng viên Trường Đại học Văn hóa Hà Nội nhìn chiến lược trên, đặc biệt trong xu thế cạnh luôn ý thức rõ về hai nhiệm vụ cơ bản phải tranh ngày càng gay gắt giữa các cơ sở đào tạo hoàn thành là giảng dạy và NCKH. Trong các nguồn nhân lực về văn hóa, việc nâng cao chất hội nghị quan trọng hàng năm, Đảng ủy và lượng đào tạo của Trường Đại học Văn hóa Hà Ban Giám hiệu luôn nhấn mạnh tầm quan Nội cần được chú trọng hàng đầu, trong đó trọng của công tác NCKH đối với việc nâng cao đặc biệt quan tâm phát triển công tác NCKH trình độ chuyên môn của cán bộ, giảng viên và của đội ngũ cán bộ, giảng viên trong Trường. chất lượng đào tạo của nhà trường. Đồng thời, Bởi, NCKH giúp nâng cao trình độ chuyên môn bộ phận phụ trách công tác NCKH của Trường của giảng viên và chất lượng đội ngũ giảng luôn đôn đốc giảng viên các khoa chuyên viên sẽ quyết định chất lượng đào tạo. Và hơn ngành hoàn thành nhiệm vụ NCKH hàng năm, thế, trong xu thế quốc tế hóa giáo dục đại học động viên họ mạnh dạn tham gia thực hiện hiện nay, một trong những yếu tố quan trọng đề tài NCKH các cấp. Hầu hết cán bộ, giảng quyết định thứ hạng của các trường đại học là viên nhà trường đều hoàn thành và vượt định ở thành tích NCKH của cán bộ, giảng viên. Mà mức giờ NCKH hàng năm. Một số giảng viên thứ hạng sẽ quyết định đến thương hiệu, uy có trình độ chuyên môn cao còn tích cực tham tín và thậm chí là sự sống còn của nhà trường. gia hướng dẫn NCKH cho sinh viên, học viên, Như vậy, công tác NCKH không chỉ gắn với nghiên cứu sinh cả trong và ngoài trường. nâng cao năng lực chuyên môn của mỗi cán Chất lượng các công trình NCKH do giảng viên Số 27 - Tháng 3 - 2019 VĂN HÓANGHIÊN CỨU 19
  3. VĂN HÓA NGHIÊN CỨU Trường Đại học Văn hóa Hà Nội thực hiện nhìn tỉnh, cấp thành phố. Bình quân mỗi năm học, chung được đánh giá tốt, có giá trị thực tiễn. toàn khoa có trên một chục đầu sách mới và Ngoài ra, Nhà trường còn có một chiến lược trên 100 bài nghiên cứu đăng trên các tạp chí dài hạn về đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ giảng khoa học trong nước và quốc tế (7)). Cho đến viên, đặc biệt giảng viên trẻ để đảm bảo sự nay, cán bộ giảng viên Trường Đại học Văn hóa chuyển tiếp liên tục, vững chắc giữa các thế Hà Nội chưa có công trình NCKH độc lập cấp hệ giảng viên trong Trường. Lãnh đạo nhà Nhà nước, số lượng bài báo đăng tạp chí quốc trường có chính sách đãi ngộ để khuyến khích tế chỉ đếm trên đầu ngón tay, số lượng bài báo và tạo điều kiện thuận lợi cho cán bộ, giảng đăng trên các tạp chí chuyên ngành uy tín viên học tập lên trình độ cao hơn như thạc sĩ, ngoài Trường còn ít… Có thể thấy, thành tích tiến sĩ; tham gia các lớp bồi dưỡng ngắn hạn trong hoạt động NCKH của cán bộ giảng viên về lý luận chính trị, chuyên môn nghiệp vụ nhà trường còn chưa tương xứng với vị thế và sư phạm, ngoại ngữ, tin học… Tính đến cuối tiềm năng vốn có, chưa đủ tầm để khẳng định tháng 12 năm 2018, toàn trường có 263 cán bộ và làm nên thương hiệu của Trường Đại học viên chức, trong đó có 145 giảng viên. Về trình Văn hóa Hà Nội trong xu hướng quốc tế hóa độ, có 57 tiến sĩ (trong đó có 13 phó giáo sư), giáo dục đại học hiện nay. 138 thạc sĩ, 50 cử nhân và 18 trình độ khác1. Sự hạn chế này theo suy nghĩ chủ quan của Như vậy, hơn 70% số lượng cán bộ, giảng viên người viết có thể bắt nguồn từ một số nguyên nhà trường đã có trình độ trên đại học. Đây là nhân cơ bản sau: một thế mạnh của Trường Đại học Văn hóa Hà Trước hết, do nhận thức và ý thức của mỗi Nội. Đội ngũ cán bộ, giảng viên có học hàm, giảng viên. Mặc dù giảng viên nào cũng nắm học vị được coi là trụ cột trong công tác NCKH rõ hai nhiệm vụ cơ bản phải hoàn thành là và quyết định thành công chiến lược đổi mới giảng dạy và NCKH, nhưng thực tế, hầu hết chất lượng đào tạo của nhà trường, đáp ứng giảng viên vẫn coi nhiệm vụ giảng dạy là chính yêu cầu ngày càng cao về chất lượng giáo dục và NCKH là phụ. Dường như trong suy nghĩ đại học trong thời kỳ hội nhập. của không ít giảng viên, công việc giảng dạy Tuy nhiên, dù đã có nhiều cố gắng nhưng “không ngại” bằng NCKH và đem lại nguồn thu những thành tích trong hoạt động nghiên cứu nhập tăng thêm dễ dàng hơn. Có những giảng khoa học mà tập thể cán bộ giảng viên nhà viên thừa hàng trăm, thậm chí nghìn giờ đứng trường đạt được trong 5 năm qua (2012 - 2017) lớp nhưng lại thiếu giờ NCKH. Điều này là thực vẫn còn khiêm tốn. Hơn 500 bài đăng trên các tế bởi NCKH đòi hỏi trình độ tư duy cao hơn tạp chí ngành và chuyên ngành trong nước có giảng dạy vì cần tìm tòi cái mới và sáng tạo. chỉ số ISSN, hơn 700 bài tham luận công bố Mà cái mới và sáng tạo trong tư duy của nhà tại các hội thảo khoa học trong nước và quốc khoa học chỉ được phát hiện bằng trải nghiệm tế, xuất bản hơn 120 giáo trình, sách chuyên thực tế và suy ngẫm. Chính vì vậy, đối với khảo, tham khảo, 10 đề tài NCKH cấp Bộ, gần nhiều chuyên ngành đào tạo của Trường Đại 90 đề tài NCKH và đề tài giáo trình cấp Trường2 học Văn hóa Hà Nội, muốn triển khai NCKH thì là thành quả đáng ghi nhận nhưng vẫn là nhỏ phải đi thực địa. Điều tra thực địa là công đoạn bé so với nhiều trường đại học trên cả nước (Ví rất quan trọng cho một nghiên cứu nhưng lại dụ: Khoa Sử Trường Đại học Khoa học Xã hội và vất vả cho người nghiên cứu bởi họ phải đến nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội trong thời một nơi xa lạ, thậm chí thiếu thốn để thu thập gian từ 1996 đến 2006 đã có 10 đề tài khoa học tư liệu không có trong sách vở. Lấy ví dụ đối cấp Nhà nước; hàng chục đề tài cấp bộ, cấp với giảng viên Khoa Văn hóa dân tộc thiểu 20 Số 27 - Tháng 3 - 2019
  4. Số chuyên đề Kỷ niệm 60 năm thành lập Trường ĐHVHHN số, muốn triển khai NCKH về văn hóa các tộc nhiều cố gắng nâng cao mức kinh phí cho hoạt người thì đòi hỏi giảng viên phải đi thực địa ở động NCKH như: tăng kinh phí cho đề tài NCKH những vùng miền núi xa xôi. Sự thử thách về cấp Trường, đề tài giáo trình; Đặc biệt, những môi trường, khí hậu, điều kiện đi lại, ăn, ở, vệ bài đăng tạp chí khoa học quốc tế trong danh sinh, ngôn ngữ, kiêng kỵ tộc người,… sẽ tạo ra mục ISI, SCOPUS, bài viết trong sách chuyên những “cú sốc văn hóa” mà không phải ai cũng khảo xuất bản ở nước ngoài có chỉ số ISBN, bài dễ vượt qua. Vì vậy, tâm lý “ngại khó, ngại khổ” đăng kỷ yếu hội thảo quốc tế (ngoài nước),... là nguyên nhân đầu tiên dẫn đến thực trạng được Nhà trường vinh danh, khuyến thưởng nhiều giảng viên “ngại” NCKH. với số tiền lên đến 30 triệu đồng/1 bài và hỗ Thứ hai, khó khăn trong bố trí thời gian trợ kinh phí ăn ở, đi lại cho các tác giả được mời NCKH. Như đã phân tích, để có được một công trình bày báo cáo trong hội thảo; Nhà trường trình NCKH (từ một bài tham luận hội thảo, cũng khuyến khích các khoa chuyên ngành tổ bài nghiên cứu đăng trên tạp chí cho đến một chức hội thảo khoa học cấp Khoa để nâng cao công trình NCKH cấp Trường, cấp Bộ) là một chất lượng đào tạo... Dù đã có nhiều hình thức sự đầu tư lớn của giảng viên không chỉ về chất khích lệ như trên nhưng dường như chưa đủ xám mà còn mất nhiều thời gian và công sức để tạo ra động lực khuyến khích nhiều giảng cho thực địa, xử lý tư liệu, viết bài… Trong khi viên NCKH. Cụ thể, nhuận bút cho một bài đó, định mức giảng dạy tối thiểu giảng viên nghiên cứu đăng trên tạp chí Nghiên cứu Văn phải hoàn thành là 270 giờ/năm. Bên cạnh đó, hóa trung bình là 500.000 đồng trong khi giảng cơ chế tự chủ, sự tinh gọn bộ máy cán bộ, áp viên phải mất tối thiểu 5 đến 10 ngày mới có lực đảm bảo chương trình kế hoạch đào tạo thể hoàn thành. Kinh phí thực hiện đề tài NCKH và nhu cầu có thêm thu nhập đã đưa số giờ học cấp Trường là 30 triệu đồng, nếu trừ chi phí thực dạy của nhiều giảng viên cao hơn gấp thực địa, in ấn, thù lao bồi dưỡng cho chuyên đôi, thậm chí gấp ba so với định mức. Như gia thẩm định… thì số tiền mà tác giả đề tài vậy, khi phần lớn thời gian và công sức được nhận được không đáng là bao. Đề tài NCKH cấp giảng viên dành cho giảng dạy thì tất yếu quỹ Bộ có nguồn kinh phí lớn hơn, khoảng vài trăm thời gian dành cho NCKH bị co hẹp. Bên cạnh triệu đồng nhưng không phải giảng viên nào đó, với đặc điểm chương trình đào tạo theo cũng có khả năng thực hiện. học chế tín chỉ hiện nay, giảng viên dạy 2 - 3 Thứ tư, nguyên nhân cơ bản nhất vẫn là sự môn thường có giờ lên lớp rải đều cả hai kỳ tự ti của giảng viên, đặc biệt là giảng viên trẻ học, cộng với nhiều công tác khác của khoa, về năng lực, phương pháp, kinh nghiệm trong trường như quản lý sinh viên, coi thi, chấm NCKH. Mặc dù đa số giảng viên của Trường thi,… nên họ khó chủ động về thời gian cho đều là thạc sĩ, nghiên cứu sinh, tiến sĩ, nhưng kế hoạch thực địa và NCKH. Vô hình trung, áp với không ít người, có lẽ luận văn, luận án là lực giảng dạy và định mức NCKH phải hoàn công trình khoa học lớn nhất, thậm chí là duy thành đã dẫn đến thực trạng nhiều giảng viên nhất mà họ đã thực hiện từ trước đến nay. Vì làm NCKH theo kiểu đối phó cho đủ định mức không nghiên cứu nhiều nên họ chưa đủ tự tin mà ít chú trọng đến chất lượng khoa học của để mạnh dạn đăng ký đề tài khoa học độc lập. sản phẩm. Cứ như vậy, không dám làm, ít làm thì càng ít Thứ ba, một nguyên nhân khác, tế nhị kinh nghiệm; năng lực, kỹ năng không được nhưng thực tế là vấn đề kinh phí cấp cho hoạt trau dồi; càng để lâu càng ngại, càng trì trệ và động NCKH vẫn còn khiêm tốn. Trong vài năm tất yếu sẽ bị thụt lùi, lạc hậu về mặt chuyên gần đây, Trường Đại học Văn hóa Hà Nội đã có môn. Thêm nữa, trong bối cảnh toàn cầu hóa Số 27 - Tháng 3 - 2019 VĂN HÓA NGHIÊN CỨU 21
  5. VĂN HÓA NGHIÊN CỨU và hội nhập, sự hạn chế về năng lực ngoại ngữ cao, đồng thời trở thành trung tâm nghiên cứu của cán bộ, giảng viên Trường Đại học Văn hóa về văn hóa nghệ thuật uy tín của đất nước và Hà Nội đang là một thách thức lớn cho nhà khu vực. Để thực hiện được mục tiêu đó, Nhà trường trong việc gia tăng số lượng các báo trường cần có chiến lược cụ thể về công tác cáo tham gia hội thảo khoa học quốc tế, bài NCKH; đưa nhiệm vụ nâng cao chất lượng, hiệu nghiên cứu đăng trên các tạp chí nước ngoài quả NCKH của giảng viên vào trong phương uy tín, đấu thầu các đề tài, dự án nghiên cứu hướng, kế hoạch cụ thể trong từng năm học của các tổ chức phi chính phủ nước ngoài… của Trường; có những quy định cụ thể để vừa 3. Một số giải pháp nâng cao chất lượng tạo cơ chế bắt buộc, đồng thời khích lệ cán bộ giảng viên đẩy mạnh hoạt động NCKH (ví dụ: nghiên cứu khoa học của giảng viên khen thưởng những giảng viên đạt thành tích Trước hết, cần nâng cao nhận thức cho NCKH tốt; cho phép quy đổi tỷ lệ nhất định giờ toàn thể cán bộ, giảng viên Trường Đại học NCKH sang giờ giảng để tính tiền vượt giờ cho Văn hóa Hà Nội về vị trí, vai trò của NCKH đối giảng viên…). Đối với những luận án tiến sĩ với việc nâng cao trình độ chuyên môn của của cán bộ, giảng viên trong trường đã bảo vệ giảng viên và đảm bảo chất lượng đào tạo của thành công, Nhà trường nên hỗ trợ để in thành nhà trường. Nếu như chất lượng đào tạo là yếu sách tham khảo nhằm ghi nhận những đóng tố quyết định sự sống còn của nhà trường thì góp khoa học của họ và gia tăng thành tích nâng cao chất lượng NCKH của giảng viên là NCKH của Trường. biện pháp quan trọng để thực hiện thắng lợi Để phát huy tối đa hiệu quả các công trình công cuộc đổi mới giáo dục đó. Rõ ràng, vấn NCKH của giảng viên cho việc nâng cao năng đề đầu tiên phải xuất phát từ nhận thức của lực chuyên môn và chất lượng giảng dạy, Nhà mỗi giảng viên. Quan trọng là phải biến nhận trường nên định hướng các đề tài nghiên cứu thức, ý tưởng thành hành động, thành kết quả của giảng viên gắn với chuyên ngành đào tạo cụ thể. Trước hết, mỗi giảng viên cần vượt qua và lĩnh vực giảng dạy của giảng viên. Các khoa chính mình, vượt qua sự tự ti, không ngại khó, chuyên ngành, cá nhân mỗi giảng viên cũng ngại khổ để “dấn thân” trên con đường NCKH. cần mạnh dạn đề xuất những ý tưởng nghiên “Miếng lương khô” là nội dung luận văn, luận cứu mà khoa và giảng viên quan tâm, nhưng án “ăn mãi” cũng hết. Bài giảng không được thiết nghĩ nếu đề tài nghiên cứu được triển cập nhật, bổ sung kiến thức thường xuyên sẽ khai ở địa phương nào thì cần có sự tham góp, trở nên lỗi thời, nhàm chán với người học. Vì xác nhận của cơ quan chức năng địa phương vậy, mỗi giảng viên hãy nỗ lực, cố gắng phấn đó về tính cấp thiết của đề tài và tăng tính đấu để ngày càng hoàn thiện hơn về năng lực ứng dụng của đề tài sau khi được nghiệm thu chuyên môn bằng sự say mê NCKH và lòng tự thành công. Quy định này có thể là khó cho cá trọng nghề nghiệp của mình. nhân, đơn vị nghiên cứu nhưng nó tránh được Tuy nhiên, nhận thức và ý thức tự giác của sự lãng phí về công sức, tài chính, đem lại lợi mỗi giảng viên thôi chưa đủ, mà cần có sự ích thiết thực cho đối tượng và địa bàn nghiên định hướng, chỉ đạo, tạo điều kiện, động viên, cứu. Tuy nhiên, những dạng đề tài đó cần được khuyến khích từ Đảng ủy và Ban Giám hiệu sự hỗ trợ kinh phí nghiên cứu của địa phương nhà trường trong hoạt động NCKH. Nhiệm vụ thụ hưởng kết quả của đề tài. NCKH cần được đặt vị trí quan trọng ngang Việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, giảng viên bằng và song hành với nhiệm vụ đào tạo, trẻ của nhà trường là rất cần thiết để đảm bảo phấn đấu để Trường Đại học Văn hóa Hà Nội chất lượng của đội ngũ kế cận. Vì vậy, ngoài vừa là nơi đào tạo nguồn nhân lực chất lượng việc tạo điều kiện về thời gian và vật chất 22 Số 27 - Tháng 3 - 2019
  6. Số chuyên đề Kỷ niệm 60 năm thành lập Trường ĐHVHHN cho giảng viên trẻ đi nghiên cứu thực tế, Nhà Chú thích trường cần có cơ chế khuyến khích các giảng 1 Số liệu do bộ phận Tổ chức cán bộ, Phòng viên có học hàm, học vị cao của trường hướng Hành chính, Tổng hợp - Trường Đại học Văn hóa dẫn, kèm cặp các giảng viên trẻ trong lĩnh vực Hà Nội cung cấp, ngày 31/12/2018. NCKH. Ví dụ: cho họ tham gia cùng viết giáo 2 Số liệu do bộ phận Quản lý khoa học, Phòng trình, cùng làm thành viên đề tài NCKH cấp Bộ Đào tạo, Quản lý khoa học và Hợp tác quốc tế, để họ được làm quen và học hỏi về phương Trường Đại học Văn hóa Hà Nội cung cấp, ngày pháp nghiên cứu. Tăng cường tổ chức các buổi 22/11/2018. hội thảo, tập huấn để nâng cao năng lực NCKH của giảng viên, đặc biệt là giảng viên trẻ. Tăng Tài liệu tham khảo cường vai trò hoạt động của Câu lạc bộ các 1. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2005), Quyết định nhà nghiên cứu trẻ; khuyến khích thành lập các số 19/2005/QĐ-BGD&ĐT ngày 15 tháng 6 năm nhóm nghiên cứu chuyên sâu do những nhà 2005 về việc ban hành Quy định về hoạt động khoa khoa học dày dạn kinh nghiệm phụ trách, tư học công nghệ trong các trường đại học, cao đẳng vấn, chú trọng dìu dắt và đào tạo các giảng trực thuộc Bộ Giáo dục và Đào tạo. viên trẻ được tham gia các nhóm nghiên cứu 2. Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa này. Tăng cường phát huy vai trò của Viện Việt Nam (2010), Chỉ thị 296/CT-TTg ngày 27 tháng Văn hóa trong việc tìm kiếm, đấu thầu đề tài 02 năm 2010 về đổi mới quản lý giáo dục đại học giai đoạn 2010 - 2020. nghiên cứu và cần có cơ chế phối hợp nghiên 3. Đại học Quốc gia Hà Nội, Trường Đại học cứu giữa các khoa chuyên ngành, giữa Viện Khoa học xã hội và Nhân văn (2006), Khoa Lịch Văn hóa và các khoa để nâng cao chất lượng sử nửa thế kỷ xây dựng và phát triển (1956 - 2006), chuyên môn và kinh nghiệm nghiên cứu cho Nxb. Thế giới, Hà Nội. đội ngũ giảng viên. Chú trọng đào tạo, nâng 4. http://www.huc.edu.vn cao trình độ ngoại ngữ cho cán bộ, giảng viên 5. http://www.nhandan.com.vn/giaoduc/item trong trường đồng thời tạo ra môi trường để /33985202-thuc-trang-nghien-cuu-khoa-hoc- trau dồi, phát huy năng lực ngoại ngữ cho cán trong-cac-truong-dai-hoc.html bộ, giảng viên… 6. https://www.vnu.edu.vn/ttsk/?C1654/N17540/ Trên đây là một vài ý kiến chủ quan của Bon-giai-phap-thuc-day-nghien-cuu-khoa-hoc. người viết với mong muốn góp phần nâng htm cao hơn nữa chất lượng NCKH của đội ngũ 7. Khoa lịch sử 50 năm xây dựng và phát triển, cán bộ, giảng viên Trường Đại học Văn hóa Hà in trong cuốn “Khoa Lịch sử nửa thế kỷ xây dựng Nội. Người viết tin tưởng rằng, dưới sự lãnh và phát triển (1956 - 2006)”, Nxb. Thế giới, 2006. đạo của Đảng ủy, sự quan tâm sâu sắc của Ban Giám hiệu nhà trường, cùng với sự nỗ lực phấn Ngày nhận bài: 30 - 11 - 2018 đấu của mỗi cán bộ giảng viên thì chắc chắn Ngày phản biện, đánh giá: 13 - 3 - 2019 hoạt động NCKH của đội ngũ cán bộ, giảng Ngày chấp nhận đăng: 20 - 3 - 2019 viên nhà trường sẽ ngày càng phát triển; cùng phấn đấu để Trường Đại học Văn hóa Hà Nội mãi là đơn vị đầu ngành trong đào tạo nguồn nhân lực văn hóa chất lượng cao cho cả nước. C.T.T.H (TS., Khoa Văn hóa dân tộc thiểu số, Trường ĐHVHHN) Số 27 - Tháng 3 - 2019 VĂN HÓA NGHIÊN CỨU 23
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2