intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Nâng cao chất lượng nghiên cứu khoa học - yếu tố quan trọng để thực hiện tự chủ đại học trong giai đoạn hiện nay

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:7

7
lượt xem
1
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết trình bày khái quát chung về nghiên cứu khoa học và nghiên cứu khoa học ở cơ sở giáo dục đại học; vai trò hoạt động nghiên cứu khoa học ở các cơ sở giáo dục đại học; đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả chất lượng nghiên cứu khoa học - yếu tố quan trọng để các cơ sở giáo dục đại học thực hiện tự chủ trong giai đoạn hiện nay.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Nâng cao chất lượng nghiên cứu khoa học - yếu tố quan trọng để thực hiện tự chủ đại học trong giai đoạn hiện nay

  1. NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG NGHIÊN CỨU KHOA HỌC - YẾU TỐ QUAN TRỌNG ĐỂ THỰC HIỆN TỰ CHỦ ĐẠI HỌC TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY Trần Thị Thủy 1 1. Khoa Khoa học quản lý, Trường Đại học Thủ Dầu Một TÓM TẮT Cùng với hoạt động đào tạo, ở trường đại học nghiên cứu khoa học là một trong những nhiệm vụ quan trọng. Giảng viên và sinh viên ở các cơ sở giáo dục đại học ngoài nhiệm vụ chính là giảng dạy, học tập, còn phải tham gia nghiên cứu khoa học nhằm góp phần nâng cao chất lượng đào tạo. Bài viết trình bày khái quát chung về nghiên cứu khoa học và nghiên cứu khoa học ở cơ sở giáo dục đại học; vai trò hoạt động nghiên cứu khoa học ở các cơ sở giáo dục đại học; đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả chất lượng nghiên cứu khoa học - yếu tố quan trọng để các cơ sở giáo dục đại học thực hiện tự chủ trong giai đoạn hiện nay. Từ khóa: chất lượng, nghiên cứu khoa học, tự chủ đại học. 1. MỞ ĐẦU Nghiên cứu khoa học là lĩnh vực hoạt động quan trọng luôn được Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm. Đối với các cơ sở giáo dục đại học, nghiên cứu khoa học là một trong những nhiệm vụ quan trọng và cơ bản, không chỉ nâng cao chất lượng giảng dạy của giảng viên và học tập của sinh viên, mà còn gắn liền quá trình đào tạo với thực tiễn xã hội. Những kết quả của hoạt động nghiên cứu khoa học là một trong những yếu tố góp phần quan trọng để nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, giúp các cơ sở giáo dục đại học thực hiện có hiệu quả tự chủ. Để hoạt động nghiên cứu khoa học… đáp ứng yêu cầu tự chủ dại học trong các cơ sở….cần hực hiện đồng bộ các giải pháp… 2. NỘI DUNG 2.1. Khái quát chung về nghiên cứu khoa học và nghiên cứu khoa học ở cơ sở giáo dục đại học Nghiên cứu khoa học được hiểu là một hoạt động xã hội, hướng vào việc tìm kiếm, xem xét, điều tra, thử nghiệm, dựa trên những số liệu, tài liệu, kiến thức… nhằm phát hiện ra những cái mới về bản chất sự vật, về thế giới tự nhiên và xã hội để sáng tạo phương pháp và phương tiện kỹ thuật cao hơn, giá trị hơn. Nghiên cứu khoa học là khái niệm có nội hàm rất phong phú, tùy theo mục đích nghiên cứu và cách tiếp cận có thể xem xét định nghĩa nghiên cứu khoa học ở các góc độ khác nhau. Tác giả 793
  2. Hoàng Phê quan niệm nghiên cứu khoa học là “sự tìm kiếm những điều mà khoa học chưa biết; hoặc là phát hiện bản chất sự vật, phát triển nhận thức khoa học về thế giới; hoặc là sáng tạo phương pháp mới và phương tiện kỹ thuật mới để làm biến đổi sự vật phục vụ cho mục tiêu hoạt động của con người” (Hoàng Phê, 2012). Theo tác giả Phạm Viết Vượng, nghiên cứu khoa học là “quá trình khám phá bằng cách tác động vào đối tượng, làm cho nó bộc lộ bản chất của mình. Kết quả, tác động đó cho ta tri thức về đối tượng, vậy là ta có khái niệm về đối tượng” (Phạm Việt Vương, 1997). Tác giả Ngô Đình Qua cho rằng, nghiên cứu khoa học là “một hoạt động có hệ thống nhằm khám phá, phát triển và kiểm chứng những kiến thức mới mẻ” (Ngô Đình Qua, 2013). Như vậy, nghiên cứu khoa học là công việc của nhà nghiên cứu chuyên nghiệp, là hoạt động sáng tạo của các nhà khoa học nhằm nhận thức thế giới, tạo ra hệ thống tri thức có giá trị sử dụng để cải tạo thế giới. Thực chất của nghiên cứu khoa học là hướng vào khám phá các sự kiện, phát hiện các quy luật phát triển của hiện thực. Những tri thức này có ý nghĩa to lớn, bởi lẽ, nó hướng tới phục vụ trực tiếp cho cuộc sống con người. Mục đích của nghiên cứu khoa học là nhằm khám phá, tìm tòi bản chất và quy luật vận động của thế giới, tạo ra thông tin mới, để ứng dụng chúng vào sản xuất vật chất hay tạo ra những giá trị tinh thần nhằm thỏa mãn nhu cầu cuộc sống của con người. Nghiên cứu khoa học không chỉ để nhận thức thế giới, mà còn cải tạo thế giới, phục vụ trực tiếp cho cuộc sống con người. So với các hoạt động khác, hoạt động nghiên cứu khoa học có một số đặc thù như: Nghiên cứu khoa học là loại lao động trí óc mang tính sáng tạo, đi tìm cái chưa biết, tạo ra tri thức mới. Ph.Ăngghen đã viết: “khoa học phải nghiên cứu chính cái mà chúng ta không biết” (C.Mác và Ph.Ăngghen, 2004). Đây chính là điểm cơ bản nhất, căn cứ để phân biệt nghiên cứu khoa học với lao động sản xuất bình thường, tức là lao động sản xuất mang tính lặp đi lặp lại. Ngoài ra, trong nghiên cứu khoa học phải chấp nhận rủi ro. Do nghiên cứu khoa học là lao động mang tính sáng tạo, tìm cái chưa biết, bởi vậy, nghiên cứu có thể thành công và có thể thất bại. Tuy nhiên, trong nghiên cứu khoa học, thất bại cũng được xem là một kết quả và được lưu giữ như một tài liệu quý giá để rút kinh nghiệm và tìm ra nguyên nhân để có giải pháp khắc phục, tránh cho những người nghiên cứu sau khỏi mắc phải những sai sót đó. Đặc biệt, hoạt động nghiên cứu khoa học mang tính chân lý “Không những kết quả của việc nghiên cứu, mà tất cả con đường dẫn tới việc nghiên cứu, cũng phải là chân lý. Bản thân việc nghiên cứu chân lý phải có tính chân lý, sự nghiên cứu thật sự đó là chân lý mở rộng mà những khâu bị tách ra rốt cuộc lại kết hợp làm một” (C.Mác và Ph.Ăngghen, 1995) Đối với các cơ sở giáo dục đại học, bên cạnh nhiệm vụ đào tạo, đội ngũ giảng viên còn có trách nhiệm nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ, kết hợp đào tạo với nghiên cứu khoa học và thực tiễn sản xuất, dịch vụ khoa học - công nghệ. Nội dung nghiên cứu khoa học của giảng viên là nghiên cứu cơ bản, tập trung vào thực hiện các đề án, dự án, nhiệm vụ khoa học và công nghệ; biên soạn giáo trình, sách chuyên khảo, tài liệu tham khảo, tài liệu về đổi mới phương pháp giảng dạy và kiểm tra, đánh giá môn học; công bố kết quả nghiên cứu khoa học trên các Tạp chí khoa học trong và ngoài nước; viết chuyên đề tham luận tại các hội nghị, hội thảo khoa học ở trong và ngoài nước. Tổ chức và tham gia các hội thảo khoa học của khoa, bộ môn, hướng dẫn sinh viên nghiên cứu khoa học; thực hiện các hợp đồng nghiên cứu khoa 794
  3. học, chuyển giao kỹ thuật và công nghệ phục vụ phát triển kinh tế - xã hội. Tổ chức và tham gia các hoạt động hợp tác về khoa học và công nghệ; tham gia các cuộc thi khoa học - kỹ thuật, các hoạt động khác về khoa học và công nghệ các cấp. Đồng thời, tham gia tư vấn xây dựng chính sách và đề xuất các giải pháp thực hiện chính sách phát triển kinh tế - xã hội cho các cấp quản lý, tham gia thẩm định về mặt khoa học - công nghệ cá dự án, các công trình lớn, góp phần đưa các thành t ựu khoa học - công nghệ tiên tiến vào sản xuất đời sống. 2.2. Tự chủ đại học và vai trò của hoạt động nghiên cứu khoa học đối với các cơ sở giáo dục đại học 2.1.1. Khái quát chung về tự chủ đại học Theo Hiệp hội các Trường Đại học và Cao đẳng Việt Nam cho rằng, tự chủ đại học có nghĩa là “một cơ chế đồng bộ và phù hợp để cung cấp cho tổ chức giáo dục đại học, một thực thể pháp lý có mối liên hệ cơ học và thống nhất về quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm và lợi ích trong việc thực hiện nhiệm vụ đối với nghề nghiệp, tổ chức và nguồn nhân lực, phân bổ và sử dụng các nguồn lực… tạo động lực cho phát triển bền vững và hoạt động hiệu quả của cơ sở giáo dục đại học nhằm thực hiện tốt nhất mục đích nâng cao chất lượng giáo dục đại học, đáp ứng yêu cầu phát triển của xã hội và quốc gia và hội nhập quốc tế” (Hiệp hội các trường đại học và cao đẳng Việt Nam, 2017) Như vậy, tự chủ đại học là việc cho phép một cơ sở giáo dục đại học điều hành hoạt động của tổ chức, mà không có sự can thiệp từ bên ngoài. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa cơ sở giáo dục đại học tự chủ nằm ngoài sự kiểm soát của luật pháp và không có sự đầu tư của Nhà nước. Tự chủ đại học, vừa phát huy năng lực nội tại của các cơ sở giáo dục đại học, vừa giảm bớt sự can thiệp trực tiếp của cơ quan công quyền đối với các cơ sở giáo dục đại học. Tự chủ đại học hiện nay rất phổ biến trên thế giới, song mỗi nước thực hiện với mức độ, cách thức và có nội dung khác nhau. Đối với Việt Nam, nội dung chủ yếu của tự chủ đại học được xác định tại khoản 2, điều 32, Luật bổ sung, sửa đổi một số điều của Luật Giáo dục Đại học 2018, bao gồm: “3. Quyền tự chủ trong học thuật, trong hoạt động chuyên môn bao gồm ban hành, tổ chức thực hiện tiêu chuẩn, chính sách chất lượng, mở ngành, tuyển sinh, đào tạo, hoạt động khoa học và công nghệ, hợp tác trong nước và quốc tế phù hợp với quy định của pháp luật; 4. Quyền tự chủ trong tổ chức và nhân sự bao gồm ban hành và tổ chức thực hiện quy định nội bộ về cơ cấu tổ chức, cơ cấu lao động, danh mục, tiêu chuẩn, chế độ của từng vị trí việc làm; tuyển dụng, sử dụng và cho thôi việc đối với giảng viên, viên chức và người lao động khác, quyết định nhân sự quản trị, quản lý trong cơ sở giáo dục đại học phù hợp với quy định của pháp luật; 5. Quyền tự chủ trong tài chính và tài sản bao gồm ban hành và tổ chức thực hiện quy định nội bộ về nguồn thu, quản lý và sử dụng nguồn tài chính, tài sản; thu hút nguồn vốn đầu tư phát triển; chính sách học phí, học bổng cho sinh viên và chính sách khác phù hợp với quy định của pháp luật” (Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, 2018) Qua nội dung tự chủ đại học cho thấy, các cơ sở giáo dục đại học muốn tự chủ được về hoạt động chuyên môn, học thuật, tổ chức nhân sự và tài chính cần phải có các giải pháp đồng bộ về các mặt như: xây dựng chính sách, quản lý, đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực, đầu tư cơ sở vật chất… Trong đó, nâng cao chất lượng hoạt động khoa học là vấn đề mà các cơ sở giáo dục đại học cần phải đặc biệt quan tâm hiện nay. 795
  4. 2.1.2. Vai trò của hoạt động nghiên cứu khoa học đối với việc thực hiện tự chủ của các cơ sở giáo dục đại học Thứ nhất, nâng cao vị thế, tạo tiền đề nâng cao chất lượng đào tạo của các cơ sở giáo dục đại học. Ở trường đại học cùng với hoạt động đào tạo, nghiên cứu khoa học là một trong hai lĩnh vực quan trọng, tạo nên thương hiệu (danh tiếng) của một trường đại học. Những thành quả nghiên cứu khoa học có giá trị của giảng viên và sinh viên, khẳng định được năng lực nghiên cứu, sáng tạo của giảng viên và sinh viên, đóng góp quan trọng vào kho tàng lý luận về nghiên cứu khoa hoc, mặt khác, các công bố khoa học được ứng dụng trong thực tế nhà trường, địa phương và đất nước sẽ lại hiệu quả kinh tế - xã hội to lớn. Việc giảng viên và sinh viên tham gia các hoạt động nghiên cứu khoa học, mở rộng được mối quan hệ hợp tác với các đối tác trong nghiên cứu, sẽ góp phần quảng bá cho hình ảnh nhà trường với bên ngoài. Đặc biệt, hiện nay nghiên cứu khoa học là một trong những tiêu chuẩn quan trọng để kiểm định chất lượng cơ sở giáo dục đại học theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo và chuẩn kiểm định quốc tế. Thứ hai, nghiên cứu khoa học - yếu tố quan trọng đối với việc nâng cao chất lượng đào tạo của cơ sở giáo dục đại học. Trong các cơ sở giáo dục đại học, nhiệm vụ trước hết của đội ngũ giảng viên là đào tạo nguồn nhân lực có phẩm chất chính trị, đạo đức tốt, kiến thức và năng lực thực hành tương xứng với trình độ đào tạo, sức khỏe và năng lực thích ứng với việc làm trong xã hội, tự tạo việc làm cho mình và cho những người khác; có khả năng hợp tác bình đẳng trong quan hệ quốc tế, đáp ứng yêu cầu sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Vì vậy, để thực hiện tốt nhiệm vụ của mình, đội ngũ giảng viên cần phải có giỏi về chuyên môn, thành thạo kỹ năng nghề nghiệp và có năng lực nghiên cứu khoa học tốt. Đối với đội ngũ giảng viên, tham gia hoạt động nghiên cứu khoa học sẽ giúp họ củng cố kiến thức chuyên môn, gắn lý luận với thực tiễn, bài giảng có chất lượng chuyên môn tốt hơn. Trong quá trình nghiên cứu khoa học, giảng viên phải thu thập, thống kê tài liệu, xử lý thông tin, thâm nhập thực tế, điều tra khảo sát…, từ đó, nắm được phương pháp, cách thức tổ chức nghiên cứu, sắp xếp công việc, khả năng giao tiếp và niềm tin khoa học, từng bước củng cố, phát triển phẩm chất, năng lực nghiên cứu khoa học. Đồng thời, tham gia hoạt động nghiên cứu khoa học giảng viên sẽ nâng cao năng lực tư duy lý luận, kinh nghiệm thực tiễn, có kinh nghiệm hướng dẫn sinh viên thực hiện các đề tài nghiên cứu khoa học. Giảng viên có thể dùng chính sản phẩm nghiên cứu của mình để làm tài liệu tham khảo cho sinh viên trong quá trình giảng dạy. Việc tham gia các hoạt động khoa học khác như semina, hội thảo khoa học, nhất là hội thảo khoa học quốc tế sẽ giúp cho giảng viên nâng cao kiến thức chuyên môn, củng cố và nâng cao năng lực ngoại ngữ, học hỏi kinh nghiệm từ các chuyên gia, đặc biệt đối với các giảng viên trẻ. Đối với sinh viên, tham gia nghiên cứu khoa học, bước đầu có thể vận dụng những tri thức đã học để tiến hành hoạt động nhận thức có tính chất nghiên cứu, góp phần giải quyết các vấn đề khoa học do thực tiễn cuộc sống và nghề nghiệp đặt ra, từ đó, mở rộng sự hiểu biết của mình. Nghiên cứu khoa học giúp sinh viên nâng cao khả năng, năng lực lựa chọn và giải quyết vấn đề chuyên môn, biết tiếp cận và chiếm lĩnh các vấn đề khoa học một cách chính xác, có hệ thống và vận dụng những kiến thức đã được học để giải quyết các vấn đề cụ thể đặt ra trong thực tiễn. Nhờ hoạt động nghiên cứu khoa học, nhận thức của sinh viên được mở rộng, bước 796
  5. đầu nắm được phương pháp, cách thức tổ chức nghiên cứu, sắp xếp công việc, từng bước hình thành niềm tin và những phẩm chất, năng lực cần có của người nghiên cứu khoa học như tính kiên trì, trung thực, chính xác, thận trọng, tỉ mỉ… Qua nghiên cứu khoa học sinh viên nắm chắc, củng cố, hệ thống lại kiến thức được học và mở rộng kiến thức mới tự bồi dưỡng và trang bị vốn kiến thức ngoài chương trình đào tạo của nhà trường. Điều đó, sẽ hỗ trợ cho việc học tập của sinh viên tốt hơn, nâng cao chất lượng đào tạo của nhà trường. Thứ ba, nghiên cứu khoa học giúp giảng viên và sinh viên rèn luyện tính tích cực, chủ động, tư duy độc lập, sáng tạo, nâng cao khả năng thu thập và xử lý thông tin. Đối với giảng viên: Hoạt động nghiên cứu khoa học đã giúp cho giảng viên thu nhận được kiến thức, kỹ năng, tích lũy được một số kinh nghiệm nghiên cứu phục vụ cho hoạt động giảng dạy, học tập nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ. Trong quá trình nghiên cứu phải thu thập, thống kê tài liệu, xử lý thông tin, thâm nhập thực tế, điều tra khảo sát…, từ đó, cán bộ, giảng viên nắm được phương pháp, cách thức tổ chức nghiên cứu, nâng cao trình độ lý luận, trình độ chuyên môn và kỹ năng nghiên cứu. Đồng thời, giúp đội ngũ giảng viên, nhất là giảng viên trẻ bổ sung kiến thức thực tiễn để họ có đủ hành trang và sự tự tin trong quá trình giảng dạy. Đối với sinh viên: Nghiên cứu khoa học sẽ rèn luyện cho sinh viên khả năng tư duy sáng tạo, phân tích, phản biện, lôgic và các kỹ năng mềm khác (kỹ năng tổ chức, trình bày, kỹ năng sử dụng máy tính...). Nhờ đó, tăng thêm sự hiểu biết, hình thành niềm tin và tình cảm đối với hoạt động nghiên cứu khoa học. Đồng thời, tham gia hoạt động nghiên cứu khoa học sinh viên được trao đổi, học hỏi kiến thức từ thực tế, giảng viên và bạn bè, đó cũng chính là hành trang quý báu, giúp sinh viên có thể thực hiện những nghiên cứu khoa học lớn hơn sau này. Như vây, nghiên cứu khoa học là một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của cơ sở giáo dục đại học, để tạo nên sự đột phá, làm cho giáo dục đại học có sự khác biệt về chất so với giáo dục phổ thông: học tập gắn liền với nghiên cứu, đào tạo gắn liền với thực tiễn xã hội, góp phần nâng cao chất lượng đào tạo - đây là một trong những yếu tố quan trọng giúp các cơ sở giáo dục đại học thực hiện tốt việc tự chủ trong giai đoạn hiện nay. 2.3. Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng hoạt động nghiên cứu khoa học đáp ứng yêu cầu tự chủ đại học trong giai đoạn hiện nay Thứ nhất, nâng cao nhận thức của giảng viên, sinh viên về vị trí, vai trò của hoạt động nghiên cứu khoa học trong nhà trường. Nhận thức của giảng viên và sinh viên về vị trí, tầm quan trọng của hoạt động nghiên cứu khoa học trong trường đại học có ý nghĩa quan trọng. Nghiên cứu khoa học tác động đến tình cảm (sự hứng thú, say mê nghiên cứu khoa học), hình thành nhu cầu, động cơ, thái độ tích cực đối với hoạt động nghiên cứu. Từ đó, thôi thúc giảng viên và sinh viên mong muốn tìm tòi, khám phá, nỗ lực và sáng tạo trong quá trình nghiên cứu khoa học. Các cơ sở giáo dục đại học cần thường xuyên tổ chức các buổi tập huấn, hội thảo chuyên đề, các cuộc thi về nghiên cứu khoa học, nhằm giúp giảng viên và sinh viên nhận thức rõ về vị trí, vai trò của hoạt động nghiên cứu khoa học ở trường đại học; trang bị cho giảng viên và sinh viên các kiến thức cơ bản về phương pháp nghiên cứu khoa học; hỗ trợ, tư vấn về các hoạt động khoa học như viết bài đăng tạp chí, lựa chọn đề tài nghiên cứu, chia sẻ, học tập kinh nghiệm lẫn nhau. Đặc biệt, đối với giảng viên, tham gia nghiên cứu khoa học nói chung, hướng dẫn sinh viên nghiên cứu khoa học nói riêng là một trong những nhiệm vụ bắt buộc ở trường đại học. Vì vậy, để nâng cao hiệu quả 797
  6. hoạt động nghiên cứu khoa học của sinh viên, bản thân giảng viên phải nhận thức sâu sắc về hoạt động này và tăng cường trách nhiệm của người thầy trong việc định hướng, hướng dẫn sinh viên nghiên cứu khoa học. Đối với cán bộ quản lý, cần có nhận thức và thực hiện tốt các quy định, đồng thời, căn cứ vào thực tiễn nhà trường để có các biện pháp quản lý chặt chẽ, hiệu quả đối với hoạt động nghiên cứu khoa học của giảng viên và sinh viên. Thứ hai, các cơ sở giáo dục đại học cần quan tâm, thường xuyên tổ chức các lớp bồi dưỡng kỹ năng nghiên cứu khoa học cho giảng viên và sinh viên. Nghiên cứu khoa học là một hoạt động đặc biệt, đòi hỏi có sự sáng tạo rất cao, bởi vậy, đòi hỏi người tham gia nghiên cứu phải có sự thành thạo về kỹ năng nghiên cứu khoa học cơ bản. Kỹ năng nghiên cứu khoa học là khả năng vận dụng những tri thức khoa học, tri thức liên quan, những kinh nghiệm nhằm giải quyết vấn đề trong thực tiễn, nhằm nghiên cứu thành công các công trình, sản phẩm khoa học theo yêu cầu, nhiệm vụ đặt ra. Nghiên cứu khoa học sẽ giúp giảng viên và sinh viên hình thành kỹ năng nghiên cứu ngay từ việc lĩnh hội kiến thức, tích lũy kinh nghiệm đến việc rèn luyện kỹ năng nghiên cứu khoa học. Vì vậy, để nâng cao kỹ năng nghiên cứu khoa học cho giảng viên và sinh viên, các cơ sở giáo dục đại học cần tập trung bồi dưỡng cho họ các kỹ năng cơ bản trong nghiên cứu khoa học như: việc lựa chọn vấn đề nghiên cứu, thiết lập mối quan hệ giữa các vấn đề, các mâu thuẫn đặt ra trong vấn đề nghiên cứu; kỹ năng thu thập, tra cứu thông tin, phân tích, xử lý số liệu; kỹ năng viết, lập luận, giải quyết vấn đề, trình bày vấn đề nghiên cứu; kỹ năng trích dẫn các tài liệu, công trình khoa học; kỹ năng phối hợp trong nghiên cứu; quy trình các bước, các giai đoạn của việc tiến hành nghiên cứu. Thứ ba, phát huy vai trò của các đơn vị chuyên môn trong tổ chức và quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học. Các đơn vị chuyên môn cần quan tâm phổ biến, triển khai rộng rãi các văn bản pháp luật của Nhà nước, Bộ Giáo dục và Đào tạo, của nhà trường tới giảng viên và sinh viên. Xây dựng kế hoạch và triển khai kế hoạch nghiên cứu khoa học, đôn đốc, khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi cho giảng viên và sinh viên nghiên cứu khoa học. Đồng thời, quản lý tốt hoạt động nghiên cứu khoa học của giảng viên và sinh viên thuộc đơn vị quản lý. Tăng cường sự phối hợp của các đơn vị trong quản lý khoa học, trên cơ sở phát huy vai trò nòng cốt của phòng chức năng. Đặc biệt, các cơ sở giáo dục cần rà soát, sửa đổi, bổ sung hoàn thiện các Quy chế hoạt động khoa học phù hợp với điều kiện thực tế của nhà trường và các quy định của Nhà nước, Bộ Giáo dục và Đào tạo. Thứ tư, giảng viên và sinh viên cần chủ động, sáng tạo và có thái độ, động cơ đúng đắn trong hoạt động nghiên cứu khoa học. Để hoạt động nghiên cứu khoa học có hiệu quả cao, thì việc phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của giảng viên và sinh viên có tầm quan trọng đặc biệt. Để làm được việc này, khi tham gia nghiên cứu khoa học giảng viên và sinh viên phải biết tổ chức, sắp xếp thời gian dành cho hoạt động nghiên cứu khoa học phù hợp. Giảng viên và sinh viên căn cứ vào công việc của mình để chủ động bố trí thời gian cho việc nghiên cứu khoa học một cách hợp lý từ khâu chuẩn bị đề cương nghiên cứu, thu thập tài liệu, xử lý số liệu, triển khai nghiên cứu. Đồng thời, cần tập trung duy trì nghiêm kỷ luật trong nghiên cứu khoa học làm cho việc tự học, tự nghiên cứu trở thành nề nếp trên tinh thần tự giác, tự nguyện trong việc nghiên cứu. 798
  7. Thứ năm, các cơ sở giáo dục đại học cần tăng cường đầu tư cơ sở vật chất phục vụ cho hoạt động nghiên cứu khoa học. Quá trình giảng dạy và học tập, nghiên cứu khoa học của giảng viên và sinh viên dù được tiến hành dưới bất kỳ hình thức nào cũng đều được diễn ra trong những điều kiện vật chất nhất định. Cơ sở vật chất phục vụ cho hoạt động nghiên cứu khoa học là những phương tiện giúp cho giảng viên và sinh viên thực hiện, hoàn thành tốt công việc của mình trong quá trình nghiên cứu khoa học. Do đó, các cơ sở giáo dục đại học cần quan tâm xây dựng, sửa chữa, bổ sung cơ sở vật chất nhằm tạo điều kiện thuận lợi để giảng viên và sinh viên thực hiện các đề tài nghiên cứu và đạt hiệu quả cao nhất. Đặc biệt, hiện nay do sự phát triển nhanh chóng của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, đòi hỏi các cơ sở giáo dục đại học cần phải chú trọng phát triển hệ thống thông tin khoa học - công nghệ, thư viện điện tử để đáp ứng nhu cầu thông tin khoa học và các tài liệu phục vụ nghiên cứu khoa học. Tăng cường đầu tư kinh phí cho hoạt động nghiên cứu khoa học, hỗ trợ cho các nhiệm vụ nghiên cứu khoa học của phải đi thực tế, điều tra khảo sát, thí nghiệm. Chú trọng và thực hiện nghiêm túc công tác khen thưởng, kỷ luật trong hoạt động nghiên cứu khoa học đảm bảo tính công khai, minh bạch, khách quan. Khai thác, sử dụng có hiệu quả các sản phẩm nghiên cứu khoa học có chất lượng. Xây dựng hệ thống dữ liệu, lưu trữ các sản phẩm nghiên cứu để làm tài liệu tham khảo trong nhà trường. 3. KẾT LUẬN Hoạt động nghiên cứu khoa học có vai trò đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển đất nước, như Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định: “Khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo ngày càng trở thành nhân tố quyết định đối với năng lực cạnh tranh của mỗi quốc gia” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021). Đối với các cơ sở giáo dục đại học hiện nay, để thực hiện tốt việc đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, cần phải chú trọng nâng cao chất lượng hoạt động nghiên cứu khoa học. Tuy nhiên, để hoạt động nghiên cứu khoa học có hiệu quả, các cơ sở giáo dục đại học cần xây dựng môi trường làm việc thuận lợi, đảm bảo về thời gian, điều kiện vật chất cho việc nghiên cứu khoa học. Đồng thời, yếu tố có ý nghĩa quyết định then chốt cho hoạt động nghiên của khoa học ở các cơ sở giáo dục đại học là giảng viên và sinh viên cần chủ động, sáng tạo và say mê nghiên cứu khoa học. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập I. Nxb Chính trị quốc gia. 2. Hiệp hội các trường đại học và cao đẳng Việt Nam (2017). Tự chủ đại học: Cơ hội và thách thức. Hà Nội: Nxb Thông tin và Truyền thông 3. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2018). Luật Giáo dục đại học sửa đổi năm 2018. https://thuvienphapluat.vn/Van-ban/Giao-duc/luat-Giao-duc-dai-hoc-sua-doi-388254.aspx. 4. C.Mác và Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội. 5. C.Mác và Ph.Ăngghen (2004), Toàn tập, tập 20, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 6. Hoàng Phê (2012), Từ điển tiếng Việt, Nxb Hồng Đức. 7. Ngô Đình Qua (2013), Phương pháp nghiên cứu khoa học, Nxb Đại học Sư phạm TPHCM 8. Phạm Viết Vượng (1997), Phương pháp luận nghiên cứu khoa học (Giáo trình dành cho học viên cao học và nghiên cứu sinh), Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội. 799
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2