Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư công trình hạ tầng các xã vùng khó khăn, dân tộc thiểu số - 7
lượt xem 11
download
Việc tăng cường cán bộ từ tỉnh, huyện về giúp cho xã tổ chức thực hiện Chương trình XĐGN, trong đó có Chương trình 135 ở một số ít địa phương làm khá nhưng nhiều địa phương không làm tốt; thời gian đầu mới triển khai Chương trình các địa phương thực hiện khá rầm rộ, càng về cuối thì càng giảm tác động dần. Nguyên nhân cơ bản là thiếu một chính sách nhất quán cho hd này, nhất là chính sách lương, phụ cấp, thời gian công tác ở xã và vấn đề nâng cao năng lực cho...
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư công trình hạ tầng các xã vùng khó khăn, dân tộc thiểu số - 7
- Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - http://www.simpopdf.com Việc tăng cường cán bộ từ tỉnh, huyện về giúp cho xã tổ chức thực hiện Chương trình XĐGN, trong đó có Chương trình 135 ở một số ít địa phương làm khá nhưng nhiều địa phương không làm tốt; thời gian đầu mới triển khai Chương trình các địa phương thực hiện khá rầm rộ, càng về cuối thì càng giảm tác động dần. Nguyên nhân cơ bản là thiếu một chính sách nhất quán cho hd này, nhất là chính sách lương, phụ cấp, thời gian công tác ở xã và vấn đề nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ tăng cường để họ hoà nhập với địa phương, đóng góp gì cho địa phương trong giai đoạn thực hiện XĐGN này. Trong báo cáo đánh giá của các địa phương, của một số cơ quan liên quan Chương trình 135 luôn nghiêng về số lượng, không đề cập đến chất lượng và những yêu cầu đặt ra với họ, vì vậy hiệu quả tăng cường cán bộ về xã công tác xem ra sôi động nhưng không thực chất. Nguyên nhân của mặt hạn chế: - Về khách quan: Đó là những khó khăn vốn có của những xã vùng cao, vùng sâu, biên giới: Chương trình thực hiện trên địa bàn rộng, các xã ĐBKK có địa hình hiểm trở, khí hậu phức tạp, suất đầu tư cao; nhiều tỉnh miền Trung và Nam Bộ bị lũ lụt hàng năm; xuất phát điểm từ cơ sở hạ tầng sơ khai, đời sống nhân dân còn khó khăn, trình độ dân trí thấp kém, đội ngũ cán bộ cơ sở còn yếu kém về chuyên môn nghiệp vụ… - Về chủ quan: Một số địa phương chưa quán triệt sâu sắc mục tiêu, nội dung Chương trình đến dân, chưa sát dân, dựa vào dân, chưa phát huy được nội lực của nhân dân để tổ chức thực hiện; đội ngũ cán bộ địa phương, cán bộ cơ sở chưa vươn lên ngang tầm với nhiệm vụ; công tác tổ chức thực hiện ở địa phương còn
- Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - http://www.simpopdf.com yếu kém, thiếu toàn diện, nặng về đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng; không chủ động phát huy nội lực còn ỷ lại trông chờ vào NSTW. Sự phối hợp chỉ đạo của các cấp, các ngành chưa chặt chẽ, còn vi phạm các nguyên tắc và chưa vận hành đồng bộ các dự án của Chương trình. Một số địa phương quản lý các nguồn vốn đầu t ư trên địa bàn các xã thuộc Chương trình 135 không tập trung, thống nhất n ên việc phát huy và đánh giá hiệu quả các nguồn lực rất hạn chế… 6. Một số khó khăn, hạn chế về phát triển hạ tầng vùng ĐBKK Công trình hạ tầng thuộc Chương trình 135 xây dựng ở các xã ĐBKK hầu hết là công trình tạm, không thể xếp vào cấp, hạng theo quy phạm xây dựng của Việt Nam. Chúng ta đều hiểu rằng việc xây dựng những loại công trình không có cấp, hạng là không phù hợp với đặc điểm tự nhiên của vùng, nhưng đây là những công trình mang tính bức xúc nhằm đáp ứng yêu cầu trước mắt của người dân vùng cao, vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới trong giai đoạn xoá đói giảm nghèo. Mặt khác, với mức đầu tư bình quân 400-500 triệu đồng/xã/năm thì nhiều công ttình chỉ làm tạm, không thể xây dựng lớn hơn, kiên cố hơn, đàng hoàng hơn. Vì vậy có thể nói những công trình này đều thuộc loại dễ hư hỏng, kém ổn định và không an toàn. Trong thực tế đã có nhiều công trình bị xoá sổ do gặp rủi ro, nhiều công trình bị hư hỏng phải phục hồi khá tốn kém do rất nhiều nguyên nhân gây ra. Các loại hình gây thất thoát lãng phí vốn đầu tư đối với công trình hạ tầng ở các xã ĐBKK diễn ra trong mọi thời kỳ của hai quá trình: trong quá trình xây dựng và trong quá trình sử dụng.
- Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - http://www.simpopdf.com Tính bền vững của công trình hạ tầng phụ thuộc vào nhiều yếu tố như điều kiện tự nhiên, công tác quản lý, chính sách trợ giúp của Chính phủ, khả năng ngân sách của Chính quyền các cấp, quy chế quản lý công tr ình của cộng đồng, ý thức của người dân… Sau đây là một số yếu tố gây khó khăn, hạn chế chủ yếu ảnh hưởng tới chất lượng công trình hạ tầng đầu tư ở vùng ĐBKK miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số (những ý kiến này bổ sung thêm cho phần hạn chế đã trình bày tại mục III, Chương III). 6.1. Đặc điểm tự nhiên không thuận lợi Các xã ĐBKK miền núi, vùng sâu, vùng xa, biên giới có đặc điểm địa hình bị chia cắt mạnh, núi cao, suối sâu, độ dốc lớn, hiểm trở, mùa mưa thường gây ra lũ ống, lũ quét, tạo thành dòng chảy xiết, tàn phá nhiều công trình hạ tầng quan trọng của Nhà nước đầu tư ở địa bàn này. Do vậy đối với những công trình hạ tầng của Chương trình 135 hầu hết là công trình tạm thì việc gặp rủi ro trong quá trình xây dựng cũng như trong quá trình khai thác sử dụng là khó tránh khỏi. Để hạn chế bớt tổn thất đối với những loại công trình này, nhất là công trình đào, đắp, xây dựng ngoài trời như cầu, đường, mương máng thuỷ lợi, đường ống cấp nước sinh hoạt, chợ, ruộng mới khai hoang… thì việc lựa chọn vị trí xây dựng công trình là hết sức quan trọng. Ví dụ việc chọn tuyến để làm đường giao thông là phải chú ý hạn chế đào đắp trên sườn dốc để tránh xói lở do mưa lũ cuốn trôi, tránh đi qua dòng chảy của nước lũ, hoặc tránh những vị trí dễ bị sạt lở núi, những n ơi không bảo đảm an toàn để công trình được ổn định lâu dài hơn; tuy nhiên để hạn chế nhược điểm này thì thường phải chọn tuyến đi xa h ơn, khối lượng đầu tư ban đầu lớn
- Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - http://www.simpopdf.com hơn, tốn kém hơn… Nhưng để làm việc này, vấn đề đặt ra là trong quá trình chuẩn bị đầu tư phải nghiên cứu kỹ, lựa chọn phương án hợp lý; trước mắt có thể đầu tư tốn kém hơn nhưng lâu dài sẽ an toàn hơn, bền vững hơn mang hiệu quả kinh tế cao. 6.2. Công tác quy hoạch, khảo sát, thiết kế chưa đảm bảo chất lượng - Về quy hoạch, nhiệm vụ được quan tâm đầu tiên của Ban Chỉ đạo các cấp là làm công tác quy hoạch, trước hết là quy hoạch hệ thống công trình hạ tầng để đầu tư ngay, đồng thời làm cơ sở cho triển khai các dự án khác nh ư sắp xếp lại dân cư, bố trí lại sản xuất. Năm 1999, mỗi xã được đầu tư 10 triệu đồng để làm quy hoạch, năm 2000 nhiều xã vẫn tiếp tục thực hiện nhiệm vụ này. Nhưng qua khảo sát thực tế ở một số xã cho thấy các bản quy hoạch này chỉ làm để đối phó với yêu cầu của cấp trên, của Kho bạc Nhà nước trong việc thanh quyết toán vốn đầu t ư là chính. Công tác quy hoạch chưa được quan tâm đúng mức, chưa ngang tầm với yêu cầu xây dựng nông thôn mới, chất lượng quy hoạch quá kém, tính pháp lý không cao, đơn vị lập và cơ quan thẩm định, phê duyệt không được quy định rõ ràng, thực hiện hơn 5 năm mà không điều chỉnh, bổ sung. Nguyên nhân cổ phần do làm đối phó vì không kịp thời gian, do thiếu kinh phí, do người làm không đủ trình độ cần thiết. - Về công tác khảo sát, thiết kế, lựa chọn công trình đầu tư cũng còn nhiều hạn chế: Chương trình 135 với 2.362 xã ĐBKK ở hầu khắp các tỉnh miền núi, có miền núi, vùng sâu, vùng xa trong cả nước thì đặc điểm địa hình, địa chất càng trở nên đa dạng, phức tạp, việc lựa chọn phương án xây dựng công trình ở vùng này đòi
- Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - http://www.simpopdf.com hỏi những người làm công tác tư vấn chuẩn bị đầu tư phải tận tuỵ, công tác thăm dò, khảo sát, thiết kế phải cụ thể, tỷ mỉ, phải đến với dân để hỏi dân, phải tuân thủ đúng quy trình, quy phạm hiện hành và phải được cơ quan thẩm định, xét duyệt quan tâm đầy đủ để hạn chế rủi ro, giảm thất thoát lãng phí, bảo đảm an toàn cho công trình. Một vấn đề dễ nhận thấy là công trình lớn thường được khảo sát địa chất kỹ hơn, tính toán thuỷ văn đầy đủ hơn, chọn tần suất thiết kế hợp lý và có độ an toàn cho phép nên tự nó có thể chống đỡ được với thiên tai ở mức độ nhất định; còn công trình hạ tầng đầu tư ở xã ĐBKK thuộc Chương trình 135 có quy mô nhỏ, kỹ thuật không phức tạp, thường được quan niệm là đơn giản, cho phép bỏ qua những khâu xử lý kỹ thuật nên dễ dẫn đến nhiều sai phạm gây tổn thất và lãng phí. Bên cạnh đó, việc chuẩn bị đầu tư đối với công trình nhỏ thuộc Chương trình 135 thường có những hạn chế bởi tính chất công việc, thể hiện qua các tr ường hợp cụ thể như: - Do số lượng công trình yêu cầu thiết kế quá lớn, nhưng số lượng và năng lực tư vấn có hạn, làm không kịp nên dễ bị bỏ qua khâu tham khảo ý kiến người dân, khảo sát thực địa sơ sài, thiết kế thiếu chi tiết, dẫn tới không bảo đảm chất lượng công trình, nhiều tỉnh như Hà Giang, Cao Bằng, Bắc Cạn, Lai châu trong vài năm đầu triển khai rất chậm vì số xã quá nhiều nên phải chờ tư vấn thiết kế. - Do công trình quá nhỏ bé, nằm ở các thôn bản quá xa xôi, đi lại khó khăn, t ư vấn đơn giản hoá khâu khảo sát, chủ yếu quan sát bằng mắt th ường, khi thiết kế tăng thêm hệ số an toàn. Việc làm này không bảo đảm nguyên tắc và quy trình thiết kế,
- Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - http://www.simpopdf.com dễ xảy ra tình trạng công trình đầu tư thiếu ổn định, hiệu quả sử dụng thấp, hoặc phải chấp nhận sự lãng phí không nên có. - Trong công tác thiết kế, lợi ích của tư vấn được hưởng theo % (phần trăm) tổng mức đầu tư của công trình, vì vậy người thiết kế thường tính tổng mức cao hơn bình thường vừa an toàn vừa có điều kiện thu lợi cao hơn. Điều này không phù hợp với phương châm đầu tư của chương trình, nhưng đối với tư vấn thì đây là việc làm để tạo thu nhập của họ. - Căn bệnh phô trương hình thức của những người làm công tác thiết kế công trình đầu tư thuộc Chương trình 135 cũng gây ra không ít lãng phí cho Chương trình. ở một số nơi các đoàn đi kiểm tra, giám sát đã phát hiện xây dựng chợ ở vùng cao làm bằng kính chắn gió tấm lớn, cổng chợ xây lớn hơn cổng trụ sở cơ quan huyện… xây dựng chợ không tham khảo ý kiến người dân, nên những việc làm này vừa gây lãng phí, vừa kém mỹ quan, vừa không tiện sử dụng, nhiều chợ xây xong dân không đến họp. - Đối với một số Bộ, ngành Trung ương một mô hình thiết kế chuẩn mực về công trình xây dựng của ngành cho các địa phương áp dụng để vừa đáp ứng yêu cầu trước mắt, vừa phù hợp yêu cầu lâu dài, không gây ra lãng phí hoặc không bị lạc hậu sớm, ví dụ: Nhiều địa phương xây dựng trạm y tế xã quy mô bình quân khoảng 70m2 nhưng đến nay Bộ Y tế quy định đầu tư trạm y tế xã thuộc dự án do WB tài trợ là 100m2 và phòng phải phù hợp với yêu cầu bố trí trang thiết bị theo quy định của Bộ; hoặc Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành tiêu chuẩn thiết kế điển hình để kiên cố hoá trường học sử dụng nguồn trái phiếu Chính phủ theo Quyết
- Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - http://www.simpopdf.com định 159/2002/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ thì hàng loạt trường thực hiện theo Chương trình 135 đã xây dựng xong hoặc đang xây dựng không còn phù hợp với thiết kế mẫu mới. Nhiều loại công trình xây dựng khác cũng có hoàn cảnh tương tự, xây dựng chưa xong đa lạc hậu, khuyết điểm này không chỉ có lỗi ở các địa phương mà ở các Bộ, ngành liên quan cũng thiếu thiết kế chuẩn mực, chưa theo kịp yêu cầu. Trong thông tư liên tịch 416, 666 hướng dẫn thực hiện Chương trình 135 đã quy định những loại công trình như trường học, trạm y tế có thể áp dụng thiết kế điển hình do Bộ Xây dựng thống nhất với Bộ chủ quản ban hành. Tuy cũng là các Bộ có loại công trình thiết kế điển hình như: Y tế, Giáo dục - Đào tạo, nhưng giữa công trình của Chương trình 135 với việc chỉ đạo xây dựng các công trình này trong giai đoạn hiện nay đã khác nhau xa và mẫu thiết kế về sau càng hoàn thiện hơn, vì lẽ đó công trình 135 chưa xây dựng xong đã trở thành lạc hậu hoặc phải cải tạo tốn kém. 6.3. Công tác chỉ đạo thi công còn nhiều bất cập Các công trình XDCB ở các xã ĐBKK có quy mô nhỏ, đào đắp đất đá là chính, ít công trình xây lắp nên có ý kiến cho rằng thi công những công trình này hết sức đơn giản. ở hầu hết các xã đầu tư cho các công trình ngoài trời đều đào đắp đất, thi công bằng thủ công, chủ yếu bằng tay, việc đầm nén không đạt yêu cầu, dung trọng thiết kế không bảo đảm, khi có tác động mạnh từ ngoài vào là bị sụt, lún, hoặc khi có lũ lụt cũng dễ bị cuốn trôi hoặc gây hư hỏng. Nguyên nhân chính là ở vùng sâu, vùng xa ít có những đơn vị xây dựng chuyên nghiệp, giàu kinh nghiệm tham gia vì khối lượng công việc quá bé, đi lại quá xa, rất chậm và tốn kém; ít thi
- Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - http://www.simpopdf.com công bằng thiết bị cơ giới vì hiện trường chật hẹp và tính chất công trình nhỏ bé nên không có nhu cầu; tham gia xây dưng ở vùng này phần lớn là các công ty tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, trình độ chuyên môn kỹ thuật còn nhiều non kém nên chất lượng thi công hạn chế, nhiều n ơi họ nhận hợp đồng và giao lại cho dân địa phương làm. Vì vậy nếu để tình trạng chỉ đạo công tác thi công như thời kỳ qua đi thì tính ổn định của các công trình XDCB ở vùng ĐBKK sẽ không cao. Như phần trên đã đề cập, tính chất công trình hạ tầng được đầu tư hiện nay ở các xã 135 hầu hết là tạm bợ, đường giao thông phần lớn đào đắp bằng đất đá tại chỗ, đầm nén không đảm bảo, chất lượng vật liệu không được quy định chặt chẽ, thiếu rãnh thoát nước, thiếu kè bảo vệ, chỉ cần mưa nhỏ đã gây hư hỏng nặng, thực chất nhiều nơi làm đường giao thông chỉ là tạo thêm lối đi mới. Các công trình thuỷ lợi cũng phần lớn là cải tạo, kiên cố hoá, điển hình như tỉnh Tuyên Quang chủ yếu kiên cố hoá nhưng với kế hoạch vốn quá nhỏ bé nên kết quả cũng chỉ mức độ. Đường dây dẫn điện ở nhiều nơi dùng bằng cây rừng, tre, mai làm cột để dẫn điện về các hộ dân cư, đều không đảm bảo an toàn trong mọi thời tiết. 6.4. Công tác kế hoạch hoá các nguồn vốn đầu tư chưa tốt Nguyên tắc thực hiện Chương trình 135 là tất cả các nguồn vốn phải đưa vào kế hoạch của từng cấp để chủ động thực hiện. Tuy vậy trong thực tế nguyên tắc này rất khó thực hiện bởi vì hầu hết các tỉnh có nhiều xã ĐBKK là tỉnh nghèo, ít vốn, khó phân bổ, mặt khác không thể tổng hợp hết các nguồn vốn li ên quan, nhất là các nguồn hỗ trợ do vận động và nguồn huy động bằng ngày công trong dân cư, chủ yếu là chỉ tập trung vào nguồn vốn hỗ trợ từ NSTW. Khi lập kế hoạch không
- Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - http://www.simpopdf.com biết trước khả năng nguồn vốn huy động thêm nên hầu hết các huyện lập kế hoạch cho xã chỉ nhằm vào khoảng NSTW hỗ trợ là chính. 6.5. Một số địa phương sử dụng NSTW hỗ trợ chưa đúng nguyên tắc Nguyên tắc phân bổ theo hướng dẫn của Ban chỉ đạo là Trung ương hỗ trợ bình quân giai đoạn 1999-2002 mỗi xã 400 triệu đồng/năm, giai đoạn 2003-2005 là 500 triệu đồng/năm; về địa phương, nếu tỉnh phân cấp cho huyện thì tỉnh cũng giao mức bình quân tương tự để huyện phân bổ cho xã, nhưng mức giao cho xã phải dựa vào dự toán hoặc tổng mức đầu tư của từng công trình để bố trí đủ vốn hoàn thành trong năm, có nghĩa là có xã được đầu tư trên mức bình quân, cũng có xã đầu tư dưới mức bình quân, mục đích cuối cùng là 2 công trình ở 2 xã có đủ vốn để hoàn thành xây dựng trong năm, không chia bình quân tránh gây lãng phí. Tuy vậy việc sử dụng NSTW hỗ trợ ở các địa phương chưa thống nhất, mỗi địa phương có cách làm khác nhau nên hiệu quả mang lại cũng khác nhau, nhiều địa phương quản lý tốt nhưng không ít địa phương tự mình gây lãng phí do việc phân bổ chưa hợp lý, qua khảo sát thực tế nhiều địa phương phân bổ bình quân, dẫn đến tình trạng công trình nhỏ thì thừa vốn, công trình lớn lại thiếu vốn. Lý do được những địa phương này giải thích là các phương tiện thông tin đại chúng đã thông báo mỗi xã được 400 hoặc 500 triệu đồng/năm, nếu giải quyết vốn theo dự toán công tr ình thì các xã sẽ thắc mắc xã nhiều, xaãít. Điều này cho thấy công tác quản lý của một số tỉnh, huyện chậm đổi mới, kém linh hoạt, ít tuyên truyền giải thích nên hiệu quả sử dụng vốn thấp. 6.6. Nhiều địa bàn cần ưu tiên XĐGN vẫn chưa được đầu tư
- Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - http://www.simpopdf.com ở miền núi có nhiều xã diện tích tự nhiên rất rộng, có xã bằng hoặc lớn hơn một huyện vùng đồng bằng sông Hồng, ví dụ: xã Chà Cang, huyện Mường Lay, tỉnh Lai Châu có diện tích 1.101,14km2; xã Nam Cát Tiên, huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai có diện tích 400,92 km2; xã Phước Hiệp, huyện Phước Sơn, tỉnh Quảng Nam có diện tích 358,08 km2; trong khi huyện Đan Phượng, tỉnh Hà Tây chỉ rộng 79,1km2; huyện Mỹ Hào, tỉnh Hưng Yên 79,1km2; huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên 74,4km2; xã rộng thì có nhiều thôn bản ở xa, có thể gọi là cực kỳ hẻo lãnh, là nơi đặc biệt của ĐBKK. Trong giai đoạn 1999-2005, các thôn bản này là đối tượng XĐGN số 1 nhưng thực tế vẫn thiệt thòi, bởi quá xa xôi, địa hình bất lợi, dân cư quá thưa thớt, nếu đầu tư thì rất tốn kém mà hiệu quả sử dụng rất thấp; đây là mâu thuẫn giữa hai vấn đề cần cân nhắc: đầu tư để gọi là có đầu tư để có hiệu quả! Mặt khác khả năng vốn ngân sách Trung ương có hạn, chỉ hỗ trợ 400-500 triệu đồng/xã/năm, nếu đầu tư vào địa bàn xã quá rộng thì khó vươn tới làng bản xa, vì vậy đối với vùng này chưa thể đầu tư đồng bộ ngay mà phải lựa chọn thứ tự ưu tiên hợp lý. 6.7. Việc lồng ghép với các chương trình, dự án khác gặp nhiều khó khăn Lồng ghép các chương trình, dự án khác đầu tư trên địa bàn với Chương trình 135 là một chủ trương đúng, Chính phủ đã có nhiều văn bản chỉ đạo quá trình thực thi Chương trình 135, phải lấy Chương trình 135 làm trọng tâm, đối tượng ưu tiên tập trung. Khi đánh giá về tổng thể, chúng ta th ường nói về thành công của Chương trình 135 có nhiều yếu tố, trong đó có yếu tố lồng ghép các chương trình, dự án khác; nhưng trên thực tế rất khó lồng ghép, trước hết mỗi chương trình, dự án đều
- Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - http://www.simpopdf.com xuất phát từ một chủ trương riêng, mục tiêu riêng, có yếu tố chuyên môn kỹ thuật riêng, có kế hoạch riêng, có cơ quan chủ trì riêng, có chỉ đạo riêng từ lập dự án, huy động và bố trí nguồn lực, tổ chức thực hiện, nghiệm thu bàn giao theo một quy trình riêng. Cho nên việc lồng ghép chỉ thực hiện có mức độ nhất định, phần nhiều là phép cộng cuối cùng kết quả thực hiện từng chương trình, dự án trên địa bàn. 6.8. Hợp nhất các chương trình, dự án theo QĐ 138 chưa triệt để Quyết định số 138/2000/QĐ-TTg ngày 29/11/2000 của Thủ tướng Chính phủ về việc hợp nhất Chương trình xây dựng TTCX, dự án Hỗ trợ Dân tộc ĐBKK, dự án ĐCĐC vào Chương trình 135 được triển khai từ năm 2001. Khi thực hiện hợp nhất, cả nước có khoảng 680 xã thuộc diện ĐCĐC đều nằm trong các xã 135, sau khi hợp nhất xong, công tác ĐCĐC ở các xã 135 được hiểu là không còn nữa, nhưng thực tế lại khác: Nhiều địa ph ương vẫn tồn tại hoạt động ĐCĐC ở xã 135 dù trên danh nghĩa; cơ quan chủ quản ĐCĐC lại tìm cách phát triển ĐCĐC ra ngoài xã 135. Cả hai vấn đề trên đều không phù hợp với thực tế và nên xem xét lại. Công tác ĐCĐC được tiến hành từ năm 1956 theo lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhằm phân bố lại dân cư, lao động để bảo vệ Tổ quốc kết hợp khai thác đất đai ở vùng còn nhiều tiềm năng, giảm gánh nặng cho vùng đông dân cư. Đến nay có thể nói rằng chưa có một chương trình nào kéo dài dai dẳng gần nửa thế kỷ như chương trình ĐCĐC của nước ta, vậy có nên để tồn tại một chương trình như thế nữa không? Mặt khác, mọi hoạt động có tính chất chính sách như ĐCĐC, hỗ trợ dân tộc ĐBKK nên có thời điểm để kết thúc. Xu hướng chung hiện nay là tái
- Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - http://www.simpopdf.com định cư theo mục tiêu dự án, di dân xây dựng các vùng kinh tế mới, tái định cư dân di cư tự do là chính, không còn hoặc không đáng kể diện du canh, du cư. Ngày nay từ vùng xa xôi hẻo lánh của tỉnh Hà giang, Cao Bằng, Lai Châu cho đến các xã vùng sâu của Tây Nguyên dân sống theo bản làng, có sự kiểm soát về nhân hộ khẩu, về an ninh, đất đai được giao theo hộ, mọi người trong gia đình đều tham gia hoạt động đoàn thể xã hội, ít có cơ hội để thực hiện việc du canh, du cư như khái niệm này cách đây hơn 5-7 năm về trước. Tuy nhiên trong một vài lần dân tộc thiểu số có số người quá ít ỏi ở vùng quá xa xôi hẻo lánh, dân trí thấp, tập quán còn lạc hậu thì có thể còn du canh du cư nhưng không thuộc tình trạng phổ biến; còn hiện tượng trong từng thôn bản, từng xã hoặc trong một vùng có sự chuyển dịch dân cư do tập quán canh tác, do nguồn nước cạn kiệt hoặc do một nguyên nhân nào đó thuộc về tập tục của dân tộc thì không thể coi đó là du canh, du cư. 6.9. Công tác duy tu, bảo dưỡng chưa được quy định cụ thể Duy tu, bảo dưỡng công trình sau khi bàn giao đưa vào sử dụng là hết sức cần thiết. Vấn đề này trong quy chế đầu tư của Việt Nam trước đây ít được đề cập, một mặt do ngân sách Nhà nước hạn hẹp, xây dựng xong là kết thúc quá trình đầu tư; chuyển sang thực hiện chế độ duy tu, bảo dưỡng bằng vốn sự nghiệp do cơ quan tài chính thu xếp. Nhưng vấn đề này quy định chưa chặt chẽ, quy định chưa rõ ràng, định mức duy tu bảo dưỡng rất thấp nên kết quả cũng không đáp ứng yêu cầu; và nếu để thực hiện duy tu bảo dưỡng cũng phải mất một số năm sau mới có kế hoạch; Mặt khác công tác duy tu bảo dưỡng phần lớn giao cho địa phương (tỉnh, huyện, xã, hoặc doanh nghiệp) tự tổ chức thực hiện nên chất lượng kém,
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Các biện pháp nâng cao hiệu quả bài học lịch sử
45 p | 403 | 32
-
Nghiên cứu giải pháp nâng cao hiệu quả dạy học bằng phương tiện dạy học hiện đại ở Học viện Công nghệ Bưu chính Viễn thông
7 p | 254 | 27
-
Một số giải pháp nâng cao hiệu quả việc quản lý và sử dụng thiết bị dạy học tại các trường tiểu học ở Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh
8 p | 171 | 16
-
Một số hình thức và biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng sách giáo khoa trong dạy học Hóa học ở trường trung học phổ thông
9 p | 136 | 11
-
Sử dụng hình ảnh trong dạy học hóa học ở trường phổ thông
13 p | 172 | 8
-
Sử dụng các phương tiện trực quan để nâng cao hiệu quả dạy học môn Hóa trong một tiết học ở phòng bộ môn - Trần Thị Thu Thủy
4 p | 124 | 8
-
Nâng cao hiệu quả sử dụng phương pháp dạy học bằng tình huống trong các học phần tâm lí - giáo dục ở trường Cao đẳng Sư phạm Thừa Thiên Huế
4 p | 76 | 8
-
Đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng Internet cho sinh viên trường Đại học Thể dục Thể thao thành phố Hồ Chí Minh
5 p | 75 | 5
-
Nâng cao hiệu quả sử dụng mạng xã hội cho sinh viên (Nghiên cứu điển hình tại tỉnh Khánh Hòa)
8 p | 21 | 5
-
Nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn tài nguyên số của Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
6 p | 10 | 4
-
Một số giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng phương pháp học tập phục vụ cộng đồng trong các trường đại học ở Việt Nam hiện nay
12 p | 13 | 4
-
Sử dụng trò chơi học tập góp phần nâng cao hiệu quả dạy học lịch sử ở tiểu học
10 p | 34 | 3
-
Nâng cao hiệu quả hoạt động có thu của trường Đại học Hùng Vương
5 p | 44 | 2
-
Nâng cao hiệu quả dạy – học lịch sử theo Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa XI
4 p | 52 | 2
-
Hiệu quả sử dụng đất sản xuất nông nghiệp sau dồn điền đổi thửa tại huyện Cẩm Khê, tỉnh Phú Thọ
10 p | 35 | 2
-
Nâng cao hiệu quả tự chủ tài chính tại các đơn vị sự nghiệp giáo dục công huyện Hòa Bình, tỉnh Bạc Liêu
3 p | 34 | 2
-
Sử dụng các phương tiện trực quan để nâng cao hiệu quả dạy học môn Hóa học trong một tiết học ở phòng bộ môn
4 p | 51 | 2
-
Kinh nghiệm và giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý giáo dục đại học tại trường Đại học Y Thái Bình
10 p | 113 | 0
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn