290
NÂNG CAO NHN THỨC, THÁI Đ VÀ K NĂNG S CA GING VIÊN
VÀ SINH VIÊN NHM THÍCH NG VI CHUYN ĐI S TRONG
GIÁO DC M TẠI TRƯỜNG ĐẠI HC M TP. H CHÍ MINH
Hồ Ngọc Anh1
Email: anh.hn@ou.edu.vn
Tóm tắt: Nghiên cứu này nhằm mục đích làm thực trạng đề xuất giải pháp
nâng cao nhận thức, thái độ kỹ năng số của giảng viên sinh viên để thích ứng với
chuyển đổi số trong giáo dục mở tại Trường Đại học Mở TP. Hồ Chí Minh. Bằng việc khảo
sát giảng viên và sinh viên của trường, kết hợp với phỏng vấn sâu, nghiên cứu chỉ ra rằng
mặc dù đa số đối tượng đã nhận thức được tầm quan trọng của chuyển đổi số, song vẫn còn
tồn tại những băn khoăn về năng lực thích ứng. Thực trạng này xuất phát từ việc nhà trường
còn phải tiếp tục triển khai đồng bộ và quyết liệt các giải pháp để chuẩn bị tốt cho đội ngũ.
Nghiên cứu đề xuất một số kiến nghị then chốt như tăng cường truyền thông, đào tạo, xây
dựng hệ thống hỗ trợ môi trường số an toàn, phát triển chuẩn năng lực chính sách
khuyến khích phù hợp. Từ đó, góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đáp ứng yêu
cầu của giáo dục mở trong kỷ nguyên số.
Từ khóa: chuyển đổi số, giáo dục mở, nhận thức, thái độ, kỹ năng số, giảng viên,
sinh viên.
I. Đặt vấn đề
Chuyển đổi số đang là xu thế tất yếu của giáo dục đại học trong bối cảnh Cách mạng
công nghiệp 4.0. Việc chuyển đổi mạnh mẽ sang mô hình giáo dục mở trực tuyến đã đang
tạo ra nhiều hội thách thức cho các sở giáo dục, đặc biệt Trường Đại học Mở
TP.HCM - một trong những trường tiên phong về đào tạo từ xa tại Việt Nam. Để quá trình
chuyển đổi thực sự đi vào chiều sâu và phát huy hiệu quả, việc chuẩn bị tốt nhận thức, thái
độ kỹ năng công nghcho đội ngũ giảng viên sinh viên một trong những "chìa khóa"
then chốt.
Thời gian qua, Việt Nam đã ban hành nhiều văn bản pháp lý quan trọng để thúc đẩy
chuyển đổi số trong giáo dục đại học như Thông tư 12/2016/TT-BGDĐT quy định ứng dụng
công nghệ thông tin trong quản lý, đào tạo (Bộ Giáo dục Đào tạo, 2016), Thông
10/2017/TT-BGDĐT ban hành quy chế đào tạo từ xa trình độ đại học (Bộ Giáo dục và Đào
tạo, 2017). Đặc biệt trong bối cảnh đại dịch Covid-19, BGiáo dục Đào tạo (2021) đã
ban hành Công điện về tổ chức dạy học ứng phó với diễn biến dịch bệnh, thúc đẩy các trường
1 Khoa Khoa học Cơ bản, Trường Đại học Mở Tp.HCM
291
đại học tăng cường áp dụng công nghệ trong giảng dạy và hỗ trợ sinh viên.
Những năm gần đây, đã nhiều nghiên cứu trong nước quốc tế về ứng dụng công
nghệ trong dạy và học, như nghiên cứu của Kiryakova (2009) về xu hướng giáo dục từ xa,
Means và cộng sự (2010) so sánh hiệu quả của học tập trực tuyến và truyền thống hay khảo
sát của Trần Văn Hùng (2021) về yếu tố ảnh hưởng đến việc chấp nhận học trực tuyến của
sinh viên trong đại dịch Covid-19.
Một số nghiên cứu trong nước cũng đã bước đầu phân tích thực trạng dạy-học trực
tuyến nhu cầu chuyển đổi số trong c trường đại học Việt Nam (Ngô Thị Lan Anh &
Hoàng Minh Đức, 2020; Pham & Ho, 2020). Theo Nam Hải & Trần Yến Nhi (2021),
sinh viên ngành kinh tế tại TP.HCM mức độ hài lòng khá cao với hình thức học trực
tuyến. Tuy nhiên, Bùi Quang Dũng cộng sự (2020) cho rằng sinh viên vẫn gặp không ít
rào cản trong quá trình chuyển đổi như thiếu tương tác, hạ tầng công nghệ chưa đồng bộ.
Việc hợp tác đại học - doanh nghiệp trong chuyển đổi số cũng là một hướng đi cần được đẩy
mạnh (Phạm Thị Hằng, 2021).
Mặc dù vậy,c nghiên cứu này mới tập trung làm rõ một skhía cạnh ca đánh giá
tn diện thực trng nhận thức, thái độ và ng lc số của chthể đào tạo trong chuyển đi sgo
dục mở, đc bit tại một tờng đại học mđiển hình như Tng Đại học Mở TP.HCM.
Xuất phát từ những lý do trên, chúng tôi thực hiện nghiên cứu "Nâng cao nhận thức,
thái độ và kỹ năng số của giảng viên và sinh viên để thích ứng với chuyển đổi số trong giáo
dục mở tại Trường Đại học Mở TP. Hồ Chí Minh". Nghiên cứu có các đóng góp chính sau:
(1) Làm sáng tỏ sở lý thuyết về mối quan hệ giữa nhận thức, thái độ và năng lực
số trong bối cảnh chuyển đổi số.
(2) Cung cấp bức tranh tổng quan về thực trạng nhận thức, thái đ kỹ ng số của đội
ngũ giảng viên, sinh viên tại Trường Đại học Mở TP.HCM dựa trên số liệu kho sát thực tế.
(3) Đề xuất các giải pháp cthể, khthi đng cao nhận thức, thái đ ng lực thích
ng của giảng viên, sinh viên Trường Đại học Mở TP Hồ Chí Minh, làm sở cho việc hoạch
định chính sách phát triển nguồn nhân lực chấtợng cao trong bối cảnh chuyển đổi số.
II. Cơ sở lý thuyết
2.1. Chuyển đổi s và giáo dc m
Chuyển đổi số được hiểu quá trình ứng dụng công nghệ số như dữ liệu lớn, điện
toán đám mây, Internet vạn vật và trí tuệ nhân tạo để tối ưu hóa hoạt động và tạo ra các giá
trị mới (Serea & Mihaela, 2020). Trong lĩnh vực giáo dục, chuyển đổi số không chỉ dừng lại
ở việc tin học hóa mà còn làm thay đổi căn bản phương thức vận hành của nhà trường, mô
hình tổ chức lớp học, phương pháp dạy và học.
Chuyển đổi số là xu thế tất yếu để nâng cao chất lượng, công bằng và hiệu quả giáo
292
dục. Ngày nay, người học có thể tiếp cận tri thức mọi lúc mọi nơi, tương tác đa chiều và trải
nghiệm học tập đa dạng trên nền tảng số. Nhờ công nghệ, các trường thcung cấp chương
trình đào tạo mềm dẻo, thể a tích hợp liên ngành để phát triển toàn diện năng lực
người học (Means et al., 2010). Chuyển đổi số cũng góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả
quản lý và huy động sự tham gia của các bên liên quan.
Giáo dục mở là một mô hình tiên phong ứng dụng công nghệ để mở rộng hội học
tập cho mọi đối tượng, đặc biệt là người lớn và người đang đi làm. hình này được định
hướng phát triển mạnh mẽ trong kỷ nguyên số với các đặc trưng chính:
- Mở về phương thức tổ chức đào tạo: kết hợp đào tạo trực tuyến trực tiếp, đảm
bảo tính linh hoạt cho người học.
- Mở về kết nối với cộng đồng: tăng ờng hợp tác với các doanh nghiệp, hiệp hội
nghnghiệp, sở giáo dục tổ chức khác để đào tạo gắn với nhu cầu hội (Phạm Thị
Hằng, 2021).
- Mở về tiếp cận tri thức: hình thành hệ sinh thái tri thức số đa dạng, phong phú, gồm
khóa học trực tuyến mở (MOOCs), học liệu mở (OER), diễn đàn thảo luận mạng lưới
chuyên gia (Pham & Ho, 2020).
- Mở về công nhận kết quả giáo dục: áp dụng cơ chế kiểm định chất lượng linh hoạt
và công nhận tín chỉ lẫn nhau giữa các hình thức đào tạo (Bộ Giáo dục và Đào tạo, 2017).
thể thấy, chuyển đổi số giáo dục mở mối quan hbiện chứng với nhau.
Công nghệ số là điều kiện tiên quyết để phát triển hình giáo dục mở. Ngược lại, giáo dục
mở cũng là một trong những động lực thúc đẩy quá trình chuyển đổi số trong giáo dục (Ngô
Thị Lan Anh & Hoàng Minh Đức, 2020). Với cách một trường đại học mở hàng đầu
Việt Nam, Trường Đại học Mở TP.HCM đang nỗ lực đtrở thành một trung tâm xuất sắc
về đào tạo trực tuyến, nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ về giáo dục từ xa
giáo dục mở cho cả nước.
2.2. Nhn thức, thái độ và k năng số trong chuyển đổi s
2.2.1. Nhn thc v chuyển đổi s
Nhận thức thể hiện sự hiểu biết, đánh giá của con người về một vấn đề, sự vật hay
hiện tượng. Trong bối cảnh chuyển đổi số, giảng viên và sinh viên cần có nhận thức đầy đủ
đúng đắn về bản chất, tác động triển vọng của công nghệ số đối với ngành giáo dục
nói chung và đối với bản thân mình nói riêng.
Theo Bond et al. (2018), nhận thức về chuyển đổi số của giảng viên và sinh viên bao
gồm: nhận thức về tính tất yếu và không thể đảo ngược của xu hướng này; nhận biết những
cơ hội và thách thức mà chuyển đổi số mang lại; hiểu rõ vai trò và trách nhiệm của bản thân
trong quá trình chuyển đổi.
293
Kết quả nghiên cứu tại các trường Đại học Đức cho thấy, nhận thức của giảng viên
sinh viên càng tích cực, đầy đủ bao nhiêu thì động lực sự sẵn sàng tham gia chuyển
đổi số càng cao bấy nhiêu (Bond et al., 2018). Ngược lại, nếu không hiểu rõ ý nghĩa, lợi ích
và sự cần thiết của chuyển đổi số thì giảng viên và sinh viên sẽ thờ ơ hoặc thậm chí có tâm
lý chống đối.
Theo Bùi Quang Dũng cộng sự (2020), mặc nhận thức được tầm quan trọng,
song không ít sinh viên Việt Nam còn băn khoăn về chất lượng của học trực tuyến so với
học truyền thống. Nhiều giảng viên cũng lo ngại việc sử dụng công nghệ sẽ làm giảm khả
năng kiểm soát lớp học (Pham & Ho, 2020).
thế, để thúc đẩy quá trình chuyển đổi số, điều quan trọng phải xây dựng nhận
thức chung về tính tích cực và tiến bộ của việc ứng dụng công nghệ vào dạy và học. Điều này
không có nghĩa là ép buộc giảng viên và sinh viên từ bỏ hoàn toàn mô hình truyền thống, mà
tạo điều kiện để họ khám phá những lợi thế của giáo dục số thông qua trải nghiệm thực tế.
2.2.2. Thái độ vi chuyển đổi s
Thái độ là sự sẵn sàng của cá nhân để hành động hoặc phản ứng với một đối tượng,
sự vật hay con người theo một cách nhất định (Meyer, 2005). Thái độ thường bao gồm 3
thành tố: niềm tin, cảm xúc xu hướng hành vi. Trong bối cảnh chuyển đổi số giáo dục,
thái độ của giảng viên và sinh viên thể hiện qua:
- Niềm tin vào tiềm năng và lợi ích của việc ứng dụng công nghệ để cải tiến phương
pháp dạy và học.
- Sự yêu thích, hứng thú và thoải mái khi sử dụng các phương tiện và nền tảng số.
- Sự sẵn sàng và nỗ lực tích cực để thích nghi, học hỏi và sáng tạo trong môi trường
dạy học trực tuyến.
Nghiên cứu của Scherer et al. (2019) cho thấy thái độ lạc quan sẽ thúc đẩy giảng viên
chủ động và kiên trì áp dụng công nghệ hơn. Thái độ này cũng khiến sinh viên cởi mở, tích
cực tương tác hơn trên môi trường số. Ngược lại, nếu tâm hoài nghi, sợ hãi hay thụ
động thì giảng viên, sinh viên sẽ né tránh trải nghiệm công nghệkhông phát huy hết tiềm
năng của mình.
Theo Lê Nam Hải & Trần Yến Nhi (2021), các yếu tố chính ảnh hưởng đến thái độ
của sinh viên đối với học trực tuyến bao gồm: nh dễ sử dụng của hệ thống, cảm nhận về
tính hữu ích, động lực và trải nghiệm cá nhân. Ngoài ra, thái độ cởi mở, sự khích lệ từ phía
giảng viên cũng đóng vai trò quan trọng để sinh viên tham gia tích cực hơn.
Vì vậy, để nuôi dưỡng thái độ tích cực trong chuyển đổi số, các trường cần tạo môi
trường học tập thân thiện, an toàn và đầy cảm hứng. Giảng viên cũng cần thể hiện sự nhiệt
tình, kiên nhẫn, chia sẻ để truyền năng lượng tích cực cho sinh viên. Có như vậy, tâm lý của
294
cả người dạy và người học mới thực sự thay đổi theo chiều hướng tốt đẹp.
2.2.3. K năng số
UNESCO (2018) định nghĩa kỹ năng số năng lực sử dụng các công cụ tài
nguyên kỹ thuật số để tạo ra, quản lý và chia sẻ nội dung số, giao tiếp và hợp tác trực tuyến,
giải quyết vấn đề và thể hiện bản thân trong xã hội tri thức. Hiện nay, kỹ năng số được xem
là kỹ năng thiết yếu để công dân hòa nhập và thành công trong thế kỷ 21.
Theo Serea & Mihaela (2020), kỹ năng số cần thiết cho giảng viên trong bối cảnh
chuyển đổi số bao gồm:
- Kỹ năng phạm số: thiết kế tổ chức hoạt động dạy học trực tuyến, kiểm tra
đánh giá bằng công nghệ, khai thác phần mềm chuyên dùng trong giảng dạy.
- Kỹ năng thông tin và dữ liệu: tìm kiếm, đánh giá, lưu trữ và chia sẻ dữ liệu và nội
dung số, quản lý và khai thác các nguồn học liệu mở.
- Kỹ năng giao tiếp hợp tác số: tương tác đa phương tiện, sử dụng các nền tảng
cộng tác trực tuyến, tham gia cộng đồng mạng và các mạng lưới chuyên môn.
- Kỹ năng an toàn số: bảo vệ dữ liệu cá nhân, nhận biết rủi ro và nguy cơ trên mạng,
quản lý danh tính và dấu chân số.
- Kỹ năng sáng tạo số: phát triển nội dung và tài nguyên giáo dục mở, lập trình ứng
dụng và xây dựng môi trường học tập số.
Trong khi đó, kỹ năng số quan trọng của sinh viên gồm:
- Kỹ năng học tập số: sử dụng thành thạo các thiết bị nền tảng học trực tuyến,
tương tác chủ động với giảng viên và bạn học, tổ chức và lập kế hoạch học tập hiệu quả.
- Kỹ năng tìm kiếm xử thông tin: đánh giá độ tin cậy của nguồn tin, tổng hợp
và sáng tạo tri thức mới dựa trên dữ liệu và thông tin sẵn có.
- Kỹ năng thuyết trình làm việc nhóm trực tuyến: sử dụng các công cụ hỗ trợ trình
chiếu, tổ chức ý tưởng rõ ràng, điều phối và đóng góp hiệu quả vào các dự án nhóm.
- Kỹ năng số hóa lưu trữ dữ liệu: ghi chép điện tử, sắp xếp lưu trữ các định
dạng tài liệu khác nhau, sao lưu và khôi phục dữ liệu.
Theo mô hình chấp nhận và sử dụng công nghệ (TAM) của Scherer et al. (2019), kỹ
năng số một trong những yếu tố then chốt quyết định đến hiệu quả ứng dụng công nghệ
trong dạy và học. Giảng viên, sinh viên càng thành thạo kỹ năng số thì sự dễ dàng và tự tin
khi sử dụng công nghệ càng cao. Mối quan hệ y lại càng thúc đẩy họ tiếp tục rèn luyện,
nâng cao trình độ. Từ đó, hình thành một vòng lặp tích cực giữa việc học tập vận dụng
công nghệ.
Để đẩy mạnh quá trình chuyển đổi số, các trường cần chuẩn hóa năng lực công nghệ