ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM –––––––––––––––––––––
NGUYỄN THỊ THỦY
NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG NHÂN VẬT
TRONG TIỂU THUYẾT NGUYỄN BÌNH PHƯƠNG
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM
Thái Nguyên - 2015
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM –––––––––––––––––––––
NGUYỄN THỊ THỦY
NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG NHÂN VẬT
TRONG TIỂU THUYẾT NGUYỄN BÌNH PHƯƠNG
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Mã số: 60 22 01 21
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS VŨ TUẤN ANH
Thái Nguyên - 2015
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
XÁC NHẬN
XÁC NHẬN CỦA ĐẠI DIỆN
CỦA CÁN BỘ HƯỚNG DẪN
KHOA CHUYÊN MÔN
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đề tài luận văn khoa học: “Nghệ thuật xây dựng nhân
vật trong Tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương” với các số liệu, kết quả nghiên
cứu trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất cứ
công trình nào khác, hoàn toàn là công trình nghiên cứu của tôi.
Tác giả luận văn
Nguyễn Thị Thủy
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn i
Lêi c¶m ¬n
Víi t×nh c¶m ch©n thµnh, t«i xin
bµy tá lßng biÕt ¬n tíi c¸c thÇy
gi¸o, c« gi¸o ®· nhiÖt t×nh tham
gia gi¶ng d¹y, gióp ®ì t«i trong
suèt qu¸ tr×nh häc tËp còng nh
trong thêi gian viÕt luËn v¨n.
§Æc biÖt t«i xin bµy tá lßng
biÕt ¬n ch©n thµnh, s©u s¾c tíi
PGS.TS Vò TuÊn Anh, ng êi trùc
tiÕp, tËn t×nh h íng dÉn, gióp ®ì
t«i trong qu¸ tr×nh h×nh thµnh,
triÓn khai nghiªn cøu vµ hoµn
chØnh luËn v¨n.
Tuy nhiªn, thêi gian nghiªn cøu
cã h¹n, luËn v¨n kh«ng tr¸nh khái
thiÕu sãt t«i kÝnh mong nhËn ® îc
sù chØ dÉn, gãp ý cña Héi ®ång
khoa häc, c¸c thÇy c« gi¸o vµ c¸c Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn ii b¹n bÌ ®ång nghiÖp
Thái Nguyên, tháng 04 năm 2015
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan………………………………………………………………......i
Lời cảm ơn…………………………………………………………………....ii
Mục lục…………………………………………………………………….....iii
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
1. Lí do chọn đề tài ............................................................................................ 1
2. Lịch sử vấn đề ............................................................................................... 2
3. Phạm vi, đối tượng và phương pháp nghiên cứu .......................................... 7
4. Mục đích nghiên cứu ..................................................................................... 7
5. Đóng góp của luận văn .................................................................................. 8
6. Cấu trúc luận văn .......................................................................................... 8
Chương 1. KHÁI QUÁT VỀ NGUYỄN BÌNH PHƯƠNG VÀ TIỂU
THUYẾT VIỆT NAM ĐƯƠNG ĐẠI ............................................................ 9
1.1. Khái quát về Nguyễn Bình Phương .......................................................... 9
1.1.1. Nhà văn và tiểu sử ................................................................................... 9
1.1.2. Một số quan niệm của Nguyễn Bình Phương về hiện thực, con người và
nghệ thuật .......................................................................................................... 9
1.2 Tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương trong dòng chảy văn học đương đại .. 14
1.2.1. Tiểu thuyết như một thế giới ................................................................... 14
1.2.2. Tiểu thuyết là một thể hỗn hợp, pha trộn, lai ghép .................................. 16
1.2.3. Tiểu thuyết như một trò chơi hay chân lý của tiểu thuyết là sự hoài nghi ..... 16
1.2.4. Tiểu thuyết trong sự tương tác, sự vận động, phát triển của thể loại. ... 17 CHƯƠNG 2. NHỮNG PHƯƠNG THỨC ĐẶC THÙ CỦA NGHỆ
THUẬT XÂY DỰNG NHÂN VẬT TRONG TIỂU THUYẾT NGUYỄN
BÌNH PHƯƠNG ............................................................................................ 19
2.1. Các loại hình nhân vật cơ bản trong tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương ........ 19
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn iii
2.1.1. Nhận diện khái quát về nhân vật trong tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương .. 19
2.1.2. Các kiểu loại nhân vật trong tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương ........... 20
2.2. Những phương thức đặc thù trong nghệ thuật xây dựng nhân vật .......... 37
2.2.1. Đặt nhân vật trong một không gian và thời gian nghệ thuật đặc biệt. .. 37
2.2.2. Nhân vật được xây dựng qua những giấc mơ, những ám ảnh dị thường. ... 41
2.2.3. Xây dựng nhân vật với những thủ pháp nghệ thuật đặc trưng của chủ
nghĩa hiện thực huyền ảo. ............................................................................... 46
2.2.4. Nhân vật được xây dựng thông qua kĩ thuật dòng ý thức ..................... 50
Chương 3. HÌNH THỨC TỰ SỰ TRONG MỐI LIÊN HỆ VỚI THẾ
GIỚI NHÂN VẬT TRONG TIỂU THUYẾT NGUYỄN BÌNH ............... 57
3.1. Người kể chuyện và điểm nhìn trần thuật ................................................ 57
3.1.1. Vài vấn đề về lí thuyết .......................................................................... 57
3.1.2. Người kể chuyện và điểm nhìn trần thuật trong tiểu thuyết Nguyễn
Bình Phương .................................................................................................... 58
3.2. Kết cấu trần thuật trong tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương ..................... 76
3.2.1. Kết cấu đa tầng, xoắn kép ..................................................................... 76
3.2.2. Kết cấu phân mảnh ................................................................................ 80
3.3. Ngôn ngữ và giọng điệu trần thuật .......................................................... 83
3.3.1 Ngôn ngữ trần thuật ............................................................................... 83
3.3.2. Giọng điệu trần thuật ............................................................................. 88
KẾT LUẬN .................................................................................................... 97
THƯ MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................... 100
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn iv
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Tiểu thuyết là thể loại quan trọng nhất trong văn xuôi nghệ thuật hiện
đại. Tiểu thuyết được định nghĩa là “Tác phẩm tự sự cỡ lớn có khả năng phản
ánh hiện thực đời sống ở mọi giới hạn không gian và thời gian”[25]. Tiểu thuyết
cũng là thể loại có khả năng khám phá cuộc sống ở nhiều chiều và nhiều khía
cạnh đời tư khác nhau. Một trong những lí do khiến tiểu thuyết có được vai trò
quan trọng đó bởi tiểu thuyết thuộc thể loại “sinh sau đẻ muộn”, có điều kiện gần
gũi với con người hiện đại.
1.2 Tiểu thuyết Việt Nam thời kì đổi mới đã đứng trước nhu cầu đổi mới tư
duy tiểu thuyết. Nhìn từ góc độ thi pháp thể loại, tiểu thuyết đương đại Việt
Nam đã có những cách tân đáng kể và có nhiều thành tựu đánh ghi nhận về đề
tài, cốt truyện, ngôn ngữ, nhân vật... Đặc biệt nghệ thuật xây dựng nhân vật là
một trong những phương diện quan trọng nhất cho thấy những cách tân, sáng tạo
của tiểu thuyết Việt Nam đương đại.
1.3 Nói đến tiểu thuyết là nói đến việc xây dựng nhân vật. Trong tiểu thuyết,
vấn đề quan trọng phải là vấn đề nhân vật của tiểu thuyết ... trong tiểu thuyết ngoài
nhân vật không còn cái gì khác nữa, nhân vật vừa là cơ thể, vừa là linh hồn [11].
Việc xác định vai trò của nhân vật trong tiểu thuyết còn tùy thuộc vào quan niệm
và phong cách sáng tác của mỗi nhà văn, nhưng quan niệm về sự hiện hữu quan
trọng của nhân vật trong tiểu thuyết là một điều đã được khẳng định.
1.4 Nguyễn Bình Phương là tác giả thuộc trào lưu đổi mới tiểu thuyết Việt
Nam, tên tuổi anh được biết đến từ cuối những năm 90. Một số tiểu thuyết của anh
như: Những đứa trẻ chết già (1994), Người đi vắng (1999), Trí nhớ suy tàn
(2000), Thoạt kỳ thủy (2004), Ngồi (2006), Mình và họ (2014) đã thể hiện một
lối viết rất mới lạ, mở ra một hướng tiếp cận mới cho người đọc. Những năm gần
đây, tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương đã trở thành đối tượng của nhiều công trình
nghiên cứu khoa học, được khám phá trên nhiều phương diện như ngôn ngữ, thể
loại, kết cấu, nhân vật… Đánh giá về bản thân, Nguyễn Bình Phương nhã nhặn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 1
khi cho rằng mình không có chỗ trên văn đàn vì chỉ là người viết nghiệp dư, viết
chơi, “viết nhăng viết cuội” cho vui. Mặc dù vậy, nếu cần lựa chọn một hiện
tượng tiêu biểu nhất của tiểu thuyết Việt Nam đương đại, nhà nghiên cứu Phạm
Xuân Thạch vẫn dành ưu tiên số một cho sáng tác của Nguyễn Bình Phương. Điều
đó cho thấy vị trí của anh đâu hẳn là khiêm tốn như anh từng nhận.
1.5 Tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương có những cách tân mạnh mẽ về tư
duy tiểu thuyết, là một thế giới nghệ thuật cần nghiên cứu, tìm hiểu. Một trong
những điểm đáng chú ý góp phần giải mã tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương là
nghệ thuật xây dựng nhân vật. Trong quá trình hiện đại hóa tiểu thuyết, Nguyễn
Bình Phương đã tạo ấn tượng trong lòng độc giả bởi lối viết, cách kết cấu đặc
biệt là nghệ thuật xây dựng nhân vật. Nguyễn Bình Phương đã khẳng định: Tôi
không xây dựng một nhân vật điển hình trong tác phẩm của mình. Và theo tác
giả “Cuộc sống của tôi và nhân vật không có liên quan nhiều. Còn những nhân
vật của tôi gọi là méo mó, thì đó là cái méo mó tự thân. Có người bảo tôi xây
dựng nhân vật đặt trong trạng thái quá khứ mờ mịt, hiện tại lộn nhộn và tương
lai vô định, nhưng tôi không nghĩ thế. Các nhân vật của tôi sống bản năng,
nhưng tiềm tàng một niềm tin đứng dậy” [43]. Vừa được xây dựng bằng những
phương thức chung, vừa có những cách tân độc đáo mới lạ, nhân vật trong tiểu
thuyết Nguyễn Bình Phương vẫn luôn có mối liên hệ với cuộc đời, vẫn là hình
bóng của con người, vẫn hàm chứa những tư tưởng, những vấn đề nhân sinh sâu
sắc song không dễ khám phá, đòi hỏi một thái độ nghiêm túc và đồng sáng tạo
của mỗi độc giả. Đó chính là lí do chúng tôi chọn đề tài nghiên cứu Nghệ thuật
xây dựng nhân vật trong tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương.
2. Lịch sử vấn đề
Với 8 tiểu thuyết, một số tập thơ và truyện ngắn có thể nói Nguyễn Bình
Phương được dư luận khá quan tâm. Mỗi khi nhà văn cho ra đời một tác phẩm
mới, dư luận và bạn đọc lại chú ý tìm hiểu và bày tỏ các đánh giá dưới nhiều
dạng khác nhau. Các bài báo viết về sáng tác của Nguyễn Bình Phương khá
nhiều từ báo mạng đến báo viết, từ những bài báo mang tính chất giới thiệu đến
những bài nghiên cứu trên các tạp chí chuyên ngành, từ những bài báo về một
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 2
tác phẩm cụ thể đến những bài báo có tính khái quát cao. Một trong những nhà
nghiên cứu sớm viết bài về Nguyễn Bình Phương là Đoàn Cầm Thi. Nhà nghiên
cứu này đã nhìn các sáng tác của Nguyễn Bình Phương dưới cái nhìn của vô
thức và hữu thức trong mối liên hệ với thơ Hàn Mặc Tử và Hồ Xuân Hương
(Sáng tác văn học: giấc mơ và điên, người đàn bà nằm: Từ “thiếu nữ ngủ
ngày” đọc “Người đi vắng” của Nguyễn Bình Phương). Từ đó, tác giả bài viết
chỉ ra những đặc sắc trong cách nhìn nhận hiện thực và con người của Nguyễn
Bình Phương. Với lối viết dựa trên cơ sở của phân tâm học Đoàn Cầm Thi đã
gợi mở về hướng tiếp cận các tác phẩm của Nguyễn Bình Phương.
Trên websitee http//chimviet.fr.free và trên trang web cá nhân của
Thuỵ Khuê (http://thuykhue.fr.free) đã đăng tải khá nhiều các bài viết nghiên
cứu về các yếu tố huyền ảo, tâm linh trong từng tiểu thuyết của Nguyễn Bình
Phương như “Khuynh hướng hiện thực huyền ảo trong tiểu thuyết Những đứa
trẻ chết già”, “Tính chất hiện thực linh ảo âm dương trong tiểu thuyết Người đi
vắng”, “Những yếu tố tiểu thuyết mới trong tác phẩm Trí nhớ suy tàn”,
“Những đặc trưng của bút pháp huyền ảo trong tiểu thuyết Ngồi”…
Những bài viết này đã chỉ ra những nét nổi bật nhất của từng tác phẩm trong
sáng tác của nhà văn. Mỗi bài viết là những nhận xét đánh giá xác đáng,
tinh tế, là những phát hiện có tính chất gợi mở cho những người nghiên
cứu về Nguyễn Bình Phương. Tuy nhiên các bài viết này thiếu tính hệ thống và
nhất quán trong phương pháp tiếp cận. Vì vậy tuy là sự ghi nhận đối với tác giả
nhưng lại chưa có những đánh giá khái quát bao trùm được hệ thống tác phẩm
của Nguyễn Bình Phương.
Một số bài báo về Nguyễn Bình Phương rất đáng chú ý trong số vô vàn
các bài báo viết về nhà văn này ta có thể kể đến như bài báo của nhà nghiên cứu
Phạm Xuân Thạch đăng trên báo Văn nghệ số ra ngày 25/11/2006, đánh giá về
Ngồi nhưng cũng là những ghi nhận chung cho sự sáng tạo của Nguyễn Bình
Phương. Bài báo này đi sâu vào nội dung ý nghĩa của tiểu thuyết Nguyễn Bình
Phương: “Nó là một cuộc mời gọi đặt vấn đề phản tư về đời sống và ý nghĩa của
đời sống. Nó là một tiểu thuyết bắt người ta suy nghĩ và làm điều ấy, nó xứng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 3
đáng là một tiểu thuyết và là một tiểu thuyết xuất sắc”. Những lời khen sôi
nổi, nhiệt thành mà Phạm Xuân Thạch dành cho Nguyễn Bình Phương được đưa
ra từ những căn cứ mà nhà nghiên cứu phát hiện rất tinh tế, độc đáo. Tuy nhiên
bài viết giống như bài phê bình hơn nghiên cứu, và mới chỉ dừng lại ở chỗ đánh
giá một tác phẩm.
Trên tạp chí chuyên ngành Nghiên cứu văn học số tháng 4 năm 2008 tác
giả Đoàn Ánh Dương đã có một bài viết rất đáng lưu ý: “Nguyễn Bình Phương,
lục đầu giang tiểu thuyết”. Bài viết có sự nghiên cứu công phu, có cái nhìn hệ
thống và cách tiếp cận khá độc đáo. Tác giả đã ví mỗi tiểu thuyết như là một
dòng sông chi lưu hợp lưu lại để cùng đổ ra biển rộng. Hướng tiếp cận của tác
giả bài viết là ở cấu trúc và phương thức huyền thoại, chỉ ra nét đặc trưng nhất
của mỗi chi lưu trong dòng hợp lưu chung. Bài viết có khen có chê và có những
đánh giá khá khách quan chính xác về tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương. Tác giả
Trần văn Ban trên tạp chí nghiên cứu khoa học năm 2012 đã có bài nghiên cứu
về Ngôn ngữ và giọng điệu trong tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương, tác giả đã
phát hiện ra một số đặc trưng cơ bản trong ngôn ngữ và giọng điệu của tiểu
thuyết Nguyễn Bình Phương: “Ngôn ngữ sinh hoạt, đời thường với giọng điệu
thờ ơ, cay nghiệt, Ngôn ngữ của giấc mơ, của vô thức với giọng điệu trữ tình, ai
oán, hoài niệm”...
Gây được sự chú ý như vậy với dự luận, tác phẩm của Nguyễn Bình
Phương cũng đã tạo ra một sức hút đối với các bạn đọc chuyên nghiệp,
những sinh viên chuyên ngành và những nhà nghiên cứu. Các báo cáo khoa học
của sinh viên về một thủ pháp nghệ thuật, một tác phẩm cụ thể khá nhiều.
Luận án tiến sĩ Những cách tân nghệ thuật trong tiểu thuyết Việt Nam 1986-
2006 của Mai Hải Oanh- 2007, Luận án tiến sĩ Những đổi mới trong tiểu thuyết
từ 1986- 2000 của Trần Mai Nhân năm 2006, Luận án tiến sĩ Con người trong
tiểu thuyết Việt Nam thời kì đổi mới của Nguyễn Thị Kim Tiến năm 2012; Các
đề tài tốt nghiệp đại học như: Đến Ngồi – một hành trình cách tân tiểu
thuyết của Nguyễn Bình Phương do sinh viên Nguyễn Ngọc Quân khoa Ngữ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 4
văn, trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Hà Nội thực hiện. Ngoài
ra có thể kể đến luận văn thạc sĩ văn học của Hồ Thị Bích Ngọc, Nguyễn Bình
Phương với việc khai thác tiềm năng thể loại để hiện đại hoá tiểu thuyết,
trường Đại học Sư phạm Hà Nội năm 2008; luận văn thạc sĩ văn học của Nguyễn
Thị Phương Diệp Nghệ thuật tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương, trường Đại
Học Khoa học Xã hội và Nhân văn năm 2010; luận văn thạc sĩ văn học của
Hoàng Thị Thùy Linh Nghệ thuật tự sự trong tiểu thuyết Nguyễn Bình
Phương, trường Đại học Khoa học Xã hội & Nhân văn năm 2012, luận văn thạc
sĩ Kĩ thuật dòng ý thức trong tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương, luận văn thạc
sĩ Yếu tố kì ảo trong tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương của Nguyễn Ngọc Anh
trường Đại học Sư phạm Thái Nguyên năm 2008... Các công trình này đều đi
sâu khai thác khả năng hiện đại hóa, cách tân sáng tạo, những đóng góp của
Nguyễn Bình Phương trên nhiều phương diện: kết cấu, ngôn ngữ, thi pháp, nhân
vật... của tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương.
Nhiều công trình khoa học khác không lấy tiểu thuyết của Nguyễn Bình
Phương là đối tượng nghiên cứu duy nhất. Nhưng nhìn chung đa số các công
trình nghiên cứu về tiểu thuyết Việt Nam giai đoạn từ cuối những năm 90 của
thế kỷ trước đến những năm đầu thế kỷ XXI ít nhiều đều khảo sát các tiểu thuyết
của nhà văn này (đặc biệt là ở góc độ cấu trúc và nhân vật) và coi đây như một
trong những tác phẩm tiêu biểu của giai đoạn văn học trên như luận án tiến sĩ
ngữ văn Viện Văn học Việt Nam của tác giả Bùi Thanh Truyền, Yếu tố kì ảo
trong văn xuôi đương đại Việt Nam, hay luận án thạc sỹ văn học của Hoàng
Cẩm Giang tại trường Đại học khoa học Xã hội và Nhân văn về Cấu trúc
tiểu thuyết Việt Nam đầu thế kỷ XXI đều khảo sát tương đối nhiều trên tác
phẩm của Nguyễn Bình Phương. Điều đó cho thấy tiểu thuyết của tác giả này
khá tiêu biểu và có tính đại diện cho văn học giai đoạn này cả về mặt ưu lẫn
khuyết điểm.
Nghiên cứu về nhân vật trong tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương cũng là
vấn đề được nhiều người quan tâm. Luận án thạc sỹ văn học của Hoàng Cẩm
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 5
Giang tại trường Đại học khoa học Xã hội và Nhân văn về Cấu trúc tiểu
thuyết Việt Nam đầu thế kỷ XXI đã phát hiện ra kiểu nhân vật kí hiệu- biểu
tượng, nhân vật biến mất trong tiểu thuyết nguyễn Bình phương. Tiến sĩ Nguyễn
Mạnh Hùng có bài Người đi vắng, ai đọc Nguyễn bình Phương? Hay nỗi cô
đơn của tiểu thuyết cuối thế kỉ đã phát hiện ra nhân vật của Nguyễn Bình
Phương dấu kín những ám ảnh của mình và sống với nói. Luận văn thạc sĩ văn
học của Nguyễn Thị Hồng Nhung Thế giới nhân vật trong tiểu thuyết Nguyễn
Bình Phương, trường Đại Học Sư phạm Hà Nội năm 2009 đã phát hiện ra
những loại hình nhân vật cơ bản trong tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương như
nhân vật con người tha hóa, con người dục vọng; nhân vật con người vô thức-
người điên; nhân vật biểu tượng... Luận văn thạc sĩ văn học của Nguyễn Thị
Phương Diệp Nghệ thuật tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương, trường Đại Học
Khoa học Xã hội và Nhân văn năm 2010 đã khảo sát nghệ thuật xây dựng nhân
vật, khảo sát cách tổ chức không gian và thời gian và khảo sát về nghệ thuật kể
chuyện trên góc độ tổ chức kết cấu và người kể chuyện từ đó tìm ra những đặc
điểm mang tính cách tân trong nghệ thuật tự sự của tiểu thuyết Nguyễn Bình
Phương. Tác giả Trần Văn Ban trong tạp chí nghiên cứu văn học của Đại học Sư
phạm Hồ Chí Minh số 26 năm 2011 cũng đã có bài viết Kiểu nhân vật ám ảnh
trong tiểu thuyết nguyễn Bình Phương, tác giả đã chỉ ra: “những kiểu nhân vật
mơ hồ, khó nắm bắt, phi truyền thống, trong đó có kiểu nhân vật ám ảnh”....
Tuy còn có ý kiến trái chiều song chính những bài báo những
công trình nghiên cứu về Nguyễn Bình Phương đã khẳng định được chỗ đứng
của nhà văn này trong đời sống văn học hiện đại. Dù tiếp cận tác phẩm của anh
dưới góc độ nào chúng ta cũng không thể phủ nhận ý thức tìm tòi, quá trình lao
động nghệ thuật nghiêm túc, những ý tưởng được ấp ủ và trau chuốt của Nguyễn
Bình Phương trong quá trình cách tân tiểu thuyết Việt Nam. Qua việc tìm hiểu
lịch sử vấn đề như trên, chúng tôi cũng nhận thấy chưa thực sự có một công trình
nghiên cứu một cách hệ thống những đặc điểm nổi bật trong nghệ thuật xây dựng
nhân vật của tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương. Vì vậy luận văn này hi vọng sẽ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 6
hệ thống lại những nét tiêu biểu, đặc trưng về nghệ thuật xây dựng nhân vật
trong tiểu thuyết của nhà văn này, nhằm hướng tới một cái nhìn toàn diện, sâu
sắc và khách quan hơn. Thông qua những nghiên cứu này sẽ đánh giá được vai
trò của Nguyễn Bình Phương trong quá trình cách tân hiện đại hoá tiểu thuyết.
Đồng thời chỉ ra một số nét tiêu biểu của văn học đương đại nước nhà.
3. Phạm vi, đối tượng và phương pháp nghiên cứu
3.1. Phạm vi, đối tượng nghiên cứu:
Luận văn tập trung nghiên cứu về nghệ thuật xây dựng nhân vật trong 6
cuốn tiểu thuyết của Nguyễn Bình Phương, đó là: Những đứa trẻ chết già, Trí
nhớ suy tàn, Người đi vắng, Thoạt kì thuỷ, Ngồi, Mình và họ.
3.2. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu thi pháp học: vận dụng lí thuyết thi pháp học về
nghệ thuật xây dựng nhân vật để làm nổi bật đặc điểm của hệ thống nhân vật
trong tiểu thuyết.
Phương pháp loại hình: sử dụng cách phân chia theo loại hình nhân vật để
tìm ra những kiểu nhân vật chung trong tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương.
Phương pháp hệ thống: vận dụng quan điểm hệ thống, coi thế giới nhân
vật trong tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương là một chỉnh thể, hệ thống với các đặc
điểm riêng biệt của nó
Phương pháp thống kê, khảo sát: nhằm nhận biết và hệ thống các kiểu
nhân vật qua các tiểu thuyết.
Phương pháp phân tích tổng hợp, so sánh: nhằm làm nổi bật đặc trưng kiểu
nhân vật và nghệ thuật xây dựng nhân vật của nhà văn, đồng thời so sánh với các kiểu
nhân vật tương đồng của các tác giả khác để thấy được nét mới mẻ, độc đáo trong
nghệ thuật xây dựng nhân vật của tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương.
4. Mục đích nghiên cứu
Luận văn đi sâu tìm hiểu quan niệm nghệ thuật về con người của Nguyễn
Bình Phương, bởi đây là tư tưởng cơ bản để nhà văn đi vào lựa chọn và xây
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 7
dựng nhân vật.
Nhận dạng các mô hình nhân vật trong tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương.
Tập trung phân tích thế giới nhân vật trên những bình diện khác nhau.
Đi sâu vào tìm hiểu các thủ pháp nghệ thuật để xây dựng nhân vật của nhà
văn.
5. Đóng góp của luận văn
Hệ thống hóa thế giới nhân vật trong tiểu thuyết của Nguyễn Bình
Phương.
Đưa ra một góc độ tiếp cận mới đối với tác phẩm tiểu thuyết của Nguyễn
Bình Phương thông qua thế giới nhân vật.
Góp phần đánh giá tác phẩm của nhà văn thông qua việc nắm bắt một
cách rõ ràng và có hệ thống về thế giới nhân vật trong tiểu thuyết Nguyễn Bình
Phương.
Đóng góp một nghiên cứu về Nguyễn Bình Phương và tiểu thuyết Việt
Nam đương đại.
6. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn được triển khai qua 3 chương
Chương 1: Khái quát về Nguyễn Bình Phương và tiểu thuyết Việt Nam
đương đại
Chương 2: Những phương thức đặc thù của nghệ thuật xây dựng nhân vật trong
tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương
Chương 3: Hình thức tự sự trong mối liên quan đến thế giới nhân vật
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 8
trong tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương
PHẦN NỘI DUNG
Chương 1
KHÁI QUÁT VỀ NGUYỄN BÌNH PHƯƠNG VÀ TIỂU THUYẾT
VIỆT NAM ĐƯƠNG ĐẠI
1.1. Khái quát về Nguyễn Bình Phương
1.1.1. Nhà văn và tiểu sử
Nhà văn Nguyễn Bình Phương sinh ngày 29 tháng 12 năm 1965 tại
Thái Nguyên. Thời chiến tranh, tác giả cùng gia đình sơ tán về xã Linh Nham
thuộc huyện Đồng Hỷ, đến năm 1979 mới trở lại thành phố Thái Nguyên.
Nguyễn Bình Phương học hết phổ thông trung học năm 1985 rồi vào bộ đội; năm
1989 vào học trường viết văn Nguyễn Du; ra trường công tác một năm ở
Đoàn kịch nói Quân đội; sau đó là biên tập viên của Nhà xuất bản Quân
đội và hiện nay công tác tại Tạp chí Văn nghệ Quân đội.
Nguyễn Bình Phương viết văn bằng niềm đam mê, nhạy cảm cộng với tri
thức văn chương của một cây bút được đào tạo qua trường lớp. Tác giả viết đều
tay ở nhiều thể loại: tiểu thuyết, thơ, truyện ngắn, tản văn. Nhà văn Phùng Văn
Khai đã phác họa từ ngoại hình đến tinh thần của Nguyễn Bình Phương:
"Nguyễn Bình Phương có một khuôn mặt rất buồn. Anh ít nói trong các đám
đông hoặc hai người với nhau. Nhưng anh chăm chú mọi người, chăm chú vào
câu chuyện và rất sắc sảo, độc đáo trong suy nghĩ” [26], "Nếu coi văn chương là
một nghề thì cái nghề ấy đã đeo gông đóng số Nguyễn Bình Phương(...). Yêu
nghề đến ngơ ngẩn, yêu đến hành xác, tâm linh, sùng tín như anh quả là của
hiếm”[26]. Có lẽ chính tình yêu và lòng say mê ấy đã cống hiến cho bạn đọc, cho
văn học nước nhà những trang viết độc đáo giàu giá trị.
1.1.2. Một số quan niệm của Nguyễn Bình Phương về hiện thực, con người
và nghệ thuật
Quan niệm nghệ thuật được hiểu là “nguyên tắc cắt nghĩa thế giới và con
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 9
người vốn có của hình thức nghệ thuật, đảm bảo cho nó khả năng thể hiện đời
sống với một chiều sâu nào đó” [50,tr. 229]. Nó là cách nhìn và thái độ đối với
thế giới và con người của nhà văn được thể hiện trong tác phẩm. Trong một cuộc
trả lời phỏng vấn, Nguyễn Bình Phương đã nói: “Tôi chỉ có một nhận thức bảo
thủ là cố gắng viết cho nó gần sát với quan niệm của mình về văn chương vậy
thôi”. Mặc dù anh không nói nhiều về quan điểm của mình nhưng phải chăng
đây chính là gợi ý về con đường đi vào tác phẩm từ quan niệm nghệ thuật của
nhà văn.
Quan niệm hiện thực và con người của Nguyễn Bình Phương được phát
ngôn trực tiếp ở những bài trả lời phỏng vấn của báo chí. Trò chuyện với phóng
viên Vietnamnet, nhà văn nói: “Theo tôi, đời sống có những từ ngữ nào thì văn học
có quyền đưa từ đó vào. Tại sao lại bỏ nó đi trong khi nó vẫn sống hằng ngày, hằng
giờ hằng phút với chúng ta?” [42]. Anh coi trọng mọi từ ngữ tiếng Việt, dù là lớp
từ thanh cao, sang trọng hay tục tĩu trong phát ngôn của nhân vật. Điều đó cũng có
nghĩa là cho rằng mọi đề tài, hiện thực đều bình đẳng nhau trong văn học. Không ít
người dị ứng với nhiều yếu tố sex trong tác phẩm Nguyễn Bình Phương thì anh lại
thẳng thắn xem nó là “một trong những hành động giao tiếp đỉnh cao”, “bản thân
nó (sex) đã là quá đẹp, quá nhân văn, nó trọn vẹn là chính nó không lẫn với những
thứ khác” [42]. Hiện thực trong quan niệm của anh là tất cả những thứ hiển nhiên
trong cuộc sống với mọi góc khuất của nó. Nguyễn Bình Phương coi sự tồn tại của
những mảnh vỡ hiện thực là tất yếu. Vì thế, lẽ tất nhiên là tác phẩm của anh khai
thác cái đa chiều của hiện thực, từ cái quen thuộc hàng ngày đến cái kỳ quái, huyền
ảo, từ hiện thực cuộc sống đến hiện thực tâm linh. Các nhà văn đương đại gặp gỡ
nhau ở quan niệm này, chỉ có điều, họ tìm cho mình những cách nói riêng. Nguyễn
Huy Thiệp cho rằng: “Văn chương phải bất chấp hết, ngập trong bùn, sục tung lên,
thoát thành bướm và hoa”(Giọt máu). “Từ “bùn” chuyển sang “bướm và hoa” là
một sự lột xác đầy phiêu lưu, mạo hiểm” [24] bởi vì đó là cả một sự thay đổi về
nhãn quan hiện thực.
Quan niệm nghệ thuật về con người ở Nguyễn Bình Phương được thể
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 10
hiện độc đáo. Anh chú trọng đời sống nội tâm của con người, “Lịch sử chả là
gì cả nếu không có những cá nhân và cá nhân chẳng là gì cả nếu bản thân nó
không vang lên bất kỳ một ý nghĩ nào” [43]. Trọng tâm lịch sử chính là cá nhân
và đánh dấu sự tồn tại của mỗi cá nhân lại là đời sống nội tâm, những “ý nghĩ”
của họ. Vì thế chiều kích của tiểu thuyết không là gì khác ngoài “tổng số kích
thước ý nghĩ của tất cả các nhân vật trong tiểu thuyết đó”. Để lý giải điều này,
nhà văn cho rằng “nội tâm cá nhân con người cũng đã từng có, đang có những
cuộc chiến khủng khiếp” [41]. Đào sâu vào thế giới tâm hồn của con người, nơi
ít có mối quan hệ giao tiếp với bên ngoài nhưng ở đó con người phần lớn lại
sống thành thật nhất, không phải chuyện dễ dàng. Nó đòi hỏi cái nhìn tinh tế và
thái độ chấp nhận dấn thân của nhà văn. Nguyễn Bình Phương còn tiếp cận con
người ở phương diện bản năng với sức sống tiềm ẩn nhưng mạnh mẽ nằm ngoài
vùng kiểm soát của ý thức. Nó là cõi vô thức cùng với ẩn ức, dục vọng, mộng mị
và dòng chảy bất định, chồng chéo của suy tư. Vì thế ta thấy xuất hiện nhiều trong
tác phẩm của anh là hình ảnh người điên và giấc mơ. Tuy nhiên trong cách nhìn
của nhà văn, con người không hề mất niềm tin: “Các nhân vật của tôi sống bản
năng, nhưng tiềm tàng một niềm tin đứng dậy” [43]. Dù khai thác hiện thực hay
con người, Nguyễn Bình Phương đều mong muốn đi đến tận cùng sâu thẳm của
nó, truy tìm bản chất của cuộc đời.
Quan niệm về văn chương: “Không có sự sáng tạo, nhà văn sẽ tự tiêu
diệt mình”. Sáng tạo là ý thức thường trực ở người theo đuổi nghệ thuật, đặc
biệt là văn chương - một lĩnh vực nhạy cảm và cần nhiều tài năng. Về vấn đề
sáng tạo trong văn chương, Nguyễn Bình Phương có những cách diễn đạt khác:
“Nhà văn là người vượt qua những định nghĩa để tiến tới một định nghĩa
khác”. Tức là họ phải vượt qua tất cả để tạo cho mình tiếng nói riêng. Sáng tạo
bao giờ cũng là hệ quả của những cuộc kiếm tìm. Nguyễn Bình Phương đã tự
nhận về mình:
Ta lớn lên bằng kiếm tìm
Kiếm tìm giờ đã cũ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 11
(Bài thơ cũ)
Động lực của cuộc sống là tìm kiếm để lấp đầy kho trí tuệ và lấp đầy cảm
xúc. Mỗi sự kiếm tìm không bao giờ là cũ, nó chỉ cũ về mặt thời gian so với
những tìm kiếm khác mà thôi. Một con người luôn ám ảnh bởi cái cũ như
Nguyễn Bình Phương: “Ta sinh ra cô đơn/ Giờ cô đơn đã cũ/ Ta trưởng thành
bởi sợ hãi/ Sợ hãi cũng cũ rồi” thì tất yếu luôn mong muốn được đổi mới, có cái
để làm mới mình. Vì vậy, nó khiến cuộc sống và văn chương thêm nhiều ý
nghĩa. Nhà văn viết và nghĩ“Vắt như thể sự cạn kiệt đang đến gần”. Đây cũng là
điểm gặp gỡ ở các nhà văn đương đại. Bảo Ninh quan niệm trong Nỗi buồn chiến
tranh là viết với cả sự khổ công: “Viết khổ viết sở, viết như đập đầu vào đá, như
là tự tay tước vụn trái tim mình, như là lộn trái con người mình ra”. Hay như
triết lý của Nguyễn Huy Thiệp: “Công việc viết văn vốn rất nhọc nhằn, phức
tạp, lại buồn tẻ nữa” (Kiếm sắc). Nhà văn phải đi đến tận cùng cảm xúc và
những trải nghiệm cuộc đời, tức là phải chung sống với nhọc nhằn và cô đơn.
Trong sáng tác của Nguyễn Bình Phương ta thấy xuất hiện nhiều người điên
- những nhân vật không bình thường về suy nghĩ. Cả nhân vật cụ thể, mang tên như
Tính (Thoạt kỳ thủy), Cương (Người đi vắng), Quang, Mộc (Những đứa trẻ chết
già), đến những nhân vật không tên như gã điên đứng dưới mưa (Ngồi), người đàn
ông điên dưới gốc cây điệp vàng (Trí nhớ suy tàn), người đàn ông điên xuất hiện
trong những ngày binh biến của Đội Cấn (Người đi vắng). Đôi khi họ còn tập hợp
thành một “tập thể” đông đúc (Thoạt kỳ thủy) - một thế giới tâm lý phức tạp mà
không ai có thể xâm phạm được. Nhà văn đã từng phát biểu: “Tôi cho rằng người
điên chứa trong họ một phần rất lớn phẩm chất của nghệ thuật”. Thực chất, điên là
phần ngoại hiện của một trạng thái tinh thần. Nếu như văn học hiện thực hướng đến
khám phá con người về ý thức thì văn học hậu hiện đại lại quan tâm đến phần vô
thức, tiềm thức - phần nhá nhem, tranh tối tranh sáng nhưng dồi dào, vô tận ở con
người. “Người điên” không thể kiểm soát được hành động của mình, một cách nào
đó về mặt nghệ thuật, có thể cắt nghĩa như sự thăng hoa mà người nghệ sĩ đôi khi
cũng không thể ý thức được. Có lẽ vì quan niệm này mà đến với tiểu thuyết của
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 12
Nguyễn Bình Phương, ta nhận thấy có những đoạn viết rất “nham nhở”, tưởng như
được sắp xếp tùy ý nhiều mạch suy tư, nhiều lời tâm sự của một thế giới nhân vật đa
dạng. Điều này không chỉ phù hợp với bản chất của dòng chảy ý thức mà còn thể
hiện rõ sức mạnh của văn chương là khám phá vùng tiềm ẩn, vô tận của con người.
Nó khẳng định phẩm chất nghệ thuật được kết tinh từ sự vô tư hồn nhiên của một
trạng thái vô thức ngự trị triền miên.
Nguyễn Bình Phương đã từng có nhiều băn khoăn về văn chương, đã có
lúc anh nghĩ nó tách biệt với cuộc sống, là một thế giới riêng mà nhà văn phải
chấp nhận “bó buộc trong một khung cố định nào đó” của nó. Văn chương như
vậy sẽ trở nên nhạt nhẽo về cảm xúc và cứng nhắc, dập khuôn về hình thức.
Nhưng sự trải nghiệm trên từng trang viết đã khiến anh phần nào nhận thức được
bản chất của văn chương, “bản thân nó là chân trời tự do” [45] Nghĩa là văn
chương gắn bó với cuộc sống nhưng không bị bó buộc, nó là một thế giới mênh
mông và tự do, đối với cả người sáng tác lẫn người tiếp nhận. Người viết có thể
khai thác tất cả ở chân trời đó và tự do bộc lộ thái độ đối với cuộc sống. Người nhận
có những cách tiếp nhận riêng, cách thưởng thức tác phẩm riêng. Ý thức điều đó,
khiến nhà văn có thể sống và viết thành thật, dân chủ hơn. Tác phẩm của Nguyễn
Bình Phương (cả tiểu thuyết và thơ ca) tạo được ấn tượng từ sự khước từ khuôn
mẫu truyền thống. Văn chương với anh, thực sự được tôn trọng với bản chất nghệ
thuật của nó. Sự độc đáo trong sáng tác của anh đều bắt nguồn từ sự thay đổi trên
phương diện kỹ thuật.
“Tôi nghĩ giá như tiểu thuyết của chúng ta có thêm những bước mạo
hiểm”. [42]. Nói cụ thể hơn là phải gây bất đồng“cho tiểu thuyết thêm phần
phong phú”, tất nhiên không phải là sự bất đồng theo nghĩa tiêu cực. Quan niệm
này xuất phát từ đòi hỏi sáng tạo của bản thân người cầm bút, cũng gần với quan
niệm dấn thân của một số nhà văn đương đại. Nguyễn Bình Phương gọi là
“những bước mạo hiểm” bởi con đường đó có thể thành công hoặc thất bại. Vì
thế, anh ý thức rất rõ hạn chế trong quan niệm này là: “Trong nghệ thuật, kẻ mạo
hiểm phần lớn trở thành nạn nhân của chính mình” [42]. Dù vậy, anh vẫn tìm
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 13
tòi, thể nghiệm những “bước mạo hiểm” trong các sáng tác của mình như thăm
dò cái vô thức, bản năng (Thoạt kỳ thủy); hình thức cấu trúc lập thể, lời câm
(Người đi vắng, Ngồi); thủ pháp tiểu thuyết mới (Trí nhớ suy tàn); thủ pháp
huyền thoại (Những đứa trẻ chết già), kĩ thuật dòng ý thức (Mình và họ)…Đặc
biệt, anh đi sâu vào dòng ý thức của nhân vật, lấy đó làm trung tâm vận động,
thay cho sự kiện trong tác phẩm. Điều này xuất hiện ở phần lớn tác phẩm của
nhà văn. Lối đi đó phần nào đã định hình cho một lối viết tự tin và phong cách
vững vàng ở Nguyễn Bình Phương.
Không hẳn là ngẫu nhiên mà tiểu thuyết của Nguyễn Bình Phương có vẻ
đẹp độc đáo khiến người đọc nhiều khi cảm giác “lệch kênh” tiếp nhận và kích
thích ở họ hứng thú khám phá. Tất cả lời giải mã nằm trong kỹ thuật viết của anh.
Nó được hình thành không chỉ bởi các tác nhân khách quan của hoàn cảnh lịch sử,
xã hội, văn hóa mà quan trọng là ở quan niệm riêng của nhà văn về hiện thực và
con người cũng như về văn chương nghệ thuật. Mặt khác không thể phủ nhận rằng
thơ ca đã chi phối lối tư duy và tâm thức sáng tác tiểu thuyết của anh. Đây là
những vấn đề có tính chất kim chỉ nam mà chúng ta cần qua tâm khi tiếp nhận
tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương.
1.2 Tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương trong dòng chảy văn học đương đại
1.2.1. Tiểu thuyết như một thế giới
Sau năm 1986, đúng như nhà văn Vũ Tú Nam quan niệm, tự thân văn học phải
đổi khác, không thể đem văn học của một thời kì đã có sẵn để áp đặt lên cái nhìn của
con người hôm nay. Nhà văn Nguyên Ngọc yêu cầu văn học đổi mới phải mô tả cái
bản chất nhất của con người, nói được chiều sâu tâm lí, số phận của con người. Chu
Văn cũng nhận xét: văn chương bây giờ thích cái thật, không có cái thật sâu sắc, các
phát ngôn văn học khó đứng. Nguyễn Minh Châu nói đến Con người viết hoa hiện
diện trong cái vòng tròn đồng tâm của văn học và cuộc sống .
Đối với thể loại tiểu thuyết, sự đổi mới của nó thể hiện trước hết ở việc mở
rộng khả năng chiếm lĩnh, khám phá và mô tả hiện thực. Tiểu thuyết là thể loại luôn
luôn thay đổi, biến hóa, “không hoàn kết”, bởi vì nó “tiếp xúc tối đa với cái đương
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 14
đại chưa hoàn thành” (M. Bakhtin). Ý thức được bản thể của tiểu thuyết, nhà văn
Tô Hoài cho rằng: “Tôi không phủ nhận giá trị tiểu thuyết thời trước, nhưng thật là
không thể cho tiểu thuyết một nghĩa cố định. Tiểu thuyết lúc nào cũng phát triển và
biến đổi. Tiểu thuyết có một khả năng tung hoành không bờ”. Nguyễn Minh
Châu khẳng định: “Một thể loại văn học phải chứng tỏ sức sống của nó ở tính đa
dạng và không ngừng cách tân. Nhất là đối với tiểu thuyết, một thể loại có một sức
chứa và sức chở rất lớn”. Tiểu thuyết, bởi vậy, dần hiện ra như một thế giới sáng
tạo tự do, in đậm dấu ấn cá nhân. Đúng như nhà văn Tạ Duy Anh đòi hỏi: “Tôi chủ
tâm đòi hỏi tiểu thuyết phải như vậy, bản thân nó phải là một thế giới thay vì chỉ
phản ảnh đời sống một cách đơn giản và nó phải tạo ra nhiều cấp đối thoại”.
Trước 1986 văn xuôi Việt Nam chủ yếu hướng về thế giới bên ngoài, thế
giới sự kiện, hành động, đến nhân dân, cộng đồng, dân tộc, nó chiếm lĩnh hiện thực
ở chiều rộng và phô diễn hiện thực đó theo yêu cầu, nhiệm vụ của thời đại lịch sử,
chính trị. Tiểu thuyết từ 1986 trở về sau là một thế giới sáng tạo mới mẻ. Nó sáng
tạo ra thế giới hiện thực thứ hai, quan tâm đến số phận cá nhân và khám phá chiều
sâu thế giới nội tâm phức tạp của con người. Nhà văn Lê Lựu thẳng thắn chỉ ra:
“Những tác phẩm trước đó của tôi chưa chú ý nghiên cứu sâu tính cách, tâm lý và
quy luật phát triển của con người - nhân vật. Tôi tự bảo không thể viết như cũ
được”. Nhà văn Mạc Phi cũng nói rõ: “Con người trong tiểu thuyết ta ngày hôm
nay và sắp tới sống tất bật, ồn ào trong chiều rộng của thế giới bao quanh… đồng
thời cũng rất sâu sắc, rất đằm, trong chiều dày của tâm trạng”. Nguyễn Minh
Châu ủng hộ hướng tìm tòi như thế của tiểu thuyết; ông nói “Chúng ta tiếp thu các
hình thức tiểu thuyết chính là để trở về xem xét con người Việt Nam một cách sáng
tỏ và để đào xới vào nó sâu hơn”.
Tiểu thuyết là thể loại “không hoàn kết” nên các nhà văn thường xây dựng
những kết thúc mở, mở ra một câu chuyện mới hoặc mời gọi người đọc tự sáng
tạo ra một kết thúc riêng cho tác phẩm theo quan niệm, kinh nghiệm, trí tưởng
tượng của mình. Một số nhà văn đề nghị tiểu thuyết phải là một thế giới đa chiều,
đa nghĩa, đa âm, đa thanh, thậm chí nó có thể “chứa đựng nhiều tiếng nói mâu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 15
thuẫn nhau, độc lập với nhau, xung đột nhau; nó không độc thoại, không đồng
chất, không khép kín, không kết thúc, nó “sống” nhất, so với các thể loại văn học
khác; “nó tiếp thu, hòa lẫn, cải tạo và phát triển” (M. Bakhtin). Quan niệm tích
cực này đã thúc đẩy người cầm bút thể nghiệm đổi mới, tìm tòi, hiện đại hóa một
số phương diện cốt yếu của nghệ thuật tự sự. Dĩ nhiên, một tiểu thuyết đa chiều,
đa âm, sẽ luôn đòi hỏi người đọc, nhà phê bình đến với nó phải đóng vai khác, bây
giờ họ không thể đóng vai ban phát, áp đặt “chân lý”, hoặc “cầm roi quất cho con
ngựa sáng tác lồng lên” nữa, mà trở thành một bạn đọc bình đẳng, đồng sáng tạo,
một bạn đọc phải tự trang bị những hiểu biết cần thiết về nghệ thuật mới có khả
năng đối thoại.
1.2.2. Tiểu thuyết là một thể hỗn hợp, pha trộn, lai ghép
Một biểu hiện khác của quan niệm tiểu thuyết đa chiều, đa âm là việc một số
nhà văn chủ trương pha trộn, dung nạp nhiều thể loại khác trong văn bản tiểu thuyết
để gia tăng tiếng nói đối thoại, cách tiếp cận và phô diễn hiện thực. Nhà văn Tô
Hoài chỉ rõ: “Tiểu thuyết là một thể hỗn hợp thu hút được hết các thể loại khác.
Không ai trói được nó trong bất cứ một chừng mực nào. Chúng ta có thể đem vào
tiểu thuyết một hình thức nào đó của văn xuôi cũng được: kịch, bút ký, truyện ngắn,
truyện dài và cả thơ nữa, đem từng chương, từng đoạn hoặc từng chữ - dùng thẳng
hay dùng tinh thần nó - để miêu tả một ý nghĩ, một hành động nhân vật, hình thức
nào tiểu thuyết cũng dung nạp được tất”. Tiểu thuyết chứa trong bản thân nó “đa
thể loại”, nó trở thành một thứ liên văn bản, pha trộn, lai ghép nhiều phương thức
chiếm lĩnh và phô diễn hiện thực, tiểu thuyết đổi mới có khả năng mời gọi sự sáng
tạo của những ngành nghệ thuật khác, đặc biệt là điện ảnh và kịch.
1.2.3. Tiểu thuyết như một trò chơi hay chân lý của tiểu thuyết là sự hoài nghi
Từ quan niệm tiểu thuyết là một thế giới đa chiều, đa thanh, các nhà văn Việt
Nam nhanh chóng bước qua không gian sử thi, để đển đến với thế giới của trò chơi,
với sự đổi mới mạnh mẽ về giọng điệu. Độc giả cũng dần dần được làm quen với sự
giải thiêng, với giọng điệu giễu nhại trong văn xuôi.
Nhà văn hậu đổi mới dần từ bỏ gương mặt nghiêm trang, đứng đắn, và vai
trò thuyết giảng đạo đức khô khan, họ quay lưng lại với các nguyên tắc cổ điển, chủ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 16
động hiện diện như một chủ thể tự do, nhìn thế giới vận hành như một trò chơi, và
sáng tạo ra một thế giới trò chơi trong tiểu thuyết. Nhà văn đương đại thường tạo ra
“trò chơi hiện thực”. Một mặt, nhà văn làm cho hiện thực được hư cấu trở nên “như
thật” để thuyết phục người đọc; nhưng mặt khác, cũng có khi họ cố ý, giả vờ hoặc
công khai trò chơi hư cấu ấy - chỉ cho người đọc thấy những điều người trần thuật
đang kể chỉ là sự hư cấu, bịa đặt, là tin đồn, là “chuyện khó tin”, không thể tin, để
người đọc vừa ngờ vực, phản tỉnh vừa bị bất ngờ, hấp dẫn, tò mò. Quả thật, chính
hiện thực “không đáng tin cậy” được tạo nên trong tác phẩm đã buộc người đọc
phải nghi ngờ, ngẫm nghĩ . Trong Thiên thần sám hối của Tạ Duy Anh, ngay lời
Tựa, tác giả đã thông báo rằng: “Câu chuyện khó tin này là của một đứa trẻ còn ở
trong bụng mẹ. Nếu đọc xong quý vị vẫn không tin thì cũng không sao. Quan trọng
chính là ở chỗ quý vị sẽ còn ám ảnh về chuyện có thể tin được hay không? Tôi
thấy nói thế là vừa vặn đủ.”.
1.2.4. Tiểu thuyết trong sự tương tác, sự vận động, phát triển của thể loại.
Ở góc nhìn tương tác thể loại, có thể thấy: logic tương tác đa chiều đã
đưa tiểu thuyết giai đoạn này vận động và đổi mới mạnh mẽ. Bên cạnh chiều
tương tác đồng đại, tiểu thuyết còn tích cực cộng tác thể loại theo chiều lịch đại;
bên cạnh sự tương tác thể-thể là sự tương tác thể-loại, thể-yếu tố; bên cạnh xu
hướng tổng hợp là xu hướng đổi ngôi, tiếp sức. Mỗi chiều tương tác tạo cho tiểu
thuyết một tiểu loại mới, sự tổng hợp của nhiều chiều tương tác làm cho gương
mặt tiểu thuyết giai đoạn này trở nên phong phú, đa sắc.
Bên cạnh đó, chúng ta còn thấy tiểu thuyết được mở ra một chiều hướng
mới với sự thâm nhập của yếu tố ngoài hệ thống: huyền thoại. Tiểu thuyết - huyền
thoại là kiểu tương tác đổi ngôi. Sự tham gia ngày càng đậm nét của yếu tố huyền
thoại đã thực sự làm mới đáng kể cho tiểu thuyết giai đoạn này. Đây là khuynh
hướng tiểu thuyết xuất hiện nhiều trong cao trào đổi mới văn xuôi. Có thể nói đến
sương mù kì ảo trong thế giới nghệ thuật của Phạm Thị Hoài, Hồ Anh Thái, Tạ
Duy Anh, Võ Thị Hảo, Châu Diên, Dương Hướng, Nguyễn Bình Phương…
Như vậy, trong thời gian chỉ hơn hai thập kỉ, tiểu thuyết Việt Nam đã có
một diễn trình vận động và phát triển khá mạnh mẽ: khởi đầu với tiểu thuyết
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 17
phóng sự, tiểu thuyết kịch hoá; tiểu thuyết Việt Nam đã đi một hành trình dài với
sự sinh thành của nhiều tiểu loại mới: tiểu thuyết ngắn, tiểu thuyết hồi kí, tiểu
thuyết tự truyện, tiểu thuyết kì ảo… Những cuốn tiểu thuyết lạ như: Người sông
Mê - Châu Diên; Đi tìm nhân vật - Tạ Duy Anh; Cõi người rung chuông tận
thế, Đức Phật, Nàng Savitri và tôi - Hồ Anh Thái; đặc biệt: Thoạt kì thuỷ,
Người đi vắng, Trí nhớ suy tàn, Ngồi - Nguyễn Bình Phương,… thực sự là những
thể nghiệm tương tác thể loại mạnh dạn của tiểu thuyết đương đại Việt Nam.
TIỂU KẾT
Nguyễn Bình Phương là nhà văn có niềm say mê, yêu nghề với một ý thức
cách tân mạnh mẽ. Những quan niệm của anh về cuộc sống , con người cũng như
văn chương , nghệ thuật là những quan niệm mới mẻ, độc đáo, nó cho thấy cá tính
sáng tạo cũng như bản lĩnh nghệ thuật của nhà văn đồng thời nó cũng như một
chiếc chìa khóa để khám phá những nội dung tư tưởng đang ẩn tàng trong tác
phẩm.
Xuất hiện cùng lúc trong nền văn học nói chung, tiểu thuyết nói riêng đang
có những đổi mới, cách tân mạnh mẽ, Nguyễn Bình Phương thực sự đã hòa mình
vào dòng chảy chung của văn học đương đại nhưng đồng thời cũng bản lĩnh thể
hiện những cá tính của riêng mình. Chính điều này mang đến cho văn học những
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 18
tác phẩm mới độc đáo đầy giá trị.
CHƯƠNG 2
NHỮNG PHƯƠNG THỨC ĐẶC THÙ CỦA NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG
NHÂN VẬT TRONG TIỂU THUYẾT NGUYỄN BÌNH PHƯƠNG
2.1. Các loại hình nhân vật cơ bản trong tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương
2.1.1. Nhận diện khái quát về nhân vật trong tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương
Theo Từ điển thuật ngữ văn học, nhân vật được định nghĩa là “Con người cụ
thể được miêu tả trong tác phẩm văn học... một đơn vị nghệ thuật đầy tính ước lệ,
không thể đồng nhất nó với con người thật trong đời sống... thể hiện quan niệm
nghệ thuật và lí tưởng thẩm mỹ của nhà văn về con người... luôn gắn chặt với chủ
đề tác phẩm’’ [25] . Nhân vật luôn là trung tâm của sáng tác văn học, là hình chiếu
tư tưởng và năng lực nghệ thuật của nhà văn. Trong sự biến đổi của kĩ thuật tiểu
thuyết đương đại, xu hướng xây dựng hình tượng nhân vật cũng thay đổi. Các tác
giả Tạ Duy Anh, Hồ Anh Thái, Thuận, Nguyễn Việt Hà... ít chú ý lấy nguyên mẫu
của nhân vật trong đời sống mà thiên về hướng mờ hóa, vô danh hóa. Họ thường dị
hóa nhân vật về hình thức và tính cách. Nguyễn Bình Phương cũng xóa bỏ khoảng
cách giữa cái bình thường và cái dị biệt, cái không bình thường dễ dàng được chấp
nhận và trở thành cái thường nhật- đó là bút pháp nghệ thuật của Nguyễn Bình
Phương khi xây dựng các nhân vật. Với quan niệm “không xây dựng những nhân
vật điển hình”, Nguyễn Bình Phương đã mạnh dạn đổi khác so với cách xây dựng
nhân vật của tiểu thuyết sử thi giai đoạn trước. Bên cạnh những con người bình
thường, nhà văn tạo nên một hệ thống các nhân vật mang tính đặc thù : nhân vật vô
thức- người điên, nhân vật ma quái, dị biệt hoặc kì ảo, nhân vật biến hình, hư ảo,
nhân vật mang tính biểu tượng...
Khảo sát và nhận diện thế giới nhân vật trong 6 cuốn tiểu thuyết (Những
đứa trẻ chết già, Người đi vắng, Trí nhớ suy tàn, Thoạt kì thủy, Ngồi, Mình và
họ) của Nguyễn Bình Phương, chúng tôi nhận thấy trong mỗi tác phẩm lại có
những kiếp đời riêng biệt, không giống nhau, méo mó, cằn cỗi, thảm hại... không
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 19
đi theo một môtip có sẵn nào. Sự kiếm tìm và cách tân này khiến cho tác phẩm
của nhà văn không dễ đọc, khó có một cách khai thác chung. Cũng như các nhà
văn có cùng khuynh hướng, dấu ấn của tư duy đương đại trong sáng tác của
Nguyễn Bình Phương trước hết thể hiện ở ý hướng giã từ không lưu luyến với
lối viết của chủ nghĩa hiện thực cổ điển và hiện thực xã hội chủ nghĩa. Trong
các tác phẩm của Nguyễn Bình Phương, không có bóng dáng của nhân vật điển
hình mang tầm khái quát cho mọi tính cách lớn lao trong đời sống , mà thay vào
đó là đủ thứ hạng người trong nhân gian , đại đa số là những đám đông bệnh
hoạn, u tối, méo mó cả về thể xác lẫn tinh thần. Sáu tiểu thuyết của Nguyễn Bình
Phương là sáu đám đông, sáu thế giới. Cõi người trong Ngồi gồm nhiều nhân
vật, song không có nhân vật nào mang tính cách điển hình. Nhân vật trong
Những đứa trẻ chết già và Người đi vắng cũng vậy. Những con người nghịch dị
và điên, trái lại xuất hiện khá nhiều như Tính, ông Phùng, ông Phước trong
Thoạt kì thủy ; Trường hấp, lão Liêm trong Những đứa trẻ chết già ; Cụ Điển ,
ông Điều, lão Bính, Chung... trong Người đi vắng ; bà lão điên trong Trí nhớ
suy tàn hay Khẩn trong Ngồi ; người anh trai của Hiếu trong Mình và họ...
2.1.2. Các kiểu loại nhân vật trong tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương
2.1.2.1. Nhân vật con người tha hóa, con người dục vọng
Tha hóa là một khái niệm triết học về sự đánh mất mình do nhiều nguyên
nhân xã hội- kinh tế-văn hóa. Sự tha hóa bản chất con người được nhiều nhà triết
học, văn hóa đề cập đến, Các Mác đã từng phân tích sâu sắc: Sự tha hóa bản chất
con người thể hiện ở tình trạng xa lạ, thù địch của con người với chính con
người. Và cuối cùng là con người trở nên xa lạ với chính thế giới mà con người
đang sống.
Vấn đề tha hóa của con người là một chủ đề được văn học quan tâm.
Không ít tác phẩm văn học đương đại đã phản ánh sự hủy hoại của môi trường tự
nhiên và xã hội đối với nhân cách, lối sống của con người. Điều này cũng thể
hiện rất rõ trong tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương. Có thể nói, kiểu con người
tha hóa có mặt trong hầu hết các tác phẩm của Nguyễn Bình Phương với những
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 20
cấp độ và biểu hiện muôn vẻ.
Trong Thoạt kì thủy, con người ở đây phần lớn là những con người dở
khùng, dở dại hoặc điên hoặc có triệu chứng điên. Bên cạnh thế giới người điên
của làng Linh Sơn, ta bắt gặp thế giới của một Tính nửa điên, nửa vật, của một
ông Phước suốt ngày gặm chén. Không chỉ có thế, Thoạt kì thủy còn có Hiền, bà
Liên, ông Phùng, ông Sung..., họ vẫn có một phần cuộc sống thuộc về những
người bình thường của xã hội. Cuộc sống của họ cũng lam lũ, vất vả như cuộc
sống của biết bao người dân bình thường khác trên mảnh đất khắc nghiệt ấy. Với
Hiền cuộc sống của cô chỉ là chuỗi ngày vật vờ trong khao khát và đau khổ. Hiền
chấp nhận cuộc hôn nhân với gã dở điên dở vật để trở thành một cái bóng vật vờ
khát khao không bờ bến. Còn ông Phùng, nhà văn Hà Nội đi kháng chiến rồi ở
lại Linh Sơn để sáng tác cùng lời nguyền khi nào đoạt giải thưởng mới về hà
Nội. Nỗi ám ảnh về một giấc mơ không thành ấy khiến cho cuộc đời ông Phùng
luôn trong trạng thái nằm mơ giữa ban ngày. Bà Liên lại mang những suy nghĩ
khác, hơn ai hết, bà biết rõ về Tính, đứa con trai của mình, bà cũng biết về Hiền,
đứa con gái tốt người, tốt nết, nhưng lòng ích kỉ đã khiến bà trở nên độc ác khi
ép Hiền lấy Tính để một đời cô sống mòn mỏi đến khi bà Liên chết thì Hiền bỏ
đi đâu không rõ.
Trong Người đi vắng, không chỉ Hoàn, Thắng, Cương, Thư mà hầu hết
các nhân vật đều là những con người luẩn quẩn trong cuộc theo đuổi những ham
muốn. Họ sống trong những mối quan hệ xã hội bình thường, với những người
thân trong gia đình, với bạn bè, động nghiệp. Những dục vọng luôn thôi thúc họ
với những ước muốn sung sướng, thỏa mãn và cũng chính từ những điều đó
khiến cho cuộc sống của những con người này trở nên phức tạp hơn. Những
cuộc tình vụng trộm của Hoàn với Cương, Thắng với Thư, những ham muốn nhỏ
nhen (Sơn với nỗi thèm khát bộ giàn compắc) đã đẩy họ đến với những bất hạnh
của cuộc đời. Mỗi nhân vật đều chứa đựng những nét rất đặc trưng của con
ngươi đương đại.
Nhân vật Khẩn trong tiểu thuyết Ngồi là một công chức có hai cuộc
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 21
sống : một cuộc sống bình thường trần tục như bao người khác và một cuộc sống
của những hồi ức về cuộc tình đẹp trong quá khứ. Khẩn là nhân vật được xây
dựng với bút pháp thực đậm nét. Nguyễn Bình Phương cho người đọc thấy
những điều nhỏ nhặt nhất của cuộc đời một anh công chức, giữa một tập thể và
văn phòng, những âm mưu tranh đoạt ở công sở với đủ mọi trò từ nghi nói xấu
nhau, nghi mưu hại nhau để tranh chức cho đến chia bè kết cánh. Cái thế giới
nhỏ bé ấy là bức tranh thu gọn và cô đọng của sự tha hóa con người. Họ rình rập
kèn cựa nhau vì cái ghế trưởng phòng. Họ họp để kiểm điểm, sát phạt nhau về
tiêu chuẩn loại một, loại hai với những từ đẹp đẽ về lí tưởng : “Thú thực là tôi
luôn băn khoăn day dứt về cái gọi là lí tưởng trong con người đồng chí Nghĩa”
để rồi ngay sau đó là : “mẹ mày! câu chửi như một tiếng sấm đột ngột giữa trời
quang khiến mọi người giật bắn mình” [36, tr. 61]. Họ sẵn sàng cãi cọ, nổi đóa
đến đánh nhau vì tranh cãi một mẩu tin trên báo. Khẩn là người đau đớn nhận ra
cái thực trạng nhộn nhạo và suy thoái ấy : “Khẩn đau đớn nghĩ đến hình ảnh một
búi lươn trong chậu, cứ nhăn nhíu, hỗn độn quấn xiết lấy nhau cho tới khi một
gáo nước sôi bất thần dội xuống. Tại sao cứ phải vô nghĩa đến thế kia
chứ !”[36, tr. 91]. Những câu chuyện tục tĩu được nhân vật kể cho nhau nghe và
tác giả không ngần ngại phơi bày chúng trên tác phẩm cũng là để khắc họa kĩ
lưỡng cái thảm hại, vô nghĩa của những con người sống trong môi trường tha
hóa, không có một mục đích sống tốt đẹp nào. Họ chỉ có đề đóm, rỉ tai nhau
những tin tức, đồn thổi, tán tỉnh nhau và nhấm nháy đến những điểm ăn chơi, trai
gái. Khẩn là một nhân vật sạch sẽ, tử tế hơn cả cái đám người ô hợp ấy, nhưng
xét đến cùng, Khẩn cũng chẳng hơn gì họ. Cũng một đời sống tinh thần trống
rỗng: Khẩn sống chung với Minh nhưng chỉ có những trao đổi rời rạc, nhạt nhẽo.
Khẩn làm tình với Nhung – cô gái làm cùng cơ quan, Khẩn làm tình với người
đàn bà bán khoai nướng vừa đi tù về chỉ sau dăm ba câu chuyện, Khẩn với Nghĩa
rủ nhau sang Gia Lâm tìm gái... Những chuyện tục tĩu, những cảnh làm tình
được mô tả khá nhiều và khá đậm trong Ngồi cũng như trong các tiểu thuyết của
Nguyễn Bình Phương. Có lẽ những cảnh những chuyện ấy không hoàn toàn nhấn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 22
mạnh vào sự xuống cấp đạo đức- dù đây cũng là điều nhà văn quan tâm. Chủ yếu
Nguyễn Bình Phương muốn đề cập một cách toàn cảnh rộng rãi hơn về một
cuộc sống vô nghĩa, những con người tha hóa và sự trống rỗng trong con người.
Những giải tỏa ấy không đủ để hóa giải những bi kịch tinh thần mà chính họ
cũng không ý thức hết.
Trong một bối cảnh rộng rãi hơn, tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương cho
thấy vô số những nhân vật, những kiếp người và mọi kiểu tha hóa, xuống dốc về
nhân cách và số phận. Một Hoàng Cầu thương binh, họa sĩ thất thường và bế
tắc ; một Trương hiền lành rồi cũng bị điên ; một lão Việt bất mãn, về hưu trả lại
thẻ Đảng ; một anh chàng Hùng xuất thân nhà quê, nói ngọng, vừa thô lỗ vừa
trụy lạc ; một lão điên lưng gù hay ngồi máy nước, “nghe nói trước đây cũng
làm chức gì to lắm” ; một người đàn bà bán khoai đi tù mới về bị Khẩn bắt gặp
đang làm tình bên gốc cây.... Quanh khu phố của họ ở toàn những chuyện tàn
bạo, đâm chém : vợ chồng nhà thương binh hàng xóm chửi nhau chồng đâm chết
vợ, hai thằng choai choai đâm đứt cuống tim người đàn ông trung niên ngay
trước cửa nhà ông vì ông vô tình hắt nước vào chân chúng. Và cả thế này nữa
“Thế giới phong phú và hỗn độn (....) nó chẳng nghiêm túc một chút nào” và
theo lối bình luận ngọng của Hùng “noạn mẹ ló đến lơi rồi !”
Trong toàn bộ không gian, thời gian truyện, tiếng mõ cốc cốc cất lên
khoan nhặt, dài ngắn như những mong muốn cứu rỗi vô vọng. Đây đó là một vài
mảng sáng trong tâm hồn nhân vật. Hình ảnh Kim hiện ra khiến hồn Khẩn lắng
lại trong veo. Có lần đi chơi, lên núi, Khẩn nhận ra trước sự mênh mông trong
trẻo kia, “mình đã từng ồn ào quá, từng ham hố nhiều quá, mình bé mọn quá,
đục quá” và chỉ cần nhún chân thật nhẹ là “có thể bay lên hòa lẫn vào sự mênh
mông huyền bí đang trải ra trước mắt kia” [36, tr. 163].
Trở về với môi trường cuộc sống hiện thực hàng ngày, người ta lại sẵn
sàng với những trò sa đọa, thầm lén và sự buông thả thác loạn. Đó chính là một
phần mô hình của một xã hội hiện đại, là ảnh chiếu của một thế giới hỗn độn.
Nhưng đằng sau những gì đen tối mà nhân vật trải qua, người ta vẫn thấy rõ chất
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 23
nhân văn của tác phẩm ở chỗ nhân vật cố gắng vượt qua để tồn tại. Nhân vật
không bị chai lì đi, với sự lãng mạn và lòng trắc ẩn thường thường trực. Tóm lại
thì nhân vật vẫn yêu mến cuộc đời này. Qua những nhân vật là những con người
bình thường trong sáng tác của Nguyễn Bình Phương, có thể nhận thấy ít nhiều
cuộc đấu tranh quyết liệt của mỗi cá thể trước cuộc sống đầy chông gai, đầy khó
khăn và bất an này.
Con người tha hóa trong tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương là những con
người đầy dục vọng. Đó là những con người sống với những ham muốn tầm
thường: họ tham lam, giành giật, dẫm đạp lên nhau vì lợi ích của riêng mình.
Đây là loại nhân vật cổ điển, truyền thống của văn học, nhưng cái mới của
Nguyễn Bình Phương là nhà văn đã thể hiện loại nhân vật này với những dục
vọng của con người đương đại. Qua những ham muốn, dục vọng tầm thường của
mỗi nhân vật ấy là một cái nhìn đầy cảnh tỉnh của nhà văn đối với xã hội về sự
xuống cấp của nhân cách và những giá trị nhân văn.
Thoạt kì thủy đã ghi một dấu mốc quan trong trên hành trình sáng tạo
của Nguyễn Bình Phương. Với việc thổi phồng những con người ở phương diện
toan tính, hiếu sát, điên loạn... như một hiện hữu bất thường, Nguyễn Bình
Phương đã đặt ra vấn đề tiếp cận vô thức tập thể nảy sinh do thiếu căn cốt giáo
dục và bị kích động bạo lực. Tính tha hóa từ trong trứng, khi còn là một bào thai,
hắn đã hứng trọn cú đạp thẳng cánh của của cha hắn- gã đàn ông nát rượu. Lớn
lên hắn sống trong một môi trường đầy rẫy những con người bị bóp méo về tinh
thần. Xung quanh Tính: cha nghiện rượu quanh năm chửi mắng, đánh đập vợ ;
Hưng thương binh giả B quay ; ông Điện, ông Thụy chuyên nghề giết lợn, ông
Khoa kiếm sống bằng nghề hoạn lợn; bà Liên, mẹ Tính suốt đời nhẫn nhục, cam
chịu... Đó là môi trường bị nhiễm độc về tinh thần với đầy rẫy những những căn
bệnh: bạo lực, hèn nhát, giả dối, vụ lợi, hoang tưởng... Tính Điên từ môi trường
bị hủy diệt ấy. Thế giới riêng của hắn chỉ có bạo lực, thú tính, giết và giết; hoặc
chọc tiết, hoặc cắn cổ ... Dục vọng của hắn chỉ là dục vọng tối tăm. Tình thương
của mẹ cũng bất lực. Sắc đẹp của Hiền cũng vô ích. Không một tia hi vọng nào
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 24
le lói. Năng lượng phá hoại trong hắn mạnh hơn tất cả. Hắn chỉ có khả năng duy
nhất: tiếp thêm cái ác vào đời sống xung quanh. Sự tối tăm ngự trị, cái bản năng
cứ ngang nhiên lớn lên. Vụ châm lửa đốt nhà, giết người đầu tiên của Tính đã
được thực hiện như một tất yếu để bắt đầu cuộc sống của hắn: thù địch và tàn ác
với con người.
Cái chết cùng lúc của ba nhân vật: Tính, ông nhà văn, và gã đào ngũ là kết
quả không tránh được cho cả bọn họ. Hai kẻ vẫn khuyến khích Tính giết người,
một bằng sự tự huyễn hoặc của một kẻ hèn nhát, một bằng những tán dương vô
trách nhiệm của kẻ bất tài bất đắc chí, cuối cùng đã bị chính con đẻ của mình
khai tử. Giết người bằng lửa, bằng kéo, bằng dao, Tính hầu như không hề bị cản
trở, trong khi hắn chỉ là một thằng điên, không đủ sức kháng cự nếu bị chế ngự.
Nhưng hoàn cảnh sống xung quanh Tính, từ khi Tính còn là bào thai cho đến khi
trưởng thành, dường như chỉ có tác động thuận chiều cho bệnh điên của Tính.
Nếu ông Điên chọc tiết lợn đừng vô tình khai tâm Tính về kĩ thuật xọc dao; nếu
gã đào ngũ Hưng đừng bồi dưỡng Tính bằng những chuyện bịa sặc mùi máu;
nếu cha Tính bớt cặn bã theo kiểu ai cho rượu uống thì người đó là “đức thánh
Trần”; nếu bà mẹ bị dồn nén của Tính quyết liệt hơn ; nếu ông nhà văn đừng
nhồi thêm vào đẩu Tính những ẩn ức bản thân ... thì con quỷ trong Tính đã
không thỏa thuê tác oai, tác quái. Có thể một phần người nhỏ bé trong Tính đã
được cứu rỗi, hắn đã không đi đến chỗ tự giết mình, hoàn tất sự vận hành mù
quáng của cái ác. Chính những người xung quanh hắn đã không đủ trách nhiệm,
không đủ sức mạnh, không tìm ra cách để cứu giúp hắn.... tất cả những con
người ở cái làng mà Nguyễn bình Phương miêu tả đều được chú tâm khai thác ở
khía cạnh dị thường, chủ yếu là toan tính, hiếu sát, thô tục, điên loạn... Bao bọc
họ là khung cảnh thiên nhiên huyền bí, u uất; một xã hội thiếu mọi căn cốt giáo
dục nhưng thường trực bạo lực và kích động. Như một thủ pháp điện ảnh, tác
phẩm xuất hiện dày đặc những biểu tượng ám ảnh, những chuỗi ngôn ngữ nói
mơ và điên loạn. Tác phẩm là những thước phim ghi lại những dấu hiệu sơ khởi
của một xã hội phi nhân tín. Vì vậy cũng là tiếng chuông cảnh tỉnh về sự tha hóa
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 25
của con người.
Thế giới nhân vật trong Những đứa trẻ chết già với những cuộc đời, tính
cách méo mó đầy dục vọng như Trường hấp, Cung rỗ, Sinh lùn, Bính chột, Bồi
còng, Nguyệt góa, Bào mù… xoay quanh hai trục nhân vật: ông Trình và gia
đình Trường hấp. Tác giả không dành nhiều thời gian để miêu tả từng nhân vật
mà cho người đọc nhận ra mỗi nhân vật khi tất cả bọn họ hướng tới một kho báu.
Ở đó, họ tự thể hiện rõ bản chất của mình. Không có những cử chỉ ân cần, những
cái nhìn thiện cảm mà dường như những con người sinh ra là để dằn hắt nhau, đè
nén nhau, gầm ghè, thôn tính ăn thịt nhau, Nguyễn Bình Phương đã tái hiện tất
cả trong một văn phong lạnh lùng và căng thẳng. Hơn nữa, vọng lại từ cõi chết,
người ta sẽ thấy được tất cả hiện trạng lố bịch và giả trá trong tham vọng của con
người. Cái bả vinh hoa phú quý cuối cùng là một thứ phù phiếm, nó không có
thật, nó chỉ là bãi phân trong cảnh cuối cùng mà những con người hầm hè tranh
cướp đến đổ máu tìm thấy như một kết cục bi hài nhưng sẽ là cái gốc rễ của mọi
khổ đau nếu người ta tìm mọi cách để giành giật lấy nó.
2.1.2.2. Nhân vật con người vô thức- người điên
Trong sáu cuốn tiểu thuyết của nhà văn, cuốn nào cũng có nhân vật người
điên. Tiểu thuyết Thoạt kì thủy xuất hiện nhiều người điên. Có khi là cả một
làng điên. Có khi là người điên ở hiện thực, có khi chỉ là bóng dáng của người
điên trong vô thức. Có những người điên hoàn toàn, có những người chỉ điên
từng lúc do bị tàn khuyết về mặt tâm lí.
Nghiên cứu về nhân vật người điên trong văn học, Đoàn Cầm Thi đã khái
quát thành hai loại nhân vật điên trong văn chương: một là kiểu điên vĩ đại, thường
là những bậc hiền triết chỉ tồn tại với thiên hướng duy nhất là tra tấn vũ trụ và thời
đại mình như Don Quichotte của Cervanrtes hay thằng Ngốc của Lỗ Tấn; kiểu thứ
hai là kiểu điên con bệnh , là hậu quả của sự ức chế không thỏa mãn về tình dục,
tình yêu như Nga trong Lá ngọc cành vàng của Nguyễn Công Hoan hay Hoan và
Thảo trong Người còn sót lại của Rừng Cười của Võ Thị Hảo…
Nhân vật điên của Nguyễn Bình Phương không thuộc về hai loại trên. Nhà
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 26
văn sáng tạo thế giới nhân vật người điên của mình theo một bút pháp riêng:
không có kiểu điên vĩ đại, người điên cũng không hẳn là con bệnh reo hò nhảy
múa man dại với những hành động kì quặc, vô lí… Nhân vật người điên của
Nguyễn Bình Phương vẫn có tâm hồn, có phần bản thể trong suy nghĩ và hành
động. Về cơ bản họ là những kẻ dị tật, tàn khuyết về tâm lí. Những giấc mộng ,
trạng thái vô thức và vô định luôn là biểu hiện đời sống tinh thần của những
người điên này. Nhưng tài năng của Nguyễn Bình Phương không phải ở chỗ nhà
văn khám phá ra mối liên quan giữa vô thức với điên và mộng- điều này các nhà
triết học và phân tâm học đã nói đến tự lâu- mà chính là ông đã cho nó một hình
hài, một khả năng biểu hiện thông qua những nhân vật điên trong tác phẩm.
Thoạt kì thủy có cả một thế giới người điên. Hưng dường như bị tâm
thần do hậu quả của chiến tranh, Ông nhà văn bị nhiễm ảo tưởng về tài năng
nghệ thuật của chính mình. Điển hình nhất là Tính, một kẻ điên từ trong trứng do
hậu quả của bạo lực ngay từ khi còn nằm trong bụng mẹ. Kiểu điên của Tính
khác hẳn với các kiểu điên khác: điên mà vẫn tồn tại như người bình thường, lao
động, kiếm sống, lấy vợ, sống cùng gia đình. Từ bé hắn thích giết công cống,
giết kiến, thích chơi với đám người điên gồm ông già điên, cô gái thổ, mụ điên
và thằng bé điên. Lớn lên Tính không biết chữ, làm nghề đập đá, khi đập đá Tính
lại tưởng mình đang được giết, đập đá mà chỉ nhìn thấy máu. Tính luôn bị ám
ảnh bởi con dao chọc tiết lợn, có những hành động phi lí: “Đêm tính vùng dậy,
xô của ra sân, nhặt đá đáp lên trời” [39, tr. 26]
Trong Trí nhớ suy tàn, hình ảnh người đàn bà điên mặc áo vàng thường
hiện lên trong tâm tưởng của nhân vật Em. Trong Mình và họ, người anh của
nhân vật Hiếu ban đầu cũng là một người khôi ngô, cao lớn, thông minh nhưng
sau khi trở về từ cuộc chiến chống Tàu năm 79, bị những ảnh hưởng nặng nề từ
cuộc chiến tranh cũng ngày càng trở nên không bình thường, thẫn thờ với những
ám ảnh và bỏ đi lang thang, không nhà của, không nhận ra cả những người thân
của mình, chỉ đinh ninh một điều không thể quên “không chơi với bọn khựa
được đâu”. Và cả thằng bé điên người dân tộc đang đêm chạy ra đứng chắn giữa
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 27
đầu xe với tiếng cười rất đáng sợ.
Như vậy, trong tiểu thuyết của Nguyễn Bình Phương có cả một thế giới nhân
vật điên thuộc các độ tuối, giới tính, nghề nghiệp, địa bàn cư trú khác nhau. Tại
sao trong thế giới nghệ thuật của Nguyễn Bình Phương lại có nhiều người điên
đến thế? Sự xuất hiện của hàng loạt nhân vật điên này liên quan gì đến cái nhìn
cuộc sống của nhà văn? Phải chăng, Nguyễn Bình Phương nhận ra trong cuộc
sống còn nhiều mảnh đời không lành lặn, nhiều tâm hồn bị khuyết tật. Hoàn cảnh
sống nghèo nàn, thiếu thốn về vật chất, thấp kém về tri thức, nạn bạo hành gia
đình, sự tàn phá của chiến tranh, sự hủy hoại của những thói hư danh, tham vọng
không tưởng… đã làm tàn khuyết tâm lí con người. Qua nhân vật người điên,
Nguyễn Bình Phương cũng cho chúng ta thấy thế giới mà chúng ta đang sống
chưa phải đã tròn đầy, tươi đẹp, nó còn có những phần khiếm khuyết, còn có
những số phận thiệt thòi, những mảnh đời không nguyên vẹn cần được thấu hiểu.
Người điên là nạn nhân đáng thương của hoàn cảnh cần được cảm thông, chia sẻ;
song họ cũng là tội ác mà xã hội cần ngăn chặn. Xây dựng nhân vật người điên,
đặt vấn đề hội chứng điên trong tác phẩm, Nguyễn Bình Phương đồng thời cũng
thể hiện mong muốn lành mạnh hóa xã hội, hoàn thiện hóa con người.
2.1.2.3. Loại hình nhân vật ma quái, dị biệt, biến hình, kì ảo
Trong văn học trung đại, nhân vật kì ảo thường tồn tại dưới hình thức
bóng ma, oan hồn (trong Truyền kì mạn lục, Lĩnh Nam chích quái …). Đến
văn học đương đại, nhân vật kì ảo xuất hiện dưới các dạng tồn tại mới như Bào
thai trong Thiên thần sám hối của Tạ Duy Anh, Quang lùn, bé Hon trong Thiên
sứ của Phạm Thị Hoài, Mai Trừng trong Cõi người rung chuông tận thế của Hồ
anh Thái,… So với các cây bút văn xuôi hiện nay, Nguyễn Bình Phương dường
như có xu hướng này rõ rệt hơn. Nhà văn tỏ ra có một cảm quan nghệ thuật đặc
biệt trong việc tạo ra những nhân vật ma quái, dị biệt, biến hình, kì ảo. Chúng
khá đông đảo về số lượng và cũng rất phong phú các dạng biểu hiện.
Trong Những đứa trẻ chết già, những bóng ma hiện về làm người ta ghê
sợ. Ở đám cỏ bãi tha ma vào ban đêm có bóng một người con gái chập chờn khi
thoát xác thành ma rắn “cô gái này trắng mơ như sương khói, chẳng nhìn rõ mặt
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 28
mũi gì cả” [38, tr.169]. Hằng đêm, cô gái ấy đã làm tình với Quang. Kiền nhiều
lần theo dõi Quang và phát hiện ra sự kì lạ này. Cho đến một đêm khi Kiền ra bãi
tha ma, anh cũng bắt gặp cô gái ấy và muốn làm tình với cô nhưng sau đó anh đã
kêu lên hoảng hốt bởi dưới thân anh không còn là hình ảnh một cô gái nữa mà là
một con rắn vừa lột da mềm nhũn. Sau đó, đám có ấy cứ úa vàng và run rẩy cất
lên những tiếng nói yếu ớt.
Trong Người đi vắng, ma xuất hiện bốn lần dưới dạng vật mờ ảo. Người
ta nhận ra ma qua cái bóng dáng một người đàn bà quái dị bên cái xác của một
người đàn ông bí ẩn: “Đó là bóng người đàn bà gầy guộc không có mặt, chỉ một
khoảng trống tối tăm được khuôn lại bởi mái tóc dài xám nhưng rối
loạn…”[37,tr.94]. Lão Huỳnh đã hai lần nhìn thấy ma cũng là hình một cô gái
ngực phẳng lì trông phát sợ. Ma cất lên tiếng nói trong những bức thư của
Chung, những bức thư không rõ địa chỉ người gửi.
Ma không chỉ hiện hình về dưới lốt vỏ con người mà còn tồn tại dưới
nhiều dạng khác. Ma len lỏi, đan xen vào cuộc đời thường nhật của các nhân vật
và gây cho họ cảm giác run sợ. Ma trong tiểu thuyết của Nguyễn Bình Phương
có tâm tư, tình cảm, ước vọng. Ma cũng thể hiện số phận con người khi sống.
Ma không chỉ xuất hiện một chốc, một lát, một khoảng thời gian nhất định mà nó
hiện hình ở khắp nơi, mọi chỗ, ở đâu có con người là ở đó có ma. Nhà văn viết
với một thái độ trung hòa, không xen bình luận cảm thán, tạo khoảng trống rộng
rãi cho sự giải mã và tiếp nhận của người đọc.
Sự đậm đặc các nhân vật ma thể hiện một kiểu tư duy nghệ thuật riêng của
Nguyễn Bình Phương. Nhân vật ma tuy rất nhiều hình hài và xuất hiện ở nhiều
thời điểm khác nhau của mạch truyện nhưng luôn trở thành một bí ẩn đầy nghi
hoặc về một kiếp người đã qua của cõi đời. Nó liên quan và tương tác với các
nhân vật đang sống như một khơi gợi, một đe dọa ghê rợn của một cõi khác. Và
trong rất nhiều trường hợp, chính bóng ma ấy lại tỏa một thứ ánh sáng mờ ảo và
ma quái để soi tỏ tâm tư và số phận người đang sống. Ma là những linh hồn thức
dưới ngòi bút của Nguyễn Bình Phương. Những kiểu nhân vật ma trong tiểu
thuyết của Nguyễn Bình Phương góp phần hoàn thiện bức chân dung tinh thần
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 29
của nhân vật, giúp nhà văn thể hiện sự quan tâm đến số phận con người, bởi ma
cũng chính là sự nối tiếp của nhân vật ở một cõi khác. Xây dựng nhân vật ma là
có chủ ý nghệ thuật, là để có thêm những góc nhìn khác về con người. Có những
lúc viết văn là viết cho những linh hồn, những linh hồn không riêng là những
linh hồn nơi cực lạc, viên mãn, đang háo hức với những vị trí tốt đẹp của mình,
mà là nơi những linh hồn bơ vơ, lạc lõng đang trú ngụ dật dờ nơi bờ cây, ngọn
cỏ, nước độc, rừng thiêng…
Ở Người đi vắng, “cây tùng biến thành con rồng nâu đỏ dập dờn, uốn
lượn trong bầu trời mênh mông” [37, tr. 52]. Hay cây xà cừ trong Những đứa
trẻ chết già cũng biến đổi kì lạ sau cái chết bí hiểm của lão Hạng: “Thốt nhiên
ông hoa mắt khi nhìn thấy cây xà cừ. Cái cây rung rung và đỏ hồng lên như một
cơ thể sống” [38, tr. 86] . Ở Thoạt kì thủy, khi sáng sớm Hiền ra bờ sông, Hiến
bắt gặp hai cái bóng trắng ở bãi rau. Hai cái bóng trắng ủ rũ bay nhẹ. Đó là bố
mẹ Hiền hiện về, khi Hiền cất tiếng gọi, “hai cái bóng trắng tan ra một cách não
nề. Hiền chạy đến, thấy chỗ ấy còn ấm hơi người” [39, tr.103]. Một chi tiết kì lạ
là “Hiền thấy ảnh bố mẹ mình xám xịt, chỉ mắt là rõ, mở trừng trừng, toàn lòng
trắng. Hiền quỳ gối lạy. Hai cái ảnh lại nét như cũ, mắt cũng bình thường” [39,
tr.104]. Phải chăng bố mẹ Hiền nơi cõi âm vẫn thấu hiểu sự đời, họ đau đớn và
thương xót cho số phận của con gái mình nên hiển linh về để đe dọa Tính và
ngăn cản hắn không được làm hại Hiền. Bằng chứng là một kẻ điên không biết
sợ điều gì cả và cũng đã nhìn vào yết hầu vợ một cách thèm khát lại sợ hãi khi
nhìn nhìn thấy hai bức ảnh bị biến đổi. Đó cũng chính là một bức màn vô hình
che chở cho Hiền khỏi nguy hiểm và là một sợi dây vô hình trói buộc Tính lại, là
rào chắn không cho Tính sát hại Hiền. Nguyễn Bình Phương đã mượn bức ảnh kì
lạ để lên tiếng cảm thông cho số phận của người phụ nữ bất hạnh, xoa dịu nỗi
đau trong tâm hồn người phụ nữ sớm chịu nhiều cay đắng.
Trong tiểu thuyết Ngồi có hiện tượng kì lạ là một miếng vải tự nhiên xuất
hiện trong nhà Khẩn và Minh: “một mảnh vải mỏng, óng ả, mượt mà, tinh tế như
lụa nhưng chắc chắn không phải lụa vì đường dệt của nó nổi ganh và bản thân
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 30
các sợi nhỏ như tóc ấy cũng lượn sóng, tạo ra những rung động thoang thoảng,
da diết” [36, tr.65]. Minh mang mảnh vải ấy đến nhà người bạn thân nhờ may
thì cô ấy nói đêm qua đã nằm mơ thấy Minh mặc chiếc áo được may bằng tấm
vải này. Thế nhưng khi người bạn ấy may xong áo cho Minh thì không thể tìm
thấy loại cúc phù hợp. Và điều ngạc nhiên là có sáu chiếc cúc người thợ may
muốn tìm, tự nhiên cũng có sẵn trong tay một nhân vật khác cũng không rõ
nguyên nhân. Và khi chiếc áo được may xong: “Những chiếc khuy lóng lánh sắc
cầu vồng bồng bềnh theo hàng dọc và ở tà bên kia là sáu lỗ khuyết, sáu con mắt
một mí như lá liễu, sắc nhọn ghê gớm như lá liễu dõi theo sự bồng bềnh ấy”
[36,tr.280]. Có ai đã đưa cho Minh tấm vải này? Tại sao người khác lại có những
chiếc cúc áo phù hợp chỉ để may tấm vải của Minh? Như có bàn tay vô hình tạo
nên sự trùng hợp đó.
Cũng tương tự như thế là việc Khẩn nhận được một phong bì bên trong có
tấm ảnh chụp lại bức tranh cổ vẽ một người ngồi nửa thiền, nửa hành khất, đằng
sau ghi một chữ Nho tháu mà không biết do đâu mà có. Những hiện tượng đó
khó cắt nghĩa bằng lôgic thực tế.
Các đồ vật, hiện tượng kì quái mang tính đặc trưng phong cách khá rõ của
Nguyễn Bình phương. Chúng cũng đảm nhiệm những chức năng nghệ thuật đặc
thù. Viết về những hiện tượng, đồ vật kì ảo trong trí tưởng tượng của chính
mình, Nguyễn Bình Phương muốn mở rộng khả năng cảm nhận và miêu tả hiện
thực trong văn học. Hiện thực cuộc sống không phải bao giờ cũng chứa những
sự kiện, hiện tượng mà mắt thường trông thấy và có thể lí giải được mà ẩn chứa
rất nhiều sự kì ảo, chúng ta chỉ có thể cảm nhận bằng linh cảm. Đây là cách
chiếm lĩnh hiện thực bằng phương thức mới đầy mạo hiểm trên hành trình sáng
tạo đầy gian khó của nhà văn.
Nằm trong mô hình nhân vật bị biến dạng, ta còn có thể tìm thấy nhiều chi
tiết kì quái khác. Người già trẻ lại là trường hợp một người đàn bà trong Những
đứa trẻ chết già, từ một bà già trở thành người đàn bà trạc 40 tuôi, trở thành cô
gái trẻ, trở thành đứa con gái 13 tuổi rồi cuối cùng trở thành đứa bé nằm trong
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 31
nôi. Có khi lại là sự biến đổi ngược lại, trẻ con biến thành người già. Một người
đàn bà (bà giáo) đã ba lần sinh nở, lần nào cũng đẻ ra những đứa trẻ kì dị. Lần
thứ nhất, đứa trẻ là trai. Người ta phát hiện ra rằng thằng con bà giáo có râu.
Không những thế, ba bốn ngày sau, tóc nó còn bạc trắng. Đứa trẻ không khóc, nó
gương đôi mắt kèm nhèm nhìn mọi người như phán xét… Hai tuần sau nó chết.
Ở lần sinh thứ hai, đứa trẻ vừa ra đời đã ở độ già của người ngoài ba nhăm, bốn
mươi tuổi gì đó. Tóc nó bàng bạc, răng vàng ố, nói như người lớn “Mẹ lấy cho
tôi cái điếu. Đêm đột nhiên dân làng nghe từ nhà bà giáo vọng ra tiếng như hai
người đàn ông trạc tuổi nhau gầm ghè nói chuyện… Đứa bé biến mất” [38,
tr.61]. Lần sinh thứ ba là con gái. Nhưng đứa trẻ vẫn mang bộ mặt già trước tuổi.
Lọt lòng chỉ được hai ngày, con bé có cơ thể như gái mười tám.... Sau đó nó có
chửa. Nó chửa, bụng to quá cỡ bình thường. Nó đẻ đứa con ra đời và chết... Kiểu
quái thai đủ dạng xuất hiện khá đậm đặc này tạo được một ấn tượng ma quái ghê
sợ trong tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương. Trong khoa hoc, hiện tượng quái thai
hay hiện tượng con người bị lão hóa nhanh chóng được giải thích bằng những
nguyên nhân bệnh lí. Nhưng trong văn học, hiện tượng đẻ ngược, quái thai là
một hiện tượng mang ý nghĩa xã hội mà Nguyễn Bình Phương muốn gợi lên
trong lòng độc giả. Vì sao có những đứa trẻ bị dị tật ngay từ khi còn nằm trong
bụng mẹ, vì sao có những đứa trẻ chết già ? Vì sao thiên chức của người phụ nữ
lại không thể thực hiện được một cách tốt đẹp ? Câu trả lời có thể tìm thấy ở môi
trường tự nhiên và môi trường nhân sinh bị tàn phá bởi cái ác, lòng tham và
những toan tính tăm tối của con người.
Nguyễn Bình Phương sống giữa thời đại khoa học, hiểu rõ quy luật của tự
nhiên sinh tồn của loài người; song anh vẫn mong muốn có những thể nghiệm
mới trong sáng tác để gửi gắm những quan niệm riêng về nhân sinh. Nếu khoa
học nghiên cứu về con người cho biết chết là chấm dứt hoạt động sống thì
Nguyễn Bình Phương lại dựng lên những nhân vật chuyển kiếp (những nhân vật
mang bóng dáng của tiền kiếp hay hậu thân của một thế giới vô thực) để chuyển
tải nội dung tư tưởng của mình đến bạn đọc. Những nhân vật ấy là công cụ giúp
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 32
nhà văn đi sâu vào khám phá cuộc sống đa diện, đa chiều. Mỗi một nhân vật thể
hiện một cách nhìn về thế giới về cuộc đời và con người. Những nhân vật
chuyển kiếp chỉ là một phương diện nghệ thuật được nhà văn sử dụng.
Một kiểu nhân vật kì ảo nữa trong sáng tác của Nguyễn Bình Phương là
nhân vật linh hồn. Đó có thể là những hồn ma hoặc cũng có thể là linh hồn đồ
vật, cây cỏ...Dủ dỉ trong gió đêm của Người đi vắng có câu chuyện của một
thai nhi bị mẹ ruồng bỏ: “Họ nói nhiều nhưng con chả tin. Gì cũng phải mắt
thấy tai nghe mới yên tâm được… ” [37, tr.25]; câu chuyện về Tuyết của một tử
thi trên băng ca trong bệnh viện: “Người ta đồn Tuyết mất tích, mình biết
Tuyết trôi đi…” [37, tr.132]. Thủ pháp hoạt hoá đã giúp Nguyễn Bình
Phương xây dựng được những nhân vật đồ vật có linh hồn con người: Cây
chuối biết nói tiếng người, một dòng Linh Nham biết đắn đo suy nghĩ, một đám
mây biết cười chê, chế nhạo, hai cái đầu lâu gỗ và những câu chuyện thì thầm
to nhỏ lúc đêm khuya… Dòng sông Linh Nham trôi miên man trong những dòng
kể về cuộc đời của chính nó: “Ta vươn qua lớp lá mục chồng chéo hàng vạn đời
(…). Xa xửa xa xưa có một thằng bé tên là Thắng đã tắm trong ta. Ta yêu
tiếng la hét của thằng bé đó và cố gắng giữ mình thật trong khi nó sắp ra (…).
Ta chờ thằng bé chạy lại tắm nhưng lâu lắm rồi mọi con đường đều chìm sâu
trong cỏ… Mẹ của thằng bé Thắng bị ô tô chẹt khi cố gắng bám lên bậu để khỏi
lỡ buổi chợ. Bà ấy trượt tay chui vào bánh xe… Người lái xe tên là Sinh, anh ta
vẫn qua đây, sẽ đến lúc ta gọi ... [37, tr.48]. Một bụi cậm cam kêu cứu: “Em là
một bụi cậm cam, hãy giúp em…” [37, tr.160]. Tất nhiên đó không chỉ là phép
nhân hoá đơn thuần với dụng ý trở lại với thi pháp cổ tích. Quan niệm vạn vật đều
có linh hồn là một cái nhìn mang dấu ấn của chủ nghĩa hiện thực huyền ảo. Hơn
thế nữa, yếu tố tâm linh thấm đẫm vào từng vật thể còn mang bóng dáng của
những cuộc truy tìm bản thể. Một lần nữa Nguyễn Bình Phương lại đến gần với
những triết đề của chủ nghĩa hiện sinh. Cây chuối trong Người đi vắng đã tự hỏi:
“Ta là ai? Tại sao ta lại ở đây? […] Tại sao ta lại là chuối mà không là một
cái gì khác?” [37, tr.193]. Cái chân trong bức vẽ cũng lên tiếng: “Mình là một cái
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 33
chân được người ta vẽ ra nhưng bị bỏ quên. Tại sao ta cứ choè ra mà không chụm
lại. Tại sao không thon đi một tí, một tí tì ti thôi, để tử tế hẳn lên” [37, tr.260] .
Không chỉ con người mà ngay cả một con cú cũng có thể trở thành nhân vật
được Nguyễn Bình Phương dành nhiều dụng công xây dựng. Con cú (Thoạt kì
thuỷ) được nhà văn cấp cho cả một tiểu sử: “Cú mèo: Lông hoa mơ, sải cánh dài
40 phân. Mỏ khoằm, sắc. Bị bắn rụng lúc 11 giờ 15. Bay lên lúc 12 giờ. Không rõ
bay tới đâu” [39, tr.3]. Thế giới linh ảo và diệu kì đã hiện hình trong tiểu thuyết
của Nguyễn Bình Phương qua những hồn ma và những sinh vật mang linh hồn
con người như thế. Chính các nhân vật kì ảo này đã tạo ra một quầng sáng lung
linh, đem sức hấp dẫn đến cho các tác phẩm của nhà văn. Cũng phải thấy một
điều rằng: đặt những nhân vật kì ảo trong một thế giới không có thật để soi chiếu
những vấn đề của cuộc sống hiện thực là một ưu thế của văn chương đương đại.
Không ai khác, Nguyễn Bình Phương đã là một trong những người thành
công nhất trong mảng sáng tác này.
2.1.2.4. Nhân vật bị ám ảnh bởi chiến tranh.
Trong tiểu thuyết đương đại, đề tài về chiến tranh là đề tài không mới nếu
không nói là đã quá phổ biến. Song cái mới là ở cách khám phá, cách phản ánh,
cách thể hiện của mỗi nhà văn với mảng đề tài quen thuộc ấy. Trong sáu cuốn
tiểu thuyết của Nguyễn Bình Phương mà chúng tôi nghiên cứu, chỉ có một cuốn
đề cập đến đề tài chiến tranh là cuốn tiểu thuyết mới xuất bản gần đây nhất-
Mình và họ. Còn 5 cuốn còn lại chỉ ít nhiều đề cập đến thông qua một số nhân
vật trong tác phẩm . Tuy nhiên với cách phản ánh riêng của mình, Nguyễn Bình
Phương đã tạo được những dấu ấn riêng trong lòng độc giả.
Trong tiểu thuyết Thoạt kì thủy, nhân vật Hưng, là con trai duy nhất của
ông bà Xuân, đã từng được đi B để chống Mĩ, rồi có giấy báo tử về. Nhưng đến
ngày giải phóng, Hưng lại khoác ba lô về, tự nhận mình là thương binh, không
có thẻ, bằng chứng là một vết sẹo ở chóp đầu. Trở về sau cuộc chiền, Hưng bỗng
trở thành một con người khác. Hưng đã gieo vào đầu lũ trẻ những cảnh bạo lực :
“Các buổi chiều trẻ con xúm lại nghe Hưng kể chuyện đánh Mĩ. Hưng lấy hai
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 34
quả chuối gắn vào hai khóe mép, vươn cổ ra trước
- Khoặp ! Đấy, một nhát là đi đứt
Bọn trẻ vừa sợ vừa khoái. Nhiều đứa đến trường thấy cô giáo, bèn chạy sấn
lại, há mồm rồi kêu :
-Khoặp ! Ý chúng nói cắn cổ cô giáo” [39, tr.20]
Hưng cũng xúi giục bọn trẻ đi ăn trộm mía nhà ông Mịch ; có những hành vi
bất thường . Hưng cũng nhồi nhét vào đầu óc vốn không bình thường của Tính
những ý tường bạo lực quái đản. Chính từ câu chuyện cắn cổ Mĩ, chuyện đốt trại tù
binh mà Hưng kể cho Tính nghe đã kích động Tính trở về nhà lấy diêm châm đốt
nhà ông Điện làm ông bị chết cháy, rồi biết bao những việc làm vô sỉ khác. Có lẽ
cuộc chiến và những hiện thực được chứng kiến từ cuộc chiến đã làm biến đổi con
người Hưng, đã làm cho Hưng trở thành một kẻ ưa bạo lực, giết chóc, thích kích
động và xúi giục người khác làm những điều phi nghĩa. Trở về với cuộc sống không
cha, không mẹ, không tương lai, hi vọng với những ám ảnh về quá khứ, về gia đình
và cuối cùng chết một cách vô nghĩa trên chính quê hương mình.
Trong Người đi vắng, nhân vật Thắng cũng luôn bị những dằn vặt, ám
ảnh từ cuộc chiến mà mình đã tham gia. Anh luôn nhớ về những người bạn thuở
nhỏ của mình nhưng nay đã bị “chết hết trong chiến tranh”. Rồi trong những
giấc mơ, tiếng gọi, nỗi ám ảnh về những người bạn đã hi sinh cứ trở đi trở lại
trong tâm trí Thắng “Chính nó đã bắn mình một phát đạn vào giữa trán. Tại sao
lại bắn? Mình thấy bỏng rát, âm u... trước mặt mình khói và xác người quyện
chặt vào nhau. Mình ước được quay về Sài gòn tiếp tục vẽ ..”.[37, tr.20]. Thắng
cũng thường mơ về những cảnh tượng khủng khiếp “Thắng mơ thấy mình
giương súng nhắm bắn vào cái bóng thập thò đằng sau bức tường đổ trước mặt.
Xung quanh anh đất đá tung lên từng đợt rồi từ từ đổ sập xuống”[37, tr.35].
Ngay cả sau khi đã có một đêm ân ái mặn nồng với vợ, Thắng vẫn mơ về chiến
tranh “Thắng xách khẩu Ak nhảy vụt qua đống gạch, lăn xuống cái rãnh nước
xăm xắp , một loạt đạn sướt qua vai anh. Không khí hun dần lên vì khói súng, ai
đó giáng một chiếc búa xuống giữa đỉnh đầu Thắng, răng anh nhũn lại” [37,
tr.59]...Như vậy trở về với cuộc sống hòa bình, cuộc sống đời thường với gia
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 35
đình, vợ con, anh em, bố mẹ với một công việc bình thường, một cán bộ nhà
nước, nhưng Thắng vẫn luôn chịu những ảnh hưởng từ cuộc chiến, những ám
ảnh ấy nhiều khi khiến Thắng trở nên trầm tư, bí ẩn, khó hiểu và xa lạ ngay với
chính người thân của mình và cũng khiến Thắng khó hòa nhập với cuộc sống
hiện thực xung quanh. Đó phải chăng là hậu quả âm thầm, dai dẳng và không dễ
khắc phục của chiến tranh. Biết bao người đã ngã xuống, rồi những người may
mắn trở về liệu có được sống cuộc sống bình yên.
Nhân vật người anh trai của nhân vật Hiếu trong tác phẩm Mình và họ có
thể nói là nhân vật chịu hậu quả nặng nề nhất từ cuộc chiến tranh, một cuộc
chiến chưa xa thời đại chúng ta là mấy và vẫn đầy tính thời sự, cuộc chiến chống
Tàu năm 1979. Vốn là một chàng trai khỏe mạnh, cao lớn, mắt sáng, trán rộng, là
niềm mơ ước của bao cô gái. Thế nhưng sau một thời gian tham gia cuộc chiến
chống Tàu và may mắn được trở về anh đã trở trành một con người hoàn toàn
khác. Lúc mới về còn tỉnh táo, nhận biết được người thân của mình và tẩy chay
toàn bộ những gì liên quan đến bọn Khựa bởi theo anh “Không chơi với bọn
Khựa được đâu[...] Anh dị ứng với tất cả những gì liên quan đến họ. Hành động
đầu tiên là anh đập vỡ cái phích màu đỏ có in hình con công xòe đuôi, sau đó tới
cái quạt li-fan, nồi cơm điện cũng bị đập méo. Đến cả cái đài cũ bác Lâm mua
hộ mẹ có chữ Nhật cũng bị anh ném ra sân vỉ tưởng đó là chữ của chúng” [35,
tr.166]. Nhưng chỉ được một thời gian sau đó anh phải nhập viện vì những cơn
đau đầu rồi anh trốn viện về, đi lang thang với “Hai bên hông đeo lủng lẳng hai
hòn đá được buộc bằng dây cao su, sau lưng khoác chéo một thanh gỗ” [35,
tr.200], anh đòi khoác ba lô đi, mọi người không cho đi, trói anh lại, anh chửi chỉ
một câu lặp đi lặp lại thống thiết “Chúng mày trói ông thế này, Tàu nó đến thì
lấy ai ra cản” [35, tr.200]. Anh bỏ nhà đi lang thang nay đây mai đó, không
nhận ra người thân. Thế rồi, anh mất lúc nào không ai hay khi mọi người đến
xem thì phát hiện anh đã chết, “miệng và tai đầy kiến ... anh bị chuột hay con gì
đó gặm mất một mắt và hai cánh mũi” [35, tr.238].
Cũng trong tác phẩm này, rất nhiều những vấn đề về hiện thực chiến tranh
được tác giả khám phá : Đó là những chiến đấu, hi sinh của biết bao con người
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 36
đặc biết là con người vùng biên; đó là sự tàn khốc và những thủ đoạn bỉ ổi của
kẻ thù trong chiến tranh; đó là cả nhưng tâm tư, tình cảm, cảm xúc rất thực, rất
đời thường của người lính khi tham chiến, và đó còn là cả cái cách con người
ngày hôm nay đã suy nghĩ và đối xử như thế nào với các nạn nhân, với những
người đã ngã xuống hoặc may mắn được trở về sau chiến tranh. Tất cả như một
sự khoáy sâu vào quá khứ đau thương của dân tộc. Có rất nhiều vấn đề khiến
chúng ta phải suy nghĩ một cách nghiêm túc.
Như vậy , chỉ qua một số nhân vật trong tác phẩm, Nguyễn bình Phương
đã trực tiếp hoặc gián tiếp nói đến những hậu quả của chiến tranh, đến mặt trái
của chiến thắng, đến sự hủy hoại vô cùng khủng khiếp và dai dẳng mà nó để lại
cho con người cũng như thông điệp về một cuộc sống không chiến tranh và biết
quan tâm giải quyết những vấn đề hậu chiến, một chủ đề không bao giờ cũ.
Như một quy luật tự nhiên, để chuyên chở, thể hiện những câu chuyện tâm
thức của mình về con người và thế giới, nhà văn phải sáng tạo ra một thế giới
nhân vật tương ứng. Không thể đề cập hết mọi mô hình nhân vật trong tiểu
thuyết Nguyễn Bình Phương, chúng tôi chỉ cố gắng làm sáng tỏ những loại hình
nhân vật đặc trưng, các biểu hiện nổi bật với tư cách là sự thể hiện của tư duy
nghệ thuật của nhà văn về xã hội và con người.
2.2. Những phương thức đặc thù trong nghệ thuật xây dựng nhân vật
Xây dựng nhân vật là một quá trình nỗ lực tìm tòi và sáng tạo của nhà
văn. Mỗi nhà văn đều có cách xây dựng nhân vật riêng biệt mang đậm cá tính
sáng tạo của mình. Để xây dựng lên một thế giới nhân vật sinh động và đa dạng,
Nguyễn Bình Phương đã sử dụng nhiều thủ pháp nghệ thuật mang tính đặc thù
của riêng ông. Không chấp nhận lối mòn trong sáng tác, luôn có ý thức đổi mới
và cách tân, nhà văn luôn dấn thân khai mở những lối đi mới.
2.2.1. Đặt nhân vật trong một không gian và thời gian nghệ thuật đặc biệt.
Mỗi nhân vật văn học đều phải tồn tại trong một không gian và thời gian
nhất định. Nhân vật trong tiểu thuyết của Nguyễn Bình Phương cũng được nhà văn
“xây dựng cho” những không gian và thời gian để tồn tại. Tất nhiên đó là kiểu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 37
không gian, thời gian riêng trong sáng tác Nguyễn Bình Phương.
2.2.1.1. Không gian đồng hiện.
“Không gian nghệ thuật là hình thức bên trong của hình tượng
nghệ thuật thể hiện tính chỉnh thể của nó” (Từ điển thuật ngữ văn học).
Không gian nghệ thuật cũng có thể coi là một sự mã hoá tư tưởng của
nhà văn, “một quan niệm về thế giới và con người, một phương thức chiếm lĩnh
thực tại, một hình thức thể hiện cảm xúc và khái quát tư tưởng thẩm mĩ của nhà
văn” [51, tr.166]. Ta thấy rằng nhiều cuốn tiểu thuyết của Nguyễn Bình
Phương có bối cảnh là không gian mảnh đất Thái Nguyên, quê hương của nhà
văn. Các địa danh có thật: sông Linh Nham, bãi Nghiền sàng, núi Rùng, núi Hột
… cứ trở đi trở lại trong tác phẩm. Nhưng cũng cần lưu ý rằng những địa danh
đó dường như không có ý nghĩa định vị xác định mà đơn thuần chỉ là những cái
tên mà thôi. Điều đặc biệt là Nguyễn Bình Phương đã xây dựng song song với
không gian có thực ấy là một không gian kì ảo, siêu thực. Sự phân tuyến
và đồng hiện của những không gian khác nhau được thể hiện trong hầu
hết các tác phẩm.
Những đứa trẻ chết già có hai cõi không gian âm và dương. Cõi dương là
làng Phan với những điều thần bí hoang đường “toàn ma quỷ với những chuyện
lạ lùng” tựa như ngôi làng trong Trăm năm cô đơn của Marquez. Cõi âm là cuộc
linh du vào thế giới vô thường trên chuyến xe trâu của nhân vật Ông. Thực và
siêu thực đan xen, không gian thực được ảo hoá để trở nên siêu thực. Cõi
huyền bí ấy tiếp tục di chuyển sang Người đi vắng. Không gian ở đây mang tính
chất huyền thoại với cuộc sống của một thế giới khác đang thì thầm dưới lòng
đất nơi những nghĩa địa và bãi tha ma. Không gian ấy còn là sự đồng hiện
giữa không gian quá khứ của cuộc khởi nghĩa Thái Nguyên và không gian
hiện tại nơi có cơ quan và gia đình Thắng. Với Thoạt kì thuỷ, Nguyễn Bình
Phương lại xây dựng một không gian ban sơ man dại và bí ẩn: không gian Linh
Sơn. Đó cũng đồng thời là một không gian ám ảnh chết chóc và ma mị với
màu đỏ bầm của máu in trên nền trời. Ngay cả Trí nhớ suy tàn và Ngồi, hai tác
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 38
phẩm lấy bối cảnh Hà Nội cũng vậy. Trí nhớ suy tàn không miêu tả một Hà
Nội tráng lệ trong nắng mai mà là một Hà Nội trong ảo giác với nhiều đoạn
rẽ, ngã rẽ như một mê cung, mê trận, được chính nhân vật vẽ ra trong tâm
tưởng của mình. Bên cạnh đó là một không gian tù đọng, ngột ngạt trong cuộc
sống thực tại (ngôi nhà của bà già độc thân với thế giới đồ vật lấn át con
người)… Hà Nội thực tại xuất hiện trong Ngồi với tất cả những “nhếch
nhác” ngày thường của nó, ồn ào và nhiều bụi bặm. Cũng trong Ngồi, ta còn
thấy một lớp không khác gian trong những ám ảnh tâm lí ma mị của các nhân
vật. Với Khẩn là không gian huyền thoại nơi lưu giữ những kỉ niệm về Kim. Với
người đàn bà bán khoai nướng là không gian tù ngục, nơi lưu giữ những ám ảnh
về tội ác của mình. Với Thuý là không gian sông nước, gắn liền với ám ảnh về
người chồng mất tích và cuộc ngoại tình điên rồ với Nghĩa. Còn trong Mình và
họ, không gian hiện tại là cuộc sống phồn tạp của đời sống thực tại với nhiều bán
mua, toan tính, đổi chác, lừa lọc, những buông thả vô nghĩa lí về tình yêu, tình
dục, về lí tưởng sống... nhưng song song và trở đi trở lại là không gian vùng biên
những năm 70 được tái hiện qua những dòng nhật kí của nhân vật Anh (của
Hiếu) với biết bao đau thương, chết chóc, hủy diệt tàn khốc... Đồng hiện những
không gian khác nhau là cơ sở để nhà văn mở rộng lãnh địa hoạt đồng của nhân
vật cũng như có sự liên tưởng, đối sánh giữa các nhân vật, từ đó cung cấp thêm
một cái nhìn mới về nhân vật và hiện thực đời sống.
2.2.1.2. Thời gian đồng hiện.
Tương ứng với không gian đồng hiện, các sáng tác của Nguyễn Bình Phương
cũng thường có kiểu thời gian đồng hiện. Hiện thực lai ghép âm dương trong
Những đứa trẻ chết già tạo ra kiểu thời gian lai ghép giữa thực và ảo. Thời gian ảo
gắn liền với cuộc đời của Ông và cuộc hành trình trên chiếc xe trâu cùng kí ức miên
man bất tận về một ngôi làng xa xăm trong tiềm thức. Thời gian thực gắn liền với
cuộc đời Hải với những biến cố lớn nhỏ xảy ra trong gia đình lão Liêm, gia đình
ông Trình. Hai phân đoạn thời gian tưởng như tách rời ấy lại được gắn kết với nhau
bởi ám ảnh về kho của bám riết hai kiếp sống của Ông và Hải. Tiểu thuyết
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 39
Nguyễn Bình Phương vì thế vẫn không rơi vào sự rời rạc, thiếu thống nhất. Trí nhớ
suy tàn có sự đồng hiện giữa thời gian hiện tại và thời gian quá khứ. Thời gian
hiện tại bắt đầu khi “mấy tháng nữa sẽ tròn 26 tuổi”, qua sinh nhật và kết thúc khi
Em rời bỏ Hà thành. Quá khứ trỗi dậy, quãng thời gian hiện thực rất ngắn ấy được
kéo dài với những kỉ niệm từ “ngày bé lạc trong khu phố cổ” [40, tr.9], thời sinh
viên “náo loạn và không biết mệt” [40, tr.12], ngày Tuấn đi… Trí nhớ suy tàn
của cô gái đã tạo ra một thời gian quá khứ song song tồn tại với thời gian hiện tại,
thậm chí, còn có phần lấn át cả thời gian hiện tại. Người đi vắng cũng có kiểu đồng
hiện thời gian như vậy. Trong Người đi vắng, những cái tên như công chúa Diên
Bình, Lê Sát, Đội Cấn và Lập Nham… tạo không khí cổ xưa cho thiên chuyện.
Thời điểm hiện tại là cuộc sống của gia đình Thắng và một đoàn văn công. Chỉ
khác là thời gian quá khứ ở đây không phải là quá khứ của một nhân vật mà là quá
khứ, lịch sử của cả vùng đất Thái Nguyên. Cốt truyện Người đi vắng vì vậy
cũng có sự phân chia rõ ràng, riêng biệt. Mặt khác trong Người đi vắng còn
có sự đồng hiện thời gian quá khứ và thời gian hiện tại trong cuộc đời từng
nhân vật. Mỗi khi kí ức xuất hiện, nhân vật hoàn toàn bị động để kí ức đó dẫn dắt,
lạc vào một không gian khác và một thời gian khác. Đây không phải là đặc điểm
riêng của Người đi vắng mà là đặc điểm chung của hầu hết những tác phẩm của
Nguyễn Bình Phương.
Ngồi tái hiện thời gian quá khứ khi chuyện tình của Khẩn và Kim
diễn ra. Tương ứng với không gian mang tính huyền thoại, thời gian quá khứ ở
đây cũng đậm màu sắc huyền thoại với những câu chuyện kể, những lời nhắn
gửi, hẹn ước… Thời gian hiện tại trong Ngồi lại bộn bề với những sự việc xảy
ra trong cơ quan Khẩn với mối quan hệ của Khẩn với Minh, với Nhung và với
Thúy…Cuộc đời Tính trong Thoạt kì thuỷ (20 năm) được đồng hiện với cuộc
đời của con cú (45 phút). Nhân vật Tính còn được đặt trong thời gian tâm
tưởng, vô thức và điên loạn của riêng mình. Thời gian hiện tại trong tiểu
thuyết Nguyễn Bình Phương thường không có sự đảo lộn. Ta có thể coi
đây là kiểu thời gian tuyến tính đơn thuần. Nhưng thời gian quá khứ trong
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 40
những tiểu thuyết đó thì lại hiện hình qua những mảnh kí ức, những vụn nhỏ ám
ảnh của nhân vật (thậm chí là của những nhân vật điên và suy tàn trí nhớ) nên
đứt gẫy, lộn xộn. Thời gian phi tuyến tính này chồng khớp lên thời gian tuyến
tính tạo ra hiện tượng kéo căng và dồn nén thời gian trong tiểu thuyết Nguyễn
Bình Phương. Điều này thấy rõ nhất trong Thoạt kì thuỷ với sự kéo căng cuộc
đời con cú trong 45 phút và sự dồn nén cuộc đời Tính trong 20 năm, Người đi
vắng với mấy thế kỉ lịch sử và vài tháng ngắn ngủi của Thắng và Hoàn. Còn
trong Mình và họ, một chuyến đi lên và đi xuống của nhân vật Hiếu trong hiện
tại lại tương ứng, đồng hiện với cả cuộc đời đầy biến động, bi thương của người
anh trong quá khứ…
Tại sao Nguyễn Bình Phương lại xây dựng kiểu không gian và thời gian
đồng hiện như vậy? Kiểu không gian và thời gian này có ý nghĩa như thế nào
với việc xây dựng các nhân vật tiểu thuyết? Khi đồng hiện hai kiểu không, thời
gian nhà văn đã tạo ra những cuộc sống khác nhau cho nhân vật. Con người
trong cuộc đời thực có thể bị che khuất bởi những lí do nào đó nhưng con người
trong cuộc sống tâm tưởng thì có lẽ sẽ thấy được đến từng góc khuất. Hơn nữa
kiểu con người hai cuộc sống này không chỉ cho thấy con người thật hơn mà
ngay bản thân sự tương phản giữa những không gian và thời gian khác nhau còn
cho ta thấy một phần của bức tranh hiện thực tác giả muốn phản ánh. Không khí
huyền thoại bao trùm những thiên tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương cũng bởi
chính kiểu không - thời gian ấy. Đăng đối và bổ sung cho nhau, không gian và
thời gian trong tiểu thuyết của Nguyễn Bình Phương giúp người đọc tìm ra sợi
dây nối giữa những con người khác nhau trong từng nhân vật, giữa các nhân vật
và thời đại khác nhau trong cuộc sống của con người. Có thể nói Nguyễn Bình
Phương đã thành công, tạo được một dấu ấn và cách khai thác mới trên phương
diện này.
2.2.2. Nhân vật được xây dựng qua những giấc mơ, những ám ảnh dị thường.
2.2.2.1. Những giấc mơ đứt nối
Những giấc mơ của nhân vật được tác giả dụng công khắc họa. Đôi khi,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 41
những giấc mơ ấy còn được liệt kê thành một phần phụ lục của cuốn tiểu thuyết
(Phụ lục II: Những giấc mơ của Tính và Hiền trong Thoạt kì thuỷ). Giấc mơ có
một ý nghĩa quan trọng trong việc giúp người đọc hiểu về nội tâm nhân vật khi
nó gắn liền với những ám ảnh, những nỗi lo âu thường trực và những biến cố
trong cuộc sống của nhân vật. Trong Ngồi, giấc mơ của Khẩn thường gắn liền
với những ám ảnh của anh về Kim, về Sư Thiều, về người bà của Nhung. Trong
Người đi vắng, giấc mơ của Thắng gắn với những kí ức về chiến tranh, của Kỉ
gắn với điềm báo về cái chết của Sơn, giấc mơ của Hoàn về tiền kiếp của mình là
minh chứng cho sự cô đơn, lạc lõng và khó hòa nhập trong thực tại của nhân
vật. Trong Mình và họ, giấc mơ của Hiếu gắn với những điềm báo về người anh,
về việc mình sẽ bị bắt…Đáng chú ý hơn cả là những giấc mơ trong Thoạt kì
thuỷ. Có thể nói rằng ở đây những giấc mơ được sử dụng một cách hiệu quả và
thành công nhất. Những giấc mơ của Tính gắn liền với những ám ảnh về máu,
bạo lực, trăng…với những hình ảnh về con dao giết lợn, về ông Điện,
ông Khoa, thằng bé điên....(những người sẽ là nạn nhân của bản năng khát máu
nơi Tính). Những giấc mơ của Hiền thì gắn liền với thân phận hẩm hiu, bất hạnh
của cô. Như vậy các giấc mơ trong tiểu thuyết còn có ý nghĩa dự báo những
hành động nhân vật sẽ làm và những sự kiện sắp diễn ra. Trong những giấc mơ
ấy ta thấy những hụt hẫng, những dằn vặt, những chao đảo điên rồ… của nhân
vật. Trạng thái tỉnh – mê đó làm con người bên trong nhân vật hiện diện rõ
nét hơn bao giờ hết. Khai thác những giấc mơ, Nguyễn Bình Phương đã đi theo
hướng thăm dò vô thức. Đây là một đặc sắc về nghệ thuật nhưng đồng thời cũng
gắn liền với quan niệm về con người vô thức của nhà văn.
2.2.2.2. Những ám ảnh thường trực
Tất cả các nhân vật của Nguyễn Bình Phương (không loại trừ những
nhân vật mắc bệnh) đều ít nhiều mang trong mình một ám ảnh. Câu chuyện về
Những đứa trẻ chết già còn pha cả chút hồi hộp của tiểu thuyết trinh thám khi
điểm hội tụ các ám ảnh của những nhân vật chính trong truyện là một kho báu
mà con Nghê thần kì sẽ là chìa khoá mở cửa kho báu đó. Gia đình lão Trường
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 42
“hấp” ba đời (lão Trường, Liêm - con trai lão Trường và Hải – con Lão Liêm)
chịu sự ràng buộc của một lời nguyền mơ hồ. Chính ám ảnh về kho báu đã
khiến tất cả trở lên u tối và giam giữ suy nghĩ của con người trong những
vùng mờ tối. Biết bao tai họa đã ập đến với gia đình này. Sự rạn nứt tình cảm gia
đình cũng bắt đầu từ đó. Ông Trình cũng vì ám ảnh kho của ấy mà bỏ mặc người
vợ trẻ với tuổi xuân mòn mỏi đợi chờ để đến nỗi tan vỡ gia đình: vợ chết,
con gái lưu lạc.
Trí nhớ suy tàn là câu chuyện của một cô gái với những ám ảnh của
mình. Chính những gam màu sáng – tối của ám ảnh đó đã tạo ra bức chân dung
tự hoạ của nhân vật xưng “em” này. Ám ảnh về Tuấn: “ Tuấn đã ra đi như một
đám mây, mây không đầu thai trở lại cùng những kỉ niệm đẹp đẽ, bàng hoàng
dưới gốc cây điệp phố Bà Triệu” [40, tr,32]; ám ảnh về Vũ: “Vũ nghe tiếng chân
em xao xác như tiếng vỗ cánh. Có thể em sắp bay lên, sau đó biến mất trong màn
đêm xanh đậm đang ngự trị trên đầu. Vũ nắm tay em, nắm nhẹ rồi buông ra
rất nhanh” [40, tr,32]. Có thể nói rằng toàn bộ tiểu thuyết là những mảnh
kí ức đứt đoạn, đan xen, nối tiếp nhau mà “Vũ bên trái, Tuấn bên phải”. Song
song với Tuấn và Vũ, người đàn ông điên và người đàn bà áo vàng ở phố Bà
Triệu cũng luôn làm cô day dứt, không yên trong hiện tại. Câu chuyện của “em”
mở đầu bằng một chuỗi ám ảnh và kết thúc cũng bằng một chuỗi ám ảnh chao
đảo như thế.
Sở trường khắc họa nhân vật qua những ám ảnh còn được Nguyễn
Bình Phương thể hiện qua việc xây dựng những nhân vật trong Người đi
vắng. Thắng - một trong số những nhân vật chính của tiểu thuyết - bị ám
ảnh bởi những trận đánh khốc liệt thời chiến tranh và những cái chết khủng
khiếp: “đất đá và cả bầu trời bị bốc tung lên, vỡ vụn ra và lặng lẽ vẩn
những làn bụi mỏng li ti. […] Trung đội rầm rập chạy, chạy thốc tháo. Đại liên
đuổi theo sau, phạt ngang những người sau cùng” [37, tr.237]. Những âm thanh
và hình ảnh cứ thỉnh thoảng lại hiện về, vang lên trong đầu Thắng, không
cho anh có được một cuộc sống bình yên giữa thời bình. Bị ám ảnh bởi những
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 43
sự kiện xảy ra trong quá khứ còn có Chung - đồng nghiệp cùng cơ quan với
Thắng. Cuộc sống của Chung luôn chập chờn hình ảnh của người đàn ông
thiến lợn và nỗi sợ hãi sẽ bị thiến. Tiếng rao: “Ai thiến đê…” cứ dội về theo
những lá thư của một người con gái đã chết - người yêu của Chung- khiến anh
lại sợ hãi đến co rúm người lại trong tư thế hai tay che bộ hạ. Hà bị ám ảnh về
nguồn gốc nhà quê của chính mình. Yến, một cô gái quê hiền lành, chất phác-
lại bị ám ảnh do tác nhân của hoàn cảnh hiện tại. Sau khi lên nhà Thắng để
chăm sóc Hoàn khi chị bị tai nạn, Yến đã bị ám ảnh bởi mùi cồn sát trùng. Ở
bất cứ nơi đâu và ở bất cứ chỗ nào, Yến cũng vẩy cồn khắp nơi. Yến nghiện mùi
cồn như người ta nghiện nha phiến. Được ngửi mùi cồn với Yến là hạnh phúc.
Từ khi Hoàn bị tai nạn, Hoàn đã trở thành ám ảnh đối với Cương. Cùng với ám
ảnh về bụi cậm cam, ám ảnh về Hoàn đã khiến Cương trở thành một kẻ ngơ
ngẩn, thẫn thờ.
Xây dựng những nét tâm lí nhân vật như là những hậu quả do những ám
ảnh gây ra còn có một nhân vật nữa rất đáng chú ý trong một tiểu thuyết khác:
Tính trong Thoạt kì thuỷ. Xuất hiện giữa một thế giới điên loạn và bạo lực,
Tính không chỉ là một kẻ điên mà còn là một người bị ám ảnh săn đón, dồn
đuổi. Những ám ảnh với Tính là cả một hệ thống bao gồm: bạo lực, máu, trăng.
Ngay từ khi còn nằm trong bụng mẹ, Tính đã là nạn nhân của người cha bạo
lực: “bị Phước đạp thốc vào bụng. Liên cắn răng ôm bụng ngồi bậc cửa, đầu tì
lên cánh tay. Bụng Liên to, vồng tròn”.
Lớn lên, Tính tiếp tục được nuôi dưỡng trong một môi trường bạo lực. Bạo
lực đã trở thành một ám ảnh nặng nề đối với cuộc đời Tính. Bố mẹ đánh nhau, bố
mài dao sang nhà ông Bồi què đòi xin tiết, Hưng với khuôn mặt bê bết máu… Tất
cả đã in sâu vào tâm trí Tính, để lớn lên, Tính bắt đầu thực hành những hành
động bạo lực: từ kiến, công cống, rồi đến lợn, thằng bé điên, ông Khoa và cuối cùng
là xọc dao vào cổ mình. Có thể nói rằng Tính là sản phẩm “hoàn hảo” của một
chuỗi ám ảnh về bạo lực có thể coi là một sự lí giải của Nguyễn Bình Phương về
bệnh điên của Tính. Đồng thời ám ảnh này còn liên quan đến một ám ảnh
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 44
khác: ám ảnh về máu. Nếu như bạo lực là lẽ sống của Tính thì máu là nguồn
dưỡng chất nuôi sống hắn. Đồ chơi đầu tiên của Tính là con dao bầu nhọn, bài học
đầu tiên của Tính là bài học chọc tiết lợn và thầy dạy đầu tiên là một ông đồ tể.
Trong niềm hân hoan của tuổi thơ, Tính tiếp xúc với máu và nhìn cảnh chọc tiết lợn
với một “vẻ ham muốn đáng nghi” [39, tr.14]. Xung quanh Tính, tất cả mọi vật đều
mang sắc máu: quả núi bị khoét vọt lộ ra màu trắng pha chút đỏ của máu, con cú
“máu rỉ ra từ cánh”, bà Liên, ông Xuân thổ ra máu, Hưng “khuôn mặt nhuộm đầy
máu”, Hiền “vú sây xướt rớm máu”… Tính cũng dùng máu làm mốc quy chiếu
vạn vật xung quanh. Trong dòng tâm tưởng của Tính, máu trở thánh một sinh thể
sống động: “Máu cứ trôi, da thịt của máu cứ trôi, và máu bị ốm, chảy chậm quá
thể” [39, tr.25]. Dòng thác máu ấy đã cuốn phăng tất cả: vẻ đẹp tự nhiên và con
người trên mảnh đất này…Bản chất thánh thiện của một đứa trẻ không còn và thay
vào đó là một bản năng khát máu. Đây dường như là một hệ quả tất yếu của môi
trường bạo lực đã nói ở trên.
Ở Tính, ta còn thấy một ám ảnh đặc biệt khác ám ảnh về trăng. Với
những thi sĩ, trăng thường gắn liền với nguồn thi hứng khôn nguôi. Trăng cũng
theo đuổi Tính ngay từ lúc lọt lòng, nhưng Tính lại chối bỏ ánh trăng, câu nói
thường trực trong miệng Tính là: “mắt chó vàng như trăng”. Câu nói ấy
được lặp đi lặp lại 13 lần như một ám ảnh không thể xóa mờ trong tâm trí
Tính. Tính coi trăng như một sinh thể sống: Tính gọi trăng bằng “mày”. Với
Tính, trăng cũng là một ảo thể biến hoá không ngừng với những sắc màu,
những hình thù kì quái. Tính sợ trăng như con thú sợ người thợ săn. Đứng
trước trăng, Tính không thấy xuất hiện những cảm xúc thông thường mà lại thấy
lạnh: “lạnh lắm, mẹ ạ”. Suốt đời Tính luôn bỏ chạy, luôn tìm cơ hội để trả thù và
tàn phá trăng. Đói thì Tính được Hưng chỉ và cũng đồng tình với một món ăn kì
lạ: “rán trăng lên mà ăn”, đêm trăng không ngủ được tính chạy ra nhặt đã đáp
lên trời. Tính giết ông Khoa để giật lấy cây thánh giá vì ánh sáng vàng loé lên từ
cây thánh giá khiến Tính liên tưởng tới trăng, làm hắn thấy hoảng hốt. Cũng
chính sự hoảng hốt khi nhìn thấy trăng đã khiến cho Tính tự xọc dao vào cổ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 45
mình. Là một hình ảnh giữ vai trò tô đậm bản chất điên loạn của Tính, trăng
trong Thoạt kì thuỷ còn là một lí do của những cơn điên loạn đó nữa. Tính điên
vì bị môi trường vò xiết, vì trượt dài trên vũng bùn bản năng và còn vì tiền định
từ ánh trăng.
Những ám ảnh đậm nét cũng xuất hiện trong Ngồi với những nhân vật
Khẩn, Nhung, Minh, Thuý, vợ chồng Liên và người đàn bà bán khoai nướng. Ngồi
bắt đầu bằng những ám ảnh của Khẩn về mối tình đã mất với Kim - người
tình cũ. Và những ám ảnh đó đã theo Khẩn trong suốt diễn biến của câu chuyện.
Mỗi khi có một sự kiện nào đó xảy ra trong cuộc sống của Khẩn là lập tức những
dòng tâm tưởng miên man lại đưa Khẩn trở về với những hình ảnh trong kí ức.
Nhung - đồng nghiệp và cũng là người tình của Khẩn - thì lại bị ám ảnh bởi cái chết
của người bố trong chiến tranh và việc đi tìm di hài của ông. Thuý - bạn thân của
Khẩn - thì bị ám ảnh bởi sự mất tích của người chồng … Tất cả những nhân vật đó
- mỗi người một ám ảnh riêng và một tâm trạng riêng. Hiếu trong tác phẩm mới
nhất của Nguyễn Bình Phương, Mình và họ, cũng mang nặng những ám ảnh về
người anh đã mất, ám ảnh về những kí ức được ghi lại trong cuốn sổ nhật kí của
anh, ám ảnh về những tội ác mà mình cùng với Trang đã gây ra cho Vân Ly…
Cùng với vị trí của mỗi nhân vật, mỗi ám ảnh đó cũng có vai trò riêng đồng thời tạo
nên chiều sâu nội tâm và sự phức tạp trong tính cách nhân vật. Đó là những kẽ
ngách nội tâm không dễ khám phá trong mỗi con người mà nhà văn đã thể hiện
thành công trong những tiểu thuyết của mình.
2.2.3. Xây dựng nhân vật với những thủ pháp nghệ thuật đặc trưng của
chủ nghĩa hiện thực huyền ảo.
Huyền thoại không phải là một vấn đề mới trong văn học nhưng cho đến
nay vẫn là một vấn đề hết sức phức tạp. Huyền thoại tồn tại với nhiều cấp độ:
huyền thoại tồn tại với tư cách một thể loại, huyền thoại tồn tại như một kiểu tư
duy, nhưng phổ biến nhất vẫn là huyền thoại tồn tại với tư cách là một thủ pháp.
Ta gọi đó là thủ pháp huyền thoại hoá. Trong văn học, thủ pháp này được coi
là một công cụ để xây dựng thế giới nghệ thuật của nhà văn - tức là nó có tư cách
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 46
một bút pháp nghệ thuật
Thủ pháp nghệ thuật này được sử dụng phổ biến trong văn học thế
giới và văn học Việt Nam từ rất nhiều năm trước. Điều kì lạ là càng về sau, khi
xã hội phát triển, những điều kì ảo dường như không còn có chỗ tiếp tục tồn tại
nữa lại xuất hiện ngày càng nhiều trong các sáng tác văn học. F.Kafka,
J.Joyce…trong văn học thế giới; Nguyễn Khắc Trường, Nguyễn Minh Châu,
Phạm Thị Hoài, Bảo Ninh, Hồ Anh Thái… và Nguyễn Bình Phương trong văn
học Việt Nam là những minh chứng điển hình cho điều đó. Có thể giải thích vấn
đề này như thế nào? Đợt sóng lớn này xuất phát từ nhiều nhân tố nhưng có một
nhân tố cơ bản là chủ nghĩa hiện thực không làm thoả mãn các nhà văn khi họ
muốn miêu tả những vấn đề phức tạp trong đời sống đương đại vốn có nhiều
vỉa tầng. Thủ pháp huyền thoại hoá không chỉ giúp các nhà văn khai phá
những tầng chìm ấy của hiện thực mà còn có thể đi sâu vào miêu tả phản ánh
đời sống tâm linh của con người
Thế giới tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương là thế giới của những bí ẩn,
những âm thanh ma quái và những chuyện tưởng chừng như không có trong thực
tế (chuyện người hoá rắn, hoá trẻ con (Những đứa trẻ chết già), cây cối, xác
chết, ngựa biết nói (Người đi vắng), người chết gửi thư và nói chuyện
(Người đi vắng). người biến mất, người sống biến thành người chết( Ngồi),
người bị ma dọa, người chết trở về (Thoạt kì thủy)…Tất cả kết dệt nên thành
một hình thức “giả liêu trai” – nhân tố của một mảng văn học được gọi là chủ
nghĩa hiện thực huyền ảo. Dấu ấn của chủ nghĩa hiện thực huyền ảo không chỉ
thể hiện qua việc tạo dựng một không gian, thời gian lai ghép hay những
phần hiện thực không có thật như đã nói ở trên mà thể hiện rõ nhất
trong việc khắc họa nhân vật với bút pháp huyền thoại. Các kĩ thuật viết đặc
trưng của chủ nghĩa này như: đánh tráo, phóng đại, lồng ghép đã được nhà văn
sử dụng một cách triệt để.
Những điều bình thường trong đời sống các nhân vật thì được Nguyễn Bình
Phương miêu tả như những điều kì ảo, lạ lẫm thông qua hệ thống chi tiết cụ thể,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 47
tỉ mỉ, kĩ lưỡng đến kinh ngạc. Chẳng hạn một việc đơn giản như việc gõ chữ
trên máy vi tính nhưng lại được miêu tả như “sự kiện lớn” trong tiểu thuyết
Nguyễn Bình Phương: “Khẩn nhấn phím xoá từ trái sang để xoá các câu thừa.
Những con chữ xô nhau chạy tới con trỏ đánh dấu rồi biến mất ở đó, làm như cái
vạch dọc nhỏ bé nhấp nháy kia là cái vực sâu vô cùng tận, Khẩn buông tay, những
con chữ dừng lại đột ngột, bàng hoàng, khi Khẩn nhấn tiếp phím thì những con chữ
đổ xô vào cái vạch dọc để rồi biến mất tăm mất tích. Khẩn hình dung ra
những kí tự kia là người và một kí tự bị xoá đi, biến mất thì cuộc đời này lại dở
dang thêm một chút, vô nghĩa thêm một chút. Ý nghĩ ấy thôi thúc Khẩn đánh tên
mình và sau đó tự xoá nó đi. Khẩn vừa nhấn ngón tay thì chữ Khẩn chạy xô tới cái
vạch xoá, nó chạy nhanh tới mức Khẩn dừng tay thì chữ K đã bị xoá chỉ còn chữ
hẩn, Khẩn tiện tay nhấn nhịp nữa và còn lại chữ ẩn. Khẩn đọc lại phần chưa bị
xoá thấy càng ngày chúng càng khó hiểu hơn, dị kì hơn và cuối cùng chỉ
còn lại kí tự n, nó loé lên trong đồng tử Khẩn kèm theo tiếng thét thảng thốt đen
chói sau cái vạch dọc nhỏ bé với một khoảng trống lớn phía trước” [36, tr.114].
Hoàn toàn có thể tóm lược sự kiện ấy bằng một vài câu ngắn gọn và đơn giản.
Tất nhiên đây là một mã khoá nghệ thuật mang nhiều dụng ý của nhà văn và đồng
thời cũng là một chi tiết minh chứng cho việc sử dụng kĩ thuật của chủ nghĩa
hiện thực huyền ảo của Nguyễn Bình Phương.
Kĩ thuật đánh tráo còn được thể hiện qua giọng điệu mạch lạc, chính xác
khi miêu tả những sự kiện kì lạ như những hiện tượng rất đỗi bình thường
trong cuộc sống. Cái chết kì lạ của lão Biền, lão Hạng (Những đứa trẻ chết già)
được kể lại mà không hề thêm vào một lời bàn tán của dân làng cũng như suy nghĩ
của nhân vật Ông. Chuyện kì lạ về hai chiếc đầu lâu gỗ trong gia đình ông Mộc:
“một đêm đang nằm trên sập ông bỗng nghe tiếng trẻ con trò chuyện. Vốn người
bạo gan, ông nằm im lắng nghe. Đấy là hai chiếc đầu lâu ở cổ hai con hạc rì
rầm trao đổi với nhau. Chúng nói bằng âm thanh lành lạnh: Mưa đen đi!;
Vàng được không?”[38, tr.91]. Hay chuyện về người thợ tên Quang: “Kiền tò mò
lén đi theo Quang, anh ta thấy Quang ngồi trên cỏ cho đến lúc nửa đêm thì có
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 48
một người con gái đi đến. Cô gái này trắng mờ như khói, chẳng nhìn rõ mặt mũi
gì cả. Gió mùa hè từ núi ùa xuống mát rượi, mùi hoa phong lan phảng phất thơm
xen với mùi cỏ ngào ngạt. Quang ôm ghì lấy bóng người con gái kia, miệng rên rỉ
như sắp chết. Kiền thấy những vì sao đột nhiên rùng mình theo từng cơn
co giật của Quang và cô gái. Một vì sao mé tây chao đảo, phình to ra rồi lao vút
xuống. Kiền nghe thấy tiếng Quang reo rất to:
- Lại một nhóc ra đời!
Sau đó anh ta nghe thấy có tiếng trẻ con khóc u ơ ở đâu đó dưới lòng bãi
cỏ. Cô gái từ từ gỡ Quang ra và bỏ đi vào đám sương đang bốc lên mù mịt cuối
đồng cỏ”[38, tr.90]
Dường như sự du nhập của cõi âm vào cõi duơng, sự xuất hiện của
những hồn ma đã trở nên quá quen thuộc với những con người nơi đây.
Ngay cả trong cuộc sống hiện đại, những việc kì lạ như câu chuyện về
miếng vải đẹp xuất hiện trong giấc mơ rồi hiển hiện trước mắt Minh (Ngồi)
tưởng như không thể xảy ra nhưng lại được nhân vật chấp nhận một cách dễ
dàng. Giọng kể thản nhiên của tác giả cũng góp phần thể hiện điều đó.
Nguyễn Bình Phương đã đánh tráo và lồng ghép những chi tiết thực vào
những chi tiết ảo nhằm tạo ra một không khí chuyện thuận lợi cho việc khắc hoạ
nhân vật với những nét dị thường và miêu tả một cuộc sống tưởng chừng chỉ
có trong truyện cổ. Thật khó có thể tìm được những câu chuyện như trong
tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương ngoài đời thực. Cũng như thật khó để chúng
ta tìm được một Tính đam mê máu và chết chóc, một anh Sơn sẵn sàng giết
người chỉ vì mong được sở hữu bộ dàn compăc, một Hùng “ngọng” “nhà quê”
đến thế, một Chung sợ bị thiến đến vậy… Thủ pháp phóng đại đã được sử dụng
để xây dựng những nhân vật phi thực nhưng lại mang những nét tính cách thuộc
về bản chất của con người. Đây là một trong những kĩ thuật viết cơ bản của chủ
nghĩa hiện thực huyền ảo mà nhà văn đã thể hiện rất thành công trong các sáng
tác của mình. Như vậy là bút pháp huyền thoại đã giúp nhà văn xây dựng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 49
được những nhân vật thể hiện được cái nhìn của mình về cuộc sống và con
người. Đồng thời cũng chính bút pháp này đã khiến những trang văn của
Nguyễn Bình Phương trở thành những cổ tích giữa đời thường đầy biến động.
2.2.4. Nhân vật được xây dựng thông qua kĩ thuật dòng ý thức
Kỹ thuật dòng ý thức “phát tích” từ văn học phương Tây đầu thế kỷ XX,
được các nhà văn ở những nước có nền văn học đang phát triển sử dụng nhằm
khám phá thế giới nội tâm con người. Đặc biệt, điều đó tạo nên phong cách trần
thuật độc đáo cho tiểu thuyết. Tuy nhiên, mỗi tác giả lại lựa chọn cho mình kiểu
thể hiện riêng. Trong tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương, dòng ý thức biểu hiện ở
dòng hồi ức bất tận của nhân vật.
Hồi ức hay hồi tưởng là “làm trở lại trong trí nhớ những hình ảnh của cái
đã xảy ra, những kỷ niệm của dĩ vãng” [12, tr. 386]. Cũng có nhiều cách hiểu
tương tự về khái niệm hồi ức: “Hồi ức thực chất là tìm lại cái quá khứ đã qua đi,
làm cho nó sống lại…” [12].
Như vậy, hồi ức là làm tái hiện lại quá khứ trong tâm trí và làm sống lại
những sự việc trong quá khứ như nó đang diễn ra. Qua đó, người hồi ức cũng tìm
lại chính bản thân mình. Trong văn học, hồi ức có ý nghĩa khơi dậy kỷ niệm,
khiến câu chuyện được kể sinh động. Nó cũng góp phần thể hiện tính cách, đời
sống nội tâm nhân vật. “Chỉ khi nào có ý thức về đời sống nội tâm nhân vật thì
nhân vật mới có khả năng hồi tưởng” [50, tr. 89]. Có lẽ vì ý nghĩa đó, nhân vật
trong tiểu thuyết dòng ý thức thường đắm mình trong hồi ức. Nó biểu hiện ở
những kỷ niệm khó phai mờ, những nỗi nhớ về một bóng hình trong quá khứ,
hoặc cũng có thể đi vào những giấc mơ. Đó là những mảnh ký ức không trọn vẹn
nhưng đeo đẳng triền miên theo cuộc đời nhân vật, đôi lúc nó tạo nên sức ám
ảnh khôn cùng. Nó không chỉ hiện diện ở cả thế giới “hiện hữu”- cuộc sống hiện
thực, đời thường, trần tục mà còn có mặt ở một thế giới “tàn phai” - quá khứ,
giấc mơ (tiềm thức) một thế giới xa xôi như hình bóng của cõi âm lạnh giá.
Ở thế giới “hiện hữu” thường ngày, các nhân vật vẫn sống, hoạt động với
công việc và làm tròn chức phận của mình. Tuy nhiên, ở trạng thái bình yên của
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 50
tâm hồn, nhân vật dành thời gian lần trở về quá khứ ngọt ngào (Trí nhớ suy tàn,
Người đi vắng), hoặc cũng có khi quá khứ trở về ở mọi lúc, xô dạt hiện tại,
chiếm lĩnh cả khoảng không (Ngồi, Người đi vắng, Thoạt kỳ thủy, Mình và
họ). Những mảnh vỡ ký ức có khi nhẹ nhàng, âm thầm cũng có khi triền miên,
không dứt trong đời sống nội tâm của nhân vật
Dòng hồi ức được cảm nhận rõ nhất ở Trí nhớ suy tàn. Trí nhớ hay kí ức
trở thành một nỗi ám ảnh của nhân vật - người con gái xưng Em không có tên
gọi cụ thể cũng như sự chập chờn của kí ức vậy. Cô gái ấy chao đảo giữa hai
người tình là Tuấn và Vũ. Các sự kiện chỉ diễn ra trong vòng mấy tháng trước
sinh nhật lần thứ hai mươi sáu của cô nhưng hồi ức làm sống lại cả quãng đời
tuổi thơ, đặc biệt từ ngày nhận lời yêu Tuấn cách đó sáu năm. Kỷ niệm không
nhiều nhưng cảm giác và ấn tượng về quá khứ lại tràn ngập
Hình ảnh Tuấn trở đi trở về trong kí ức của Em dù hiện hữu bên cô là Vũ.
Một không gian vắng vẻ cũng gợi nhắc hình ảnh người yêu đầu tiên: “Giờ một
người đang ở trong nắng, cách xa gần hai nghìn cây số, ký ức tràn ngập…” [40,
tr.58]. Có lẽ vì độ chênh lệch không gian khiến tâm tưởng cũng bị xô nghiêng,
chao đảo. Dòng hồi tưởng âm thầm tìm về lần gặp gỡ cuối cùng, lưu giữ lời từ
biệt và lời hẹn trở về của Tuấn: “…lởn vởn đâu đó lời bày tỏ bâng quơ của
Tuấn, cả những bước chân bâng quơ không rõ từ thuở nào” [40, tr.20]. Giọng
nói, bước chân của người yêu như được đẩy xa thêm khoảng cách về thời gian
khiến nó mơ hồ xa xăm như vang vọng lại từ miền sâu thẳm. Kí ức tưởng ngủ
quên trong sự chao đảo giữa hai cuộc tình, nhưng thực sự nó lại có sức sống dai
dẳng gặm nhấm tâm hồn. Cô gái hầu như chỉ sống miên man trong khoảng thời
gian sáu năm về trước: “Cách đây sáu năm, cũng vào ngày này, dưới gốc cây
này, đã nhận lời với Tuấn, nhận sự gặp gỡ mềm mại, da diết” [40, tr.94]. Cây
điệp vàng đã chứng kiến lời tỏ tình, nụ hôn đầu nồng nàn của hai người, nó trở
thành hình ảnh gợi nhớ quá khứ. Nó đang hiện hữu, tức là quá khứ vẫn chưa thể
xóa nhòa, mặc dù hiện tại, một người đã ở “bên kia quá vãng”, còn một người
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 51
“trí nhớ đang suy tàn khủng khiếp”.
Trong Người đi vắng, ta cũng thấy dòng hồi tưởng thầm lặng này chảy
trong tâm trí của nhiều nhân vật. Với Cương, Hoàn vẫn là một người tình ngọt
ngào nhất, thậm chí anh cảm nhận được cả hơi thở của cô : “Rất nhiều lần
Cương và Hoàn đã ngồi cùng nhau ở chỗ này hàng tiếng đồng hồ, khi ấy cả hai
đều ăn nói dè dặt vì sợ phá vỡ sự yên tĩnh xung quanh…lần nào Cương cũng
lắng nghe tiếng thở của Hoàn, nó nhẹ nhàng mong manh nhưng quyến rũ…”
[37, tr.466]. Nhân vật Hà, dù cố gắng đánh bóng mình để che đậy con người nhà
quê nhưng tâm trí vẫn không thể vượt thoát hàng rào ngăn cách đó. Càng cố
gắng phủ nhận, nó càng thấy hiển hiện tuổi thơ: “Đang trở về vĩnh viễn một con
bé túm tóc đuôi gà từng sục bùn dọc sông Linh Nham móc cua về nấu canh, từng
len lỏi vào rừng bẻ củi ra chợ bán và từng giữa trưa nắng hừng hực cắp rổ đi
lấy rau vừng.” [37, tr.716]. Tuổi thơ đẹp nhưng lam lũ và bươn trải luôn lặng lẽ
đi về trong hồi tưởng của Hà. Còn Kỷ - người con duy nhất có trách nhiệm và
gắn bó với ngôi nhà cũ kỹ bao đời đã sống, cũng không thôi nhớ về những kỷ
niệm ấm áp, cả nỗi đau khổ của gia đình mà ngôi nhà là chứng nhân: “Ngày bé,
ở sau nhà, dưới chân tường, Kỷ và Yến suốt ngày lọ mọ bắt công cống
chơi…Ngày mẹ mất Kỷ trốn ra sau nhà áp mặt vào bức vách này ngửi mùi đất
ngai ngái của nó…” [37, tr.564]. Tìm đến ký ức đó, nhân vật như được sẻ chia
nhiều hơn, được tìm thấy nguồn an ủi mà mình không có trong thực tại.
Ở Những đứa trẻ chết già, nhà văn lại để những người già sắp bước sang
bên kia thế giới đắm mình vào dòng kí ức đã qua rất lâu. Đó là cụ Trường với
hồi tưởng khi cụ mười bốn tuổi gặp gỡ người đàn ông mặc áo kaki cũ, sặc mùi
cồn I ốt và thuốc súng. Người đàn ông đã nhận là bác cụ đến để giao phó một
nhiệm vụ thiêng liêng của dòng họ, nhiệm vụ mà cụ sẽ phải đánh đổi bằng cả
cuộc đời. Đó là hồi ức xen lẫn cơn hôn mê của cụ Chẩn ở giờ hấp hối, khi cái
chết đang cận kề : “Cụ Chẩn nhớ lại thời gian mà mình đã sống. Ngôi làng
trống hoác hiện ra…rồi cụ cắp sách đến trường…cụ lén lút đi giữa đêm để bắt
gà hàng xóm…cụ nhập vào đám người đào ao thuê…” [38, tr.188], về vùng đất
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 52
xa lạ, về gia đình người đàn ông kì quặc, về cái việc lạ lùng mà chính cụ đã nhận
làm khi đi đào ao thuê. Những sự kiện trong quá khứ ấy chắc chắn luôn đi bên
cuộc đời của họ nên giờ phút cuối cùng, nó vẫn miên man sống trong dòng chảy
hồi ức.
Từ cô gái hai sáu tuổi không tên (Em) đến những gương mặt rất cụ thể
(Cương, Hà, Kỷ), từ người trẻ tuổi đến những người kết thúc một thế hệ, nhân
vật nào trong tiểu thuyết của Nguyễn Bình Phương đều khẳng định sự hiện hữu
của mình bằng trạng thái hồi tưởng. Quá khứ làm họ sống dậy còn hiện tại thu
nhỏ họ đi. Tuy những kí ức của họ không mãnh liệt nhưng lại rất khó “suy tàn”.
Nó chỉ âm thầm, không mãnh liệt nhưng luôn hiện diện trong một góc khuất của
tâm hồn.
Nhân vật trong tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương thường sống phần lớn
trong không - thời gian hồi ức. Bởi nó là trạng thái tiếp nối liên tục như những
dòng chảy bất tận. Trong Người đi vắng, Thắng luôn ám ảnh về cuộc chiến:
“Thắng xách khẩu AK nhảy vụt qua đống gạch, lăn xuống cái rãnh nước sâm
sấp, một loạt đạn sướt qua vai anh…” [37, tr.407]. Mặc dù đã qua rất lâu, cuộc
chiến mà anh có mặt vẫn như còn hiện hữu, sống động trước mặt. Ngay cả lúc
anh đắm chìm trong làn da, mái tóc của Thư thì hơi thở “dồn dập” mà anh nghe
bên cạnh mình không còn là của Thư nữa. Nó đã trở thành hơi thở hấp hối buồn
bã dưới bức tường đen sạm khói bom, nham nhở vì đạn phá” [37, tr.353]
Nhiều nhân vật lại sống triền miên trong thế giới vô thức và lắng nghe chỉ
duy nhất tiếng nói của chính mình. Sự liền mạch trong dòng chảy của nhân vật
lại chính là những hình ảnh ám ảnh được hiện lên nhiều nhất. Trong suy tư của
Tính (Thoạt kỳ thủy) luôn có vầng trăng, máu, cảnh chọc tiết, bố gặm chén.
Điều đó chứng tỏ nó đã trở thành những dấu vết hồi ức được lưu giữ trong cõi vô
thức của nhân vật.
Khẩn (Ngồi) lại triền miên trong dòng hồi tưởng về Kim. Kí ức này tưởng
như không bao giờ bị đứt đoạn. Không hề có thời gian, không gian xác định
trong nỗi nhớ của Khẩn dành cho Kim. Nó len lỏi vào từng góc khuất tâm hồn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 53
Khẩn. Lắng tai nghe tiếng mưa thu “vàng óng ả như hổ phách”, Khẩn nhớ lần tỏ
tình với Kim: “Ngày tỏ tình với Kim cũng là ngày mưa. Khi ấy mình mặc áo
mưa đứng ở giữa sân thấy Kim trên ban công đang nhìn mình với ánh mắt lạ
lùng…Ngày ấy Kim mặc chiếc áo màu ngà với một đường viền nâu sẫm chạy
ngang qua ngực. Những giọt mưa màu hổ phách, như màu của ánh nến” [36,
tr.108]. Khi đưa Thúy đến đền Chử Đồng Tử, câu hỏi của Thúy gợi nhắc về Kim
vì Kim cũng từng hỏi như thế “và Khẩn nhớ khi ấy mình vừa mừng rỡ vừa lúng
túng đưa mắt tìm nhưng không thấy một doi cát nào mơ mộng xứng với câu
chuyện…” [37, tr.131. Hồi ức về Kim gắn liền với những kỷ niệm đẹp. Đó là
ngày Khẩn tỏ tình dưới mưa, ngày hai người đến đền Chử Đồng Tử, những
không gian mơ hồ lãng mạn của kí ức. Dòng hồi tưởng hiện lên cùng với sự thay
đổi điểm nhìn trần thuật: “Khẩn/mình” như trạng thái nhập dần vào câu chuyện
của Khẩn.
Nhân vật Hiếu trong Mình và họ cũng luôn sống với những kí ức. Thời
gian thực tại của Hiếu được nhắc đến rất ít, chỉ là vài sự kiện trong chuyến đi lên
và đi xuống để thăm lại chiến trường nơi xưa kia anh trai của Hiếu đã từng chiến
đấu. Tác phẩm chủ yếu tái hiện những mảnh hồi ức của nhân vật về về gia đình :
về mẹ, về anh, về Bác Lâm, về cậu.. Hình dáng, ngôn ngữ, hành động, tính cách,
số phận... của các nhân vật đều được tái hiện thông qua dòng hồi ức của nhân
vật. Đó là hình ảnh người mẹ, “vị thống soái trong gia đình... Cơ ngơi gia đình
một tay mẹ dựng lên qua những chuyến đi bí mật mà mình với anh không thể
biết. Chỉ loáng thoáng rằng mẹ đi buôn chuyến... rồi một chiều nhập nhoạng, khi
cả nhà đang ngồi bên mâm cơm thì công an ập đến đưa mẹ lên xe xít-đơ-ca.”
[35, tr.95], trở về sau 5 năm ngồi tù với những dằn vặt, day dứt, lo lắng và tình
thương yêu vô hạn dành cho con. Đó là hình ảnh của Cậu, một người lính bộ
binh đã từng cầm súng chiến đấu trong cuộc bảy chín và tám tư, luôn ám ảnh bởi
những quá khứ về cuộc chiến, về Phỉ, về mối tình đầu không thành với khuôn
mặt trắng bợt, bệch bạc, nhão nhệu ra vì rượu. “Nghe nói cậu không ngày nào
không say, đã say thì đầu tiên là đem vợ ra chửi, sau đó chửi con, sau đó nữa thì
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 54
chửi cả thị trấn. Chỉ có nhà hàng xóm bên trái không bị cậu chửi. Đó là nhà
người yêu cũ của cậu” [35, tr.47]. Và đậm đặc, trở đi trở lại nhiều nhất trong kí
ức và trong cả những giấc mơ của Hiếu là hình ảnh về anh. Từ những kí ức về
một thời trẻ thơ cùng đi tắm, cùng ngắm mây, rồi lớn lên với biết bao những kỉ
niệm : ngày anh lấy vợ ; ngày anh lên đường, ngày anh trở về và cả những sự
kiện được ghi chép lại trong cuốn nhật kí của Anh thì Hiếu cũng đã thuộc làu.
Chính những mảnh kí ức ấy luôn tràn ngập trong tâm hồn Hiếu, nó có thể trở về,
hiện ra bất cứ thời điểm nào trong đời sống của nhân vật, có đôi khi nó còn đan
xen và lấn át thực tại. Tuy nhiên những kí ức, hồi ức ấy không được tái hiện một
cách mạch lạc, tuyến tính , xuôi chiều mà bị cắt vụn thành nhiều mảnh nhỏ và
hiện ra hết sức lộn xộn dưới sự tác động của ngoại cảnh và nội tâm nhân vật.
Khắc họa nhân vật bằng những hành động, ngôn ngữ, cách ứng xử và những xúc
cảm nội tâm là điều không mới trong văn học. Nhưng xây dựng và khắc họa
nhân vật thông qua những kí ức, xúc cảm nội tâm của một nhân vật khác là một
hướng khai phá mới của Nguyễn Bình Phương trên tinh thần hậu hiện đại. Điều
này một mặt gây đau đầu cho người tiếp nhận truyền thống nhưng mặt khác lại
gợi nhiều điều hấp dẫn và thú vị cho những bạn đọc thích tìm tòi, khai mở những
điều mới mẻ trong tiếp nhận. Đó cũng là đóng góp của Nguyễn Bình Phương ở
phương diện xây dựng nhân vật.
Trong tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương, hồi ức là những dòng chảy âm
thầm, triền miên. Nó kéo dài thành nỗi trăn trở trong đời sống nội tâm nhân vật.
Nói cách khác, đó là hồi ức của nhiều bất hạnh, đau buồn. Có lẽ vì dòng chảy đó
xuất phát từ những rạn nứt trong tâm hồn nhân vật. Họ là người mang trong
mình nhiều hoài niệm. Với họ, quá khứ đã trở thành một dấu vết không thể xóa
nhòa. Nó xâm nhập cả đời sống hiện thực và tâm linh, cả những sự vật hiện hữu
và những tiếng nói vô hình. Thế giới vì thế trở nên sâu thẳm hơn. Kí ức đan xen,
cài lẫn vào nhau, bị ngắt quãng bởi hiện thực khiến nó chỉ còn là những mảnh
vụn. Nhưng sau đó, chúng trở lại tiếp nối nhau như chưa hề có sự xâm lấn của
những sự kiện hiện thực, tạo thành dòng bất tận. Hồi ức không chỉ khôi phục cái
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 55
dĩ vãng đã mất mà còn khôi phục cái hiện tại đang chảy trôi, đang mai một dần.
Ở phương diện này, sự thể hiện dòng hồi ức của con người tạo cho văn chương
một giá trị bội năng.
TIỂU KẾT
Tóm lại, thế giới nhân vât trong tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương vô cùng
phong phú, đa dạng các loại hình nhân vật khác nhau, mỗi loại hình nhân vật lại
mang những đặc điểm, dấu ấn và chức năng riêng trong việc tái hiện và khám
phá hiện thực đời sống, khám phá những mảng còn mờ khuất trong đời sống
đương đại. Qua thế giới nhân vật này, nhà văn Nguyễn Bình Phương đã chứng tỏ
sự am hiểu sâu rộng cũng như trí tưởng tượng vô cùng phong phú, độc đáo của
mình trong sáng tạo nghệ thuật. Đồng thời qua thế giới nhân vật này chúng ta
cũng thấy được quan niệm nghệ thuật của Nguyễn Bình Phương, anh không chủ
trương xây dựng một nhân vật điển hình cho một tầng lớp hay đối tượng nào đó
trong xã hội mà quan tâm đến tất cả các đối tượng thậm chí có những đối tượng
khó tìm thấy trong đời sống thực tại. Thế giới nhân vật ấy cũng là công cụ để
nhà văn kín đáo gởi gắm những quan niệm nhân sinh sâu sắc.
Để tạo nên thế giới nhân vật phong phú, đa dạng với nhiều loại hình và để
lại ấn tượng độc đáo như trên, nhà văn đã sử dụng nhiều thủ pháp nghệ thuật
quan trọng. Vừa tiếp thu, kế thừa những thành tựu, đặc trưng về xây dựng nhân
vật của văn học đương đại, vừa có những tìm tòi, khám phá của riêng mình,
Nguyễn Bình Phương thực sự đã có nhiều thành công khi tạo được các nhân vật
với đời sống đa chiều, đa diện đặc biệt nhà văn đã khá thành công trong việc
khám phá vào đời sống nội tâm và cả phần vô thức của con người khi sử dụng kĩ
thuật dòng ý thức kết hợp với chủ nghĩa hiện thực huyện ảo trong xây dựng
nhân vật. Đây là những thành công nhưng không dễ tiếp nhận với tất cả các đối
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 56
tượng bạn đọc.
Chương 3
HÌNH THỨC TỰ SỰ TRONG MỐI LIÊN HỆ VỚI THẾ GIỚI
NHÂN VẬT TRONG TIỂU THUYẾT NGUYỄN BÌNH
3.1. Người kể chuyện và điểm nhìn trần thuật
3.1.1. Vài vấn đề về lí thuyết
Người kể chuyện và điểm nhìn là một trong những phạm trù cơ bản, nòng
cốt của trần thuật học, là một phương diện quan trọng trong nghệ thuật tự sự của
thể loại. Theo Từ điển thuật ngữ văn học thì người kể chuyện là “hình tượng
ước lệ về người trần thuật trong một tác phẩm văn học, chỉ xuất hiện khi nào câu
chuyện được kể bởi một nhân vật cụ thể trong tác phẩm” [25, tr.191]. Người kể
chuyện trong tác phẩm tự sự là câu trả lời cho câu hỏi “Ai nói”, “Ai là người
mang giọng kể trong tác phẩm”, là người đứng sau tất cả những gì được thể hiện
trong tác phẩm tự sự, nó là yếu tố tích cực trong việc kiến tạo thế giới tưởng
tượng, bởi vậy có vai trò quan trọng trong thế giới nghệ thuật của tự sự.
Trong lý thuyết về người kể chuyện của Genette, ông phân biệt các khái
niệm người kể chuyện ngôi thứ nhất và người kể chuyện ngôi thứ ba; trần thuật
ngôi thứ nhất, trần thuật theo tác giả và trần thuật của nhân vật. Người kể chuyện
ngôi thứ nhất tương ứng với người kể chuyện lộ diện có trong trần thuật ngôi thứ
nhất. Khi đó câu chuyện được kể bởi một người kể chuyện hiện diện như một
nhân vật trong chuyện, kể về những gì mà bản thân anh ta trải nghiệm. Nếu
người kể chuyện là một nhân vật chính thì anh ta là một cái “tôi’- vai chính, nếu
là một nhân vật phụ thì anh ta/cô ta là một cái “tôi”- chứng nhân. Tuỳ theo điểm
nhìn khác nhau mà trần thuật sẽ được kể theo kiểu chứng nhân hay trải nghiệm.
Trong khi đó người kể chuyện ngôi thứ ba (người kể chuyện ẩn tàng) lại
bao gồm cả trần thuật theo tác giả và trần thuật của nhân vật. Đối với trần thuật
theo tác giả thì câu chuyện được kể từ điểm nhìn của một “người kể chuyện - tác
giả” không phải là nhân vật trong câu chuyện của chính nó. Đó là người ngoài
cuộc và có quyền năng toàn tri, toàn cõi. Với trần thuật của nhân vật thì câu
chuyện được kể dưới con mắt của một người phản ánh bên trong ở ngôi thứ ba,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 57
“giấu mình sau sự hiện diện của ý thức, đặc biệt là sau những suy nghĩ của phản
ánh bên trong”. Cùng được trần thuật ở ngôi thứ ba, sự khác biệt giữa trần thuật
theo tác giả và trần thuật của nhân vật nằm ở điểm nhìn của người kể chuyện.
Có người đã cho rằng truyện kể được tạo nên từ nơi bắt đầu điểm nhìn.
Điểm nhìn được coi là “mối tương quan trong đó chỉ vị trí đứng của người kể
chuyện để kể chuyện” [16, tr.39], điểm nhìn hay còn gọi là tụ tiêu hay tiêu cự
hoá “cho phép làm rõ từ đâu và như thế nào mà trong tác phẩm văn học, các sự
kiện, các nhân vật, các đối tượng lại được nhìn thấy. Nếu như người kể chuyện
trả lời cho câu hỏi “Ai nói” thì điểm nhìn lại trả lời cho câu hỏi “Ai thấy”. Theo
lý thuyết của Genette có ba kiểu điểm nhìn: điểm nhìn zero, điểm nhìn bên trong
và điểm nhìn bên ngoài.
Điểm nhìn zero hay còn gọi là “không - tụ tiêu” : ở điểm nhìn này, người kể
chuyện là thượng đế, toàn tri, biết tuốt và sắp xếp mọi khả năng, diễn biến, tình
huống trong tác phẩm. Với điểm nhìn zero ta có kiểu trần thuật theo tác giả.
Điểm nhìn bên trong: điểm nhìn được đặt vào bên trong nhân vật. Xuất
phát từ nhân vật đó mà truyện kể và miêu tả được tạo ra. Tương ứng với điểm
nhìn này ta có trần thuật của nhân vật. Điểm nhìn bên trong lại có ba loại: loại cố
định tức là tất cả mọi sự việc trong tác phẩm đều được kể qua một điểm nhìn;
loại biến đổi là điểm nhìn di động từ nhân vật này sang nhân vật khác; loại đa
bội là cùng một biến cố có thể được kể theo điểm nhìn của nhiều nhân vật -
nhiều điểm nhìn.
Điểm nhìn bên ngoài: điểm nhìn được đặt ở một nhân vật kể chuyện nằm
ngoài câu chuyện, “các biến cố được thuật lại thuộc tính, khách quan. Thông báo
bị giới hạn ở bên ngoài: độc giả không hề biết được thế giới bên trong cũng như
suy nghĩ của nhân vật”.
3.1.2. Người kể chuyện và điểm nhìn trần thuật trong tiểu thuyết Nguyễn
Bình Phương
3.1.2.1. Trần thuật từ ngôi thứ ba
Trần thuật từ ngôi thứ 3 là hình thức được sử dụng phổ biến trong tiểu
thuyết Nguyễn Bình Phương. Trong số sáu tiểu thuyết thuộc diện đối tượng khảo
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 58
sát của chúng tôi thì có đến bốn tiểu thuyết có sử dụng hình thức trần thuật này,
đó là: Những đứa trẻ chết già, Người đi vắng, Thoạt kỳ thủy, Ngồi. Tuy vậy
việc phân chia hình thức trần thuật đối với các sáng tác của Nguyễn Bình
Phương chỉ mang tính tương đối. Bởi vì ở các tiểu thuyết nói trên trần thuật ngôi
thứ ba là chủ đạo nhưng không phải là duy nhất, mà còn có sự tham gia của
những kiểu trần thuật khác. Nhưng cũng chính điều này làm cho mỗi tiểu thuyết
của Nguyễn Bình Phương là một phức hợp trần thuật - độc đáo về nghệ thuật và
đa tầng về chiều sâu ý nghĩa. Một đặc điểm dễ nhận thấy trong hầu hết các tiểu
thuyết của Nguyễn Bình Phương, đó là tính phức tạp trong vấn đề kể chuyện,
điểm nhìn. Vấn đề tổ chức trần thuật trong tiểu thuyết của nhà văn này dường
như từ chối mọi khuôn mẫu. Mỗi tác phẩm được triển khai theo một mô hình
khác nhau, theo một ý đồ trần thuật khác nhau. Điểm chung nhất của các mô
hình trần thuật trong bốn tiểu thuyết được trần thuật từ ngôi thứ ba chính là sự
gia tăng và dịch chuyển liên tục điểm nhìn trần thuật.
Trong Những đứa trẻ chết già, một cấu trúc trần thuật phức hợp nhiều
điểm nhìn được kết cấu bởi hai mạch chuyện chạy song song, gồm các Chương
kể lại câu chuyện cõi trần ở làng Phan và phần các Vô thanh kể lại hành trình
trong cõi âm của nhân vật “Ông”. Cùng có kiểu trần thuật từ ngôi thứ 3 song mỗi
mạch truyện này được kể với một kiểu điểm nhìn trần thuật chủ đạo khác nhau:
mạch cõi trần được kể với người kể chuyện ngôi thứ 3 mang điểm nhìn zero,
mạch cõi âm được kể với người kể chuyện ngôi thứ 3 mang điểm nhìn bên trong
- điểm nhìn nhân vật. Tuy vậy, ở mỗi mạch này, ngoài điểm nhìn chủ đạo, câu
chuyện còn được tái hiện bởi sự xen kẽ của những kiểu điểm nhìn khác. Chính
đặc điểm này khiến cho trần thuật ngôi thứ 3 trong Những đứa trẻ chết già
không còn thuần nhất, giản đơn như tiểu thuyết truyền thống.
Có thể thống kê các kiểu người kể chuyện và điểm nhìn trần thuật trong
Những đứa trẻ chết già như sau: ở 10 chương truyện, người kể chuyện ngôi thứ
3 với điểm nhìn zero chủ đạo. Từ điểm nhìn này, hiện thực cuộc sống của những
con người ở làng Phan được tái hiện và trung tâm của bức tranh hiện thực này là
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 59
cuộc truy tìm, giành giật kho báu giữa gia đình ba đời của cụ Trường hấp với
ông Trình. Trong trường nhìn của một người kể chuyện toàn năng, cuộc sống
làng Phan được hiện ra với các mảng màu sáng, tối, mọi số phận, mọi hiện tượng
kì bí. Tuy vậy, có thể thấy rằng, khác với người kể chuyện toàn năng, toàn tri
trong tiểu thuyết truyền thống “ngự trị bên trên toàn bộ thế giới tiểu thuyết, từ
trên cao nhìn xuống để quan sát, điều chỉnh tất cả”, với câu chuyện mang màu
sắc của một hành trình truy tìm kho báu, người kể chuyện ở mạch các Chương
cũng không còn thuần nhất với điểm nhìn toàn tri của mình. Đó là những lời kể
mang tính chất như những lời chép sử để kể về những hiện tượng kì bí xảy ra ở
làng Phan [38, tr. 9,12,15]. Phỏng theo lối kể gần như là lối chép sử vẫn hay bắt
gặp trong các sử ký, bi, lục, ở đây, người kể chuyện đã “tạo nên một ảo ảnh về
tính khách quan của lời trần thuật nghĩa là người trần thuật có một chiến lược
"tẩy" đi sự hiện diện của các yếu tố chủ quan trong lời kể” [55, tr.122], tạo cảm
giác hiện thực hiện ra đúng như nó vốn có, và chính bản thân người kể cũng chỉ
có thể tái hiện lại đúng những gì đang xảy ra. Không có lời lý giải, bình luận
mang tính chủ quan cho các hiện tượng kỳ lạ này, người đọc bị dẫn dắt, cuốn hút
đi từ sự kiện này sang sự kiện khác để tìm câu trả lời. Ở mạch các Chương - câu
chuyện ở cõi trần, lối kể chuyện khước từ sự hiện diện của các yếu tố chủ quan
trong lời kể này thể hiện rất rõ và chiếm chủ đạo (ngoại trừ một vài lần đời sống
nội tâm của vài nhân vật được bộc lộ - nhưng khi đó điểm nhìn đã di chuyển vào
bên trong nhân vật, không còn là điểm nhìn của người kể chuyện hàm ẩn). Vì thế
với mạch truyện này, các câu chuyện được kể một cách ngắn gọn, đơn thuần chỉ
mang tính chất thông báo sự kiện, người kể “tẩy trắng” mọi yếu tố mang tính
chất chủ quan, gần như chỉ làm thao tác tái hiện lại những gì anh ta nhìn thấy:
“Thằng Liêm lên hai tuổi làng bị hỏa hoạn (…)Ba ngày sau, nhà cụ cố Cung có
những vết chân thú rất lạ, bốn móng, in hằn lên mặt đá lát sân (…) Được năm
tuổi, thằng bé đi thơ thẩn khắp làng, gặp ai, nhất là đám đàn bà con gái, nó
cũng giương đôi mắt một mí lên nhìn vẻ vừa thông minh, láu lỉnh, vừa dâm đãng
(…) Lớn thêm chút nữa, thằng Liêm vào thị trấn chơi những phiên chợ (…) Liêm
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 60
tròn mười chín tuổi bỏ nhà ra thị trấn…” [38, tr.10-12]. Những phiến đoạn như
thế này xuất hiện rất nhiều trong các chương, khiến mạch truyện các Chương
chồng chất những sự kiện, những hành động. xen kẽ điểm nhìn bên ngoài và di
chuyển vào điểm nhìn bên trong nhân vật.
Ở 9 phần Vô thanh, người kể chuyện ngôi thứ 3 với điểm nhìn bên trong
của nhân vật Ông là chủ đạo, xen kẽ điểm nhìn zero. Cũng là người kể chuyện
hàm ẩn, tuy nhiên ở mạch các Vô thanh, điểm nhìn trần thuật lại được đặt vào
nhân vật Ông - có thể coi là nhân vật chính của mạch truyện này. Trên hành trình
của chiếc xe trâu đi trong cõi âm, nhân vật Ông hồi tưởng lại những chặng
đường đời mình đã trải qua, những câu chuyện về gia đình, về ngôi làng mà Ông
đã sinh ra và lớn lên, những con người Ông đã gặp trong cuộc đời, những kí ức,
những ám ảnh không thể nào quên.
Trần thuật trong các Vô thanh của tiểu thuyết Những đứa trẻ chết già
diễn ra theo dạng thức dòng tâm tưởng với “sự khám phá từ bên trong của con
người… của vô thức, của những ám ảnh, những cơn mê sảng” [40]. Đây là một
điều khá đặc biệt, bởi lẽ dòng tâm tưởng, dòng ý thức là đặc điểm thường xuất
hiện ở các tiểu thuyết được trần thuật bởi người kể chuyện ngôi thứ nhất xưng
“tôi”, khi đó tham dự vào tác phẩm với tư cách là một tác nhân, là người mang
tiêu điểm, cái tôi kể chuyện “trải nghiệm” này khiến người đọc có thể trực tiếp
“nghe” và cảm, xâm nhập ngay vào kí ức của nhân vật mà không cần phải qua
một lớp rào cản nào. Không chọn dạng thức trần thuật ngôi thứ nhất, nhưng đặt
điểm nhìn trần thuật vào nhân vật, người kể chuyện hàm ẩn trong Những đứa trẻ
chết già đã “tựa vào nhân vật để kể”, tái hiện lại dòng hồi tưởng, tâm tư của
Ông. Dù nhân vật không đóng vai trò người thực hiện hành động kể song cái
được kể đã không đơn giản chỉ là những điều xảy ra bên ngoài người kể, mà còn
được thể hiện sinh động ngay trong sự cảm thấy, cảm biết của chính nhân vật.
Đây cũng cách để nhà văn khéo khơi sâu vào thế giới tâm tư nhân vật của mình.
Thông qua điểm nhìn thuộc về nhân vật và mượn giọng nhân vật để kể, người kể
chuyện hàm ẩn thâm nhập vào đời sống nội tâm của nhân vật. Bởi vậy, trong dòng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 61
hồi tưởng miên man của nhân vật Ông, độc giả “đọc” ra được cả những nỗi niềm,
xúc cảm, những tâm trạng bên trong của nhân vật. Không sử dụng trần thuật ngôi
thứ nhất để người kể chuyện tham gia vào câu chuyện và bộc bạch tâm trạng của
mình, nhưng với kiểu trần thuật ngôi thứ ba và dựa vào điểm nhìn nhân vật mà
Nguyễn Bình Phương sử dụng ở đây vẫn “tạo nên ở độc giả những cảm giác trực
tiếp, gần gũi với thế giới nhân vật, khiến chúng ta không có cảm giác đang nghe
kể mà là đang được chứng kiến trực tiếp” [49, tr.141]. Mạch Vô thanh bởi vậy
ngập tràn tâm trạng: tâm sự của người đàn ông đã về già, ý thức được sự già nua,
sự cô độc, lạnh lẽo cũng như sự tồn tại vô nghĩa của mình trên cuộc đời này. Với
tính chất của dòng ý thức - “một dòng chảy, một con sông, ở đó có những tư tưởng
cảm xúc, liên tưởng bất chợt luôn luôn lấn át nhau và đan bện vào nhau một cách
kì quặc, “phi logic” [4, tr.122], nên mạch truyện Vô thanh trở thành những mảnh
ý thức nhảy cóc, đứt đoạn. Với kiểu trần thuật này độc giả được xem một đoạn
phim được lắp ghép, trộn lẫn, cắt dán, đồng hiện từ hàng trăm cảnh ở mỗi thời
điểm khác nhau, mỗi cảnh là một mảnh của hiện thực, một mảnh kí ức vụt hiện,
vụt tắt trong dòng ý thức của nhân vật Ông. Đó cũng là một nét đặc sắc của kiểu
trần thuật ngôi thứ ba với điểm nhìn nhân vật trong Những đứa trẻ chết già, cũng
là một điểm mới của nghệ thuật tự sự trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại.
Những đứa trẻ chết già được cấu trúc thành hai mạch truyện chính cùng có
người kể chuyện ngôi thứ ba hàm ẩn nhưng mỗi mạch được trần thuật từ một điểm
nhìn khác nhau. Do đó, việc sắp xếp hai mạch truyện xen kẽ lẫn nhau dẫn đến sự
dịch chuyển điểm nhìn trần thuật. Đây có thể được coi là sự dịch chuyển điểm
nhìn ở cấp độ 1 - cấp độ vĩ cấu trúc. Với 9 Chương và 10 Vô thanh, toàn bộ tiểu
thuyết Những đứa trẻ chết già có 18 lần dịch chuyển điểm nhìn ở cấp độ 1, mỗi
khi kết thúc một Chương chuyển sang một Vô thanh và ngược lại, câu chuyện lại
một lần có sự dịch chuyển điểm nhìn. Không chỉ di chuyển theo kết cấu lớn của
tiểu thuyết, sự dịch chuyển điểm nhìn này còn diễn ra ở cấp độ nhỏ hơn (cấp độ 2)
là ở trong từng mạch truyện - cấp độ vi cấu trúc. Ở mạch các Chương, trong khi
phần lớn câu chuyện đi tìm kho báu được trần thuật một cách khách quan thì
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 62
những lần điểm nhìn di chuyển vào nhân vật giúp người đọc khám phá những toan
tính, những âm mưu bên trong của những con người đang hướng tới mục tiêu kho
báu dòng họ (lão Liêm, ông Trình, Phán). Với những nhân vật nằm ngoài cuộc
tranh giành này thì bản thân họ cũng đang trăn trở với những mưu toan riêng cho
đời sống cá nhân mình (Tiến quắt, bà Liêm…).
Như vậy có thể thấy, ở cấp độ vi cấu trúc - trong từng mạch truyện, việc di
chuyển điểm nhìn trần thuật giúp nhà văn tái hiện lại một cuộc sống một cách trọn
vẹn và nhiều chiều. Hai mạch truyện với hai kiểu điểm nhìn trần thuật khác nhau
đưa người đọc đi từ một cõi trần ồn ào, bộn bề, đầy những “âm thanh và cuồng
nộ” đến một cõi âm lặng lẽ, trầm u, đầy những chiêm nghiệm, suy tư và nhận ra
rằng cả hai cõi sống đấy làm nên một hiện thực trọn vẹn, đa chiều, phức hợp.
Với kỹ thuật gia tăng và di động, dịch chuyển điểm nhìn trần thuật, ở
Người đi vắng - cuốn tiểu thuyết đi sâu khai phá mảnh đất hiện thực linh ảo âm
dương, trần thuật được cấu trúc ở những dạng thức phức tạp hơn, như một mê lộ
với rất nhiều đường đi lối rẽ chằng chịt, chồng chất. Nhìn một cách tổng thể,
Người đi vắng vẫn được trần thuật bởi dạng thức người kể chuyện ngôi thứ 3 với
sự xen kẽ cả kiểu điểm nhìn zero lẫn điểm nhìn bên trong.
Cũng như Những đứa trẻ chết già, tiểu thuyết này được cấu trúc bởi một
kết cấu đa tầng gồm hai mạch truyện chính: mạch hiện tại kể về câu chuyện của
những con người trong cuộc sống hiện đại xoay quanh các biến cố, sự kiện trong
gia đình, công sở của nhân vật Thắng; mạch quá khứ là câu chuyện của lịch sử ở
nhiều thời điểm khác nhau: chuyện công chúa Diên Bình đời Lý, nghe lời phụ
hoàng, lấy thủ lĩnh phủ Phú Lương, thế kỷ XII; chuyện Lê Sát chém Lưu Nhân
Chú ở thế kỷ XV; cuộc khởi nghĩa Thái Nguyên của Ðội Cấn và Lập Nham đầu
thế kỷ XX. Cả hai mạch chuyện này đều được trần thuật bởi một điểm nhìn trần
thuật chủ đạo là điểm nhìn zero. Bên cạnh đó, tiểu thuyết có một mạch truyện
khác - câu chuyện của những hồn ma, mạch truyện này chủ yếu lại được trần
thuật từ người kể chuyện ngôi thứ 1. Tuy nhiên nhìn một cách tổng thể, Người đi
vắng vẫn được trần thuật bởi dạng thức người kể chuyện ngôi thứ 3 với sự xen
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 63
kẽ cả kiểu điểm nhìn zero lẫn điểm nhìn bên trong - điểm nhìn nhân vật.
Trần thuật với điểm nhìn toàn tri ở tiểu thuyết này đã thể hiện được thế
mạnh trong việc khái quát hiện thực, khai thác ở bề rộng và bề sâu những bức
tranh đời sống đa dạng. Trao cho người kể chuyện một trường nhìn rộng, Nguyễn
Bình Phương đã tái hiện một hiện thực đa chiều kích trong Người đi vắng. Người
kể chuyện với điểm nhìn toàn tri ở đây vừa phản ánh hiện thực bên ngoài qua
những sự kiện, tình tiết, hành động có thể nhìn thấy được lại vừa có thể chiếm lĩnh
phần tâm linh, nội tâm của mỗi nhân vật. Ở thời hiện đại, người đọc không chỉ
thấy cuộc sống của con người trong thời đại kinh tế thị trường vừa ồn ã, xô bồ lại
vừa bệ rạc, thiếu mối dây liên kết. Ở đấy mỗi nhân vật là một thế giới riêng biệt,
theo đuổi một mối quan tâm riêng, và người kể chuyện từ điểm nhìn toàn tri đã
“len lỏi”, xâm nhập vào bên trong những miền tâm linh - không gian riêng tư của
mỗi con người trong cả một cõi “đi vắng”: một gia đình ba thế hệ và rộng hơn nữa
là một xã hội với những người con bị bủa vây trong những ám ảnh quá khứ vô
hình hay những dục vọng tầm thường, từ cụ Điển, ông Điều, đến Thắng, Kỷ, Sơn,
Yến, Hoàn, đến Cương, Chung, Hà… Cũng như thế, ở mạch quá khứ, phản ánh
những câu chuyện lịch sử, nhưng lịch sử ở đây không chỉ đơn thuần là những mốc
thời gian, sự kiện, trong cái nhìn toàn tri của người kể chuyện trong tiểu thuyết,
lịch sử còn được tái hiện ở khía cạnh khác - từ nội tâm của những nhân vật lịch sử.
Bởi thế, nếu không ở tiểu thuyết người đọc sẽ khó để hiểu được những tâm sự chất
chồng và đầy uẩn khúc của những người lãnh đạo trong cuộc khởi nghĩa thất bại ở
Thái Nguyên đầu thế kỷ XX. Những góc khuất bên trong của những con người
lịch sử này chưa từng được nói đến trong bất kì một chính sử nào và vì thế người
đọc rất khó để có thể biết, để đong đếm rằng đó là những điều có thật trong lịch sử
hay chỉ là một phần trong hư cấu của tiểu thuyết. Nhưng chính với việc sử dụng
người kể chuyện ngôi thứ 3 với điểm nhìn toàn tri như ở Người đi vắng, Nguyễn
Bình Phương đã “khiến người ta yên tâm về một lối bịa chuyện đáng tin cậy”. Cả
những ám ảnh của những con người trong cuộc sống hiện đại, cả những nỗi niềm
của những con người thuộc về lịch sử đã qua, tất thảy đều có thể là thật, bởi đều là
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 64
những gì rất quen thuộc với con người vẫn đã và đang hiện hữu trong cõi đời này.
Cũng như các tiểu thuyết ra đời trước đó của Nguyễn Bình Phương, và
cũng như nhiều các tiểu thuyết Việt Nam đương đại, Thoạt kỳ thủy lựa chọn lối
trần thuật với sự phức hợp của nhiều kiểu người kể chuyện, nhiều điểm nhìn.
Mang dáng dấp của một kịch bản, tiểu thuyết được “phân mảnh” thành nhiều
phân đoạn, và mỗi phân đoạn lại được trần thuật theo một cách riêng. Tiểu
thuyết mở đầu bằng phần Tiểu sử và kết thúc bằng phần Phụ chú, cả hai phần
này được trần thuật bởi người kể chuyện ngôi thứ 3 hàm ẩn với điểm nhìn bên
ngoài. Phần Tiểu sử đúng như tên gọi của nó đi vào giới thiệu tiểu sử của 18
nhân vật có mặt trong tiểu thuyết bằng lối viết ngắn gọn, súc tích: “Ông Phước:
Người nhỏ, đầu nhỏ, tóc cứng (…) Bà Liên: Cao, đẫy, tóc dài, cằm nhọn, mặt
nhiều nếp nhăn” [32, tr.5]. Ở đây người kể chuyện chỉ cung cấp cho người đọc
những thông tin mang tính khách quan, trung tính, điểm nhìn bên ngoài thể hiện
ở sự giới hạn thông tin kiểu như: “nguồn gốc gia đình không rõ (…) nghe đồn hi
sinh ở Trùng Khánh (…) khi bà Liên chết, Hiền bỏ đi đâu không ai rõ (…) Bay
lên lúc 12h, không rõ bay tới đâu” [39, tr.6-7]. Cũng giọng điệu khách quan,
trung tính này, trong phần Phụ chú, người kể chuyện cũng làm một thao tác liệt
kê và diễn giải lại tác phẩm của nhà văn Phùng cùng những giấc mơ của Tính và
Hiền, tất cả đều được đánh số thứ tự một cách rõ ràng, trong đó còn có cả những
dòng lưu ý về tác phẩm của ông Phùng, tất cả đều không có một lời bình luận
hay đánh giá.
Ở phần trọng tâm của tiểu thuyết - Chuyện - tái hiện lại cuộc sống của
những con người ở xóm Soi bên bãi Nghiền Sàng xoay quanh 20 năm cuộc đời
nhân vật Tính tiếp tục được trần thuật từ điểm nhìn bên ngoài của người kể
chuyện ngôi thứ 3. Nếu như những tiểu thuyết đầu tay của Nguyễn Bình Phương
vẫn lựa chọn lối trần thuật của người kể chuyện hàm ẩn toàn năng (tuy không
phải là tuyệt đối nhưng chiếm vai trò chủ đạo trong tác phẩm) thì đến Thoạt kỳ
thủy đã được thay thế bởi người kể chuyện hàm ẩn với điểm nhìn bên ngoài,
điều này dẫn đến một sự thay đổi lớn trong bức tranh hiện thực được phản ánh
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 65
trong tiểu thuyết. Với một điểm nhìn mang tính khách quan, trung tính, thế giới
hiện thực trong Thoạt kỳ thủy hiện lên trần trụi, phô bày tất cả những gì vốn có.
Cuộc sống của những con người ở xóm Soi gợi lên hình ảnh của một chốn hồng
hoang, sơ khai, tăm tối, một nơi mà sự sống bị bao phủ bởi những toan tính, dục
vọng, hiếu sát, thô tục lẫn những huyễn hoặc, hoảng loạn, điên cuồng. Ở đó có
người bố như Phước - nghiện rượu, coi thường mạng sống của chính đứa con
ngay từ trong bụng mẹ; có những người phụ nữ nhẫn nhục, chịu đựng và phải
kiềm chế những khát vọng bản năng như Liên, Hiền; có những kẻ mang trong
mình những ham muốn thú tính như Tính, Hưng hay những người luôn ám ảnh
bởi tình dục như Vinh, Thương, Nam, Mười; ở đó có cả một tập thể người điên
và rất đông những người đang “ở thế rộn rạo của một sự nhập cuộc vào thế điên
loạn” như những Tính, những Hưng, những Phùng… Lối kể chuyện khách quan
xuất hiện từ thời của Những đứa trẻ chết già nay trở nên rõ nét, đậm đặc trong
Thoạt kỳ thủy. Không một lời bình luận, không một đánh giá, nhận xét, toàn bộ
hiện thực được tái hiện trong Chuyện như được “trưng ra” từ ống kính camera
một cách chân thực nhất những gì được thu vào tầm nhìn. Vì thế phần lớn tiểu
thuyết sử dụng lối hành văn ngắn gọn, gần như bị tước bỏ hết các tính từ, định
ngữ: “Bom đánh trúng xã. Có khoảng hai mươi quả bom rơi quanh khu cột số.
Trường lái xe Tiến Bộ bị thả bom chùm, chết nhiều người. Ông Tường, đại tá
ghé qua nhà ngủ, bị trúng bom xác văng lên ngọn tre” [39, tr.17]. Từ điểm nhìn
bên ngoài, với lối trần thuật khách quan này, người kể chuyện ở đây có vai trò
như một người ghi chép và truyền đạt lại thông tin một cách trung thực. Một thế
giới con người còn nhuốm màu hồng hoang, tăm tối, sơ khai đến khó tin là có
thể còn tồn tại trong thời hiện đại nhưng lại được kể “như thật” bởi một điểm
nhìn hoàn toàn trung tính khách quan. Chọn cách trần thuật này Nguyễn Bình
Phương đã định hướng và khẳng định người đọc cần một tâm thế mới để đón
nhận tiểu thuyết khác với cách đọc truyền thống.
Đan xen với mạch truyện cuộc sống của người dân xóm Soi được trần thuật
từ điểm nhìn bên ngoài của người kể chuyện hàm ẩn, tiểu thuyết Thoạt kỳ thủy
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 66
còn một mạch truyện khác được trần thuật bởi điểm nhìn bên trong của nhân vật
Tính với người kể chuyện ngôi thứ nhất. Trong toàn tiểu thuyết, có đến 22 lần
điểm nhìn dịch chuyển vào nhân vật Tính, là những đoạn tự sự được in nghiêng,
có khi dài đến 2 trang văn bản nhưng có khi chỉ một câu văn ngắn ngủi, đó có thể
là những đoạn độc thoại nội tâm hoặc có thể chỉ là những giấc mơ của Tính. Có
thể nói đó là những phiến đoạn, những trang văn đầy máu và trăng, dù được diễn
đạt vô cùng lộn xộn, chúng phản ánh những trạng thái khác nhau của tâm hồn
Tính: nỗi cô đơn - “Nó đấy. Lạnh (…) Lạnh lắm, mẹ ạ” (39, tr.26-27), những
hoang tưởng: “Em đâm nát bét mặt trăng của chúng nó. Đâm tê cả tay, còn răng
thì ngứa ran lên mỗi khi nhìn thấy cỏ” (39, tr.100), những nhu cầu nhục dục:
“Đập, Hiền cứ nát ra, vỡ ra, kêu rên khoái trá. Sao máu Hiền lênh láng thế hả mẹ
(…) Hiền có bả vai tròn. Tròn sáng quắc”, dục vọng huỷ diệt - “Đập đập đập đập
đập cho nó vỡ ra, cho kêu rên quằn quại” (39, tr.87), ao ước, cầu mong: “Hiền
đừng bỏ đi. Trăng đen, trăng đen không thấy đến” (39, tr.87). Những câu văn đầy
ám ảnh, phi logic, lộn xộn, mộng du và cuồng loạn của một người điên được phát
ngôn từ chính điểm nhìn bên trong của nhân vật tự xưng “tôi”, “tao”; đó cũng là
cách mà Nguyễn Bình Phương chạm vào đáy sâu của vô thức. Chính ở đây nhà
nghiên cứu Đoàn Cầm Thi khẳng định nhà văn đương đại này đã thành công khi
để nhân vật “điên” tự nói lên cái điên của mình bằng chính ngôn ngữ điên chứ
không phải bằng cái nhìn mô tả từ bên ngoài, bằng một kinh nghiệm của cái nhìn
tỉnh táo như ở nhiều mẫu hình người điên trong văn học truyền thống.
Từ góc nhìn trần thuật học, có thể thấy Ngồi cũng như các tiểu thuyết
trước đó của nhà văn trẻ này đã tạo ra dấu ấn về “lối viết” Nguyễn Bình Phương
- một lối viết mang đậm màu sắc của cảm quan hậu hiện đại kèm theo đó là
những cách tân về kỹ thuật tự sự. Dù thống nhất trong tổng thể nhưng mỗi tiểu
thuyết của Nguyễn Bình Phương lại là một cách tân, một tìm tòi, một thể nghiệm
mới trong cách viết tiểu thuyết. Vẫn tiếp tục sử dụng lối trần thuật người kể
chuyện ngôi thứ ba là chủ đạo, nhưng với “trò chơi điểm nhìn”, cuốn tiểu thuyết
này của Nguyễn Bình Phương lại là một thách thức đối với người đọc trong việc
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 67
tiếp nhận và giải mã.
Hầu hết các tiểu thuyết của Nguyễn Bình Phương đều được triển khai theo
mô hình “hai thế giới” - một thế giới hiện tại được tái hiện chân thực, nghiêm
nhặt và một thế giới khác hoặc thuộc về quá khứ, hoặc thuộc về vô thức, ám ảnh
hoặc thuộc về cõi khác; tương ứng với mỗi thế giới trên lại có một kiểu trần
thuật - và Ngồi cũng không phải là một ngoại lệ. Ở tiểu thuyết này người đọc có
thể thấy cách triển khai hướng trần thuật khá quen thuộc của Nguyễn Bình
Phương: nếu như mảng hiện thực “chìm” là những câu chuyện nửa như giấc
mơ/tưởng tượng, nửa như quá khứ của Khẩn được trần thuật bởi điểm nhìn bên
trong của chính nhân vật này thì mảng hiện thực “nổi” là cuộc sống công sở và
sinh hoạt đời thường xoay quanh nhân vật trung tâm là Khẩn lại được lựa chọn
trần thuật từ người kể chuyện ngôi thứ ba với chủ đạo là điểm nhìn zero. Từ
điểm nhìn này, có thể nói cuộc sống hiện thực trong Ngồi được tái hiện một cách
toàn cảnh và chân thực. Đó là cuộc sống ồn ào, bề bộn, đầy bon chen, thác loạn.
Ở đây, sự ham hố tiền tài không căng thẳng như cuộc tranh giành kho báu trong
Những đứa trẻ chết già, sự cạn kiệt tình người cũng không trở nên thường trực
và thú tính như trong Thoạt kỳ thủy nhưng xã hội những con người quanh Khẩn
lại tha hóa theo một cách khác. Đó là sự bon chen, tranh giành quyền lực một
cách công khai giữa các thế lực trong một cơ quan (Thìn, Tước); là sự sa ngã,
trượt dốc của con người khi biến tình dục thành nơi để tiêu khiển, để giải tỏa hay
đơn giản chỉ là để thỏa mãn đam mê, dục vọng mà không vì một lí do nào khác -
nên mới có cảnh nhân viên công sở rủ nhau đi chơi gái, đồng nghiệp hay hàng
xóm cũng tìm đến nhau để thỏa mãn nhu cầu (Khẩn, Hùng, Nghĩa, Thái, Nhung,
Thúy, bà bán khoai nướng); là cảnh những gia đình đổ vỡ cũng vì đồng tiền (gia
đình Thúy - Quân; gia đình Hoàng Lân; gia đình tay thương binh cùng tập thể)…
Toàn bộ mảng hiện thực này được tái hiện một cách khách quan từ điểm nhìn
của người kể chuyện ngôi thứ ba. Ở đây chúng ta có thể bắt gặp lại lối kể khách
quan, với giọng điệu trung tính, tái hiện hiện thực đúng như nó vốn có. Ngay cả
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 68
với vấn đề sex - tuy không phải là nội dung chính của tiểu thuyết, nhưng chiếm
một số lượng trang không ít trong tác phẩm - cũng được miêu tả tái hiện một
cách tỉ mỉ, tường tận với một giọng điệu “vô âm sắc”.
Không xây dựng nhân vật trung tâm với những tính cách điển hình, tiêu
biểu, ở Ngồi rất khó để gọi một nhân vật nào đó là nhân vật chính hay nhân vật thể
hiện tư tưởng, có chăng, một số nhân vật được chú trọng nhiều hơn khi họ được
trao điểm nhìn trần thuật, Khẩn là một trong những nhân vật như thế. Cũng như
Ông trong Những đứa trẻ chết già, hay Thắng, Hoàn, Lập Nham trong Người đi
vắng, khi điểm nhìn trần thuật đặt vào Khẩn thì đó thường là lúc nhân vật nhìn
hiện thực bằng “ý nghĩ”, bằng “cảm nhận” nhiều hơn là “tả”, là “kể”. Và đây cũng
chính là “kênh” mà người đọc tiếp cận nhân vật nhiều hơn, tiếp cận qua những suy
nghĩ nội tâm bên trong vỏ bọc đời thường của nhân vật. Đó là Khẩn với khao khát
khẳng định cái thân thể tự nhiên vốn trú ngụ ở tầng sâu kín nhất của con người khi
miên man theo hình ảnh của một người đàn ông ngoại quốc dưới đường phố và đỏ
mặt vì những ý nghĩ vớ vẩn không lành mạnh:“Khẩn ước cái của mình cũng vạm
vỡ như của người đàn ông ngoại quốc kia và ước muốn đó làm Khẩn đỏ mặt vì
ngượng ngùng tủi hổ. Tại sao lại phải ước ao vớ vẩn thế, chắc gì nó đã khỏe hơn
mình? [36, tr.121]. Đó là Khẩn với những suy tư khắc khoải, trăn trở về ý nghĩa
của cuộc sống: “Khẩn đau đớn nghĩ đến hình ảnh một búi lươn trong chậu, cứ
nhằng nhíu, hỗn độn quấn xiết lấy nhau cho tới khi một gáo nước sôi bất thần đội
xuống. Tại sao lại vô nghĩa đến thế cơ chứ? Tại sao lại cứ đem nhau ra mà phanh
thây xé xác như những con vật như thế chứ” [36, tr.89]. Đó còn là Khẩn với sự
quan tâm đặc biệt với gã tâm thần, ở đó có thể Khẩn tìm thấy sự đồng điệu nào đó
về “một vẻ bí ẩn ma quái” như chính cuộc sống mà Khẩn đang sống, một cuộc
sống “vừa vô nghĩa vừa hàm chứa một cái gì đó vượt ra khỏi tất cả mọi suy nghĩ”
[36, tr.188]. Đó cũng là Khẩn - một con người sống giữa cuộc sống xô bồ, nhốn
nháo, đã tự tách mình ra, hướng lên cao để tự vấn và thanh mình, vẫn luôn khao
khát những thanh âm của một thế giới thanh khiết hơn, trong trẻo hơn: “Khẩn
đang ở trên mây, đang ở cái nơi mà chỉ cần lảng xa mọi người một chút thôi, một
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 69
sải tay thôi sẽ thấy rằng mình đã từng ồn ào quá, từng ham hố nhiều quá, mình bé
mọn quá, đục quá (…) Khẩn cảm giác chỉ cần mình nhún chân một cái thật nhẹ là
có thể bay lên, hòa lẫn vào sự mênh mông huyền bí đang trải ra trước mắt kia”
[36, tr.161]. Nhân vật trong tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương, như đã nói ở trên,
không bao giờ thuần nhất, ở họ luôn có sự phức hợp quằn quại của tâm hồn. Có
thể ví Khẩn như căn phòng bí mật mà muốn đến được người đọc phải đi qua ba
cánh cửa: Khẩn giữa đời thường bộn bề, náo loạn; Khẩn trong những độc thoại nội
tâm suy tư, trăn trở và Khẩn trong dòng ý thức mải miết với những giấc mơ,
những ám ảnh thường trực. Nếu Khẩn giữa đời thực hiện lên qua góc quay khách
quan của người kể chuyện hàm ẩn - trần trụi, thô nhám thì Khẩn trong những dòng
độc thoại nội tâm - bằng chính điểm nhìn của mình để nhìn vào bản thân, nhìn vào
hiện thực - lại bộc lộ một con người khác ở khát khao đứng lên trên những bon
chen, bấn loạn của cuộc mưu sinh. Việc di chuyển điểm nhìn vào bên trong nhân
vật cũng là cách nhà văn trổ thêm một cánh cửa để người đọc có thể khám phá
thêm bản chất con người trong tiểu thuyết của anh.
Và như đã nói ở trên, để khám phá đến tận cùng con người Khẩn, người
đọc buộc phải mở cánh cửa thứ ba: thế giới của những giấc mơ vô thức được tái
hiện từ chính điểm nhìn bên trong của nhân vật. Có thể nói rằng, một nửa thế
giới trong Ngồi là địa hạt của những giấc mơ. Những giấc mơ đến với Khẩn bất
cứ lúc nào, không chỉ lúc ngủ mà ngay cả lúc tỉnh, có khi được thức dậy bởi một
hình dáng, một mối liên hệ nào đó từ hiện thực, có khi lại đến bất chợt với cành
bạch đàn mà không cần một sự gợi nhắc nào. Khẩn dường như hoàn toàn nhận
biết được rằng mình đang mơ, ý thức được thế giới mà mình đang chìm trôi
trong đó, và đó cũng là lúc sự phối kết giữa các cấp độ của điểm nhìn, các cấp độ
của ngôi kể được đẩy đến những giới hạn tận cùng. Sự dịch chuyển điểm nhìn,
sự gia tăng ngôi kể là những thủ pháp đã được sử dụng trong các tiểu thuyết
trước đó của Nguyễn Bình Phương, nhưng có lẽ chỉ đến Ngồi mới xuất hiện
cùng một lúc cả hai dấu hiệu nói trên: sự đan chéo các điểm nhìn không chỉ dừng
trên các lớp văn bản có cùng một ngôi trần thuật mà còn đi xa hơn, tiến đến sự
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 70
luân chuyển thường xuyên giữa trần thuật ngôi thứ nhất, trần thuật ngôi thứ hai
và thứ ba. Mỗi lần một giấc mơ của Khẩn xuất hiện, điểm nhìn dịch chuyển từ
người kể chuyện hàm ẩn sang nhân vật, và rất nhiều giấc mơ, trong đó ngôi thứ 3
bắt đầu nhường chỗ cho người kể ngôi thứ nhất là Khẩn xưng “mình”: “Cả đêm
chuột rả rích cắn chân tủ. Khẩn đang bước những bước dài nhẹ trên trải đồi
màu xanh ngọc của vùng Hồ Núi Cốc thì Kim về. Chỉ chút nữa thôi là Khẩn văng
ra khỏi giấc mơ nếu không kịp bám vào một cành bạch đàn nhỏ trắng muốt xòe
ngay bên cạnh. Khi nắm lấy cành bạch đàn, Khẩn thấy mình đang ở rất xa (…)
Thời gian là cái gì đó lờ mờ, buồn bã, chẳng tàn lụi nhưng cũng chẳng hứa hẹn
sáng sủa hơn (…) Khẩn nghĩ có lẽ mình sẽ kiệt sức nếu cứ nhìn mãi (…) Mình
hít hơi dài, ngửi thấy mùi tanh tanh của đồng quê khi vắng người (…) Mình
miệng nói trong đầu thì băn khoăn (…) Không hiểu sao đầu mình lại vụt lóe
lên một ý nghĩ mạnh mẽ” [36, tr.13-15]; (Chúng tôi dùng các dấu hiệu để phân
biệt: phần gạch chân là điểm nhìn bên trong nhân vật để phân biệt với điểm nhìn
zero trong câu trước; phần gạch chân và bôi đậm là ngôi kể khác phân biệt với
ngôi kể ở câu trên). Sự phối kết trần thuật này được đẩy đến cao độ khi trên 4
trang văn bản (từ 282-285) mà ngôi kể liên tục dịch chuyển đến 4 lần từ ngôi thứ
3 sang ngôi thứ 1 và ngược lại. Trong một tiểu thuyết với người kể chuyện thứ 3
hàm ẩn là chủ đạo, việc dịch chuyển ngôi kể sang ngôi thứ 1 chỉ xuất hiện trong
những giấc mơ vô thức đồng thời kết hợp theo đó là sự di chuyển của điểm nhìn,
đã tạo ra một điểm nhấn trong lối trần thuật của Nguyễn Bình Phương. Giấc mơ
vốn là một địa hạt không có sự xâm nhập của ý thức, nó được xem là một thứ
“ngôn ngữ” nội tâm dưới dạng vô thức, ghi lại những ám ảnh, cảm xúc nào đó
của nhân vật. Những giấc mơ của Khẩn bởi thế như dòng ý thức chảy trôi vô tận,
bất chợt, không biết điểm bắt đầu và kết thúc, Khẩn kể - khi ở ngôi thứ 3, khi ở
ngôi kể thứ 1, từ điểm nhìn của chính mình - kể những câu chuyện tưởng như
chưa hề hiện hữu trong đời sống thực của anh, kể như cái cách “thông báo một ý
nghĩ giữa lúc ý nghĩ đó đang hình thành”. Người đọc, nhờ đó, bước thẳng vào
bên trong tiềm thức của nhân vật, và nhận ra ở đó một thế giới khác với những gì
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 71
đang diễn ra ở bên ngoài Khẩn: không một chút bon chen, xô bồ, mọi thứ thơ
mộng, thanh khiết, trong trẻo. Và đó cũng là khoảng lặng, là thanh âm mà Khẩn
đi tìm suốt hành trình của mình.
3.1.2.2. Trần thuật từ ngôi thứ nhất
Như đã nói ở trên, việc phân chia trần thuật theo ngôi kể trong tiểu thuyết
Nguyễn Bình Phương ở đây chỉ mang tính chất tương đối. Trong các tiểu thuyết
đã nói ở trên có xuất hiện của người kể chuyện ngôi thứ nhất tuy nhiên chỉ là xen
kẽ và chiếm dung lượng ít hơn so với ngôi kể thứ 3. Chúng tôi tách riêng Trí nhớ
suy tàn và Mình và họ bởi đây là hai tiểu thuyết trong số sau sáng tác của
Nguyễn Bình Phương mà chúng tôi đề cập chỉ sử dụng một ngôi kể trong toàn
truyện là ngôi kể thứ nhất.
Trí nhớ suy tàn có thể được coi như một cuốn nhật kí của nhân vật chính
là người con gái không rõ tên, chuẩn bị bước sang tuổi 26, luôn chìm đắm trong
kỷ niệm, hồi ức sâu đậm về mối tình đầu đã qua và đang sống trong những ngày
“suy tàn của trí nhớ”. Khác biệt hẳn với các tiểu thuyết trước và sau đó của
Nguyễn Bình Phương, ở Trí nhớ suy tàn chỉ có duy nhất một người kể chuyện
đó là người kể chuyện ngôi thứ nhất, tự xưng là “em” và cũng với điểm nhìn trần
thuật duy nhất: điểm nhìn bên trong nhân vật. Không dành nhiều sự lựa chọn đối
với lối trần thuật từ ngôi thứ nhất, nhưng khi đã chọn sử dụng lối trần thuật này
thì Nguyễn Bình Phương lại cũng có một lối đi riêng - đúng như chính phong
cách mà anh đã tạo ra từ những tiểu thuyết trước đó. Thông thường với hình thức
trần thuật từ ngôi thứ nhất thì cách dùng phổ biến vẫn là qua đại từ nhân xưng
“tôi” nhưng ở đây Nguyễn Bình Phương lại chọn đại từ “em”. Ở đây từ “em” tạo
ra một sự lấp lửng giữa ba ngôi: ngôi thứ nhất, thứ hai và thứ ba. Vẫn có thể
dùng “em” để chỉ một đối tượng nào đấy nói chung khi không đề cập đến tên cụ
thể, khi đó tự sự được kể từ ngôi thứ ba; hay từ “em” vẫn dễ làm người ta liên
tưởng đến một cuộc đối thoại, và nhân vật xưng “em” để nhấn mạnh đến vai vế
của mình với người đối diện, khi đó tự sự lại được kể từ ngôi thứ hai. Tuy nhiên,
với hình thức tiểu thuyết - nhật ký, ở Trí nhớ suy tàn, từ “em” vẫn mang màu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 72
sắc đậm nét nhất của cái tôi trong ngôi thứ nhất. Việc lựa chọn đại từ cho ngôi kể
này, trước hết đã là một dụng ý, chính sự “lấp lửng” trong đại từ nhân xưng
khiến tiểu thuyết ngay từ trang đầu tiên đã trở nên mờ nhòe, tính chất “trò chơi”
cũng được khơi mào khi tiểu thuyết bắt đầu thách thức, gợi mở sự khám phá nơi
người đọc. Và đó dường như cũng là lối viết quen thuộc của Nguyễn Bình
Phương, làm mới trên cái cũ, cách tân từ chính truyền thống.
Trí nhớ suy tàn là dòng độc thoại miên man, là dòng ý thức chảy trôi bất
tận, không đầu không cuối của người con gái xưng “em”. Thời gian sự kiện của
tiểu thuyết thực tế chỉ kéo dài trong vài tháng, từ mấy tháng trước cho đến sinh
nhật tròn 26 tuổi của nhân vật chính. Và cũng trong ngần ấy thời gian, “em”
sống trong một trạng thái trôi vô định, những dấu ấn của thực tại ít ỏi xen lẫn,
trôi tuột trong dòng chảy mạnh mẽ của kí ức, của hoài niệm, của những tâm
trạng không gọi được thành tên. Tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương thường đặt
điểm nhìn ở những nhân vật “không bình thường”, những con người dị biệt, đó
có thể là một người ở cõi âm như Ông trong Những đứa trẻ chết già, có thể là
một người trong trạng thái hôn mê như Hoàn trong Người đi vắng, một kẻ điên
như Tính trong Thoạt kỳ thủy, và đến Trí nhớ suy tàn điểm nhìn tiếp tục được
trao cho một người đang “suy tàn về trí nhớ”. Đặt điểm nhìn trần thuật ở cô gái
thường xuyên mất ý niệm về thực tại, đời sống, không gian, thời gian, hiện thực
trong Trí nhớ suy tàn bởi thế trở nên mông lung, mờ ảo, xa xôi, khó xác định.
Hiện thực ở đấy chỉ còn tiếng nói mờ ảo của ký ức, đang nhòe đi, đứt quãng, khi
nhớ, khi quên, khi chắc, khi không chắc, lúc đoán, lúc tưởng…
Dùng đại từ nhân xưng “em” - như đã nói ở trên - rất quen thuộc trong các
cuộc đối thoại, ngôi kể này khi được ám chỉ cho ngôi thứ nhất, trong một câu
chuyện mang tính chất một cuốn nhật kí, khiến người đọc có cảm giác tiểu
thuyết là một cuộc đối thoại, ở đó nhân vật đang đối thoại, tâm sự với chính
mình. Từ điểm nhìn đó, người đọc tiểu thuyết như đang đọc chính dòng tâm tư,
đọc từng ý nghĩ, từng băn khoăn, trăn trở, từng cảm xúc, tâm trạng đang diễn ra
bên trong thế giới nội tâm nhân vật. Khoảng cách giữa nhân vật và người đọc ở
đây, bởi thế gần hơn bao giờ hết. Không luôn cật vấn về sự tồn tại của mình
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 73
trong cõi đời như người đàn ông cô độc trong Những đứa trẻ chết già, không
thường trực những ám ảnh đầy lo sợ, bất an như thế giới người trong Người đi
vắng, cũng không phải là thứ vô thức dữ dội đầy hoảng loạn như những người
điên trong Thoạt kỳ thủy, nhân vật “em” trong Trí nhớ suy tàn lại là cô gái nặng
lòng và đa cảm, sự luyến tiếc khôn nguôi của mối tình đầu đã trôi vào quá vãng
đã đẩy cô vào một tình thế dùng dằng, níu kéo giữa quá khứ và thực tại. Trong
trạng thái vô định, hoài niệm, ký ức thì đang ngày một suy tàn, thực tại thì ngột
ngạt, chán chường, “em” rơi vào vòng xoáy của sự vô phương hướng, thiếu điểm
tựa, và cô cứ trôi đi theo dòng chảy đó cho đến lúc quyết định ra đi với hi vọng
tìm một sự đổi thay. Nhưng chuyến đi của cô chưa biết nơi đến, chưa biết thời
điểm dừng, với lời hẹn quay về cũng mơ hồ, xa xôi - lại cũng bất định như chính
cuộc sống mà “em” đang sống. Có thể nói, với hình thức trần thuật từ ngôi thứ
nhất, tiểu thuyết đã diễn tả, đã khám phá đến tận cùng đáy sâu nội tâm nhân vật.
“Em” cũng là một hiện thân của con người trong cuộc sống hiện đại, cũng như
Ông, như Thắng, như Hoàn, như Tính, Hiền và tiếp sau đó là những Khẩn,
Nhung, Thúy… vẫn đang trên hành trình đi tìm ý nghĩa cho cuộc sống của mình.
Mình và họ là cuốn tiểu thuyết thứ hai và gần đây nhất được trần thuật
theo ngôi thứ nhất. Toàn bộ tác phẩm là những quan sát, ghi chép, cảm nhận, suy
ngẫm của nhân vật Hiếu (xưng mình) về cuộc sống, các mối quan hệ, những sự
kiện được chứng kiến trong hai chuyến đi (một chuyến đi lên và một chuyến đi
xuống) khi Hiếu tìm thăm lại chiến trường xưa, nơi người anh của mình đã từng
chiến đấu trong cuộc chiến chống Tàu năm 79. Nếu như Trí nhớ suy tàn chọn
đại từ nhân xưng Em để trần thuật thì Mình và họ chọn đại từ Mình. Mình thay
cho Tôi trong trần thuật ngôi thứ nhất. Chọn đại từ nhân xưng này và để cho các
nhân vật khác gọi tên mình ( Hiếu), Nguyễn Bình Phương đã tạo ra khoảng cách
và sự phân biệt giữa tác giả và nhân vật, nói cách khác là tác giả chỉ là người
dựa vào nhân vật để kể nên vừa đảm bảo tính khách quan trong lời kể, vừa có
khả năng khơi sâu vào nội tâm nhân vật. Trong tác phẩm mình còn có ý hàm chỉ
bên mình, quân mình, người mình trong quan hệ đối lập với Họ (là địch, là kẻ
thù ở bên kia biên giới luôn lẩn quất, trà trộn ngay sát với ta). Tất nhiên sẽ khó
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 74
nhầm lẫn giữa hai hàm chỉ này khi đọc tác phẩm.
Trong chuyến đi lên và đi xuống ấy, Hiếu đã cùng với Trang (một người
tình) tìm về những nơi mà người anh trai của Hiếu đã từng qua. Đó là nhà của
Cậu ở vùng biên, đó là những địa danh giáp biên giữa mình với họ mà người anh
đã từng đóng quân, chiến đấu. Trong hành trình ấy, ở ngôi kể thứ nhất, Hiếu đã
ghi lại, thuật lại tất cả những điều mình được thấy, được chứng kiến, được nghe kể
trên mảnh đất vùng biên với tất cả những cảnh sắc thiên nhiên và hiện thực cuộc
sống cùng những câu chuyện li kì, bí ẩn của con người nơi biên giới. Người đọc
như được tận mắt trải nghiệm những khung canh thiên nhiên hoang sơ, hùng vĩ và
bí ẩn của vùng biên ải, được nghe những câu chuyện tưởng như chỉ có trong cổ
tích như chuyện ăn thịt người, chuyện giết người lấy nội tạng, chuyện về Phỉ,
chuyện về cuộc chiến ngoan cường nhưng cũng vô cùng ác liệt với nhiều hi sinh,
mất mát của người lính và nhân dân vùng biên … Không chỉ có vậy, qua điểm
nhìn và dòng tâm tưởng của nhân vật Hiếu ta còn thấy hiện lên cả cuộc đời, số
phận của người anh của Hiếu và cũng là một người lính trực tiếp cầm súng trong
cuộc chiến 79.
Với ưu thế của điểm nhìn thứ nhất, nhân vật Hiếu (mình) đã thả sức giãi
bày, tự bạch, tự thú về cuộc sống, các mối quan hệ và cả những suy ngẫm rất
riêng tư , thầm kín của mình. Hiếu đã từng ám ảnh khi ngủ lúc nào cũng có cảm
giác “thấy kẻ nào đó đang đứng dạng háng đái thẳng xuống mặt mình” [35,
tr.15]; đã từng rất muốn xem bên trong có cái gì sau khi đã làm tình với Trang;
đã từng chứng kiến cảnh Vân Ly (một người tình khác của mình) bị tẩm xăng
đốt; Hiếu cũng là người rất yêu thương, gắn bó với gia đình, đặc biệt là với
người anh của mình, đã từng rất day dứt, trăn trở về nỗi bất hạnh của anh sau
chiến tranh, đã từng tìm mọi cách để giúp anh nhưng bất lực. Hiếu cũng là một
viên chức với công việc quản thư, cũng là một người nhiều chữ và khá hiểu biết
về các vấn đề của đời sống xã hội… Như vậy qua lời trần thuật có tính chất tự
bạch và tự thuật của Hiếu, bạn đọc có thể thấy Hiếu là một con người đa diện,
dung chứa những điều trái ngược vừa hiểu biết, đầy lòng nhân ái nhưng cũng
vừa buông thả, vô tâm ích kỉ và độc ác… Đó phải chăng là những điều vẫn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 75
thường tồn tại trong con người đương đại mà Hiếu là một cá nhân tiêu biểu. Và
Hiếu cũng như những nhân vật khác trong tiểu thuyết của Nguyễn Bình Phương
vẫn đang ngụp lặn và tìm kiếm bản ngã, tìm kiếm lí tưởng sống cho chính mình
trong một xa hội còn nhiều trái ngang, hỗn độn.
Như vậy, chọn những ngôi kể khác nhau, với những điểm nhìn trần thuật
khác nhau trong mỗi tiểu thuyết của mình, Nguyễn Bình Phương đã có những
sáng tạo và bứt phá so với truyền thống. Điều này vừa tạo ra sự mới lạ, hấp dẫn,
khơi dậy ham muốn khám phá của độc giả, vừa là điều kiện để nhà văn xây
dựng, khắc họa nhân vật và thể hiện những tư tưởng nghệ thuật của chính mình.
3.2. Kết cấu trần thuật trong tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương
3.2.1. Kết cấu đa tầng, xoắn kép
Chúng tôi đã làm một bảng thống kê các mạch truyện trong tiểu thuyết
của Nguyễn Bình Phương:
Tiểu thuyết Mạch truyện
Mạch truyện 1: Câu chuyện truy tìm và tranh giành kho
báu của hai dòng họ ở cõi trần Những đứa trẻ
Mạch truyện 2: Câu chuyện của người đàn ông trên chết già
chuyến xe trâu trở về làng cũ ở cõi âm
Mạch truyện 1: Câu chuyện của những con người trong
xã hội thời hiện tại
Mạch truyện 2: Câu chuyện về cuộc khởi nghĩa của Đội Người đi vắng
Cấn đầu thế kỷ XX
Mạch truyện 3: Câu chuyện của những hồn ma
Mạch truyện 1: Hành trình của con cú bị bắn trôi trên
sông Thoạt kỳ thủy Mạch truyện 2: Câu chuyện cuộc đời của Tính cùng cuộc
sống ở làng Phan
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 76
Mạch truyện 1: Câu chuyện của những con người trong Ngồi xã hội thực tại
Mạch truyện 2: Câu chuyện nửa như giấc mơ, nửa như
hoài niệm, diễn ra trong dòng ý thức của Khẩn gắn với
hình ảnh của Kim
Mạch truyện 1: Câu chuyện về chuyến đi lên và đi xuống
của Hiếu và Trang trong chuyến đi tìm về nơi chiến
trường xưa, nơi anh của Hiếu đã từng chiến đấu Mình và họ
Mạch truyên 2: Những kí ức của Hiếu về anh, về mẹ về
những người thân quen xung quanh…
Theo bảng thống kê trên có thể thấy 5/6 cuốn tiểu thuyết Nguyễn Bình
Phương được nghiên cứu trong luận văn này được cấu trúc bằng những mạch
truyện đa tầng, đan xen, xoắn kép. So với các nhà tiểu thuyết trước 1975 Nguyễn
Bình Phương đã tìm cách tung phá mọi đường biên để tạo ra sự bứt phá đặc biệt
cho cấu trúc tự sự tiểu thuyết.
Trong số các tiểu thuyết nói trên, Những đứa trẻ chết già xem ra lại là
tiểu thuyết có bố cục rõ ràng và rành mạch nhất. Tiểu thuyết gồm hai mạch
truyện chạy song song từ đầu đến cuối tác phẩm. Cả 2 mạch của truyện cứ song
hành, nối đuôi nhau xuyên suốt từ đầu đến cuối tác phẩm tưởng như không hề có
điểm chung. Chính sự phân biệt rõ ràng và cân đối đến mức “đáng ngờ” ở tiểu
thuyết này cuối cùng lại là một thách thức đối với nhãn quan của người đọc
truyền thống.
So với Những đứa trẻ chết già thì vấn đề kết cấu trong Người đi vắng
dường như lại được đẩy lên một cấp độ cao hơn, phức tạp hơn với những tuyến
truyện móc nối, đan xen chằng chịt. Tiểu thuyết được cấu tứ bởi 3 mạch truyện:
Mạch chủ đạo chiếm phần lớn dung lượng của tiểu thuyết tái hiện lại cuộc sống
của những con người trong xã hội thực tại, xoay quanh những biến cố liên quan
đến nhân vật Thắng. Mạch quá khứ xuyên suốt bởi câu chuyện về cuộc khởi
nghĩa lịch sử của Đội Cấn đầu thế kỷ XX từ đêm trước của cuộc khởi nghĩa đến
những ngày cuối cùng khi cuộc nổi dậy bị thực dân Pháp đàn áp, càn quét. Và
một mạch khác của tiểu thuyết là câu chuyện của những sinh linh ở một cõi
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 77
khác. Không có sự phân chia rõ ràng rành mạch như ở Những đứa trẻ chết già,
các mạch truyện ở Người đi vắng đan xen, móc nối vào nhau. Có thể nói đến
tiểu thuyết này, sự đan xen, chồng chất của các mạch truyện và quá nhiều câu
chuyện đã khiến người đọc có ý thức “cảnh giác” về “trò chơi kết cấu” của nhà
văn. Tuy nhiên, với một kết cấu rubic đa chiều, đa tuyến kết hợp với rất nhiều
yếu tố, chi tiết kì ảo, tiểu thuyết này thực sự là một ma trận, một mê lộ bí ẩn đầy
thách thức khơi gợi sự khám phá.
Tính chất đa tầng ở Thoạt kỳ thủy lại được làm dày thêm, trước hết ở hình
thức truyện lồng trong truyện. Hình thức truyện trong truyện không phải là một
đặc điểm phổ biến trong tiểu thuyết Việt Nam truyền thống, tuy nhiên trong
nhiều năm gần đây, hình thức này không còn là lạ, là “hiếm” nữa và có thể bắt
gặp trong nhiều tiểu thuyết của nhiều nhà văn đương đại như Bảo Ninh, Nguyễn
Việt Hà, Tạ Duy Anh, Thuận… Thoạt kỳ thủy, ngoài phần chính là phần
Chuyện, ở cuối tác phẩm còn có phần Phụ chú trong đó dẫn một tác phẩm của
ông Phùng - một nhân vật trong tác phẩm. Kết cấu đa tầng của Thoạt kỳ thủy còn
được thể hiện qua hai mạch truyện chính: chuyện con cú trôi sông và chuyện về
những con người, những gia đình ở Linh Sơn, bãi Nghiền Sàng với nhân vật chính
là Tính. Hai mạch truyện này diễn ra song hành: hành trình của con cú bị trôi trên
sông được miêu tả song song với hành trình từ lúc ra đời đến lúc Tính chết. Nếu
như ở các tiểu thuyết khác, các mạch truyện đơn lẻ đều có thể là đề tài để tạo ra
một tiểu thuyết mới thì ở Thoạt kỳ thủy hai mạch truyện có sự phân biệt khá rõ về
dung lượng cũng như độ dày dặn của cốt truyện và chi tiết. Nếu đặt trong một hệ
thống, mạch truyện về con cú trôi sông có vẻ như khá mờ nhạt, tuy nhiên đặt trong
chỉnh thể của Thoạt kỳ thủy, mạch truyện này đặt song song cùng câu chuyện
cuộc đời Tính có lẽ không chỉ là một thao tác “làm dày” kết cấu tiểu thuyết.
Ngồi ra đời tiếp tục triển khai mô hình hai thế giới trong tiểu thuyết của
Nguyễn Bình Phương, và mỗi một thế giới lại tương ứng với một mạch truyện,
chạy song song, đan bện cùng mạch truyện còn lại. Nhưng khác với các tiểu
thuyết trước đó, Khẩn lại là nhân vật chính, tham dự vào cả hai thế giới trong
tiểu thuyết này. Một thế giới là cuộc sống hiện tại mà nhân vật đang hiện hữu:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 78
cuộc sống công sở và sinh hoạt của Khẩn với những câu chuyện rất đời thường.
Và một thế giới dường như chỉ dành riêng cho câu chuyện tình của Khẩn và Kim
- nhẹ nhàng và thanh khiết, mờ ảo như chính bản thân của giấc mơ.
Ở tác phẩm ra đời gần đây nhất- Mình và họ- thì hai mach truyện về quá
khứ và thực tại cũng được nối kết với nhau qua chuyến đi và những hồi ức của
nhân vật Hiếu. Hiện tại là cuộc sống thường nhật với những mối quan hệ xô bồ,
những âm mưu toan tính, những thủ đoạn tranh đoạt và cả những vấn đề có tính
thời sự của xã hội cũng được đề cập. Quá khứ là những vào sinh ra tử của người
anh, người lính trong cuộc chiến chống Tàu năm 1979 và 1984 với vô vàn
chuyện li kì về ta, về họ, về Phỉ, …
Như vậy, có thể thấy, ngoài Trí nhớ suy tàn, các tiểu thuyết còn lại của
Nguyễn Bình Phương đều có kết cấu đa tầng với sự tham dự của nhiều mạch
truyện, nhiều thế giới. Thủ pháp kết cấu ở đây, bằng cách triển khai nhiều mạch
truyện có khi song song, có khi đan xen, móc nối chằng chịt và chồng chất lên
nhau. Từ những mạch truyện xoắn kép ấy, các nhân vật hiện lên với tất cả sự đa
chiều và phức tạp của nó - giống như được nhìn qua một thứ lăng kính lập thể.
Tiểu thuyết rời rạc trên bề mặt của hiện thực, nhưng cả một thế giới đa chiều của
rất nhiều những số phận lại gặp nhau dưới tầng sâu của cuộc sống, nơi những
khía cạnh nhân cách của họ được soi chiếu qua những “cõi sống” khác, những
thân phận khác. Những mối quan hệ trong lịch sử đều có bóng dáng của những
mối quan hệ trong hiện tại và ngược lại, con người hiện tại cũng tìm thấy mình
trong hình bóng quá khứ. Sự thay đổi khiến những mảng hiện thực được tái hiện
cũng trở nên liên hệ chặt chẽ với nhau, không hề tách bạch, hai thế giới mà nhân
vật đang sống lồng ghép, hòa trộn trong nhau. Từ đó ranh giới giữa thực và ảo,
giữa hiện tại và quá khứ như bị nhòe đi và qua những mảng sáng - tối ấy,
Nguyễn Bình Phương đề cập một trạng thái sống hụt hẫng và vô nghĩa của con
người đương đại. Đồng thời chính kết cấu đa tầng không chỉ làm dày thêm các
chiều kích của tiểu thuyết mà còn mở ra những chiều tồn tại khác của nhân vật,
chúng lý giải cho nhau, bổ sung cho nhau và ở đó chân dung con người đương
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 79
đại trở nên rõ nét hơn.
3.2.2. Kết cấu phân mảnh
Tiểu thuyết của Nguyễn Bình Phương có thể nói là những dẫn chứng tiêu
biểu cho việc tìm kiếm một kết cấu văn bản mới - kết cấu phân mảnh. Tính phân
mảnh này biểu hiện rõ trong các tiểu thuyết của nhà văn này trên nhiều cấp độ,
trong đó biểu hiện đầu tiên là sự phân mảnh trên bề mặt văn bản. Toàn bộ
Những đứa trẻ chết già có thể gọi là tập hợp của những mảnh “Chương” và
mảnh “Vô thanh”. Đến Người đi vắng, tính phân rã lại thể hiện đậm nét hơn.
Tiểu thuyết không hề có dấu hiệu của sự phân chương, đoạn và dường như được
“đập nát” thành vô số mảnh vụn, liên kết với nhau một cách bất kì, vô nguyên
tắc, và thường chỉ được phân biệt bằng các dấu hiệu văn bản không thống nhất,
khi thì bằng các dấu hoa thị (*), khi thì bằng các hình thức in nghiêng, in đứng,
khi thì chỉ đơn giản là khoảng trống cách quãng. Hình thức cách quãng cũng
được lặp lại trong Trí nhớ suy tàn, có điều khoảng trống giữa các mảnh hiện
thực tương đương với các mảng kí ức của trí nhớ được giãn xa hơn, dường như
tô đậm thêm tính rời rạc, thiếu liên kết trong hồi ức của nhân vật. Sự không liền
mạch trong kết cấu Thoạt kì thủy biểu hiện ngay trong việc tiểu thuyết được chia
làm 3 phần (và lại là 3 phần tách bạch): A. Tiểu sử, B. Chuyện và C. Phụ chú.
Chưa kể giữa các phần này có dung lượng phân bố không đồng đều. Ngồi lại
cũng được phân đoạn một cách rõ ràng, các đoạn được đánh số liên tục từ 1 đến
49. Ở đây dung lượng các đoạn cũng bất thường, có đoạn chỉ hơn 1 trang văn
bản (đoạn 4), có đoạn 10 trang (đoạn 24).
Sự phân mảnh trên bề mặt bố cục tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương cũng là
dấu hiệu của sự phân rã cốt truyện. Tự sự đương đại “chủ trương đập vỡ các mảng
văn bản trần thuật thành những mảnh vụn rời rạc, xô lệch, không theo một trật tự
nhân quả rõ rệt nào, và tương ứng với mỗi mảnh vụn ấy là mỗi mảnh của hiện thực
đời sống được biểu hiện” [15]. Có thể nhận thấy trong các tiểu thuyết của mình,
Nguyễn Bình Phương không hề có ý định xây dựng một nhân vật, tính cách điển
hình. Hiển hiện đậm nét trong tác phẩm của anh là những mảnh vụn của hiện thực:
mảnh suy tư, mảnh ký ức, mảnh hồi tưởng, mảnh ám ảnh, mảnh tưởng tượng, mảnh
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 80
giấc mơ, mảnh điên loạn…
Trong Những đứa trẻ chết già nếu như mạch các Chương tái hiện hiện
thực một cách thuần nhất bằng cách kể các sự kiện diễn ra tương đối trật tự thì ở
mạch Vô thanh, hiện thực được phân rã bởi vô số mảnh ký ức, mảnh suy tư của
người đàn ông ngồi trên xe trâu: mảnh kí ức buồn về nỗi cô đơn khi những
người thân yêu đều rời bỏ Ông, từ gia đình, những người đàn bà đến với ông
chóng vánh đến đứa con của người đàn bà đầu tiên mà Ông coi như con đẻ, đến
người bạn hàng xóm bất hạnh; mảnh kỷ niệm với những câu chuyện về làng luôn
mang màu sắc của sự kỳ ảo, hoang đường, bí ẩn (chuyện bà giáo đẻ ngược,
chuyện anh chàng thợ mộc rong chết ở làng, số phận đau đớn xót xa của người
chị họ mà Ông yêu mến); mảnh kí ức đẹp về mối tình trong sáng với Xoan;
mảnh suy tư về sự sinh ra và tồn tại của mình trên cõi đời… Những hoài niệm ấy
hòa lẫn với những cảm xúc, những tâm trạng của Ông khiến mạch truyện Vô
thanh trở thành dòng tâm tưởng chảy trôi bất tận với sự ngổn ngang của bao
nhiêu nỗi niềm, tâm sự của người đàn ông lúc xế chiều nhận ra bao nhiêu nghịch
lí trong cuộc đời mình.
Hiện thực trong Người đi vắng có thể nói bị phân rã đến mức tuyệt đối, ở
đó không còn gì nguyên vẹn, nguyên khối và liền mạch. Ở tiểu thuyết này mảnh
hiện tại (câu chuyện những con người trong cuộc sống đương đại) đứng cạnh
mảnh quá khứ (cuộc khởi nghĩa của Đội Cấn); mảnh cõi trần đan xen với mảnh
cõi âm. Chỉ trong không gian của mảnh đất Thái Nguyên, cùng một lúc vang dậy
tiếng nói, âm thanh của nhiều cõi, nhiều thời. Mỗi nhân vật là một mảnh của
hiện thực, mỗi mảnh hiện thực ấy lại bị phân rã thành vô số những mảnh vụn
khác của tâm trạng, của ký ức, của những hoang hoải, ảo tưởng và bất an. Đó là
Thắng suốt đời ám ảnh về người đàn ông anh đã bắn trong cuộc chiến; đó là
Chung luôn bị săn đuổi bởi nỗi lo sợ bị thiến từ thủa ấu thơ; là Hoàn quay cuồng
với cuộc chạy trốn trong thực tại và mải miết đi tìm bản thể của mình trong hành
trình hôn mê chưa biết bao giờ tỉnh lại... Đó cũng là vô số những âm hồn, những
cá thể vô tri vô giác vẫn luôn trăn trở về cái chết hay sự tồn tại của mình… Có
thể thấy ở Người đi vắng, Nguyễn Bình Phương đã hoàn toàn khước từ các “đại
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 81
tự sự” và thay thế bằng những “tiểu tự sự”, và những tiểu tự sự này lại được tiếp
tục đập vỡ khi có thể. Tiểu thuyết của anh giờ đây là sự tập hợp của những mảnh
vỡ bất thường, nhân vật của Người đi vắng phi tính cách, chỉ hiện hữu bằng các
trạng thái tâm lý đứt đoạn và rời rạc.
Thế giới của Ngồi có sự đan xen phức hợp của cả thế giới hiện thực nghiêm
ngặt đến trần trụi và một thế giới mộng ảo, huyễn hoặc đầy chất thơ. Nếu như hai
thế giới trong Những đứa trẻ chết già được phân mảnh và tách bạch một cách rõ
ràng, rành mạch thì ở Ngồi những mảnh vụn của hai thế giới ấy xen kẽ, lồng ghép
trong nhau và ranh giới giữa chúng cũng mong manh và mơ hồ như chính dòng ý
thức của nhân vật Khẩn. Rõ ràng, Ngồi không tái hiện lại cuộc sống hay số phận
con người một cách trọn vẹn và đầy đủ. Nhà văn chỉ chọn một “khúc” trong dòng
chảy cuộc sống của nhân vật và tái hiện nó. Đến lượt chính lát cắt ấy lại được phân
rã thành rất nhiều những mảnh vụn khác trong một thế giới nhộn nhạo, xô bồ, chao
đảo vì những lý do biến con người trở nên vô nghĩa. Khẩn trong tiểu thuyết chơi vơi
giữa hai thế giới. Những câu chuyện có bóng dáng của Kim dường như tồn tại ở
một góc sâu kín, thuộc về vô thức trong Khẩn, những câu chuyện không đầu không
cuối, lảng bảng như những giấc mơ luôn trở về bất chợt vào bất cứ lúc nào đan xen
vào trong câu chuyện đời thực mà Khẩn đang sống. Những suy tư, trăn trở, những
hồi tưởng, hoài niệm, những giấc mơ, vô thức của nhân vật ở mỗi thế giới trong
nhiều thời điểm khác nhau lại bị xáo trộn và đặt cạnh nhau khiến nhân vật chao đảo
giữa những chiều kích của sự tồn tại.
Trong Mình và họ, sự phân mảnh cũng thể hiện khá rõ qua dòng kí ức của
nhân vật Hiếu. Là một công chức sống giữa cuộc đời thường nhật hiện tại với
những mối qua hệ xã hội bình thường: bạn bè, đồng nghiệp, người thân, người
yêu, người tình…, tất cả đã vẽ nên một mảnh hiện thực khá phổ biến về đời sống
của con người đương đại trong đó có những mục đích, lí tưởng nhưng cũng có cả
những bon chen, thực dụng, mập mờ, thủ đoạn, tranh đoạt, tiêu diệt lẫn nhau…
Song qua những dòng kí ức của nhân vật, một mảnh hiện thực của quá khứ cũng
được tái hiện khá rõ nét: đó là cuộc chiến tranh chống Tàu những năm 79 và 84,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 82
đó là những đau thương mất mát, những li kì rùng rợn ít người biết đến, đó cũng là
hoàn cảnh, số phận riêng của những người thân trong gia đình Hiếu: bố, mẹ, cậu,
anh, Hằng, cũng hiện ra một cách khá sắc nét qua những hồi ức của nhân vật.
Như vậy, có thể thấy tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương phân mảnh trên
nhiều cấp độ: từ bố cục, ngôn ngữ, đến nhân vật. Tái hiện đời sống bằng một kết
cấu như thế cũng có nghĩa là Nguyễn Bình Phương không có ý định hàn gắn lại,
sắp xếp lại thế giới đổ nát, không mong muốn đưa chúng về quy củ, toàn vẹn.
Khước từ những “đại tự sự” mà tiểu thuyết truyền thống luôn hướng tới thể hiện,
tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương cũng như của nhiều nhà văn đương đại khác
hướng sự quan tâm, tập trung khám phá những “tiểu tự sự” thông qua những
mảnh vụn của đời sống… Con người ở đây hiện diện không phải qua “một kiếp
người” trọn vẹn mà chỉ là một quãng đứt đoạn nào đó với trạng thái tâm lý nào
đó. Đến lượt chính bản thân họ lại phân rã thành những mảnh nhỏ vụn vỡ, rời rạc
biểu hiện “tính chất thiếu liên kết… tình trạng rã đám, nhốn nháo, xô bồ, bất
trắc” trong đời sống. Tự nó mang nghĩa biểu đạt sự phân rã, đổ vỡ của hiện
thực đời sống đương đại.… Cách biểu đạt theo tinh thần phân mảnh này (cả bề
mặt văn bản, cả nội dung bên trong) là một cố gắng của kỹ thuật tự sự nhằm thể
hiện cho được hiện thực đời sống đầy lo âu ngày hôm nay”[15].
3.3. Ngôn ngữ và giọng điệu trần thuật
3.3.1 Ngôn ngữ trần thuật
3.3.1.1. Ngôn ngữ mang tính đa tạp, đậm sắc thái của ngôn ngữ đời sống
hiện đại
Tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương chứa đựng nhiều thái cực: một đằng là
những câu chuyện rất thực, rất đời thường mà người đọc có thể bắt gặp bất cứ
đâu trong cuộc sống hiện đại, một đằng là những câu chuyện li kì, bí ẩn, hoang
đường khó tin; hay bên cạnh thế giới nội tâm đầy chất thơ, trữ tình lại là những
mảng cuộc sống trần trụi, tạp nham. Trong tác phẩm của nhà văn này, lớp ngôn
ngữ mang tính đa tạp, thông tục thường xuất hiện ở những mảng truyện mang
tính hiện thực, trong sự đối lập với thế giới của giấc mơ, của vô thức. Thu hẹp
khoảng cách giữa truyện kể và những chuyện của đời sống thực, ở hầu hết các
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 83
tiểu thuyết của anh, ngôn ngữ trần thuật được đưa đến rất gần với ngôn ngữ nhân
vật - với các dạng người trong xã hội. Có thể thấy biểu hiện của loại ngôn ngữ
này ở những kiểu phát ngôn trần trụi, không mỹ từ, không gọt dũa của thứ ngôn
ngữ “chợ búa”, “vỉa hè”:
Đây là cuộc đối thoại của hai cha con Liêm - Hải trong Những đứa trẻ
chết già:
“- Mày điên chắc? (…)
- Chẳng điên điếc gì cả. Con muốn tranh thủ xem thế nào (…)
- Xem xét cái con cặc tao đây này. Mất thời gian (…)
(…) - Trưa mai mẹ nấu cơm cho con đi rước bà Loan về. Thật chó má.
- Mày bảo gì? (…) Bà đừng có bênh. Thằng chó dái, tao không thể chịu đựng
được thói mất dạy. Tao thì tao nghiền mày ra như cám, hiểu chưa, thằng đĩ đực” ”
[38, tr.31-33]
Không đậm đặc như ở Những đứa trẻ chết già, ở Ngồi, thứ ngôn ngữ
thông tục, đời sống này vẫn được sử dụng khá nhiều nhưng với một sắc thái khác.
Đó là lối nói ngọng của nhân vật Hùng được đưa thẳng vào văn bản, vừa có chân
thực, vừa hài hước: “ló bị u lang buồng trứng, chưa biết đưa vào viện lào bây
giờ”; “ló tế nhị nắm anh ạ”; “nần này nột da mặt nà cái chắc”… Đó còn là kiểu
ngôn ngữ mang tính vỉa hè, đầy những chửi thề và khẩu ngữ như ở Nghĩa - một
công chức bất cần đời, ăn chơi sành sỏi, ở Hoàng Lân - một cựu chiến binh bất
đắc chí hay ở gã thương binh cùng khu tập thể Khẩn sống.
Cùng với việc tái hiện hiện thực qua các mảnh vụn, mảnh vỡ đời sống nên
ngôn ngữ trần thuật giờ đây cũng có sự dịch chuyển, từ những ngôn từ gắn liền
với “đại tự sự” để phù hợp với các “tiểu tự sự”. Trong Thoạt kỳ thủy, Nguyễn
Bình Phương cũng sử dụng phổ biến các lớp từ thông tục, miêu tả, tái hiện
những câu chuyện rất đời thường ở vùng Linh Nham - bối cảnh hoạt động của
nhân vật: “Người đàn ông què chống gậy chui từ bè ra, vạch quần đái. Tiếng
nước chạm nhau ồ ồ, dai dẳng, xen lẫn tiếng ho khan” [39, tr.10]; những ngôn từ
trần tục, ít khi bắt gặp trong văn chương: “Không có rượu, cơm cũng thành cứt”,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 84
“Thiếu đếch gì, còn khối”, “Phim ảnh gì, xéo”, “Tết đến đít rồi”…
Viết văn với quan niệm “đời sống có những từ nào thì văn học có quyền
đưa từ đó vào”, Nguyễn Bình Phương đã mạnh dạn đưa vào tiểu thuyết của mình
những ngôn từ đa dạng, phong phú và gắn liền với đời sống thường nhật của xã
hội đương đại. Đó cũng là một cách để anh làm mới và kéo gần tiểu thuyết của
mình với hiện thực.
3.3.1.2. Ngôn ngữ giàu hình ảnh, lạ hóa và đầy chất thơ
Ở tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương, đứng bên cạnh thứ ngôn ngữ chủ âm
và xuyên suốt là ngôn ngữ đời thường, trần tục, người đọc vẫn nhận ra một mạch
nguồn ngôn từ khác, dù xuất hiện không nhiều, dù chỉ là một thứ “phụ âm”
nhưng vẫn có một tiếng nói riêng, và với nó, người đọc vẫn nhận ra dáng vẻ tiểu
thuyết Nguyễn Bình Phương, đó là lớp ngôn từ giàu hình ảnh, đầy chất thơ.
Có thể thấy, văn miêu tả của Nguyễn Bình Phương giàu hình ảnh, có
những lúc nhà văn đang khoác cho sự vật một diện mạo sinh động hơn chính bản
thân nó bằng những thủ pháp nhân hóa, ẩn dụ - đó là những thủ pháp quen thuộc
trong thơ ca: “Đường phố thưa thớt đèn, những chiếc lá bàng to nằm ưỡn cong
trên vỉa hè như đàn trâu chết dịch”; “Không ai, không ai kết thúc được đêm.
Đêm đã mở ra, mượt mà như mái tóc, như nước và lượn sóng”; “Hoàn nghiêng
cổ, tóc sáng lên từ từ lùi xa, rất xa, xa bằng buổi chiều sơ tán thủa bé của
Cương”; “Bên ấy tĩnh mịch như cái rốn của sự im lặng”. Những đoạn miêu tả
xuất hiện rải rác khá nhiều trong Người đi vắng, và đôi khi chính bản thân nó
góp phần làm “vụn vỡ” kết cấu tự sự ngay trên bề mặt văn bản: “Mưa rào lấp
lánh ngân nga tiếng chuông. Sấm gừ gừ ở chốn cao xa, uyển chuyển như con
mèo thoắt lui về thoắt phóng ra (…) Những ngọn bạch đàn run run hiện thành
bầy ngựa trắng hồi hộp chờ đợi phút bắt đầu cho cuộc chạy đua với những đám
mây nặng nề khật khưỡng (…) [37, tr.6]. Với Thoạt kỳ thủy, chất thơ lại toát ra
từ một thế giới của vô thức và điên, “Trôi ở giữa những đụn khói, ai cũng lẫn
vào nhau. Tất cả đều mờ. Trăng không xuống được tóc, chỉ lơ lửng trên đầu.
Trăng cười, vàng sắp thành đen rồi. Cứ nở mãi, nở mãi giữa những đụn khói đặc
quánh (…)” [39, tr.36-37]; “Mặt trăng nằm trên cỏ, hơi võng ở giữa làm các
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 85
ngọn cỏ run lên. Run lên, run lên” [32, tr.42]; “Cây sợ run bần bật. Nhiều trăng
lắm nhé, mẹ nhé. Thích nhỉ, mẹ nhỉ. Hiền đặt bóng vào tường. Tường cắn chặt
bóng Hiền không thả ra in mãi với bóng thạch sùng”; “Trăng đen, trăng đen, sao
mày dập dềnh trôi mãi không hết” [39, tr.69]… Những câu văn với một cú pháp
khác lạ, những hình ảnh độc đáo, những liên tưởng bất chợt, đó chính là phẩm
chất của thơ, mà ở Thoạt kỳ thủy đó được gọi là “một thứ điên của thơ.
Gần với Thoạt kỳ thủy, thế giới ngôn từ đầy chất thơ trong Ngồi được mở
ra trong thế giới giấc mơ và kỷ niệm của nhân vật, những kỷ niệm của Khẩn về
Kim. Những câu chuyện về Kim như một thứ cứu rỗi, che chở, xoa dịu ở Khẩn
những mệt mỏi, những trăn trở nhức nhối về đời sống, những câu chuyện như
những giấc mơ ấy được bao bọc bởi một thứ ngôn ngữ mơ hồ, bảng lảng: “Khi
chạm vào cành bạch đàn thì giấc ngủ biến mất chỉ còn một không gian dịu dàng
để Kim than phiền về cuộc đời. Trong ngôn ngữ thầm lặng mê man của Kim thấp
thoáng một vùng đất trải dài, mờ nhạt hai đầu bởi khói sương và không hiểu
bằng cách nào mình nhận ra đó sẽ là nơi mình phải quay lại trong những ngày
trở trời nếu muốn thoát khỏi sự thành hạ của căn bệnh đau đầu quái ác (…)
những gì Kim nói đều được lưu vào góc tối dịu dàng mềm mại của một bụi cây
vô hình, đấy là trí nhớ của mình” [36, tr.37]. Không hẳn là thứ ngôn ngữ miêu tả
cảnh trong Những đứa trẻ chết già hay Người đi vắng, cũng không phải như
ngôn ngữ “điên” trong Thoạt kỳ thủy, thứ ngôn ngữ đầy chất thơ trong Ngồi
được nhuốm màu sắc hoang đường, bí ẩn, biến thế giới trong tâm tưởng của
Khẩn trở thành một vùng đất riêng biệt, nơi mà ý thức khó có thể can thiệp.
Trí nhớ suy tàn như mảnh đất rộng rãi để Nguyễn Bình Phương trở về với
căn cốt thơ của mình. Tiểu thuyết là một bài thơ văn xuôi dài bất tận bởi dòng ý
thức miên man, vô định của nhân vật. Thế giới của Trí nhớ suy tàn là thế giới
của tâm tưởng, của kỷ niệm được bao bọc trong một bầu khí quyển lãng đãng,
của chất thơ, và “thơ” rõ nhất trong câu chữ, trong hình ảnh, ngôn từ. Ấn tượng
với người đọc bắt đầu từ những câu đầu tiên mở ra thế giới tiểu thuyết: “Chẳng
mấy tháng nữa sẽ tròn hai mươi sáu tuổi. Mang trong mình sự phức tạp của phố
phường, đôi lúc không tránh khỏi những giờ phút mơ mộng hão huyền từ thời
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 86
sinh viên để lại. Nói nhanh, âm trong veo, không chịu rè đi ngay cả lúc đã mệt
mỏi, chán nản. Giọng ấy tự nó ngân nga vang vọng, xoáy vào tình cảm cho dù
ngôn ngữ cứ sắc lạnh. Mắt thông minh, cong với làn da mỏng và chiếc mũi hếch
ngộ nghĩnh, tinh quái. Cái ấy mẹ cha chẳng can thiệp, nó là của trời. Giọng nói
của trời, làn da của trời, con mắt của trời. Vào thời điểm bất chợt nào đó, đem
những thứ của trời ấy dâng cho người mình yêu, như một sự bày tỏ, một đền
đáp, một ân huệ vụng trộm” [40, tr.7]. Những câu, những mệnh đề không có chủ
từ, đó cũng là một đặc điểm của câu thơ. Hiện thực của cuộc sống, của quá khứ
là chất liệu của câu chuyện trong Trí nhớ suy tàn, nhưng tất cả những chất liệu
ấy, khi được đưa vào tầm nhìn và sự hoài niệm của “Em” thì dường như đã được
sắp xếp lại, và “diễn đạt” lại bằng thứ ngôn ngữ rất riêng - ngôn từ của kí ức,
một kí ức sắp sửa đến lúc “suy tàn” lại của một tâm hồn rất đỗi nhạy cảm và tinh
tế: “Những cánh hoa rụng xuống, chết một cách yên ổn”; “Những đĩa bánh trôi
nằm ngoãn ngoãn trên cái mẹt được vải màn quây lại như những nỗi niềm thơ
ngây đang yên nghỉ”; “Một con đường chiều vắng như đang bị bỏ quên”; “Bên
kia hồ một người đàn ông xách cần câu đi giữa nắng (…) Với dáng đi ấy, thật
chậm, thật kiên nhẫn, không rẽ vào bất cứ đâu, ông ta sẽ tới được mùa thu”[40,
tr.85]. Có thể thấy, với Trí nhớ suy tàn, ngôn từ đầy chất thơ đã trở thành một
thứ chủ âm, một gam màu chính, một bầu khí quyển bao trùm lên hết thảy. Và
cũng bởi thế, đặt trong “dàn âm” tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương, Trí nhớ suy
tàn là một nốt nhạc trầm, nhẹ nhàng, thoang thoảng nhưng vang xa, không dứt.
Mình và họ bàng bạc chất thơ trong những quan sát và suy tư miên man
của Hiếu về thiên nhiên, về vạn vật xung quanh mình: “Ba người chạm chân tới
cửa thị trấn thì trời mưa. Hàng ức vạn giọt đổ tới tấp lên nhau xóa tan tành
những dãy núi, sau đó xóa luôn cả thị trấn. Mưa vùng cao giống như những ông
thần khều khào, vần vũ với chính mình” [35,tr.69]… “Sau mưa núi trở thành
những cánh buồm ong óng . Trời xanh và mỏng đến độ chỉ cần búng nhẹ sẽ vỡ
thành trăm ngàn mảnh” [35,tr.74]…”Tối có trăng. Trận mưa thốc tháo hồi chiều
dọn đường cho sự đăng quang của vầng trăng. Ánh trăng giàn giụa chảy xuống
thị trấn, xối bạc những dãy núi… điện tắt, ánh vàng êm ái lan vào trong nhà .
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 87
Không gian bừng lên rờ rỡ nhưng cực kì cô độc. Trong ánh trăng đổ xuống như
thác, những bóng điện yếu ớt, đỏ dọc trở thành trái cây chín treo rải rác khắp thị
trấn. Mọi thứ bỗng dưng lơ mơ, lâng lâng. Ngay cả tiếng í ới của đám thanh
niên đang tụm nhau ngoài ngã ba cũng nổi trôi, chấp chới” [35,tr.81] …
Có thể nói, ngôn ngữ giàu hình ảnh và đậm chất thơ trong tiểu thuyết của
Nguyễn Bình Phương một mặt cho thấy sự giao thoa và dung nạp nhiều thể loại
khác nhau trong một chỉnh thể văn bản tự sự và cụ thể trong trường hợp này là
sự giao thoa giữa tiểu thuyết và thơ; mặt khác nó cũng là một phương tiện để
xây dựng và khắc họa nhân vật, nó làm cho nhân vật được khám phá ở nhiều
bình diện, nhiều khía canh hơn. Đó không chỉ là những con người đời thường
với biết bao những đua chen, toan tính, giành giật, ích kỉ, nhỏ nhen, thực dụng
mà những con người đó còn có cả những xúc cảm rất tinh tế, rất nhân văn, rất
người. Nói một cách khác đó là sự song song tồn tại cả “thiên thần và ác quỷ,
rồng phượng và rắn rết” trong cá nhân một con người, một nhân vật. Điều này
không mới trong văn học nhưng với cách khai thác và thể hiện độc đáo đã làm
nên một dư vị rất riêng cho tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương.
3.3.2. Giọng điệu trần thuật
3.3.2.1. Giọng điệu giễu nhại, hài hước
Giọng giễu nhại là một cấp độ của kỹ thuật nhại, và nếu như ngôn ngữ nhại
thể hiện ngay trên bề mặt ngôn từ thì giọng nhại lại thể hiện ở thái độ, ẩn bên dưới
lớp vỏ ngôn từ. Trong tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương thì giễu nhại không phải là
một thứ chủ âm, nhưng lại không thể không nhắc đến vì đây chính là một trong
những “tông giọng” tạo ra sự đa dạng, phức điệu trong tác phẩm của anh.
Thoạt kì thuỷ có một chương viết về tiểu sử của nhân vật. Viết tiểu sử nhưng
thực chất lại là phi tiểu sử. Tiểu sử của Hưng được ghi chép lại như sau: “Con trai
duy nhất của ông bà Xuân. Thương binh chống Mỹ, nhưng không có thẻ, nhiều
người nghi là thương binh giả. Sống độc thân. Ðôi khi sốt đột ngột” [39,tr.1].
Không chỉ ở tiểu sử của nhân vật Hưng mà tiểu sử của các nhân vật khác cũng xuất
hiện rất nhiều những chi tiết bâng quơ, mơ hồ: “nghe đồn”, “không rõ”, “đôi khi”,
“hình như”… Rất nhiều những chi tiết phi tiểu sử như cô Nheo “người như củ nhân
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 88
sâm”, Tính “lông tay đỏ hồng, ngón không phân đốt” [39, tr.1]… cũng được tác giả
ghi chép trong phần này. Đồng thời, Nguyễn Bình Phương đã đánh đồng tất cả,
“khai sinh” ra một dạng tiểu sử mới: tiểu sử dành cho vật: “Cú mèo: Lông hoa mơ,
sải cánh dài 40 phân. Mỏ khoằm, sắc. Bị bắn rụng lúc 11 giờ 15. Bay lên lúc
12 giờ. Không rõ bay tới đâu” [39;1].
Người đi vắng có ghi lại một chuỗi những sự kiện lịch sử. Cách ghi lại các
sự kiện dường như giống với sử biên niên: “Sử chép: ngày 23 tháng 8 giờ Dần
ở Ghềnh đá thuộc châu Thái Nguyên có thần xuất hiện để lại dấu chân to bằng
cái thúng. Sử lại chép: vẫn ngày 23 giờ Ngọ tại khu Võ Nhai, một người đàn bà
sinh ra cục thịt vuông có một con mắt mở trừng trừng. Nhưng sử không chép rằng
ngày 23 tại Thái Nguyên một người đàn ông đã tự tử vì vợ ngoại tình với viên tri
huyện. Đồn rằng viên tri huyện này to cao, sống mũi thẳng và lông mày rậm lượn
từ từ về hai bên thái dương”[37, tr.201] . Tiểu thuyết của Nguyễn Bình Phương
viết về lịch sử nhưng với một ngôn ngữ nhại lịch sử rõ nét.
Trong Những đứa trẻ chết già, nhà văn cũng sử dụng giọng điệu giễu
nhại khi nói về những nhân vật “nhà thơ” và trí thức từ Huấn đến Công, Lưu
Lưu và Phán. Sắc thái giễu nhại trong lời chia tay của Huấn với người tình toát
lên bởi bản chất, sứ mệnh cao cả của thi ca lại trở thành lí do ngụy biện cho hành
động bạc tình của một kẻ lưu manh:
“- Em ạ, anh đã thuộc về nhân loại rồi. - Mắt Huấn nhắm lại, vẻ khổ sở. -
Thế cho nên đừng ích kỷ bắt anh phải thuộc về riêng em… Anh biết, em là cô gái
có lòng nhân vị cao cả. Lịch sử thi ca sẽ ghi công cho sự hi sinh của em. Nói
xong, Huấn nức nở bỏ đi đến nhà Thúy lùn, một cô giáo vừa ly dị chồng, để nằm
ngấm nỗi đau của sứ mệnh vĩ nhân” [38, tr.81]
Với Công, tiếng cười hài hước, giễu nhại lại bật ra bởi sự sáo rỗng, nông
cạn của tình cảm được bao bọc bởi sự hoa mĩ, khoa trương của ngôn từ ở một kẻ
“tập tọe làm đôi ba bài thơ” nhưng lại nói ngọng:
“Anh sẽ nàm nọ hoa để em ngự trong đó. Trời em nộng nẫy làm sao” [38, tr.82]
Kể lại câu chuyện sáng tạo thơ ca, giọng giễu nhại và hơn thế còn là đả
kích sự dung tục hóa, tầm thường hóa quan niệm về thơ, cách thức làm thơ, mục
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 89
đích làm thơ, cảm hứng làm thơ của những “nhà thơ” như Huấn, Công, Lưu Lưu
bởi thơ trong quan niệm, ý thức của những nhân vật này, đã trở thành một thứ
“phản thơ”:
“Nói đến văn chương mắt hai người sáng quắc, da đỏ phừng phừng như
bị sốt (…) Kết thúc cuộc tranh luận về nghệ thuật thi ca là trận ẩu đả dữ đội.
Hai người xông vào túm tóc nhau, cùng lăn lộn trên nền đất ướt át. Trong khi
đánh nhau cả hai vẫn sa sả bảo vệ quan điểm của mình. Công giáng một cú giữa
mũi Huấn: - Lày thì thơ Pháp! Huấn cũng chẳng kém, anh ta ăn miếng, trả
miếng, vung tay lên: - Đường với chả thi. Cái con mẹ mày này!” [38, tr.246-247]
Có thể thấy rằng, trong tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương, giọng điệu giễu
nhại thường ẩn dưới những câu chuyện hài hước, cười vào những thói tật của
con người. Đó là sự ngô nghê của Lưu Lưu, của Huấn và còn là thói háo danh,
ảo tưởng của Loan: “Loan bàng hoàng, đồng thời cũng phần nào cảm thấy ở nơi
xa có ai đó đang sắp sửa ghi tên mình vào từ điển văn học thật” [31, tr.81];
Trong Trí nhớ suy tàn, sự giễu nhại lại toát lên trong cái cách đặt tên cho
nhân vật, một mặt làm mờ hóa sự xuất hiện của con người, mặt khác lại gọi ra
một đặc điểm nào đó của nhân vật một cách hài hước: “Chủ hiệu cầm đồ”,
“Thằng trí thức”, “Hai mươi bảy vết thương”, “con bướm”.
Thông thường sự giễu nhại thường thể hiện bằng việc tạo ra tiếng cười từ
những nghịch lí, những câu chuyện kệch cỡm và có thể tạo ra nhiều sắc thái, từ
hài hước, đến chua chát, ngậm ngùi. Không như kiểu giễu nhại chua xót nghẹn
ngào như tiểu thuyết của Thuận hay Nguyễn Việt Hà, cũng không phải kiểu trào
tiếu dân gian như ở tác phẩm Hồ Anh Thái, ở tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương
giọng điệu giễu nhại thiên về sắc thái khôi hài và mang tính chế giễu, châm biếm
nhiều hơn. Đặc điểm này cũng góp thêm một thứ dư vị vào tiểu thuyết của anh,
cũng là một cách hòa giọng vào tiếng nói “giải thiêng quá khứ” ở tác phẩm của
các nhà văn đương thời.
3.3.2.2. Giọng điệu trung tính khách quan
Nguyễn Bình Phương và các tác giả đương đại đã tạo ra một khoảng cách
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 90
với thế giới hư cấu họ sáng tạo nên bằng chính giọng điệu khách quan, tính chất
trung tính trong ngòi bút - đó là giọng điệu “chỉ cung cấp sự thật mà không kèm
theo giọng điệu, không có ngữ điệu, hoặc mang ngữ điệu ước lệ. Lời văn biên
bản, thông báo khô khán dường như là lời vô giọng điệu, là chất liệu sống để tạo
thành tiếng nói” [3, tr.166].
Mạch Chuyện trong Những đứa trẻ chết già đối lập với mạch Vô thanh
chính ở ngay trong giọng điệu. Nếu như Vô thanh được kể bằng giọng đầy chiêm
nghiệm suy tư để diễn tả nội tâm nhân vật thì ở Chuyện, tự sự tập trung tái hiện
sự kiện và hành động, bản chất của con người, những tham sân si bộc lộ trong
cuộc tranh giành kho báu cũng như trước những hỉ nộ ái ố của đời sống được thể
hiện một cách trần trụi với một giọng điệu khách quan ở cái cách người kể chỉ
đơn thuần thực hiện thao tác tường thuật lại những gì đang diễn ra mà không thể
hiện bất cứ một thái độ hay cách đánh giá chủ quan nào đó:
“Lão gầm gừ, mặt đỏ găng, bọt sùi trắng hai bên mép như người trúng
dại... Lão chỉ thẳng vào mặt con trai, hét lạc cả giọng: - Thằng động đực, đồ
chết đâm, chết dầm, ông sẽ cho mày biết tay. Ông sẽ lấy cho mày con vợ nửa
điên nửa dại, xem mày có bỏ được thói đòi của nữa hay không. Lão vớ bừa chiếc
đôn sứ cạnh lan can cửa, đập đánh choang xuống sân (…) Trước khi chết, mụ vợ
Trường hấp cho gọi con trai vào, thều thào điều gì đó rồi nghẹo đầu, mắt trợn
ngược, thân hình còm cõi co rúm lại” [38, tr.12-13];
“Quý cụt nhảy xổ vào. Hải chỉ chờ có thế, thốc chân trái lên bụng Quý.
Quý văng ra một đoạn. Trong cơn điên cuồng không biết trời đất là gì, Quý quờ
tay vớ được cái xiên chuột, hùng hổ giơ lên, đâm mạnh xuống lưng Hải lẹ làng
buông Lanh, lăn sang một bên. Một tiếng rú kinh hoàng nổi lên. Hải không nhìn
Lanh, mắt hắn rực lửa, nói giễu cợt: - Xong nợ rồi nhé. Thằng cụt” [38, tr.160].
Giọng điệu trung tính cũng là giọng chủ đạo trong tiểu thuyết Ngồi ở mạch
truyện tái hiện lại đời sống thường nhật của Khẩn và những con người quanh anh.
Tái hiện lại cuộc sống ở chốn công sở và sinh hoạt với những mối quan hệ phức tạp
giữa đồng nghiệp, bạn bè, gia đình, Nguyễn Bình Phương chọn lối kể “tường
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 91
thuật”, mọi sự việc, sự kiện, kể cả cái cách sử dụng diễn ngôn trần thuật đặc biệt ở
tiểu thuyết này đều góp phần tạo ra cái chất giọng “đều đều”, thiếu cảm xúc, thiếu
cái nhìn bình luận, đánh giá mang tính chủ quan:
“Sáng. Hùng và Nghĩa chăm chú nghe Nhung kể chuyện vụ giết người xảy
ra tối qua ngay phố mình. Hai thằng choai choai mười bảy, mười tám dùng dao
nhọn đâm đứt cuống tim một người đàn ông trung niên ngay trước cửa nhà ông
ta. Lý do rất đơn giản: người đàn ông ấy hắt nước bẩn ra đường, vô tình lại hắt
vào chân bọn chúng” [36, tr.144];
Trong các tiểu thuyết của Nguyễn Bình Phương thì Thoạt kỳ thủy là tác
phẩm duy nhất thuần nhất, đơn nhất một giọng điệu chính là giọng khách quan,
trung tính, sắc lạnh. Hiện thực trong Thoạt kỳ thủy tràn ngập bạo lực, tội ác, dục
vọng, những bản năng đen tối của con người và Nguyễn Bình Phương đã chọn
lối kể “camera”, “máy quay” để tái hiện lại những hiện tượng gai góc và dữ dội
của đời sống.
“Tính hết việc khoanh tay nhìn. Ông Điện vốc nước vỗ vỗ vào cổ con lợn.
Vỗ đến ba lần, ông Điện quơ con dao, hô Tính cầm chậu hứng, rồi xọc vụt dao
vào cổ lợn. Tính nghe tiếng dao đi sừn sựt. Ông Điện vặn nghiêng dao, tiết phun
ra đỏ rực. Tính ngửa cổ ra sau tránh tiết lợn bắn vào thấy mặt ông Điện thản
nhiên như không. Tay giữ dao, tay thò xuống, ông Điện khoắng liên tục, tiết vỗ
vào chậu óc ách.” [39, tr.23]
“Ông Phước đang tắm cho lợn thì nghe tiếng thét, ngoảnh nhìn, thấy tính
cầm kéo đâm liên tục vào cổ một thằng bé điên. Cả nhà đổ ra can nhưng không kịp.
Thằng bé điên ôm yết hầu, máu phun thành tia. Đám người điên bu quanh reo hò
ầm ĩ. Tính chống tay vào hông, ngửa mặt cười ằng ặc” [39, tr.79];
Những mảng hiện thực dữ dội được tái hiện một cách bình thản, cảm xúc
của nhân vật cũng như người kể chuyện đã bị xóa bỏ hoàn toàn, “tất cả đã bị tiết
chế một cách tối đa, bị ghìm giữ hết sức dưới lớp vỏ ngôn từ gần như vô can và
đóng băng”, có thể nói giọng điệu khách quan ở Thoạt kỳ thủy đã trở thành một
thứ giọng vô âm sắc, và lối viết của nhà văn ở tiểu thuyết này trở thành lối viết
trắng; ở đó người kể chuyện không thể hiện quan điểm, người đọc không được
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 92
dẫn đường, định hướng bằng giọng điệu, thái độ, cảm xúc mà phải tự khám phá
tiểu thuyết bằng chính hiện thực được phản ánh ở góc độ trần trụi nhất, chân
thực nhất.
3.3.2.3. Giọng điệu chiêm nghiệm, suy tư, triết lý
Trong 5 tiểu thuyết của Nguyễn Bình Phương thì giọng điệu chiêm
nghiệm, suy tư, triết lý đậm đặc nhất trong Những đứa trẻ chết già, ở đó, giọng
điệu này trở thành một đối trọng với giọng khách quan sắc lạnh tạo ra hai kiểu
hiện thực đan cài song song. Giọng điệu này tràn ngập trong mạch Vô thanh,
biến mạch chuyện cũng đồng thời trở thành mạch tâm tưởng, ở đó nhân vật tự
thấm thía về những nỗi buồn thân phận cũng như ngậm ngùi xót xa nhận ra
những nghịch lý của cuộc đời:
“Thời gian là kẻ sát nhân tàn khốc” [38, tr.47];
“Con người theo ông nghĩ chỉ cảm thấy hạnh phúc khi biết rằng mọi thứ
đều có giới hạn” [38, tr.142];
“Cái chết bao giờ cũng là điều vĩ đại cuối cùng mà con người đạt đến.
Bao nhiêu ngàn năm nay con người cứ khao khát thanh thản, khao khát tự do,
bình đẳng, khao khát cả nỗi cô đơn tĩnh mịch nữa. Những điều đó đều nằm trong
cơ thể của cái chết” [38, tr.173].
Ông trong Vô thanh là người đã từng trải qua nhiều biến cố, bi kịch của
cuộc đời. Hoàn cảnh ấy và ở cái độ tuổi đã nếm trải đủ để “thèm được trẻ lại”,
con người ta thường hay chiêm nghiệm và suy tư về sự sống, về cái chết. Và hơn
thế nữa đó là lúc con người khao khát được tìm lại chính mình, nhận thức rõ về
bản thể. Bởi thế câu hỏi đầy triết lí quanh quất trong mạch Vô thanh đó chính là
câu hỏi về hành trình tìm kiếm ý nghĩa của chính mình: “Ta đi đâu? Ta đang ra
đi hay trở về?”.
Câu hỏi hay nỗi niềm trăn trở ấy một lần nữa lại vang lên trong dòng ý thức
của Hoàn trong Người đi vắng: “Mình chẳng là gì cả, chẳng có gì cả, mình sẽ phải
lênh đênh mãi ngay cả khi không hít thở trên mặt đất này nữa…” [37, tr.64]. Không
nhiều biến cố để trải nghiệm, không đủ từng trải để thấu hiểu những triết lí, bản chất
của đời sống, nhưng chính hiện thực trống trải và thiếu vắng đã thúc đẩy Hoàn đi
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 93
tìm bản ngã, bản thể của mình trong những giấc mơ vô thức, bằng cách lần tìm,
bằng sự cật vấn chính quá khứ của mình: “Mày có phải là tao ngày xưa không?”.
Và không chỉ Hoàn, con người, sự vật, linh hồn trong thế giới Người đi vắng đều
xót xa, trăn trở về cái bản thể “thiếu vắng” của mình thể hiện qua những dòng tự sự
với giọng điệu suy tư:
“So với cái cây đời con người ta trở nên bẩn thỉu dị mọ quá (…) Con
người gục ngã quá nhanh còn cái cây thì bền bỉ ngay cả khi bước vào cái chết”
[37, tr.95].
Ở Trí nhớ suy tàn, giọng suy tư miên man dàn trải gắn với những tâm sự
mông lung, mơ hồ của cô gái sắp bước vào tuổi 26 với những kí ức buồn: “Cuộc
sống có vẻ cồng kềnh lằng nhằng, nếu có thể sẽ cắt bỏ bớt đi cho nhẹ để tiến lên
nhanh hơn, thoải mái hơn. Chẳng biết nên cắt bỏ cái gì?” [40, tr.67]
Khẩn trong Ngồi, dù luôn bị cuốn đi trong sự xô bồ, ồn ã của đời sống
thực tại hay trong sự mê hoặc, huyền bí của những giấc mơ có hình bóng Kim,
nhưng cũng có lúc nhân vật phải dừng lại để nhận diện lại cuộc sống mà mình
đang sống, để suy ngẫm về cái ý nghĩa tồn tại của con người. Giọng điệu suy tư,
chất vấn và đầy triết lí diễn tả những khoảng lặng ấy của nhân vật: “Khẩn hình
dung ra những kí tự kia là người và một kí tự bị xóa đi, biến mất thì cuộc đời này
lại dở dang thêm một chút, vô nghĩa thêm một chút. Ý nghĩ ấy thôi thúc Khẩn
đánh tên mình vào sau đó tự xóa đi (…) Khẩn linh cảm khoảng trống ấy chứa
đựng cái gì đó cao lớn sừng sững và lạnh lẽo (…) Xóa một cái tên thật đơn
giản.” [36, tr.114-115].
Trong Mình và họ, các nhân vật cũng luôn chiêm nghiệm, suy tư về
những điều diễn ra trong hiện thực cuộc sống. Khi nói chuyện về phỉ, Hiếu đã
nghĩ: “Mình nghĩ nếu xét thuần về mặt hành động thì phỉ là loại chạm tới cái cốt
lõi nhất, tiêu biểu nhất của con người. Vì phỉ hay dùng hình thức chặt, hình thức
mang lại khoái cảm và uy quyền. Phỉ chặt đầu, chặt tay, chặt chân, chặt ngang
người. Các loài khác không biết chặt, chỉ biết cắn xé” [35, tr.100] . Khi đọc bài
báo trên báo Công an đưa tin về việc một đứa trẻ sơ sinh bị vứt vào xe rác ven hồ
Giảng Võ, Hiếu nghĩ: “không hiểu sao người ta lại vứt trẻ vừa lọt lòng vào xe
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 94
rác, rõ ràng hai thứ đó chẳng ăn nhập gì với nhau”. Khi nói chuyện về người
đàn bà bí ẩn vùng núi đã từng ăn thịt người, Hiếu nghĩ: “Thế gian này, xét cho
cùng, từ khởi nguồn đến giờ, chưa hề mất đi một cái gì, kể cả sự mông muội”
[35, tr.121]. Cậu lễ tân vô danh nơi khách sạn miền núi cũng triết lí: “Người già
ở vùng núi sống lâu hơn người già ở các vùng xuôi vì họ luôn ý thức được rằng
sinh mạng chỉ là thứ duỗi dài ra” [35, tr.103]. Một người bạn của Hiếu khi nói
chuyện về Họ, (ở bên kia biên giới) đã kết luận: “bao đời nay họ cứ nhăm nhe
thịt mình, mà không thịt được chỉ vì mình biết cười xòa, còn họ thì không. Vì
giỏi cười xòa cho nên mình trở thành ẩn ức của họ” [35, tr.212]…Giọng suy tư,
nghiền ngẫm, triết lí được thể hiện một cách khá tự nhiên và có phần ngẫu hứng
thông qua các nhân vật trong các tác phẩm. Nó vừa cho thấy sự khám phá của
Nguyễn Bình Phương về chiều sâu và những ngóc ngách đa diện trong đời sống
nội tâm của từng nhân vật gắn với các sự kiện, sự việc, tình huống cụ thể trong
đời sống; đồng thời cũng phần nào kín đáo thể hiện những suy tư của nhà văn về
hiện thực cuộc sống và ý nghĩa tư tưởng của tác phẩm.
Chính âm hưởng của giọng điệu triết lí và chiêm nghiệm này cho thấy tiểu
thuyết Nguyễn Bình Phương cũng như các tác giả đương đại khác, dù luôn nỗ
lực khai phá những hiện thực mới, những hình thức mới nhưng vẫn không thể đi
ngoài quy luật muôn đời của tiểu thuyết, của văn chương: suy tư về số phận và
bản ngã con người.
TIỂU KẾT
Tóm lại, để khắc họa rõ nét đặc điểm tính cách, diễn biến nội tâm nhân
vật, Nguyễn Bình Phương đã linh hoạt trong việc lựa chọn hình thức tự sự, lựa
chọn ngôi kể và điểm nhìn trần thuật. Vẫn tiếp thu những đặc điểm của nghệ
thuật tự sự truyền thống, kể chuyện từ ngôi thứ nhất hoặc thứ ba, song cách chọn
điểm nhìn trần thuật đã mang đến cho những tác phẩm tiểu thuyết của Nguyễn
Bình Phương một giá trị mới, giúp nhà văn vừa thể hiện được tính chất khách
quan trong lời kể đồng thời vừa có thể khơi sâu vào từng kẽ ngách nội tâm tinh
tế nhất của các nhân vật.
Cùng với thay đổi trong điểm nhìn trần thuật là sự đổi mới ở kết cấu, ngôn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 95
ngữ và giọng điệu. Những đặc điểm kết cấu của tiểu thuyết hậu hiện đại như kết
cấu đa tầng, xoắn kép hay kết cấu phân mảnh được nhà văn vận dụng khá thành
công trong nhiều tác phẩm để tạo ra những bức tranh hiện thực phong phú nhiều
mầu sắc. Ngôn ngữ và giọng điệu trần thuật đa dạng, mang dấu ấn riêng cũng là
những yếu tố góp phần khắc học rõ nét và tạo nên sự thành công trong nghệ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 96
thuật xây dựng nhân vật của tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương.
KẾT LUẬN
1. Xuất hiện trên văn đàn tiểu thuyết Việt Nam hiện đại chưa lâu, và vẫn
được xưng danh là “nhà văn trẻ” song sức sáng tạo và “gia tài” văn chương mà
Nguyễn Bình Phương sở hữu không phải người cầm bút nào cũng có được. Với
8 cuốn tiểu thuyết và mỗi tác phẩm ra đời đều tạo được sự chú ý, quan tâm của
dư luận bởi sức cuốn hút khiến người đọc phải trăn trở để tìm cách lý giải, khám
phá. Chọn cách tiếp cận từ góc độ nhân vật, luận văn thông qua những phân tích,
đánh giá về nghệ thuật xây dựng nhân vật để khám phá thế giới tiểu thuyết
Nguyễn Bình Phương. Từ góc độ này có thể thấy tiểu thuyết Nguyễn Bình
Phương thể hiện những đổi mới trên nhiều phương diện.
2. Thế giới nhân vật trong tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương hết sức đa
dạng và phong phú với những kiểu người có nhiều nét độc đáo, khác lạ: Nhân
vật bị tha hóa, nhân vật vô thức- người điên, nhân vật kì ảo, nhân vật biểu tượng,
nhân vật là nạn nhân của chiến tranh… Với ý đồ sử dụng nhân vật như một
phương thức tự sự, Nguyễn Bình Phương đã đem lại cho văn học Việt Nam cuối
thế kỉ XX đầu thế kỉ XXI những kiểu nhân vật mới mẻ, vừa cho thấy khả năng
quan sát và sức sáng tạo của nhà văn, vừa khắc họa sâu sắc những vấn đề của xã
hội đương đại. Thế giới nhân vật ấy cũng là nơi để nhà văn cảnh tỉnh con người
và bày tỏ khát vọng của mình về một cuộc sống tốt đẹp hơn.
Để mô tả, khắc họa nhân vật, Nguyễn Bình Phương đã sử dụng nhiều thủ
pháp nghệ thuật như: đặt nhân vật trong một không gian và thời gian nghệ
thuật đặc biệt; xây dựng nhân vật qua những giấc mơ, những ám ảnh dị thường;
xây dựng nhân vật với những thủ pháp nghệ thuật đặc trưng của chủ nghĩa hiện
thực huyền ảo; xây dựng nhân vật thông qua kĩ thuật dòng ý thức… Có thể nói
Nguyễn Bình Phương đã tiếp cận rất sát với văn học hậu hiện đại của thế giới và
tìm được cho mình một hướng khơi nguồn riêng trên phương diện xây dựng
nhân vật. Thông qua đó có thể cho thấy nhà văn có cái nhìn sát thực vào đời
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 97
sống, những vấn đề mà nhà văn đặt ra cũng là những vấn đề đang nhức nhối
trong xã hội: con người đang tự đầu độc chính môi trường sống của mình, đang
tự huỷ hoại mình bằng bạo lực bằng mông muội, bằng những ham muốn vô
độ và sự vô cảm. Hậu quả dẫn đến là con người hoá điên, con người hoá vật. Từ
đó giúp chúng ta nhận thức được rằng đâu phải xã hội văn minh hơn thì con
người đều hoàn thiện, tốt đẹp. Còn bao nhiêu điều nhức nhối, bao hành vi cần
điều chỉnh, bao căn bệnh cần chữa trị và những môi trường sống cần tiếp tục
được cải thiện. Cần phải khắc phục để chống lại căn bệnh “nhiễm trùng”
xã hội. Bởi nếu không khắc phục, con người sẽ chỉ thu lại trong một tư thế
Ngồi bất lực và tuyệt vọng, xã hội sẽ rơi vào bi kịch của “Những đứa trẻ chết
già”, trở lại thời “Thoạt kỳ thuỷ” hoặc chỉ còn là những “Trí nhớ suy
tàn” và không thể phân biệt giữa Mình và họ.
Để tạo ấn tượng và sự độc đáo cho thế giới nhân vật của mình, nghệ thuật
tự sự cũng được tác giả khai thác triệt để. Với sự cách tân trong ngôi kể, trong
điểm nhìn trần thuật, trong kết cấu, trong ngôn ngữ và giọng điệu.., Nguyễn Bình
Phương thực sự đã mang đến cho nhân vật một diện mạo và đời sống nội tâm vô
cùng phong phú, phúc tạp với nhiều vỉa tầng, nhiều bất ngờ như chính cuộc sống
đương đại đang. Đồng thời cũng cho thấy một cái nhìn đa diện, phức hợp, nhiều
chiều về thế giới, ở đó hiện thực được tái hiện như một mê lộ, nhiều khúc quanh
co, nhiều sự đứt gãy và có cả những mảng hiện thực nằm ngoài khả năng thức
nhận của con người.
Mỗi tiểu thuyết của Nguyễn Bình Phương mang một chủ đề, một màu sắc
riêng nhưng vẫn có một tiếng nói xuyên suốt. Đó là hình ảnh những con người
trong thế giới hiện đại với nhiều đổ vỡ, âu lo, bất an vẫn đang khắc khoải trên
hành trình kiếm tìm bản thể, kiếm tìm ý nghĩa đích thực cho sự tồn tại của
mình. Bởi vậy cũng có thể nói tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương là “tiểu thuyết
về chính cái trạng thái kiếm tìm ý nghĩa của đời sống” [41].
3. Cũng không thể không công nhận rằng, đôi khi những cách tân, những
dụng công về kỹ thuật bị lạm dụng khiến cho tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 98
lắm lúc trở nên cầu kì, phức tạp, thậm chí rối rắm, thách đố sự đọc của độc giả
truyền thống. Nhưng trên hết, không thể phủ nhận được những đóng góp lớn của
Nguyễn Bình Phương không chỉ về phương diện nghệ thuật và còn cả những
cảm quan tiểu thuyết. Như chính nhà văn đã nói: “tiểu thuyết cần sự mạo hiểm”,
sáng tạo của nhà văn là một hành trình không hề dễ dàng, đó thực sự là một cuộc
phiêu lưu. Đổi mới lại càng đẩy cuộc phiêu lưu ấy đi xa hơn và cũng chông
chênh, khó khăn hơn. Với những gì Nguyễn Bình Phương thể hiện trong các tiểu
thuyết đầu tay và với những nỗ lực sáng tạo chưa có điểm dừng, những người
đọc đồng cảm đã nhìn thấy được ở tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương và một số
nhà văn đương đại khác một con đường, một lối đi, có điều nhà văn sẽ đi xa
được đến đâu và liệu có tới đích, đó vẫn là điều mà chúng ta chờ đợi, cũng như
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 99
chờ đợi một tương lai phía trước cho nền tiểu thuyết đương đại Việt Nam.
THƯ MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.Tạ Duy Anh (2002), Đi tìm nhân vật, Nxb Văn hóa dân tộc.
2.Tạ Duy Anh (2004), Hai tiểu thuyết: Lão Khổ, Thiên thần sám hối, Nxb Hội
nhà văn, Hà Nội.
3. Thái Phan Vàng Anh (2009), Người kể chuyện trong tiểu thuyết Việt Nam
đương đại, Luận án Tiến sĩ, Viện Văn học
4. Lại Nguyên Ân (1999), 150 thuật ngữ văn học, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội
5. Lại Nguyên Ân, Đoàn Tử Huyến (2003), Văn học hậu hiện đại thế giới, những
vấn đề lý thuyết, Trung tâm văn hóa ngôn ngữ Đông Tây, NXB Hội nhà văn
6. Nguyễn Thị Bình (2007), Tiểu thuyết Việt Nam sau 1975 - một cái nhìn khái
quát, Tạp chí Nghiên cứu văn học số 2
7. Nguyễn Thị Ngọc Diệp (2007), Yếu tố kì ảo trong tiểu thuyết Nguyễn Bình
Phương, Khóa luận tốt nghiệp, Đại học Khoa học xã hội & Nhân văn - Đại
học Quốc gia Hà Nội
8. Đoàn Ánh Dương (2008), Nguyễn Bình Phương, lục đầu giang tiểu thuyết,
Tạp chí Nghiên cứu Văn học, số 4
9.Nguyễn Văn Dân (2006), Phương pháp luận nghiên cứu văn học, Nxb Khoa
học xã hội, Hà Nội.
10.Nguyễn Văn Dân (1997), “Dấu ấn phương Tây trong văn học Việt Nam hiện
đại”, Tạp chí Văn học số 2, tr.77 – 84
11. Đặng Anh Đào (2001), Đổi mới nghệ thuật tiểu thuyết phương Tây hiện đại,
NXB Đại học Quốc gia Hà Nội
12. Nguyễn Văn Đạm (1999), Từ điển tường giải và liên tưởng, Nxb Văn hóa
thông tin, Hà Nội.
13. Nguyễn Đăng Điệp (2003), Vọng từ con chữ, NXB Văn học
14. Trịnh Bá Đĩnh (2002), Chủ nghĩa cấu trúc và văn học, NXB Văn học -
Trung tâm Nghiên cứu Quốc học
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 100
15. Văn Giá, Thử nhận diện tiểu thuyết ngắn Việt Nam gần đây, www.evan.com
16. Hoàng Cẩm Giang (2007), Cấu trúc tiểu thuyết Việt Nam thế kỷ XXI, Luận
văn Thạc sĩ, Đại học Khoa học xã hội & Nhân văn - Đại học Quốc gia Hà
Nội
17. Thu Hà, Nguyễn Bình Phương và thói quen quan sát người điên,
http://vnexpress
18. Trương Thị Ngọc Hân, Một số điểm nổi bật trong sáng tác của Nguyễn Bình
Phương, http://www.tienve.org
19.Phạm Thị Hoài, Thiên sứ http://www. Lmvn.com
20. Hoàng Ngọc Hiến (1990), Văn học - Học văn, Trường Viết văn Nguyễn Du
21. Đỗ Đức Hiểu (2000), Thi pháp hiện đại, NXB Hội Nhà văn
22. Nguyễn Thái Hòa (2000), Những vấn đề thi pháp của truyện, NXB Giáo dục
23. Võ Thị Hảo, Tôi lạc quan hơn về tiểu thuyết Việt Nam, http://www
.Vietnamnet, ngày 12/10/2005
24. Võ Thị Thu Hằng, Triết lý văn chương trên trang viết Nguyễn Huy Thiệp,
http://evan.vnexpress.net/News/phe-binh/phe-binh/2007/ 09/3B9ADA3F/
25. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (2000), Từ điển thuật ngữ văn
học, Nxb ĐHQG, Hà Nội.
26. Phùng Văn Khai, (2007), Tản mạn Nguyễn Bình Phương (Chân dung văn
học), Nxb Văn học.
27. Thụy Khuê, Sóng từ trường II (Nguyễn Bình Phương), www.thuykhue.free
28. Nguyễn Văn Long (2009), Văn học Việt Nam sau 1975 và việc giảng dạy
trong nhà trường, NXB Giáo dục Việt Nam
29. Manfred Jahn, Trần thuật học - Nhập môn lý thuyết trần thuật, Nguyễn Thị
Như Trang dịch, tài liệu khoa Văn học, Đại học Khoa học xã hội & Nhân
văn - Đại học Quốc gia Hà Nội
30. M. Bakhtin (2003), Lý luận và thi pháp tiểu thuyết, NXB Hội Nhà văn
31. Hồ Bích Ngọc (2006), Nguyễn Bình Phương với việc khai thác tiềm năng thể
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 101
loại để hiện đại hoá tiểu thuyết, Luận văn Thạc sĩ, Đại học Sư phạm Hà Nội
32. Lê Lưu Oanh (1994), “Những biểu hiện của thế giới tâm linh và vô thức
trong thơ trữ tình sau 75”, Thông báo khoa học số 1, tr.85 - 90.
33. Nhiều tác giả (2012), Từ điển tác giả - tác phẩm Văn học Việt Nam (dùng
trong nhà trường), NXB Giáo dục
34. Nhiều tác giả (2010), Từ điển tác phẩm văn xuôi (tập 3), NXB Giáo dục
35. Nguyễn Bình Phương (2014), Mình và họ, NXB Trẻ
36. Nguyễn Bình Phương (2006), Ngồi, NXB Đà Nẵng
37. Nguyễn Bình Phương (2006), Người đi vắng, NXB Phụ nữ
38. Nguyễn Bình Phương (1994), Những đứa trẻ chết già, NXB Văn học
39. Nguyễn Bình Phương (2005), Thoạt kỳ thủy, NXB Văn học
40. Nguyễn Bình Phương (2000), Trí nhớ suy tàn, NXB Thanh niên
41. Nguyễn Bình Phương, Nhà văn là người trôi dạt trong thời đại,
http://www.Vietnamnet
42. Nguyễn Bình Phương, Giá như tiểu thuyết có những bước mạo hiểm,
http://vietbao.vn/Van-hoa/Nguyen-Binh-Phuong-Gia-nhu-tieu-thuyet-co-
nhung-buoc-mao-hiem/20502945/103/
43. Nguyễn Bình Phương, Ngồi vì nhân vật…muốn ngồi chứ sao,
http://www2.vietnamnet.vn/vanhoa/tintuc/2006/10/621894/
44. Lê Mỹ Ý, Nguyễn Bình Phương, người bước lên chuyến tàu số phận,
http://evan.vnexpress.net/News/chan-dung/2007/04/3B9AD77E/
45. Nguyễn Bình Phương, Văn học mênh mông như cuộc sống,
http://vietbao.vn/Van-hoa/Nguyen-Binh-Phuong-Van-hoc-menh-mong-nhu-
cuoc-song
46. Thi ca và cuộc kiếm tìm có tên Nguyễn Bình Phương
http://antgct.cand.com.vn/vi-VN/nhandam/2009/12/53359.cand.
47.Nguyễn Bình Phương (2005), Tiểu thuyết Việt Nam thời kỳ đổi mới, Nxb Hội
nhà văn.
48. L.P. Rjanskaya, Liên văn bản - sự xuất hiện của khái niệm về lịch sử và lý
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 102
thuyết của vấn đề, http://www.vienvanhoc.org.vn
49. Trần Đình Sử (chủ biên) (2003), Tự sự học, một số vấn đề lý luận và lịch sử,
NXB Đại học Sư phạm Hà Nội
50. Trần Đình Sử (1999), Giáo trình dẫn luận thi pháp học, Nxb Giáo dục.
51. Trần Đình Sử - Thi pháp thơ Tố Hữu – Nhà xuất bản Văn hoá thông
tin – Hà Nội - 2001
52. Trần Đình Sử, Lê Bá Hán, Nguyễn Khắc Phi (chủ biên) (2002), Từ điển
thuật ngữ văn học, NXB Giáo dục
53. Phạm Xuân Thạch, Quá trình cá nhân hóa hư cấu tự sự, http://www.vnn.vn
54. Phạm Xuân Thạch, Tiểu thuyết như là trạng thái kiếm tìm ý nghĩa của đời
sống, http://thachpx.googlepages.com
55. Phạm Xuân Thạch (2008), Sự hình thành hệ thống thể loại tự sự nghệ thuật
trong tiến trình hiện đại hóa văn học Việt Nam những năm đầu thế kỷ XX,
Luận án tiến sĩ, Đại học Khoa học xã hội và nhân văn - Đại học Quốc gia
Hà Nội
56. Bùi Việt Thắng (2006), Dòng tiểu thuyết ngắn trong văn học Việt Nam thời
kỳ đổi mới (1986-2006), Tạp chí Nhà văn số 10
57. Bùi Việt Thắng (2005), Tiểu thuyết đương đại, Nhà xuất bản Quân đội Nhân dân
Phùng Gia Thế, Cảm nhận tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương,
http://www.Phongdiep.net
58. Đoàn Cầm Thi, Người đàn bà nằm: từ “Thiếu nữ ngủ ngày”, đọc “Người
đi vắng” của Nguyễn Bình Phương, www.evan.com.vn
59. Đoàn Cầm Thi, Sáng tạo văn học: giữa mơ và điên, www.evan.com.vn
60. Hoàng Nguyên Vũ, Lối đi riêng của Nguyễn Bình Phương
http://vietbao.vn/Giai-tri/Mot-loi-di-rieng-cua-Nguyen-Binh-Phuong
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 103
/62170155/235/.