intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Nghiên cứu ảnh hưởng của dạng đạm đến sinh trưởng, năng suất, hàm lượng diệp lục tố và tinh dầu sả (Cymbopogon citratus) trồng trong điều kiện khô hạn

Chia sẻ: Nguyễn Thị Thanh Triều | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:0

115
lượt xem
5
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Nội dung của bài viết phân tích sự khác biệt về tác động giữa 2 dạng đạm urea và sulphat amon (SA) và ảnh hưởng của chúng đến sinh trưởng, năng suất và hàm lượng tinh dầu của cây sả trồng trong khu vực khô hạn thuộc vùng Đông Nam Bộ.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Nghiên cứu ảnh hưởng của dạng đạm đến sinh trưởng, năng suất, hàm lượng diệp lục tố và tinh dầu sả (Cymbopogon citratus) trồng trong điều kiện khô hạn

VIỆN KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM<br /> <br /> NGHIÊN CỨU ẢNH HƯỞNG CỦA DẠNG ĐẠM ĐẾN SINH TRƯỞNG,<br /> NĂNG SUẤT, HÀM LƯỢNG DIỆP LỤC TỐ VÀ TINH DẦU CÂY SẢ<br /> (Cymbopogon citratus) TRỒNG TRONG ĐIỀU KIỆN KHÔ HẠN<br /> Nguyễn Trần Khánh Duy, Bùi Minh Trí Trường Đại học Nông Lâm Tp. Hồ Chí Minh<br /> Email: buiminhtri@gmail.com<br /> TÓM TẮT<br /> Nghiên cứu này được tiến hành nhằm xác định sự khác biệt về tác động giữa hai dạng đạm<br /> urea và sulphat amon (SA) và ảnh hưởng của chúng đến sinh trưởng, năng suất và hàm lượng tinh<br /> dầu của cây sả trồng trong khu vực khô hạn thuộc vùng Đông nam bộ. Giống sả thí nghiệm là giống<br /> nằm trong bộ sưu tập của trường Đại học Nông lâm Tp.HCM. Kết quả nghiên cứu cho thấy việc bón<br /> urea ở liều lượng 90 kg N/ha cho năng suất cao nhất tương đương với 181% so với nghiệm thức đối<br /> chứng và bằng 114% so với việc bón SA. Ở liều lượng 90 kg N/ha, cây sả đạt được chiều cao cây<br /> cao nhất là 108,3 cm, Chỉ số diệp lục tố đạt được là 24,45, tốc độ tăng trưởng số nhánh đạt 2,05<br /> nhánh/cây/21 ngày. Bón SA tuy không cho năng suất cao, tuy nhiên lại cho hàm lượng tinh dầu cao<br /> hơn so với việc bón urea. Ở liều lượng 150 kg N/ha dạng SA cho hàm lượng tinh dầu là 0,29%, cao<br /> hơn 32% so với nghiệm thức đối chứng.<br /> Từ khóa: Cymbopogon citratus, tinh dầu, urea, sulfate amon.<br /> <br /> I. ĐẶT VẤN ĐỀ<br /> Cây sả (Cymbopogon citratus) là cây có<br /> tinh dầu được sử dụng rộng rãi trong công nghệ<br /> thực phẩm cũng như y học cổ truyền. Ngoài<br /> công dụng làm thực phẩm, chữa bệnh, tinh dầu<br /> sả được sử dụng để làm đẹp như dưỡng da, hỗ<br /> trợ giảm cân, làm mượt tóc. Đặc biệt, tinh dầu<br /> sả chứa rất nhiều citral, một hoạt chất chống<br /> oxy hóa mạnh mẽ có thể giúp cơ thể ngăn ngừa<br /> bệnh ung thư (Nguyễn Khang và Phạm Văn<br /> Hiển, 2001). Sả cũng là loài cây dễ trồng, chịu<br /> được hạn, không kén đất, thích nghi rộng với<br /> mọi vùng khí hậu. Trồng sả vừa tận dụng được<br /> quỹ đất thoái hóa, các vùng đất bỏ hoang, đồng<br /> thời tận dụng được nguồn lao động nông nhàn.<br /> Tuy nhiên, cây sả hiện nay vẫn chưa được quan<br /> tâm ở các khía cạnh canh tác một cách thỏa<br /> đáng. Người trồng sả chưa chú trọng chăm sóc,<br /> sử dụng phân bón phù hợp để cây sả cho năng<br /> suất tinh dầu cao. Phân đạm hiện đang được sử<br /> dụng rộng rãi trong nông nghiệp, tuy nhiên với<br /> cây sả, quá trình sinh tổng hợp tinh dầu lại rất<br /> cần lưu huỳnh do đó các dạng đạm chứa lưu<br /> huỳnh được cho là có vai trò quan trọng.<br /> Nghiên cứu này được tiến hành nhằm xác định<br /> ảnh hưởng của hai dạng đạm urea và sulphat<br /> đến sinh trưởng, năng suất và hàm lượng tinh<br /> dầu, thành phần diệp lục tố của cây sả trồng<br /> trong vùng có điều kiện khô hạn tại khu vực<br /> Đông Nam bộ.<br /> <br /> 1120<br /> <br /> II. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP<br /> NGHIÊN CỨU<br /> Thí nghiệm được tiến hành tại trại thực<br /> nghiệm của Trường Đại học Nông Lâm Thành<br /> phố Hồ Chí Minh, từ tháng 12/2014 đếm tháng<br /> 4/2015. Đất thí nghiệm là đất xám trên phù sa<br /> cổ, khả năng giữ nước kém. Giống sả thí<br /> nghiệm là giống trong bộ sưu tập của trường<br /> Đại học Nông lâm Tp.HCM. Thí nghiệm được<br /> bố trí theo kiểu khối đầy đủ ngẫu nhiên 2 yếu<br /> tố bao gồm 10 nghiệm thức với 3 lần lặp lại,<br /> mỗi ô cơ sở rộng 10m2. Tổng diện tích toàn<br /> khu thí nghiệm là 600m2, trong đó diện tích các<br /> ô thí nghiệm là 300m2và diện tích hàng cách ly,<br /> hàng bảo vệ là 300m2. Khoảng cách giữa các ô<br /> trong cùng lần nhắc lại là 0,5 m. Khoảng cách<br /> giữa các khối là 1 m; Xung quanh khu thí<br /> nghiệm có hàng bảo vệ. Mức phân đạm sử<br /> dụng (kgN/ha) bao gồm: 0N (Đối chứng); 60N,<br /> 90N, 120N, 150N và 180N. Phân đạm sử dụng<br /> gồm urea (60%N) hoặc SA (21%N) và chia<br /> làm 3 lần bón.<br /> Các chỉ tiêu theo dõi được thực hiện tại 5<br /> điểm ngẫu nhiên trên ô cơ sở, mỗi điểm đo một<br /> bụi và được đánh dấu để đo các lần tiếp theo.<br /> Các chỉ tiêu theo dõi được đo đạc hàng tuần.<br /> Chỉ số diệp lục tố (Chlorophyll Content Index)<br /> được xác định trực tiếp bằng thiết bị CCM-200<br /> (OptiSiences-USA). Riêng hàm lượng tinh dầu<br /> (% FW) được phân tích khi thu hoạch. Kỹ<br /> <br /> Hội thảo Quốc gia về Khoa học Cây trồng lần thứ hai<br /> <br /> thuật tách chiết và chưng cất được tiến hành<br /> với kỹ thuật Soxhlet. Từ kết quả thu thập được<br /> tiến hành tổng hợp và xử lý số liệu dựa trên<br /> phần mềm Excel và MSTATC để đánh giá mức<br /> độ biến lượng (ANOVA) và trắc nghiệm phân<br /> hạng.<br /> III. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN<br /> 3.1. Ảnh hưởng của dạng và liều lượng phân<br /> đạm đến chỉ số diệp lục tố của cây sả<br /> Kết quả từ bảng 1 cho thấy dạng phân<br /> đạm có ảnh hưởng có ý nghĩa đến chỉ số diệp<br /> lục tố tại thời điểm 126 ngày sau trồng, ở các<br /> thời điểm còn lại, sự khác biệt không có ý<br /> nghĩa thống kê và chỉ số diệp lục tố cao nhất ở<br /> <br /> nghiệm thức bón SA (25,15 CCI), cao hơn ở<br /> nghiệm thức bón urea 1,13 lần. Tuy nhiên, liều<br /> lượng phân đạm ở cả hai dạng lại không ảnh<br /> hưởng có ý nghĩa đến chỉ số diệp lục tố.<br /> Nhìn chung, chỉ số diệp lục tố của các<br /> nghiệm thức thí nghiệm có xu hướng tăng lên<br /> sau những lần bón thúc phân đạm. Giai đoạn<br /> đầu (42 ngày sau trồng), chỉ số diệp lục tố tăng<br /> cao hơn ở các nghiệm thức bón urea, song tại<br /> các thời điểm 84 và 126 ngày sau trồng , chỉ số<br /> diệp lục tố ở các nghiệm thức bón phân SA lại<br /> cao hơn so với bón urea. Nguyên nhân của dự<br /> khác biệt này cần tiếp tục theo dõi và đánh giá.<br /> <br /> Bảng 1. Ảnh hưởng của liều lượng và dạng phân đạm đến chỉ số diệp lục tố<br /> (Chlorophyll Content Index - CCI) của cây sả<br /> Giai đoạn<br /> sinh trưởng<br /> 42 NST<br /> <br /> 84 NST<br /> <br /> 126 NST<br /> <br /> Dạng phân<br /> đạm (P)<br /> Urea<br /> SA<br /> Trung bình (N)<br /> FN = 0,7886ns<br /> Urea<br /> SA<br /> Trung bình (N)<br /> FN = 0,8333ns<br /> Urea<br /> SA<br /> Trung bình (N)<br /> FN = 2,4817ns<br /> <br /> Liều lượng phân đạm (kg N/ha)<br /> 0<br /> 90<br /> 120<br /> 150<br /> 18,04<br /> 21,60<br /> 20,74<br /> 22,06<br /> 18,04<br /> 21,00<br /> 21,02<br /> 20,01<br /> 18,04<br /> 21,80 20,88<br /> 21,04<br /> FP = 0,5261ns<br /> FNP = 0,1154ns<br /> 21,05<br /> 22,60<br /> 21,08<br /> 22,73<br /> 21,05<br /> 24,00<br /> 24,02<br /> 23,01<br /> 21,05<br /> 23,30<br /> 22,55<br /> 22,87<br /> FP = 0,2233ns<br /> FNP = 0,5211ns<br /> 20,21<br /> 22,78<br /> 22,60<br /> 24,76<br /> 20,21<br /> 25,70<br /> 25,97<br /> 27,05<br /> 20,21<br /> 24,24<br /> 24,30<br /> 24,41<br /> FP = 7,6854*<br /> FNP = 0,6148<br /> <br /> Trung bình<br /> (P)<br /> 180<br /> 22,15<br /> 21,12<br /> 20,18<br /> 21,05<br /> 21,16<br /> CV = 19,6 %<br /> 25,15<br /> 22,52<br /> 23,18<br /> 23,05<br /> 24,17<br /> CV = 13,50 %<br /> 23,15<br /> 22,16B<br /> 26,81<br /> 25,15A<br /> 24,98<br /> CV = 12,73 %<br /> <br /> Ghi chú: Trên cùng một cột các giá trị trung bình theo sau cùng kí tự, sai biệt không có ý nghĩa thống<br /> kê (*: 0,01
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
7=>1