Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản<br />
<br />
Số 1/2017<br />
<br />
THOÂNG BAÙO KHOA HOÏC<br />
<br />
NGHIÊN CỨU ẢNH HƯỞNG CỦA NỒNG ĐỘ CHẤT XỬ LÝ ĐẾN CƠ TÍNH<br />
CỦA VẬT LIỆU COMPOSITE TỪ POLYESTER/BỘT THÂN CÂY DỪA<br />
STUDY ON THE EFFECT OF ALKALI TREATMENT CONCENTRATION<br />
TO POLYESTER/COCONUT TRUNK PARTICLES COMPOSITE<br />
Phạm Thanh Nhựt1<br />
Ngày nhận bài: 23/12/2015; Ngày phản biện thông qua: 15/5/2016; Ngày duyệt đăng: 10/3/2017<br />
<br />
TÓM TẮT<br />
Khả năng ứng dụng của phần thân cây dừa hiện nay rất hạn chế (chủ yếu được xẻ thành ván sử dụng<br />
trong các kết cấu không quan trọng) trong khi chúng chiếm tỉ trọng rất lớn trong toàn bộ cây dừa. Các nghiên<br />
cứu về composite từ sợi xơ dừa (lấy từ vỏ quả dừa) là khá phổ biến ở trong nước cũng như trên thế giới. Trong<br />
nghiên cứu này, vật liệu composite làm từ nhựa polyester không no và bột thân cây dừa được chế tạo, thử<br />
nghiệm và đánh giá cơ tính. Bột thân cây dừa được ngâm trong dung dịch xút (NaOH) với các mức nồng độ<br />
khác nhau. Sau đó, chúng được kết hợp với nhựa polyester không no trong khuôn ép ở cùng điều kiện lực ép<br />
và nhiệt độ môi trường để tạo ra các tấm mẫu composite. Các thử nghiệm kéo, uốn và va đập được thực hiện<br />
để xác định và đánh giá cơ tính của vật liệu trong trường hợp ngâm trong dung dịch xút (theo mức nồng độ)<br />
và không ngâm.<br />
Từ khóa: bột thân dừa, nhựa polyester, dung dịch NaOH, cơ tính<br />
ABSTRACT<br />
Applicability of the coconut trunks at present is extremely limited (mainly using coconut trunk planks<br />
in the minor structures), while they occupy a very large proportion of the entire coconut tree. Studies of coir<br />
fiber composites (derived from coconut) are quite popular in Viet Nam and the world. In this work, unsaturated<br />
polyester resin reinforced coconut trunk particles composite materials were manufactured, tested and<br />
evaluated the mechanical properties. Coconut trunk particles were soaked in alkali solution (NaOH) with<br />
different concentration levels. Then, they were combined with unsaturated polyester resin and these composite<br />
sample plates were made by the same compression molding at room temperature. The tensile, flexural and<br />
impact test were carried out to determine mechanical properties of materials (for different concentration<br />
levels) and compare with other results of untreated case.<br />
Keywords: coconut trunk particles, polyester resin, NaOH solution, mechanical properties<br />
I. ĐẶT VẤN ĐỀ<br />
Với sự phát triển mạnh mẽ của vật liệu<br />
composite gia cường bằng sợi tổng hợp như<br />
sợi carbon, thủy tinh, aramid..., nhân loại<br />
đang đối mặt với những thách thức to lớn do<br />
sự gia tăng lượng chất thải khó phân hủy vào<br />
môi trường. Do đó, trong những năm gần đây,<br />
1<br />
<br />
việc sử dụng cốt sợi tự nhiên để thay thế<br />
dần cho sợi tổng hợp đã và đang được nhiều<br />
nhà khoa học quan tâm nghiên cứu. Đã có<br />
rất nhiều sợi tự nhiên được nghiên cứu<br />
làm vật liệu gia cường cho composite như<br />
sợi đay, lá cọ, chuối, tre, lanh, gai dầu, sợi<br />
xơ dừa,…<br />
<br />
Khoa Kỹ thuật Giao thông - Trường Đại học Nha Trang<br />
<br />
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 99<br />
<br />
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản<br />
Trong số những sợi tự nhiên được sử dụng<br />
gia cường trong vật liệu composite, xơ dừa (từ<br />
quả) là vật liệu có tỷ trọng thấp và độ bền cơ lý<br />
vừa phải, lại sẵn có, rẻ tiền, có khả năng tái tạo<br />
và phân hủy sinh học. Tuy nhiên, xơ dừa cũng<br />
như các loại sợi tự nhiên khác đều có nhược<br />
điểm chung là độ bám dính với nhựa nền kém.<br />
Đồng thời, tính chất cơ học của vật liệu chưa<br />
cao nên cần phải khắc phục mới có thể cạnh<br />
tranh được với composite sợi tổng hợp. Đối<br />
với composite gia cường xơ dừa nói riêng và<br />
sợi tự nhiên nói chung, xử lý bề mặt sợi là giải<br />
pháp hiệu quả nhằm tăng cường khả năng liên<br />
kết với nền nhựa [1]. Do đó, hầu hết các công<br />
trình nghiên cứu đã công bố trong cũng như<br />
ngoài nước về composite xơ dừa và một số<br />
sợi tự nhiên khác đều chủ yếu tập trung vào<br />
việc xử lý bề mặt sợi nhằm cải thiện cơ tính<br />
của composite.<br />
Trong công trình “nghiên cứu và phát triển<br />
vật liệu composit đi từ sợi tự nhiên” của Bùi<br />
Chương [1], sợi xơ dừa là đối tượng nghiên<br />
cứu chính và dung dịch kiềm được sử dụng<br />
để xử lý sợi. S.N. Monteiro và cộng sự [3] đã<br />
khảo sát và đánh giá cơ tính của composite<br />
làm từ nhựa polyester và sợi xơ dừa (không<br />
qua xử lý) ứng với các tỉ lệ nhựa/sợi khác<br />
nhau. Trong khi các công bố khác lại quan tâm<br />
đến việc sử dụng hóa chất để xử lý sợi như<br />
Md. Mominul Haque và cộng sự sử dụng muối<br />
diazonium benzen để xử lý sợi xơ dừa/xơ chuối<br />
[4] và sợi xơ dừa/cọ [5]; nhóm nghiên cứu của<br />
F.Z. Arrakhiz [6] thì sử dụng dung dịch kiềm<br />
Alkali để ngâm sợi alfa, xơ dừa và bã mía. Các<br />
nghiên cứu về thân cây dừa hiện nay còn rất<br />
hạn chế chỉ với một vài tác giả quan tâm như<br />
Leila Fathi [7] (đặc tính và ứng dụng của gỗ<br />
dừa và cọ dầu) hay Lê Văn Tung [2] (đặc tính<br />
gỗ dừa và qui trình công nghệ sản xuất ván<br />
dán từ thân cây dừa).<br />
Có thể thấy, hầu hết các công trình nghiên<br />
cứu về composite xơ dừa đều tập trung vào<br />
xơ sợi lấy từ vỏ quả dừa, còn thân cây dừa chỉ<br />
sử dụng để làm ván trong xây dựng hoặc các<br />
công trình dân dụng không quan trọng khác.<br />
<br />
100 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG<br />
<br />
Số 1/2017<br />
Tuy nhiên, nguồn xơ sợi từ vỏ quả dừa cũng<br />
rất hạn chế trong khi phần thân cây dừa chiếm<br />
tỉ trọng rất lớn trong toàn bộ cây dừa. Về xử<br />
lý sợi để tăng cơ tính cho composite, hầu hết<br />
đều áp dụng phương pháp xử lý hóa chất. Các<br />
kết quả nghiên cứu cho thấy với sợi xơ dừa<br />
thì phương pháp xử lý bằng dung dịch kiềm<br />
(NaOH) đạt hiệu quả cao hơn. Trong nghiên<br />
cứu này, composite từ bột thân cây dừa và<br />
nhựa polyester không no được chế tạo và thử<br />
nghiệm để đánh giá cơ tính. Vật liệu composite<br />
này có thành phần cốt dạng hạt (có vai trò như<br />
chất độn) nên chỉ ứng dụng trong các kết cấu<br />
không đòi hỏi cơ tính cao. Tuy nhiên, đây là<br />
một vật liệu mới không những có giá thành rất<br />
thấp mà còn góp phần đáng kể vào việc bảo<br />
vệ môi trường.<br />
II. ĐỐI TƯỢNG, PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN<br />
CỨU VÀ BỐ TRÍ THÍ NGHIỆM<br />
1. Đối tượng nghiên cứu<br />
Vật liệu composite được nghiên cứu gồm<br />
các thành phần sau:<br />
+ Vật liệu cốt: bột lấy từ thân cây dừa trên<br />
20 năm tuổi tại tỉnh Bình Định với các thông số<br />
cơ bản cho trong Bảng 1;<br />
+ Vật liệu nền: nhựa polyester không no có<br />
các thông số cơ bản cho trong Bảng 2;<br />
+ Hóa chất dùng để xử lý bột dừa: kiềm<br />
NaOH rắn 96% và nước cất;<br />
+ Các vật liệu phụ khác như chất đóng rắn<br />
MEKP-925, chất tách khuôn Wax 8.<br />
Thiết bị sử dụng cho việc chế tạo và thử<br />
nghiệm mẫu bao gồm:<br />
+ Khuôn ép mẫu thủ công với lực ép tối đa<br />
là 4000N;<br />
+ Thiết bị kéo và uốn mẫu hiệu Instron<br />
3366 với lực kéo tối đa là 10KN;<br />
+ Thiết bị thử nghiệm va đập (mẫu Izod)<br />
hiệu Tinius Olsen với năng lượng va đập tối đa<br />
là 406.75J.<br />
Tất cả các loại thử nghiệm đều được thực<br />
hiện theo tiêu chuẩn: ASTM 638-03 Type I kéo, ASTM D790-03 - uốn và ASTM D256-04 va đập.<br />
<br />
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản<br />
Bảng 1. Các thông số cơ bản của bột dừa [8]<br />
Thông số<br />
<br />
Đường kính hạt<br />
<br />
Đơn vị<br />
<br />
Giá trị<br />
<br />
mm<br />
<br />
0.2~0.7<br />
<br />
Tỉ trọng (dưới lớp vỏ và lõi) kg/m3<br />
<br />
380~400<br />
<br />
Hàm lượng Holocellulose<br />
<br />
%<br />
<br />
66.7<br />
<br />
Hàm lượng Lignin<br />
<br />
%<br />
<br />
25.1<br />
<br />
Hàm lượng Pentosans<br />
<br />
%<br />
<br />
22.9<br />
<br />
Bảng 2. Các thông số cơ bản<br />
của nhựa polyester không no [9]<br />
Thông số<br />
<br />
Đơn vị<br />
<br />
Giá trị<br />
<br />
Tỉ trọng<br />
<br />
g/cm<br />
<br />
1.15<br />
<br />
Độ bền kéo<br />
<br />
MPa<br />
<br />
46.09<br />
<br />
Mô đun đàn hồi kéo<br />
<br />
MPa<br />
<br />
2158.41<br />
<br />
Hệ số Poisson<br />
<br />
-<br />
<br />
0.38<br />
<br />
Độ dãn dài tương đối<br />
<br />
%<br />
<br />
2.5<br />
<br />
3<br />
<br />
2. Phương pháp nghiên cứu<br />
Bài báo này chủ yếu sử dụng phương<br />
pháp thực nghiệm. Sau khi phân tích và đánh<br />
giá các công trình nghiên cứu liên quan đến<br />
composite xơ dừa nói riêng và sợi tự nhiên nói<br />
chung, tiến hành lựa chọn các thành phần vật<br />
liệu và phương pháp xử lý bột dừa. Mục đích<br />
của quá trình xử lý bằng dung dịch kiềm là hòa<br />
tan lignin trong thành phần bột dừa, làm giảm<br />
khả năng hút nước của bột, tăng độ bám dính<br />
với nhựa nền và do đó làm tăng cơ tính của<br />
composite. Do bột dừa có hàm lượng lignin<br />
thấp hơn một số loại sợi tự nhiên khác (25.1%)<br />
nên ở đây sử dụng dung dịch NaOH theo các<br />
mức nồng độ khác nhau từ 2% đến 10% để<br />
ngâm nhằm tìm ra mức tốt nhất. Trong đó, 5%<br />
là mức được tham khảo từ các nghiên cứu về<br />
composite sợi xơ dừa (xơ sợi từ vỏ quả dừa có<br />
hàm lượng lignin khoảng 45.84% [5]) nhưng<br />
xơ sợi đã qua một số xử lý sơ bộ nên thực<br />
chất hàm lượng NaOH để xử lý xơ sợi thô có<br />
thể còn cao hơn.<br />
Mẫu vật liệu composite polyester/bột dừa<br />
được chế tạo trong khuôn ép cho ba loại thử<br />
nghiệm: kéo, uốn và va đập. Các kết quả thử<br />
nghiệm sau khi xử lý được so sánh và đánh<br />
giá cơ tính trong trường hợp có xử lý hóa chất<br />
<br />
Số 1/2017<br />
(theo mức nồng độ) và không xử lý hóa chất<br />
(từ những kết quả nghiên cứu khác).<br />
3. Tổ chức thực nghiệm<br />
Bột dừa sau khi lấy từ xưởng được xử lý<br />
loại bỏ tạp chất và phơi khô. Tiếp đó, chúng<br />
được ngâm ngập hoàn toàn trong dung dịch<br />
NaOH pha loãng với 5 mức nồng độ: 2%, 4%,<br />
6%, 8% và 10%. Theo các nghiên cứu về xử<br />
lý sợi xơ dừa bằng NaOH thì thời gian ngâm<br />
được thực hiện trong 2 ngày. Do đó, 2 ngày<br />
cũng là khoảng thời gian được chọn để ngâm<br />
bột dừa. Trong quá trình ngâm, thành phần<br />
lignin bị hòa tan trong dung dịch nên bột dừa<br />
sau đó được rửa sạch bằng nước cất và được<br />
sấy khô ở 40oC trong 2 giờ. Lúc này, bột dừa ở<br />
dạng sẵn sàng cho việc chế tạo mẫu thử.<br />
5 mẫu dạng tấm (tương ứng với 5 mức hàm<br />
lượng NaOH) được chế tạo theo phương pháp<br />
bán thủ công trong khuôn ép. Các loại mẫu<br />
được chế tạo phục vụ cho 3 loại thử nghiệm:<br />
thử nghiệm kéo và uốn dùng mẫu tấm có kích<br />
thước 170x220x3.5mm, va đập (Izod) dùng<br />
mẫu tấm có kích thước 70x100x10mm. Mỗi<br />
tấm mẫu kéo được cắt thành 5 mẫu như nhau<br />
theo quy cách 165x19x3.5mm và được tạo hình<br />
theo ASTM 638-03 Type I, 5 mẫu uốn có quy<br />
cách 127x12.7x3.5mm, 5 mẫu va đập có quy cách<br />
63.5x12.7x10mm và tạo rãnh theo ASTM D256-04.<br />
Như vậy, tổng số mẫu thử nghiệm là:<br />
3 mẫu/loại thử nghiệm x 5 loại thử nghiệm<br />
x 5 mức nồng độ NaOH = 75 mẫu<br />
Quá trình chế tạo mẫu được thực hiện theo<br />
các bước sau:<br />
+ Chuẩn bị khuôn: khuôn ép bằng thép<br />
gồm 2 nửa, nửa dưới dạng khay có kích thước<br />
như tấm mẫu và liên kết cứng với bệ đỡ, nửa<br />
khuôn trên dạng tấm phẳng và được di chuyển<br />
lên xuống thông qua việc điều chỉnh lực nén<br />
của lò xo.<br />
+ Chuẩn bị nguyên vật liệu: vật liệu để chế<br />
tạo mỗi tấm mẫu gồm các thành phần chính<br />
và phụ. Thành phần chính gồm 150g nhựa<br />
polyester không no và 30g bột dừa đã qua xử lý<br />
(Hình 1a). Thành phần phụ gồm chất tách khuôn,<br />
chất đóng rắn và các dụng cụ chứa, trộn,...<br />
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 101<br />
<br />
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản<br />
+ Chế tạo tấm mẫu: Nhựa polyester sau<br />
khi pha với 1% MEKP (tương ứng với thời<br />
gian đông cứng khoảng 30 phút) được trộn<br />
đều với bột dừa theo tỉ lệ khối lượng 20% bột,<br />
80% nhựa. Bôi chất chống dính cho toàn bộ<br />
bề mặt trong của khuôn và cho khoảng 70%<br />
hỗn hợp phân bố đều trong nửa khuôn dưới,<br />
ép nhẹ nửa khuôn trên với lực khoảng 200N,<br />
<br />
a. Bột dừa sau xử lý<br />
<br />
Số 1/2017<br />
tháo nửa khuôn trên và kiểm tra bề mặt mẫu<br />
và tiếp tục cho 30% hỗn hợp còn lại lên trên<br />
tấm mẫu sao cho vật liệu phân bố đều trong<br />
tấm mẫu. Tiếp tục ép nửa khuôn trên với lực<br />
ép tối đa khoảng 2000N. Quá trình đông cứng<br />
diễn ra ở nhiệt độ thường, sau 48 giờ tiến<br />
hành tháo dỡ khuôn ta được tấm mẫu như<br />
Hình 1b, 1c.<br />
<br />
b. Các tấm mẫu kéo, uốn<br />
Hình 1. Chế tạo tấm mẫu thử nghiệm<br />
<br />
Các tấm mẫu được cắt và tạo ra các mẫu<br />
thử nghiệm kéo, uốn và va đập theo tiêu chuẩn.<br />
Tốc độ lựa chọn cho thử nghiệm kéo là 1mm/<br />
phút và giá trị tương ứng của thử nghiệm uốn<br />
<br />
c. Các tấm mẫu va đập<br />
<br />
là 2mm/phút. Mỗi loại thử nghiệm được đo trên<br />
3 mẫu và kết quả cuối cùng dùng để tính toán<br />
và đánh giá cơ tính là trung bình cộng của kết<br />
quả đo 3 mẫu này.<br />
<br />
Hình 2. Mẫu thử nghiệm được cắt từ các tấm<br />
<br />
III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN<br />
1. Kết quả thử nghiệm kéo<br />
Kết quả đo lực - chuyển vị của một mẫu<br />
thử kéo được thể hiện ở hình 3. Mối quan hệ<br />
<br />
lực - chuyển vị của tất cả các mẫu thử kéo đều<br />
có dạng phi tuyến. Biến dạng dài tương đối<br />
nằm trong khoảng từ 1.1% đến 1.6%. Do thành<br />
phần cốt ở dạng hạt nên mẫu bị đứt đột ngột<br />
sau khi đạt lực kéo cực đại.<br />
<br />
Hình 3. Kết quả đo lực – chuyển vị của một mẫu thử kéo (2% NaOH)<br />
<br />
102 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG<br />
<br />
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản<br />
Từ kết quả đo ta tính được ứng suất và mô<br />
đun đàn hồi kéo (Hình 4). Hình 4 cho thấy cả<br />
ứng suất và mô đun đàn hồi kéo đều đạt giá trị<br />
cực đại tại nồng độ NaOH 4%. Hai giá trị này<br />
đều rất thấp, thậm chí xấp xỉ hoặc thấp hơn<br />
cả các giá trị tương ứng của nhựa polyester<br />
không no (ứng suất kéo đạt 17.33MPa so với<br />
46.09MPa của polyester và mô đun đàn hồi<br />
<br />
Số 1/2017<br />
kéo đạt 2183.45MPa so với 2158.41MPa của<br />
polyester). Kết quả này cho thấy bột dừa chỉ<br />
đóng vai trò chất độn vật liệu composite. Tuy<br />
tỉ lệ về khối lượng bột/nhựa chỉ là 20% nhưng<br />
về thể tích, bột dừa chiếm đến trên 70% trong<br />
composite. Các giá trị ứng suất và mô đun đàn<br />
hồi ở các nồng độ NaOH khác thấp hơn không<br />
đáng kể, nhất là ở dải sau 4% NaOH.<br />
<br />
a. Sự thay đổi ứng suất kéo<br />
b. Sự thay đổi mô đun đàn hồi kéo<br />
Hình 4. Sự thay đổi ứng suất và mô đun đàn hồi kéo theo nồng độ NaOH<br />
<br />
2. Kết quả thử nghiệm uốn<br />
Kết quả đo lực - chuyển vị của một mẫu<br />
thử uốn được thể hiện ở Hình 5. Mối quan hệ<br />
<br />
lực - chuyển vị của các mẫu thử uốn cũng có<br />
dạng phi tuyến. Biến dạng tương đối nằm trong<br />
khoảng từ 6.5% đến 12%.<br />
<br />
Hình 5. Kết quả đo lực – chuyển vị của một mẫu thử uốn (2% NaOH)<br />
<br />
Ứng suất và mô đun đàn hồi uốn tính toán từ<br />
kết quả thử nghiệm được thể hiện trên Hình 6.<br />
Kết quả cho thấy ứng suất uốn lớn nhất khi<br />
bột dừa được xử lý trong dung dịch NaOH 6%<br />
(41.2MPa). Tuy nhiên, hai giá trị lân cận tại 4%<br />
và 8% chênh lệch với giá trị cực đại không đáng<br />
kể (chỉ xấp xỉ 2.5%). Do đó, dãy nồng độ NaOH<br />
từ 4% đến 8% đều có thể sử dụng để ngâm bột<br />
<br />
dừa. Trong khi đó, mô đun đàn hồi uốn đạt giá<br />
trị lớn nhất gần như nhau khi nồng độ NaOH<br />
thay đổi từ 2% đến 4% (3127.04MPa). Nồng<br />
độ kiềm càng cao thì mô đun đàn hồi uốn càng<br />
giảm do một số vi sợi cellulose bị phân giải bởi<br />
lượng NaOH. Như vậy, nếu xét cả hai thông<br />
số ứng suất và mô đun đàn hồi thì hàm lượng<br />
kiềm tốt nhất là khoảng 4%.<br />
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 103<br />
<br />