HỌC VIỆN NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM

HOÀNG VĂN SƠN

NGHIÊN CỨU MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM BỆNH LÝ

CỦA DỊCH TIÊU CHẢY CẤP TRÊN LỢN

(PORCINE EPIDEMIC DIARRHEA - PED)

TẠI TỈNH THANH HÓA VÀ GIẢI PHÁP PHÒNG TRỊ

LUẬN ÁN TIẾN SĨ

NHÀ XUẤT BẢN HỌC VIỆN NÔNG NGHIỆP - 2021

HỌC VIỆN NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM

HOÀNG VĂN SƠN

NGHIÊN CỨU MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM BỆNH LÝ

CỦADỊCH TIÊU CHẢY CẤP TRÊN LỢN

(PORCINE EPIDEMIC DIARRHEA - PED)

TẠI TỈNH THANH HÓA VÀ GIẢI PHÁP PHÒNG TRỊ

: Bệnh lý học và chữa bệnh vật nuôi

Ngành

: 9 64 01 02

Mã số

Người hướng dẫn khoa học : 1. PGS.TS. Phạm Ngọc Thạch

2. GS.TS. Nguyễn Thị Lan

HÀ NỘI - 2021

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các kết quả nghiên

cứu được trình bày trong luận án là trung thực, khách quan và chưa từng dùng để bảo vệ

lấy bất kỳ học vị nào.

Tôi xin cam đoan rằng mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện luận án đã được cảm ơn,

các thông tin trích dẫn trong luận án này đều được chỉ rõ nguồn gốc.

Hà Nội, ngày tháng năm 2021

Tác giả luận án

Hoàng Văn Sơn

i

LỜI CẢM ƠN

Để hoàn thành luận án này, ngoài sự cố gắng của bản thân, tôi luôn nhận được sự

quan tâm giúp đỡ của các tổ chức, cơ quan, các nhà khoa học, thầy hướng dẫn, chỉ bảo tận tình của các thầy cô giáo, sự giúp đỡ, động viên của bạn bè, đồng nghiệp và những

người thân trong gia đình.

Trước hết, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc sự hướng dẫn, giúp đỡ chân tình đầy

trách nhiệm và hết lòng vì khoa học của PGS.TS. Phạm Ngọc Thạch và GS.TS. Nguyễn Thị Lan.

Nhân dịp này, tôi xin cảm ơn sự giúp đỡ của Ban Giám đốc, Ban Quản lý đào tạo,

Phòng thí nghiệm trọng điểm Công nghệ sinh học Thú y và Bộ môn Nội - Chẩn - Dược - Độc chất, Khoa Thú y, Học viện Nông nghiệp Việt Nam đã tận tình giúp đỡ tôi trong

suốt thời gian học tập và hoàn thành luận án tại Học viện.

Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành nhất tới Quí thầy cô, các cơ quan, các nhà khoa học, bạn bè đồng nghiệp công tác tại khoa Nông Lâm Ngư nghiệp, Trường Đại học Hồng Đức đã tạo điều kiện giúp đỡ tôi trong suốt thời gian qua.

Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành nhất tới tập thể Lãnh đạo và nhân viên các

Công ty RTD, Công ty CP Nông sản thực phẩm Việt Hưng, Công ty CP đầu tư phát triển chăn nuôi Hoằng Hóa, Công ty CP chăn nuôi và chuyển giao công nghệ Yên Định

và các trang trại lợn trong tỉnh Thanh Hoá.

Xin chân thành cảm ơn người thân trong gia đình, luôn quan tâm đã tạo mọi điều kiện thuận lợi và giúp đỡ tôi về mọi mặt, động viên khuyến khích tôi hoàn thành

luận án.

Hà Nội, ngày ... tháng ... năm 2021

Nghiên cứu sinh

Hoàng Văn Sơn

ii

MỤC LỤC

Lời cam đoan .................................................................................................................... i

Lời cảm ơn ....................................................................................................................... ii

Mục lục ........................................................................................................................... iii

Danh mục chữ viết tắt .................................................................................................... vii

Danh mục bảng ............................................................................................................. viii

Danh mục hình ................................................................................................................ ix

Danh mục ảnh ................................................................................................................... x

Trích yếu luận án ............................................................................................................ xi

Thesis abstract ............................................................................................................... xiii

Phần 1. Mở đầu ............................................................................................................... 1

1.1. Tính cấp thiết của đề tài ........................................................................................ 1

1.2. Mục tiêu nghiên cứu ............................................................................................. 2

1.2.1. Mục tiêu chung ..................................................................................................... 2

1.2.2. Mục tiêu cụ thể ..................................................................................................... 2

1.3. Đối tượng và địa điểm nghiên cứu ........................................................................ 2

1.3.1. Đối tượng nghiên cứu ........................................................................................... 2

1.3.2. Phạm vi nghiên cứu .............................................................................................. 2

1.4. Những đóng góp mới của đề tài ............................................................................ 3

1.5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận án ........................................................... 3

1.5.1. Ý nghĩa khoa học của luận án ............................................................................... 3

1.5.2. Ý nghĩa thực tiễn của luận án ............................................................................... 3

Phần 2. Tổng quan tài liệu ............................................................................................. 4

2.1. Sơ lược về địa bàn nghiên cứu .............................................................................. 4

2.1.1. Vị trí địa lý ............................................................................................................ 4

2.1.2. Đặc điểm địa hình ................................................................................................. 4

2.1.3. Đặc điểm khí hậu .................................................................................................. 5

2.1.4. Tình hình phát triển chăn nuôi lợn ........................................................................ 5

2.2. Những nghiên cứu về hội chứng tiêu chảy ........................................................... 6

2.2.1. Khái niệm về tiêu chảy ......................................................................................... 6

2.2.2. Nguyên nhân gây Hội chứng tiêu chảy ở gia súc ................................................. 7

iii

2.2.3. Cơ chế và hậu quả của tiêu chảy ........................................................................... 9

2.2.4. Bệnh lý lâm sàng của hội chứng tiêu chảy ......................................................... 11

2.3. Tình hình nghiên cứu về dịch tiêu chảy cấp trên lợn (Porcine epidemic

diarrhea - PED) ................................................................................................... 11

2.3.1. Lịch sử bệnh ........................................................................................................ 11

2.3.2. Tình hình nghiên cứu dịch tiêu chảy cấp ở lợn (PED) trên thế giới ................... 12

2.3.3. Tình hình nghiên cứu dịch tiêu chảy cấp ở lợn (PED) tại Việt Nam .................. 13

2.4. Một số đặc điểm của virus PED .......................................................................... 16

2.4.1. Phân loại ............................................................................................................. 16

2.4.2. Hình thái cấu trúc ................................................................................................ 17

2.4.3. Đặc tính sinh học PEDV ..................................................................................... 19

2.4.4. Tính chất nuôi cấy ............................................................................................... 20

2.5. Hiểu biết về dịch tiêu chảy cấp ở lợn (PED) ...................................................... 20

2.5.1. Dịch tễ học .......................................................................................................... 20

2.5.2. Cơ chế sinh bệnh ................................................................................................. 21

2.5.3. Triệu chứng ......................................................................................................... 22

2.5.4. Bệnh tích ............................................................................................................. 23

2.5.5. Hậu quả của dịch tiêu chảy cấp ở lợn ................................................................. 25

2.5.6. Chẩn đoán ........................................................................................................... 27

2.5.7. Phòng và điều trị ................................................................................................. 30

2.5.8. Cơ sở khoa học của các thuốc dùng trong điều trị .............................................. 32

2.6. Máu và chức năng của máu ................................................................................ 33

2.6.1. Huyết tương ........................................................................................................ 34

2.6.2. Thành phần có hình trong máu ........................................................................... 34

Phần 3. Nội dung và phƣơng pháp nghiên cứu .......................................................... 37

3.1. Đối tượng nghiên cứu ......................................................................................... 37

3.2. Địa điểm nghiên cứu ........................................................................................... 37

3.3. Thời gian nghiên cứu .......................................................................................... 37

3.4. Trang thiết bị, dụng cụ và vật liệu nghiên cứu ................................................... 37

3.4.1. Trang thiết bị và dụng cụ nghiên cứu ................................................................. 37

3.4.2. Vật liệu nghiên cứu ............................................................................................. 37

3.4.3. Hóa chất .............................................................................................................. 38

iv

3.5. Nội dung nghiên cứu ........................................................................................... 38

3.5.1. Tình hình dịch tiêu chảy cấp ở lợn (PED) tại Thanh Hoá .................................. 38

3.5.2. Một số đặc điểm bệnh lý ở lợn mắc dịch tiêu chảy cấp tại Thanh Hoá .............. 39

3.5.3. Thử nghiệm biện pháp phòngtrị dịch tiêu chảy cấp ở lợn(PED) ........................ 39

3.6. Phương pháp nghiên cứu .................................................................................... 39

3.6.1. Phương pháp xác định tình hình dịch tiêu chảy cấp ở lợn (PED) ....................... 39

3.6.2. Phương pháp mổ khám bệnh tích đại thể ............................................................ 42

3.6.3. Phương pháp làm tiêu bản vi thể ........................................................................ 43

3.6.4. Phương pháp xác định các chỉ tiêu huyết học ..................................................... 45

3.6.5. Phương pháp kiểm tra tính mẫn cảm của E. coli phân lập từ phân lợn mắc

bệnh tiêu chảy với một số thuốc kháng sinh ....................................................... 46

3.6.6. Phương pháp chế chế phẩm ―Gut feedback‖ ...................................................... 47

3.6.7. Quy trình sử dụng chế phẩm ―Gut feedback‖ phòng dịch tiêu chảy cấp ............ 47

3.6.8. Xác định kháng thể PED trong huyết thanh sau khi sử dụng chế phẩm ―Gut

feedback‖ ............................................................................................................ 48

3.6.9. Điều trị thử nghiệm lợn mắc dịch tiêu chảy cấp (PED) ...................................... 49

3.6.10. Phương pháp xử lý số liệu .................................................................................. 50

Phần 4. Kết quả và thảo luận ....................................................................................... 51

4.1. Tình hình dịch tiêu chảy cấp ở lợn (PED) tại Thanh Hoá .................................. 51

4.1.1. Tình hình chăn nuôi lợn tại Thanh Hoá giai đoạn từ năm 2016 đến 2019 ......... 51

4.1.2. Tình hình mắc PED trên đàn lợn tại 6 huyện của tỉnh Thanh Hoá ..................... 52

4.1.3. Tình hình dịch tiêu chảy cấp theo đối tượng lợn nuôi tại Thanh Hoá ................ 54

4.1.4. Tình hình lợn mắc dịch tiêu chảy cấp theo mùa trong năm tại Thanh Hoá ........ 56

4.1.5. Tình hình lợn mắc dịch tiêu chảy cấp theo quy mô đàn tại Thanh Hoá ............. 59

4.2. Đặc điểm bệnh lý ở lợn mắc dịch tiêu chảy cấp (PED) tại Thanh Hoá .............. 61

4.2.1. Triệu chứng lâm sàng ở lợn mắc dịch tiêu chảy cấp (PED) ............................... 61

4.2.2. Chỉ tiêu lâm sàng ở lợn mắc dịch tiêu chảy cấp (PED) ...................................... 64

4.2.3. Bệnh tích ở lợn mắc dịch tiêu chảy cấp (PED) ................................................... 66

4.2.4. Các chỉ tiêu sinh lý máu của lợn mắc dịch tiêu chảy cấp (PED) ........................ 77

4.2.5. Các chỉ tiêu sinh hoá máu của lợn mắc dịch tiêu chảy cấp (PED) ..................... 88

4.3. Thử nghiệm biện pháp phòng trị dịch tiêu chảy cấp ở lợn (PED) ...................... 95

4.3.1. Phòng dịch tiêu chảy cấp ở lợn (PED) bằng phương pháp ―Gut feedback‖ ....... 95

v

4.3.2. Điều trị thử nghiệm lợn mắc dịch tiêu chảy cấp (PED) ...................................... 99

Phần 5. Kết luận và kiến nghị .................................................................................... 107

5.1. Kết luận ............................................................................................................. 107

5.2. Kiến nghị ........................................................................................................... 108

Danh mục các công trình đã công bố liên quan đến luận án ....................................... 109

Tài liệu tham khảo ........................................................................................................ 110

Phụ lục .......................................................................................................................... 126

vi

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

Chữ viết tắt

Viết đầy đủ

Ethylenediaminetetraacetic acid

EDTA

Enzyme-linked immunosorbent assay

ELISA

Electron microscope

EM

Epidemic viral diarhea

EVD

Immunoglobulin A

IgA

Immunoglobulin G

IgG

Immunoglobulin M

IgM

Yolk Immunoglobulin

IgY

In situ hybridization

ISH

MR

Case Fatality Rate CFR

Porcine epidemic diarrhea

PED

Porcine epidemic diarrhea virus

PEDV

Axit ribonucleic

RNA

Reverse transcription polymerase chain reaction

RT-PCR

Transmissible gastroenteritis

TGE

Transmissible gastroenteritis virus

TGEV

Untranslated region

UTR

vii

Mortality Rate

DANH MỤC BẢNG

TT

Tên bảng

Trang

2.1. Các loại vacxin PED được cấp phép thương mại ............................................... 31

3.1. Hệ thống máy chuyển đúc mẫu tự động gồm 12 bình ........................................ 43

3.2. Đánh giá đường kính vòng vô khuẩn theo hãng Oxiod ...................................... 46

4.1. Tình hình chăn nuôi lợn tại Thanh Hoá giai đoạn 2016 - 2019 .......................... 51

4.2. Tình hình mắc dịch tiêu chảy cấp ở các đối tượng lợn tại Thanh Hoá ............... 55

4.3. Tình hình lợn mắc dịch tiêu chảy cấp theo quy mô đàn tại Thanh Hoá ............. 60

4.4. Thân nhiệt, tần số hô hấp và tim đập ở lợn khoẻ và lợn mắc dịch tiêu chảy

cấp (PED) trên đàn lợn thuộc tỉnh Thanh Hoá ................................................... 65

4.5. Bệnh tích đại thể của lợn mắc dịch tiêu chảy cấp (PED) nuôi tại Thanh Hoá ... 67

4.6. Kết quả nghiên cứu bệnh tích vi thể ở ruột của lợn mắc tiêu chảy cấp (PED)

trên đàn lợn ở tỉnh Thanh Hoá ............................................................................ 72

4.7. Số lượng, tỷ khối và thể tích bình quân của hồng cầu ở lợn khoẻ và lợn mắc

PED nuôi tại tỉnh Thanh Hoá .............................................................................. 79

4.8. Sức kháng hồng cầu ở lợn mắc dịch tiêu chảy cấp (PED) tại tỉnh Thanh Hoá ... 81

4.9. Hàm lượng huyết sắc tố, nồng độ huyết sắc tố trung bình, lượng huyết sắc tố

trung bình của hồng cầu ở lợn mắc dịch tiêu chảy cấp (PED) nuôi tại

Thanh Hoá ........................................................................................................... 84

4.10. Số lượng bạch cầu, công thức bạch cầu của lợn khoẻ và lợn mắc PED nuôi

tại tỉnh Thanh Hoá .............................................................................................. 87

4.11. Hàm lượng protein tổng số và các tiểu phần protein trong huyết thanh lợn

mắc dịch tiêu chảy cấp (PED) nuôi tại Thanh Hoá ............................................. 88

4.12. Phản ứng Gros và hàm lượng đường huyết ở lợn mắc dịch tiêu chảy cấp

(PED) tại tỉnh Thanh Hoá ................................................................................... 92

4.13. Độ dự trữ kiềm trong máu và hàm lượng Natri, Kali trong huyết thanh lợn

mắc dịch tiêu chảy cấp (PED) tại tỉnh Thanh Hoá ............................................. 94

4.14. Thời gian sử dụng ―gut feedback‖ trên lợn nái mang thai tuần thứ 13 (n=60) ... 96

4.15. Hàm lượng kháng thể PED trong huyết thanh lợn nái thí nghiệm ..................... 97

4.16. Kết quả kiểm tra tính mẫn cảm của các chủng E. coli phân lập từ phân lợn

mắc bệnh tiêu chảy với một số loại kháng sinh (n=27) .................................... 100

4.17. Kết quả điều trị thử nghiệm lợn mắc PED trên đàn lợn ở tỉnh Thanh Hoá ...... 101

4.18. Một số chỉ tiêu hiệu quả điều trị ....................................................................... 106

viii

DANH MỤC HÌNH

TT

Tên hình

Trang

2.1. Sơ đồ cơ chế và hậu quả của viêm ruột tiêu chảy ............................................... 10

2.2. Virus PED chủng KPEDV-9 phân lập tại Hàn Quốc nhuộm với urany acetat

2%. Chiều dài thanh nằm ngang tương đương 100nm ....................................... 16

2.3. Hạt virus PED trong mẫu phân lợn nhiễm PED tại trang trại ở Ohio Hoa Kỳ

quan sát qua kính hiển vi điện tử ........................................................................ 17

2.4. Cấu trúc phân tử virus PED ................................................................................ 18

3.1. Test kit PED Ag .................................................................................................. 38

3.2. Các bước tiến hành kiểm tra mẫu bệnh bằng Test kit PED Ag .......................... 41

3.3. Kết quả chẩn đoán bằng Test kit PED Ag .......................................................... 41

3.4. Các bước chế và sử dụng chế phẩm ―Gut feedback‖ .......................................... 47

3.5. Các bước tiến hành xác định kháng thể bằng test ELISA .................................. 48

4.1. Thực trạngcác phương thức chăn nuôi lợn ở Thanh Hoá ................................... 52

4.2. Thực trạng mắc PED trên lợn nuôi tại các huyện của tỉnh Thanh Hoá .............. 53

4.3. Trình trạng mắc PED theo mùa tại Thanh Hoá .................................................. 57

4.4. Tình trạng mắc PED theo quy mô đàn tại Thanh Hoá ........................................ 61

4.5. Triệu chứng lâm sàng của lợn mắc PED nuôi tại tỉnh Thanh Hoá ..................... 63

4.6.

Lượng kháng thể ở lợn nái sau khi sử dụng phương pháp ―Gut feedback‖ ........ 98

4.7. Kết quả điều trị thử nghiệm lợn mắc PED ở tỉnh Thanh Hoá .......................... 103

ix

DANH MỤC ẢNH

TT

Tên Ảnh

Trang

4.1. Phân màu vàng ở lợn 2 ngày tuổi mắc PED ......................................................... 63

4.2. Phân lợn màu vàng xám ở lợn 7 ngày tuổi mắc PED ........................................... 63

4.3. Lợn gầy sút do PED ở 2 ngày tuổi ....................................................................... 64

4.4. Lợn gầy sút do PED ở 17 ngày tuổi ..................................................................... 64

4.5. Lợn 2 ngày tuổi mắc PED nằm chồng lên nhau ................................................... 64

4.6. Lợn 12 ngày tuổi mắc PED nằm chồng lên nhau ................................................. 64

4.7. Xác chết lợn mắc PED ở 2 ngày tuổi ................................................................... 68

4.8. Hạch lympho màng treo ruột lợn mắc PED ở 5 ngày tuổi sung huyết,

xuất huyết ............................................................................................................. 68

4.9. Phổi lợn mắc PED ở 2 ngày tuổi tụ huyết ............................................................ 69

4.10. Tim lợn mắc PED ở 2 ngày tuổi sưng to .............................................................. 69

4.11. Thận lợn mắc PED ở 2 ngày tuổi sưng nhẹ .......................................................... 69

4.12. Ruột non lợn mắc PED ở 6 ngày tuổi căng phồng, thành mỏng .......................... 69

4.13. Ruột lợn mắc PED ở 2 ngày tuổi sung huyết ....................................................... 70

4.14. Ruột lợn mắc PED ở 2 ngày tuổi chứa dịch vàng ................................................ 70

4.15. Gan lợn mắc PED ở 5 ngày tuổi màu đất sét ....................................................... 70

4.16. Dạ dày lợn mắc PED ở 3 ngày tuổi căng phồng chứa sữa chưa tiêu hoá ............. 70

4.17. Sung huyết hạ niêm mạc ruột. (HE x 100) ........................................................... 75

4.18. Lông nhung ruột bị tù đầu, ngắn lại. (HE x 200) ................................................. 75

4.19. Sung huyết hạ niêm mạc ruột nhuộm. (HE x 200) ............................................... 76

4.20. Hoại tử tế bào biểu mô ruột. (HE x 200) .............................................................. 76

4.21. Thoái hóa tế bào trên đỉnh các lông nhung Tá tràng lợn mắc PED. (HE x 200) . 76

4.22. Các lông nhung Không tràng lợn mắc PED bị ngắn lại. (HE x 200) ................... 76

4.23. Lông nhung của Hồi tràng lợn mắc PED tù đầu, ngắn lại. (HE X200) ................ 76

4.24. Tổn thương lông nhung Kết tràng lợn mắc PED. (HE x 200) ............................. 76

4.25. Tăng sinh nang Lympho thành ruột Hồi tràng lợn mắc PED. (HE x 100) ........... 77

4.26. Tăng sinh các nang Lympho thành ruột ở không tràng lợn mắc PED.

(HE x 200) ............................................................................................................ 77

4.27. Thâm nhiễm tế bào viêm xung quanh các tuyến ruột lợn mắc PED. ................... 77

4.28. Sung huyết và thâm nhiễm tế bào viêm xung quanh tuyến ruột lợn mắc PED. ... 77

x

TRÍCH YẾU LUẬN ÁN

Tên tác giả: Hoàng Văn Sơn

Tên luận án: ―Nghiên cứu một số đặc điểm bệnh lý của dịch tiêu chảy cấp trên lợn (Porcine Epidemic Diarrhea – PED) tại tỉnh Thanh Hóa và giải pháp phòng trị‖.

Ngành: Bệnh lý học và chữa bệnh vật nuôi Mã số: 9 64 01 02

Tên cơ sở đào tạo: Học viện Nông nghiệp Việt Nam

Mục đích nghiên cứu

Nghiên cứu đưa ra những hiểu biết đầy đủ về tình hình mắc bệnh, đặc điểm bệnh lý làm cơ sở cho việc chẩn đoán và biện pháp phòng trị bệnh PED ở lợn nuôi tại Thanh Hoá nói riêng và Việt Nam nói chung có hiệu quả.

Xác định được tỷ tình hình mắc dịch tiêu chảy cấp (PED) ở lợn tại Thanh Hoá.

Xác định được các biến đổi bệnh lý ở lợn mắc dịch tiêu chảy cấp (PED) biểu

hiện lâm sàng, bệnh tích (đại thể và vi thể), chỉ tiêu huyết học của bệnh PED;

Xác định được một số biện pháp phòng trị bệnh PED đạt hiệu quả.

Phƣơng pháp nghiên cứu

Nội dung nghiên cứu: Xác định tình trạng mắc bệnh, một số đặc điểm bệnh lý và thử nghiệm biện pháp phòng trị dịch tiêu chảy cấp (PED) trên đàn lợn nuôi tại tỉnh Thanh Hoá.

Vật liệu nghiên cứu: Mẫu bệnh phẩm là phân, ruột, máu, xác chết của lợn mắc PED. Máu lợn 2 tuần tuổi và lợn nái sau khi sử dụng chế phẩm ―gut feedback‖. Thuốc Thú y, các hoá chất và vật tư máy móc phục vụ nghiên cứu như RT-PCR, ELISA, máy cắt mảnh Microtom, máy phân tích huyết học.

Phương pháp nghiên cứu:

Xác định tình trạng mắc bệnh bằng phương pháp điều tra dịch tễ học thường quy: phỏng vấn trực tiếp, phát phiếu điều tra, hồi cứu tài liệu lưu trữ, dịch tễ học mô tả kết hợp với các phương pháp chẩn đoán lâm sàng, chẩn đoán bằng Test kit PED Ag và phản ứng RT-PCR để đánh giá được tình hình mắc dịch tiêu chảy cấp (PED).

- Xác định đặc điểm bệnh lý bằng phương pháp khám lâm sàng thường quy kết hợp

với các chẩn đoán, xét nghiệm phi lâm sàng hiện đại.

- Thử nghiệm phòng bệnh bằng chế phẩm ―Gut feedback‖ theo nguyên lý của

Thai Swine Veternary Association (2015) và xác định kháng thể bằng ELISA.

- Thử nghiệm phác đồ điều trị bằng các phương pháp điều trị triệu chứng, chống

bội nhiễm và điều trị bằng kích thích phi đặc hiệu.

Kết quả chính và kết luận

1. Lợn nuôi tại Thanh Hoá có tỷ lệ mắc bệnh, chết và tử vong do PED là 14,56%, 7,77% và 53,38%. Các huyện vùng ven biển và núi có tỷ lệ lợn mắc bệnh và tử vong do PED cao nhất (Tĩnh Gia 16,12% và 56,57%; Thạch Thành 15,06% và 56,43%).

xi

Tỷ lệ mắc bệnh và tử vong cao nhất ở nhóm lợn con theo mẹ (22,01% và 72,63%) và thấp nhất ở nhóm lợn đực giống (5,81% và 0%). Lợn mắc bệnh và tử vong nhiều nhất ở mùa Đông (21,70% và 58,93%), thấp nhất ở mùa Hè (7,43% và 40,28%). Các trại lớn có tỷ lệ mắc bệnh cao nhất (15,79%) nhưng tỷ lệ tử vong lại thấp nhất (50,75%).

2) Một số đặc điểm bệnh lý ở lợn mắc dịch tiêu chảy cấp (PED) tại Thanh Hoá:

- Triệu chứng lâm sàng điển hình của lợn mắc dịch tiêu chảy cấp: Ủ rũ, mệt mỏi;

tiêu chảy phân màu vàng xám nhiều nước; lợn gầy sút nhanh (100%); nằm dồn đống

(chồng lên nhau) (82,50%); bỏ bú, bỏ ăn (42,50%); nôn (40,00%).

- Chỉ tiêu lâm sàng của lợn mắc dịch tiêu chảy cấp: thân nhiệt là 37,70  0,050C;

tần số hô hấp là: 43,23  0,15 lần/phút và tần số tim là 135,08 0,29 lần/phút.

- Bệnh tích đại thể chủ yếu là: xác chết gầy; ruột non căng phồng, thành mỏng, chất

chứa màu vàng, lợn cợn; dạ dày căng phồng chứa sữa chưa tiêu; hạch màng treo ruột sung

huyết, xuất huyết; gan thoái hoá màu đất sét, phổi tụ huyết; thận sưng nhẹ; tim to, cơ mềm với

tỷ lệ lần lượt là: 100; 100; 88; 80; 52; 48; 40; và 24%. Bệnh tích vi thể chủ yếu ở ruột là:

tế bào biểu mô ruột non thoái hóa, hoại tử, lông nhung tù đầu, ngắn lại, tăng sinh nang

lympho thành ruột, thâm nhiễm tế bào viêm ở hạ niêm mạc ruột.

- Lợn mắc PED có số lượng hồng cầu; tỷ khối huyết cầu; hàm lượng huyết sắc

tố; nồng độ huyết sắc tố trung bình; số lượng bạch cầu; hàm lượng protein tổng số; α, β,

γ globulin tăng so với lợn khoẻ mạnh. Trong khi đó các chỉ số như Albumin, sức kháng

hồng cầu, độ dự trữ kiềm trong máu, hàm lượng Kali, Natri trong huyết thanh của lợn

bệnh giảm rõ rệt so với lợn khoẻ. Tỷ lệ bạch cầu đa nhân trung tính và bạch cầu ái toan

trong công thức bạch cầu tăng cao, trong khi đó bạch cầu đơn nhân lớn, bạch cầu ái

kiềm và tế bào lympho giảm.

3) Kết quả thử nghiệm biện pháp phòngtrị dịch tiêu chảy cấp ở lợn (PED):

- 100% mẫu huyết thanh của đàn lợn nái mang thai ở tuần thứ 13 sau 14 ngày và

21 ngày sử dụng phương pháp ―gut feedback‖ có xuất hiện kháng thể PED (OD từ 0,04

– 1,11). Tuy nhiên, chỉ có 80,00% mẫu (có OD ≥ 0,21) là dương tính, có khả năng bảo

hộ.

- Điều trị kết hợp kháng sinh tiêu diệt vi khuẩn bội nhiễm với điều trị triệu

chứng (giảm nhu động và giảm tiết dịch) và tiêm phúc mạc dung dịch Lactat Ringer và

Glucose 5% để bổ sung nước, chất điện giải đồng thời kết hợp sử dụng phương pháp

huyết liệu pháp ở phác đồ II cho kết quả điều trị cao (80,00%). Trong khi đó phác đồ I

không sử dụng phương pháp điều trị huyết liệu pháp cho kết quả điều trị thấp (62,00%)

và có tỷ lệ chết trong quá trình điều trị (38,00%) cao hơn ở phác đồ II là 18,00%

(p<0,05).

xii

THESIS ABSTRACT

PhD candidate: Hoang Van Son Thesis title: ―Study on some pathological characteristics of acute diarrhea epidemic in pigs (Porcine Epidemic Diarrhea - PED) in Thanh Hoa province and prevention and treatment measures‖. Major: Veterinary pathology and Therapeutics of the diseases of domestic animals Code: 9 64 01 02 Educational organization: Vietnam National University of Agriculture (VNUA) Research objectives

The study aims at giving full understanding of the disease situation, pathological characteristics to serve as the basis for the diagnosis and prevention and treatment measures of PED in pigs raised in Thanh Hoa province in particular and in Vietnam in general, which is effective.

The study aims at identifying the prevalence of acute diarrhea (PED) in pigs

raised in Thanh Hoa province.

The study aims at identifying pathological changes in pigs infected with acute diarrhea (PED), clinical manifestations, lesions (gross and microscopic lesions), and main hematological parameters of PED.

The study also aims at identifying some effective prevention measures for PED.

Materials and Methods

Research contents: Determining some epidemiological and pathological characteristics in pigs infected with acute diarrhea (PED) in Thanh Hoa and testing measures for preventing and treating acute diarrhea in pigs (PED).

Research materials: Specimens include feces, intestines, blood, and corpses of the pigs infected with PED. The blood of the healthy piglets at 2 weeks old and the sows after using "gut feedback". Veterinary drugs, chemicals and machines for the research such as RT-PCR, ELISA, Microtom shredder, and hematology analyzer, etc.

Research methods: Determining epidemiological characteristics by

routine epidemiological investigation methods: face-to-face interviews, questionnaires distribution, retrospective archives, descriptive epidemiology combined with clinical diagnostic methods, diagnosis by PED Ag Test kit and RT-PCR response for evaluating acute diarrhea epidemic (PED).

- Determining pathological characteristics by routine clinical examination

combined with modern non-clinical diagnoses and tests.

- Testing disease prevention with the "Gut feedback" preparation according to the principles of Thai Swine Veternary Association (2015) and determining antibodies by ELISA.

- Testing treatment regimens with symptoms, anti-superinfection and non-specific

stimulant therapy. Main findings and conclusions

1)The rates of morbidity, mortality and case fatality rate (CFR) from PED of the pigs raised in Thanh Hoa were 14.56%, 7.77%, and 53.38%, respectively. The coastal and mountainous districts had the highest rates of PED morbidity and CFR (16.12% and 56.57% in Tinh Gia; 15.06% and 56.43% in Thach Thanh). The rates of morbidity and

xiii

CFR were the highest in the group of piglets raised by sows (22.01% and 72.63%) and the lowest in the boar group (5.81% and 0%). The rates of infected and fatal pigs were the highest in the winter (21.70% and 58.93%), and the lowest in the summer (7.43% and 40.28%). Large farms had the highest morbidity rate (15.79%) and the lowest CFR (50.75%).

2) Some pathological features of porcine epidemic diarrhea (PED) in Thanh Hoa

province:

- Pigs infected with PED often have clinical symptoms and changes in clinical indicators such as: sedation, fatigue; diarrhea with watery gray-yellow stools; quick weight loss (100%); stacking on each other (82.5%); not nursing well and eating well (42.50%); and vomiting (40.00%). The body temperature was 37.70  0.05oC; the respiratory rate was 43.23  0.15 breaths/minute and heart rate was 135.08  0.29 beats/minute. - The main gross lesions and microscopic lesions in pigs infected with PED are: thin corpses; swollen small intestine with thin wall and lumpy yellowish substance; swollen stomach containing undigested milk; congestive and hemorrhagic mesenteric ganglion,; clay-colored degenerative liver, pulmonary congestion; slight swelling of the kidneys; swollen heart, soft muscle with the ratios of 100; 100; 88; 80; 52; 48; 40; and 24%, respectively. The main microbial lesions in the intestines are the degeneration and necrosis of small intestinal epithelial cells, obtuse and shortening intestinal villi, lymphocyte proliferation of intestinal walls, and inflammatory cell infiltration in the intestinal mucosa.

- Pigs with PED have an average number of red blood cells; rate of thrombosis; hemoglobin content; mean hemoglobin concentration; white blood cell count; total protein content; higher α, β, and γ globulin as compared to healthy pigs. Meanwhile, indicators such as Albumin, red blood cell resistance, blood alkaline reserve, serum potassium and sodium content decreased significantly in comparison with healthy pigs. The rate of neutrophils and eosinophils in the leukocyte formula increases, while the ratios of large monocytes, eosinophils and lymphocytes decrease.

3) Results of testing measures to prevent and treat acute diarrhea in pigs (PED): - 100% of the serum samples of sows at 13 weeks pregnant after 14 days and 21 days using "gut feedback" method showed PED antibodies (OD from 0.04 - 1.11). However, only 80.00% of the samples (with OD ≥ 0.21) were positive, potentially protective.

- The combination of antibiotic treatment to destroy superinfection bacteria with symptomatic treatment and peritoneal injection of 5% Lactate Ringer and Glucose solution to replenish water, electrolytes together with blood therapy method brought about high treatment efficiency (80.00%); While regimen I without blood therapeutic methods resulted in low treatment efficiency (62.00%) with the death rate during treatment of 38.00%, and a higher mortality rate than regimen II, by 18.00% (p <0.05).

xiv

PHẦN 1. MỞ ĐẦU

1.1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI

Dịch tiêu chảy cấp trên lợn hay còn gọi là PED (Porcine Epidemic

Diarrhea) là bệnh truyền nhiễm do virus thuộc họ Coronaviridae gây ra, đây là

virus có cấu trúc phức tạp, đa dạng về chủng và mối quan hệ giữa các dạng đột

biến với chức năng của virus (Puranaveja & cs., 2009). Bệnh xảy ra ở mọi lứa

tuổi và gây hậu quả nghiêm trọng, đặc biệt trên đàn lợn con dưới một tuần tuổi tỷ

lệ mắc bệnh và tử vong có thể lên đến 100% (Sun & cs., 2012; Geiger & Connor,

2013; Ge & cs., 2013; Murakami & cs., 2015; Alvarez & cs., 2015; Ojkic & cs.,

2015; Sung & cs., 2015; Yamane & cs., 2016).

PED được phát hiện lần đầu ở Anh vào năm 1971. Năm 1976, một số

nước Châu Âu khác cũng đã ghi nhận những ca bệnh này và đặt tên là ―Epidemic

viral diarrhea‖ (EVD). Năm 1978 đổi tên thành PED (Porcine Epidemic

Diarrhea) và được chính thức công nhận cho đến nay (Pensaert & cs., 1981).

Bệnh được ghi nhận ở nhiều nước như Anh, Bỉ, Nhật, Trung Quốc và nhiều nước

Châu Âu. Hiện nay bệnh phân bố khắp nơi trên thế giới và gây thiệt hại lớn cho

ngành chăn nuôi lợn (Pospischil & cs., 2002; Puranaveja & cs., 2009). Từ tháng

10 năm 2013 đến năm 2014 các trang trại chăn nuôi lợn ở tỉnh Miyazaki (506

trang trại) và tỉnh Kagoshima (709 trang trại) đã gây tổng thiệt hại kinh tế liên

quan đến sự xuất hiện của PED khoảng 1,2 tỷ yên (Sasaki & cs., 2019). Theo

Kwonil & Linda (2015) thì từ tháng 4 năm 2013 đến 2015, PED đã làm tổn thất

10% tổng số đàn lợn của Mỹ.

Ở Việt Nam dịch PED được phát hiện lần đầu tiên vào năm 2008 và đã

gây nhiều thiệt hại cho ngành chăn nuôi lợn cả nước (Nguyễn Tất Toàn & cs.,

2012; Nguyễn Trung Tiến & cs., 2015). Đã có nhiều công trình nghiên cứu về

dịch bệnh PED (Do & cs., 2011; Nguyễn Văn Điệp & cs., 2014; Nguyễn Trung

Tiến & cs., 2015; Vui & cs., 2015; Choe & cs., 2016; Huỳnh Minh Trí & cs.,

2017; Nguyễn Thị Hoa & cs., 2018; Nguyễn Thị Thơm & cs., 2018) nhưng

thường chỉ tập trung nghiên cứu về các đặc điểm sinh học của virus gây bệnh mà

chưa có các nghiên cứu về những biến đổi bệnh lý và biện pháp phòng, trị khi lợn

1

mắc PED ở Việt Nam nói chung và tỉnh Thanh Hoá nói riêng.

Thanh Hoá là tỉnh có số lượng lợn lớn (795.071 con lợn, trong đó có 304.591 lợn được nuôi tại các trang trại và gia trại - Cục Thống kê Thanh Hoá,

2019). Hiện nay, tình hình dịch tiêu chảy cấp ở lợn trở nên phức tạp và nguy

hiểm hơn nhiều so với những năm trước đây. Tuy vậy, các thông tin về tỷ lệ lợn

mắc PED, đặc điểm lưu hành và phân bố bệnh vẫn chưa được thống kê đầy đủ.

Trước thực trạng đó, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài này nhằm xác

định sự lưu hành của bệnh và các biến đổi bệnh lý ở lợn mắc PED ở tỉnh Thanh

Hoá đồng thời xây dựng các biện pháp phòng, trị bệnh PED trên đàn lợn ở Thanh

Hóa đạt hiệu quả cao.

1.2. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU

1.2.1. Mục tiêu chung

Nghiên cứu đánh giá được tình hình mắc bệnh, đặc điểm bệnh lý làm cơ sở cho việc chẩn đoán và biện pháp phòng trị bệnh PED trên đàn lợn nuôi tại Thanh Hoá có hiệu quả.

1.2.2. Mục tiêu cụ thể

- Đánh giá được tình hình mắc dịch tiêu chảy cấp ở lợn (PED) nuôi tại tỉnh

Thanh Hoá;

- Xác định rõ các biến đổi bệnh lý ở lợn bệnh: biểu hiện lâm sàng, bệnh tích

(đại thể và vi thể), chỉ tiêu huyết học chủ yếu của bệnh PED;

- Xác định được một số biện pháp phòng trị PED đạt hiệu quả cao.

1.3. ĐỐI TƢỢNG VÀ ĐỊA ĐIỂM NGHIÊN CỨU

1.3.1. Đối tƣợng nghiên cứu

Lợn lai 3 máu tại các trang trại và gia trại của 6 huyện: Hoằng Hoá, Nông Cống, Như Thanh, Thạch Thành, Tĩnh Gia và Yên Định thuộc tỉnh Thanh Hoá bị mắc dịch tiêu chảy cấp (PED).

1.3.2. Phạm vi nghiên cứu

- Lợn mắc dịch tiêu chảy cấp (PED) tại các trang trại và gia trại ở 6 huyện Hoằng Hoá, Nông Cống, Như Thanh, Thạch Thành, Tĩnh Gia và Yên Định thuộc tỉnh Thanh Hoá.

- Thời gian nghiên cứu: Thời gian nghiên cứu từ tháng 9/2014 đến tháng

01/2020.

2

- Số liệu của đề tài được thu thập từ tháng 9/2014 đến tháng 01/2020.

1.4. NHỮNG ĐÓNG GÓP MỚI CỦA ĐỀ TÀI

Là công trình nghiên cứu đầu tiên và có hệ thống về dịch tiêu chảy cấp

(PED) trên đàn lợn lai 3 máu nuôi tại Thanh Hoá. Kết quả khảo sát được thực

trạng của bệnh trên tất cả các lứa tuổi lợn, mùa vụ mắc bệnh, quy mô đàn và

đánh giá mô tả được các đặc điểm bệnh lý của lợn khi mắc bệnh PED.

1.5. Ý NGHĨA KHOA HỌC VÀ THỰC TIỄN CỦA LUẬN ÁN

1.5.1. Ý nghĩa khoa học của luận án

- Kết quả của luận án chỉ ra được tình hình mắc bệnh, những đặc điểm bệnh

lý của lợn lai 3 máu mắc PED và một số biện pháp phòng trị bệnh PED. Các thông tin này có ý nghĩa quan trọng trong công tác chẩn đoán lâm sàng cũng như

công tác phòng trị bệnh.

- Kết quả nghiên cứu của luận án là tài liệu tham khảo tốt phục vụ cho

những nghiên cứu khoa học tiếp theo về PED và cũng là nguồn tư liệu tham khảo

phục vụ đào tạo ngành Chăn nuôi, Thú y.

1.5.2. Ý nghĩa thực tiễn của luận án

- Kết quả nghiên cứu giúp các Nhà quản lý và chuyên môn về Chăn nuôi,

Thú y cũng như người chăn nuôi nắm rõ hơn về tình hình mắc bệnh PED tại

Thanh Hoá, đồng thời hiểu biết rõ hơn về đặc điểm bệnh lý của lợn mắc PED;

- Chủ động trong công tác phòng ngừa sự xâm nhập của PEDV trên lợn

3

cũng như biện pháp xử lý khi dịch bệnh xảy ra.

PHẦN 2. TỔNG QUAN TÀI LIỆU

2.1. SƠ LƢỢC VỀ ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU

2.1.1. Vị trí địa lý

Tỉnh Thanh Hoá thuộc vùng Bắc Trung Bộ, cách thủ đô Hà Nội khoảng 153km về phía Nam, có tọa độ địa lý từ 19018 – 20000 vĩ độ Bắc và 104022 – 106004 kinh độ Đông; phía Bắc giáp 3 tỉnh Sơn La, Hoà Bình và Ninh Bình; phía Nam giáp tỉnh Nghệ An; phía Tây giáp tỉnh Hủa Phăn của nước CHDC nhân dân

Lào; phía Đông giáp Vịnh Bắc Bộ. Tỉnh Thanh Hóa có 27 đơn vị hành chính gồm 02 thành phố, 01 thị xã và 24 huyện, với tổng diện tích tự nhiên 11.134,73 km2, dân số trung bình năm 2019 khoảng 3,64 triệu người, chiếm 3,4% diện tích và 3,78% dân số cả nước (UBND tỉnh Thanh Hóa, 2019).

2.1.2. Đặc điểm địa hình

Địa hình ở Thanh Hoá đa dạng, có hướng thấp dần từ Tây sang Đông và

chia thành 3 vùng rõ rệt:

- Vùng núi và trung du: gồm 11 huyện với diện tích tự nhiên 7.999 km2 (chiếm 71,8% diện tích tự nhiên toàn tỉnh). Đây là vùng nối liền giữa hệ núi cao

phía Tây Bắc và hệ núi Trường Sơn phía Nam. Độ cao trung bình ở vùng núi từ 600 – 700 mét, độ dốc trên 250, vùng trung du có độ cao trung bình 150 - 200 mét, độ dốc từ 150 đến 200. Vùng có địa hình phức tạp, chia cắt mạnh gây trở ngại lớn cho phát triển kinh tế và xây dựng kết cấu hạ tầng (UBND tỉnh Thanh

Hóa, 2019).

- Vùng đồng bằng: gồm 10 huyện với diện tích tự nhiên 1.905km2 (chiếm 17,1% diện tích tự nhiên toàn tỉnh). Đây là vùng được bồi tụ bởi hệ thống sông Mã, sông Yên. Vùng có địa hình xen kẽ giữa vùng đất bằng với các đồi thấp và núi đá vôi độc lập, độ cao trung bình từ 5 - 15 mét, một số nơi trũng như Hà Trung có độ cao chỉ từ 0 - 1 mét. Nhìn chung vùng đồng bằng có địa hình tương đối bằng phẳng thuận lợi cho phát triển nông nghiệp và công nghiệp (UBND

tỉnhThanh Hóa, 2019).

4

- Vùng ven biển: gồm 6 huyện chạy dọc bờ biển, với diện tích hơn 1.230,6 km2 (chiếm 11,1% diện tích tự nhiên). Vùng có địa hình bằng phẳng, độ cao trung bình từ 3 - 6 mét, riêng phía Nam huyện Tĩnh Gia địa hình có dạng sống

trâu do các dãy đồi kéo dài ra biển. Đây là vùng có nhiều tiềm năng để phát triển nông nghiệp (trồng trọt, chăn nuôi gia cầm), đặc biệt là nuôi trồng thủy sản, phát

triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, xây dựng cảng và phát triển dịch vụ vận

tải đường sông và đường biển... (UBND tỉnh Thanh Hóa, 2019).

2.1.3. Đặc điểm khí hậu

Thanh Hoá có chế độ nhiệt tương đối cao, nhiệt độ trung bình 23,70C nhưng có sự khác biệt giữa các vùng. Vùng đồng bằng ven biển nhiệt độ cao hơn vùng núi từ 0,5 - 1,50C. Nhiệt độ trung bình các tháng nóng nhất (tháng 6 - 7) là 30 – 310C, nhiệt độ trung bình các tháng lạnh nhất (tháng 12 năm trước đến tháng 2 năm sau) là 170C. Biên độ nhiệt ngày đêm khá cao, từ 8 – 100C vào các tháng mùa đông. Tổng tích ôn cả năm khoảng 8.6000 - 8.7000C ở vùng đồng bằng ven biển, giảm xuống còn 8.0000C và thấp hơn ở vùng núi phía Tây; số giờ nắng cao, trung bình từ 1.310 – 1.460 giờ/năm. Tháng có số giờ nắng cao nhất (tháng 6) là

225 giờ, tháng có số giờ nắng thấp nhất (tháng 12) là 46 giờ (UBND tỉnh Thanh

Hóa, 2019).

Tóm lại, là một tỉnh có dân số đông, diện tích rộng, địa hình phong phú

nên Thanh Hoá có khí hậu khá đa dạng và phân hoá mạnh theo không gian và

thời gian. Lượng mưa lớn, nhiệt độ cao, ánh sáng dồi dào… là điều kiện thuận lợi

cho phát triển sản xuất Nông - Lâm - Ngư nghiệp nói chung và phát triển chăn

nuôi lợn nói riêng.

2.1.4. Tình hình phát triển chăn nuôi lợn

Ngành chăn nuôi lợn ở Thanh Hoá ngày càng chiếm một vị trí quan trọng

trong sản xuất nông nghiệp của tỉnh và nhanh chóng chuyển đổi thành sản xuất

hàng hoá. Nhận thức được tầm quan trọng này, UBND tỉnh Thanh Hoá đã có các

chính sách nhằm hỗ trợ, thúc đẩy ngành chăn nuôi lợn phát triển như Quyết định

số 4833/2014/QĐ-UBND về việc phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển Nông nghiệp tỉnh Thanh Hoá đến năm 2020 và định hướng đến năm 2030. Trong đó,

giai đoạn 2015 - 2020 đầu tư phát triển trang trại chăn nuôi lợn ngoại quy mô lớn, chăn nuôi khép kín tại các huyện miền núi và trung du với tổng quy mô 40.000 - 50.000 lợn ngoại. Đến năm 2020 có tổng đàn lợn là 1.200.000 trong đó có 520.000 con lợn ngoại và năm 2025 có tổng đàn lợn là 1.300.000 trong đó có

5

780.000 con lợn ngoại.

Nhờ những chính sách này mà đàn lợn ở Thanh Hoá luôn ổn định ở mức cao. Theo Cục thống kê tỉnh Thanh Hoá (2015), tại thời điểm 01/10/2014 tổng

đàn lợn của tỉnh Thanh Hoá là 888.106 con và tại thời điểm 01/10/2015 có tổng

đàn lợn 883.047 con. Trong tổng đàn lợn, hộ (chăn nuôi dưới 30 con lợn) ở khu

vực nông thôn có 631.116 con, chiếm 71,5 %, hộ khu vực thành thị 12.402 con, chiếm 1,4%; gia trại (từ 30 con lợn trở lên) có 109.441 con, chiếm 12,4%, bình

quân 44 con/gia trại; trang trại có 116.786 con, chiếm 13,2%, còn lại là các

Doanh nghiệp và Hợp tác xã.

2.2. NHỮNG NGHIÊN CỨU VỀ HỘI CHỨNG TIÊU CHẢY

2.2.1. Khái niệm về tiêu chảy

Tiêu chảy còn gọi là ỉa chảy, tiếng Anh là Diarrhea hoặc Diarrhoea, được

Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) định nghĩa là khi bệnh nhân có số lần đi phân lỏng

nhiều hơn ba lần mỗi ngày hoặc bệnh nhân ấy đi tiêu nhiều phân hơn lúc khỏe

mạnh. Tiêu chảy là một biểu hiện lâm sàng của quá trình bệnh lý đặc thù đường

tiêu hóa. Biểu hiện lâm sàng tùy thuộc theo đặc điểm, tính chất, diễn biến, độ

tuổi mắc bệnh. Có các dạng tiêu chảy khác nhau như tiêu chảy ―thẩm thấu‖,

―tiết‖, hoặc ―viêm‖ (Hồ Văn Nam & cs., 1997).

Fairbrother (1992) khi nghiên cứu về hội chứng tiêu chảy ở lợn cho biết:

Tiêu chảy là một bệnh lý gây thiệt hại đáng kể cho ngành chăn nuôi lợn. Bệnh

xuất hiện ở ba giai đoạn chính (chia theo lứa tuổi):

Giai đoạn 1: Ở lợn sơ sinh vài ngày tuổi;

Giai đoạn 2: Ở lợn con theo mẹ;

Giai đoạn 3: Ở lợn con sau cai sữa.

Lê Minh Chí (1995) khi nghiên cứu hội chứng tiêu chảy ở lợn cho rằng:

Do điều kiện khí hậu thời tiết thay đổi phức tạp, hội chứng tiêu chảy ở lợn xảy ra quanh năm ở nước ta, đặc biệt khi thời tiết thay đổi đột ngột, lạnh, độ ẩm không khí cao. Lợn bị tiêu chảy thường mất nước, mất chất điện giải và kiệt sức. Những

lợn khỏi bệnh thường chịu hậu quả còi cọc, thiếu máu, chậm lớn dẫn đến tỷ lệ nuôi sống thấp và tỷ lệ chết cao. Theo Lê Văn Tạo & Khương Bích Ngọc (1993), Phan Thanh Phượng (1995) ở nước ta hội chứng tiêu chảy ở lợn xảy ra quanh năm, đặc biệt là vào vụ đông xuân, khi thời tiết thay đổi đột ngột và vào những

6

giai đoạn chuyển mùa trong năm.

Kết quả nghiên cứu của Phùng Quốc Chướng (1995), Laval (1997), Hoàng Văn Tuấn & cs. (1998) cho thấy hội chứng tiêu chảy trên lợn xảy ra ở mọi

lứa tuổi, nhưng trầm trọng nhất là ở lợn sơ sinh đến cai sữa.

2.2.2. Nguyên nhân gây Hội chứng tiêu chảy ở gia súc

Hội chứng tiêu chảy thường gặp ở gia súc nói chung và lợn nói riêng gây

thiệt hại lớn cho ngành chăn nuôi. Nguyên nhân gây tiêu chảy rất phức tạp, nó là

hiện tượng bệnh lý liên quan đến nhiều yếu tố, có yếu tố là nguyên nhân nguyên

phát, có yếu tố là nguyên nhân thứ phát. Hội chứng tiêu chảy của gia súc thường

xảy ra do các nguyên nhân sau:

2.2.2.1. Do yếu tố môi trường

Do sự thay đổi đột ngột của điều kiện môi trường sống như nhiệt độ, độ ẩm, thời tiết kết hợp với chuồng trại không hợp vệ sinh, nuôi nhốt vận chuyển gia

súc không đảm bảo… gây stress ảnh hưởng trực tiếp tới cơ thể gia súc gây rối

loạn quá trình điều hòa thân nhiệt, dẫn đến rối loạn quá trình trao đổi chất và

giảm sức đề kháng, từ đó tạo cơ hội cho các mầm bệnh trong đường tiêu hóa tăng

độc lực và gây bệnh cho lợn. Theo Hồ Văn Nam & cs. (1997): ―khi gia súc bị

nhiễm lạnh, ẩm kéo dài sẽ làm giảm phản ứng miễn dịch, giảm tác dụng thực

bào, do đó gia súc dễ bị nhiễm khuẩn gây bệnh‖.

Các yếu tố stress nóng, lạnh, mưa, nắng, hanh, ẩm thay đổi bất thường và

điều kiện chăm sóc nuôi dưỡng ảnh hưởng trực tiếp đến cơ thể lợn, nhất là cơ thể

lợn con chưa phát triển hoàn chỉnh, các phản ứng thích nghi của cơ thể còn yếu.

Khi gia súc bị lạnh, ẩm kéo dài sẽ làm giảm phản ứng miễn dịch, giảm tác động

thực bào, do đó gia súc dễ bị vi khuẩn cường độc gây bệnh (Hồ Văn Nam & cs.,

1997; Đoàn Thị Kim Dung, 2004).

Trong các yếu tố về tiểu khí hậu có liên quan đến hội chứng tiêu chảy ở

lợn là nhiệt độ và độ ẩm. Độ ẩm thích hợp cho lợn là từ 75% - 85%. Việc làm khô và giữ ấm chuồng nuôi là vô cùng quan trọng (Lê Văn Phước, 1997; Đào

Trọng Đạt & cs., 1996).

2.2.2.2. Do chế độ nuôi dưỡng không đúng kỹ thuật

7

Chất lượng thức ăn không đảm bảo vệ sinh, ôi thiu là nguyên nhân gây tiêu chảy ở gia súc. Phương thức chăn nuôi không phù hợp, khẩu phần thức ăn không đảm bảo về thành phần dinh dưỡng cũng làm rối loạn hệ vi sinh vật đường tiêu hóa. Hội chứng tiêu chảy lợn con là do lượng sắt ở lợn con từ bào thai chưa

đủ, khi ra ngoài lại không được sữa mẹ cung cấp Co, B12, nên sinh bần huyết dẫn tới cơ thể suy yếu, không hấp thụ được đầy đủ chất dinh dưỡng (Nguyễn Thiện &

cs., 1996). Laval (1997) cho biết, thức ăn thiếu các chất khoáng, vitamin cần thiết

cho cơ thể gia súc, đồng thời phương thức cho ăn không phù hợp sẽ làm giảm

sức đề kháng của gia súc và tạo cơ hội cho các vi khuẩn gây hội chứng tiêu chảy.

Theo Đoàn Thị Kim Dung (2004), sự thay đổi các yếu tố khí hậu thời tiết,

mật độ chuồng nuôi, điều kiện chăm sóc và vệ sinh thú y, vận chuyển đi xa đều

là các tác nhân stress quan trọng trong chăn nuôi làm phát sinh tiêu chảy.

2.2.2.3. Nguyên nhân do virus

Sự xuất hiện của virus làm tổn thương niêm mạc ruột, giảm sức đề kháng

của cơ thể thường gây tiêu chảy ở dạng cấp tính với tỷ lệ chết cao.

Lecce (1976), Nilson (1984) nghiên cứu về virus gây bệnh đường tiêu hoá

đã xác định được vai trò của Rotavirus trong hội chứng tiêu chảy ở lợn. Trong số

những mầm bệnh thường gặp ở lợn trước và sau cai sữa bị tiêu chảy có rất nhiều

loại virus, 29% phân lợn mắc hội chứng tiêu chảy phân lập được Rotavirus,

11,2% có virus TGE, 2% có Enterovirus, 0,7% có Parvovirus. Ở lợn, virus nhân

lên mạnh nhất trong niêm mạc của không tràng và tá tràng rồi đến hồi tràng,

chúng không sinh sản trong dạ dày và kết tràng. Khoon (1995) đã thống kê được

11 loại virus có tác động làm tổn thương đường tiêu hoá gây viêm ruột tiêu chảy

như Adenovirus type IV, Enterovirus, Rotavirus…

2.2.2.4. Nguyên nhân do vi khuẩn

Ngày càng có nhiều tư liệu chứng tỏ hệ vi khuẩn trong đường ruột khi bị

rối loạn tiêu hóa – môi trường thay đổi sẽ bị mất cân bằng, vi khuẩn có hại sinh sôi, sản sinh độc tố tác động niêm mạc ruột, làm viêm ruột nặng thêm, bệnh càng

trầm trọng.

Phan Thị Thanh Phượng (1998) khi nghiên cứu hội chứng tiêu chảy ở lợn thông báo kết quả đã phân lập được Salmonella thường xuyên có trong đường ruột lợn và cho rằng trong điều kiện chăn nuôi, quản lý không tốt làm cho sức đề kháng của cơ thể vật nuôi giảm, chính vi khuẩn Salmonella phát triển mạnh mẽ sinh độc tố gây viêm ruột tiêu chảy. Tác nhân gây bệnh lợn con phân trắng chủ

yếu là E. coli và nhiều loại Salmonella (Phạm Sỹ Lăng & Phan Địch Lân, 1997).

8

Khi tiến hành xét nghiệm 140 mẫu phân lợn khoẻ ở các lứa tuổi khác nhau (từ sơ sinh đến lợn nái) Hồ Văn Nam & cs. (1997) đã cho biết 100% các mẫu

phân lợn ở các lứa tuổi có E. coli, xét nghiệm 170 mẫu phân lợn bị tiêu chảy ở các lứa tuổi tương tự, tỷ lệ này cũng là 100%, nhưng có sự bội nhiễm vi khuẩn

đường ruột một cách rõ rệt.

Xét nghiệm phân lợn khoẻ và lợn bị tiêu chảy thấy trong phân lợn thường xuyên có các loại vi khuẩn hiếu khí: E. coli, Salmonella, Streptococcus,

Klebsiella, Bacilus subtilis. Khi lợn bị tiêu chảy E. coli, Salmonella tăng lên một

cách bội nhiễm (Hồ Văn Nam & cs., 1997; Đoàn Thị Kim Dung, 2004).

2.2.2.5. Nguyên nhân do ký sinh trùng

Ký sinh trùng đường tiêu hóa là một trong những nguyên nhân gây tiêu chảy ở gia súc. Chúng cướp chất dinh dưỡng của vật chủ, tiết độc tố đầu độc vật chủ, giảm sức đề kháng tạo điều kiện cho các bệnh khác phát sinh. Các loại ký sinh trùng gây tiêu chảy ở lợn như: Cầu trùng Eimeria, Isospora suis, Crystosporidium, Ascaris suum, Trichurissuis, Strongloides, Haemonchus, mecistocirrus... (Phạm Văn Khuê & Phan Lục, 1996). Cầu trùng và một số loại giun tròn (giun đũa, giun tóc, giun lươn) là một trong những nguyên nhân gây tiêu chảy ở lợn. Chính phương thức sống ký sinh của giun sán đã làm tổn thương niêm mạc đường tiêu hóa nhờ đó các mầm bệnh xâm nhập gây viêm ruột, tiêu chảy (Phạm Sỹ Lăng & cs., 1997; Nguyễn Kim Thành, 1999; Nguyễn Thị Kim Lan & cs., 2006).

2.2.2.6. Nguyên nhân do nấm

Nấm Candida thuộc họ Cryptococcaceae, là nấm men, hình cầu hoặc hình oval, thỉnh thoảng dạng hình ống, kích thước 3,5-6 x 6-10µm, sinh sản bằng mọc chồi. Candida có khoảng 300 loài, thường hội sinh ở một số cơ quan tiêu hóa, hô hấp và trên da, một số có thể gặp trong môi trường tự nhiên. Ngoài ra độc tố của một số các loại nấm (chủ yếu là Aspergillus flavus) sản xuất ra độc tố rất nguy hiểm được gọi là aflatoxin. Aflatoxin là độc tố vi nấm sản sinh tự nhiên bởi một số loài Aspergillus, là một loại nấm mốc, đáng chú ý nhất là Aspergillus flavus và Aspergillus parasiticus. Theo Lê Thị Tài (1997) nếu trong khẩu phần ăn có 500 - 700µg Aflatoxin/kg thức ăn sẽ làm cho lợn con tiêu chảy, chậm lớn, giảm sức đề kháng với các bệnh truyền nhiễm khác.

2.2.3. Cơ chế và hậu quả của tiêu chảy

9

Tiêu chảy là thải nhanh và nhiều lần, phân lẫn nhiều nước do tăng cường nhu động ruột và tăng tiết dịch ở ruột. Tiêu chảy có thể do 1 trong 3 cơ chế hoặc kết hợp cả 3 cơ chế gây ra (Hồ Văn Nam & cs., 1997):

- Hấp thu kém đơn thuần hoặc hấp thu kém kết hợp với lên men của vi sinh vật dẫn đến tiêu chảy. Khi hấp thu kém các chất chứa trong lòng ruột sẽ bị tồn đọng quá nhiều kích thích ruột tăng cường co bóp nhằm đẩy nhanh chứa chất đó ra ngoài.

- Tăng tiết dịch trong sự nguyện vẹn về cấu trúc ruột nhưng rối loạn chức năng chuyển hóa như trong Colibaccillosis, độc tố đường ruột… Độc tố đường ruột của E. coli và của Vibrio cholerae có tác dụng hoạt hóa enzym Adenylatcyclaza trong màng tế bào biểu mô gây tăng lượng AMP vòng trong biểu mô – tăng thải tiết - đồng thời kéo theo một lượng lớn nước vào trong ống ruột, mặt khác lượng HCO3 chất điện giải đi vào niêm mạc ruột bị giảm sút gây tăng áp lực thẩm thấu trong lòng ruột nên giữ nước trong lòng ruột nhiều hơn dẫn tới tiêu chảy.

- Tăng dịch rỉ viêm trong các bệnh có đặc trưng tăng tính thấm thành

mạch và tăng tính thấm biểu mô.

Trong thực tế, từ một cơ chế ban đầu trong quá trình tiến triển thường kéo theo các cơ chế khác làm cho quá trình sinh bệnh ngày càng phức tạp thêm. Hậu quả của tiêu chảy gây mất nước toàn thân, nhiễm độc toan, mất cân bằng điện giải, rối loạn chuyển hóa tế bào, nhiễm độc thần kinh,… và đã được Phạm Ngọc Thạch (1998) biểu diễn ở hình 2.1:

Mất điện giải

Hội chứng tiêu chảy

Rối loạn hấp thu

Cấp

Mãn tính tính

Mất điện giải

Nhiễm toan

Máu cô đặc

Rối loạn chuyển hoá

Mất nƣớc

Thiếu vitamin Thiếu đạm Thiếu sắt Thiếu Can xi

Thoát huyết tƣơng

Giãn mạch

Khối lƣợng tuần hoàn

Giãn mạch

Trụy mạch Nhiễm độc thần kinh

Giảm huyết áp

Suy dinh dƣỡng Thiếu máu Còi xƣơng

Nguồn: Phạm Ngọc Thạch (1998)

10

Hình 2.1. Sơ đồ cơ chế và hậu quả của viêm ruột tiêu chảy

2.2.4. Bệnh lý lâm sàng của hội chứng tiêu chảy

Bệnh lý lâm sàng của hội chứng tiêu chảy ở lợn là sự biến đổi về tổ chức

tình trạng mất nước và điện giải, trạng thái trúng độc của cơ thể bệnh.

Về giải phẫu bệnh, nhiều tài liệu cho thấy viêm ruột ở lợn thường là viêm cata – viêm chủ yếu ở niêm mạc ruột. Những trường hợp viêm dạ dày – ruột ở

tầng sâu là rất ít gặp.

Sự mất nước kéo theo mất các chất điện giải trong đó đặc biệt là các ion: -, K+, Na+, Cl-... đồng thời khi lợn bị rối loạn tiêu hóa cũng làm cản trở đến HCO3 khả năng hấp thu nước. Ở lợn tiêu chảy nếu lượng dịch mất đi trong đường ruột vượt quá lượng dịch đưa vào khi ăn, uống, thận sẽ cố gắng bù lại bằng cách cô

đặc nước tiểu để giảm lượng nước thải ra. Nếu thận không bù được, mức dịch thể trong tổ chức bị giảm và máu bị đặc lại. Hiện tượng này gọi là mất nước và có

triệu chứng lâm sàng là con vật yếu, bỏ ăn, thân nhiệt hạ thấp và có thể trụy tim,

mắt bị hõm sâu, nhìn lờ đờ, da khô, khi véo lên da chậm trở lại vị trí cũ (Achie

Hunter, 2000). Lợn bị tiêu chảy gầy sút nhanh, da nhăn, tính đàn hồi kém; nếu

tiêu chảy lâu ngày, lợn gầy nhô xương sống, da khô, lông dựng ngược. Theo

Weinberg, 1986), khi viêm ruột cơ thể không những không hấp thu được nước,

điện giải từ nguồn thức ăn, mà còn bị mất nước và điện giải do niêm mạc tăng

tiết cùng dịch rỉ viêm, dịch tiết có thể tăng 80 lần bình thường. Mặt khác, do ruột

bị viêm, tính mẫn cảm tăng, nhu động ruột cũng tăng lên nhiều lần. Lợn bị tiêu

chảy, đồng thời cũng kéo theo hàng loạt các biến đổi bệnh lý khác nhau.

2.3. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VỀ DỊCH TIÊU CHẢY CẤP TRÊN LỢN (PORCINE EPIDEMIC DIARRHEA - PED)

2.3.1. Lịch sử bệnh

Dịch tiêu chảy cấp được phát hiện đầu tiên ở Anh quốc vào năm 1971

(Wood EN, 1977). Năm 1976, một số nước châu Âu khác cũng đã ghi nhận những ca bệnh này và đặt tên là ―Epidemic viral diarrhea‖ (EVD). Năm 1978 đổi tên thành PED (Porcine Epidemic Diarrhea) và được chính thức công nhận cho đến nay. Bệnh được ghi nhận ở nhiều nước như Anh, Bỉ, Nhật Bản, Trung Quốc và nhiều nước châu Âu. Hiện nay bệnh phân bố khắp nơi trên thế giới (Andreas

& cs., 2002).

11

PED là bệnh viêm ruột cấp tính ở mọi lứa tuổi từ lợn sơ sinh tới lợn vỗ béo. Dịch bệnh bùng phát tại nhiều nước trên thế giới như Anh, Canada,

Hungary, Đức, Hàn Quốc (Chasey & Cartwright, 1978); Debouck& Pensaert, 1982; Kweon & cs., 1993). Theo tổ chức thú y Thế giới (OIE), số lượng các nước

mới bị nhiễm dịch tiêu chảy cấp đã tăng lên từ năm 2011, với sự gia tăng nhanh

số lượng các trường hợp vào năm 2013, 2014 đáng chú ý là ở Mỹ, Canada, Nhật

Bản, Mexico và Đài Bắc Trung Quốc. PED được xác định xuất hiện trở lại ở một số nước như Đức vào năm 2014 (Hanke& cs., 2015), Ytalia năm 2014 - 2015

(Boniotti & cs., 2018), v.v...

PED đã gây thiệt hại nghiêm trọng trong chăn nuôi ở nhiều quốc gia châu

Âu và sau đó đến các nước ở châu Á như Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản,

Thái Lan và hiện tại đã đến Việt Nam trong những năm gần đây.

2.3.2. Tình hình nghiên cứu dịch tiêu chảy cấp ở lợn (PED) trên thế giới

Tại Nhật Bản, PED và một dịch giống PED được chẩn đoán trong đợt bùng

phát dịch tiêu chảy ở lợn năm 1982, dấu hiệu của dịch là tiêu chảy, mất nước, nôn và

chết trong vài ngày sau đó (Takahashi & cs., 1983).

Ở Trung Quốc, trường hợp mắc bệnh PED đầu tiên được phát hiện năm

1973, sau hơn hai thập kỷ sử dụng vacxin vô hoạt nhũ dầu, trường hợp tái phát

PED tương đối ít. Tuy nhiên đến năm 2010, bệnh đã xuất hiện trở lại và bùng

phát, ngày càng trầm trọng ở các tỉnh có ngành chăn nuôi lợn phát triển. Từ tháng

2 năm 2010 đến tháng 11 năm 2010, số lợn chết ước tính lên đến 50.000 con, chủ

yếu là lợn dưới 7 ngày tuổi (Li & cs., 2012).

Bệnh được phát hiện lần đầu ở Anh vào năm 1971 với đặc điểm lây lan rất

nhanh, gây ói mửa, tiêu chảy nặng trên lợn ở mọi lứa tuổi và những năm sau đó

bệnh xuất hiện ở Nhật Bản, Trung Quốc và nhiều nước châu Âu và hiện nay bệnh

phân bố khắp nơi trên thế giới (Pospischil & cs., 2002; Song & Park, 2012).

Trong năm 2005- 2006, dịch PED xảy ra nghiêm trọng ở Ý, với tỷ lệ chết ở lợn

con theo mẹ từ 8,3% đến 11,9%. Năm 2013 dịch bệnh đã lây lan trên 200 trại nuôi lợn ở khắp nước Mỹ, hơn 17 bang có dịch bệnh trong vòng 3 tháng, với tỷ lệ

chết trên lợn con từ 50 – 100% (Huang & cs., 2013; Stevenson & cs., 2013). Từ năm 2014 đến nay, PED được xác định xuất hiện trở lại ở một số nước như Đức

(Hanke & cs., 2015), Ý (Boniotti & cs., 2016), v.v...

Theo Song & Park (2012), tình hình PED ngày càng xuất hiện phổ biến ở

các quốc gia châu Á và đặc biệt PED ngày càng trở nên cấp tính và nghiêm trọng

12

hơn. Ở Trung Quốc từ tháng 2 năm 2010 đến tháng 11 năm 2011 bệnh bùng phát

trở lại và gây hậu quả nghiêm trọng, tỷ lệ lợn chết từ 90 tới 100% (tương ứng

50.000 con), chủ yếu là lợn dưới 7 ngày tuổi (Chen & cs., 2013). Ở Nhật Bản,

dịch PED xuất hiện lần đầu tiên năm 1993, gây chết 14.000 con, tỉ lệ chết từ 30

tới 100% lợn con, dịch PED năm 1996 gây chết 39.509 con (Tomoyuki, 2014). Ở

Hàn Quốc, dịch PED xuất hiện đầu tiên năm 1992, sau đó đến năm 2007-2008,

dịch liên tiếp xuất hiện ở các Quốc gia Ðông Nam Á như Thái Lan, Philippines

và Việt Nam (Li & cs., 2012, Sun & cs., 2012, Wang & cs., 2013). Trong thời

gian cuối năm 2007 - 2008, tại Thái Lan, dịch được phát hiện đầu tiên ở tỉnh

Nakornpathom trước khi nó lan rộng trong cả nước. Dịch lan rộng đã gây thiệt

hại lớn cho ngành chăn nuôi lợn của Thái Lan. Phân tích cây phát sinh loài, thấy

tất cả các PEDV phân lập được trong thời gian bùng phát dịch đều giống chủng ở

Trung Quốc JS - 2004 - 2 (Puranaveja & cs., 2009). Cuối năm 2013 ở miền Tây

của Thái Lan, PED xảy ra với tỷ lệ chết từ 80 – 100% (Thai Swine Veternary

Association, 2015).

Ở Nhật Bản, ở các trang trại tỷ lệ mắc PED khoảng 19,5% vào năm 2013

và dịch PED đã diễn ra từ tháng 12 đến tháng 3 (Song & cs., 2015; Sasaki & cs.,

2017). Ở Canada, PED xuất hiện vào tháng 1 năm 2014 và tỷ lệ mắc PED ở các

trang trại lần lượt là 13,5%, 3,0% và 1,4% vào các năm 2014, 2015 và 2016

(Kochhar, 2014; Ajayi & cs., 2018).

2.3.3. Tình hình nghiên cứu dịch tiêu chảy cấp ở lợn (PED) tại Việt Nam

Ở Việt Nam, theo Do Tien Duy & cs. (2010), Nguyễn Tất Toàn & cs.

(2012) bệnh được phát hiện từ năm 2008 ở một số tỉnh phía Nam với tỷ lệ mắc

bệnh PED ở các độ tuổi có thể đến 100%, tỷ lệ chết khác nhau giữa các độ tuổi,

đặc biệt cao nhất ở lợn con theo mẹ (50 - 100%). Ở khu vực phía Bắc, khi nghiên

cứu tình hình dịch tiêu chảy cấp (PED) xảy ra tại 26 trại ở một số tỉnh cho thấy,

bệnh thường bùng phát vào mùa lạnh (từ tháng 11 đến tháng 4), lây lan nhanh, tỷ

lệ lợn biểu hiện tiêu chảy cao (trung bình 76,8%). Lợn ở tất cả các lứa tuổi đều bị

tiêu chảy (có thể lên tới 100%), tỷ lệ chết cao ở lợn con theo mẹ (68,6% - 100%).

Có sự khác biệt lớn về mức độ cảm nhiễm, tỷ lệ biểu hiện tiêu chảy, tỷ lệ chết, thời

gian tiêu chảy giữa các trại và giữa các nhóm tuổi, giới tính (Nguyễn Văn Điệp &

13

cs., 2014; Nguyễn Trung Tiến & cs., 2015; Huỳnh Minh Trí & cs., 2017).

Nguyễn Tất Toàn & Đỗ Tiến Duy (2013) đã nghiên cứu xác định các yếu tố liên quan lây truyền dịch bệnh cũng như đặc điểm về triệu chứng và bệnh tích

của dịch tiêu chảy cấp xảy ra ở các trại lợn khu vực phía Nam để góp phần định

hướng trong việc chẩn đoán bệnh PED và xây dựng biện pháp hạn chế sự lây lan

bệnh này ở Việt Nam. Qua khảo sát các ổ dịch tiêu chảy cấp, tỷ lệ bệnh và tỷ lệ chết xuất hiện trên heo con theo mẹ là rất cao (tương ứng 93,94% và 81,67%).

Hai tỷ lệ này giảm dần theo lứa tuổi. Các yếu tố liên quan đến việc lan truyền dịch bệnh giữa các trại phụ thuộc khoảng cách giữa các trại lợn bị bệnh (trại càng

gần có nguy cơ lây bệnh càng cao), vệ sinh sát trùng (thực hiện trên 2 tuần/một

lần có tỷ lệ nhiễm bệnh cao hơn so với 1 tuần/một lần), quy mô chăn nuôi (tỷ lệ

nhiễm bệnh cao ở trại có quy mô chăn nuôi nhỏ, dưới 50 lợn nái) và nguồn nước

sử dụng (ở trại có nguồn nước chưa qua xử lý thì tỷ lệ nhiễm bệnh cao) (Huỳnh Minh Trí & cs., 2017). Triệu chứng lâm sàng đặc trưng của dịch tiêu chảy cấp

trên lợn con là tiêu chảy phân lỏng (100%), ói mửa (90,33%), sau đó suy nhược,

mất nước và chết nhanh. Các bệnh tích thường gặp ở cơ quan tiêu hóa của lợn

con là dạ dày căng phồng, chứa sữa đông, thức ăn không tiêu hóa (94,42%) và

thành ruột non mỏng, phồng to, chứa nhiều nước và dịch chất bên trong

(86,33%). Bệnh tích vi thể cũng xảy ra trên cả dạ dày và 3 đoạn của ruột non với

sự tổn thương nặng phần niêm mạc và các tuyến. Các kết quả này góp phần định

hướng trong việc chẩn đoán bệnh PED và xây dựng biện pháp hạn chế sự lây lan

bệnh này ở các trại lợn tại Việt Nam (Nguyễn Tất Toàn & Đỗ Tiến Duy, 2013).

Theo Đỗ Tiến Duy & Nguyễn Tất Toàn (2013), ở Bà Rịa Vũng Tàu có

10/16 mẫu dương tính, Đồng Nai có 21/73 mẫu, thành phố Hồ Chí Minh là 48/54

mẫu và Bình Dương là 21/29 mẫu dương tính với PED.

Ở khu vực phía Bắc, các nghiên cứu của Nguyễn Văn Điệp & cs. (2014)

đã xác định được tiêu chảy thành dịch trên lợn (PED) xảy ra tại 26 trại ở 6 tỉnh.

Tại các trại, PED thường bùng phát vào mùa lạnh (từ tháng 11 đến tháng 4), thời

gian lây lan nhanh, thường xảy ra đầu tiên trên đàn lợn nái, tỷ lệ lợn biểu hiện

tiêu chảy cao (trung bình 76,8%). Lợn ở tất cả các lứa tuổi đều bị tiêu chảy (có

thể lên tới 100%), tỷ lệ chết cao ở lợn con theo mẹ (68,6%). Có sự khác biệt lớn

về mức độ cảm nhiễm, tỷ lệ biểu hiện tiêu chảy, tỷ lệ chết, thời gian tiêu chảy

giữa các trại và giữa các nhóm tuổi, giới tính. Triệu chứng chủ yếu ở lợn mắc

PED là tiêu chảy, nôn mửa, bỏ ăn, kèm theo các rối loạn về hô hấp, thần kinh,

14

mức độ trầm trọng, đặc biệt là lợn có số ngày tuổi thấp (dưới 7 ngày tuổi). Bệnh

tích đại thể ở lợn con thường gặp là thành ruột non mỏng, căng phồng toàn bộ

hoặc từng đoạn (61,3 - 94%); dạ dày sung huyết, xuất huyết (19,4 - 84%); hạch

lympho màng treo ruột, gan sung huyết, ứ huyết; tĩnh mạch màng treo ruột sung

huyết nặng, khó quan sát thấy mạch bạch huyết ở màng treo ruột. Bệnh tích vi

thể chủ yếu đường tiêu hóa: lông nhung đứt nát, ngắn lại; tế bào biểu mô hấp thu

thoái hóa không bào; biểu mô phủ dạ dày, ruột bong tróc; sung huyết, xuất huyết,

thâm nhiễm tế bào viêm ở lớp đệm và lớp hạ niêm mạc đường tiêu hóa.

Nguyễn Trung Tiến & cs. (2013) đã thu thập 148 mẫu bệnh phẩm là các

mẫu phân và ruột của lợn nghi mắc PED thu thập được từ 3 tỉnh là Quảng Trị,

Thái Nguyên và Thái Bình từ năm 2013 - 2014 và các mẫu bệnh phẩm này đã

được chẩn đoán bằng phương pháp RT-PCR. Kết quả chẩn đoán cho thấy 57/148

(38,51%) mẫu bệnh phẩm dương tính với virus PED.

Nghiên cứu một số đặc điểm dịch tễ và bệnh lý của PED ở một số tỉnh

phía Bắc và khảo sát ở 31 trại lợn có biểu hiện tiêu chảy ở mọi lứa tuổi, điều trị

bằng kháng sinh không hiệu quả, tỷ lệ chết tập trung ở lợn con theo mẹ (Nguyễn

Văn Điệp & cs., 2014). Đồng thời đã nghiên cứu ứng dụng kỹ thuật RT-PCR

chẩn đoán bệnh tiêu chảy do PEDV gây ra ở lợn con theo mẹ tại huyện Văn Lâm,

tỉnh Hưng Yên. Nghiên cứu này đã được tiến hành trên đàn lợn con theo mẹ dưới

10 ngày tuổi. Những lợn con bị mắc PED thường có biểu hiện chán ăn, bỏ ăn, tiêu

chảy, phân nhiều nước màu vàng, có sữa không tiêu, ruột non căng phồng, thành

ruột bị bào mỏng, chứa dịch màu vàng, hạch màng treo ruột sưng to. Kết quả xét

nghiệm bằng RT-PCR cho thấy tất cả lợn có biểu hiện triệu chứng lâm sàng, bệnh

tích trên đều dương tính với PEDV.

Qua 9 đời cấy chuyển liên tiếp 83 mẫu ruột non của lợn mắc PED trên tế

bào Vero trong điều kiện môi trường không bổ sung trypsin đã không thu được

chủng virus PED nào, trong khi đó môi trường bổ sung 5 µg/ml trypsin và bổ

sung 10µg/ml trypsin đã lần lượt thu được 11 và 13 chủng PEDV phân lập

(Nguyễn Thị Hoa & cs., 2018).

Theo Mai Thi Ngan (2020), miền Bắc Việt Nam là vùng đặc hữu của PED

với tỷ lệ trang trại dương tính với PED là 30,89%, trong đó những trại có quy mô

lớn tỷ lệ mắc bệnh là 37,7% còn những trại ở quy mô nhỏ có tỷ lệ mắc bệnh thấp

15

hơn (23,8%).

2.4. MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM CỦA VIRUS PED

2.4.1. Phân loại

Dựa trên đặc điểm kháng nguyên và di truyền, virus gây bệnh PED (PEDV) được xếp vào chi Coronavirus, họ Coronaviridae, cùng với TGEV,

Coronavirus gây bệnh cho mèo (Feline coronavirus), Coronavirus gây bệnh cho

chó (Canine coronavirus) và Coronavirus 229E ở người (Human coronavirus)

(Gonzales & cs., 2003). Hạt PEDV mang những điểm đặc trưng của họ

Coronaviridae. Theo phân loại về huyết thanh học, người ta xác định vius PED

hiện mới chỉ có 1 serotype. Các chủng PEDV phân lập từ châu Âu, Hàn Quốc và

Trung Quốc đều tương đồng về mặt huyết thanh với với chủng CV777 phân lập

từ thực địa ở Bỉ năm 1978 (Kweon & cs., 1993).

Dựa vào kết quả giải trình tự gen cho thấy virus gây PED có quan hệ gần

gũi nhất với Coronavirus gây bệnh cho người chủng 229E và TEGV.

Hình thái của PEDV trong tế bào biểu mô đường tiêu hoá tương tự như các

Coronavirus khác (Ducatelle & cs., 1981). Virus có một nhân đậm đặc điện tử với

quầng sáng ở giữa và những phần toả ra từ nhân dạng chuỳ dài xấp xỉ 20nm. Hạt

virus xác định từ mẫu phân có hình thái đa dạng và đường kính biến đổi từ 90 đến 190nm (hình 2.2, 2.3) (Pensaert & cs., 1981). Virus nhân lên thông qua việc nảy

chồi từ các màng bên trong bào tương tế bào vật chủ.

Nguồn Pensaert & cs.(1981)

16

Hình 2.2. Virus PED chủng KPEDV-9 phân lập tại Hàn Quốc nhuộm với urany acetat 2%. Chiều dài thanh nằm ngang tương đương 100nm

Nguồn Pensaert & cs. (1981)

Hình 2.3. Hạt virus PED trong mẫu phân lợn nhiễm PED tại trang trại ở Ohio Hoa Kỳ quan sát qua kính hiển vi điện tử

2.4.2. Hình thái cấu trúc

Về đặc điểm cấu tạo phân tử, PEDV là virus có vỏ bao bọc, bộ gen là sợi

RNA đơn dương, đường kính khoảng 95-190nm, có một lớp bề mặt dùi cui nhô ra

dài khoảng 18- 23nm, kích thước khoảng 28kb với mũ 5’ và đuôi polyA 3’. Bộ gen

của virus gồm một vùng không dịch mã đầu (UTR) 5’, một UTR đầu 3’, ít nhất 7

khung đọc mở (ORF) mã hoá cho 4 protein cấu trúc gồm gai (S), vỏ (E), màng (M),

và nucleocapsid (N) và 3 protein không cấu trúc (enzym tái bản replicases 1a, 1b và

ORF3). Những khung đọc mở này được sắp xếp theo trình tự: 5’-replicase (1a, 1b) –

S – ORF3 – E – M – N – 3’ (hình 2.4) (Murphy & cs., 1999).

Gen polymerase gồm 2 khung đọc mở (Open Reading Frame – ORF) 1a

và 1b, chiếm 2/3 bộ gen tính từ đầu 5’ và mã hoá cho các polyprotein tái bản

không cấu trúc (replicase 1a và 1b). Các gen mã hoá cho protein cấu trúc chính

như S (150-220 kDa), E (7kDa), M (20-30kDa) và N (58kDa) nằm ở vị trí tiếp

nối gen polymerase. Gen ORF3 là một gen phụ trợ, nằm giữa các gen cấu trúc.

Nó mã hoá cho một protein bổ trợ, số lượng và trình tự của các gen thay đổi ở

17

các coronavirus khác nhau (Narayanan & cs., 2008).

Nguồn Murphy & cs. (1999)

Hình 2.4. Cấu trúc phân tử virus PED

Protetin cấu trúc của PEDV tương tự như các coronavirus khác. Virus có

một protein gai (S) với trọng lượng phân tử khoảng 180-200 kDa, một protein

màng (M) 27-32 kDa, một protein nucleocapsid gắn với RNA nặng 57-58 kDa

(Duarte & cs., 1994).

Protein S của PEDV là glycoprotein loại 1 gồm 1383 amino acid (aa). Nó

chứa một chuỗi peptid tín hiệu (1-18aa), các epitop trung hoà (499-638, 748 -

755), 764-771, và 1.368 – 1.374), một vùng xuyên màng (1.334 – 1.356), và một

vùng ngắn nằm trong bào tương. Protein S cũng có thể được chia thành vùng S1

(1-789aa) và vùng S2 (790 – 1.383aa) dựa trên tính tương đồng của nó ở

coronavirus khác nhau. Giống như các protein S của coronavirus khác, protein S

của PEDV là một loại gai glycoprotein (kháng nguyên bề mặt) trên bề mặt virus, chúng đóng vai trò quan trọng trong việc điều hoà tương tác với các glycoprotein

thụ thể đặc hiệu trên tế bào vật chủ trong quá trình xâm nhập, kích thích tạo

kháng thể trung hoà ở vật chủ tự nhiên (Chang & cs., 2002). Ngoài ra, glycoprotein S cũng liên quan tới sự thích nghi sinh trưởng trong điều kiện phòng thí nghiệm và sự giảm độc lực khi gây bệnh trên động vật (Park & cs., 2013).

Trong nghiên cứu chế tạo vacxin phòng bệnh, hiện tại các nhà khoa học chủ yếu tập trung vào glycoprotein này. Để đạt kết quả tốt hơn, cần tiến hành các nghiên cứu sâu hơn về cấu trúc virus PEDV để làm rõ mối quan hệ di truyền, sự đa dạng về chủng, tình trạng dịch tễ học của PEDV trên thực địa và mối quan hệ giữa các

18

dạng đột biến với chức năng của virus (Puranaveja & cs., 2009).

Protein M là thành phần vỏ lớn nhất của virus PED, glycoprotein cấu trúc màng với một đầu tận cùng gắn amin ngắn phía ngoài virus và một đầu tận cùng

gắn carboxy ở bên trong (Utiger & cs., 1995). Protein M không chỉ đóng vai trò

quan trọng trong chu trình lắp ráp virus (Nguyen & Hogue, 1997) mà còn trong

việc tạo ra kháng thể trung hoà virus với sự có mặt của bổ thể (Saif, 1993). Protein M có thể đóng một vai trò trong quá trình tạo ra α-interferon (α-IFN) (Bridgen &

cs., 1993). Việc đồng thời biểu hiện protein M và N cho phép tạo thành các hạt giả virus có khả năng biểu lộ hoạt tính sinh interferon tương tự như hạt virus hoàn

chỉnh. Việc tiến hành thêm các nghiên cứu về glycoprotein M sẽ làm tăng thêm

hiểu biết về mối quan hệ di truyền, sự đa dạng giữa các chủng PEDV và tình

trạng dịch tễ của PEDV trên thực địa (Zhang & cs., 2012).

Protein N là một phosphoprotein cơ bản gắn với RNA virus, cung cấp nền

tảng cấu trúc cho các nucleocapsid xoắn kép (Hurst & cs., 2009). Các epitop

protein N được chứng minh là đóng vai trò quan trọng trong việc gây ra miễn

dịch trung gian tế bào protein.

2.4.3. Đặc tính sinh học PEDV

Virus ổn định trong nhiệt độ thấp song rất dễ bị phá hủy ở điều kiện nhiệt

độ phòng. Ở nhiệt độ âm sâu sau 1 năm hiệu giá virus giảm không đáng kể, ở 370C sau 4 ngày virus mất hoàn toàn khả năng gây nhiễm. Virus tương đối ổn định ở nhiệt độ từ 4 đến 500C so với nhiệt độ cao hơn. Khi ủ trong môi trường nuôi cấy tế bào ở 40C thì virus tồn tại và phát triển được với phạm vi pH (3 - 10) trong 6 giờ, trong khi ở 370C trong 6 giờ, nó chỉ giữ được khả năng lây nhiễm trong khoảng pH từ 5 đến 8,5 và virus bị bất hoạt hoàn toàn ở môi trường

có độ pH thấp hơn 4 và cao hơn 9 (Hofmann & Wyler, 1989).

Pospischil & cs. (2002) đã chứng minh rằng PEDV bị bất hoạt bởi chất

khử trùng như Ether, Chloroform, 2% Natri hydroxit formaldehyde và Glutaraldehyde, Natri cacbonat (4% khan hoặc tinh thể 10%, với 0,1% chất tẩy rửa), chất tẩy rửa ion và không ion, 1% Iodophors mạnh trong axit Photphoric, và

các dung môi lipid như Chloroform.

19

Virus kháng với trypsin, ổn định trong mật lợn và pH, do đặc tính đó lên virus sống được trong dạ dày và ruột non. PEDV bền ở khoảng pH 5,0 – 9,0 ở 40C và pH từ 6,5 – 7,5 ở 370C (Callebaut & cs., 1982). PEDV đã thích ứng với

môi trường nuôi cấy bị mất khả năng lấy nhiễm khi đun chúng tới 600C trong 30 phút, nhưng chúng khá bền ở 500C.

PEDV có 1 serotype duy nhất. Có 2 chủng PEDV là chủng PED1 gây

bệnh cho lợn trên 5 tuần tuổi và chủng PED2 gây bệnh mọi lứa tuổi, khó phân

biệt với TGE.

2.4.4. Tính chất nuôi cấy

PEDV có thể nhân lên khi gây bệnh thực nghiệm bằng cách cho lợn con uống virus. PEDV có khả năng thích ứng kém trong điều kiện nuôi cấy phòng thí

nghiệm. Đến nay tế bào Vero có thể cấy chuyển được PEDV, gây bệnh tích tế

bào; tuy nhiên sự phát triển của virus phụ thuộc vào sự có mặt của trypsin trong

môi trường nuôi cấy, hiệu giá virus đạt tối đa sau khi nuôi cấy 15 giờ. Trypsin

đóng một vai trò quan trọng trong quá trình xâm nhập tế bào và giải phóng virion

PEDV trong tế bào Vero, góp phần sao chép hiệu quả và lây lan virus sang các tế

bào lân cận trong ống nghiệm (Shirato & cs., 2011, Wicht & cs., 2014). Trypsin

phân cắt protein S thành các tiểu đơn vị S1 và S2, đây có thể là nguyên nhân dẫn

đến sự kết hợp giữa tế bào với tế bào và giải phóng virion từ các tế bào Vero bị

nhiễm bệnh (Shirato & cs., 2011). Ngoài ra một số loại tế bào có thể nuôi cấy

virus như tế bào túi mật lợn và tế bào thận lợn.

2.5. HIỂU BIẾT VỀ DỊCH TIÊU CHẢY CẤP Ở LỢN (PED)

2.5.1. Dịch tễ học

Dịch xảy ra trên lợn ở mọi lứa tuổi đặc biệt là lợn dưới 5 ngày tuổi. Trong ổ dịch tỷ lệ ốm có thể tới 100%, tỷ lệ chết 50 – 100% (Sun & cs., 2012; Nguyễn Tất Toàn & Đỗ Tiến Duy, 2013; Geiger & Connor, 2013; Ge & cs., 2013; Murakami & cs., 2014; Alvarez & cs., 2015; Ojkic & cs., 2015; Sung & cs., 2015; Yamane & cs., 2016).

Dịch xảy ra quanh năm nhưng chủ yếu vào mùa đông do nhiệt độ thấp virus tồn tại lâu trong môi trường (Callebaut & cs., 1982; Hofmann & Wyler,

1989; Thai Swine Veternary Association, 2015).

Chất chứa mầm bệnh chủ yếu trong phân và các chất nôn thải ra của lợn nhiễm bệnh, phân có thể chứa virus gây bệnh đến 100 ngày. Sữa mẹ cũng có thể nhiễm virus và là nguồn lây nhiễm virus sang lợn con. Thức ăn, nước uống, dụng cụ chăn nuôi, vận chuyển là vật trung gian truyền bệnh (Song & cs., 2005; Li &

20

cs., 2012; Sun & cs., 2012; Kim & cs., 2017; Toyomaki & cs., 2018).

Đường tiêu hóa là phương thức chủ yếu để virus truyền sang vật chủ khác hoặc có thể do trực tiếp tiếp xúc giữa lợn mang mầm bệnh và lợn khỏe, nhất là ở

những lợn đang hồi phục sau 1 – 2 tuần. PED thể cấp tính thường xảy ra ở thời

điểm 4 – 5 ngày sau khi mua về, virus có thể xâm nhập vào trại thông qua lợn

nhiễm virus được chuyển về hoặc các dụng cụ vận chuyển có mang virus (Sasaki & cs., 2016; Kim & cs., 2017).

Khi dịch xảy ra ở trại lợn sinh sản, virus có thể được bài thải từ đàn mắc

bệnh hoặc trở thành dịch địa phương. Một chu kỳ dịch địa phương có thể được

hình thành nếu số lứa lợn được sinh ra và cai sữa trong trại đủ lớn để duy trì sự lưu hành của virus thông qua việc lây nhiễm giữa các lứa kế tiếp nhau khi lợn

con mất khả năng miễn dịch lúc cai sữa. PEDV có thể gây ra tiêu chảy dai dẳng trên lợn con sau cai sữa ở những trại như vậy (Nguyễn Văn Điệp & Nguyễn Thị

Lan, 2013). Alonso & cs. (2014) đã phát hiện và chứng minh được virus PED có

thể tồn tại trong không khí và các hạt bụi lơ lửng trong không khí cách ổ dịch

PED 10 dặm.

2.5.2. Cơ chế sinh bệnh

Cơ chế sinh bệnh của PED được nghiên cứu trên lợn con không được

uống sữa đầu. Cho lợn con 3 ngày tuổi uống virus chủng CV777 (Debouck & cs.,

1981) sau khoảng 22 đến 36 giờ lợn bắt đầu nôn và tiêu chảy. Vị trí và sự nhân

lên của virus được xác định thông qua kỹ thuật miễn dịch huỳnh quang và kính

hiển vi điện tử truyền qua.

PEDV nhân lên trong bào tương của các tế bào lông nhung, phá huỷ các tế

bào biểu mô và làm ngắn lông nhung niêm mạc ruột, tỷ lệ chiều cao giữa lông

nhung và tuyến ruột có thể giảm từ 7:1 xuống còn 3:1 (Pospischil & cs.,1981). Các

tế bào biểu mô hấp thu ở lông nhung rất mẫn cảm với PEDV, những tế bào biểu

21

mô nhiễm virus có thể được quan sát sau 12 đến 18 giờ gây nhiễm, rõ nhất sau khoảng 24 đến 36 giờ, tuy nhiên không quan sát thấy có sự phá hủy tế bào biểu mô ở kết tràng. Tế bào ở ruột non của lợn bệnh xuất hiện một lượng lớn aminopeptidase N (APN), một protein xuyên màng được glycosyl hóa 150 kDa, được xác định là thụ thể của tế bào đối với PEDV. Mật độ cao của thụ thể trên tế bào ruột cho phép PEDV xâm nhập và tái tạo thông qua tương tác giữa virus và thụ thể (Li & cs., 2007). PEDV là chất phân giải tế bào và các tế bào ruột bị

nhiễm bệnh nhanh chóng bị hoại tử cấp tính, dẫn đến teo lông nhung rõ rệt ở ruột

non (tá tràng đến hồi tràng), không xảy ra ở ruột già (Jung & cs., 2014).

Sự nhân lên của PEDV trong đường ruột trong quá trình tiến triển của

bệnh là do PEDV liên kết và lây nhiễm vào các tế bào ruột APN. Sự kết hợp của virus trong các tế bào ruột bị nhiễm bệnh diễn ra nhanh chóng bằng cách nảy

chồi qua các màng nội chất như lưới nội chất và bộ máy Golgi (Ducatelle & cs.,

1981). Trong thời gian ủ bệnh, các tế bào dương tính với kháng nguyên PEDV

được nhìn thấy khắp ruột non và có tới 30–50% tế bào biểu mô hấp thụ dương

tính (Debouck & cs., 1981), phù hợp với hiện tượng thải phân của lợn không có triệu chứng trong giai đoạn cấp tính giai đoạn nhiễm trùng. Từ giai đoạn cấp tính

đến giai đoạn giữa (24–60 giờ sau khi bắt đầu có dấu hiệu lâm sàng) của nhiễm trùng, số lượng trung bình đến lớn các tế bào dương tính với kháng nguyên

PEDV được quan sát thấy khắp ruột non và ruột già, thường xuyên ảnh hưởng

đến toàn bộ biểu mô lông nhung (Debouck & cs., 1981). Trong giai đoạn sau của

nhiễm trùng (sau 72 giờ sau khi bắt đầu có dấu hiệu lâm sàng), vẫn quan sát thấy

một số lượng lớn tế bào biểu mô nhiễm PEDV, cho thấy PEDV tái nhiễm các tế

bào ruột tái sinh (Debouck & cs., 1981).

Cơ chế sinh bệnh của PEDV ở lợn giai đoạn lớn hơn vẫn chưa được

nghiên cứu chi tiết, nhưng bằng kỹ thuật miễn dịch huỳnh quang có thể quan sát

thấy virus có mặt trong tế bào biểu mô kết tràng của lợn mắc bệnh tự nhiên hoặc

được gây nhiễm. Ý nghĩa của việc virus xâm nhiễm ở kết tràng có làm cho bệnh

nặng hơn hay không vẫn chưa được rõ. Hiện vẫn chưa có cơ chế thích hợp nào

được đưa ra để lý giải hiện tượng lợn chết đột ngột kèm theo việc hoại tử cơ lưng

cấp tính quan sát thấy ở lợn vỗ béo và lợn trưởng thành (Nguyễn Văn Điệp &

Nguyễn Thị Lan, 2013).

2.5.3. Triệu chứng

Bệnh xảy ra trên nhiều lứa tuổi kể cả lợn nái, bùng phát nhanh và lây mạnh. Tuy nhiên nếu xảy ra ở lợn sơ sinh thì bệnh là một trong những nguyên nhân gây thiệt hại đáng kể về kinh tế. Thời gian lây lan rất nhanh (2-3 ngày đến 1 tuần), thời gian nung bệnh ngắn từ 18 – 72 giờ, thời gian ủ bệnh và tỷ lệ chết tỷ lệ nghịch với lứa tuổi (Shibata & cs., 2000). Khi bệnh tấn công vào một đàn lợn chưa có miễn dịch, tỷ lệ chết của lợn con theo mẹ tùy thuộc vào độ tuổi nhiễm bệnh.

22

Nếu lợn con mắc bệnh ở dưới 1 tuần tuổi: tỷ lệ chết 100%, lợn trên 7 ngày tuổi

nếu được can thiệp phù hợp thì tỷ lệ chết sẽ giảm, ở giai đoạn lớn hơn, lợn thường tự hồi phục sau khi quá trình tiêu chảy kéo dài được 1 tuần (Nguyễn Ngọc

Hải & Đỗ Tiến Duy, 2017) .

Các triệu chứng lâm sàng điển hình của PED bao gồm tiêu chảy ra nước, phân vàng, nôn mửa, mất nước, nằm chồng lên nhau và nằm lên bụng lợn mẹ.

Chúng sẽ chết trong vòng 3 - 4 ngày do mất nước. Khi chết, xác lợn gầy kèm theo

các triệu chứng như mắt lõm sâu (Song & Park, 2012).

Một báo cáo khác cho thấy, tại một trại nuôi lợn thịt mới nhập lợn về từ

nhiều nguồn khác nhau hoặc trong giai đoạn nuôi vỗ béo, nếu PED bùng phát ở

thể cấp tính, trong vòng một tuần, tất cả lợn sẽ có biểu hiện tiêu chảy. Lợn có

biểu hiện chán ăn, mệt mỏi, phân rất loãng, chứa nhiều nước. Giai đoạn vỗ béo

lợn thường có biểu hiện đau vùng bụng nhiều hơn, sau khoảng 7 - 10 ngày, lợn sẽ

hồi phục. Tỷ lệ chết ở lợn trong giai đoạn vỗ béo thường từ 1 đến 3%, lợn chết

nhanh, thường ở giai đoạn mới bắt đầu tiêu chảy hoặc trước khi có biểu hiện tiêu

chảy. Tỷ lệ chết cao nhất được thấy ở những trại có lợn giống mẫn cảm và chịu

nhiều stress (Nguyễn Văn Điệp & Nguyễn Thị Lan, 2013).

Theo Thai Swine Veternary Association (2015), lợn ở mọi lứa tuổi rất

mẫn cảm với virus PED và các triệu chứng lâm sàng tương tự như nôn mửa, tiêu

chảy nhưng có mức độ nghiêm trọng khác nhau. Các triệu chứng lâm sàng đặc

biệt của lợn con mắc bệnh bao gồm sữa đông nôn mửa, tiêu chảy và lợn con nằm

trên bụng lợn nái. Ở các trại nuôi lợn thịt nếu PED bùng phát ở thể cấp tính,

trong vòng một tuần, tất cả lợn sẽ có biểu hiện tiêu chảy. Lợn có biểu hiện chán

ăn, mệt mỏi, phân rất loãng, chứa nhiều nước, thường có biểu hiện đau vùng bụng nhiều hơn. Sau khoảng 7 - 10 ngày, lợn sẽ hồi phục. Tỷ lệ tử vong ở lợn

trong giai đoạn vỗ béo thường từ 1 đến 3%, lợn chết nhanh, thường ở giai đoạn

mới bắt đầu tiêu chảy hoặc trước khi có biểu hiện tiêu chảy (Pospischil & cs.,

2002).

2.5.4. Bệnh tích

2.5.4.1. Bệnh tích đại thể

Lợn con theo mẹ nếu chết tự nhiên bị phủ một lớp phân màu vàng, gầy

còm và mất nước rõ rệt bằng chứng là mắt trũng sâu, da kém đàn hồi và các mô

23

dưới da dính chặt, đường tiêu hóa thường trống rỗng và thành ruột non mỏng (Gregory & cs., 2013). Thành ruột của lợn mắc bệnh trở nên mỏng là kết quả của

sự thoái hóa, hoại tử không tăng sinh thay thế được của lớp tế bào biểu mô thành ruột (Pospichil & cs., 1981, Sueyoshi & cs., 1995). Dạ dày chứa sữa, ruột non và

ruột già bị căng phồng với nước có màu vàng trong mờ, ruột bị sung huyết (Ojkic

& cs., 2015). Lợn mắc bệnh có dạ dày sưng và căng phồng chứa sữa đông đặc,

thành ruột non mỏng chứa chất lỏng màu vàng xanh, các hạch bạch huyết ở màng treo ruột sưng to (Thai Swine Veternary Association, 2015).

2.5.4.2. Bệnh tích vi thể

Các nguyên nhân bệnh nhất là virus, vi khuẩn khi tác động gây tổn thương ở

ruột không phải bao giờ cũng giống nhau; một số gây tổn thương ở những tế bào đặc

biệt, một số gây tổn thương đến tế bào biểu mô, một số tác động vào lông nhung

hoặc gây tổn thương đến rãnh ruột… Cũng có trường hợp chức năng ruột bị rối loạn

nặng tổn thương hình thái lại không rõ ràng. Một số bệnh lúc đầu gây tổn thương tế

bào đích nhưng do quá trình tiến triển của bệnh kéo dài nên đã lan rộng ra các thành

phần khác như: niêm mạc, hạ niêm mạc, lớp đệm và cả lớp áo cơ.

Các tổn thương chủ yếu chỉ xảy ra ở ruột non, trong đó 100% lợn đều bị

teo, dính các lông nhung. Các tế bào ruột trên lông nhung đôi khi bị suy giảm và

thỉnh thoảng có thể nhìn thấy bạch cầu trung tính hoặc mảnh vụn nhân pyknotic ở

lớp đệm bề mặt. Ở một số lợn con, biểu mô đầu lông nhung có dạng cột. Đôi khi ở

đầu lông nhung có thể nhìn thấy những đám tế bào biểu mô tròn 2 hoặc 3 tế bào bị

tróc vảy (Gregory, 2013). Tế bào niêm mạc ruột bị hoại tử bắt màu hồng đều, mất

cấu trúc tế bào, không phân biệt được phần nhân tế bào và tế bào chất. Bên cạnh

đó còn thấy lớp lông nhung của biểu mô niêm mạc ruột bị phá hủy, các tuyến tiết

dịch tiêu hóa cũng không còn (Nguyễn Tất Toàn & Nguyễn Tiến Duy, 2013).

Các nghiên cứu vi thể đã cho thấy có sự hiện diện rõ rệt của các hạt virus

bên trong bào tương tế bào và sự thay đổi tế bào ở các tế bào biểu mô ruột non và

kết tràng (Ducatelle& cs., 1982). Những sự thay đổi cấu trúc siêu vi thể được khởi đầu đặc trưng bằng sự mất đi của các bào quan, vi nhung, lưới tận và phần nhô ra của bào tương tế bào hấp thu vào trong xoang ruột (Pospischil & cs., 1981). Sau đó, các tế bào trở nên dẹt hơn, liên kết vòng bịt giữa các tế bào biểu mô mất đi và tế bào được giải phóng vào bên trong lòng ống ruột.

24

Gregory & cs. (2013) cho biết lợn khi mắc PED các tổn thương cấp tính nhất là của các tế bào biểu mô thoái hóa trên bề mặt bên và các đầu của lông nhung. Các tế bào bị sưng lên một cách khác nhau với tế bào chất bạch cầu ái

toan dạng hạt, đôi khi chứa các không bào proteinic màu hồng nhạt từ tròn đến bầu dục có kích thước thay đổi. Các tế bào sưng lên dẫn đến đường viền bàn chải

có hình vỏ sò không còn là bề mặt phát sáng tuyến tính bình thường hơn. Một số

tế bào mất gắn kết với các tế bào lân cận trên bề mặt bên và với màng đáy trên bề

mặt cơ bản của chúng. Các tế bào biểu mô hợp bào được quan sát có chứa nhiều nhân. Các vi nhung bị rút ngắn một cách khác nhau với sự ngưng tụ của lớp đệm

gần các đầu của lông nhung. Các lông nhung bị teo nghiêm trọng. Các đầu của lông nhung bị bào mòn hoặc bị bao phủ bởi các tế bào biểu mô suy giảm rõ rệt

với hình thái hình khối thấp đến hình vảy. Lớp đệm được cô đặc trong suốt chiều

dài của lông nhung và thường chứa các mảnh vụn nhân và ít bạch cầu trung tính.

Tế bào biểu mô lông nhung sưng lên có tế bào chất dạng hạt, đôi khi chứa các

không bào màu hồng nhạt có kích thước thay đổi từ hình tròn đến hình bầu dục.

Trong nghiên cứu về tổn thương do PEDV ở lợn 3 ngày tuổi Pensaert &

cs. (1992) cho biết sau khi gây nhiễm từ 12 đến 36 giờ thì thấy virus nhân lên ở

tế bào ruột non và gây thoái hoá và tổn thương các tế bào lông nhung (villous),

làm cho tỷ lệ chiều cao giữa lông nhung và rãnh ruột (crypt) giảm xuống còn 3:1,

trong khi đó tỷ lệ này ở lợn khoẻ mạnh là 7:1.

Theo Lee & cs. (2000), virus PED nhân lên trong tế bào biểu mô ruột, làm

cho tế bào lông nhung bị đứt nát và dính vào nhau. Cũng nghiên cứu về vấn đề

này, Gregory & cs. (2013) cho biết tỷ lệ chiều cao giữa lông nhung và rãnh ruột

(crypt) của ruột lợn 19 ngày tuổi mắc PED giảm xuống còn 1:1.

2.5.5. Hậu quả của dịch tiêu chảy cấp ở lợn

Virus PED xâm nhập vào cơ thể lợn qua đường miệng và được nhân lên

tại lông nhung của niêm mạc ruột gây nên hiện tượng tiêu chảy. Vì vậy, hậu quả

chung đó là sự mất nước, mất các chất điện giải, rối loạn cân bằng axit- bazơ (Lê

Minh Trí, 1995). Hiện tượng mất nước rất nghiêm trọng và có thể gây chết nếu như không được can thiệp kịp thời bằng biện pháp bù nước, điện giải (Archine, 2000). Ở lợn bị tiêu chảy khả năng tiêu hóa, khả năng chuyến hóa và hấp thu các chất dinh dưỡng đều giảm nên lợn gầy còm, chậm tăng trọng dễ dàng mắc các bệnh khác (Phạm Sĩ Lăng & cs., 1997).

Tiêu chảy do PEDV gây ra là hậu quả của tình trạng kém hấp thu do mất

nhiều tế bào ruột hấp thu. Rối loạn chức năng của các tế bào ruột bị nhiễm trùng

25

cũng góp phần gây ra tiêu chảy kém hấp thu. Trong các tế bào ruột bị nhiễm

bệnh được kiểm tra bằng kính hiển vi điện tử, sự mất tế bào chất và sự thoái hóa

nhanh chóng của ty thể dẫn đến thiếu năng lượng vận chuyển cần thiết cho sự

hấp thụ. Những thay đổi siêu cấu trúc và sự hút chân không nhẹ được quan sát

thấy trong các tế bào biểu mô ruột già bị nhiễm bệnh có thể cản trở sự tái hấp thu

nước và chất điện giải quan trọng. Tuy nhiên, tình trạng mất nước trở nên trầm

trọng hơn do nôn mửa nhưng cơ chế gây ra nôn mửa khi lợn mắc PED vẫn chưa

được làm sáng tỏ (Ducatelle & cs., 1982).

Tương tự như tăng Kali máu và nhiễm toan trong nhiễm trùng TGEV cấp

tính (Saif & cs., 2012). Lợn con được tiêm PEDV vào 1 ngày sau khi bắt đầu bị

tiêu chảy nặng có biểu hiện tăng Natri máu, tăng Kali máu và tăng Clo huyết,

nhưng với Canxi và Bicarbonat bị giảm (Jung & Saif, 2015). Các enzym tiêu hóa

như Disaccharidases (Lactase, Sucrase và Maltase), leucine APN, và phosphatase

kiềm giảm đáng kể trong ruột non của lợn con tiêu chảy, giảm hoạt động của

enzym trong ruột non nên quá trình tiêu hoá giảm dẫn đến tiêu chảy (Coussement

& cs., 1982; Jung & cs., 2006).

Quá trình lây nhiễm virus PED vào ngày thứ 3 - 5 thì lợn có biểu hiện các

dấu hiệu lâm sàng, xảy ra quá trình viêm - hoại tử cấp tính trong mô ruột, phá

hủy và bong vảy của biểu mô của ruột non đi kèm với sự gia tăng số lượng hồng

cầu, bạch cầu và bạch cầu đơn nhân, huyết sắc tố, tỷ khối hồng cầu. Ngược lại thì

hàm lượng Albumin giảm và Canxi tổng số giảm (Masiuk & cs., 2018; Zhang &

cs., 2019).

Tính toàn vẹn của ruột bị suy giảm có thể dẫn đến mất nước vào lòng ruột

với áp suất thẩm thấu cao do nhiễm PEDV cũng như sự hấp thu của các vi khuẩn

trong ruột gây ra các bệnh kế phát nên các triệu chứng trầm trọng và hậu quả để

lại nặng nề hơn (Jung & Saif, 2015).

Mặt khác, ở lợn mắc dịch tiêu chảy cấp (PED) có sự thay đổi số lượng

một số vi khuẩn trong hệ vi sinh đường ruột dẫn đến quá trình loạn khuẩn gây

tiêu chảy kế phát. Kết quả nghiên cứu về sự thay đổi hệ vi sinh vật đường ruột ở

lợn con theo mẹ mắc dịch tiêu chảy cấp PED số lượng vi khuẩn E. coli tăng lên rõ rệt (6,1x109 CFU/G), số lượng này ở lợn cùng độ tuổi khoẻ mạnh là 3,6x108 CFU/G, trong khi đó vi khuẩn Salmonella không xuất hiện trong các nghiên cứu

26

này (Masiuk & cs., 2018; Huang & cs., 2019).

2.5.6. Chẩn đoán

2.5.6.1. Chẩn đoán lâm sàng

Dựa vào triệu chứng đặc trưng của dịch bệnh: lợn con tỷ lệ mắc và chết cao, dưới 5 ngày tuổi tỷ lệ chết 100%, lợn tiêu chảy mạnh gầy còm, lợn con nằm

trên bụng mẹ, điều trị bằng các loại kháng sinh đặc trị cầm tiêu chảy không có

hiệu quả (Sun & cs., 2012; Song & Park, 2012; Ojkic & cs., 2015; Nguyễn Ngọc

Hải & Đỗ Tiến Duy, 2017) .

2.5.6.2. Chẩn đoán phi lâm sàng

Kim &Chae (2002) đã so sánh ba kỹ thuật (phản ứng RT-PCR, hóa miễn dịch và lai tại chỗ) để xác định PEDV. Tác giả kết luận rằng RT-PCR xác định sự

có mặt của PEDV thường xuyên hơn các phương pháp khác. Tuy nhiên, dù chỉ áp dụng được trên các mô cố định bằng Formalin, hóa mô miễn dịch và lai tại

chỗ có thể là một công cụ hiệu quả để xác định kháng thể.

- Để tìm virus trong phân, có thể sử dụng phương pháp soi trực tiếp dưới

kính hiển vi điện tử, tuy nhiên việc quan sát hạt virus sẽ rất khó khăn.

- Phát hiện vius từ tế bào biểu mô ruột non bằng phương pháp nhuộm

kháng thể huỳnh quang, nhuộm kháng thể peroxidase.

Do các virus gây ra tiêu chảy có các đặc điểm lâm sàng tương đối giống

nhau nên không thể dựa vào các đặc điểm này để chẩn đoán PEDV. Do đó việc

chỉ ra sự có mặt của PEDV được thực hiện trong các phòng thí nghiệm

(Kusanagi & cs., 1992; Ren & Li, 2011). Nhiều kỹ thuật được sử dụng trong việc

phát hiện PEDV như miễn dịch huỳnh quang, sử dụng kính hiển vi điện tử hoặc

phản ứng ELISA (Enzyme-linked immunosorbent assay), tuy nhiên các kỹ thuật

này tiêu tốn nhiều thời gian và độ nhạy cũng như tính đặc hiệu thấp. Kỹ thuật

chẩn đoán dựa trên phương pháp RT-PCR (Reverse transcription polymerase chain reaction) được phát triển để phát hiện virus cả trong phòng thí nghiệm và từ thực địa (Tobler & Ackermann, 1996). Để khẳng định sự có mặt của PEDV trong mẫu bệnh phẩm, mồi đặc hiệu được thiết kết dựa trên trình tự gen M (Kweon & cs., 1997). Trong những năm gần đây, dựa trên kỹ thuật RT-PCR cơ bản, đã có rất nhiều những cải tiến để cho những ứng dụng hiệu quả hơn, như việc sử dụng multiplex-RT-PCR để phát hiện PEDV trong sự có mặt của nhiều

27

virus khác nhau, là một kỹ thuật thường được sử dụng cho chẩn đoán nhanh, độ nhạy và hiệu quả kinh tế cao trên các đối tượng với các virus gây ra viêm ruột dạ

dày cấp tính ở lợn (Song & cs., 2006). RT loop-mediated isothermal amplification (RT-LAMP) cũng là một kỹ thuật hữu dụng được phát triển dựa

trên kỹ thuật RT-PCR cơ bản. Trong kỹ thuật này, 4 - 6 mồi được sử dụng để

nhận biết 6 - 8 vùng DNA đích, điều này tạo ra tính đặc hiệu cao hơn so với kỹ

thuật gel-based RT-PCR hay ELISA bởi vì nó tạo ra số lượng lớn hơn các đoạn DNA (Ren & Li, 2011). Các kit phân tích Immunochromatography cũng được sử

dụng phổ biến ở các trại chăn nuôi để phát hiện PEDV trên cơ sở protein S với độ nhạy 92% và độ đặc hiệu 98%. Kỹ thuật này có độ chính xác kém hơn RT-

PCR tuy nhiên cho phép chẩn đoán nhanh trong vòng 10 phút (Song & Park,

2012). Hiện nay ở Việt Nam, Nguyen Dinh Quat & cs. (2011) đã sử dụng

phương pháp nested-RT-PCR để phát hiện PEDV và Do Tien Duy (2011) đã

nghiên cứu đặc tính di truyền của PEDV phân lập được từ các tỉnh miền Nam Việt Nam. Ngoài ra chưa có nghiên cứu nào về mức độ quy mô và chuyên sâu để

đánh giá về đặc điểm phân tử, nguồn gốc tiến hóa và sự phân bố dịch tễ học của

các chủng PEDV đang lưu hành ở Việt Nam hiện nay.

Do tính phức tạp của các đợt dịch tiêu chảy cấp ở lợn trong thời gian gần

đây, các Công ty chăn nuôi lớn đã và đang sử dụng các Test Kit chẩn đoán

nhanh, chính xác và đặc hiệu các type PEDV đang lưu hành tại Việt Nam.

2.5.6.3. Chẩn đoán phân biệt

Ngoài PED còn có nhiều bệnh khác cũng gây triệu chứng tiêu chảy như:

a. Bệnh do Rota virus

Tuổi mắc bệnh từ 0 đến 7 ngày tuổi, tiêu chảy phân lỏng và có màu vàng.

Khi mổ khám thấy xác chết trong tình trạng mấy nước, hố mắt trũng sâu, lách

nhỏ và nhăn nheo, ruột non căng to do chứa dịch màu vàng, thành ruột mỏng.

Bệnh gây ra các tổn thương vi thể tế bào biểu mô ruột, tổn thương rõ ở 2/3 phía

trên của vi nhung, các vi nhung hoại tử và tách ra, sự hấp thu bị trở ngại, quá trình gián phân tăng lên ở các rãnh, tái tạo biểu mô bằng các tế bào chưa trưởng

thành. Có thể chẩn đoán bằng kháng thể huỳnh quang trên lát cắt ruột non trong

pha cấp tính của bệnh (Nguyễn Ngọc Hải & Đỗ Tiến Duy, 2017).

b. Bệnh viêm dạ dày ruột truyền nhiễm (TGE)

28

Bệnh TGE (Trasmissible Gastro Enterits) là một trong loại virus thuộc nhóm Coronavirus gây bệnh ở lợn. Đặc điểm lâm sàng của bệnh là nôn mửa và tiêu chảy có nhiều nước, màu vàng hoặc hơi xanh, lổn nhổn mùi khó chịu. Tuổi

mắc bệnh tất cả các lứa tuổi mắc bệnh nhưng nặng ở lợn con, 10 ngày tuổi, thường xảy ra vào mùa đông. Lợn mọi lứa tuổi đều bị nhiễm và phát bệnh; tuy nhiên, mức độ trầm trọng của bệnh lại khác nhau tùy theo lứa tuổi lợn ở lợn lớn, bệnh chỉ xảy ra tiêu chảy nhẹ, kéo dài trong vài ba ngày, sau đó vật tự khỏi. Ngược lại ở lợn con bệnh xảy ra trầm trọng hơn, lợn con theo mẹ thường nôn ra sữa chưa tiêu, vón cục, phân lỏng gần như chỉ mình nước và không có mùi đặc trưng như một số bệnh khác. Virus TGE phá hủy gần như toàn bộ lông nhung của thành ruột nên khi mổ khám thành ruột non mỏng, dạ dày chứa sữa không tiêu màu trắng. Tỷ lệ chết ở lợn con dưới 15 ngày tuổi trở lên tới 100%. Khi mổ khám thấy xác chết trong tình trạng mất nước, hố mắt trũng sâu, lách nhỏ và nhăn nheo, ruột non căng, chứa dịch màu vàng, thành ruột mỏng, trong có nhiều vùng xung huyết, trong mạch bạch huyết không có bạch huyết (Nguyễn Ngọc Hải & Đỗ Tiến Duy, 2017).

c. Bệnh do vi khuẩn Escherichia coli (E. coli)

Sau khi xâm nhập vào ống tiêu hóa trước hết vi khuẩn bám dính vào tế bào lông nhung ruột non bằng các yếu tố bám dính. Tại đây vi khuẩn phát triển nhân lên, phá hủy tế bào tổ chức, gây viêm và sản sinh Toxigenic và Verotoxin, gây tụ huyết xuất huyết gây tử vong rất nhanh, hoặc vi khuẩn khu trú tại ruột gây chứng viêm ruột cấp. Bệnh không có bệnh tích đặc trưng, khi mổ khám lợn bệnh có thể thấy sung huyết ở ruột non, dạ dày. Dạ dày có thể phồng to do sữa, thức ăn không tiêu hoá (Nguyễn Ngọc Hải & Đỗ Tiến Duy, 2017). Căn cứ vào giai đoạn phát triển người ta chia thành:

- Bệnh phân trắng lợn con: thường xảy ra ở lợn sơ sinh đến 21 ngày tuổi với những đặc điểm: lợn xù lông, gầy còm, suy nhược, các đầu xương nhô ra, mắt trũng sâu, phân lỏng nhiều nước thay đổi từ màu sáng trong sang màu trắng. - Bệnh tiêu chảy ở lợn con: thường xuyên xảy ra ở lợn từ 4 tuần tuổi đến sau cai sữa. bệnh này có triệu chứng giống bệnh phân trắng lợn con, nhưng mức độ tiêu chảy của bệnh không nặng và phân đổi màu nâu xám sang xám xanh.

d. Bệnh viêm ruột và nhiễm độc tố ruột huyết

29

Bệnh do Clostridium perfringens gây ra, bệnh chủ yếu xảy ra lợn dưới 1 tuần tuổi. Lợn thường tiêu chảy mạnh về sau phân có lẫn máu, tỷ lệ chết cao. Bệnh tích ruột căng phồng, xuất huyết. Để chẩn đoán chính xác bệnh cần áp dụng nhiều biện pháp chẩn đoán khác nhau, tùy điều kiện cho phép mà áp dụng kết hợp các biện pháp. Tuy nhiên để kết quả chẩn đoán chính xác cao việc điều tra

tình hình dịch bệnh, lịch sử bệnh, lịch sử nhập đàn là không thể thiếu (Nguyễn

Ngọc Hải & Đỗ Tiến Duy, 2017).

2.5.7. Phòng và điều trị

Dịch bệnh tiêu chảy cấp do PEDV gây ra đã và đang diễn ra hết sức

nghiêm trọng và gây thiệt hại kinh tế lớn cho ngành chăn nuôi lợn ở Việt

Nam. Việc phòng chống bệnh tiêu chảy do PEDV gây ra chủ yếu dựa vào sử

dụng vacxin. Trong khi các chủng virus thực địa thường xuyên có những biến

đổi phức tạp về mặt di truyền, do đó việc nắm bắt và cập nhật được các đặc

tính phân tử của các chủng PEDV đóng vai trò quan trọng, giúp cho việc lựa

chọn được vacxin thích hợp và hiệu quả phục vụ cho công tác tiêm phòng.

Trong khi đó, việc đánh giá và phân tích đặc điểm di truyền của các chủng

PEDV lưu hành ở Việt Nam còn rất hạn chế, điều này gây khó khăn trong việc

định hướng sử dụng vacxin trong công tác phòng chống dịch bệnh.

2.5.7.1. Phòng bệnh

a. Vệ sinh phòng bệnh

Nuôi dưỡng, chăm sóc tốt, cho ăn no và đầy đủ chất dinh dưỡng. Tăng

cường kiểm soát người và các phương tiện ra vào trại đặc biệt là các xe và người vào bắt lợn, mua lợn vì đây là nguyên nhân chính làm lây lan dịch bệnh. Có hàng

rào ngăn cách giữa trong và ngoài trại, xe vào bắt lợn không được vào trong trại

mà phải đỗ ở ngoài trại đúng nơi qui định. Xe vận chuyển trong trại sau khi vận

chuyển lợn phải được rửa, sát trùng, để khô mới được vận chuyển lợn tiếp (Lowe

& cs., 2014; Sasaki & cs., 2016; O'Dea & cs., 2016).

Có chuồng bán lợn nằm sát vòng ngoài của trại. Cấm đưa lợn từ khu vực bán trở về trại. Không cho nước thải của chuồng bán chảy trở về trại. Người lao

động không nên tiếp xúc với lợn khác ngoài khu vực làm việc của mình. Hạn chế

khách tham quan nếu không thật sự cần thiết. Làm vệ sinh lối đi thường xuyên,

có hố sát trùng ở cửa ra vào chuồng (Sasaki & cs., 2016; Toyomaki & cs., 2018).

b. Sử dụng vacxin để phòng bệnh

Để giảm thiểu thiệt hại do PED gây ra, nhu cầu sử dụng vacxin phòng bệnh rất cấp thiết. Chính vì vậy, việc sản xuất, thử nghiệm hoàn thiện vacxin chủ yếu được tiến hành ở các nước trên thế giới, đặc biệt là các nước châu Á,

30

nơi PED bùng phát trầm trọng với tỷ lệ tử vong gia tăng ở lợn con sơ sinh. Hiện nay, vacxin phòng dịch tiêu chảy cấp ở lợn - PED đã được sản xuất từ

một số nước như Nhật Bản, Trung Quốc, Hàn Quốc... (Chao & cs., 2016).

Các loại vacxin đã và đang sử dụng được tổng hợp ở bảng 2.1.

Bảng 2.1. Các loại vacxin PED đƣợc cấp phép thƣơng mại

Loại

Nơi sản xuất

Chủng Cách dùng

Năm

Dòng vacxin

HVRI, China

1999

CV777

Ia

HVRI, China

2003

Ia

Houhai acupoint Houhai acupoint

Killed, bivalent (P- T) Killed, bivalent (P- T) Live

Ia

Oral

2004, 2011

CV777 attenuated DRI 3 attenuated

/

/

/

IM

/

/

/

IM

/

SM98P

Ia

IM

/

SM98P

Ia

IM

/

SM98P

Ia

IM

/

P-5V

Ia

IM

South Korea, The Philiphines CAVAC, South Korea Komipharm, South Korea Komipharm, South Korea Komipharm, South Korea Komipharm, South Korea Nisseiken, Japan Nisseiken, Japan

/

P-5V

Ia

IM

HVRI, China

2014

Ia

Houhai acupoint

DBN, China

2015

Iia

IM

CV777, attenuated ZJ08, attenuated

Killed, SuiShot® PT-100 Killed, PRO- VAC®PED-Fc Live, PRO- VAC®PED Live, PRO- VAC®TRP Killed, PRO- VAC®TP Live Live, bivalent (P-T) Live, trivalent (P-T- R) Live, bivalent (P-T) RNA

2014

/

/

IM

Harrisvaccine, Merck, USA Zoetic, USA

2014 Killed

/

/

IM

Nguồn: Chao & cs. (2016)

Các vacxin sử dụng chủng cổ điển Ia đã có vai trò quan trọng trong việc

kiểm soát bệnh nhiễm trùng PEDV. Tuy nhiên, hiệu quả của chúng trên thực địa, đặc biệt là trong các đợt bùng phát bởi các biến thể mới sau năm 2010 còn rất hạn chế nên các nhà nghiên cứu còn đang tranh luận (Sun & cs., 2012; Pan & cs.,

2012; Tian& cs., 2012; Ayudhya & cs., 2012).

2.5.7.2. Phương pháp xử lý PED khi dịch bệnh xảy ra

a. Nái mang thai

31

Tạo miễn dịch tự nhiên bằng chế phẩm từ bộ ruột lợn con bị nhiễm PED của trại cho đàn nái. Dùng kháng sinh điều trị các vi khuẩn có thể kế phát (Clostridium,

E. coli, Salmonella…) (Schwartz & cs., 2014; Song & cs., 2015; Thai Swine Veternary Association, 2015; Nguyễn Ngọc Hải & Đỗ Tiến Duy, 2017). Theo Schwartz & cs. (2014), để nhanh chóng đạt được khả năng miễn dịch theo đàn, thì đàn lợn nái và con giống trên cơ sở cùng bị nhiễm bệnh để phát triển khả năng miễn dịch chủ động. Do đó, cách cho cả đàn tiếp xúc với phân có chứa virus từ những con lợn bị mắc bệnh là một phương pháp nhanh chóng và nhất quán để đảm bảo phơi nhiễm, lây nhiễm và miễn dịch. Mặt khác, PEDV là tác nhân gây bệnh trên niêm mạc (bề mặt ruột) nên khả năng miễn dịch tích cực dưới dạng miễn dịch lactogenic được cung cấp bởi kháng thể IgA lactogenic trong sữa. Kháng thể IgA này sẽ có đủ trong sữa trong suốt thời kỳ cho con bú để bảo vệ lợn con khỏi những ảnh hưởng nghiêm trọng của bệnh tật.

b. Lợn con

Dùng kháng sinh điều trị các vi khuẩn có thể kế phát (Clostridium, E. coli, Salmonella…) kết hợp với thuốc điều trị các triệu chứng: tiêu chảy, nôn; bổ sung nước, điện giải và tăng cường sức đề kháng cho lợn bệnh (Nguyễn Ngọc Hải & Đỗ Tiến Duy, 2017).

2.5.8. Cơ sở khoa học của các thuốc dùng trong điều trị

2.5.8.1. Thuốc Colistin sulfat

Colistin sulfate là kháng sinh thuộc nhóm polymycin polyeptid có phổ tác dụng rộng chủ yếu lên các vi khuẩn Gram (-). Cơ chế diệt khuẩn của colistin được cho là rất giống với cơ chế của polymyxin B, một đại diện của nhóm polymyxin. Colistin mang nhiều điện tích dương, vừa ái nước vừa ái mỡ. Những điện tích dương này tương tác theo cơ chế cân bằng điện tích với lớp màng ngoài của vi khuẩn gram âm và thế chỗ cho những ion mang hai điện tích dương của lớp màng lipid, đặc biệt là Canxi và Magie. Điều này phá vỡ lớp màng ngoài và giải phóng lipopolysaccharide (Peterson & cs., 1985). Sự thay đổi tính thấm của màng tế bào vi khuẩn dẫn đến sự rò rỉ thành phần trong tế bào và sau đó là sự ly giải tế bào, dẫn đến sự chết tế bào (Falagas & cs., 2006). Colistin cũng có khả năng gắn kết và trung hòa phân tử lipopolysaccharide của vi khuẩn, đây chính là hoạt tính kháng nội độc tố của thuốc.

Colistin cũng có hoạt tính chống lại những vi khuẩn thuộc họ Enterobacteriaceae và các vi khuẩn khác như: Stenotrophomonas maltophilia, Haemophilus influenzae, Bordetella pertussis và Legionella pneumophila (Li & cs., 2005).

32

Cách dùng: cho lợn uống 2 lần/ngày với liều 100.000UI/kgTT/lần.

2.5.8.2. Thuốc Atropin sulfat

Atropine sulfat là thuốc gây ức chế hệ thần kinh phó giao cảm (parasympatholytic), làm giảm hoặc ngưng vận động cơ trơn. Thuốc được dùng để ức chế tác dụng của hệ thần kinh đối giao cảm trong nhiều trường hợp như rối loạn bộ máy tiêu hóa, loét dạ dày - hành tá tràng (thuốc có tác dụng ức chế khả năng tiết acid dịch vị), hội chứng kích thích ruột (thuốc có tác dụng giảm tình trạng co thắt đại tràng, giảm tiết dịch), điều trị triệu chứng tiêu chảy cấp hoặc mạn tính do tăng nhu động ruột và các rối loạn khác có co thắt cơ trơn như cơn đau co thắt đường mật, đau quặn thận... (Phạm Khắc Hiếu, 2016).

Cách dùng: tiêm 0,1mg/kgTT/ngày.

2.5.8.3. Huyết liệu pháp

Đây là biện pháp kích thích phi đặc hiệu, dùng máu cùng loài đưa vào cơ thể con bệnh nó sẽ kích thích chức năng phòng vệ của cơ thể làm tăng bạch cầu (đặc biệt là bạch cầu đa nhân trung tính), tăng thực bào và tăng quá trình trao đổi chất trong cơ thể. Đặc biệt, khi dùng máu tự thân (Autosang) của con vật ốm có chứa độc tố của mầm bệnh nên sau khi tiêm cơ thể sẽ sinh ra kháng thể đặc hiệu để chống lại mầm bệnh. Mặt khác, khi đưa máu vào cơ thể lợn bệnh ngoài chức năng kích thích phi đặc hiệu đối với cơ thể nó còn kích thích cơ quan tạo máu để sinh ra huyết cầu (Phạm Ngọc Thạch & cs., 2006).

Cách dùng: tiêm bắp 1ml máu lợn/kgTT/lần/2ngày.

2.5.8.4. Glucose 5%

Dung dịch glucose 5% là dung dịch đẳng trương với máu và là đường đơn 6 carbon, dùng theo đường uống hoặc tiêm truyền tĩnh mạch để điều trị thiếu hụt đường và dịch.

2.5.8.5. Lactat Ringer

Dung dịch Lactat Ringer có thành phần điện giải và pH tương tự như của các dịch ngoại bào của cơ thể. Ion lactat được nhanh chóng chuyển hóa thành ion bicarbonat nên được dùng để bồi phụ nước và điện giải. Trong 100 ml dung dịch Lactat Ringer có chứa Natri clorid (0,6g), Kali clorid (0,04g), Canxi clorid.6H2O (0,04g) và Natri lactat 60% (0,516g).

2.6. MÁU VÀ CHỨC NĂNG CỦA MÁU

33

Máu là một chất dịch lỏng lưu thông trong tim và hệ thống mạch quản, là nguồn gốc của hầu hết các dịch thể trong cơ thể. Khi máu ngấm vào tế bào tổ

chức tạo thành dịch nội bào, máu ngấm vào khe hở giữa các tế bào thành dịch gian bào, máu đi vào ống lâm ba tạo nên dịch bạch huyết, máu vào não tuỷ tạo nên dịch não tuỷ. Các đặc tính của máu, thành phần của máu phản ánh tình trạng dinh dưỡng và sức khoẻ của cơ thể, vì vậy những xét nghiệm về máu là những xét nghiệm cơ bản được dùng để đánh giá tình trạng sức khoẻ cũng như giúp cho việc chẩn đoán bệnh (Everds, 2006; Forbes & cs., 2009).

Trong chăn nuôi, các chỉ số về huyết học đóng vai trò rất quan trọng và được xem như là các chỉ thị về trạng thái sinh lý của cơ thể, là vật liệu ban đầu để đánh giá phẩm chất của giống và phục vụ công tác lai tạo giống. Các chỉ tiêu sinh lý, sinh hóa của máu (hồng cầu, bạch cầu, tiểu cầu, hemoglobin, protein và các tiểu phần protein huyết thanh) có liên quan đến đặc tính di truyền, quá trình sinh trưởng và phát triển, khả năng sinh sản và khả năng thích nghi của động vật với các môi trường sống khác nhau (Mesa & cs., 2012; Schäfers, 2013).

Máu gồm hai thành phần: thể hữu hình (huyết cầu) và huyết tương. Các thể hữu hình của máu là hồng cầu, bạch cầu và tiểu cầu, chiếm 43 - 45% tổng số máu, chỉ số này được gọi là hematocrit. Hồng cầu là thành phần chiếm chủ yếu trong thể hữu hình. Huyết tương chiếm 55 - 57% tổng số máu (Lê Văn Thọ & Đàm Văn Tiện, 1992).

2.6.1. Huyết tƣơng

Huyết tương chứa nước, protein, các chất điện giải, các hợp chất hữu cơ và vô cơ, các hocmon, các vitamin, các chất trung gian hoá học, các sản phẩm chuyển hoá... Huyết tương chứa toàn bộ các chất cần thiết cho cơ thể và toàn bộ các chất cần được thải ra ngoài. Huyết tương bị lấy mất fibrinogen thì được gọi là huyết thanh. Huyết tương là dung dịch chứa đến 96% nước, 4% là các protein huyết tương và rất nhiều chất khác với một lượng nhỏ, đôi khi chỉ ở dạng vết. Các thành phần chính của huyết tương gồm: Albumin; Các globulin miễn dịch hay kháng thể; Các chất điện giải; Các yếu tố đông máu; Các hormone và các chất thải khác của cơ thể (Lê Văn Thọ & Đàm Văn Tiện, 1992).

2.6.2. Thành phần có hình trong máu

2.6.2.1. Hồng cầu

34

Hồng cầu hay hồng huyết cầu (có nghĩa là tế bào máu đỏ), là loại tế bào máu có chức năng chính là hô hấp, chuyên chở hemoglobin, qua đó đưa O2 từ phổi đến các mô. Enzyme carbonic anhydrase trong hồng cầu làm tăng hàng nghìn lần vận tốc của phản ứng giữa CO2 và H2O tạo ra H2CO3. Nhờ đó, nước trong huyết tương vận chuyển CO2 dưới dạng ion bicarbonat (HCO3—) từ các mô

trở lại phổi để CO2 được tái tạo và thải ra dưới thể khí. Hồng cầu được tạo ra từ các tế bào máu gốc trong tủy xương, đa số hồng cầu bị hủy ở lách. Số lượng

hồng cầu thay đổi phụ thuộc vào giống, tuổi, giới tính, chế độ dinh dưỡng, trạng

thái cơ thể khoẻ mạnh hay bệnh tật, môi trường khí hậu, tốc độ sinh trưởng. Tuy

nhiên, số lượng hồng cầu cần phải đủ để đảm bảo vận chuyển oxy cho mô bào, bất kỳ lí do gì làm giảm lượng oxy cung cấp cho tế bào đều làm tăng quá trình

sản sinh hồng cầu (Lê Văn Thọ & Đàm Văn Tiện, 1992).

Thành phần chủ yếu của hồng cầu là huyết sắc tố hemoglobin (Hb) chiếm

90% vật chất khô của hồng cầu và đảm nhiệm các chức năng của hồng cầu. Hemoglobin là một hợp chất protein phức tạp dễ tan trong nước, trong thành

phần cấu tạo có một phân tử globin (chiếm 96%) kết hợp với 4 phân tử hem (chiếm 4%). Globin có tính đặc trưng cho từng loài, vì vậy kiểu Hb mang đặc

trưng di truyền của phẩm giống, do đó trong chăn nuôi có thể xác định các giống

khác nhau qua kiểu Hb của từng cá thể. Theo Nguyễn Thị Tường Vy & Nguyễn

Đức Hưng (2011), lợn Cỏ ở Thừa Thiên Huế có hàm lượng hemoglobin, lúc sơ

sinh, 4, 8 tháng tuổi lần lượt là: 10,00g%; 12,74g%; 10,6g% ở lợn đực và

8,46g%; 10,7g%; 10,00g% ở lợn cái. Hàm lượng Hb của lợn sơ sinh trong tổ hợp

lai (Lx MC) x D ở con đực 9,18 (g%) và con cái là 9,02 (g%); ở tổ hợp lai (L x

MC) x (Pi – Du) ở con đực là 9,50 (g%) và ở con cái là 8,95 (g%). Ở giai đoạn 4

tháng tuổi, hàm lượng Hb của con lai trong tổ hợp lai (Lx MC) x D ở con đực là

13,27 (g%) và ở con cái là 12,37 (g%). Số lượng hồng cầu ở tổ hợp lai (Lx MC)

x D và tổ hợp lai (L x MC) x (Pi – Du): Ở con đực lần lượt là 4,47; 4,85 (triệu/mm3) và ở con cái lần lượt là 4,29; 4,40 (triệu/mm3). Số lượng hồng cầu ở giai đoạn 4 tháng tuổi ở tổ hợp lai (L x MC) x D và tổ hợp lai (L x MC) x (Pi – Du), con đực lần lượt là 7,50; 7,62 (triệu/mm3) ở con cái là 7,12 và 7,02 (triệu/mm3) (Nguyễn Thị Tường Vy & Đinh Văn Dũng, 2016).

2.6.2.2. Bạch cầu

Bạch cầu, hay bạch huyết cầu là một thành phần của máu. Chúng giúp cho cơ

thể chống lại các bệnh truyền nhiễm và các vật thể lạ trong máu.

Theo Lê Văn Thọ & Đàm Văn Tiện (1992), có 5 loại tế bào bạch cầu: Bạch cầu ưa kiềm, bạch cầu ưa axit, bạch cầu trung tính, bạch cầu mônô và bạch

35

cầu lympho. Tuy nhiên bạch cầu được phân thành ba loại chính:

- Bạch cầu hạt (granulocyte) được đặc trưng bởi các hạt nhuộm màu khác

nhau trong tế bào chất dưới kính hiển vi quang học. Có ba loại bạch cầu hạt: bạch

cầu trung tính (neutrophil), bạch cầu ái kiềm (basophil) và bạch cầu ái toan

(eosinophil) (được đặt tên theo các thuộc tính nhuộm màu của chúng). Trước

đây, bạch cầu hạt còn được gọi (không chính xác) là "bạch cầu đa nhân" do đặc

điểm phân thùy (múi) của nhân tế bào. Ngoài ra cũng có thể gọi những bạch cầu

có hạt là bạch cầu có nhân đa hình (vì nhân của nó thường được phân thành

nhiều múi khác nhau và thường có từ 1 - 5 múi). Người ta sử dụng yếu tố phân

múi này để định công thức bạch cầu Arneth.

- Tế bào lympho: Là các tế bào chuyên biệt của hệ miễn dịch, các tế bào

lympho (lymphocyte) rất phổ biến trong hệ bạch huyết. Trong máu có ba loại

lymphocyte: tế bào B, tế bào T và các tế bào NK. Các tế bào B sản xuất ra kháng

thể liên kết với tác nhân gây bệnh nhằm tạo điều kiện để có thể phá hủy chúng.

Các tế bào T CD4+ (T bổ trợ) phối hợp các phản ứng của hệ miễn dịch (loại tế

bào này bị suy giảm khi cơ thể bị nhiễm virus HIV). Các tế bào T CD8+ (T gây

độc) và tế bào giết tự nhiên có khả năng giết các tế bào của cơ thể bị nhiễm các

tác nhân gây bệnh nội bào.

- Bạch cầu đơn nhân (monocyte) chia sẻ chức năng ―dọn dẹp chân không‖

của bạch cầu trung tính, nhưng chúng có đời sống dài hơn bởi chúng còn có vai

trò bổ sung khác. Bạch cầu đơn nhân trong máu cũng như các bản sao của chúng

ở các mô - thực bào rồi đưa các kháng nguyên của tác nhân gây bệnh tới trình

diện cho tế bào T. Bạch cầu đơn nhân trưởng thành có thể biệt hóa thành đại thực

bào tại các mô khác nhau của cơ thể.

Theo kết quả nghiên cứu của Nguyễn Thị Tường Vy & Nguyễn Đức

Hưng (2011); Nguyễn Thị Tường Vy & Đinh Văn Dũng (2016): Số lượng bạch cầu (nghìn/mm3) lúc sơ sinh của lợn đực là 13,11; lúc 12 tháng tuổi là 22,57; ở lợn cái, tương ứng là 14,04 và 18,43. Công thức bạch cầu thay đổi theo tuổi: bạch

cầu lâm ba có tỷ lệ cao nhất và giảm dần từ sinh đến 12 tháng tuổi, ở lợn đực

tương ứng là 51,20% và 42,20%, còn ở lợn cái là 56,13% và 41,66%; bạch cầu

trung tính tăng dần qua các tháng tuổi và không có sự sai khác giữa lợn đực và

36

lợn cái; bạch cầu ái toan tăng nhẹ từ lúc sơ sinh đến 12 tháng tuổi.

PHẦN 3. NỘI DUNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

3.1. ĐỐI TƢỢNG NGHIÊN CỨU

Đối tượng nghiên cứu của luận án là bệnh PED trên đàn lợn lai ba máu

nuôi tại các trang trại và gia trại thuộc tỉnh Thanh Hoá.

3.2. ĐỊA ĐIỂM NGHIÊN CỨU

Địa điểm theo dõi và lấy mẫu tại các trang trại và gia trại nuôi lợn tại 6 huyện bao gồm: Hoằng Hoá, Nông Cống, Như Thanh, Tĩnh Gia, Thạch Thành và

Yên Định của tỉnh Thanh Hoá.

Mẫu được xử lý và phân tích tại phòng thí nghiệm Bộ môn Nội - Chẩn –

Dược – Độc chất, khoa Thú y. Phòng thí nghiệm trọng điểm Công nghệ sinh học

Thú y – Học viện Nông nghiệp Việt Nam. Trung tâm nghiên cứu và phát triển

công nghệ vắc-xin, Công ty RTD. Phòng thí nghiệm Chăn nuôi thú y, Trường

Đại học Hồng Đức.

3.3. THỜI GIAN NGHIÊN CỨU

Thời gian nghiên cứu từ tháng 9/2014 đến tháng 01/2020.

3.4. TRANG THIẾT BỊ, DỤNG CỤ VÀ VẬT LIỆU NGHIÊN CỨU

3.4.1. Trang thiết bị và dụng cụ nghiên cứu

- Các loại máy móc, thiết bị: Máy phân tích huyết học Abbott Cell-Dyn

3700; máy quang phổ hấp phụ; máy xét nghiệm ELISA, máy RT-PCR; khúc xạ

kế Zena; glucometer; máy cắt mảnh Microtom, kính hiển vi quang học, máy li

tâm, máy điện di.

- Dụng cụ: Tủ âm, khuôn đúc, trang thiết bị phòng thí nghiệm (dao, kéo,

panh...).

3.4.2. Vật liệu nghiên cứu

- Mẫu bệnh phẩm (phân, ruột): Lấy khoảng 5g từ những lợn có triệu chứng của PED và dương tính với Test kit PED Ag, cho vào trong túi nylon vô trùng, bảo quản (40C) và vận chuyển ngay về phòng thí nghiệm trong vòng 24 giờ để sử dụng phương pháp RT-PCR chẩn đoán xác định lợn mắc bệnh.

37

- Lợn khoẻ mạnh và lợn mắc PED là lợn lai 3 máu ở tuần tuổi thứ 2 (là con của các lợn nái đã được tiêm phòng các loại vacxin phòng bệnh như Dịch tả

lợn cổ điển, PRRS, PCV2, Tụ - Dấu, Phó thương hàn. Có kết quả RT-PCR âm tính với Dịch tả lợn cổ điển, PRRS và kết quả PCR âm tính với PCV2) để khám

lâm sàng, xác định các chỉ tiêu lâm sàng và lấy mẫu máu để xác định các chỉ tiêu

huyết học và điều trị thử nghiệm.

- Xác chết của lợn mắc PED ở tuần tuổi thứ 2 (dương tính với virus PED

bằng phương pháp Test kit PED Ag và RT-PCR) để mổ khám bệnh tích đại thể

và làm tiêu bản bệnh tích vi thể.

- Ruột lợn dưới 1 tuần tuổi mắc PED để làm chế phẩm ―Gut feedback‖

trong phòng bệnh.

- Lợn nái khoẻ mạnh mang thai tuần thứ 13 để thử nghiệm phương pháp

phòng bệnh ―Gut feedback‖.

- Máu của lợn nái sau khi dùng thử nghiệm phương pháp phòng bệnh ―Gut

feedback‖ có biểu hiện tiêu chảy ngày thứ 14 và 21 để xác định kháng thể trong

huyết thanh.

- Bộ Test kit PED Ag (Công ty Zoetis) phát hiện được sự hiện diện của

virus PED có trong phân lợn (Hình 3.1).

Hình 3.1. Test kit PED Ag

3.4.3. Hóa chất

- Kit tách chiết QIAamp Viral RNA Minikit (Qiagen), Primers;

- Hóa chất: Formol 10%, cồn ở các nồng độ, xylen, paraffin...

3.5. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU

3.5.1. Tình hình dịch tiêu chảy cấp ở lợn (PED) tại Thanh Hoá

- Tình hình chăn nuôi lợn tại Thanh Hoá giai đoạn từ năm 2016 đến 2019;

38

- Xác định tỷ lệ mắc bệnh, tỷ lệ chết và tỷ lệ tử vong theo vị trí địa lý: Đồng bằng (huyện Yên Định và Nông Cống), ven biển (huyện Hoằng Hoá và Tĩnh Gia) và trung du miền núi (huyện Như Thanh và Thạch Thành);

- Xác định tỷ lệ mắc bệnh, tỷ lệ chết và tỷ lệ tử vong theo đối tượng lợn: lợn

con theo mẹ, lợn cai sữa, lợn thịt, lợn nái và lợn đực giống;

- Xác định tỷ lệ mắc bệnh, tỷ lệ chết và tỷ lệ tử vong theo mùa: Xuân – Hạ -

Thu – Đông;

- Xác định tỷ lệ mắc bệnh, tỷ lệ chết và tỷ lệ tử vong theo quy mô đàn:Gia

trại: Dưới 20 lợn nái hoặc dưới 100 lợn thịt; Trại nhỏ: từ 20-50 lợn nái hoặc từ

100-250 lợn thịt; Trại lớn: trên 50 lợn nái hoặc trên 250 lợn thịt (Thông tư số

69/2000/TTLB-BNN-TCTK).

3.5.2. Một số đặc điểm bệnh lý ở lợn mắc dịch tiêu chảy cấp tại Thanh Hoá

- Xác định triệu chứng lâm sàng ở lợn mắc dịch tiêu chảy cấp (PED);

- Xác định chỉ tiêu lâm sàng ở lợn mắc dịch tiêu chảy cấp (PED): Thân

nhiệt, tần số hô hấp, tần số tim;

- Xác định bệnh tích đại thể của lợn mắc dịch tiêu chảy cấp (PED);

- Xác định biến đổi bệnh lý vi thể ở tá tràng, không tràng, hồi tràng và kết

tràng của lợn mắc dịch tiêu chảy cấp (PED);

- Xác định một số chỉ tiêu huyết học của lợn mắc PED: các chỉ số hồng

cầu; các chỉ số bạch cầu và các chỉ số sinh hóa máu.

3.5.3. Thử nghiệm biện pháp phòngtrị dịch tiêu chảy cấp ở lợn(PED)

- Phòng dịch tiêu chảy cấp ở lợn (PED) bằng phương pháp ―Gut

feedback‖của Thai Swine Veternary Association (2015) để phòng bệnh.

- Điều trị thử nghiệm lợn mắc dịch tiêu chảy cấp (PED).

3.6. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

3.6.1. Phƣơng pháp xác định tình hình dịch tiêu chảy cấp ở lợn (PED)

3.6.1.1. Phương pháp điều tra dịch tễ học

- Áp dụng các phương pháp điều tra dịch tễ học thường quy: Lợn ở các trại được theo dõi trực tiếp và điền thông tin vào phiếu theo dõi (có mẫu phiếu kèm theo).

39

- Sau khi điều tra xác định đàn lợn nghi mắc PED, tiến hành chọn mỗi đàn 1-2 lợn có biểu hiện lâm sàng điển hình (tiêu chảy phân vàng xám, gầy sút nhanh, giảm ăn (bú), nằm dồn đống hoặc nằm trên bụng mẹ), sau đó tiến hành lấy mẫu phân chẩn đoán nhanh bằng Test kit PED Ag và RT-PCR để xác định

chính xác bệnh. Những lợn còn lại ở trong đàn nếu có những biểu hiện tương tự lợn có kết quả Test kit PED Ag và RT-PCR dương tính cũng được xác định là

mắc PED.

- Triệu chứng lâm sàng của lợn mắc hội chứng tiêu chảy được xác định bằng phương pháp khám lâm sàng thường quy, quan sát, ghi chép các tiêu chí

như trạng thái phân, thể trạng của lợn.

- Xác định tỷ lệ mắc, tỷ lệ chết (MR) và tỷ lệ tử vong (CFR) của lợn theo

công thức tiêu chuẩn của Nguyễn Như Thanh & cs. (2011).

Số con mắc bệnh Tỷ lệ mắc bệnh (%) = 100 Tổng số con theo dõi

Số con chết Tỷ lệ chết (%) = 100 Tổng số con theo dõi

Số con chết Tỷ lệ tử vong (%) = 100 Tổng số con mắc bệnh

Tiến hành quan sát, thu thập, ghi chép, các biểu hiện của lợn trước khi mổ khám; các bệnh tích đại thể. Sau khi thu thập đầy đủ thông tin, tiến hành thống kê

lại các chỉ tiêu theo dõi và phân tích, hồi cứu để đưa ra những kết quả chính xác.

3.6.1.2. Phương pháp chẩn đoán bệnh bằng Test kit PED Ag

a. Nguyên lý

Test kit PED Ag dựa trên nguyên lý kỹ thuật sắc ký miễn dịch sử dụng

phương pháp Direct Sandwich. Hai kháng thể đơn dòng trong thiết bị kết hợp đặc

thù với các vùng quyết định kháng nguyên khác nhau của kháng nguyên cần chẩn đoán. Sau khi cho bệnh phẩm thấm vào vị trí đệm cellulose của thiết bị, các kháng nguyên của virus PED sẽ di chuyển và kết hợp với hợp chất thể keo màu vàng chứa kháng thể đơn dòng kháng virus PED, để tạo thành phức hợp ―Kháng nguyên – Kháng thể‖. Sau đó, phức hợp này kết hợp với kháng thể đơn dòng

kháng virus PED khác trong màng Nitơ-cellulose của thiết bị, để tạo thành phức

40

chất kẹp hoàn chỉnh ―Kháng thể - Kháng nguyên – Kháng thể‖.

b. Phương pháp thực hiện

- Tất cả các thành phần có trong test bao gồm: Dung dịch pha loãng; tăm bông; dụng cụ thử cho kết quả được lấy ra và để ở nơi bằng phẳng, sạch sẽ, thoáng mát.

- Lấy mẫu phân (để thăm dò sự hiện diện của virus PED) được thực hiện

theo hướng dẫn của nhà sản xuất của bộ kit PED-Ag test kit (Hình 3.2).

Hình 3.2. Các bước tiến hành kiểm tra mẫu bệnh bằng Test kit PED Ag

c. Đọc kết quả

- Phản ứng xảy ra khi có đường màu tím chạy dọc trên bảng kết quả (nằm

ở giữa dụng cụ xét nghiệm) ngay cạnh lỗ tròn chứa dung dịch bệnh phẩm. Sau 1

phút nếu không thấy có sự di chuyển của màu tím, nhỏ thêm 1 giọt dung dịch

bệnh phẩm.Đọc kết quả 5-10 phút.

41

Hình 3.3. Kết quả chẩn đoán bằng Test kit PED Ag

- Ở phía bên trái trong giếng kết quả, một thanh màu xuất hiện (tại chữ C),

có nghĩa là các bước thực hiện phản ứng đúng cách. Kết quả dương tính khi có

thêm 1 thanh màu xuất hiện bên phải (tại chữ T) trong giếng kết quả (Hình 3.3).

- Ở phía bên trái trong giếng kết quả, không có xuất hiện thanh màu nào,

có nghĩa thao tác thực hiện không đúng, không thực hiện đúng hướng dẫn đã quy

định. Do đó, phản ứng phải được thực hiện lại.

3.6.1.3. Phương pháp RT - PCR

Sự có mặt của virus PEDV trên những lợn có biểu hiện tiêu chảy, chưa

được tiêm vacxin phòng PED được xác định bằng kỹ thuật RT-PCR. RNA được

chiết tách bằng kit QIAamp Viral RNA Minikit (hãng Qiagen), cặp mồi đặc hiệu

được thiết kế để khuếch đại một phần gen S, sản phẩm khuếch đại có độ dài

651bp (Park & cs., 2008). RNA tổng số được tách chiết bằng Kit Qiagen, các

bước tiến hành theo hướng dẫn của nhà sản xuất. RNA sau tách chiết được bảo quản ở nhiệt độ -80oC. Mẫu RNA sau khi tách chiết sẽ được hỗn hợp với các thành phần phản ứng của Kit Invitrogen.

Điện di kiểm tra sản phẩm PCR: Sản phẩm PCR được kiểm tra trên gel

agarose 1,2%. Điện di ở hiệu điện thế 100V cường độ 100 mA, thời gian điện di

trong 30 phút. Kết thúc điện di, bản gel được lấy ra nhuộm Red gel trong khoảng

5 - 7 phút. Sau khi nhuộm, bản gel được chuyển vào máy phát tia UV để quan sát

kết quả điện di. Vị trí các đoạn DNA được phát hiện bằng những vệt sáng tương

ứng của thuốc nhuộm, chụp ảnh và đọc kết quả. Kết quả dương tính khi mẫu cho

kích thước sản phẩm DNA theo đúng thiết kế mồi, mẫu âm tính khi không có sản

phẩm DNA.

3.6.2. Phƣơng pháp mổ khám bệnh tích đại thể

Sử dụng phương pháp mổ khám theo tiêu chuẩn trong TCVN 8402: 2010 (Bộ Khoa học & Công nghệ, 2010) để tiến hành nghiên cứu tổn thương đại thể và

lấy mẫu làm tiêu bản bệnh lý.

1. Kiểm tra bên ngoài: thể trạng, lông, da, các vết thương, mụn loét, các lỗ

tự nhiên,… chụp ảnh trước khi mổ khám;

2. Mổ khám và kiểm tra các cơ quan bên trong. Khám lần lượt từ ngoài

vào trong, từ trên xuống dưới, tránh bỏ sót các cơ quan. Ghi biên bản mổ khám

42

và chụp ảnh các bệnh tích đại thể;

3. Lấy mẫu làm tiêu bản vi thể: các mẫu thu nhận tá tràng, không tràng,

hồi tràng và kết tràng. Mỗi cơ quan tổ chức lấy một phần ngâm trong formol 10%

để làm tiêu bản vi thể.

3.6.3. Phƣơng pháp làm tiêu bản vi thể

Sử dụng phương pháp làm tiêu bản vi thể tẩm đúc bằng paraffin, cắt dán

mảnh bằng máy Microtom. Mỗi lợn bệnh tiến hành lấy mẫu ở mỗi cơ quan hai

miếng bệnh phẩm rồi đúc thành một block, từ mỗi block sau khi làm tiêu bản

chọn ra 5 tiêu bản đẹp nhất để kiểm tra bệnh tích vi thể. Tiêu bản được để khô và

quan sát dưới kính hiển vi quang học. Phương pháp bao gồm các bước sau:

1. Chuẩn bị dụng cụ và hoá chất: Formol 10%, dao, kéo, panh kẹp, phiến kính, máy đúc block, khuôn đúc, tủ ấm 370C, máy cắt mảnh Microtom, nước ấm 48-520C, Xylen, Paraffin, thuốc nhuộm Haematoxilin, Eosin…;

2. Lấy bệnh phẩm là ruột: Tá tràng, không tràng, hồi tràng và kết tràng.

3. Cố định bệnh phẩm: ngâm miếng tổ chức vào dung dịch Formol 10%

(chú ý thể tích formol phải gấp 10 lần bệnh phẩm).

4. Vùi bệnh phẩm bao gồm các bước sau:

5. Rửa Formol: lấy tổ chức ra khỏi bình Formol 10%, cắt thành các miếng

có chiều dài, rộng khoảng 4 - 5mm cho vào khuôn đúc bằng nhựa. Đem rửa dưới

vòi nước chảy nhẹ trong 24 giờ để rửa sạch Formol.

6. Chạy mẫu: đưa mẫu vào hệ thống máy chuyển đúc mẫu tự động trong 18

tiếng. Lấy mẫu ra và tiến hành đúc block.

Bảng 3.1. Hệ thống máy chuyển đúc mẫu tự động gồm 12 bình

Bình

Hóa chất

Thời gian (giờ)

Bình

Hóa chất Thời gian (giờ)

Cồn 60º

1

1:00

7

Cồn 100º

1:30

Cồn 60º

2

1:00

8

Cồn 100º

1:30

Cồn 70º

3

1:30

9

Xylen

1:30

Cồn 80º

4

1:30

10

Xylen

1:30

Cồn 96º

5

1:30

11

Parafin

2:00

Cồn 100º

6

1:30

12

Parafin

2:00

43

7. Đúc block: Đặt miếng bệnh phẩm nằm vào chính giữa khuôn block, đổ nhanh Paraffin

lỏng vào khuôn block. Sau đó đặt khuôn đã đúc sang bàn lạnh 4ºC của máy làm

nguội block. Để nguội đến khi block đông cứng, đặc chắc, không còn ấm là có

thể tách mẫu ra khỏi khuôn.

Cắt mảnh: cắt bằng máy microtom với độ dày mảnh cắt khoảng 3 - 5µm,

sao cho mảnh cắt không rách, nát phần tổ chức.

Làm giãn mảnh cắt: dùng panh kẹp mảnh cắt đặt vào nước lạnh, dàn nhẹ

sao cho mặt dưới của mảnh cắt ướt đều, lấy phiến kính hớt mảnh cắt cho sang

nước ấm 48 - 52ºC cho mảnh cắt giãn ra hoàn toàn rồi vớt mảnh cắt sao cho vị trí

mảnh cắt ở 1/3 phiến kính. Sau đó để tủ ấm 37ºC đến khi mảnh cắt khô lại.

8. Nhuộm tiêu bản: bao gồm các bước sau:

Khử Paraffin: cho tiêu bản qua hệ thống Xylen gồm 3 cốc:

Xylen I: 10 phút Xylen II: 10 phút Xylen III: 10 phút

Khử Xylen: cho tiêu bản qua hệ thống cồn gồm 4 cốc: (mỗi lần 1 phút)

Cồn 100º: 2 lần Cồn 95º: 1 lần Cồn 70º: 1 lần Cồn 50º: 1 lần

Khử cồn: cho dưới vòi nước chảy 5- 10 phút.

- Nhuộm Haematoxylin (nhuộm nhân): lau khô nước ở tiêu bản, nhỏ Haematoxilin ngập tiêu bản. Để trong khoảng 3 - 5 phút sau đó đổ thuốc nhuộm đi, rửa qua nước. Lau sạch nước xung quanh tiêu bản. Kiểm tra màu sắc, nếu thấy tiêu bản xanh tím là được.

Nếu nhạt màu, nhúng tiêu bản qua NaHCO3 1% (30 giây).

Nếu đậm, nhúng tiêu bản vào lọ cồn axit (cồn 96º + HCl 1%) trong 30 giây.

Rửa sạch tiêu bản bằng nước cất.

- Nhuộm Eosin (nhuộm bào tương)

Nhỏ Eosin ngập tiêu bản khoảng 3 - 5 phút, tuỳ theo thực tế màu Eosin. Sau

đó rửa nước chảy 5-10 phút cho hết Eosin thừa.

Cho tiêu bản qua hai lọ cồn tuyệt đối, mỗi lọ 1 phút.

- Tẩy cồn, làm trong tiêu bản: cho tiêu bản đi qua hai lọ Xylen, mỗi lọ 3 phút.

- Gắn Baume canada: nhỏ một giọt Baume canada lên lamen rồi gắn nhanh

44

lên tiêu bản khi vẫn còn Xylen trên tiêu bản. Ấn nhẹ để dồn hết bọt khí ra ngoài.

- Đánh giá kết quả: đem soi lên kính hiển vi quang học vật kính 10. Nếu thấy nhân bắt màu xanh tím, bào tương bắt màu đỏ tươi, tiêu bản trong sáng, không có nước, không có bọt khí là được.

3.6.4. Phƣơng pháp xác định các chỉ tiêu huyết học

Thí nghiệm được tiến hành trên 80 con lợn ở 2 tuần tuổi. Trong đó, 40 con

có triệu chứng điển hình của bệnh và sau đó được sử dụng Test kit PED Ag để

sàng lọc, những mẫu dương tính được vận chuyển về phòng thí nghiệm trọng

điểm Công nghệ Sinh học Thú y – Học viện Nông nghiệp Việt Nam và Trung

tâm nghiên cứu và phát triển công nghệ vắc-xin, Công ty RTD để xác định sự có

mặt của virus PED bằng phương pháp RT-PCR.

Lợn thuộc đối tượng lấy máu được tách mẹ (không cho bú) từ 1 giờ sáng,

đến 6 giờ sáng lấy máu. Trừ yếu tố thí nghiệm, các yếu tố khác như: giống, tuổi,

giới tính, điều kiện nuôi dưỡng... có điều kiện tương đương nhau. Máu được lấy

ở vịnh tĩnh mạch cổ của các lợn thí nghiệm khoảng 2ml/con đưa nhanh vào ống chống đông EDTA lắc nhẹ, bảo quản nhiệt độ 2 - 80C đưa về phòng thí nghiệm và mẫu được xét nghiệm trong vòng 4 – 8 giờ sau khi được thu thập. Ngoài ra, các

lợn được sử dụng trong thí nghiệm đều được đảm bảo quyền động vật.

- Huyết tương được tách bằng máy ly tâm ở 3.000 vòng trong 10 phút.

- Các mẫu máu được xác định chỉ số sinh lý máu: RBC, MCV, HCT, HGB,

MCH, MCHC, WBC, NEU, LYM, MONO, EOS và BASO bằng máy phân tích

huyết học Abbott Cell-Dyn 3700.

Nguyên lý: Máy sẽ tách riêng các dòng tế bào theo kích thước tế bào, có

nhân hay không có nhân, theo hình dạng nhân... đếm trên toàn bộ ống mẫu máu

xét nghiệm mà không cần tách hay pha loãng mẫu.

- Tiến hành nghiên cứu một số chỉ tiêu huyết học như sau:

+ Số lượng hồng cầu (RBC, 106/μL);

+ Hàm lượng huyết sắc tố ( HGB, g/l);

+ Tỷ khối huyết cầu (HCT, %);

+ Thể tích trung bình hồng cầu (MCV, fl);

+ Lượng huyết sắc tố trung bình hồng cầu (MCH, pg);

+ Nồng độ huyết sắc tố trung bình hồng cầu (MCHC, g/l);

45

+ Số lượng bạch cầu (WBC, 103/μL) và công thức bạch cầu (%).

- Xác định một số chỉ số sinh hóa máu:

+ Hàm lượng đường huyết (mmol/l): Định lượng theo phương pháp

Glucometer;

+ Protein huyết thanh tổng số (g/dL): Được xác định bằng khúc xạ kế Zena. Các tiểu phần protein huyết thanh (albumin, α, β, γ globulin) (%): Được xác định bằng kỹ thuật điện di trên phiến Cellulose acetate và đọc kết quả trên Denssitomester junior-24.

+ Độ dự trữ kiềm trong máu (mg%): Định lượng theo phương pháp

Nevodop;

+ Hàm lượng Natri và Kali trong huyết thanh (mEq/l): Định lượng bằng

máy quang phổ hấp phụ.

3.6.5. Phƣơng pháp kiểm tra tính mẫn cảm của E. coli phân lập từ phân lợn mắc bệnh tiêu chảy với một số thuốc kháng sinh

- Tiến hành làm kháng sinh đồ dựa theo nguyên lý của Kirby – Bauer:

Mẫu phân lợn bệnh được pha loãng và nuôi cấy trên các môi MacConkey Agar để phân lập và giám định vi khuẩn E. coli, tiến hành bắt các khuẩn lạc thuần khiết nuôi cấy trong môi trường nước thịt ở 370C, sau 18-24 giờ lấy huyễn dịch tráng lên mặt thạch trong đĩa Petri. Sau 15 phút đặt các đĩa kháng sinh lên trên và ủ ấm 370C. Sau 16 – 18 giờ đo đường kính các vòng vô khuẩn.

- Đánh giá dựa trên đường kính vòng vô khuẩn theo tiêu chuẩn của Clinical and Laboratory Standards Institute (2007): Mẫn cảm cao (H), mẫn cảm trung bình (I), hay kháng (R). Nếu khuẩn lạc mọc trong vòng ức chế rõ ràng thì phải nuôi cấy, phân lập lại.

- Giấy tẩm kháng sinh do hãng Oxiod của Anh sản xuất.

Bảng 3.2. Đánh giá đƣờng kính vòng vô khuẩn theo hãng Oxiod

TT Tên kháng sinh

Kí hiệu mã hoá

Lƣợng kháng sinh (µg)

Streptomycin

1 Amoxicillin 2 Colistin sulphate 3 Enrofloxacin 4 Gentamycin 5 Kanamycin 6 Neomycin 7 Norfloxacin 8 9 Tetracyclin

AM CL ENR GM K N NOR STR TE

Đƣờng kính vòng vô khuẩn (mm) I 14-17 9-10 17-19 13-14 14-17 13-16 13-16 11-15 15-18

R (≤) 13 8 16 12 13 12 12 10 14

H(≥) 18 11 20 15 18 17 17 16 19

20/10 10 20 10 30 30 10 23,75/1,25 30

46

3.6.6. Phƣơng pháp chế chế phẩm “Gut feedback”

Các bước tạo chế phẩm ―Gut feedback‖ PED gồm:

Hình 3.4. Các bước chế và sử dụng chế phẩm “Gut feedback”

- Bước 1: Lấy một bộ ruột (cả ruột non và ruột già) của lợn con dưới 1 tuần tuổi mới xuất hiện triệu chứng tiêu chảy phân vàng, có kết quả dương tính với Test kit PED Ag và RT-PCR đem xay nhuyễn. Những ruột bị căng phồng, thành mỏng và trong suốt không đạt yêu cầu (Pospischil & cs. (1981), PEDV nhân lên trong bào tương của các tế bào lông nhung, phá huỷ các tế bào biểu mô và làm ngắn lông nhung niêm mạc ruột. Vì vậy, những ruột bị căng phồng, thành mỏng và trong suốt sẽ có số lượng virus thấp).

- Bước 2: Cho dung dịch nước muối sinh lý 0,9% vào với tỷ lệ 1/5 (1

phần ruột, 5 phần nước muối sinh lý 0,9%) để được chế phẩm.

- Bước 3: Cho Amoxicillin và Colistin 10% liều 300 ppm (để tiêu diệt các

vi khuẩn), tiếp tục xay (lắc) 1 - 2 phút sẽ được chế phẩm ―gut feedback‖ PED.

- Bước 4: Đổ chế phẩm ra dụng cụ vô trùng và bảo quản ở nhiệt độ 2-80C.

3.6.7. Quy trình sử dụng chế phẩm “Gut feedback” phòng dịch tiêu chảy cấp

- Thí nghiệm được thực hiện trên 60 lợn nái mang thai ở tuần thứ 13 âm

tính với PED. Cụ thể như sau:

Vật tƣ Liều lƣợng Cách dùng

Chế phẩm 15ml/lần - Trộn 15ml chế phẩm ―gut feedback‖ PED với 50g thức ăn và ―Gut feedback‖

cho ăn trước bữa ăn để lợn ăn hết.

TĂ tổng hợp 50 gam - Dùng đến khi lợn nái có biểu hiện tiêu chảy, sau 7 ngày không tiêu

47

chảy thì dừng.

3.6.8. Xác định kháng thể PED trong huyết thanh sau khi sử dụng chế phẩm

“Gut feedback”

Lấy máu ở vịnh tĩnh mạch cổ của lợn nái sau khi sử dụng chế phẩm ―Gut feedback‖ PED 14 và 21 ngày để kiểm tra kháng thể trong huyết thanh. Lấy máu vào sáng sớm trước khi cho ăn. Dùng xilanh 5ml, lấy 3ml máu vào xilanh và lấy 1ml không khí sau đó để nghiêng xilanh góc 450 và yên tĩnh cho máu đông. Bảo quản nhiệt độ 2-80C đưa về phòng thí nghiệm trong thời gian nhanh nhất, không được để quá 2 ngày.

Sử dụng phương pháp test ELISA theo ISO/IEC 17025:2005 để xác định kháng thể trong huyết thanh lợn nái đã được dùng ―gut feedback‖ PED. Kết quả kháng thể là chỉ số OD, nếu OD ≥ Cut off: Dương tính. Cut off có giá trị = 0,21.

Nguyên tắc: Phương pháp ELISA (Enzyme Linked Immunosorbent Assay- xét nghiệm hấp thụ miễn dịch liên kết với enzyme) có rất nhiều dạng mà đặc điểm chung là đều dựa trên sự kết hợp đặc hiệu giữa kháng nguyên và kháng thể, trong đó kháng thể được gắn với một enzyme. Khi cho thêm cơ chất thích hợp (thường là nitrophenol phosphate) vào phản ứng, enzyme sẽ thủy phân cơ chất thành một chất có màu. Sự xuất hiện màu chứng tỏ đã xảy ra phản ứng đặc hiệu giữa kháng thể với kháng nguyên và thông qua cường độ màu mà biết được nồng độ kháng nguyên hay kháng thể cần phát hiện. Các bước tiến hành được mô tả tại Hình 3.5.

Nguồn: Lin & cs. (2018)

48

Hình 3.5. Các bước tiến hành xác định kháng thể bằng test ELISA

3.6.9. Điều trị thử nghiệm lợn mắc dịch tiêu chảy cấp (PED)

Tiến hành xây dựng hai phác đồ điều trị trên đàn lợn mắc PED ở 2 tuần

tuổi, mỗi phác đồ điều trị 50 con. Cụ thể như sau:

Đƣờng

Phác đồ

Thuốc

Liều lƣợng

đƣa thuốc

- Colistin sulfat

100.000UI/kgTT/lần (ngày 2 lần)

Uống

- Atropin sulfat

0,1mg/kgTT/ngày

Tiêm bắp

Phác đồ 1

- Lactat Ringer

20ml/con/lần (buổi sáng)

Tiêm phúc mạc

- Glucose 5%

20ml/con/lần (buổi chiều)

Tiêm phúc mạc

- Colistin sulfat

100.000UI/kgTT/lần (ngày 2 lần)

Uống

- Atropin sulfat

0,1mg/kgTT/ngày

Tiêm bắp

Phác đồ 2

- Lactat Ringer

20ml/con/lần (buổi sáng)

Tiêm phúc mạc

- Glucose 5%

20ml/con/lần (buổi chiều)

Tiêm phúc mạc

- Máu lợn

2ml/con/lần/2ngày

Tiêm bắp

Máu lợn được lấy trực tiếp 2ml từ những lợn sử dụng trong phác đồ 2 +

0,2ml Citrat natri để chống đông.

Kết quả điều trị được theo dõi thông qua các chỉ tiêu:

Số con khỏi bệnh Tỷ lệ khỏi bệnh (%) = 100 Tổng số con điều trị

Số con chết Tỷ lệ chết (%) = 100 Tổng số con điều trị

Số con tái phát Tỷ lệ tái phát (%) = 100 Tổng số con điều trị khỏi

Tổng số ngày điều trị

Thời gian điều trị trung bình/ca (ngày) =

Tổng số con điều trị

49

Tổng lượng thuốc sử dụng Lượng thuốc điều trị = Tổng số con điều trị

3.6.10. Phƣơng pháp xử lý số liệu

- Dung lượng mẫu khảo sát được xác định theo Thrusfield (1997):

1,962 x Pexp (1- Pexp) n = d2

Trong đó: Chọn độ tin cậy 95% và độ chính xác tuyệt đối mong muốn d = 0,05.

- Số liệu thô được xử lý và tính toán trên Excel, số liệu tổng hợp được xử

lý bằng chương trình thống kê T.Test (so sánh 2 giá trị trung bình) và Chitest (so

sánh 2 tỷ lệ phần trăm). Phép thử chi bình phương (χ2: Chi-square) được sử dụng để phân tích cho trường hợp dung mẫu lớn (với giá trị mong đợi theo lý thuyết

lớn hơn 5). Vào menu Analyze - Descriptive Statistics – Crosstabs - đưa hai biến

vào hai ô tương ứng. Sau đó nhấn vào nút Statistics, chọn Chi-square để thực

hiện kiểm định. Kết quả, nếu giá trị Chi-square (ở bậc tự do df là 2) sig. > 5% thì

50

hai biến này độc lập với nhau.

PHẦN 4. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN

4.1. TÌNH HÌNH DỊCH TIÊU CHẢY CẤP Ở LỢN (PED) TẠI THANH HOÁ

4.1.1. Tình hình chăn nuôi lợn tại Thanh Hoá giai đoạn từ năm 2016 đến 2019

Để khái quát về tình hình chăn nuôi lợn trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá trong

các năm gần đây, chúng tôi đã tổng hợp số liệu của Cục thống kê tỉnh Thanh Hoá

từ năm 2016, 2017, 2018 và 2019. Kết quả được trình bày ở bảng 4.1.

Bảng 4.1. Tình hình chăn nuôi lợn tại Thanh Hoá giai đoạn 2016 - 2019

Năm Tổng đàn Nông hộ

Gia trại

Trang trại

Tỷ lệ %

Tỷ lệ %

Tỷ lệ %

2016

945.300

652.919

69,07

124.401

13,16

167.980

17,77

2017

785.120

500.750

63,78

132.685

16,90

151.764

19,33

2018

813.789

520.255

63,93

113.524

13,95

180.010

22,12

2019

795.071

490.479

61,69

111.866

14,07

192.725

24,24

Nguồn: Cục Thống kê Thanh Hoá (2019)

Qua bảng số liệu 4.1 cho thấy tình hình chăn nuôi lợn ở Thanh Hoá năm

2017 giảm so với năm 2016 là 160.180 con (16,94%). Theo báo cáo của Cục

Quản lý giá thuộc Bộ Tài chính (2017), so với cùng kỳ năm 2016, giá thịt lợn hơi

ở các tỉnh miền Bắc thấp hơn 48 – 52% (giá lợn ở mức 20.000 - 25.000đ/kg),

trong khi giá thức ăn chăn nuôi công nghiệp vẫn giữ ở mức cao (12.000-

13.000đ/kg), giá trị thu được không đủ chi phí bù đắp cho đầu tư nên người chăn

nuôi đã giảm đàn. Tuy nhiên, đến tháng 12/2017 giá lợn ổn định dần, giá thịt lợn

hơi miền Bắc phổ biến trong khoảng 29.000 – 33.000 đồng/kg, miền Nam là

27.000 – 33.000 đồng/kg và sang năm 2018, giá lợn dao động từ 32.000đ/kg đến 52.000đ/kg nên người nuôi đã tái đàn trở lại nên số lợn của tỉnh Thanh Hoá đã

tăng lên so với năm 2017 khoảng 3,65%.

Những tháng đầu năm 2019, giá lợn hơi ổn định ở mức cao nên người chăn nuôi đã tiếp tục tái đàn. Tuy nhiên, đến ngày 24/02/2019 bệnh Dịch tả lợn Châu Phi đã xuất hiện tại Thanh Hoá đã làm cho tổng đàn lợn của tỉnh năm 2019

giảm 18.718 con (2,30%) so với năm 2018, mặc dù giá lợn hơi ở mức cao, dao

51

động từ 45.000đ/kg đến 85.000đ/kg (Bộ Nông nghiệp & PTNT, 2019).

Nguồn: Cục Thống kê Thanh Hoá (2020)

Hình 4.1. Thực trạng các phương thức chăn nuôi lợn ở Thanh Hoá

Tuy nhiên, Hình 4.1 lại cho thấy thực trạng phương thức chăn nuôi lợn ở

Thanh Hoá đang đi đúng xu thế của ngành chăn nuôi nói chung và các chủ

trương, Nghị quyết của tỉnh Thanh Hoá nói riêng đó là tỷ lệ phương thức chăn

nuôi tập trung (gia trại và trang trại) tăng dần và ngược lại phương thức chăn

nuôi nhỏ lẻ (nông hộ) có xu hướng giảm dần. Theo Quyết định số

4833/2014/QĐ-UBND về việc phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển Nông

nghiệp tỉnh Thanh Hoá đến năm 2020 và định hướng đến năm 2030. Trong đó,

giai đoạn 2015 - 2020 đầu tư phát triển trang trại chăn nuôi lợn ngoại quy mô

lớn, chăn nuôi khép kín tại các huyện miền núi và trung du với tổng quy mô

40.000 - 50.000 lợn ngoại, tăng tỷ lệ chăn nuôi theo hướng công nghiệp và giảm

tỷ lệ chăn nuôi nhỏ lẻ.

4.1.2. Tình hình mắc PED trên đàn lợn tại 6 huyện của tỉnh Thanh Hoá

Để đánh giá tình hình mắc PED, đàn lợn được theo dõi theo các tiêu chí:

vùng địa lý, độ tuổi, quy mô đàn và mùa vụ. Lợn ở các trại được theo dõi trực

tiếp và điền thông tin vào phiếu theo dõi khi nghi mắc PED, tiến hành chọn mỗi

52

đàn 1-2 lợn có biểu hiện lâm sàng điển hình (tiêu chảy phân vàng xám, gầy sút

nhanh, giảm ăn (bú), nằm dồn đống hoặc nằm trên bụng mẹ), sau đó tiến hành

chẩn đoán nhanh bằng Test kit PED Ag và RT-PCR để xác định chính xác bệnh.

Những lợn còn lại ở trong đàn nếu có những biểu hiện tương tự lợn có kết quả

Test kit PED Ag và RT-PCR dương tính cũng được xác định là mắc PED.

Kết quả theo dõi tình hình dịch PED trên đàn lợn ở một số gia trại và trang

Ghi chú: Các chữ cái a,b,c,d,e biểu hiện sự sai khác có ý nghĩa giữa các giá trị so sánh trong cùng 1 chỉ tiêu (P<0,05)

trại chăn nuôi tại 6 huyện của Thanh Hoá được thể hiện qua hình 4.2.

Hình 4.2. Thực trạng mắc PED trên lợn nuôi tại các huyện của tỉnh Thanh Hoá

Tỷ lệ mắc bệnh, tỷ lệ chết và tỷ lệ tử vong ở lợn mắc dịch tiêu chảy cấp

(PED) của 6 huyện thuộc tỉnh Thanh Hoá khá cao, trung bình tỷ lệ mắc bệnh

khoảng 14,56%, tỷ lệ chết là 7,77% và tỷ lệ tử vong là 53,38% (bảng 4.2). Trong

đó lợn nuôi tại huyện Tĩnh Gia có tỷ lệ mắc bệnh (16,12%), tỷ lệ chết (9,12%) và

tỷ lệ tử vong (56,57%) là cao nhất và huyện Yên Định có tỷ lệ mắc bệnh

(12,08%) và tỷ lệ chết (6,67%) thấp nhất so với các huyện (P<0,05).

53

Nguyên nhân dẫn đến có sự khác nhau giữa các huyện trong tỉnh là do có sự khác biệt về đặc điểm địa lý và trình độ kỹ thuật chăn nuôi. Tĩnh Gia là huyện vùng ven biển, chịu tác động của khí hậu vùng biển. Như Thanh và Thạch Thành

là những huyện thuộc khu vực miền núi, các chủ trại đa số là người địa phương khả năng tiếp cận với tiến bộ khoa học kỹ thuật còn hạn chế. Phạm Khắc Hiếu &

cs. (1998) cho rằng các yếu tố khí hậu, thời tiết không thuận lợi là yếu tố tác

động rất mạnh đến quá trình loạn khuẩn ở lợn và là nguyên nhân gây ra hội

chứng tiêu chảy. Theo Hoàng Văn Tuấn & cs. (1998), tỷ lệ mắc tiêu chảy trong một số cơ sở chăn nuôi lợn phụ thuộc vào điều kiện chăm sóc, vệ sinh thú y.

Mai Thi Ngan (2020), khi nghiên cứu tình hình dịch tiêu chảy cấp (PED)

tại các tỉnh phía Bắc Việt Nam trong giai đoạn từ tháng 1 năm 2018 đến tháng 2

năm 2019 thì ở các vùng địa lý khác nhau cho kết quả mắc bệnh khác nhau. Ở khu vực Đông Bắc tỷ lệ nhiễm là 36,5%; khu vực Tây Bắc tỷ lệ nhiễm là 27,3%;

Đồng bằng Sông Hồng tỷ lệ nhiễm là 33,6% và khu vực Duyên hải Bắc Trung bộ

có tỷ lệ nhiễm là 11,4%.

4.1.3. Tình hình dịch tiêu chảy cấp theo đối tƣợng lợn nuôi tại Thanh Hoá

Để đánh giá khả năng kháng bệnh cũng như mức độ gây thiệt hại cho đàn

lợn khi mắc dịch tiêu chảy cấp, chúng tôi đã tiến hành phân đối tượng lợn thành

năm nhóm khác nhau, kết quả theo dõi được trình bày tại bảng 4.2.

Qua bảng 4.2 cho thấy, 100% đối tượng lợn đều bị mắc bệnh, tuy nhiên tỷ

lệ mắc bệnh ở các nhóm đối tượng là khác nhau. Tỷ lệ mắc bệnh cao nhất là ở

lợn con theo mẹ với tỷ lệ mắc bệnh là 22,01%, tiếp đến là lợn sau cai sữa với tỷ lệ mắc bệnh là 12,04% và thấp nhất là lợn đực giống (p<0,05). Ba nhóm đối

tượng lợn là lợn thịt, lợn nái và lợn đực giống có tỷ lệ mắc bệnh tương đương

nhau và không có sự khác biệt về mặt thống kê học (p>0,05).

Về tỷ lệ chết và tỷ lệ tử vong do mắc dịch tiêu chảy cấp (PED) trên đàn

lợn chỉ xảy ra đối với hai nhóm đối tượng đó là nhóm lợn con theo mẹ với tỷ lệ

chết là 15,99% và tỷ lệ tử vong là 72,63%. Nhóm lợn sau cai sữa với tỷ lệ chết là 3,20% và tỷ lệ tử vong là 26,59%. Khi nghiên cứu về PED ở 6 tỉnh phía Bắc, lợn

54

ở tất cả các lứa tuổi đều mắc bệnh, tỷ lệ tử vong ở lợn con theo mẹ là 68,60% và có sự khác biệt lớn về mức độ mắc bệnh giữa các nhóm tuổi (Nguyễn Văn Điệp & cs., 2014). Cũng nghiên cứu về vấn đề này, Đoàn Anh Tuấn (2012) cho biết: Nếu lợn con mắc bệnh ở độ tuổi 0 – 5 ngày tuổi: tỷ lệ tử vong 100%, nếu lợn con mắc bệnh ở độ tuổi 6 – 7 ngày tuổi tỷ lệ tử vong khoảng 50% còn nếu lợn con mắc bệnh ở độ tuổi lớn hơn 7 ngày tuổi tỷ lệ tử vong khoảng 30%. Tomoyuki (2014), khi theo dõi tình hình mắc PED tại Nhật Bản giai đoạn từ tháng 10 năm

2013 đến tháng 10 năm 2014 cho biết: Lợn nái sau khi mắc PED sẽ tự phục hồi sau một tuần, trong khi đó lợn con theo mẹ trong vòng 10 ngày tuổi có tỷ lệ tử

vong rất cao, từ 50 – 100%.

Bảng 4.2. Tình hình mắc dịch tiêu chảy cấp ở các đối tƣợng lợn

tại Thanh Hoá

Số lợn

Số lợn

Số lợn

Tỷ lệ

Tỷ lệ

Tỷ lệ tử

điều tra

mắc

chết

mắc

chết

vong

Đối tƣợng lợn

(con)

(con)

(con)

(%)

(%)

(%)

Lợn con theo mẹ

7.287

1.604

1.165

22,01d

15,99b

72,63b

Lợn cai sữa

3.529

425

113

12,04c

3,20a

26,59a

Lợn thịt

4.496

281

0

6,25a

0,00

0,00

Lợn nái

1.131

84

0

7,43b

0,00

0,00

Lợn đực giống

86

5

0

5,81a

0,00

0,00

Tổng

16.443

2.394

1.278

Ghi chú: Các chữ cái a,b,c,d biểu hiện sự sai khác có ý nghĩa giữa các giá trị so sánh trong

cùng cột (P<0,05)

Nguyên nhân dẫn đến tình trạng tỷ lệ tử vong cao là do virus xâm nhập

vào cơ thể qua đường miệng và mũi đi đến khu trú và gây tổn thương ở ruột non

của đường tiêu hóa. Bệnh tích xuất hiện trên niêm mạc ruột non 15 giờ sau, đây

được coi là vị trí nhân lên đầu tiên của virus. Sau đó, virus gắn lên lông nhung

của không tràng và hồi tràng. Virus sẽ phá hủy các tế bào niêm mạc ruột và các

trụ tuyến Lieberkuhn và sẽ gây nên sự mòn và làm ảnh hưởng đến khả năng hấp

thu chất dinh dưỡng của lông nhung. Virus tấn công vào hệ lông nhung ruột làm giảm bề mặt hấp thu gây tiêu chảy, dẫn đến lợn bị mất nước và muối khoáng. Việc mất cân bằng chất điện giải sẽ gây rối loạn tiêu hóa cho lợn con; sự hiện diện của đường lactose không phân hủy trong lòng ruột sẽ làm lợn tiêu chảy nặng

và mất cân bằng nước.

55

Theo Pensaert & cs. (2006), virus PED có chu kỳ nhân lên từ 12 đến 36 giờ. Sau 4 - 5 chu kỳ nhân lên của virus, hầu hết các tế bào niêm mạc đường tiêu hóa ở lợn mới sinh bị phá huỷ làm cho khả năng tiêu hóa và hấp thu giảm từ 7:1

xuống còn 3:1. Do vậy, khi bị bệnh lợn con gầy sút rất nhanh trong vài ngày, tỷ lệ tử vong rất cao, hầu hết lợn dưới 7 ngày tuổi sẽ tử vong sau 2 - 7 ngày với biểu

hiện của sự mất nước và hôn mê.

Huang & cs. (2013); Stevenson & cs. (2013) cho biết: Trong năm 2005- 2006, dịch PED xảy ra nghiêm trọng ở Ý, với tỷ lệ chết ở lợn con theo mẹ từ

8,3% đến 11,9%. Năm 2013 dịch bệnh đã lây lan trên 200 trại nuôi lợn ở khắp

nước Mỹ, hơn 17 bang có dịch bệnh trong vòng 3 tháng, với tỷ lệ chết trên lợn

con từ 50 – 100%. Ở Trung Quốc từ tháng 2 năm 2010 đến tháng 11 năm 2011

bệnh bùng phát trở lại và gây hậu quả nghiêm trọng, tỷ lệ lợn chết từ 90 tới 100%

(tương ứng 50.000 con), chủ yếu là lợn dưới 7 ngày tuổi (Chen & cs., 2013).

Nguyễn Văn Điệp & Nguyễn Thị Lan (2012) cho biết, tại một trại nuôi

lợn thịt mới nhập lợn về từ nhiều nguồn khác nhau hoặc trong giai đoạn nuôi vỗ

béo, nếu PED bùng phát ở thể cấp tính, trong vòng một tuần, tất cả lợn sẽ có biểu

hiện tiêu chảy. Lợn có biểu hiện chán ăn, mệt mỏi, phân rất loãng, chứa nhiều

nước. Giai đoạn vỗ béo lợn thường có biểu hiện đau vùng bụng nhiều hơn, sau

khoảng 7 - 10 ngày, lợn sẽ hồi phục. Tỷ lệ tử vong ở lợn trong giai đoạn vỗ béo

thường từ 1 - 3%, lợn chết nhanh, thường ở giai đoạn mới bắt đầu tiêu chảy hoặc

trước khi có biểu hiện tiêu chảy.

Thai Swine Veternary Association (2015) lợn con theo mẹ rất mẫn cảm

với bệnh. Khi mắc PED lợn tiêu chảy nghiêm trọng và rơi vào tình trạng mất

nước gây tử vong. Tỷ lệ tử vong ở lợn con theo mẹ tại khu vực phía Đông, Thái

Lan từ 80 – 100%, trong đó lợn con dưới 7 ngày tuổi tỷ lệ tử vong là 100%. Ở

lợn lớn thường không xảy ra tử vong do PED, tuy nhiên khi lợn lớn mắc PED đã ảnh hưởng đến khả năng tăng trọng cũng như an toàn sinh học tại trang trại do

chúng mang mầm bệnh và thường xuyên thải ra môi trường.

Như vậy, đối với dịch tiêu chảy cấp (PED) thì đối tượng lợn con, đặc biệt là đối tượng lợn con theo mẹ có tỷ lệ mắc bệnh và tỷ lệ tử vong là cao nhất. Các đối tượng lợn thịt, lợn nái và lợn đực giống cũng bị mắc bệnh nhưng tỷ lệ mắc thấp và không gây tử vong và kết quả nghiên cứu về tình hình mắc PED này cũng phù hợp với kết quả nghiên cứu của các tác giả trên.

4.1.4. Tình hình lợn mắc dịch tiêu chảy cấp theo mùa trong năm tại Thanh Hoá

56

Việc xác định đặc tính dịch tễ của dịch tiêu chảy cấp ở lợn (PED) theo mùa vụ trong năm có ý nghĩa rất quan trọng, giúp người chăn nuôi và các nhà

Thú y có những biện pháp phòng bệnh và can thiệp kịp thời khi có dịch xảy ra. Chính vì vậy, tiến hành theo dõi chỉ tiêu này là rất cần thiết. Kết quả theo dõi tình

hình mắc PED trên đàn lợn theo mùa trong năm tại Thanh Hoá được thể hiện qua

Ghi chú: Các chữ cái a,b,c,d biểu hiện sự sai khác có ý nghĩa giữa các giá trị so sánh trong cùng 1 chỉ tiêu (P<0,05)

hình 4.3.

Hình 4.3. Trình trạng mắc PED theo mùa tại Thanh Hoá

Tỷ lệ mắc PED tại mùa Đông là cao nhất, tỷ lệ mắc bệnh trong đàn lên

đến 21,70% và thấp nhất là mùa Hè với với tỷ lệ mắc là 7,43% (bảng 4.3). Sự sai khác về tỷ lệ mắc bệnh ở các mùa khác nhau có ý nghĩa về mặt thống kê với với

độ tin cậy 99,99% (p<0,001). Mùa Đông và mùa Xuân tỷ lệ tử vong cao nhất

(58,93%), trong khi đó mùa Hè với mùa Thu là hai mùa có tỷ lệ tử vong thấp

nhất (p<0,05).

57

Có sự khác nhau về tỷ lệ mắc bệnh và tỷ lệ tử vong ở các mùa trong năm là do mùa Đông ở Thanh Hoá có nhiệt độ rất thấp kết hợp với mưa phùn và gió mùa Đông Bắc làm cho nhiệt độ giảm thấp còn khoảng 5,40C và thậm chí có những đợt thấp hơn 10C. Độ ẩm bình quân năm của Thanh Hoá là 85%, tuy nhiên trong giai đoạn này độ ẩm lên cao từ 94% - 100%. Vì vậy, đây đã làm ảnh hưởng đến sức đề kháng của đàn lợn và là điều kiện thuận lợi cho dịch bệnh bùng phát. Đến mùa Xuân, đây là thời điểm giao mùa nên có sự thay đổi mạnh về kiểu khí hậu, từ dạng ẩm thấp chuyển sang nóng ẩm. Với khí hậu nóng ẩm sẽ là điều kiện

thuận lợi cho các loại mầm bệnh bùng phát – đây chính là điều kiện để bệnh tiêu chảy cấp ở lợn phát triển, do vậy tỷ lệ mắc bệnh và tử vong ở hai mùa Đông –

Xuân tương đối cao. Sang mùa Hè và mùa Thu, do thời lượng nắng cao nên các

mầm bệnh tồn tại ngoài môi trường bị tiêu diệt hoặc suy yếu nên khả năng gây

bệnh kém, vì vậy tỷ lệ mắc bệnh và tử vong ở hai mùa Hè – Thu thấp hơn so với hai mùa Đông – Xuân với độ tin cậy từ 95% - 99,99%. Theo Hồ Văn Nam & cs.

(1997), khi gia súc bị nhiễm lạnh, ẩm kéo dài sẽ làm giảm phản ứng miễn dịch, giảm tác dụng thực bào, do đó gia súc dễ bị nhiễm khuẩn gây bệnh. Nguyễn Văn

Điệp & cs. (2014) khi nghiên cứu tình hình PED xảy ra tại một số tỉnh phía Bắc

Việt Nam cho biết tại các trại, PED thường bùng phát vào mùa lạnh (từ tháng 11

đến tháng 4) tốc độ lây lan nhanh, thường xảy ra đầu tiên trên đàn lợn nái, tỷ lệ

lợn biểu hiện tiêu chảy cao (trung bình 76,8%). Lợn ở tất cả các lứa tuổi đều bị tiêu chảy (có thể lên tới 100%), tỷ lệ chết cao ở lợn con theo mẹ (68,6%).

Tomoyuki (2014), khi theo dõi tình hình mắc PED tại Nhật Bản giai đoạn từ

tháng 10 năm 2013 đến tháng 10 năm 2014 cho biết: PED bùng phát từ tháng 12

năm trước đến tháng tháng 4 năm sau (tháng 12, dịch bùng phát ở miền nam

Kyushu và tập trung vào quận Kagoshima; tháng 2 và 3 tiếp tục bùng phát ở khu

vực phía Nam Kyushu; Đến đầu tháng 4, dịch bệnh bùng phát ở từng khu vực

thuộc miền Đông Nhật Bản và miền Bắc Nhật Bản), từ tháng 5 đến tháng 9 dịch

ít xảy ra. Dịch xảy ra quanh năm nhưng chủ yếu vào mùa đông do nhiệt độ thấp

virus tồn tại lâu trong môi trường (Callebaut & cs., 1982; Hofmann & Wyler,

1989; Thai Swine Veternary Association, 2015).

Một trong những nguyên nhân chính của việc PED bùng phát theo mùa đó

58

là do đặc tính sinh học của PEDV. Ở nhiệt độ âm sâu sau 1 năm hiệu giá virus giảm không đáng kể, ở 370C sau 4 ngày virus mất hoàn toàn khả năng gây nhiễm. Virus tương đối ổn định ở nhiệt độ từ 4 đến 500C so với nhiệt độ cao hơn. Khi ủ trong môi trường nuôi cấy tế bào ở 40C thì virus tồn tại và phát triển được với phạm vi pH (3 - 10) trong 6 giờ, trong khi ở 370C trong 6 giờ, nó chỉ giữ được khả năng lây nhiễm trong khoảng pH từ 5 đến 8,5 và virus bị bất hoạt hoàn toàn ở môi trường có độ pH thấp hơn 4 và cao hơn 9 (Hofmann & Wyler, 1989). Theo Callebaut & cs. (1982) thì PEDV bền vững ở khoảng pH 5,0 – 9,0 ở 40C và pH từ 6,5 – 7,5 ở 370C; Thai Swine Veternary Association (2015) ở nhiệt độ 40C PEDV có thể tồn tại được 49 ngày, trong khi đó ở nhiệt độ 370C PEDV chỉ có thể tồn tại được 8 - 10 ngày.

Theo kết quả nghiên cứu của Mai Thi Ngan (2020), tại các tỉnh phía Bắc

Việt Nam tỷ lệ mắc nhiễm PEDV cao nhất ở mùa Xuân (56,3%) và thấp nhất ở

mùa Hè (23,2%).

Như vậy, dịch tiêu chảy cấp trên lợn (PED) có tính chất mùa vụ và thường

xảy ra vào các mùa có nhiệt độ thấp và mưa nhiều (đặc thù ở tỉnh Thanh Hoá là

mùa Đông và mùa Xuân).

4.1.5. Tình hình lợn mắc dịch tiêu chảy cấp theo quy mô đàn tại Thanh Hoá

Kết quả theo dõi trên quy mô các đàn (Gia trại: Dưới 20 lợn nái hoặc dưới

100 lợn thịt; Trại nhỏ: từ 20-50 lợn nái hoặc từ 100-250 lợn thịt; Trại lớn: trên 50

lợn nái hoặc trên 250 lợn thịt) được thể hiện ở bảng 4.3 cho thấy lợn nuôi ở quy

mô trại lớn có tỷ lệ mắc bệnh cao nhất (15,79%) và chăn nuôi gia trại có tỷ lệ

mắc bệnh thấp nhất (12,14%), tuy nhiên ở tỷ lệ tử vong thì ngược lại ở các gia

trại lại có tỷ lệ tử vong cao hơn ở các trang trại (p<0,05). Khi nuôi ở quy mô hộ

gia đình (gia trại) thì có ít người lạ ra vào khu vực chăn nuôi, do ở quy mô đàn

này lao động chủ yếu là những người trong gia đình nên hạn chế được sự lây

nhiễm mầm bệnh từ bên ngoài vào. Khi nuôi với quy mô trại càng lớn, mật độ

lợn cao thì khả năng mắc bệnh càng cao do nguy cơ lây bệnh từ những lợn mang

trùng trong đàn. Mặt khác, nuôi với quy mô lớn, việc luân chuyển đàn, công nhân

và các phương tiện ra vào trại thường xuyên diễn ra, đây cũng là yếu tố nguy cơ

quan trọng làm tăng khả năng tiếp xúc với mầm bệnh từ bên ngoài. Mặt khác,

virus gây bệnh PED có thể tồn tại được trong phân lợn nên quá trình tích tụ mầm

bệnh cũng xảy ra làm cho nồng độ virus tăng lên và gây bệnh cho đàn (Song &

cs., 2005).

Theo Thai Swine Veternary Association (2015), khi lợn lớn mắc bệnh

PED thường không xảy ra tử vong. Tuy nhiên, đối tượng này ảnh hưởng trực tiếp

đến an toàn sinh học tại trang trại do chúng mang mầm bệnh và thường xuyên

thải ra môi trường.

Tình trạng lây lan trong trang trại là con đường lây truyền chính của

PEDV qua đường phân-miệng (Kim & cs., 2017). Việc cải thiện quản lý vệ sinh

trang trại và tránh các thực hành rủi ro liên quan đến việc tiếp xúc với phân lợn là

chìa khóa trong việc ngăn chặn sự xâm nhập của virus PED vào trang trại

59

(Toyomaki & cs., 2018).

Sự lây truyền PEDV gián tiếp qua thiết bị bảo vệ cá nhân bị ô nhiễm xảy ra nhanh chóng trong vòng 24 giờ (Kim & cs., 2017). Ở Nhật Bản, các trang trại

quy mô lớn, gần trang trại bị nhiễm bệnh, số lượng xe chở thức ăn và thời gian

tiếp xúc với chất khử trùng ngắn hơn, các yếu tố bác sĩ thú y đến thăm là mối liên

hệ chặt chẽ với tình trạng PED (Sasaki & cs., 2016). Ở Mỹ, vận tải được coi là con đường chính để truyền PEDV (O'Dea & cs., 2016). Ở Italia, xe tải được chỉ

ra rằng có thể có một vai trò quan trọng trong việc lây lan PEDV (Boniotti & cs., 2018). Thức ăn bị ô nhiễm PEDV được báo cáo là một yếu tố nguy cơ đáng kể

đối với việc lây truyền PED giữa các trang trại ở Mỹ, Nhật Bản và Canada

(Pasick & cs., 2014; Dee & cs., 2014; Bowman & cs., 2015; Sasaki & cs., 2016;

Perri & cs., 2018). Sự lây truyền qua các phương tiện giao thông được xác định

là một yếu tố sinh học gây ra sự lây lan nhanh chóng của PEDV ở Mỹ và Nhật

Bản (Lowe & cs., 2014; Sasaki & cs., 2016).

Theo Huỳnh Minh Trí & cs. (2017) khi các trại nhập con giống từ bên

ngoài vào thì nguy cơ mắc bệnh cao hơn 2,35 lần so với trại tự túc con giống.

Cũng theo Huỳnh Minh Trí & cs. (2017) khi nghiên cứu tỷ lệ nhiễm PEDV tại

các trại lợn nái tại tỉnh An Giang thì tỷ lệ mẫu dương tính với PEDV ở quy mô

trại lớn (trên 50 nái) là cao nhất và ở các trại nhỏ (dưới 20 nái) là thấp nhất.

Mai Thi Ngan (2020) khi nghiên cứu về tình hình nhiễm PED tại các tỉnh

phía Bắc Việt Nam cho biết những trại quy mô lớn (trên 600 lợn) có tỷ lệ nhiễm

bệnh là 37,7%, những trại có quy mô nhỏ có tỷ lệ nhiễm là 23,8%.

Bảng 4.3. Tình hình lợn mắc dịch tiêu chảy cấp theo quy mô đàn

tại Thanh Hoá

Số lợn

Số lợn bị

Quy mô

Số lợn bị

Tỷ lệ mắc

Tỷ lệ chết

Tỷ lệ tử

theo dõi

bệnh

trại

chết (con)

bệnh

(%)

vong (%)

(con)

(con)

Gia trại

2.875

349

231

Trại nhỏ

5.597

786

408

Trại lớn

7.971

1.259

639

12,14a 14,04bc 15,79bd

8,03a 7,29a 8,02a

66,19b 51,91a 50,75a

2.394

Tổng

16.443

1.278

Ghi chú: Các chữ cái a,b,c,d biểu hiện sự sai khác có ý nghĩa giữa các giá trị so sánh trong cùng cột (P<0,05).

60

Về tỷ lệ tử vong, các gia trại có tỷ lệ tử vong cao hơn các trang trại (p<0,05), nguyên nhân là do ở trang trại có lực lượng cán bộ kỹ thuật tốt đã có các biện pháp can thiệp kịp thời nên đã làm giảm tỷ lệ tử vong, ngược lại thì ở các gia trại hầu hết là chăn nuôi theo kinh nghiệm nên việc áp dụng các biện pháp kỹ thuật (tiêm phúc mạc, truyền dịch...) gặp khó khăn và đây cũng là nguyên nhân quan trọng làm cho tỷ lệ tử vong tăng cao (66,19%). Theo Sun & cs. (2012), Ge & cs. (2013), Sung & cs. (2015), Yamane & cs. (2016), trong tự nhiên, lợn con theo mẹ khi mắc PED nếu không can thiệp kịp thời thì sau 1 đến 3 ngày phát bệnh tỷ lệ chết lên đến 100%. Vì vậy, việc theo dõi phát hiện lợn mắc bệnh và có các biện pháp can thiệp kịp thời như bổ sung nước, chất điện giải... đúng cách sẽ làm giảm đáng kể tỷ lệ tử vong.

Hình 4.4. Tình trạng mắc PED theo quy mô đàn tại Thanh Hoá

4.2. ĐẶC ĐIỂM BỆNH LÝ Ở LỢN MẮC DỊCH TIÊU CHẢY CẤP (PED) TẠI THANH HOÁ

4.2.1. Triệu chứng lâm sàng ở lợn mắc dịch tiêu chảy cấp (PED)

Bằng phương pháp quan sát mô tả, phân tích và thống kê số liệu khi theo dõi lợn mắc dịch tiêu chảy cấp ở đàn lợn con theo mẹ tại một số trang trại ở tỉnh

61

Thanh Hoá. Kết quả được thể hiện ở hình 4.5.

Triệu chứng lâm sàng của lợn bệnh thay đổi, phụ thuộc vào trạng thái

miễn dịch của cơ thể trong đàn lợn bệnh, cũng như điều kiện quản lý, chăm sóc.

Nhìn chung các biểu hiện chính ở lợn mắc dịch tiêu chảy cấp (PED) là: Ủ rũ, mệt

mỏi, giảm ăn, bỏ ăn, gầy sút và đây cùng là triệu chứng chung của các bệnh truyền

nhiễm. Điều này được giải thích một cách đơn giản đó là khi PEDV xâm nhập vào

đường tiêu hoá của lợn, virus sẽ nhân lên trong bào tương của các tế bào lông

nhung, phá huỷ các tế bào biểu mô và làm ngắn lông nhung niêm mạc ruột, tỷ lệ

chiều cao giữa lông nhung và tuyến ruột có thể giảm từ 7:1 xuống còn 3:1 làm tổn

thương niêm mạc ruột gây tiêu chảy mãnh liệt làm cho cơ thể lợn yếu dần, ủ rũ và

mệt mỏi. Gregory & cs. (2013) cho biết tỷ virus PED nhân lên trong tế bào biểu

mô ruột, làm cho tế bào lông nhung bị đứt nát và dính vào nhau và tỷ lệ chiều cao

giữa lông nhung và rãnh ruột (crypt) của ruột lợn 19 ngày tuổi mắc PED giảm

xuống còn 1:1. Lợn bệnh giảm hoặc bỏ bú (ăn) và bị tổn thương niêm mạc ruột

nên quá trình hấp thu được dinh dưỡng kém đồng thời bị tiêu chảy mạnh nên cơ

thể mất năng lượng, nước và chất điện giải. Do vậy nên thân nhiệt giảm, để giữ

nhiệt cho cơ thể lợn thích leo lên người lợn mẹ hoặc nằm chồng lên nhau để giữ

ấm (Pospischil & cs., 1981; Pensaert & cs., 2006) .

Hiện tượng lợn tiêu chảy phân màu vàng xám nhiều nước, lợn gầy sút

nhanh và nằm dồn đống (chồng lên nhau) là những triệu chứng chính, đặc trưng

và điển hình của bệnh và có tần suất xuất hiện là 100%. Ngoài các triệu chứng

trên thì tại hình 4.5 cũng cho thấy, lợn bị tiêu chảy cấp còn có các triệu chứng

khác như bỏ ăn, bỏ bú có tần suất là 42,50%, lợn nôn tần suất là 40%.

Khi nghiên cứu các biểu hiện lâm sàng ở lợn mắc dịch tiêu chảy cấp

(PED) trên đàn lợn thuộc các tỉnh phía Nam, Do Tien Duy & cs. (2011) cho biết:

các triệu chứng lâm sàng chủ yếu ở lợn mắc PED là: chán ăn, nôn mửa, tiêu

chảy, tỷ lệ chết cao ở lợn con theo mẹ.

Theo Thai Swine Veternary Association (2015), lợn ở mọi lứa tuổi rất

nhạy cảm với nhiễm trùng và cho thấy các triệu chứng lâm sàng tương tự như

nôn mửa và tiêu chảy nhưng có mức độ nghiêm trọng khác nhau. Các triệu chứng

lâm sàng đặc biệt của lợn con bị nhiễm bệnh bao gồm sữa đông nôn mửa, tiêu

62

chảy và lợn con nằm trên bụng lợn nái.

Hình 4.5. Triệu chứng lâm sàng của lợn mắc PED nuôi tại tỉnh Thanh Hoá

Theo Nguyễn Văn Điệp & cs. (2014) khi theo dõi dịch tiêu chảy cấp gây

ra trên đàn lợn con theo mẹ tại huyện Văn Lâm, Hưng Yên cho thấy những lợn

con mắc PED thường có biểu hiện kém ăn, bỏ ăn, tiêu chảy, phân nhiều nước

màu vàng, lợn bệnh thường có hiện tượng nằm dồn đống lên nhau, thích nằm trên bụng mẹ. Pensaert (1992), cũng cho biết triệu chứng lâm sàng chủ yếu của PED

là tiêu chảy, phân màu vàng nhiều nước, mất nước…

63

Ảnh 4.2. Phân lợn màu vàng xám ở lợn 7 ngày tuổi mắc PED Ảnh 4.1. Phân màu vàng ở lợn 2 ngày tuổi mắc PED

Ảnh 4.3. Lợn gầy sút do PED Ảnh 4.4. Lợn gầy sút do PED

ở 2 ngày tuổi ở 17 ngày tuổi

Ảnh 4.5. Lợn 2 ngày tuổi mắc PED nằm chồng lên nhau Ảnh 4.6. Lợn 12 ngày tuổi mắc PED nằm chồng lên nhau

Như vậy, kết quả nghiên cứu này cũng phù hợp với các kết quả nghiên cứu của các tác giả trên và những triệu chứng chính, đặc trưng và điển hình của PED là mệt

mỏi, tiêu chảy phân màu vàng xám nhiều nước, lợn gầy sút nhanh và nằm dồn đống

(chồng lên nhau).

4.2.2. Chỉ tiêu lâm sàng ở lợn mắc dịch tiêu chảy cấp (PED)

4.2.2.1. Thân nhiệt

Để đo thân nhiệt lợn, dùng nhiệt kế thuỷ ngân có thang chia độ C (0C). Đo qua trực tràng, dùng tay vẩy nhẹ cho vạch thủy ngân của nhiệt kế xuống dưới

mức 20, đặt nhiệt kế vào trực tràng lợn giữ nguyên 3 – 5 phút sau đó lấy ra đọc kết quả. Kết quả đo thân nhiệt được trình bày tại bảng 4.4.

64

Qua bảng số liệu 4.4 cho thấy lợn nhiễm bệnh PED thân nhiệt giảm so với lợn khỏe. Trong điều kiện sức khỏe bình thường thân nhiệt lợn 38,57 ± 0,020C, khi mắc PED thân nhiệt lợn giảm còn 37,70 ± 0,050C (p<0,05). Do thân nhiệt giảm lên có thể quan sát thấy lợn thường nằm túm lại hoặc nằm trên bụng lợn mẹ. Xu hướng giảm thân nhiệt gia tăng khi bệnh nặng hơn.

Nguyên nhân của hiện tượng thân nhiệt giảm là do khi mắc dịch tiêu chảy cấp (PED) lợn giảm hoặc bỏ ăn (bú) nên nguồn năng lượng đưa vào bị hạn chế. Mặt khác, theo Pensaert & cs. (2006), khi lợn mắc PED thì hầu hết các tế bào tiêu hóa ở lợn mới sinh bị phá huỷ làm cho khả năng tiêu hóa và hấp thu giảm từ 7:1 xuống còn 3:1.

4.2.2.2. Tần số hô hấp

Hô hấp (thở) là hoạt động quan trọng để duy trì sự sống. Bởi đây là quá trình cung cấp oxy cho não và các cơ quan khác của cơ thể. Khi tần số hô hấp bị ảnh hưởng bởi bệnh lý hay các yếu tố nguy cơ có thể mang lại nhiều bất lợi cho con người và động vật, thậm chí có thể đe dọa đến tính mạng.

Kết quả bảng 4.4 cho thấy lợn khỏe mạnh có tần số hô hấp trung bình 22,83 ± 0,20 lần/phút, từ 21,00 ÷ 27,00 lần/phút. Khi lợn mắc dịch tiêu chảy cấp (PED) tần số hô hấp biến đổi rõ rệt (43,23 ± 0,15 lần/phút), tăng lên so với lợn khoẻ là 20,40 lần/phút (p<0,05). Theo Nguyễn Văn Điệp & cs. (2014), Nguyễn Thị Thơm & cs. (2018), khi lợn mắc dịch tiêu chảy cấp (PED) thì phổi và một số cơ quan nội tạng như tim, gan, thận bị tổn thương (có biểu hiện tụ huyết), do đó đã ảnh hưởng đến khả năng hô hấp của con vật. Như vậy, tần số hô hấp của lợn bệnh tăng cao so với tần số hô hấp của lợn khỏe mạnh. Tần số hô hấp tăng nhằm đáp ứng bù lượng O2 thiếu trong máu và các mô bào hoặc do lượng CO2 trong máu. Các hóa thụ quan trung ương trong hành não và hoá thụ quan ngoại biên trong cung động mạch chủ và thân động mạch cảnh sẽ đo lường tổ hợp các biến số trên và gửi thông tin về hệ thống thông khí trung tâm để tăng nhịp thở và thể tích khí lưu thông, bù đắp cho bất kì sự thay đổi bất thường nào.

Bảng 4.4. Thân nhiệt, tần số hô hấp và tim đập ở lợn khoẻ và lợn mắc dịch

tiêu chảy cấp (PED) trên đàn lợn thuộc tỉnh Thanh Hoá

Đối tƣợng

Chỉ tiêu theo dõi

Thân nhiệt (0C) Tần số hô hấp (lần/phút) Tần số tim đập (lần/phút)

Lợn khoẻ (n=40) 38,57  0,02a 22,83  0,20b 93,32  0,20b

Lợn bệnh (n=40) 37,70  0,05b 43,23  0,15a 135,08 0,29a

MSE MSE MSE

Ghi chú: Các chữ cái a,b biểu hiện sự sai khác có ý nghĩa giữa các giá trị so sánh trong cùng cột (P<0,05).

65

4.2.2.3. Tần số tim đập

Cùng với xác định tần số hô hấp chúng tôi cũng tiến hành đo tần số mạch

đập của 2 nhóm lợn khỏe và lợn mắc PED.

Qua bảng số liệu 4.4 cho thấy tần số mạch của lợn khỏe mạnh là 93,32 ±

0,20 nhịp/phút. Khi lợn bị dịch tiêu chảy cấp (PED) tần số tim tăng lên 135,08 ±

0,29 nhịp/phút, cao hơn so với lợn khoẻ mạnh là 41,75 nhịp/phút (p<0,05).

Ngược lại với sự thay đổi thân nhiệt, tần số tim của lợn mắc dịch tiêu chảy cấp

của những lần đo sau tăng hơn so với những lần trước đó.

Thân nhiệt, tần số hô hấp, tần số tim là những dấu hiệu sinh lý thể hiện

sức khỏe vật nuôi, chúng liên quan mật thiết với nhau. Do thân nhiệt cơ thể giảm

đòi hỏi cơ thể phải tăng cường trao đổi chất, tăng tần số hô hấp, tăng nhịp tim để

tạo năng lượng cung cấp cho cơ thể, ổn định lại thân nhiệt cơ thể. Trong trường

hợp sinh lý bình thường sự thay đổi về thân nhiệt, tần số hô hấp, tần số mạch xảy

ra trong thời gian ngắn sẽ ổn định lại. Tuy nhiên, trong những trường hợp bệnh lý

sự thay đổi này có thể kéo dài, do sự tác động của tác nhân gây bệnh trong thời

gian dài vượt qua giới hạn điều hòa của cơ thể.

4.2.3. Bệnh tích ở lợn mắc dịch tiêu chảy cấp (PED)

4.2.3.1. Bệnh tích đại thể ở lợn mắc dịch tiêu chảy cấp (PED)

Để xác định được những biến đổi đại thể do PEDV gây ra ở các cơ quan

trên cơ thể lợn bệnh, tiến hành mổ khám 25 lợn con mắc dịch tiêu chảy cấp

(PED) mức độ nặng, có biểu hiện triệu chứng lâm sàng điển hình nhất và có kết

quả chẩn đoán nhanh bằng Test kit PED Ag và RT-PCR dương tính. Những biến

đổi đại thể của bệnh PED ở các cơ quan trên cơ thể lợn bệnh đã được ghi nhận.

Kết quả khảo sát được trình bày ở bảng 4.5.

Qua bảng 4.5, cho thấy 100% lợn mổ khám có biểu hiện xác chết gầy (ảnh 4.7). Nguyên nhân của biểu hiện này là do khi lợn mắc bệnh niêm mạc ruột bị tổn thương nên khả năng chuyển hóa và hấp thu các chất dinh dưỡng giảm. Mặt khác, lợn mắc bệnh thường giảm hoặc bỏ ăn (bú) và do tiêu chảy mãnh liệt dẫn đến mất

nước nên lợn gầy còm.

66

Bệnh tích chủ yếu của lợn mắc dịch tiêu chảy cấp (PED) thể hiện ở ruột như ruột non căng phồng, chứa dịch và bọt vàng trong ruột non (ảnh 4.12, 4.14) chiếm tỷ lệ 100%. Theo Sueyoshi & cs. (1995), Lee (2015) thì lớp tế bào biểu mô thành ruột của lợn mắc dịch tiêu chảy cấp (PED) bị thoái hoá và hoại tử

không tăng sinh vì vậy thành ruột trở nên mỏng. Chen & cs. (2016) khi nghiên cứu về dịch tiêu chảy cấp xảy ra ở Mỹ đã ghi nhận lợn khi nhiễm virus PED 7

ngày thì 60 – 100% ruột non chứa đầy dịch lỏng lợn cợn, căng phồng và thành

ruột mỏng.

Theo Pospichil & cs. (1981), thành ruột non của lợn mắc dịch tiêu chảy

cấp trở nên mỏng là kết quả của sự thoái hóa, hoại tử không tăng sinh thay thế

được của lớp tế bào biểu mô thành ruột, đây là bệnh tích điển hình nhất của lợn

mắc dịch tiêu chảy cấp do virus PED. Thai Swine Veternary Association (2015)

cho biết, các bệnh tích đại thể điển hình ở lợn con theo mẹ nuôi tại Thái Lan mắc dịch tiêu chảy cấp - PED bao gồm: Dạ dày sưng và căng phồng chứa sữa đông

đặc, thành ruột non mỏng chứa chất lỏng màu vàng xanh, các hạch bạch huyết ở

màng treo ruột sưng to.

Bảng 4.5. Bệnh tích đại thể của lợn mắc dịch tiêu chảy cấp (PED) nuôi

tại Thanh Hoá

STT

Bệnh tích

Tỷ lệ (%)

1

100

thành

Số lợn mổ khám (con) 25 25

Số lợn có bệnh tích (con) 25 25

2

100

25

100

3 4

25 25

22

88

Xác chết gầy Ruột non căng phồng, mỏng Dịch, bọt vàng trong ruột non Dạ dày căng phồng chứa dịch sữa chưa tiêu

5

25

20

80

6 7 8 9

Hạch lympho màng treo ruột sung huyết - xuất huyết Gan thoái hóa màu đất sét Phổi tụ huyết Thận sưng nhẹ Tim to, cơ mềm

25 25 25 25

13 12 10 6

52 48 40 24

67

Ngoài các bệnh tích kể trên, lợn con theo mẹ còn có biểu hiện như dạ dày căng phồng chứa dịch sữa không tiêu chiếm tỷ lệ 88% (ảnh 4.14); hạch màng treo ruột sung huyết, xuất huyết chiếm tỷ lệ 80% (ảnh 4.8). Bệnh tích còn thấy xuất hiện ở gan thoái hóa màu đất sét chiếm tỷ lệ 52% (ảnh 4.15), phổi tụ huyết (ảnh 4.9), thận sưng nhẹ (ảnh 4.11) chiếm tỷ lệ 48% số lợn mổ khám. Kết quả nghiên cứu này phù hợp với một số nghiên cứu trong và ngoài nước. Theo Kwonil & cs. (2014), Lee (2015) cho biết, ngoài bệnh tích đặc trưng của PED là

thành ruột mỏng và trong suốt (tá tràng đến đại tràng) và tích tụ một lượng lớn chất lỏng màu vàng trong lòng ruột thì dạ dày chứa đầy sữa đông do nhu động ruột giảm. Nguyễn Văn Điệp & cs. (2014), Nguyễn Thị Thơm & cs. (2018) khi lợn mắc bệnh PED thì các bệnh tích như: xác chết gầy, da nhăn nheo, ruột non căng phồng chứa dịch vàng lợn cợn xuất hiện 100%, các cơ quan nội tạng như tim, gan, thận, phổi... có biểu hiện tụ huyết.

Theo Gregory & cs. (2013) thì lợn con theo mẹ khi mắc PED bị nhiễm độc cấp tính có phân màu vàng bao phủ da và lông, dạ dày chứa ít sữa đông, ruột non và ruột già bị căng phồng do chứa nhiều nước có chứa các bông sữa không tiêu từ trắng đến vàng và thành ruột non mỏng và giãn ra. Các chất trong ruột, khi được thu gom và để lắng, phân chia thành lớp trên cùng là chất lỏng màu vàng trong và lớp dưới cùng là chất lỏng kết dính lỏng lẻo từ trắng đến vàng nhạt. Khi lợn mắc PED bị chết, xung quanh hậu môn bị phủ một lớp phân màu vàng, gầy còm và mất nước rõ rệt, bằng chứng là mắt trũng sâu, da kém đàn hồi và các mô dưới da căng cứng. Đường tiêu hóa thường trống rỗng và thành ruột non mỏng. Theo Chao & cs. (2016), PEDV gây bệnh ở đường ruột và lây nhiễm sâu vào các tế bào biểu mô lông nhung của toàn bộ ruột non và ruột già của lợn mắc bệnh, mặc dù không tràng và hồi tràng là những vị trí chính của nhiễm trùng. Nhiễm PEDV gây viêm ruột cấp tính, teo niêm mạc thể nặng kèm theo nhiễm trùng huyết (RNA virus) dẫn đến tiêu chảy và nôn mửa dữ dội, sau đó là mất nước trên diện rộng và mất cân bằng điện giải trong máu là nguyên nhân chính gây tử vong ở lợn con đang bú mẹ.

Như vậy, kết quả nghiên cứu về bệnh tích đại thể ở lợn lai 3 máu dưới 2 tuần tuổi tại các trại ở Thanh Hoá phù hợp với kết quả nghiên cứu của các tác giả trong và ngoài nước trên.

Ảnh 4.7. Xác chết lợn mắc PED

ở 2 ngày tuổi Ảnh 4.8. Hạch lympho màng treo ruột lợn mắc PED ở 5 ngày tuổi

68

sung huyết, xuất huyết

Ảnh 4.9. Phổi lợn mắc PED ở 2 Ảnh 4.10. Tim lợn mắc PED ở 2

ngày tuổi tụ huyết ngày tuổi sƣng to

Ảnh 4.12. Ruột non lợn mắc PED ở Ảnh 4.11. Thận lợn mắc PED ở 2 6 ngày tuổi căng phồng, ngày tuổi sƣng nhẹ

69

thành mỏng

Ảnh 4.14. Ruột lợn mắc PED ở 2 Ảnh 4.13. Ruột lợn mắc PED ở 2

ngày tuổi chứa dịch vàng ngày tuổi sung huyết

Ảnh 4.16. Dạ dày lợn mắc PED ở 3 ngày tuổi căng phồng chứa sữa chƣa Ảnh 4.15. Gan lợn mắc PED ở 5 ngày tuổi màu đất sét

70

tiêu hoá

4.2.3.2. Bệnh tích vi thể ở ruột lợn mắc dịch tiêu chảy cấp (PED)

Gregory & cs. (2013) cho biết lợn khi mắc dịch tiêu chảy cấp (PED) các tổn

thương vi thể chủ yếu giới hạn ở ruột và ở ruột non là nơi bị tổn thương nặng nhất.

Vì vậy, để thấy rõ mức độ tổn thương ở ruột của lợn mắc PED chúng tôi đã tiến

hành nghiên cứu bằng phương pháp mô học thông thường. Trong 25 lợn mổ khám

bệnh tích đại thể (đây là những lợn có triệu chứng lâm sàng điển hình, có kết quả

chẩn đoán bằng Test kit PED Ag và phản ứng RT-PCR dương tính với), tiến hành

lấy các mẫu bệnh phẩm là các mẫu ruột bao gồm: tá tràng, không tràng, hồi tràng

và kết tràng. Sau khi lấy các mẫu bệnh phẩm từ ruột của lợn mắc dịch tiêu chảy

cấp và được bảo quản trong formol 10% trong thời gian từ 1 - 2 tuần, sau đó làm

tiêu bản nhuộm HE.

Từ những mẫu bệnh phẩm thu được, chúng tôi tiến hành đúc block, mỗi

block tiến hành cắt, nhuộm tiêu bản, sau đó soi kính hiển vi, đọc kết quả bệnh tích

vi thể. Từ mỗi block sau khi làm tiêu bản tiến hành chọn ra 5 tiêu bản đẹp nhất để

kiểm tra bệnh tích vi thể. Tiêu bản được để khô và quan sát dưới kính hiển vi

quang học. Nếu block nào có 2 tiêu bản có bệnh tích trở lên thì được xác định là

dương tính. Kết quả nghiên cứu được trình bày ở bảng 4.6.

Qua bảng 4.6 cho thấy bệnh tích vi thể ở ruột đã bị biến đổi rất lớn, đặc

biệt là hiện tượng sung huyết (ảnh 4.17, 4.19, 4.28), tăng sinh các nang lympho

(ảnh 4.25, 4.26), lông nhung bị phá huỷ (ảnh 4.21, 4.22, 4.23, 4.24) và thâm

nhiễm tế bào viêm (ảnh 4.27, 4.28) ở các block nghiên cứu. Vì ruột là cơ quan bị

ảnh hưởng, tác động tương đối sớm và nhiều nhất do PEDV nhân lên trong bào

tương của các tế bào lông nhung của ruột (Pospischil & cs.,1981). Theo Nguyễn

Tất Toàn (2013), khi lợn mắc PED có biểu hiện bệnh nặng, bệnh tích đại thể rõ

ràng thì biến đổi bệnh lý diễn ra phức tạp, xuất huyết và hoại tử tràn lan là biến

đổi bệnh lý đặc trưng của bệnh. Tế bào niêm mạc ruột bị hoại tử bắt màu hồng

đều, mất cấu trúc tế bào, không phân biệt được phần nhân tế bào và tế bào chất.

Bên cạnh đó còn thấy lớp lông nhung của biểu mô niêm mạc ruột bị phá hủy, các

71

tuyến tiết dịch tiêu hóa cũng không còn.

Bảng 4.6. Kết quả nghiên cứu bệnh tích vi thể ở ruột của lợn mắc tiêu chảy cấp (PED) trên đàn lợn ở tỉnh Thanh Hoá

Cơ quan

Tổn thƣơng vi thể (n = 25)

Hoại tử

Thoái hóa tế

Thâm nhiễm tế

Lông nhung bị

Tăng sinh các nang

Sung huyết Xuất huyết

bào

bào viêm

phá hủy

lympho

tế bào

7 2

N

%

N

%

n

%

%

%

%

%

n

n

n

n

(+)

(+)

(+)

(+)

(+)

(+)

(+)

Tá tràng

25

100

11

44

19

76

23

92

25

100

22

88

25

100

Không tràng

25

100

15

60

25

100

25

100

25

100

25

100

25

100

Hồi tràng

22

88

17

68

23

92

24

96

25

100

25

100

25

100

Kết tràng

19

76

3

12

8

32

10

40

23

92

6

24

25

100

Ghi chú: n là số block nghiên cứu.

n (+) là số block dương tính.

72

Ở tá tràng của lợn mắc bệnh PED nuôi tại Thanh Hoá xuất hiện các tổn

thương bệnh lý vi thể nghiêm trọng, trong đó rõ nhất là hiện tượng sung huyết

(các mạch quản giãn rộng, chứa đầy hồng cầu), thoái hoá tế bào, thâm nhiễm các tế bào viêm, các lông nhung bị tổn thương và các nang lympho tăng sinh (100%).

Trong khi đó các biểu mô của niêm mạc ruột bị thoái hóa tế bào, tế bào thường

mọng nước, gây phù nhẹ niêm mạc, cùng hạ niêm mạc bị xuất huyết các mạch

quản. Hiện tượng này xuất hiện ở 19 block mẫu tá tràng chiếm tỷ lệ 76%. Trong các bệnh tích ở tá tràng lợn mắc PED hiện tượng xuất huyết xảy ra ít nhất (44%). Đây là hiện tượng các mao mạch và mạch quản ở tá tràng bị tổn thương và làm

hồng cầu thoát mạch vào lòng ruột, nằm lẫn trong các chất chứa của ruột gây mất máu cho lợn bệnh. (Lin & cs., 2015) ở lợn con theo mẹ khi mắc bệnh thì có 50%

lợn bị viêm tá tràng làm cho các lông nhưng bị co ngắn lại, gây phù ở niêm mạc

và tổn thương tế bào. Cũng tại tá tràng, ở các tế bào ruột lông nhung của lợn chết

do mắc PED đã phát hiện được sự có mặt của virus PED ở mức cao nhất so với ở

các đoạn ruột còn lại (Madson & cs., 2015). Tế bào niêm mạc ruột khi bị hoại tử

bắt màu hồng đều, mất cấu trúc tế bào, không phân biệt được phần nhân tế bào và

tế bào chất. Bên cạnh đó còn thấy lớp lông nhung của biểu mô niêm mạc ruột bị

phá hủy, các tuyến tiết dịch tiêu hóa cũng không còn (Nguyễn Tất Toàn, 2013).

Không tràng và hồi tràng là nơi chịu các tổn thương nặng nhất, hầu hết

các tổn thương như sung huyết, hoại tử tế bào, lông nhung bị phá huỷ, tăng sinh

tế bào lympho và thâm nhiễm tế bào viêm đều xuất hiện với tỷ lệ 100%. Hiện

tượng thâm nhiễm tế bào viêm là các đại thực bào, bạch cầu ái toan, đa nhân

trung tính: Bệnh tích vi thể chủ yếu xuất hiện ở cả 25 block không tràng và hồi

tràng, chiếm tỷ lệ 100%. Ngoài ra, khi quan sát các tiêu bản vi thể ruột đều cho

thấy rõ sự phá hủy của lông nhung ở không tràng và hồi tràng rất cao chiếm tỷ lệ

100% mẫu bệnh quan sát. Ở các nang lympho là nơi cư trú chủ yếu của các tế

73

bào lympho B. Trước khi có sự kích thích của các kháng nguyên thì các nang này được gọi là nang tiên khởi. Do còn trong thời kì nghỉ nên các tế bào lympho còn nhỏ, cái nọ nằm sát cái kia tạo ra một hình thái đặc biệt. Nhưng sau khi có sự kích thích của kháng nguyên thì chúng sẽ tăng sinh thành nang thứ phát chứa những tế bào tiền thân sẽ tiết ra kháng thể. Hiện tượng tăng sinh các nang lympho xuất hiện ở cả 25 không tràng và hồi tràng, chiếm tỷ lệ 100%. Hiện tượng thoái hóa và hoại tử của các tế bào biểu mô ruột, teo nhung mao nặng, thâm nhiễm tế bào lympho, tắc nghẽn nhẹ đến trung bình và giãn mạch bạch

huyết và các hạch bạch huyết màng treo ruột biểu hiện tăng sản bạch huyết ở khu

vực ruột không tràng và hồi tràng đã được Ortega & cs. (2016) ghi nhận tại các ổ

dịch xảy ra ở Mexico năm 2014. Các tổn thương mô học cấp tính, viêm teo niêm mạc, các lông nhung bị tổn thương trầm trọng làm cho thành của không tràng

mỏng và trong suốt (Jung & cs., 2014; Qian & cs., 2019). Các tổn thương đáng

kể chỉ giới hạn ở ruột non, trong đó 100% lợn đều bị teo từ trung bình đến rõ rệt

và hợp nhất các lông nhung ruột, đôi khi ở đầu lông nhung có thể nhìn thấy những đám tế bào biểu mô tròn 2 hoặc 3 tế bào bị tróc vảy (Gregory & cs.,

2013).

Ở ruột kết (kết tràng), tổn thương vi thể xuất hiện nhiều nhất là tăng sinh

các nang lympho (100%), thâm nhiễm tế bào viêm (92%) và sung huyết (76%). Trong khi đó, tỷ lệ các block kết tràng có tổn thương ở lông nhung chỉ chiếm

24% và xuất huyết chỉ chiếm 12% trong tổng số các block kết tràng. Theo kết

quả nghiên cứu của Nguyễn Văn Điệp & Nguyễn Thị Lan (2012) về sự tác động của virus PED thì các tế bào biểu mô hấp thu ở lông nhung rất mẫn cảm với

PEDV, những tế bào biểu mô nhiễm virus có thể được quan sát sau 12 đến 18 giờ

gây nhiễm, rõ nhất sau khoảng 24 đến 36 giờ, tuy nhiên không quan sát thấy có sự

phá hủy tế bào biểu mô ở kết tràng (Pospischil & cs.,1981). Bằng kỹ thuật miễn

dịch huỳnh quang có thể quan sát thấy virus PED có mặt trong tế bào biểu mô kết

tràng của lợn mắc dịch tiêu chảy cấp tự nhiên hoặc được gây nhiễm. Tuy nhiên,

đến nay việc virus PED xâm nhiễm ở kết tràng của lợn có làm cho bệnh nặng hơn

hay không vẫn chưa được rõ.

Trong thời kỳ ủ bệnh, tức là trước khi bắt đầu có các dấu hiệu lâm sàng,

lợn bị nhiễm bệnh có chiều dài lông nhung bình thường nhưng với các tế bào ruột

không bào bị hoại tử (Debouck & cs., 1981). Trong thời gian từ 1 đến 3 ngày sau

khi bắt đầu tiêu chảy, lợn mắc PED có biểu hiện lông nhung bị tổn thương và bào

mòn nghiêm trọng, tiếp sau đó là các tế bào bị hoại tử (Jung & cs., 2014).

Các nghiên cứu vi thể đã cho thấy có sự hiện diện rõ rệt của các hạt virus

74

bên trong bào tương tế bào và sự thay đổi tế bào ở các tế bào biểu mô ruột non và kết tràng (Ducatelle& cs., 1982). Những sự thay đổi cấu trúc siêu vi thể được khởi đầu đặc trưng bằng sự mất đi của các bào quan, vi nhung, lưới tận và phần nhô ra của bào tương tế bào hấp thu vào trong xoang ruột (Pospischil & cs., 1981). Sau đó, các tế bào trở nên dẹt hơn, liên kết vòng bịt giữa các tế bào biểu mô mất đi và tế bào được giải phóng vào bên trong lòng ống ruột. Kết quả nghiên

cứu trên cho thấy, các tổn thương vi thể ở ruột chủ yếu của lợn mắc dịch tiêu chảy

cấp (PED) là sung huyết, xuất huyết, thâm nhiễm tế bào viêm, lông nhung bị ăn

mòn, tăng sinh các nang lympho và hoại tử tế bào.

Gregory & cs. (2013) cho biết lợn khi mắc PED các tổn thương cấp tính

nhất là của các tế bào biểu mô thoái hóa trên bề mặt bên và các đầu của lông

nhung. Các tế bào bị sưng lên một cách khác nhau với tế bào chất bạch cầu ái toan dạng hạt, đôi khi chứa các không bào proteinic màu hồng nhạt từ tròn đến

bầu dục có kích thước thay đổi. Các tế bào sưng lên dẫn đến đường viền bàn chải

có hình vỏ sò chứ không phải là bề mặt phát sáng tuyến tính bình thường hơn.

Một số tế bào mất gắn kết với các tế bào lân cận trên bề mặt bên và với màng đáy

trên bề mặt cơ bản của chúng. Các tế bào biểu mô hợp bào được quan sát có chứa nhiều nhân. Các vi nhung bị rút ngắn một cách khác nhau với sự ngưng tụ của

lớp đệm gần các đầu của lông nhung. Các lông nhung bị teo nghiêm trọng, đầu

của lông nhung bị bào mòn hoặc bị bao phủ bởi các tế bào biểu mô suy giảm rõ rệt với hình thái hình khối thấp đến hình vảy. Lớp đệm được cô đặc trong suốt

chiều dài của lông nhung và thường chứa các mảnh vụn nhân và một số bạch cầu

trung tính. Tế bào biểu mô lông nhung sưng lên có tế bào chất dạng hạt, đôi khi

chứa các không bào màu hồng nhạt có kích thước thay đổi từ hình tròn đến hình

bầu dục.

Ảnh 4.17. Sung huyết hạ niêm mạc ruột. (HE x 100)

Ảnh 4.18. Lông nhung ruột bị tù đầu, ngắn lại. (HE x 200)

75

Ảnh 4.20. Hoại tử tế bào biểu mô ruột. (HE x 200)

Ảnh 4.19. Sung huyết hạ niêm mạc ruột nhuộm. (HE x 200)

Ảnh 4.21. Thoái hóa tế bào trên đỉnh các lông nhung Tá tràng lợn mắc PED. (HE x 200)

Ảnh 4.22. Các lông nhung Không tràng lợn mắc PED bị ngắn lại. (HE x 200)

Ảnh 4.24. Tổn thƣơng lông nhung Kết tràng lợn mắc PED. (HE x 200)

Ảnh 4.23. Lông nhung của Hồi tràng lợn mắc PED tù đầu, ngắn lại. (HE X200)

76

Ảnh 4.26. Tăng sinh các nang Lympho thành ruột ở không tràng lợn mắc PED. (HE x 200)

Ảnh 4.25. Tăng sinh nang Lympho thành ruột Hồi tràng lợn mắc PED. (HE x 100)

Ảnh 4.27. Thâm nhiễm tế bào viêm xung quanh các tuyến ruột lợn mắc PED. (HE x 400) Ảnh 4.28. Sung huyết và thâm nhiễm tế bào viêm xung quanh tuyến ruột lợn mắc PED. (HE x 400)

4.2.4. Các chỉ tiêu sinh lý máu của lợn mắc dịch tiêu chảy cấp (PED)

4.2.4.1. Một số chỉ tiêu về chất lượng hồng cầu

a. Số lượng hồng cầu (RBC: 106/µL)

Số lượng hồng cầu ở các loài gia súc là khác nhau, trong cùng một loài số

lượng hồng cầu thay đổi theo giống, giới tính, chế độ dinh dưỡng. Khi gia súc bị

bệnh số lượng hồng cầu có thể tăng hay giảm. Số lượng hồng cầu tăng thường

77

gặp trong trường hợp mất nước như: tiêu chảy nặng, nôn nhiều, sốt cao, trúng

độc (Asen, Coban) do thiếu dưỡng khí. Số lượng hồng cầu giảm thường gặp

trong các bệnh thiếu máu, các bệnh làm dung huyết, ký sinh trùng đường máu.

Số lượng hồng cầu phản ánh phẩm chất con giống, số lượng hồng cầu

càng nhiều thì sức sống, sức đề kháng của con vật càng tốt. Vì vậy, việc xác định

số lượng hồng cầu có ý nghĩa quan trọng để chẩn đoán bệnh.

Kết quả kiểm tra số lượng hồng cầu ở lợn khoẻ và lợn mắc PED được thể

hiện tại bảng 4.7.

Kết quả bảng 4.7 cho thấy: Số lượng hồng cầu ở lợn khoẻ trung bình là 6,51 0,10x106/µL, từ 5,28 ÷ 7,52x106/µL. Trong khi đó số lượng hồng cầu ở lợn mắc dịnh tiêu chảy cấp (PED) là 7,76x106/µL. Hồ Văn Nam & cs. (1997) khi

nghiên cứu về bệnh viêm ruột tiêu chảy ở lợn đã xác định được số lượng hồng cầu của lợn trung bình là 6,5 x106/µL, từ 6 ÷ 8x106/µL. Theo Masiuk & cs.

(2018) ở lợn từ 16 đến 18 ngày tuổi mắc dịnh tiêu chảy cấp (PED) có số lượng hồng cầu (từ 7,14 đến 8,19x106/µL) cao hơn lợn khoẻ (5,62x106/µL) là 34,1%

(P<0,05).

Khi lợn bị bệnh đã xuất hiện triệu chứng tiêu chảy mãnh liệt và giảm bú

nên lượng nước trong cơ thể lợn giảm mạnh. Vì vậy, máu lợn sẽ bị cô đặc nên

lượng hồng cầu/µL tăng. Phạm Ngọc Thạch & cs. (2006). Tại nghiên cứu này,

các tác giả cho rằng: Trong thú y số lượng hồng cầu tăng thường do các nguyên

nhân làm cơ thể mất nước như những bệnh gây tiêu chảy, nôn mửa, ra nhiều mồ

hôi,... làm cho máu bị cô đặc.

b. Tỷ khối hồng cầu (HCT: %)

Tỷ khối hồng cầu là tỷ lệ phần trăm khối hồng cầu trong một thể tích máu

nhất định. Xác định tỷ khối hồng cầu là một chỉ tiêu quan trọng trong chẩn đoán

lâm sàng. Tỷ khối hồng cầu có thể tăng hoặc giảm do nhiều nguyên nhân khác

nhau. Chỉ số này tăng khi thể tích bình quân hồng cầu tăng, hoặc số lượng hồng

78

cầu tăng, hoặc cả hai cùng tăng và ngược lại, tỷ số sẽ giảm khi tỷ khối hồng cầu

Bảng 4.7. Số lƣợng, tỷ khối và thể tích bình quân của hồng cầu ở lợn khoẻ và lợn mắc PED nuôi tại tỉnh Thanh Hoá

Số lƣợng hồng cầu

Tỷ khối hồng cầu

Thể tích bình quân hồng cầu

(106/µL)

(%)

(fL)

Đối tƣợng

MSE

MSE

MSE

Lợn khoẻ

6,51  0,10b

37,30  0,38b

57,73  0,91

(n=40)

Lợn bệnh

7 9

7,76  0,09a

43,84  0,26a

56,76  0,70

(n=40)

Ghi chú: Các chữ cái a,b biểu hiện sự sai khác có ý nghĩa giữa các giá trị so sánh trong cùng cột (P<0,05).

79

giảm khi thể tích bình quân hồng cầu giảm hoặc khi số lượng hồng cầu giảm

hoặc khi cả hai cùng giảm. Kết quả kiểm tra tỷ khối hồng cầu ở lợn khoẻ và lợn

bệnh được trình bày ở bảng 4.7.

Ở lợn khoẻ mạnh có tỷ khối hồng cầu trung bình là 37,30  0,38%. Trong

khi đó, ở lợn mắc dịch tiêu chảy cấp (PED) có tỷ khối hồng cầu trung bình là

43,84  0,26%, từ 40,08 ÷ 45,98%. Như vậy, ở lợn mắc dịnh tiêu chảy cấp (PED)

có tỷ khối hồng cầu cao hơn so với lợn khoẻ mạnh (p<0,05). Masiuk & cs.

(2018) khi nghiên cứu về chỉ tiêu này tại các trang trại lợn ở Ukraina cho biết, tỷ

khối hồng cầu trung bình của lợn từ 16 đến 18 ngày tuổi khi khoẻ mạnh 37,1%, ở

lợn mắc dịnh tiêu chảy cấp (PED) chỉ số này dao động từ 56,3% đến 64,3% và

các tác giả này cũng cho rằng nguyên nhân của việc tăng tỷ khối hồng cầu là do

lợn mắc dịnh tiêu chảy cấp (PED) bị mất nước nên máu bị cô đặc, số lượng hồng

cầu/µL tăng đã dẫn đến thể tích hồng cầu tăng so với thể tích máu toàn phần

tăng.

c. Thể tích trung bình quân của một hồng cầu (MCV: fL)

Kết quả kiểm tra thể tích trung bình của hồng cầu ở 40 lợn khoẻ và 40 lợn

bệnh (bảng 4.7) cho thấy:

Thể tích trung bình của hồng cầu ở lợn khoẻ trung bình là 57,73  0,91fL,

nhưng khi lợn mắc dịnh tiêu chảy cấp (PED), thể tích trung bình của hồng cầu có

kích thước là 56,76  0,70 fL. Qua bảng số liệu 4.7 cho thấy, ở lợn bệnh thể tích

bình quân của hồng cầu có kích thước bé hơn kích thước của hồng cầu lợn khoẻ

mạnh. Tuy nhiên, sự chênh lệch chỉ số này không đáng kể và không có ý nghĩa

về mặt thống kê (p>0,05).

d. Sức kháng hồng cầu

Sức kháng của hồng cầu là độ bền của màng hồng cầu ở nồng độ dung dịch

muối NaCl loãng. Ở nồng độ dung dịch muối loãng làm hồng cầu bắt đầu vỡ gọi là

sức kháng tối thiểu và ở nồng độ muối làm toàn bộ hồng cầu vỡ gọi là sức kháng

tối đa của hồng cầu.

Khi các hồng cầu bị đặt vào trong một dung dịch muối mà áp lực thẩm

thấu nhẹ hơn hay nói cách khác khi hồng cầu bị đặt vào một dung dịch muối

nhược trương thì nước từ dung dịch muối nhược trương sẽ đi vào hồng cầu để

80

cân bằng áp lực thẩm thấu trong và ngoài hồng cầu. Nước vào như vậy làm

trương các hồng cầu, nếu dùng các dung dịch nhược trương nhiều hơn thì sẽ càng

làm cho hồng cầu trương to thêm và đến một dung dịch nhược trương nào đó thì

hồng cầu vỡ.

Vì vậy, để kiểm tra độ bền của màng hồng cầu thì việc thử sức kháng của

hồng cầu có ý nghĩa trong việc chẩn đoán.

Kết quả kiểm tra sức kháng hồng cầu của 40 lợn khoẻ và 40 lợn bệnh

được thể hiện ở bảng 4.8.

Bảng 4.8. Sức kháng hồng cầu ở lợn mắc dịch tiêu chảy cấp (PED) tại tỉnh

Tối thiểu

Tối đa

Chỉ tiêu

Đối tượng

MSE

MSE

Lợn khỏe (n = 40)

0,66  0,002a

0,44  0,004a

Lợn bệnh (n = 40)

0,68  0,002b

0,47  0,003b

Ghi chú: Các chữ cái a,b biểu hiện sự sai khác có ý nghĩa giữa các giá trị so sánh trong cùng cột (P<0,05).

Thanh Hoá

Qua bảng 4.8 cho thấy: ở lợn khoẻ có sức kháng tối thiểu của hồng cầu là:

0,66  0,002 (% NaCl), từ 0,68 ÷ 0,64 (% NaCl) và sức kháng tối đa là 0,44 

0,004 (% NaCl), từ 0,52 ÷ 0,44 (% NaCl).

Theo Hồ Văn Nam & cs. (1997) thì hồng cầu ở lợn khoẻ mạnh có sức

kháng tối thiểu là 0,78 - 0,68 (% NaCl) và sức kháng tối đa là 0,48 - 0,42 (%

NaCl). Khi lợn mắc dịch tiêu chảy cấp (PED) sức kháng hồng cầu tối thiểu là

0,68  0,002 và tối đa của lợn bệnh là 0,47  0,003 (% NaCl). Như vậy ở lợn mắc

dịch tiêu chảy cấp (PED) có sức kháng hồng cầu giảm so với lợn khoẻ mạnh.

Theo chúng tôi sức kháng của hồng cầu giảm ở lợn bệnh có lẽ do độc tố

của vi khuẩn bội nhiễm tiết ra tác động vào màng hồng cầu làm giảm tính bền

vững của màng. Đồng thời, khi bị tiêu chảy cấp làm cho cơ thể mất lượng nước

và muối nhất định, do vậy nồng độ muối trong máu giảm nên khi ta cho máu vào

dung dịch muối nhược trương thì hồng cầu dễ vỡ. Kết quả nghiên cứu của chúng

81

tôi cũng phù hợp với nghiên cứu về ảnh hưởng của các yếu tố đến sức kháng

hồng cầu của Phạm Ngọc Thạch & cs. (2006). Tại nghiên cứu này, các tác giả

cho rằng: Sức kháng hồng cầu liên quan đến nồng độ các muối ở trong máu,...

4.2.4.2. Một số chỉ tiêu về Hemoglobin

a. Hàm lượng Huyết sắc tố (Hemoglobin – HGB:g/l)

Huyết sắc tố là thành phần chủ yếu của hồng cầu, chức năng của

hemoglobin là vận chuyển khí O2 và CO2, vận chuyển các chất dinh dưỡng, điều

hoà độ pH của máu, chức năng đệm, khi hồng cầu bị phá huỷ hemoglobin dùng

để tổng hợp các chất như sắc tố mật,...

Hàm lượng huyết sắc tố là số gam Hemoglobin chứa trong 1lít máu. Hàm

lượng huyết sắc tố trong máu của các loài gia súc thay đổi theo giống, tuổi, tính

biệt, trạng thái dinh dưỡng, bệnh tật.

Hàm lượng huyết sắc tố tỷ lệ thuận với số lượng hồng cầu. Số lượng hồng cầu trong 1 mm3 máu giảm hoặc tăng thì hàm lượng huyết sắc tố cũng giảm hoặc

tăng theo. Do đó trong chẩn đoán thì việc định lượng huyết sắc tố là rất quan

trọng, nó không những cho ta biết rõ chức năng của hồng cầu mà còn tìm được

nguyên nhân của trạng thái thiếu máu. Kết quả nghiên cứu một số chỉ tiêu về

Hemoglobin được thể hiện qua bảng 4.9.

Xác định hàm lượng huyết sắc tố của 40 lợn khoẻ cho thấy: hàm lượng

huyết sắc tố trung bình là 122,16  1,83g/l, từ 10,34 ÷ 14,28g/l. Theo Lê Văn Thọ

& Đàm Văn Tiện (1992), hàm lượng huyết sắc tố trung bình ở lợn khoẻ là 123g/l

và từ 100 ÷ 140g/l. Craft & cs. (1994), hàm lượng huyết sắc tố trung bình là

130g/l. Trong khi đó, tại bảng 4.9 cho thấy hàm lượng huyết sắc tố trung bình

của lợn mắc dịch tiêu chảy cấp (PED) là 139,78  1,84g/l và từ 123,2 ÷162,5g/l.

Masiuk & cs. (2018) khi nghiên cứu về chỉ tiêu này trên lợn từ 16 đến 18 ngày

tuổi tại các trang trại ở Ukraina thì hàm lượng huyết sắc tố trong máu của lợn

khoẻ là 95,0g/l, trong khi đó ở lợn mắc dịch tiêu chảy cấp (PED) chỉ số này tăng

lên 128,2g/l. Theo Masiuk & cs. (2018); Zhang & cs. (2019), quá trình lây nhiễm

virus PED vào ngày thứ 3 - 5 thì lợn có biểu hiện các dấu hiệu lâm sàng, xảy ra

quá trình viêm - hoại tử cấp tính trong mô ruột, phá hủy và bong vảy của biểu mô

82

của ruột non đi kèm với sự gia tăng số lượng hồng cầu, bạch cầu, huyết sắc tố, tỷ

khối hồng cầu.

Như vậy, khi lợn mắc dịch tiêu chảy cấp (PED), hàm lượng huyết sắc tố

cao hơn lợn khoẻ là 17,62g/l (p<0,05). Nguyên nhân của sự tăng này là do số

lượng hồng cầu/μltăng do nước trong cơ thể giảm vì tiêu chảy và kết quả nghiên

cứu này cũng phù hợp với kết quả nghiên cứu các các tác giả trên.

b. Nồng độ huyết sắc tố trung bình của hồng cầu (MCHC: g/l)

Kết quả bảng 4.9 cũng cho thấy: Nồng độ huyết sắc tố trung bình của lợn

khoẻ là 319,09  1,83g/l, từ 258,4 ÷ 383,4g/l. Khi lợn mắc dịch tiêu chảy cấp

(PED), nồng độ huyết sắc tố bình quân tăng lên 335,89  4,80g/l. Lợn mắc PED

có nồng độ huyết sắc tố bình quân tăng do tiêu chảy mạnh nên máu bị cô đặc so

với máu ở lợn khoẻ (p<0,05). Nguyễn Thị Thơm (2019) khi nghiên cứu về nồng

độ huyết sắc tố trung bình ở lợn 2 tuần tuổi nuôi tại Hà Giang cho biết: Lợn Mán

khoẻ mạnh có hàm lượng huyết sắc tố trung bình là 20,25 1,05 pg, khi mắc

PED, hàm lượng huyết sắc tố trung bình của hồng cầu tăng lên và đạt 20,99

0,55 pg. Ở lợn Rừng khoẻ mạnh hàm lượng huyết sắc tố trung bình là 19,33

0,75 pg, khi mắc PED hàm lượng huyết sắc tố trung bình của hồng cầu tăng

lên 20,54 1,27 pg. Như vậy, khi lợn mắc PED thì chỉ số HGB và MCHC tăng,

đây là dấu hiệu bệnh lý có thể sử dụng trong chẩn đoán và hỗ trợ trong điều trị

bệnh.

c. Lượng huyết sắc tố trung bình của hồng cầu (MCH: pg).

Theo kết quả tại bảng 4.9, lợn khoẻ mạnh có lượng huyết sắc tố trung bình

là 18,92  0,38pg, từ 13,97 ÷ 23,97pg. Nguyễn Thị Tường Vy & Đinh Văn Dũng

(2016) khi nghiên cứu về các chỉ tiêu sinh lý máu của lợn nuôi tại các trại ở

huyện Phong Điền, tỉnh Thừa thiên Huế cho biết: Lượng huyết sắc tố trung bình

của lợn lai 3 máu sơ sinh từ 19,57 ÷ 21,09 pg. Kết quả này so với kết quả nghiên

cứu của chúng tôi là tương đương nhau. Khi nghiên cứu lượng huyết sắc tố trung

bình của lợn mắc dịch tiêu chảy cấp (PED) kết quả cho thấy chỉ số này ở lợn

mắc PED thấp hơn 0,79 pg so với lợn khoẻ. Tuy nhiên sự sai khác này không có

ý nghĩa về mặt thống kê (p>0,05). So sánh sự thay đổi lượng huyết sắc tố trung

bình của hồng cầu ở lợn Mán và lợn Rừng khi mắc PED với lợn khoẻ mạnh.

83

Bảng 4.9. Hàm lƣợng huyết sắc tố, nồng độ huyết sắc tố trung bình, lƣợng huyết sắc tố trung bình của hồng cầu ở lợn

mắc dịch tiêu chảy cấp (PED) nuôi tại Thanh Hoá

Hàm lƣợng huyết sắc tố

Nồng độ huyết sắc tố trung bình

Lƣợng huyết sắc tố trung bình

trong một hồng cầu (pg)

(g/l)

(g/l)

Đối tƣợng

MSE

MSE

MSE

Lợn khoẻ

122,16  1,83b

319,09  1,83b

18,92  0,38

(n=40)

8 4

Lợn bệnh

139,78  1,84a

335,89  4,80a

18,13  0,36

(n=40)

Ghi chú: Các chữ cái a,b biểu hiện sự sai khác có ý nghĩa giữa các giá trị so sánh trong cùng cột (P<0,05).

84

Nguyễn Thị Thơm (2019) cho biết: Ở lợn Mán khoẻ mạnh hàm lượng

huyết sắc tố trung bình là 20,25 1,05 pg, trong khi đó lợn Mán mắc PED, hàm

lượng huyết sắc tố trung bình của hồng cầu tăng lên và đạt 20,99 0,55 pg

(P>0,05). Hàm lượng huyết sắc tố trung bình của lợn Rừng khoẻ mạnh là 19,33

0,75 pg, còn lợn Rừng mắc PED hàm lượng huyết sắc tố trung bình của hồng

cầu tăng lên 20,54 1,27 pg (P>0,05). Như vậy, kết quả nghiên cứu của chúng

tôi cũng phù hợp với các tác giả nghiên trên đó là khi lợn mắc dịch tiêu chảy cấp

(PED) thì hàm lượng huyết sắc tố trung bình của hồng cầu không có sự sai khác

so với lợn khoẻ mạnh (P > 0,05).

4.2.4.3. Một số chỉ tiêu về bạch cầu

a. Số lượng bạch cầu (RBC: 103/µL)

Các xét nghiệm chỉ số bạch cầu là một chỉ tiêu quan trọng trong chẩn đoán và

điều trị bệnh. Mỗi loài đều có số lượng bạch cầu nhất định nhưng lại thường hay dao

động và phụ thuộc vào trạng thái sinh lý, bệnh lý của cơ thể, phản ánh khả năng bảo

vệ cơ thể bằng các hoạt động thực bào và tham gia quá trình đáp ứng miễn dịch.

Ở trạng thái sinh lý bình thường bạch cầu thường tăng sau khi vận động,

khi có thai, giảm khi tuổi tăng lên, đặc biệt khi cơ thể lâm vào tình trạng bệnh lí,

sự thay đổi số lượng bạch cầu rõ rệt số lượng bạch cầu thường tăng khi bị viêm

nhiễm, có sự xâm nhập của vi khuẩn, vật lạ. Số lượng bạch cầu giảm trong các

bệnh siêu vi trùng, viêm não, khi bị suy tuỷ, nhiễm phóng xạ. Do đó có thể căn

cứ vào sự biến đổi số lượng bạch cầu để chẩn đoán, chữa bệnh.

Kết quả xác định số lượng bạch cầu ở 80 lợn (trong đó có 40 lợn khỏe

mạnh bình thường và 40 lợn mắc dịch tiêu chảy cấp) được trình bày ở bảng 4.10.

Qua bảng 4.10 cho thấy số lượng bạch cầu ở lợn khoẻ trung bình là 14,70  0,29x103/µL, dao động từ 13,39 - 16,24x103/µL. Trong khi số lượng bạch cầu trung bình ở lợn mắc dịch tiêu chảy cấp (PED) là 20,43  0,17x103/µL, dao động từ 19,77- 21,19 x103/µL (p<0,05).

85

Theo kết quả nghiên cứu của Nguyễn Thị Thơm (2019) tại Hà Giang, số lượng bạch cầu ở lợn Rừng 14,95 1,74 x103/µL, khi mắc PED chỉ số này giảm chỉ còn 9,55 1,08 x103/µL. Ở lợn Mán khoẻ là 8,85 1,20 x103/µL, số lượng bạch cầu trung bình ở lợn Mán mắc PED là 15,25 1,83x103/µL.

b. Công thức bạch cầu.

Trong chẩn đoán ngoài việc xác định số lượng bạch cầu, nhiều trường hợp

cần thiết phải xác định các loại bạch cầu và số lượng của chúng.

Công thức bạch cầu là tỷ lệ phần trăm của 5 loại bạch cầu: ái toan, ái

kiềm, trung tính, lâm ba cầu, bạch cầu đơn nhân lớn. Trong đó bạch cầu trung

tính còn được phân loại chi tiết thành tuỷ cầu, ấu cầu, bạch cầu nhân gậy, nhân

đốt tuỳ theo mức độ thành thục của nhân. Thực tế trong chẩn đoán cho thấy, việc

phân chia bạch cầu rất có ý nghĩa trong chẩn đoán và định tiên lượng bệnh truyền

nhiễm cấp tính hay mạn tính, các bệnh của hệ tạo máu.

Khi xác định công thức bạch cầu của lợn mắc PED, kết quả cho thấy bạch

cầu trung tính và bạch cầu ái toan tăng cao so với lợn khoẻ mạnh còn bạch cầu ái

kiềm, bạch cầu đơn nhân lớn và lymphocyte lại giảm so với lợn khoẻ (p<0,05).

Như vậy, có sự thay đổi rất rõ về công thức bạch cầu giữa lợn mắc PED

và lợn khoẻ mạnh. Bạch cầu trung tính có khả năng thực bào mạnh, chúng

thường có mặt sớm nhất và hầu như có số lượng lớn nhất trong bệnh PED, chúng

có tính hoá ứng động dương với các tổ chức viêm hoại tử. Chức năng chính của

chúng là thực bào: nuốt, trung hoà và có thể tiêu hoá dị vật. Điều này cũng có thể

thấy trong kết quả nghiên cứu của chúng tôi trình bày tại bảng 4.10. Kết quả cho

thấy ở lợn khoẻ mạnh tỷ lệ bạch cầu trung tính là 42,64  0,36%, trong khi đó ở

lợn mắc bệnh PED là 52,77  0,22%. Kết quả nghiên cứu này cũng phù hợp với

kết quả nghiên cứu về tỷ lệ bạch cầu trung tính ở lợn Mán và lợn Rừng của

Nguyễn Thị Thơm (2019). Lợn Mán khoẻ mạnh có tỷ lệ bạch cầu trung tính là

38,50 2,27 %, khi lợn Mán mắc PED tỷ lệ này tăng cao (60,45 4,02%). Ở lợn

Rừng mắc dịch tiêu chảy cấp có tỷ lệ bạch cầu trung tính (57,67 2,69%) cao ở

lợn khoẻ mạnh (40,67 2,45%) (p<0,05).

86

Bảng 4.10. Số lƣợng bạch cầu, công thức bạch cầu của lợn khoẻ và lợn mắc

PED nuôi tại tỉnh Thanh Hoá

Đối tƣợng

Chỉ tiêu theo dõi

Lợn khoẻ

Lợn bệnh

Số lượng lợn theo dõi (con)

40

40

MSE

16,89  0,19b

23,41  0,30a

Số lượng Bạch cầu (103/µL)

Bạch cầu ái toan

MSE

2,99  0,02b

4,20  0,07a

EOS (%)

Bạch cầu ái kiềm

MSE

0,73  0,01a

0,57  0,01b

BASO (%)

Bạch cầu trung tính

MSE

42,64  0,36b

52,77  0,22a

NEU (%)

Đơn nhân lớn

MSE

4,58  0,05a

3,49  0,03b

MONO (%)

MSE

49,05  0,44a

38,98  0,23b

Lymphocyte

LYM (%)

Ghi chú: Các chữ cái a,b biểu hiện sai khác có ý nghĩa giữa các giá trị so sánh trong

cùng hàng (P<0,05).

Về tỷ lệ lymphocyte ở lợn khoẻ và lợn bệnh, kết quả nghiên cứu cũng cho

thấy tỷ lệ lymphocyte ở lợn mắc PED (38,98  0,23) thấp hơn so với lợn khoẻ

(49,05  0,44). Theo chúng tôi có thể giải thích như sau: theo quy luật, các tế bào

lymphocyte từ tuỷ xương đi vào máu chia làm hai dòng: một dòng đến tuyến ức

được biệt hoá thành lâm ba cầu T có nhiệm vụ thực bào tạo khả năng miễn dịch;

một dòng khác đi theo hệ thống túi Bursa, tạo lâm ba cầu B với nhiệm vụ sản sinh

kháng thể. Hiện tượng lymphocyte giảm ở lợn mắc PED là biểu hiện khả năng

miễn dịch bị giảm sút khi độc lực virus gây suy thoái các tổ chức của cơ thể. Theo

Trần Cừ & cs. (1975), Tạ Thị Vịnh (1995) lợn khoẻ có tỷ lệ bạch cầu trung tính

thấp hơn tỷ lệ lymphocyte. Tuy nhiên, khi lợn bị viêm ruột thì tỷ lệ bạch cầu trung

tính tăng cao hơn so với lymphocyte.

87

4.2.5. Các chỉ tiêu sinh hoá máu của lợn mắc dịch tiêu chảy cấp (PED)

4.2.5.1. Protein huyết thanh

Protein huyết thanh gồm 2 loại: Albumin và globulin, mối tương quan giữa albumin và globulin trong huyết thanh của các loài gia súc không giống

nhau. Tương quan này gọi là hệ số protein, hệ số protein phản ánh tình trạng sức

khoẻ của cơ thể.

Bảng 4.11. Hàm lƣợng protein tổng số và các tiểu phần protein trong huyết

thanh lợn mắc dịch tiêu chảy cấp (PED) nuôi tại Thanh Hoá

Đối tƣợng

Chỉ tiêu theo dõi

Lợn khoẻ

Lợn bệnh

(n=40)

(n=40)

Protein tổng số (g%)

6,76  0,09b

7,31  0,07a

Albumin (%)

47,52  0,09a

36,41  0,12b

α Globulin (%)

22,69  0,10b

25,13  0,10a

β Globulin (%)

15,05  0,04b

17,32  0,19a

γ Globulin (%)

14,74  0,12b

21,14  0,24a

Tỷ lệ A/G

0,91a

0,57b

Ghi chú: Các chữ cái a,b biểu hiện sai khác có ý nghĩa giữa các giá trị so sánh trong

cùng hàng (P<0,05).

Hàm lượng protein huyết thanh tăng hay giảm có thể là một triệu chứng

của bệnh. Do đó, xét nghiệm hàm lượng protein huyết thanh là một biện pháp

khá quan trọng trong việc đánh giá chức năng của gan. Xác định hàm lượng protein huyết thanh của 40 lợn khoẻ và 40 lợn mắc PED để đánh giá ảnh hưởng

của PED đến sự ảnh hưởng chức năng của gan, thận của lợn mắc bệnh, kết quả

thể hiện ở bảng 4.11.

Kết quả bảng 4.11 cho thấy: hàm lượng protein tổng số trung bình của lợn

khoẻ là 6,76  0,09g%, từ 5,59 ÷ 7,54g%. Khi lợn mắc bệnh, lượng protein tổng

số trung bình là: 7,31  0,07g% và từ 6,43 ÷ 8,22 (p<0,05). So sánh sự thay đổi

88

hàm lượng protein tổng số trung bình ở lợn Mán và lợn Rừng khi mắc PED với lợn khoẻ mạnh Nguyễn Thị Thơm (2019) cho biết: Ở lợn Mán khoẻ mạnh hàm

lượng protein tổng số trung bình là 7,65 0,45 g%, trong khi đó lợn Mán mắc

PED, hàm lượng protein tổng số trung bình giảm xuống còn 4,65 0,21 g%. Hàm

lượng huyết sắc tố trung bình của lợn Rừng khoẻ mạnh là 7,99 0,43 g%, còn lợn Rừng mắc PED hàm lượng huyết sắc tố trung bình của hồng cầu giảm

(4,55 0,21 g%). Nguyễn Thị Thơm (2019) đã nghiên cứu trên đối tượng lợn

Rừng và lợn Mán, đây là đối tượng lợn bản địa nên sức chống chịu bệnh tốt nên

khi mắc bệnh ít xảy ra thể cấp tính. Ngược lại, đối tượng lợn trong nghiên cứu này là lợn lai 3 máu nên khi mắc thường xảy ra thể cấp tính.

Như vậy, hàm lượng protein tổng số trong huyết thanh của lợn mắc dịch tiêu chảy cấp tăng so với lợn khoẻ mạnh. Nguyên nhân của việc tăng chỉ số này

là do lợn khi mắc dịch tiêu chảy cấp có triệu chứng tiêu chảy mạnh làm cho

lượng nước trong cơ thể giảm nên huyết tương bị cô đặc làm cho hàm lượng

protein tổng số trong huyết thanh tăng, đặc biệt là nồng độ Albumin bên trong

máu có thể tăng lên, đây chỉ là một sự gia tăng giả xảy ra khi lượng huyết tương

bên trong cơ thể tụt giảm. Theo Phạm Ngọc Thạch (2004) sự tăng hàm lượng

protein huyết thanh trong hội chứng tiêu chảy là do huyết tương cô đặc trong các

trường hợp tiêu chảy cấp, nôn mửa. Ngược lại, nếu tiêu chảy ở dạng mạn tính sẽ xảy ra sự rối loạn hấp thu ở đường ruột làm cho con vật suy dinh dưỡng và khi

đó hàm lượng protein tổng số trong huyết thanh sẽ giảm.

4.2.5.2. Các tiểu phần protein trong huyết thanh

Các tiểu phần Protein trong huyết thanh được tạo nên ở đâu vẫn là vấn đề

chưa được giải quyết, nhưng gần đây người ta cho rằng albumin và globulin được

tổng hợp ở trong gan. Albumin là thành phần quan trọng để tạo ra áp lực keo của

huyết tương, albumin giảm trong tất cả các trường hợp làm giảm protein huyết tương do protein cung cấp không đủ hoặc do tổn thương của các cơ quan: gan, thận, đường tiêu hoá hoặc do nhiễm khuẩn (Vũ Triệu An, 1970). Globulin về căn bản do nhiều tổ chức khác, đặc biệt là tổ chức võng mạc nội mô (SRE) tạo ra, khi có viêm

nhiễm, các tế bào phản ứng lại làm tăng protein trong huyết thanh. 1-Globulin tăng trong quá trình hoại tử; 2 globulin tăng lên trong quá trình viêm nhiễm; -globulin cần thiết cho việc chuyển hoá và vận chuyển lipit; -globulin là chất có vai trò đặc

biệt trong miễn dịch, vì nó là nguồn gốc sinh ra kháng thể. Hàm lượng globulin tăng

89

trong tất cả các trường hợp bị nhiễm khuẩn. Do vậy, trong chẩn đoán điện di protein

là một xét nghiệm quan trọng.

Để xác định các tiểu phần protein trong huyết thanh, nghiên cứu được sử

dụng phương pháp điện di trên phiến Axetat cellulose. Kết quả được trình bày ở

bảng 4.11.

Kết quả nghiên cứu cho thấy ở lợn khoẻ các tiểu phần protein trong huyết

thanh lần lượt là: tỷ lệ albumin trung bình là: 47,52  0,09%, tỷ lệ  globulin

trung bình là 22,69  0,10%, tỷ lệ  globulin trung bình là 15,05  0,04%, tỷ lệ 

globulinlà 14,74  0,12%.

Khi lợn mắc bệnh tỷ lệ tiểu phần protein huyết thanh thay đổi rõ rệt: Tỷ lệ

albumin giảm xuống chỉ còn 36,41  0,12%; Tỷ lệ  globulin là 25,13  0,10, tỷ

lệ  globulin 17,32  0,19 và tỷ lệ  globulin lại tăng cao so với lợn khoẻ mạnh

bình thường: 21,14  0,24%.

Kết quả bảng 4.11 cũng cho thấy: Hệ số A/G ở lợn khoẻ mạnh trung bình

là 0,91, khi lợn mắc dịch tiêu chảy cấp (PED) hệ số A/G giảm chỉ còn 0,57

(p<0,05). Phạm Ngọc Thạch (2004) khi nghiên cứu chỉ tiêu này ở lợn mắc hội

chứng tiêu chảy cho biết, tỷ lệ A/G ở lợn khoẻ là 0,89, ở lợn mắc hội chứng tiêu

chảy là 0,59.

4.2.5.3. Hàm lượng đường huyết và chức năng trao đổi protein của gan -phản

ứng Gross

a. Hàm lượng đường huyết

Trong máu động vật có nhiều chất thuộc nhóm gluxit, quan trọng nhất là

glucose, ngoài ra còn có fructose, glycogen, galactose và một lượng nhỏ

mantose, anose. Thuật ngữ đường huyết trong xét nghiệm được hiểu là lượng

glucose trong máu.

Sự phân bố glucose trong máu ngoại vi và trong huyết tương gần như nhau, do đó hàm lượng glucose trong hồng cầu và trong huyết thanh gần như nhau. Glucose trong máu như một nguyên liệu cung cấp năng lượng cho cơ thể. Trong

điều kiện bình thường một phần glucose chuyển thành glycogen và lipit như một kho dự trữ glucose trong cơ thể. Mức đường huyết phản ánh tình trạng sức khoẻ của cơ thể. Nồng độ glucose trong máu ổn định nhờ một loạt những điều tiết sinh lý, sinh hoá của tuyến tuỵ qua insulin, tuyến thượng thận qua adrenalin và cả glycogen

90

ở tuyến tuỵ. Vai trò của gan cũng nổi bật trong điều tiết hàm lượng glucose trong máu. Khi gan tổn thương ở những mức độ khác nhau, lượng glycogen dự trữ ở gan

giảm và hàm lượng glucose trong máu cũng giảm.

Đường huyết có hai nguồn gốc: Nguồn ngoại sinh: do thức ăn cung cấp, một phần nhỏ lượng đường đi vào máu, còn phần lớn dự trữ trong gan dưới dạng

glycogen; Và nguồn nội sinh: glucose do gan cung cấp vào máu: do sự phân giải

glycogen dự trữ.

Để định lượng đường huyết, máu xét nghiệm được lấy vào buổi sáng sớm

trước khi cho gia súc ăn và định lượng bằng phương Glucometter. Kết quả thu

được trình bày ở bảng 4.12.

Kết quả nghiên cứu hàm lượng đường trong máu của lợn khoẻ trung bình

là: 6,53  0,05 mmol/l. Trong khi đó hàm lượng đường trong máu lợn bệnh là:

5,37  0,09 mmol/l (p<0.05). Zhang & cs. (2019) khi nghiên cứu sự ức chế vận

chuyển chất dinh dưỡng ở đường ruột của lợn mắc PED cho biết không có sự

khác biệt về hàm lượng Glucose trong máu so với lợn khoẻ. Ngược lại, theo kết

quả nghiên cứu của Masiuk & cs. (2018) thì hàm lượng Glucose trong máu của

lợn mắc PED giảm mạnh từ 5,07mmol/l (ở lợn khoẻ) xuống còn 2,01mmol/l.

Như vậy, kết quả nghiên cứu này phù hợp với kết quả nghiên cứu của Masiuk &

cs. (2018), đó là ở lợn mắc dịch tiêu chảy cấp, hàm lượng đường huyết giảm

nhiều so với lợn khoẻ mạnh.

Nguyên nhân gây giảm đường huyết là do khi con vật bị bệnh các sản vật

độc của quá trình viêm đã làm cho con vật mệt mỏi, ủ rũ, ít vận động, bỏ ăn hoặc

kém ăn, quá trình tiêu hoá và hấp thu các chất dinh dưỡng bị hạn chế do vậy

nguồn cung cấp glucose ngoại sinh không đầy đủ. Bên cạnh đó trong thời gian

bệnh con vật bị sốt dẫn đến tiêu hao nhiều năng lượng do đó glucose trong máu

tăng cường chuyển hoá để cung cấp năng lượng cho cơ thể.

Một nguyên nhân có vai trò đặc biệt quan trọng có vai trò ảnh hưởng đến hàm lượng đường huyết trong huyết thanh của lợn bệnh đó là sự giảm số lượng hồng cầu. Theo Masiuk & cs. (2018), trong máu chứa 10% glucose của cơ thể thì hồng cầu chiếm tới 1/3 do đó hàm lượng đường huyết sẽ giảm nhiều khi gia súc

bị bệnh nặng.

b. Xét nghiệm chức năng trao đổi protein của gan - phản ứng Gros.

Trong cơ thể gan có vị trí giải phẫu và vai trò sinh lý đặc biệt quan trọng,

91

gan thường bị những tác động gây tổn thương. Gan tổng hợp phần lớn protein huyết thanh, albumin, globulin, fibrinogen, protrombin. Ở gan diễn ra quá trình

chu chuyển amin, hình thành sản phẩm cuối cùng của trao đổi amin là urê. Gan

tham gia tích cực vào quá trình đông máu bằng cách tạo ra fibrinogen,

protrombin, heparin.

Gan dự trữ khối lượng lớn lipit cho cơ thể, nơi hình thành các

phospholipit, cholesterol. Các axít béo được oxy hoá thành các sản phẩm như xeton và các sản phẩm đơn giản khác cũng xảy ra ở gan. Vitamin A, B1 và K được tạo thành ở gan.

Các chất độc từ các tổ chức trong cơ thể, các sản phẩm của quá trình trao

đổi chất trong cơ thể, tất cả những chất cặn bã đó đều qua gan và bằng các phản

ứng hoá học phức tạp, các chất cặn bã được phá huỷ và hình thành những chất

không độc cho cơ thể. Các chất mới tạo ra này được đào thải ra ngoài cơ thể qua

da, thận, nước tiểu,...

Trong một thời gian nhất định gan có thể đáp ứng nhu cầu đào thải của cơ

thể. Nếu quá trình hoạt động của gan kéo dài vượt quá giới hạn cho phép sẽ gây

tổn thương gan, khi đó tế bào gan sẽ bị tổn thương.

Những tổn thương gan có thể là nguyên phát nhưng có thể là hậu quả của

những bệnh ký sinh trùng, bệnh truyền nhiễm, bệnh nội khoa và đặc biệt là

những bệnh ở hệ tiêu hoá. Khám bệnh gan ngoài các phương pháp phát hiện tổn

thương thực thể, còn có phương pháp phát hiện rối loạn chức năng gan.

Bảng 4.12. Phản ứng Gros và hàm lƣợng đƣờng huyết ở lợn mắc dịch tiêu

chảy cấp (PED) tại tỉnh Thanh Hoá

Lợn khoẻ

Lợn bệnh

(n=40)

(n=40)

Hàm lượng đường huyết

MSE

6,53  0,05a

5,37  0,09b

(mmol/l)

Phản ứng Gros

1,57  0,03a

0,94  0,02b

MSE

(số ml dung dịch Hayem)

Ghi chú: Các chữ cái khác nhau biểu hiện sự sai khác có ý nghĩa giữa các giá trị so sánh trong

cùng hàng (P<0,05)

92

Để làm rõ tình trạng của gan lợn mắc dịch tiêu chảy cấp (PED), chúng tôi

tiến hành xét nghiệm cơ năng trao đổi protein của gan bằng phản ứng Gros.

Nghiên cứu 40 lợn khoẻ, 40 lợn mắc dịch tiêu chảy cấp (PED), kết quả được

trình bày ở bảng 4.12.

Ở lợn khoẻ mạnh bình thường dung dịch Hayem dùng để lên bông 1ml

huyết thanh tươi là 1,57  0,03 ml. Khi lợn bị bệnh lượng dung dịch Hayem cần

dùng trong phản ứng thấp hơn bình thường rõ rệt: 0,94  0,02ml. Qua đây cho

thấy khi lợn mắc dịch tiêu chảy cấp (PED), độ bền vững của huyết thanh giảm so

với lợn khỏe, điều đó đã phản ánh sự rối loạn chức năng gan của lợn bệnh. Theo

chúng tôi hiện tượng này là do: khi bị bệnh quá trình tiêu hoá và hấp thu bị rối

loạn từ đó làm rối loạn trao đổi protein của gan. Hơn nữa, lượng độc tố do vi

khuẩn bội nhiễm tiết ra nhiều cũng tác động lớn đến chức năng gan. Do vậy,

làm độ bền vững của huyết thanh thay đổi, protein dễ kết vón lại do trạng thái

keo thay đổi.

4.2.5.4. Hàm lượng Natri, Kali trong huyết thanh và độ dự trữ kiềm trong máu

lợn mắc dịch tiêu chảy cấp (PED) nuôi tại Thanh Hoá

a. Độ dự trữ kiềm trong máu

Lượng kiềm chứa trong máu gọi là lượng kiềm dự trữ, đó chính là muối

NaHCO3 tính bằng mg% có trong 100 ml máu. Lượng dự trữ kiềm là chỉ tiêu

đánh giá khả năng làm việc bền bỉ của gia súc, lượng kiềm dự trữ càng lớn thì

khả năng làm việc của gia súc càng dẻo dai, bền bỉ. Do vậy, việc xác định lượng

kiềm dự trữ hay độ dự trữ kiềm trong máu gia súc ở trạng thái bệnh lý có ý nghĩa

rất quan trọng trong chẩn đoán và điều trị. Kết quả định lượng độ dự trữ kiềm

trong máu lợn khoẻ mạnh và lợn mắc dịch tiêu chảy cấp (PED) được trình bày ở

bảng 4.13.

Kết quả nghiên cứu tại bảng 4.13 cho thấy, độ dự trữ kiềm ở lợn mắc PED

chỉ còn 386,57  7,07mg%, thấp hơn ở lợn khoẻ 51,68mg% (p<0,05).

93

Bảng 4.13. Độ dự trữ kiềm trong máu và hàm lƣợng Natri, Kali trong huyết

thanh lợn mắc dịch tiêu chảy cấp (PED) tại tỉnh Thanh Hoá

Lợn khoẻ

Lợn bệnh

MSE

438,25  5,93a

386,57  7,07b

Độ dự trữ kiềm trong máu

(mg%)

Hàm lượng Natri

MSE

128,29  0,28a

100,84  0,33b

(mEq/l)

Hàm lượng Kali

MSE

9,28  0,02a

9,05  0,05b

(mEq/l)

Ghi chú: Các chữ cái khác nhau biểu hiện sự sai khác có ý nghĩa giữa các giá trị so sánh trong cùng hàng (P<0,05)

Khi lợn bị bệnh, sức khoẻ của lợn giảm sút nên việc hô hấp gặp khó khăn,

làm quá trình thải khí CO2 ra ngoài bị cản trở, vì vậy khí CO2 tích tụ lại nhiều trong phổi và trong máu. Đồng thời trong quá trình bệnh, việc tăng cường quá

trình dị hoá để tạo năng lượng chống lại bệnh tật nên sản sinh nhiều chất có tính

axit, các chất này vào máu làm thay đổi pH máu. Do khả năng đệm của máu có

hạn dẫn đến lượng kiềm dự trữ trong máu lợn dịch tiêu chảy cấp (PED) giảm nên

thấp hơn lợn khoẻ mạnh.

b. Hàm lượng Natri, Kali trong huyết thanh.

Theo dõi quá trình rối loạn chất điện giải trong huyết thanh khi lợn mắc

dịch tiêu chảy cấp (PED), tiến hành xét nghiệm lượng Natri, Kali huyết thanh lợn

bằng phương pháp quang phổ hấp phụ. Bảng 4.13 cũng cho thấy:

Hàm lượng Natri trong huyết thanh lợn khoẻ là 128,29  0,28 mEq/l, lợn

mắc dịch tiêu chảy cấp (PED) giảm xuống còn: 100,84  0,33 mEq/l (p<0.05).

Hàm lượng Kali huyết thanh lợn khoẻ là: 9,28  0,02 mEq/l, ở lợn mắc dịch tiêu

chảy cấp (PED) là 9,05  0,05 mEq/l. Theo Chu Văn Tường (1991), khi bị tiêu

chảy sẽ có sự thiếu hụt Kali và Natri gây nên hiện tượng nhiễm toan. Theo

Ducatelle & cs. (1982), tiêu chảy do PEDV gây ra là hậu quả của tình trạng kém

hấp thu do mất nhiều tế bào ruột hấp thu. Trong các tế bào ruột bị nhiễm bệnh

được kiểm tra bằng kính hiển vi điện tử, sự mất tế bào chất và sự thoái hóa nhanh

94

chóng của ty thể dẫn đến thiếu năng lượng vận chuyển cần thiết cho sự hấp thụ.

Những thay đổi siêu cấu trúc và sự hút chân không nhẹ được quan sát thấy trong

các tế bào biểu mô ruột già bị nhiễm bệnh có thể cản trở sự tái hấp thu nước và

chất điện giải quan trọng. Kết quả nghiên cứu về bệnh viêm ruột tiêu chảy ở lợn

của Hồ Văn Nam & cs. (1997) cho biết hàm lượng Kali và Natri trong huyết

thanh của lợn tiêu chảy thấp hơn so với hàm lượng Kali và Natri của lợn khoẻ.

Vậy kết quả nghiên cứu của chúng tôi phù hợp với kết quả nghiên cứu của các

tác giả trên và phù hợp với hậu quả của hội chứng tiêu chảy ở lợn (cơ thể bị mất

nước và chất điện giải).

Như vậy, khi lợn bị tiêu chảy cấp thì ngoài việc mất nước, hạ đường

huyết, tổn thương các bộ phận trong cơ thể thì dộ dự trữ kiềm trong máu giảm và

các chất điện giải trong huyết thanh cũng mất theo, đặc biệt là mất một lượng lớn ion Na+. Do đó khi điều trị, cần bổ sung nước và chất điện giải cho lợn bệnh.

4.3. THỬ NGHIỆM BIỆN PHÁP PHÒNG TRỊ DỊCH TIÊU CHẢY CẤP Ở

LỢN (PED)

4.3.1. Phòng dịch tiêu chảy cấp ở lợn (PED) bằng phƣơng pháp “Gut feedback”

Để giảm thiểu thiệt hại do PED gây ra, nhu cầu sử dụng vacxin phòng

bệnh rất cấp thiết. Chính vì vậy, việc sản xuất, thử nghiệm hoàn thiện vacxin chủ

yếu được tiến hành ở các nước trên thế giới, đặc biệt là các nước châu Á, nơi

PED bùng phát trầm trọng với tỷ lệ tử vong gia tăng ở lợn con sơ sinh. Vacxin

phòng dịch tiêu chảy cấp ở lợn - PED (sử dụng chủng cổ điển Ia) đã được sản

xuất từ một số nước như Nhật Bản, Trung Quốc, Hàn Quốc... (Chao & cs., 2016).

Tuy nhiên, hiệu quả của chúng trên thực địa, đặc biệt là trong các đợt bùng phát

bởi các biến thể mới sau năm 2010, hiệu quả còn rất hạn chế nên các nhà nghiên

cứu còn đang tranh luận (Sun & cs., 2012; Pan & cs., 2012; Tian & cs., 2012;

Ayudhya & cs., 2012). Vì vậy, một số trại chăn nuôi lợn đã sử dụng mầm bệnh

tại chỗ để làm vacxin phòng bệnh bằng cách sử dụng bộ ruột lợn con bị mắc PED

của trại cho đàn lợn nái đang mang thai ở tuần thứ 13 ăn (Schwartz & cs., 2014;

Song & cs., 2015; Thai Swine Veternary Association, 2015; Nguyễn Ngọc Hải &

Đỗ Tiến Duy, 2017). Phương pháp này được gọi là ―Gut feedback‖ (Thai Swine

Veternary Association, 2015).

95

4.3.1.1. Thời gian xuất hiện triệu chứng lâm sàng của lợn nái sau khi sử dụng

phương pháp “Gut feedback”

Khi sử dụng phương pháp ―gut feedback‖ cho 60 lợn nái mang thai ở tuần

thứ 13 và theo dõi các biểu hiện lâm sàng, đặc biệt là triệu chứng tiêu chảy ở lợn thử nghiệm. Bảng 4.14 cho thấy: Thời gian lợn nái có biểu hiện mắc dịch tiêu

chảy cấp - PED (tiêu chảy) chủ yếu là ngày thứ 3 và thứ 4, cá biệt có những lợn

đến ngày thứ 5 thứ 6 mới phát bệnh. Theo Zhang & cs. (2019), khi nhiễm virus

PED vào ngày thứ 3 - 5 thì lợn có biểu hiện các dấu hiệu lâm sàng, xảy ra quá

trình viêm - hoại tử cấp tính trong mô ruột, phá hủy và bong vảy của biểu mô của

ruột non.

Bảng 4.14. Thời gian sử dụng “gut feedback” trên lợn nái mang thai tuần

thứ 13 (n=60)

Thời gian lợn thí nghiệm bắt đầu Số lợn có biểu hiện Tổng số

xuất hiện tiêu chảy tiêu chảy thời gian

(ngày) (con) (ngày)

1 0 0

2 7 14

3 27 81

4 21 84

5 4 20

6 1 6

7 0 0

3,42±0,85 Trung bình thời gian lợn có biểu hiện tiêu chảy (ngày)

Thời gian lợn nái có biểu hiện lâm sàng trung bình là 3,42 ngày. Đây là khoảng thời gian nung bệnh để virus tăng lên về số lượng bằng cả hai phương thức là nhân lên trong tế bào vật chủ và bội nhiễm ở những liều sử dụng phương pháp ―gut feedback‖ tiếp theo. Khi nghiên cứu về tình hình gây bệnh của PEDV trên đàn lợn Albert (2013) đã xác định được thời gian nung bệnh của dịch tiêu

96

chảy cấp (PED) từ 1 đến 2 ngày. Theo Thai Swine Veternary Association (2015), virus PED xuất hiện cao nhất sau khi gây nhiễm từ 4 đến 5 ngày. Như vậy, kết

quả nghiên cứu của chúng tôi cũng phù hợp với kết quả nghiên cứu của các tác

giả trên.

4.3.1.2. Kết quả định lượng kháng thể trên lợn nái

Để đánh giá hiệu quả phòng dịch tiêu chảy cấp (PED) của những lợn được

sử dụng phương pháp ―gut feedback‖, chúng tôi tiến hành định lượng kháng thể

trong huyết thanh ở lợn nái mang thai ở tuần thứ 13 nuôi tại một số trang trại của

tỉnh Thanh Hoá, sau khi sử dụng phương pháp ―gut feedback‖ có biểu hiện triệu

chứng lâm sàng của dịch tiêu chảy cấp (PED) là tiêu chảy vào ngày thứ 14 và

ngày thứ 21 bằng phản ứng ELISA tại phòng thí nghiệm trọng điểm Công nghệ

sinh học Thú y – Học viện Nông nghiệp Việt Nam. Kết quả được thể hiện tại

bảng 4.15.

Bảng 4.15. Hàm lƣợng kháng thể PED trong huyết thanh lợn nái thí nghiệm

Số lợn có kháng

thể đạt ngƣỡng

Số lợn thí nghiệm

Tỷ lệ

Thời điểm lấy

bảo hộ

(con)

bảo hộ

huyết thanh

(OD ≥ 0,21)

(%)

(con)

60

47

78,33

Ngày thứ 14

60

48

80

Ngày thứ 21

Kết quả (bảng 4.5 và hình 4.6) cho thấy, 100% số mẫu có xuất hiện kháng

thể, tuy nhiên ở ngày thứ 14 có 78,33% số mẫu huyết thanh chỉ số OD ≥ Cut off

(Cut off = 0,21), 21,67% số mẫu còn lại có chỉ số OD từ 0,08 – 0,20. Ở ngày thứ 21 có 80% số mẫu huyết thanh chỉ số OD ≥ Cut off và 20,00% số mẫu còn lại có chỉ số OD từ 0,04 – 0,20. Song & cs. (2007) cho biết lợn nái chửa ở tuần thứ 12 sau khi uống virus PED 2 tuần thì có chỉ số OD trung bình là 0,515. Theo Chang & cs. (1999), lợn nái mang thai ở tuần thứ 11 – 12 khi sử dụng virus PED gây nhiễm thì kết quả phản ứng miễn dịch ELISA tăng lên. Theo Chao & cs. (2016),

việc tiêm chủng hoặc tiêm phòng cho lợn nái mang thai là rất quan trọng trong

việc kiểm soát dịch bệnh PED và để giảm số lợn con chết. Nếu lợn nái sắp đẻ

97

trong vòng 2 tuần trở lên, việc chủng ngừa có thể được thực hiện khi tiếp xúc với virus tự sinh độc lực, chẳng hạn như phân hoặc ruột băm từ lợn con sơ sinh bị

mắc bệnh. Một nghiên cứu thực địa (Song & cs., 2007) cho thấy rằng so với việc

sử dụng vacxin qua đường tiêm bắp, thì việc uống vacxin PEDV sống giảm độc

lực (chủng DR13) hai lần trước khi đẻ 2 hoặc 4 tuần có hiệu quả hơn. Những lợn nái uống vacxin PEDV và con của chúng có nồng độ IgA (miễn dịch niêm mạc)

và kháng thể trung hòa virus (miễn dịch dịch thể) cao hơn trong sữa non hoặc huyết thanh so với những con được sử dụng vacxin qua đường tiêm bắp với cùng

liều lượng. Theo Song & cs. (2015) thì sử dụng ruột chứa phân từ lợn con bị

nhiễm bệnh trong 18 giờ cho đàn lợn nái trong trang trại ăn sẽ kích thích miễn

dịch niêm mạc ở ruột và đáp ứng nhanh sau khi gây nhiễm. Sau khi sử dụng

phương pháp này lợn con sẽ được bảo vệ trong vài ngày đầu sau khi sinh bằng kháng thể thụ động qua sữa.

Như vậy, kết quả nghiên cứu của chúng tôi phù hợp với các nhận định trên

và để phòng dịch tiêu chảy cấp (PED) cho lợn con người chăn nuôi nên sử dụng

phương pháp ―gut feedback‖ cho lợn nái mang thai ở tuần thứ 13 cho hiệu quả

Số mẫu

khả quan.

Hình 4.6. Lượng kháng thể ở lợn nái sau khi sử dụng phương pháp

“Gut feedback”

98

4.3.2. Điều trị thử nghiệm lợn mắc dịch tiêu chảy cấp (PED)

Từ những kết quả nghiên cứu về tình hình mắc bệnh và các đặc điểm bệnh

lý như tiêu chảy mạnh làm mất nước, mất chất điện giải (Song & Park, 2012;

Pospischil & cs., 2002; Nguyễn Ngọc Hải & Đỗ Tiến Duy, 2017), tổn thương đường tiêu hoá (Pensaert & cs., 1992; Gregory & cs., 2013; Nguyễn Tất Toàn,

2013), có sự xuất hiện của một số vi khuẩn kế phát đặc biệt là sự tăng đột biến về

mặt số lượng của vi khuẩn E. coli (Masiuk & cs., 2018; Huang & cs., 2019). Do

vậy chúng tôi xây dựng phác đồ điều trị theo hướng giảm triệu chứng tiêu chảy;

tăng cường sức đề kháng; bù nước, chất điện giải và ngăn ngừa sự bội nhiễm của các vi khuẩn đường ruột. Trong quá trình xét nghiệm 27 mẫu phân lợn ở 2 tuần

tuổi mắc dịch tiêu chảy cấp, chỉ có của vi khuẩn E. coli là có số lượng tăng, không có sự xuất hiện của khuẩn Salmonella ssp. Kết quả này cũng phù hợp với

kết quả nghiên cứu của Lê Xuân Ánh & cs. (2017). Theo Masiuk & cs. (2018), ở

lợn con theo mẹ mắc dịch tiêu chảy cấp PED số lượng vi khuẩn E. coli tăng lên rõ rệt (6,1x109 CFU/G), số lượng này ở lợn cùng độ tuổi khoẻ mạnh là 3,6x108 CFU/g, không có sự xuất hiện vi khuẩn Salmonella.

4.3.2.1. Tính mẫn cảm của các chủng E. coli phân lập từ phân lợn mắc bệnh tiêu

chảy cấp với các thuốc thí nghiệm

Để nghiên cứu tính mẫn cảm của E. coli chúng tôi tiến hành làm kháng

sinh đồ 27 chủng phân lập được từ 27 mẫu phân lợn mắc dịch tiêu chảy cấp với 9

loại kháng sinh. Kết quả đánh giá độ mẫn cảm của vi khuẩn với từng loại thuốc

dựa theo kết quả đo đường kính vòng vô khuẩn trung bình. Kết quả được trình

bày ở bảng 4.16.

Qua phân tích bảng số liệu 4.16 cho thấy chỉ có 2 loại kháng sinh là

Amoxicillin, Colistin sulphate cho tỷ lệ mẫn cảm cao với 100% số chủng nghiên

cứu (27/27). Tuy nhiên, cho tỷ lệ mẫn cảm cao hoàn toàn trên 27 chủng kiểm tra chỉ có Colistin sulphate. Còn Amoxicillin cho tỷ lệ mẫn cảm cao là 22,22%, cho tỷ lệ mẫn cảm trung bình là 77,78%. Tiếp theo là đến Streptomycin với tỷ lệ mẫn cảm là 70,37%. Một số thuốc còn lại cũng mẫn cảm với các chủng E. coli phân lập được nhưng tỷ lệ mẫn cảm thấp như: Gentamycin có tỷ lệ mẫn cảm cao 25,93%, Kanamycin và Neomycin cho tỷ lệ mẫn cảm đều là 14,81% và Enrofloxacin cho tỷ lệ mẫn cảm thấp nhất là 11,11%. Trong khi đó các chủng E.

coli phân lập được đề kháng với các thuốc còn lại như Norfloxacin và Tetracylin

99

không có chủng E. coli. Như vậy, trong 9 thuốc kháng sinh kiểm tra thấy E. coli mẫn cảm với 7 loại kháng sinh. Mẫn cảm nhất với Colistin sulphate, Amoxicilin.

Các thuốc có tỷ lệ mẫn cảm thấp hơn là Streptomycin, Gentamycin, Kanamycin,

Neomycin và Enrofloxacin.

Bảng 4.16. Kết quả kiểm tra tính mẫn cảm của các chủng E. coli phân lập từ

phân lợn mắc bệnh tiêu chảy với một số loại kháng sinh (n=27)

H

I

Tổng số

(Mẫn cảm cao)

(mẫn cảm TB)

mẫn cảm

TT

Tên thuốc

(%)

Số

Tỷ lệ

Số

Tỷ lệ

chủng

(%)

chủng

(%)

Amoxicillin

22,22

21

77,78

1

6

100

2

Colistin sulphate

27

100

100

0

0

3

Enrofloxacin

0

11,11

0

0

3

4

Gentamycin

7

25,93

25,93

0

0

5

Kanamycin

1

3,70

3

11,11

14,81

6

Neomycin

4

14,81

14,81

0

0

7

Norfloxacin

0

0

0

0

0

8

5

14

Streptomycin

18,52

51,58

70,37

9

Tetracyclin

0

0

0

0

0

Lê Xuân Ánh & cs. (2017) khi nghiên cứu tính mẫn cảm của vi khuẩn E.

coli trong mẫu phân lợn con theo mẹ được phân lập từ các nông hộ và trang trại ở thị xã Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên Huế với 7 loại kháng sinh thử nghiệm thì tỷ lệ các chủng kháng với Streptomycin và Tetracycline (100 %), Ofloxacin (70 % đến 90 %), Ciprofloxaxin (80 % đến 90 %). Tuy nhiên, đối với kháng sinh Colistin thì tỷ lệ kháng là 0% và tỷ lệ mẫn cảm là 70%. Vi khuẩn E. coli cũng như các vi khuẩn khác ngoài các yếu tố gây bệnh còn có khả năng kháng kháng

sinh. Vì vậy, sự mẫn cảm với các thuốc kháng sinh thay đổi theo thời gian, từng

cá thể và từng loài vật nuôi. Các thuốc sử dụng sau một thời gian dài ở một địa

100

phương hay trang trại chăn nuôi thì độ mẫn cảm với thuốc sẽ giảm dần và cuối

cùng là mất đi khả năng kháng khuẩn của thuốc.

4.3.2.2. Kết quả điều trị thử nghiệm lợn mắc dịch tiêu chảy cấp (PED) trên đàn lợn

ở tỉnh Thanh Hoá

Dịch tiêu chảy cấp ở lợn do Coronavirus gây ra, chúng xâm nhập vào

đường tiêu hoá, nhân lên và làm tổn thương niêm mạc ruột gây nên bệnh lý tiêu

chảy (Jung & Saif, 2015). Lợn con theo mẹ khi mắc PED sẽ chết trong vòng 3-4

ngày do mất nước, mất chất điện giải. Khi chết, xác lợn gầy kèm theo các triệu

chứng như mắt lõm sâu (Song & Park, 2012). Mặt khác, ở lợn con theo mẹ mắc dịch tiêu chảy cấp PED số lượng vi khuẩn E. coli tăng lên rõ rệt (6,1x109 CFU/G), số lượng này ở lợn cùng độ tuổi khoẻ mạnh là 3,6x108 CFU/g, không có sự xuất hiện vi khuẩn Salmonella (Masiuk & cs., 2018; Huang & cs., 2019).

Theo Nguyễn Ngọc Hải & Đỗ Tiến Duy (2017), Thai Swine Veternary

Association (2015), sử dụng kháng sinh điều trị các vi khuẩn có thể kế phát, kết

hợp với thuốc điều trị các triệu chứng: tiêu chảy, nôn; bổ sung nước, điện giải và

tăng cường sức đề kháng cho lợn bệnh.

Căn cứ kết quả phân lập và xác định tính mẫn cảm của vi khuẩn E.coli

phân lập được với một số loại thuốc kháng sinh và dựa vào đặc điểm bệnh lý của

bệnh, chúng tôi đã xây dựng phác đồ điều trị thử nghiệm trên đàn lợn khoảng 2

tuần tuổi mắc bệnh PED, mỗi phác đồ điều trị 50 con (sơ đồ bố trí thí nghiệm

được nêu cụ thể ở phần phương pháp nghiên cứu (3.6.9)). Kết quả điều trị thử

nghiệm lợn mắc dịch tiêu chảy cấp được thể hiện ở ở bảng 4.17.

Bảng 4.17. Kết quả điều trị thử nghiệm lợn mắc PED trên đàn lợn ở tỉnh

Thanh Hoá

Số lợn

Tỷ lệ

Số lợn

Tỷ lệ

Số lợn

Tỷ lệ

Phác đồ

khỏi

khỏi

chết

chết

tái phát

tái phát

điều trị

(con)

(%)

(con)

(%)

(con)

(%)

3

9,68

31

62,00a

19

38,00b

3

7,5

40

80,00b

10

20,00a

I (n=50)

Ghi chú: Các cột dọc có chữ cái khác nhau là sai số có ý nghĩa thống kê (P<0,05)

II (n=50)

101

Qua kết quả ở bảng 4.17 cho thấy trong 100 lợn mắc PED được điều trị

với 2 phác đồ I và II thì có số con khỏi bệnh là 71 con với tỷ lệ là 71,00 %, tỷ lệ

chết là 29,00%, tỷ lệ tái phát là 8,45%. Tuy nhiên, ở mỗi phác đồ điều trị thử

nghiệm có các thành phần khác nhau nên hiệu quả điều trị cũng khác nhau.

a. Tỷ lệ khỏi

Chỉ tiêu này đánh giá mức độ chẩn đoán đúng bệnh và cách dùng thuốc

trong điều trị bệnh. Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi luôn điều trị trong thời

gian sớm nhất có thể sau khi phát hiện và chẩn đoán lợn trong độ tuổi mắc PED.

Dịch tiêu chảy cấp (PED) là bệnh do virus, khi xâm nhập vào cơ thể lợn,

chúng làm tổn thương niêm mạc đường tiêu hoá. Vì vậy, các phác đồ điều trị chỉ

là biện pháp can thiệp nhằm khống chế sự phát triển của các vi khuẩn bội nhiễm

đồng thời điều trị các triệu chứng lâm sàng, giúp con bệnh chống chọi với căn

bệnh một cách hiệu quả nhất.

Ở phác đồ I, sử dụng thuốc kháng sinh để điều trị các vi khuẩn bội nhiễm là

Colistin sulfat, đây là thuốc đã được kiểm tra độ mẫn cảm với vi khuẩn E. coli cho

kết quả cao (100%) (Hoàng Văn Sơn & Mai Danh Luân, 2018). Lợn khi mắc PED

có triệu chứng lâm sàng là tiêu chảy phân lỏng nên việc sử dụng Atropin sulfat

nhằm hạn chế sự tiết dịch và co thắt cơ trơn đồng thời bổ sung dung dịch Lactat

Ringer và Glucose 5% để hỗ trợ bù lượng nước và điện giải bị mất do PED gây

ra. Kết quả điều trị cho thấy, tỷ lệ khỏi là bệnh là 62,00%.

Ở phác đồ II, ngoài sử dụng các thuốc điều trị như phác đồ I, chúng tôi đã

phối hợp với phương pháp điều trị bằng kích thích phi đặc hiệu huyết liệu pháp.

Tại phác đồ này, máu lợn cùng loài đã được đưa vào nghiên cứu. Máu lợn sau khi

lấy được pha với Citrat natri 5% với tỷ lệ 1/10 để chống đông, sau đó được tiêm

vào bắp cho lợn thí nghiệm. Kết quả điều trị bằng phác đồ II có 80,00% lợn được

điều trị khỏi bệnh.

Với tỷ lệ khỏi bệnh cao như vậy, có thể khẳng định 2 phác đồ trên có hiệu

quả điều trị tốt với dịch tiêu chảy cấp ở lợn (PED). Tuy nhiên, để đem lại hiệu

quả cao nhất trong điều trị bệnh thì cần biết được loại nào ưu thế hơn, đem lại giá

trị kinh tế hơn: khi điều trị bệnh bằng phác đồ II thì tỷ lệ khỏi bệnh cao hơn kết

102

quả điều trị của phác đồ I là 18,00% (p<0,05). Theo Phạm Ngọc Thạch & cs.

(2006) thì sử dụng máu cùng loài đưa vào cơ thể con bệnh nó sẽ kích thích chức

năng phòng vệ của cơ thể làm tăng bạch cầu (đặc biệt là bạch cầu đa nhân trung

tính), tăng thực bào và tăng quá trình trao đổi chất trong cơ thể. Mặt khác, khi

đưa máu vào cơ thể lợn bệnh ngoài chức năng kích thích phi đặc hiệu đối với cơ

thể nó còn kích thích cơ quan tạo máu để sinh ra huyết cầu, từ đó giúp cơ thể lợn

bệnh được hồi phục nhanh.

b. Tỷ lệ chết

Đây là những chỉ tiêu không mong muốn của người chăn nuôi, chỉ tiêu

này không những phụ thuộc vào thể bệnh, tuổi lợn mà còn phản ánh hiệu lực của

thuốc, công tác vệ sinh chuồng trại, chăm sóc nuôi dưỡng lợn bệnh trong quá

trình điều trị có tốt hay không. Trong tự nhiên, lợn con theo mẹ khi mắc PED nếu

không can thiệp thì sau 1 đến 3 ngày tỷ lệ chết lên đến 100% (Sun & cs., 2012;

Geiger & Connor, 2013; Chen & cs., 2013; Ge & cs., 2013; Murakami & cs.,

2014; Alvarez& cs., 2015; Ojkic & cs., 2015; Sung & cs., 2015; Yamane & cs.,

2016).

Hình 4.7. Kết quả điều trị thử nghiệm lợn mắc PED ở tỉnh Thanh Hoá

103

Tỷ lệ chết ở lô điều trị bằng phác đồ I (38,00%) và lô điều trị bằng phác

đồ II (20,00%). Như vậy, tỷ lệ chết ở phác đồ I cao hơn phác đồ II là 18,00%

(p<0,05). Theo Pensaert & cs. (2006), virus PED có chu kỳ nhân lên từ 12 đến 36

giờ. Sau 4 - 5 chu kỳ nhân lên của virus, hầu hết các tế bào niêm mạc đường tiêu

hóa ở lợn mới sinh bị phá huỷ làm cho khả năng tiêu hóa và hấp thu giảm từ 7:1

xuống còn 3:1. Do vậy, khi bị bệnh lợn con gầy sút rất nhanh trong vài ngày, tỷ

lệ chết rất cao. Theo Chao & cs. (2016) virus PED gây viêm ruột cấp tính, teo

niêm mạc ruột nặng kèm theo nhiễm trùng huyết (RNA virus) dẫn đến tiêu chảy

và nôn mửa dữ dội, sau đó là mất nước trên diện rộng và mất cân bằng điện giải

trong máu là nguyên nhân chính gây tử vong ở lợn con đang bú mẹ.

c. Tỷ lệ tái phát

Đây là chỉ tiêu không mong muốn của người chăn nuôi, chỉ tiêu này

không những phụ thuộc vào thể bệnh mà còn phản ánh hiệu lực của thuốc, công

tác vệ sinh chuồng trại, chăm sóc nuôi dưỡng lợn bệnh trong quá trình điều trị có

tốt hay không và đặc biệt là phản ánh khả năng tạo và duy trì kháng thể của con

vật sau khi mắc bệnh. Tỷ lệ tái phát ở lô điều trị bằng phác đồ I chiếm 9,68%,

trong khi đó tỷ lệ tái phát ở phác đồ II là 7,50% với P > 0,05. Do vậy, có thể

khẳng định hai phác đồ điều trị này không có sự khác nhau về chỉ tiêu tái phát

bệnh sau khi điều trị ở mức độ tin cậy 95%.

Như vậy, qua kết quả điều trị thử nghiệm cho thấy: Việc điều trị dịch tiêu

chảy cấp ở lợn (PED) cần tuân theo các bước: Sử dụng các thuốc (Atropin sulfat)

điều trị triệu chứng (tiêu chảy, nôn); Sử dụng các thuốc (Colistin sulfat) điều trị bội

nhiễm vi khuẩn (E. coli); Bổ sung nước và chất điện giải (Dung dịch Glucose 5%,

Lactat Ringer), đặc biệt là sử dụng huyết liệu pháp (máu cùng loài) để kích thích

chức năng phòng vệ của cơ thể (tăng bạch cầu đa nhân trung tính, tăng thực bào)

nâng cao sức đề kháng và tăng quá trình trao đổi chất sẽ cho kết quả điều trị cao.

d. Thời gian điều trị

Thời gian điều trị khỏi trung bình/ca bệnh là số ngày thực tế điều trị, tuỳ

thuộc vào hiệu lực của thuốc, thể trạng từng con vật. Thời gian điều trị được tính

từ khi bắt đầu điều trị đến khi kết thúc điều trị (con bệnh khỏi hoặc chết).

104

Trong điều trị, thời gian điều trị đóng vai trò quan trọng trong việc lựa

chọn thuốc. Nếu thời gian điều trị kéo dài sẽ dẫn tới lượng thuốc và chi phí

tăng đồng thời các nguy cơ khác như tử vong, còi cọc, giảm tăng trọng, tiêu

tốn thức ăn sẽ tăng lên, làm giảm năng suất chăn nuôi và tăng nguy cơ bùng

phát dịch bệnh.

Ở phác đồ I thời gian điều trị trung bình là 4,18±0,16 ngày, phác đồ II

có thời gian điều trị trung bình là 4,62±0,18 ngày, với P (T ≤ t) = 0,0434 thì

hai số trung bình có sự sai khác nhau với mức độ tin cậy là 95%. Như vậy, phác I

có thời gian điều trị ngắn hơn thời gian điều trị của hai phác II (p<0,05). Phác đồ

II có thời gian điều trị dài hơn là do trong quá trình điều trị dưới tác động của

huyết liệu pháp vào hệ thống miễn dịch thụ động và tăng cường quá trình trao đổi

chất đã giúp cơ thể lợn bệnh chống chịu và cầm cự được trước sự tấn công của

virus nên thời gian sống kéo dài và tỷ lệ chết thấp. Ngược lại ở phác đồ I, những

lợn có sức đề kháng kém sẽ chết nhanh nên thời gian điều trị trung bình ngắn

hơn. Theo Sun & cs. (2012), Ge & cs. (2013), Sung & cs.(2015), Yamane & cs.

(2016), lợn con theo mẹ khi mắc PED nếu không can thiệp thì sau 1 đến 3 ngày

phát bệnh tỷ lệ chết lên đến 100%.

e. Lượng thuốc điều trị

Lượng thuốc điều trị trung bình/kgP là một trong những căn cứ để chi phí

điều trị trung bình/kgP. Đây là chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh tế của việc điều trị,

phản ánh giá thành cần tiêu tốn để điều trị khỏi bệnh. Kết quả theo dõi chỉ tiêu

lượng thuốc tiêu tốn được thể hiện ở bảng 4.18.

Từ kết quả tại bảng 4.18 cho thấy, lượng thuốc kháng sinh (Colistin sulfat)

điều trị trung bình ở phác đồ II là 924.000±36.984 UI/kgP, trong khi đó ở phác đồ I

chỉ tiêu này thấp hơn (836.000±31.560) với p<0,05. Tương tự, đối với thuốc

Atropin sulfat thì lượng thuốc điều trị trung bình (mg/kgP), Lactat ringer và

Glucose 5% lượng thuốc điều trị trung bình (ml/ca) cho lợn mắc PED ở phác đồ I

cũng thấp hơn phác đồ II (p<0,05). Nguyên nhân là do thời gian điều trị trung

bình/ca ở phác đồ II dài hơn so với phác đồ I (p<0,05).

105

Bảng 4.18. Một số chỉ tiêu hiệu quả điều trị

Lƣợng thuốc trung bình

Thời gian điều trị/ca

Atropin sulfat

Lactat ringer

Glucose 5%

(ngày)

Colistin sulfat (UI/kgP)

Phác đồ

(mg/kgP)

(ml/ca)

(ml/ca)

M±SE

SD

M±SE

SD

M±SE

M±SE

SD

M±SE

SD

SD

4,18±0,16a

1,12

I

836.000a±31.560

223.844

0,418a±0,016

83,6a±3,65 22,38 83,6a±3,65

22,38

0,11

4,62±0,18b

1,31

II

924.000b±36.984

261.518

0,462b±0,018

92,4b±3,70 26,15 92,4b±3,70

26,15

0,13

Ghi chú: Các cột dọc có chữ cái khác nhau là sai số có ý nghĩa thống kê 95%

1 0 6

106

PHẦN 5. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ

5.1. KẾT LUẬN

1) Lợn nuôi tại Thanh Hoá có tỷ lệ mắc bệnh, chết và tử vong do PED là 14,56%, 7,77% và 53,38%. Các huyện vùng ven biển và vùng núi có tỷ lệ lợn

mắc bệnh và tử vong do PED cao nhất (Tĩnh Gia 16,12% và 56,57%; Thạch

Thành 15,06% và 56,43%). Tỷ lệ mắc bệnh và tử vong cao nhất ở nhóm lợn con

theo mẹ (22,01% và 72,63%) và thấp nhất ở nhóm lợn đực giống (5,81% và 0%).

Lợn mắc bệnh và tử vong nhiều nhất ở mùa Đông (21,70% và 58,93%), thấp nhất ở mùa Hè (7,43% và 40,28%). Các trại lớn có tỷ lệ mắc bệnh cao nhất (15,79%)

nhưng tỷ lệ tử vong lại thấp nhất (50,75%).

2) Một số đặc điểm bệnh lý ở lợn mắc dịch tiêu chảy cấp (PED) tại

Thanh Hoá:

- Triệu chứng lâm sàng điển hình của lợn mắc dịch tiêu chảy cấp: Ủ rũ, mệt mỏi; tiêu chảy phân màu vàng xám nhiều nước; lợn gầy sút nhanh (100%);

nằm dồn đống (chồng lên nhau) (82,50%); bỏ bú, bỏ ăn (42,50%); nôn (40,00%).

- Chỉ tiêu lâm sàng của lợn mắc dịch tiêu chảy cấp: thân nhiệt là 37,70  0,050C; tần số hô hấp là: 43,23  0,15 lần/phút và tần số tim mạch là 135,08  0,29 lần/phút.

- Bệnh tích đại thể chủ yếu là: xác chết gầy; ruột non căng phồng, thành mỏng,

chất chứa màu vàng, lợn cợn; dạ dày căng phồng chứa sữa chưa tiêu; hạch màng treo

ruột sung huyết, xuất huyết; gan thoái hoá màu đất sét, phổi tụ huyết; thận sưng nhẹ;

tim to, cơ mềm với tỷ lệ lần lượt là: 100; 100; 88; 80; 52; 48; 40; và 24%.

- Bệnh tích vi thể chủ yếu là: tế bào biểu mô ruột non thoái hóa, hoại tử,

lông nhung tù đầu, ngắn lại, tăng sinh nang lympho thành ruột, thâm nhiễm tế

bào viêm ở hạ niêm mạc ruột.

- Lợn mắc PED có số lượng hồng cầu; tỷ khối huyết cầu; hàm lượng huyết sắc tố; nồng độ huyết sắc tố trung bình; số lượng bạch cầu; hàm lượng protein

tổng số; α, β, γ globulin tăng so với lợn khoẻ mạnh. Trong khi đó các chỉ số như Albumin, sức kháng hồng cầu, độ dự trữ kiềm trong máu, hàm lượng Kali, Natri trong huyết thanh của lợn bệnh giảm rõ rệt so với lợn khoẻ. Tỷ lệ bạch cầu đa

107

nhân trung tính và bạch cầu ái toan trong công thức bạch cầu tăng cao, trong khi

đó bạch cầu đơn nhân lớn, bạch cầu ái kiềm và tế bào lympho giảm.

3) Kết quả thử nghiệm biện pháp phòng trị dịch tiêu chảy cấp ở lợn (PED): - 100% mẫu huyết thanh của đàn lợn nái mang thai ở tuần thứ 13 sau 14 ngày và 21 ngày sử dụng phương pháp ―gut feedback‖ có xuất hiện kháng thể

PED (OD từ 0,04 – 1,11). Tuy nhiên, chỉ có 80,00% mẫu (có OD ≥ 0,21) là

dương tính, có khả năng bảo hộ.

- Điều trị kết hợp kháng sinh tiêu diệt vi khuẩn bội nhiễm với điều trị triệu

chứng (giảm nhu động và giảm tiết dịch) và tiêm phúc mạc dung dịch Lactat

Ringer và Glucose 5% để bổ sung nước, chất điện giải đồng thời kết hợp sử dụng

phương pháp huyết liệu pháp ở phác đồ II cho kết quả điều trị cao (80,00%).

Trong khi đó phác đồ I không sử dụng phương pháp điều trị huyết liệu pháp cho

kết quả điều trị thấp (62,00%) và có tỷ lệ chết trong quá trình điều trị (38,00%)

cao hơn ở phác đồ II là 18,00% (p<0,05).

5.2. KIẾN NGHỊ

- Những trại lợn sinh sản nếu phát hiện xảy ra dịch tiêu chảy cấp PED cần

cách ly sớm và sử dụng phương pháp ―Gut feedback‖ để phòng bệnh.

- Nên áp dụng phác đồ I vào trong thực tế sản xuất nhằm hạn chế thiệt hại

do PED gây ra.

108

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN

1. Hoàng Văn Sơn, Phạm Ngọc Thạch & Nguyễn Thị Lan (2020). Tình hình dịch tiêu chảy cấp (Porcine Epidemic Diarrhea - PED) và xác định kháng thể

PED sau khi sử dụng phương pháp ―Gut feedback‖ ở đàn lợn tại tỉnh Thanh

Hoá.Tạp chí Khoa học Nông nghiệp Việt Nam. XVIII (8): 599-606.

2. Hoàng Văn Sơn, Phạm Ngọc Thạch & Nguyễn Thị Lan (2019). Triệu chứng

lâm sàng và chỉ tiêu sinh lý máu của lợn mắc dịch tiêu chảy cấp (Porcine

Epidemic Diarrhea - PED) nuôi tại Thanh Hoá. Tạp chí Khoa học Kỹ thuật Thú y. XXVI (5): 16-21.

109

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tiếng Việt: 1. Archie Hunter (2001). Sổ tay dịch bệnh động vật. (Người dịch Phạm Gia Ninh &

Nguyễn Đức Tâm). NXB Bản đồ, Hà Nội.

2. Bộ Khoa học và Công nghệ (2010). Tiêu chuẩn TCVN 8402-2010-Bệnh động vật.

Quy trình mổ khám, ban hành theo Quyết định 2339/QĐ-BKHCN.

3. Bộ Khoa học và Công nghệ (2015). Tiêu chuẩn TCVN 8400-38-2015-Bệnh động

vật. Quy trình chẩn đoán, phần 38: Bệnh tiêu chảy ở lợn do Coronavirus.

4. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (2000). Thông tư liên tịch số 69/2000/TTLB-BNN-TCTK ngày 23 tháng 06 năm 2000. Hướng dẫn tiêu chí để

xác định kinh tế trang trại.

5. Chu Văn Tường (1991). Ỉa chảy cấp tính ở trẻ em. Bách khoa thư bệnh học. NXB

Y học.

6. Cục Thống kê tỉnh Thanh Hoá (2015). Niên giám Thống kê tỉnh Thanh Hoá 2015.

NXB Thống kê.

7. Cục Thống kê tỉnh Thanh Hoá (2019). Niên giám Thống kê tỉnh Thanh Hoá 2019.

NXB Thống kê.

8. Đào Trọng Đạt & Trần Thị Hạnh (1996). Viêm ruột hoại tử ở lợn con. Báo cáo

Khoa học Kỹ thuật – Thú y. Viện Thú y. NXB Nông nghiệp, Hà Nội.

9. Đào Trọng Đạt, Phan Thanh Phượng, Lê Ngọc Mỹ & Huỳnh Văn Kháng (1996).

Bệnh ở lợn nái và lợn con. NXB Nông nghiệp, Hà Nội.

10. Đỗ Tiến Duy & Nguyễn Tất Toàn (2012). Đặc trưng kiểu gen của Virut gây bệnh tiêu chảy cấp (PEDV) trên heo ở một số tỉnh miền Đông Nam Bộ. Truy cập từ

http://tapchithuy.com/Muc-luc/Khoa-hoc-cong-nghe/Nam-2012/So-7/index.htm ngày 25/7/2018.

11. Đoàn Anh Tuấn (2012). Dịch tiêu chảy cấp trên heo. Trung tâm chẩn đoán và cố vấn thú y Công ty cổ phần chăn nuôi C.P. Việt Nam. Truy cập từ http://www.authorstream.com/Presentation/drdvphat-1268188-ped-in-north-of-vn/ ngày 15/6/2018.

12. Đoàn Thị Kim Dung (2004). Sự biến động một số vi khuẩn hiếu khí đường ruột, vai trò của E. coli trong hội chứng tiêu chảy của lợn con, các phác đồ điều trị.

Luận án tiến sỹ Nông nghiệp, Viện Thú y Quốc gia – Hà Nội.

13. Hồ Văn Nam, Nguyễn Thị Đào Nguyên & Phạm Ngọc Thạch (1997). Bệnh nội

khoa gia súc. NXB Nông nghiệp, Hà Nội.

110

14. Hồ Văn Nam, Nguyễn Thi Đào Nguyên, Trương Quang, Phùng Quốc Chướng & Chu Đức Thắng (1997). Bệnh viêm ruột ỉa chảy ở lợn. Tạp chí Khoa học Kỹ thuật

Thú y. IV(2): 39-45.

15. Hồ Văn Nam, Nguyễn Thị Đào Nguyên, Trương Quang, Phùng Quốc Chướng, Chu Đức Thắng & Phạm Ngọc Thạch (1997). Tình hình nhiễm Salmonela và vai trò của Salmonela trong bệnh viêm ruột tiêu chảy ở lợn. Tạp chí Khoa học Kỹ

thuật Thú y. 1+ 2 Hội thú y Việt Nam. 15-21.

16. Hoàng Văn Sơn & Mai Danh Luân (2018). Xác định tính mẫn cảm kháng sinh của vi khuẩn E. coli và Salmonella spp. phân lập từ phân lợn tiêu chảy. Tạp chí Khoa học, Trường Đại học Hồng Đức. 40: 99 -107.

17. Hoàng Văn Tuấn, Lê Văn Tạo & Trần Thị Hạnh (1998). Kết quả điều tra tình hình tiêu chảy ở lợn trong một số trang trại lợn giống hướng nạc. Tạp chí Khoa học Kỹ

thuật Thú y. 5(4): 61-64.

18. Huỳnh Minh Trí, Nguyễn Đức Hiền, Nguyễn Thị Hồng Hạnh & Nguyễn Ngọc Hải (2017). Tình hình bệnh tiêu chảy cấp trên heo (PED) và xác định các yếu tố nguy cơ liên quan đến bệnh PED ở TP. Cần Thơ. Kỷ yếu Hội nghị khoa học toàn quốc

chăn nuôi-thú y 2017. NXB Nông nghiệp TP. Hồ Chí Minh. 392-398.

19. Huỳnh Minh Trí, Nguyễn Ngọc Hải & Nguyễn Hoàng Việt (2017). Khảo sát tỷ lệ nhiễm virus gây bệnh tiêu chảy cấp (Porcine epidemic diarrhea virus– PEDV) trên heo nái và xác định các yếu tố nguy cơ liên quan đến bệnh PED tại Tiền Giang. Tạp chí Khoa học,Trường Đại học Cần Thơ. 52. phần B (2017):1-7.

20. Khoon T. H. (1995). Những bệnh đường hô hấp và tiêu hoá của lợn. Hội thảo khoa

học thú y, Cục Thú y, Hà Nội. 28 – 35.

21. Lê Minh Chí (1995). Bệnh tiêu chảy ở gia súc. Hội thảo khoa học thú y, Cục Thú

y, Hà Nội. 16-22.

22. Lê Thị Tài (1997). Sản xuất viên Subtilis để phòng và điều trị chứng nhiễm trùng

đường ruột. Tạp chí Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp. IV(4): 28-34.

23. Lê Văn Phước (1997). Ảnh hưởng của nhiệt độ và độ ẩm không khí đến tỉ lệ lợn

con mắc bệnh phân trắng. Tạp chí Khoa học Kỹ thuật Thú y. IV(4): 51-58.

24. Lê Văn Tạo & Khương Bích Ngọc (1993). Nghiên cứu chế tạo vacxin E. coli uống phòng bệnh lợn con phân trắng. Kết quả nghiên cứu Khoa học Kỹ thuật – Thú y

(1990 – 1991). Viện Thú y. NXB Nông nghiệp, Hà Nội.

25. Lê Văn Thọ & Đàm Văn Tiện (1992). Sinh lý học gia súc. NXB Nông nghiệp,

Hà Nội.

26. Lê Xuân Ánh, Trần Quang Vui, Nguyễn Xuân Hòa, Nguyễn Xuân Lý & Trần Quốc Lượng (2017). Độc lực và tính mẫn cảm kháng sinh của vi khuẩn E. coli

111

phân lập từ lợn con theo mẹ bị bệnh tiêu chảy ở Thị xã Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên Huế. Tạp chí Khoa học – Đại học Huế ISSN 1859-1388.126(3A):161-168.

27. Nguyễn Kim Thành (1999). Bệnh giun tròn ký sinh. NXB Giáo dục, Hà Nội. 28. Nguyễn Ngọc Hải & Đỗ Tiến Duy (2017). Các bệnh truyền nhiễm quan trọng và

mới nổi trên heo. NXB Nông nghiệp. 41-49.

29. Nguyễn Như Thanh, Trương Quang & Lê Thanh Hòa (2011). Phương pháp nghiên

cứu dịch tễ học thú y. NXB Khoa học Tự nhiên và Công nghệ.

30. Nguyễn Tất Toàn & Đỗ Tiến Duy (2013). Một số yếu tố liên quan và đặc điểm bệnh học của dịch tiêu chảy cấp trên heo con theo mẹ tại một số tỉnh phía Nam. Tạp chí Khoa học Kỹ thuật Thú y. 2: 5-11.

31. Nguyễn Tất Toàn, Nguyễn Đình Quát, Trịnh Thị Thanh Huyền, Đỗ Tiến Duy, Trần Thị Dân, Nguyễn Thị Phước Ninh & Nguyễn Thị Thu Năm (2012). Phát hiện

virus gây bệnh tiêu chảy cấp (PEDV) trên heo ở các tỉnh miền Đông Nam Bộ. Tạp chí Khoa học Kỹ thuật Thú y. 19(5): 26-30.

32. Nguyễn Thị Hoa, Nguyễn Thị Lan, Trương Quang Lâm, Trịnh Đình Thâu & Ngô Thị Hạnh (2018). Nghiên cứu phân lập và xác định một số đặc điểm sinh học của

virus PED (Porcine Epidemic Diarrhea Virus). Tạp chí Khoa học Nông nghiệp Việt Nam. 16(3): 257-267.

33. Nguyễn Thị Kim Lan, Nguyễn Thị Ngân & Lê Minh (2006). Vai trò của ký sinh trùng đường tiêu hóa trong hội chứng tiêu chảy ở lợn con sau cai sữa tại Thái Nguyên. Tạp chí Khoa học Kỹ thuật Thú y. 13 (3): 36-40.

34. Nguyễn Thị Thơm, Nguyễn Vũ Sơn, Phạm Hồng Ngân & Nguyễn Hữu Nam (2018). Một số đặc điểm bệnh lý của lợn rừng nuôi mắc dịch tiêu chảy cấp do

virus PED (Porcine epidemic diarhea). Tạp chí Khoa học Nông nghiệp Việt Nam. 16(3): 223-231.

35. Nguyễn Thị Tường Vy & Nguyễn Đức Hưng (2011). Một số chỉ tiêu sinh lý máu của giống lợn địa phương (lợn Cỏ) miền núi, tỉnh Thừa Thiên Huế. 67 (4): Chuyên

san khoa học Nông nghiệp, Sinh học và Y Dược. 67(4).

36. Nguyễn Thị Tường Vy & Đinh Văn Dũng (2016). Nghiên cứu chỉ tiêu sinh lí máu của hai tổ hợp lợn lai (Landrace x Móng Cái) x Duroc và (Landrace x Móng Cái) x (Piétrain x Duroc) nuôi ở trang trại huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên – Huế.

Tạp chí Khoa học ĐHSP thành phố Hồ Chí Minh. 12 (90).

37. Nguyễn Thiện, Phan Địch Lân, Hoàng Văn Tiến, Võ Trọng Hốt & Phạm Sỹ Lăng

(1996). Chăn nuôi gia đình và trang trại. NXB Nông nghiệp, Hà Nội.

38. Nguyễn Trung Tiến, Vũ Thị Thu Hằng, Huỳnh Thị Mỹ Lệ, Nguyễn Bá Hiên & Lê Văn Phan (2015). Một số đặc điểm sinh học phân tử của virus gây ra dịch tiêu

112

chảy cấp ở lợn (Porcine Epidemic Diarrhea - PED) tại Quảng Trị, Thái Nguyên và Thái Bình từ năm 2013 - 2014. Tạp chí Khoa học và Phát triển. 13(7): 1089-1100. 39. Nguyễn Văn Điệp & Nguyễn Thị Lan (2013). Bệnh tiêu chảy dịch trên lợn (Porcine Epidemic Diarrhea), những thông tin cơ bản cho công tác chẩn đoán,

phòng và trị bệnh. Tạp chí Khoa học kỹ thuật Thú y. 2: 55-59.

40. Nguyễn Văn Điệp, Nguyễn Thị Lan, Nguyễn Thị Hoa & Yamaguchi (2014). Một số đặc điểm dịch tễ và bệnh lý của bệnh tiêu chảy thành dịch trên lợn ở một số tỉnh phía bắc Việt Nam. Tạp chí Khoa học kỹ thuật Thú y. XXI (2): 43-55.

41. Nguyễn Xuân Tịnh, Tiết Hồng Ngân, Nguyễn Bá Mùi & Lê Mộng Loan (1996).

Sinh lý học gia súc. NXB Nông nghiệp Hà Nội.

42. Phạm Khắc Hiếu, Lê Thị Ngọc Diệp & Trần Thị Lộc (1998). Stress trong đời sống

con người và vật nuôi. NXB Nông nghiệp, Hà Nội.

43. Phạm Khắc Hiếu (2016). Dược lý học phân tử ứng dụng trong Thú y (Tập 1).

NXB Đại học Nông nghiệp.

44. Phạm Ngọc Thạch (1998). Một số chỉ tiêu lâm sàng, phi lâm sàng ở trâu viêm ruột ỉa chảy và biện pháp phòng trị. Luận án Tiến sĩ Khoa học nông nghiệp. Trường

ĐHNNI – Hà Nội.

45. Phạm Ngọc Thạch (2004). Một số chỉ tiêu lâm sàng và chỉ tiêu sinh lý máu ở lợn mắc bệnh phù đầu (Edema disease) trên đàn lợn ở một số trang trại thuộc vùng phụ cận Hà Nội. Tạp chí Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp. 2 (1): 61-67.

46. Phạm Ngọc Thạch, Hồ Văn Nam & Chu Đức Thắng (2006). Bệnh nội khoa gia

súc. NXB Nông nghiệp. 31-33.

47. Phạm Sỹ Lăng & Phan Địch Lân (1997). Bệnh lợn con và cách phòng trị. NXB

Nông nghiệp Hà Nội.

48. Phạm Sỹ Lăng, Phan Địch Lân & Trương Văn Dung (1997). Bệnh phổ biến ở lợn

và biện pháp phòng trị. NXB Nông nghiệp, Hà Nội.

49. Phạm Văn Khuê & Phan Văn Lục (1996). Ký sinh trùng thú y. NXB Nông nghiệp,

Hà Nội.

50. Phan Thanh Phượng (1995). Nghiên cứu xác định hệ vi khuẩn chủ yếu gây tiêu chảy ở lợn. Báo cáo Khoa học Kỹ thuật – Thú y. Viện Thú y. NXB Nông nghiệp, Hà Nội.

51. Phùng Quốc Chướng (1995). Tình hình nhiễm Salmonella ở lợn vùng Tây Nguyên và khả năng phòng trị. Luận án Phó tiến sĩ Khoa học nông nghiệp. Trường

ĐHNNI – Hà Nội.

52. Tạ Thị Vịnh (1995). Những biến đổi bệnh lí ở đường ruột trong bệnh phân trắng

lợn con. Luận án PTS Nông nghiệp, Trường ĐHNNI – Hà Nội.

113

53. Trần Cừ, Cù Xuân Dần & Lê Thị Minh (1975). Sinh lý học gia súc. NXB Nông

thôn, Hà Nội.

54. UBND tỉnh Thanh Hóa (2019). Báo cáo tóm tắt tình hình thực hiện kinh tế - xã hội

năm 2019, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2020 tỉnh Thanh Hóa.

55. Vũ Triệu An (1970). Đại cương sinh lý bệnh học. NXB Y học.

Tiếng Anh:

56. Ajayi T., Dara R., Misener M., Pasma T., Moser L. & Poljak Z. (2018). Herd-level prevalence and incidence of porcine epidemic diarrhoea virus (PEDV) and porcine

deltacoronavirus (PDCoV) in swine herds in Ontario, Canada. Transbound Emerg Dis 65 (5):1197-1207. doi:10.1111/tbed.12858.

57. Albert R. (2013). Diagnosing Porcine Epidemic Diarrhea (PED) Virus. University

of Minnesota Veterinary Diagnostic Laboratory, St. Paul, MN | Jul 01.

58. Alonso C., Goede D. P., Morrison R. B., Davies P. R., Rovira A.& Marthaler D. G. (2014). Evidence of infectivity of airborne porcine epidemic diarrhea virus and

detection of airborne viral RNA at long distances from infected herds. Vet. Res. 45:73. doi: 10.1186/s13567-014-0073-z.

59. Alvarez J., Sarradell J., Morrison R. & Perez A. (2015). Impact of porcine epidemic diarrhea on performance of growing pigs. PloS one 10 (3):e0120532.

doi:10.1371/journal.pone.0120532.

60. Andreas P., Angela S. & Matti K. (2002). Update on porcine epidemic diarrhea.

Journal of Swine Health and Production.

61. Ayudhya SN, Assavacheep P. & Thanawongnuwech R. (2012). One world – one health: the threat of emerging swine diseases. An Asian perspective. Transbound

Emerg Dis. 2012;59(Suppl 1): 9–17.

62. Boniotti MB., Papetti A., Bertasio C., Giacomini E., Lazzaro M., Cerioli M., Faccini S., Bonilauri P., Vezzoli F., Lavazza A. & Alborali G.L. (2018). Porcine Epidemic Diarrhoea Virus in Italy: Disease spread and the role of transportation.

Transbound Emerg Dis 65 (6):1935-1942. doi:10.1111/tbed.12974.

63. Bowman A.S., Krogwold R.A., Price T., Davis M. & Moeller S.J. (2015) Investigating the introduction of porcine epidemic diarrhea virus into an Ohio

swine operation. BMC veterinary research 11. doi:10.1186/s12917-015-0348-2.

64. Bridgen A., Duarte M., Tobler K., Laude H. & Ackermann M. (1993). Sequence determination of the nucleocapsid protein gene of the porcine epidemic diarrhea virus confirms that this virus is a coronavirus related to human coronavirus 229E

and porcine transmissible gastroenteritis virus. J. Gen. Virol. 74. 1795-1804.

114

65. Bush J. A., Jensen W. N., Cartwright G. E. & Wintrobe M. M. (1955). Blood

volume studies in normal and anemic swine. Am J Physiol. 181(1): 9-14.

66. Callebaut P., Debouck P. & Pensaert M.B. (1982). Enzyme-linked immunosorbent assay for the detection of the coronavirus-like agent and its antibodies in pigs with porcine epidemic diarrhea. Veterinary Microbiology. 7(4): 295-306.

67. Chang H.K., Byung J. K., Jae G.L., Geon O.K & Yung B.K. (1999). Derivation of attenuated porcine epidemic diarrhea virus (PEDV) as vacxin candidat. Vacxin.

17(20): 2546–2553.

68. Chang S.H., Bae J.L., Kang T.J., Kim J., Chung G.H., Lim C.W., Laude H., Yang M.S. & Jang Y.S. (2002). Identification of the epitope region capable of inducing

neutralizing antibodies against porcine epidemic diarrhea virus. Mol. Cells.14: 295-299.

69. Chao L.V., Xiao Y., Li X. & Tian K. (2016). Porcine epidemic diarrhea virus:

current insights. Virus Adaptation and Treatment. 8: 1-12.

70. Chasey D. & Cartwright S.F. (1978). Virus-like particles associated with porcine

epidemic diarrhoea. Res Vet Sci. 25(2): 255-256.

71. Chen J., Liu X., Lang H., Wang Z., Shi D., Shi H., Zhang X. & Feng L. (2013). Genetic variation of nucleocapsid genes of porcine epidemic diarrhea virus field strains in China. Arch Virol. 158(6): 1397-1401.

72. Chen JF., Sun D.B., Wang C.B., Shi H.Y., Cui X.C., Liu SW, Qiu H.J. & Feng L. (2008). Molecular characterization and phylogenetic analysis of membrane

protein genes of porcine epidemic diarrhea virus isolates in China. Virus Genes, 36(2): 355-364.

73. Chen Q., Phillip C. Gauger, Molly R. Stafne, Joseph T. Thomas, Darin M. M., Haiyan H., Ying Z., Ganwu L. & Jianqiang Z. (2016). Pathogenesis comparison between the United States porcine epidemic diarrhea virus prototype and S-

INDEL-variant strains in conventional neonatal piglets. Journal of General Virology. 97: 1107–1121.

74. Chen X., Yang J., Yu F., Ge J., Lin T. & Song T.

(2012). Molecular

characterization and phylogenetic analysis of porcine epidemic diarrhea virus (PEDV) samples from field cases in Fujian, China. Virus Genes. 45(3): 499-507.

75. Choe S.E., Park K.H., Lim S.I., Le V.P., Hien N.B., Thach P.N., Phuong le H.T., An B.H., Han S.H., Cho I.S. & An D.J. (2016). Complete Genome Sequence of a Porcine Epidemic Diarrhea Virus Strain from Vietnam, HUA-14PED96, with a

115

Large Genomic Deletion. Genome Announc 4 (1). doi:10.1128/genomeA.00002- 16.

76. Coussement W., Ducatelle R., Debouck P. & Hoorens J. (1982). Pathology of in piglets. I. Histological and

experimental CV777 coronavirus enteritis histochemical study. Veterinary Pathology. 19 (1982): 46-56.

77. Craft S., Zalen H. & GranBacker L.D. (1994). ―Statistical observations involving weight, hemoglobinand the proportion of white blood cells in pig‖, J.Am -Vet.

MA.

78. Debouck P. & Pensaert M.B. (1980). Experimental infection of pigs with a new

porcine enteric coronavirus, CV777. Am J Vet Res. 41: 219–23.

79. Debouck P., Pensaert M.B. & Coussement W. (1981). The pathogenesis of an enteric infection in pigs, experimentally induced by the coronavirus-like agent,

CV777. Vet Microbiol. 6: 157–65.

80. Dee S., Clement T., Schelkopf A., Nerem J., Knudsen D., Christopher-Hennings J. & Nelson E. (2014). An evaluation of contaminated complete feed as a vehicle for porcine epidemic diarrhea virus infection of naive pigs following consumption via

natural feeding behavior: proof of concept. BMC veterinary research 10. doi:10.1186/s12917-014-0176-9.

81. Dee S., Neill C., Singrey A., Clement T., Cochrane R., Jones C., Patterson G., Spronk G., Christopher-Hennings J. & Nelson E. (2016). Modeling the transboundary risk of feed ingredients contaminated with porcine epidemic

diarrhea virus. BMC veterinary research 12. doi:10.1186/s12917-016-0674-z.

82. Do T.D., Nguyen T.T., Suphasawatt P. & Roongroje T. (2011). Genetic characterization of porcine epidemic diarrhea virus (PEDV) isolates from Southern Vietnam during 2009–2010 outbreaks. Thai J Vet Med. 41(1): 55-64.

83. Do Tien Duy, Nguyen Tat Toan, Suphasawatt P. & Roongroje T. (2011). Genetic Characterization of Porcine Epidemic Diarrhea Virus (PEDV) Isolates from Southern Vietnam during 2009–2010 Outbreaks. Thai J Vet Med. 41(1): 55-64.

84. Duarte M., Tobler K., Bridgen A., Rasschaert D., Ackermann M. & Laude H. (1994). Sequence analysis of the porcine epidemic diarrhea virus genome between the nucleocapsid and spike protein genes reveals a polymorphic. ORF, Virology.

198: 466–476.

85. Ducatelle R., Coussement W., Pensaert M.B., Debouck P. & Hoorens J (1981). In vivo morphogenesis of a new porcine enteric coronavirus, CV 777. Archives of

Virology. 68 (1981): 35-44.

116

86. Everds N. E. (2006). Haematology of the laboratory mouse. Pages 133-170. In: Foster H. L, . Small J. D and Fox J. G (Eds). The mouse in Biomedical Research.

2nd Edition. Volume 3. Elsevier Amsterdam.

87. Fairbrother J.M. (1992). Enteric colibacillosis Diseases of swine. IOWA State

University Press/AMES, IOWA U.S.A 7th Edition. 489-497.

88. Falagas M.E., Kasiakou S.K., Tsiodras S. & Michalopoulos A. (2006). The use of intravenous and aerosolized polymyxins for the treatment of infections in critically ill patients: a review of the recent literature. Clin Med Res. 4: 138–146.

89. Forbes N., Ruben. D. S. & Brayton C. (2009). Mouse clinical pathology: Haematology controlling variables influence data. Phenotying core. that Department of molecular and comparative pathobiology. John Hopkins University

School of medicine. Baltimore. Maryland. USA.

90. Ge F.F., Yang D.Q., Ju H. B., Wang J., Liu J., Liu P. H. & Zhou J.P. (2013). Epidemiological survey of porcine epidemic diarrhea virus in swine farms in

Shanghai, China. Arch Virol 158 (11): 2227-2231. doi:10.1007/s00705-013-1722-7.

91. Geiger J.O. & Connor J.F. (2013). Porcine epidemic diarrhea, diagnosis, and elimination. at: http://www.aasv. Available PED/13-05-29PEDWhitePaper. org/aasv%20website/Resources/Diseases/

pdf (accessed 20 May 2014).

92. Gonzalez J.M., Gomez-Puertas P., Cavanagh D., Gorbalenya A.E. & Enjuanes L. (2003). A comparative sequence analysis to revise the current taxonomy of the family Coronaviridae. Arch Virol. 148(11): 2207–2235.

93. Gregory W. S., hai Hoang, Kent J. S., Eric R. B., Dong S., Darin M., Vickie L. C., Pillatzki A., Phlip G., Beverly J. S., Leo G. K., Mary L. K. & Kyoungjin J. Y.

(2013). Emergence of Porcine epidemic diarrhea virus in the United States: clinical signs, lesion, and viral genomic sequences. Journal of Veterinary

Diagnostic Investigation. 25(5): 649-654.

94. Hak- Mo L., Beom – Jun K., Joo - Ho T., Chang - Hee K., Yong-Soon L. & Jae- Hak P. (2000). Detection of Porcine epidemic diarrhea virus by Immunohistochemistry with Recombinant Antibody Produced Phages J. Vet. Med.

Sci. 62(3): 333-337.

95. Hanke D., Jenckel M., Petrov A., Ritzmann M., Stadler J., Akimkin V., Blome S., Pohlmann A., Schirrmeier H., Beer M. & Höper D. (2015). Comparison of Porcine Epidemic Diarrhea Viruses from Germany and the United States, 2014.

Emerg Infect Dis. 2015 Mar. 21(3): 493–496.

117

96. Hofmann M. & Wyler R. (1989). Quantitation, biological and physicochemical properties of cell culture-adapted porcine epidemic diarrhea coronavirus (PEDV)

(1989). Veterinary Microbiology. 20 (1989): 131-142.

97. Huang A., Cai R., Wang Q., Shi L., Li C. & He Y. (2019). Dynamic Change of Gut Microbiota During Porcine Epidemic Diarrhea Virus Infection in Suckling Piglets. Published online 2019 Feb 25. doi: 10.3389/fmicb.2019.00322.

98. Huang Y.W., Dickerman A.W., Piñeyro P., Li L., Fang L., Kiehne R., Opriessnig T. & Meng X.J. (2013). Origin, evolution, and genotyping of emergent porcine

epidemic diarrhea virus strains in the United States. MBio 4, e00737-00713.

99. Hurst K.R., Koetzner C.A. & Masters P.S. (2009). Identification of in vivo- interacting domains of the murine coronavirus nucleocapsid protein. Journal of virology. 83(14): 7221–7234.

100. Jung K. & Saif LJ. (2015). Porcine epidemic diarrhea virus infection: Etiology, epidemiology, pathogenesis and immunoprophylaxis. The Veterinary Journal. 204(2): 134-143.

101. Jung K., Ahn K. & Chae C. (2006). Decreased activity of brush border membrane- bound digestive enzymes in small intestines from pigs experimentally infected with porcine epidemic diarrhea virus. Research in Veterinary Science. 8: 310-315. 102. Jung K., Wang Q., Scheuer K.A., Lu Z., Zhang Y. & Saif L.J. (2014). Pathology of US porcine epidemic diarrhea virus strain PC21A in gnotobiotic pigs. Emerging Infectious Diseases. 20: 662-665.

103. Kim O. & Chae C. (2002). Comparison of reverse transcription polymerase chain reaction, immunohistochemistry, and in situ hybridization for the detection of porcine epidemic diarrhea virus in pigs. Can J Vet Res. 2002 Apr. 66(2): 112-116.

104. Kim SH., Lee J-M., Jung J., Kim I-J., Hyun B-H., Kim H-I., Park C-K., Oem J-K., Kim Y-H. & Lee M-H. (2015) Genetic characterization of porcine epidemic diarrhea virus in Korea from 1998 to 2013. Archives of virology. 160(4):

1055-1064.

105. Kim Y., Yang M., Goyal S.M., Cheeran MC-J. & Torremorell M. (2017). Evaluation of biosecurity measures to prevent indirect transmission of porcine epidemic diarrhea virus. BMC veterinary research 13(1): 89. doi:10.1186/s12917-

017-1017-4.

106. Kochhar H.S. (2014). Porcine epidemic diarrhea in Canada: an emerging disease

case study. Can Vet J. 55(11): 1048-1049.

118

107. Kusanagi K., Kuwahara H., Katoh T., Nunoya T., Ishikawa Y., Samejima T. & Tajima M. (1992). Isolation and serial propagation of porcine epidemic diarrhea

virus in cell cultures and partial characterization of the isolate. J Vet Med Sci. 54: 313–318.

108. Kweon C. H., Lee J. G., Han M. G. & Kang Y. B. (1997). Rapid diagnosis of porcine epidemic diarrhea virus infection by polymerase chain reaction. J Vet Med

Sci. 59(3): 231-232.

109. Kweon C.H., Kwon B.J., Jung T.S., Kee Y.J., Hur D.H. & Hwang E.K. (1993). Isolation of porcine epidemic diarrhea virus (PEDV) in Korea. Korean J Vet Res. 33: 249–54.

110. Kwonil & Linda (2015). Porcine epidemic diarrhea virus infection: Etiology, immunoprophylaxis. Vet J. 2015 May;

epidemiology, pathogenesis and

204(2):134-43.doi: 10.1016/j.tvjl.2015.02.017. Epub 2015 Feb 26.

111. Laval A. (1997). Incidence des Enterites du porc. Báo cáo tại hội thảo thú y về

bệnh lợn do Cục thú y tổ chức, Hà Nội, 14/11.

112. Lecce J.G, Kinh M.W & Mock R. (1976). Rotavirus w like agent asociated with

fatal diarrhoea in neonotal pigs, Infec. Immun. 816-825.

113. Lee C. (2015). Porcine epidemic diarrhea virus: an emerging and re-emerging

epizootic swine virus. Virology journal 12(193).

114. Lee H.M., Lee B.J., Tae J.H., Kweon C.H., Lee Y.S. & Park J.H. (2000). Detection of porcine epidemic diarrhea virus by immunohistochemistry with

recombinant antibody produced in phages. J. Vet. Med. Sci. 62: 333–337.

115. Li J., Nation R.L., Milne R.W., Turnidge J.D. & Coulthard K. (2005). Evaluation of colistin as an agent against multi-resistant gram-negative bacteria. Int J Antimicrob Agents. 25: 11–25.

116. Li W., Li H., Liu Y., Pan Y., Deng F. & Song Y. (2012). New variants of porcine

epidemic diarrhea virus, China, 2011. Emerg Infect Dis. 8: 1350–3.

117. Lin M.C., Annamalai T., Liu X., Gao X., Lu Z., Tholoth M.E., Hu H., Saif L.J. & Wang Q. (2015). Experimental infection of a US spike-insertion deletion porcine

epidemic diarrhea virus in conventional nursing piglets and cross-protection to the original US PEDV infection. Vetẻinary Reseach. 46: 134 pages.

118. Lowe J., Gauger P., Harmon K., Zhang J., Connor J., Yeske P., Loula T., Levis I., Dufrense L. & Main R. (2014). Role of transportation in spread of porcine epidemic diarrhea virus infection, United States. Emerging Infect Dis 20:872-874.

doi:10.3201/eid2005.131628.

119. Madson D.M., Arruda P. H. E., Magstadt D. R., Burrough E. R., Hoang H., Sun D., Bower L. P., Bhandari M., Gauger P. C., Stevenson G. W., Wilberts, C. Wang

119

B. L., Zhang J. & Yoon K. J. (2015). Characterization of Porcine Epidemic Diarrhea Virus Isolate US/Iowa/18984/2013 Infection in 1-Day-Old Cesarean-

Derived Colostrum-Deprived Piglets. First Published June 25, 2015. Emerg Infect Dis. 2014 Apr; 20(4): 662–665.doi: 10.3201/eid2004.131685.

120. Mai Thi Ngan (2020). Studies on the epidemiology of porcine epidemicdiarrhea in the pig population. Laboratory of Animal Infectious Disease and Prevention, Graduate school of Medicine and Veterinary MedicineUniversity of Miyazaki, March 2020. 43-67.

121. Masiuk D. N., Nedzvetsky V. S., Sosnztskyi A. I., Kokariev A. V. & Zavhorodnii A. I. (2018). Peculiarities of PED virus pathogenesis in neonatal non-immune piglets on Ukraine farms. Regulatory Mechanisms in Biosystems. 9(4): 522–528.

doi:10.15421/021878.

122. Mesa - Sanchez I., Zaldivar – Lopez S., Couto C.G., Gamito-Gomez A., Granados-Machuca M., Lopez-Villalba M. & Galan-Rodriguez I.A. (2012).

Haematological, blood gas and acid-base values in the Galgo Espaňol (Spanish greyhound). J. Small. Anim Pract. 53(7): 398-403.

123. Moon H.W., Norman J.O. & Lambert G. (1973). Age dependent resistance to transmissible gastroenteritis of swine (TGE). I. Clinical signs and some mucosal

dimensions in small intestine. Can J Comp Med. 37: 157–66.

124. Murakami S., Miyazaki A., Takahashi O., Hashizume W., Hase Y., Ohashi S. & Suzuki T. (2015). Complete Genome Sequence of the Porcine Epidemic Diarrhea

Virus Variant Tottori2/JPN/2014. Genome announcements 3 (4):e00877-00815. doi:10.1128/genomeA. 00877-15.

125. Murphy F. A., Gibbs E. P., Horzinek M. C. & Studdert M. J. (1999). Veterinary

Virology. 3rd edn. Academic Press, San Diego.

126. Narayanan K., Huang C., Lokugamage K., Kamitani W., Ikegami T., Tseng C. T. & Makino S. (2008). Severe acute respiratory syndrome coronavirus nsp1

suppresses host gene expression, including that of type I interferon, in infected cells. J Virol 82, 4471–4479. 10.1128/JVI.02472-07.

127. Nguyen Dinh Quat, Pham Hoang Diep, Dang Thi Thanh Nguyen, Trinh Thi Thanh Huyen, Nguyen Thi Thu Nam, Nguyen Thi Phuoc Ninh, Tran Thi Dan & Nguyen

Tat Toan (2011). First Detection of Porcine Epidemic Diarrhea Virus by Nested Reverse Transcription-Polymerase Chain Reaction (rRT-PCR) Technique in

Vietnam. Pattaya, Thailand.

128. Nguyen V.P. & Hogue B.G. (1997). Protein interactions during coronavirus

assembly. Journal of virology. Dec. 71(12): 9278-84.

120

129. Nilson O. (1984). Epidemiology of porcine Neonatal Steatorr hoea in sweden I. Prevalence and clinical significame of cocidal and Rotaviral infection, Scan S.of

vet Science.

130. O'Dea E.B., Snelson H. & Bansal S. (2016). Using heterogeneity in the population structure of U.S. swine farms to compare transmission models for porcine

epidemic diarrhoea. Scientific reports 6:22248. doi:10.1038/srep22248.

131. Ojkic D., Hazlett M., Fairles J., Marom A., Slavic D., Maxie G., Alexandersen S., Pasick J., Alsop J. & Burlatschenko S. (2015). The first case of porcine epidemic diarrhea in Canada. Can Vet J 56 (2): 149-152.

132. Ortega M.E.T., Figueroa R.B., Hernández M.E.G., Ramírez M.J., González A.S., Villegas E.N.H., Hernández J.F.B & Silva R.E.S (2016). Isolation and characterization of porcine epidemic diarrhea virus associated with the 2014

disease outbreak in Mexico: case report. BMC Veterinary Research volume 12, Article number: 132.

133. Pan Y., Tian X. & Li W. (2009). Isolation and characterization of a variant porcine

epidemic diarrhea virus in China. Virol J. 9: 195 pages.

134. Park S. J., Song D. S. & Park B. K. (2013). Molecular epidemiology and phylogenetic analysis of porcine epidemic diarrhea virus (PEDV) field isolates in

Korea. Arch Virol. 158(7): 1533-1541.

135. Pasick J., Berhane Y., Ojkic D., Maxie G., Embury-Hyatt C., Swekla K., Handel K., Fairles J. & Alexandersen S. (2014). Investigation into the role of potentially

contaminated feed as a source of the first-detected outbreaks of porcine epidemic 61. diarrhea

in Canada. Transboundary

emerging

diseases

and

doi:10.1111/tbed.12269.

136. Pensaert M.B. & Bouck P. (1978). A new coronavirus-like particle associated with

diarrhea in swine. Arch Virol. 58: 243–247.

137. Pensaert M.B., Debouck P. & D.J. Reynolds (1981). An immunoelectron microscopic and immunofluorescent study on the antigenic relationship between the coronavirus-like agent, CV 777, and several coronaviruses. Arch Virol. 68:

45-52.

138. Pensaert M.B. (1992). Chapter 22 Porcine Epidemic diarhea. Diseases of Swine

7th edition Iowa State University Press, Ames, Iowa 50010. 293 – 298.

139. Pensaert M.B., Maurice B. & Sang-Geon Y. (2006). Porcine Epidemic Diarrhea. In Diseases of Swine, by Barbara E. Straw, Jeffery J. Zimmermann, Sylvie D'Allaire and David J. Taylor, 367-372. Blackwell Publishing.

121

140. Perri A.M., Poljak Z., Dewey C., Harding J.C.S. & O’Sullivan T.L. (2018). An epidemiological investigation of the early phase of the porcine epidemic diarrhea

(PED) outbreak in Canadian swine herds in 2014: A case-control study. 150:101-109. Preventive

Veterinary

Medicine

doi:https://doi.org/10.1016/j.prevetmed.2017.12.009.

141. Peterson A.A., Hancock R.E. & McGroarty E.J. (1985). Binding of polycationic antibiotics and polyamines to lipopolysaccharides of Pseudomonas aeruginosa. J Bacteriol 1985;164:1256–61.

142. Pospischil A., Stuedli A. & Kiupel M. (2002). Update on porcine epidemic

diarrhea. J Swine Health Prod. 10(2): 81-85

143. Puranaveja S., Poolperm P., Lertwatcharasarakul P., Kesdaengsakonwut S., Boonsoongnern A. & Urairong K. (2009). Chinese-like strain of porcine epidemic

diarrhea virus. Thailand Emerg Infect Dis. 15. 1112–1115.

144. Qian S., Zhang W., Jia X., Sun Z., Zhang Y., Xiao Y. & Li Z. (2019). Isolation and Identification of Porcine Epidemic Diarrhea Virus and Its Effect on Host Natural Immune Response. Front Microbiol. 10: 2272 pages.

145. Reagan W. J., Poitout-Belissent F.M. & Rovira A. R. I. (2010). Design and methods used for preclinical haematoxicity studies. Pages 71-77. In: Weiss D. J

and Wardrop K. J. (Eds). Schalm’s veterinary hematology. 6th edition. Wiley- Blackwell. Iowa.

146. Ren X. & Li P. (2011). Development of reverse transcription loop-mediated isothermal amplification for rapid detection of porcine epidemic diarrhea virus.

Virus Genes. 42(2): 229-235.

147. Rodriguez C.H., Pautaso J., Bombicino K., Vay C. & Famiglietti A. (2004). Sensitivity to colistin: evaluation of cut-off points available in disk diffusion test [in Spanish]. Rev Argent Microbiol. 36: 125–9.

148. Saif L.J. (1993). Coronavirus immunogens. Veterinary microbiology. 37(3-4):

285-297.

149. Saif L.J., Pensaert M.B., Sestak K., Yeo S.G. & Jung K. (2012). Coronaviruses Diseases of Swine (Tenth Ed.), Wiley-Blackwell, Iowa State University, Ames,

IA, USA. 501-524.

150. Sasaki Y., Alvarez J., Sekiguchi S., Sueyoshi M., Otake S. & Perez A. (2016) Epidemiological factors associated to spread of porcine epidemic diarrhea in Japan. Prev Vet Med 123: 161-167. doi:10.1016/j.prevetmed.2015.11.002.

151. Sasaki Y., Sekiguchi S., Toyomaki H., Makita K. & Sueyoshi M. (2019). Assessment of the economic impact of porcine epidemic diarrhea (PED) epidemic

122

in the southern Kyushu, Japan. Veterinary Epidemiology Magazine/Volume 23 (2019) No. 1/Bibliography. 23(1): 53-62.

152. Sasaki Y., Toyomaki H., Sekiguchi S., Sueyoshi M., Makita K., Otake S., Perez A. & Alvarez J. (2017). Spatial dynamics of porcine epidemic diarrhea (PED) the southern Kyushu, Japan. Prev Vet Med. 144: 81-88. spread

in

doi:https://doi.org/10.1016/j.prevetmed.2017.05.025.

153. Schäfers A., Meierhans S., Sauter-Louis C., Hartmann K. & Hirschberger J. (2013). Reference values for haematological and clinical-chemical parateters in tho dog. Tierarztl Prax Ausg K Kleintiere Heimtiere. 41(3): 163-172.

154. Schwartz K., Henry S., Tokach L., Potter M., Davidson D. & Egnor C. (2014). Exposing sows to PEDV to build herd immunity [Internet]. Minneapolis, MN: 13].Available [cited National

Farmer;

2014

Hog

Mar

from: http://nationalhogfarmer.com/business/exposing-sows-pedv-build-herd- immunity

155. Shibata I., Tsuda T., Mori M., Ono M., Sueyoshi M. & Uruno K. (2000). Isolation of porcine epidemic diarrhea virus in porcine cell cultures and experimental

infection of pigs of different ages. Veterinary Microbiology. 72 (2000): 173-182.

156. Shirato K., Matsuyama S., Ujike M. & Taguchi F. (2011). Role of proteases in the release of porcine epidemic diarrhea virus from infected cells. Journal of Virology. 85: 7872-7880.

157. Song D. & Park B. (2012). Porcine epidemic diarrhea virus: a comprehensive review of molecular epidemiology, diagnosis, and vacxins. Virus Genes. 44:

167–175.

158. Song D., Moon H. & Kang B. (2015). Porcine epidemic diarrhea: a review of current epidemiology and available vacxins. Clin Exp Vacxin Res 4 (2): 166-176.

doi:10.7774/cevr.2015.4.2.166.

159. Song D.S., Oh J.S., Kang B.K., Yang J.S., Song J.Y., Moon. H.J., Kim Y.T, Yoo H.S., Jang S.Y. & Park B.K. (2005). Fecal shedding of a highly cell-culture- adapted porcine epidemic diarrhea virus after oral inoculation in pigs. J Swine

Health Prod. 13(5): 269-272.

160. Song D.S., Kang B.K., Oh J.S., Ha G.W., Yang J.S., Moon H.J., Jang Y.S. & Park B.K. (2006). Multiplex reverse transcription-PCR for rapid differential detection of porcine epidemic diarrhea virus, transmissible gastroenteritis virus, and porcine

group A rotavirus. J Vet Diagn Invest. 18(3): 278-281.

123

161. Song D.S., Oh J.S., Kang B.K., Yang J.S., Moon H.J., Yoo H.S., Jang Y.S. & Park B.K. (2007). Oral efficacy of Vero cell attenuated porcine epidemic diarrhea virus

DR13 strain. Res Vet Sci. 82(1): 134–140.

162. Stevenson G.W., Hoang H., Schwartz K.J., Burrough E.R., Sun D., Madson D., Cooper V.L., Pillatzki A., Gauger P. & Schmitt B.J. (2013). Emergence of Porcine epidemic diarrhea virus in the United States: clinical signs, lesions, and viral

genomic sequences. Journal of Veterinary Diagnostic Investigation. 25: 649-654.

163. Sueyoshi M., Tsuda T., Yamazaki K., Yoshida K., Nakazawa M., Sato K., Minami T., Iwashita K., Wantanabe M. & Suzuki Y. (1995). An immunohisochemical investigation of porcine epidemic diarrhoea. Jcomp Pathol. 113(1): 59-67.

164. Sun R.Q., Cai R.J., Chen Y.Q., Liang P.S., Chen D.K. & Song C.X. (2012). Outbreak of porcine epidemic diarrhea in suckling piglets, China. Emerg Infect

Dis.18(1): 161–163.

165. Sung M.H., Deng M.C., Chung Y.H., Huang Y.L., Chang C.Y. & Lan Y.C. (2015). Evolutionary characterization of the emerging porcine epidemic diarrhea virus worldwide and 2014 epidemic in Taiwan. Infection, genetics and evolution:

journal of molecular epidemiology and evolutionary genetics in infectious diseases. 2015;36:108–15. Epub 2015/09/17. 10.1016/j.meegid.2015.09.011. 166. Takahashi K., Okada K. & Ohshima K. (1983). An outbreak of swine diarrhea of a new-type associated with coronavirus-like particles in Japan. Jpn J Vet Sci. 45: 829–32.

167. Thai Swine Veternary Association (2015). Clinical Practice Guideline (CPG) for

PED in Thailand: 1st Edition, 27.

168. Thrusfield M. (1997). Veterinary epidemilogy. Third edition (reissued in

paperback with updates), Blackwell Ltd, Cambridge, 233 pages.

169. Tian Y., Yu Z. & Cheng K. (2012). Molecular characterization and phylogenetic analysis of new variants of the porcine epidemic diarrhea virus in Gansu, China in

2012. Viruses. 5(8): 1991–2004.

170. Tobler K. & Ackermann M. (1996). Identification and characterization of new and unknown coronaviruses using RT-PCR and degenerate primers. Schweiz Arch Tierheilkd. 138(2): 80-86.

171. Tomoyuki T. (2014). Porcine Epidemic Diarrhea (PED) Situation in Japan. J.Vet.

Epidemiol. 182):111-113.

172. Toyomaki H., Sekiguchi S., Sasaki Y., Sueyoshi M. & Makita K. (2018).Factors associated with farm-level infection of porcine epidemic diarrhea during the early phase of the epidemic in Japan in 2013 and 2014. Preventive Veterinary Medicine 150: 77-85. doi:https://doi.org/10.1016/j.prevetmed.2017.12.008.

124

173. Utiger A., Frei A., Carvajal A. & Ackermann M. (1995). Studies on the in vitro and in vivo host range of porcine epidemic diarrhoea virus. Adv. Exp. Med.

Biol. 380 131–133. 10.1007/978-1-4615-1899-0_21.

174. Vui D. T., Tung N., Ken I., Steven S. & Dachrit N. (2014). Complete genome

sequence of porcine epidemic diarrhea virus in Vietnam. Genome Announc. 2(4).

175. Vui D.T., Thanh T.L., Tung N., Srijangwad A., Tripipat T., Chuanasa T. & Nilubol D. (2015). Complete genome characterization of porcine epidemic

diarrhea virus in Vietnam. Arch Virol 160 (8): 1931-1938. doi:10.1007/s00705- 015-2463-6.

176. Wang H., Xia X., Liu Z., Liu Y., Wang S., Qi Z., Liu S., Wang H., Niu X. & Liu S. (2013). Outbreak of porcine epidemic diarrhea in piglets in Gansu province, China. Acta Scientiae Veterinariae. 41: 1140 pages.

177. Weinberg J.M. (1986). Fluid and electrolyte disorders and gastrointestinal diseases. In: Fluids and electrolytes. J.P. Kokko and R.L. Tanner (eds.). W.B.

Saunders Co., Toronto (1986): 742-759.

178. Wicht O., Li W., Willems L., Meuleman T.J., Wubbolts R.W., Kuppeveld F.J., Ro ttier P.J. & Bosch B.J. (2014). Proteolytic activation of the porcine epidemic diarrhea coronavirus spike fusion protein by trypsin in cell culture. Journal of

Virology. 88 (2014): 7952-7961.

179. Wood E.N. (1977). An apparently new syndrome of porcine epidemic

diarrhoea. Vet Rec. 100. 243–244.

180. Yamane I., Yamazaki H., Ishizeki S., Watanabe Y., Okumura H., Okubo M., Kure K., Hayakawa Y., Furukawa M., Ooi M., Mizukami Y. & Ito M. (2016). Impact of a porcine epidemic diarrhea outbreak on swine productivity in Japan: a

study.

J Vet Med Sci 78

(9): 1385-1389.

cohort

retrospective doi:10.1292/jvms.15-0723.

181. Zhang Z., Chen J., Shi H., Chen X., Shi D. & Feng L. (2012). Identification of a conserved linear B-cell epitope in the M protein of porcine epidemic diarrhea virus. Virol J. 9: 225.

resistant to porcine epidemic diarrhea virus infection. Virol. Sin. 34(5): 592–595.

182. Zhang J., Wu Z. & Yang H. (2019). Aminopeptidase N knockout pigs are not

125

PHỤ LỤC

Phụ lục 1. Tình hình mắc dịch tiêu chảy cấp trên đàn lợn nuôi tại một số

huyện của tỉnh Thanh Hoá

Địa điểm (huyện) Số lợn điều tra Số lợn mắc Số lợn chết Tỷ lệ mắc bệnh Tỷ lệ chết Tỷ lệ tử vong

(con) (con) (con)

Hoằng Hoá 2.771 398 198

Như Thanh Nông Cống 1.757 2.982 293 414 149 207

Thạch Thành 3.459 521 294

Tĩnh Gia 2.642 426 241

Yên Định 2.832 342 189 (%) 14,36c 16,68dg 13,88b 15,06ce 16,12d 12,08a (%) 7,15abc 8,48abd 6,94ab 8,50d 9,12e 6,67a (%) 49,75a 50,85ab 50,00ab 56,43e 56,57e 55,26abc

Tổng 16.443 2.394 1.278

Trung bình 14,56 7,77 53,38

Ghi chú: Các chữ cái a,b,c,d,e,g biểu hiện sự sai khác có ý nghĩa giữa các giá trị

so sánh trong cùng cột (P<0,05)

Phụ lục 2. Thực trạng lợn mắc PED theo lứa tuổi tại Thanh Hoá

126

Phụ lục 3. Tình hình lợn mắc PED theo mùa trong năm tại Thanh Hoá

Số con Số con Số con Tỷ lệ Tỷ lệ tử Tỷ lệ

điều tra mắc chết mắc chết vong Mùa

(con) (con) (con) (%) (%) (%)

17,10c 9,74c 57,09b 4.508 769 439 Xuân

7,43a 2,99a 40,28a 3.811 283 114 Hạ

10,40b 4,34b 41,82a 3.707 385 161 Thu

21,70d 12,77d 58,93b 4.417 957 564 Đông

Tổng 16.443 2.394 1.278

Ghi chú: Các chữ cái a,b,c,d biểu hiện sai khác có ý nghĩa giữa các giá trị so

sánh trong cùng cột (P<0,05).

Phụ lục 4. Triệu chứng lâm sàng của lợn mắc PED tại Thanh Hoá (n =40)

Số lợn biểu hiện STT Triệu chứng Tỷ lệ (%) (con)

Tiêu chảy phân lỏng màu 1 40 100 vàng xám

2 Ủ rũ, mệt mỏi 40 100

3 Gầy sút, giảm ăn (bú) 40 100

4 Nằm dồn đống 33 82,50

5 Bỏ bú, bỏ ăn 17 42,50

6 Nôn 16 40,00

127

Phụ lục 5. Bệnh tích đại thể của lợn PED nuôi tại Thanh Hoá

Phụ lục 6. Tính mẫn cảm của các chủng E. coli phân lập từ phân lợn mắc bệnh tiêu chảy với một số loại thuốc kháng sinh

128

Phụ lục 7. Một số chỉ số lâm sàng

Nhiệt độ Hô hấp Tim mạch

Stt 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 Lợn khoẻ 38.7 38.4 38.9 38.7 38.6 38.7 38.5 38.5 38.7 38.6 38.5 38.8 38.6 38.5 38.6 38.7 38.4 38.5 38.4 38.6 38.8 38.3 38.4 38.8 38.5 38.6 38.5 38.4 38.7 38.5 38.7 38.6 38.7 38.2 38.5 38.4 PED 37.4 38.2 38.1 37.8 38.1 37.8 38 38.2 37.9 37.4 37.2 37.5 37.6 37.2 37.5 37.5 37.5 37.4 37.4 38 38.2 37.3 37.6 37.2 37.8 37.8 38.1 37.5 37.8 38 37.9 38.1 38.2 37.5 37.4 37.5 Lợn khoẻ 23 22 23 21 23 25 23 23 23 27 22 24 22 23 21 23 26 22 22 22 24 23 23 22 23 23 21 23 23 23 21 23 23 23 22 23 PED 41 43 44 43 43 44 43 44 43 44 44 43 41 43 44 43 44 43 44 44 44 44 43 45 43 43 43 43 43 43 42 44 41 43 44 44 Lợn khoẻ 93 92 94 94 92 94 93 92 93 95 95 92 94 93 95 94 90 93 95 93 93 94 94 95 92 95 92 94 94 92 95 94 93 95 94 91 PED 134 134 137 134 135 133 136 133 133 137 134 134 135 134 135 134 138 136 136 135 135 135 138 134 140 134 137 134 132 135 136 137 133 134 131 136

129

37 38 39 40 TB 38.5 38.7 38.6 38.3 38.56 37.5 38.1 37.5 37.2 37.71 22 21 24 23 22.82 42 42 44 44 43.28 93 92 92 93 93.33 137 135 135 138 135.1

t-Test: Two-Sample Assuming Equal Variances

37.4 37.70513 0.107868 39

38.7 38.56154 0.024008 39 0.065938

0 76 14.72759 2.87E-24 3.200964 5.74E-24 3.423197

Mean Variance Observations Pooled Variance Hypothesized Mean Difference Df t Stat P(T<=t) one-tail t Critical one-tail P(T<=t) two-tail t Critical two-tail t-Test: Two-Sample Assuming Equal Variances

41

43.28205 0.734143 39

23 22.82051 1.5722 39 1.153171

Mean Variance Observations Pooled Variance Hypothesized Mean Difference Df t Stat P(T<=t) one-tail t Critical one-tail P(T<=t) two-tail

0 76 -84.1412 4.52E-77 3.200964 9.04E-77 3.423 197

t Critical two-tail t-Test: Two-Sample Assuming Equal Variances

Mean Variance 93 93.33333 1.596491 134 135.1026 3.357625

130

39

39 2.477058

Observations Pooled Variance Hypothesized Mean Difference Df t Stat P(T<=t) one-tail t Critical one-tail P(T<=t) two-tail t Critical two-tail

0 76 -117.194 6.36E-88 3.200964 1.27E-87 3.423197 Phụ lục 8a: Một số chỉ tiêu huyết học

Hồng cầu (HC) Hemoglobin Lượng huyết sắc tố trung bình MHC

Lợn khoẻ PED PED PED

6.27 6.85 7.01 6.76 7.22 6.8 6.59 Lợn khoẻ 17.45 17.02 15.75 19.76 17.35 18.26 21.67 12.86 15.14 12.55 12.88 13.89 13.39 15.34 15.24 19.12 15.79 16.79 16.06 17.14 19.1 8.44 7.92 7.95 7.67 8.65 7.81 8.03 Lợn khoẻ 10.94 11.66 11.04 13.36 12.53 12.42 14.28

7.01 5.98 18 19.45 13.06 13.28 17.55 16.58 7.44 8.01 12.62 11.63

6.95 5.92 7.52 5.53 5.87 6.55 6.48 6.19 5.69 5.84 6.13 5.42 7.01 5.64 6.28 6.46 15.22 22.45 15.28 20.69 18.21 19.91 21.59 19.98 19.54 23.97 20.75 21.88 17.83 18.9 18.01 19.78 15.3 16.01 15.8 13.09 16.25 12.76 15.73 15.18 14.14 12.32 13.08 14.15 13.46 12.97 13.34 13.96 22.77 21.07 18.5 16.24 20.94 17.75 21.26 21.02 24.42 15.84 16.07 17.71 19.09 16.11 16.49 17.63 6.72 7.6 8.54 8.06 7.76 7.19 7.4 7.22 5.79 7.78 8.14 7.99 7.05 8.05 8.09 7.92 10.58 13.29 11.49 11.44 10.69 13.04 13.99 12.37 11.12 14 12.72 11.86 12.5 10.66 11.31 12.78

131

15.98 14.99 12.79 12.96 12.49 13.74 13.6 13.37 13.42 13.51 13.72 14.02 16.08 13.34 15.18 14.01 7.43 6.72 7.51 5.56 7.26 5.28 5.9 6.66 6.73 5.86 7.4 7.24 6.71 7.11 7.03 6.52 13.86 10.62 12.82 13.05 12.29 11.08 13.64 13.51 11.76 11.42 10.34 14.03 10.51 13.41 11.98 12.25 18.65 15.8 17.07 23.47 16.93 20.98 23.12 20.29 17.47 19.49 13.97 19.38 15.66 18.86 17.04 18.96 22.93 18.33 18.4 17.37 15.01 17.68 17.69 15.51 17.36 16.7 16.2 17.79 21.53 17.6 18.86 18.21

6.5153846 0.4166992 39 0.3646486

6.97 8.18 6.95 7.46 8.32 7.77 7.69 8.62 7.73 8.09 8.47 7.88 7.47 7.58 8.05 7.74 t-Test: Two-Sample Assuming Equal Variances 7.74385 Mean 0.3126 Variance Observations 39 Pooled Variance Hypothesized Mean Difference Df t Stat P(T<=t) one-tail t Critical one-tail P(T<=t) two-tail t Critical two-tail Mx 0 76 -8.9834179 7.181E-14 3.200964 1.436E-13 3.4231974 0.1020661 0.0884

14.00667 1.360033 39

12.24872 1.335811 39 1.347922

Mean Variance Observations Pooled Variance Hypothesized Mean Difference Df t Stat P(T<=t) one-tail t Critical one-tail P(T<=t) two-tail t Critical two-tail

0 76 -6.68638 1.7E-09 3.200964 3.4E-09 3.423197 0.18274 Mx 0.18439

132

18.2051 5.09987 39

18.9597 5.83887 39 5.46937

Mean Variance Observations Pooled Variance Hypothesized Mean Difference Df t Stat P(T<=t) one-tail t Critical one-tail P(T<=t) two-tail t Critical two-tail

Tỷ khối huyết cầu Hematocrit- Htc

Số lượng Bạc cầu PED Lợn khoẻ Lợn khoẻ PED 0 76 1.42487 0.07914 1.66515 0.15829 1.99167 Phụ lục 8b: Một số chỉ tiêu huyết học Thể tích bình quân HC=Htc*10/HC PED

35.29 34.81 34.11 37.31 38.69 34.05 39.74 35.67 31.85 39.52 32.56 39.28 35.28 34.51 39.56 35.87 34.82 39.79 37.55 33.58 35.75 38.96 39.88 38.62 37.48 Lợn khoẻ 56.28 50.82 48.66 55.19 53.59 50.07 60.3 50.88 53.26 56.86 55 52.23 63.8 58.79 60.4 55.35 56.25 69.93 64.3 54.78 65.96 55.58 70.71 61.5 58.02 45.18 43.24 42.84 44.81 42.86 45.98 45.83 45.14 45.9 43.07 41.76 45.14 41.18 44.84 42.06 45.04 45.38 40.08 45.16 45.13 44.52 45.86 45.76 44.53 42.49 53.53 54.6 53.89 58.42 49.55 58.87 57.07 60.67 57.3 64.09 54.95 52.86 51.09 57.78 58.5 60.86 62.85 69.22 58.05 55.44 55.72 65.05 56.84 55.04 53.65 18 16.7 18.02 17.67 18.13 16.14 17.37 15.03 16.35 15.18 15.86 16.94 18.06 18.89 15.03 15.65 16.52 16.97 16.84 16.56 15.14 18.76 17.57 17.91 17.89 20.62 20.38 24.63 24.08 25.38 23.3 21.99 21.66 22.52 22.16 26.88 25.59 21.88 25.93 23.6 22.7 26.99 25.49 23.55 20.16 21.5 21.74 23.78 23.94 22.28

133

16.39 15.85 18.08 15.4 15.46 16.01 16.51 18.4 16.99 18.75 18.89 16.38 16.17 17.51 15.62 16.86 23.42 25.55 21.55 22.26 23.18 25.28 24.33 23.03 23.57 21.87 24.61 21.63 20.71 25.81 26.7 23.48 53.46 52.6 52.94 66.19 53.71 70.23 64.63 59.26 58.22 63.34 54.07 57.91 56.86 52.6 54.75 57.77 39.72 35.35 39.76 36.8 38.99 37.08 38.13 39.47 39.18 37.12 40.01 41.93 38.15 37.4 38.49 37.35 45.74 43.52 40.83 42.73 45.09 43.22 45.7 41.64 43.78 41.91 43.48 43.97 41.62 44.94 41.53 43.8

43.8025641 2.816245884 39

37.3544 5.68426 39 4.25025

65.62 53.2 58.75 57.28 54.19 55.62 59.43 48.31 56.64 51.8 51.33 55.8 55.72 59.29 51.59 56.84 t-Test: Two-Sample Assuming Equal Variances Mean Variance Observations Pooled Variance Hypothesized Mean Difference Df t Stat P(T<=t) one-tail t Critical one-tail P(T<=t) two-tail t Critical two-tail 0 76 -13.812 1E-22 3.20096 2E-22 3.4232

Mx 0.37697 0.265341567

t-Test: Two-Sample Assuming Equal Variances

53.53

56.8444 20.0525 39

56.28 57.7692 33.5658 39 26.8092

Mean Variance Observations Pooled Variance Hypothesized Mean Difference 0

134

Df t Stat P(T<=t) one-tail t Critical one-tail P(T<=t) two-tail t Critical two-tail 76 0.78878 0.21635 1.66515 0.43269 1.99167

Mx 0.91605 0.70804

23.4772 3.39295 39

t-Test: Two-Sample Assuming Equal Variances 16.861282 Mean 1.3710115 Variance 39 Observations 2.3819819 Pooled Variance Hypothesized Mean Difference 0 76 Df -18.9294 t Stat 8.585E-31 P(T<=t) one-tail 1.6651514 t Critical one-tail 1.717E-30 P(T<=t) two-tail 1.9916726 t Critical two-tail

Công thức bạch cầu % khoẻ

Công thức bạch cầu % PED

toan

kiềm

đơn nhân

toan

kiềm

đơn nhân

Lym pho

lymp ho

trung tính

trung tính

3.13

0.77

3.25 38.88

0.57

4.6

4.86 46.32

52.7

44.91

2.76

0.67

3.21 42.11

0.58

3.81

4.12 53.53 50.29

38.93

2.72

0.66

3.39 36.82

0.49

4.81

4.05 54.19 54.49

38.38

3.13

0.77

3.63

39.1

0.58

4.2

4.87 46.29 52.49

44.93

3.1

0.76

3.41

39.4

0.57

4.76

4.8 46.89 51.86

44.44

3.15

0.78

3.45 41.51

0.62

3.65

4.91 45.88 50.76

45.28

3.09

0.76

3.67 37.64

0.61

4.44

4.79 47.04 53.64

44.32

3.18

0.79

3.85 36.76

0.61

3.76

4.96 45.35 55.02

45.72

2.96

0.73

3.29 39.35

0.52

3.64

4.53 49.58

53.2

42.21

3.06

0.75

3.24 40.87

0.62

4.27

4.72 47.68

51

43.79

2.88

0.7

3.4 38.99

0.57

4.73

4.36 51.18 52.31

40.88

Phụ lục 8c. Một số chỉ tiêu huyết học

135

44.58

3.11

0.77

4.82 46.72 54.89

4.06

0.49

3.4 37.15

43.74

3.06

0.75

4.72 47.74

52.1

4.07

0.55

3.85 39.43

44.61

3.11

0.77

4.83 46.69 54.28

3.66

0.53

3.39 38.14

45.6

3.17

0.79

4.95 45.49 52.51

3.9

0.62

3.84 39.13

41.37

2.91

0.71

4.42 50.59 52.56

4.57

0.55

3.74 38.59

45.21

3.15

0.78

4.9 45.96 54.24

4.24

0.51

3.75 37.26

43.49

3.04

0.75

4.69 48.03 53.36

3.85

0.63

3.71 38.44

40.86

2.88

0.7

4.36

51.2 54.82

4.78

0.54

3.26 36.61

45.97

3.2

0.79

5 45.04 54.68

4.16

0.62

3.21 37.33

44.23

3.09

0.76

4.78 47.14 51.62

3.9

0.57

3.61

40.3

42.09

2.96

0.72

4.51 49.72 52.12

4.79

0.58

3.3 39.21

44.09

3.08

0.76

4.76 47.31 51.28

4.69

0.53

3.63 39.87

39.96

2.82

0.68

4.24 52.29 52.93

4.49

0.52

3.26

38.8

42.03

2.95

0.72

4.5 49.79 54.22

3.38

0.56

3.54

38.3

41.63

2.93

0.71

4.45 50.28 54.35

3.75

0.52

3.49

37.9

44.79

3.12

0.77

4.85 46.47 54.53

4.52

0.59

3.83 36.53

42.7

2.99

0.73

4.59 48.98 52.09

3.44

0.63

3.58 40.26

45.59

3.17

0.79

4.95

45.5 51.76

4.47

0.53

3.45

39.8

41.56

2.92

0.71

4.44 50.36 51.27

4.59

0.63

3.75 39.77

38.64

2.74

0.66

4.08 53.87 50.32

3.45

0.53

3.5 42.19

39.27

2.78

0.67

4.16 53.11

54.1

3.89

0.51

3.55 37.95

38.04

2.7

0.65

4

54.6 53.11

4.7

0.51

3.4 38.28

41.62

2.93

0.71

4.45 50.29 53.78

4.63

0.6

3.34 37.65

42.55

2.98

0.73

4.57 49.16 53.84

4.8

0.59

3.31 37.46

41.6

2.92

0.71

4.45 50.32 52.17

3.6

0.57

3.7 39.96

39.21

2.78

0.67

4.15 53.19 51.64

3.87

0.63

3.21 40.65

42.93

3.01

0.74

4.62

48.7 52.27

3.96

0.6

3.55 39.62

42.94

3.01

0.74

4.62

48.7 51.13

4.58

0.6

3.39

40.3

41.01

2.89

0.7

4.38 51.02 50.87

4.37

0.57

3.45 40.74

42.58

2.99

0.73

4.57 49.12 52.77

4.19

0.57

3.5 38.98

136

SỨC KHÁNG HỒNG CẦU

Nồng độ Hb[Hb]bq %

Lợn khoẻ

Lợn mắc PED

Lợn khoẻ

Lợn mắc PED

Phụ lục 8d. Một số chỉ tiêu huyết học

Tối thiểu 0.65 0.67 0.68 0.67 0.68 0.68 0.63 0.66 0.63 0.65 0.67 0.65 0.68 0.63 0.66 0.67 0.67 0.68 0.67 0.67 0.68 0.68 0.64 0.63 0.62 0.67 0.64 0.65 0.67 0.67 0.65 0.62 0.65 0.64 0.64 0.68 0.63 0.67 0.68 0.64 0.66

Tối đa 0.46 0.43 0.41 0.47 0.45 0.4 0.39 0.48 0.39 0.39 0.37 0.47 0.38 0.39 0.44 0.42 0.42 0.38 0.42 0.37 0.43 0.46 0.39 0.47 0.44 0.44 0.42 0.47 0.39 0.41 0.46 0.46 0.43 0.38 0.46 0.39 0.41 0.42 0.43 0.44 0.42

Tối thiểu 0.65 0.71 0.7 0.69 0.66 0.68 0.68 0.72 0.67 0.69 0.68 0.67 0.69 0.66 0.72 0.66 0.73 0.66 0.68 0.71 0.69 0.66 0.71 0.72 0.71 0.71 0.66 0.69 0.69 0.66 0.69 0.71 0.72 0.66 0.72 0.68 0.69 0.72 0.67 0.7 0.69

Tối đa 0.41 0.49 0.47 0.46 0.42 0.45 0.44 0.49 0.43 0.46 0.45 0.43 0.46 0.42 0.49 0.42 0.5 0.42 0.45 0.49 0.46 0.43 0.48 0.49 0.49 0.48 0.42 0.46 0.45 0.42 0.46 0.48 0.49 0.43 0.5 0.45 0.45 0.49 0.43 0.47 0.46

31 33.5 32.37 35.81 32.39 36.48 35.93 35.38 36.51 26.77 40.82 29.25 32.43 30.98 32.96 39 35.53 27.95 37.28 37.88 33.17 32.08 26.73 29.29 34.1 34.89 30.04 32.24 35.46 31.52 29.88 35.77 34.23 30.02 30.77 25.84 33.46 27.55 35.86 31.12 32.9

28.46 35.01 29.3 28.74 32.41 29.12 33.47 28.93 28.93 35.52 38.34 35 31.79 36.24 30.34 34.92 33.45 35.28 27.28 28.98 31.78 29.35 28.34 29.96 32.85 34.94 34.44 31.33 30.33 27.7 31.79 29.76 32.11 30.65 32.24 31.55 31.89 38.64 29.68 36.55 32.02

137

Phụ lục 9. Thời gian điều trị trung bình

t-Test: Paired Two Sample for Means

Thời gian II Thời gian I

4.62 1.709795918 50

Mean Variance Observations Pearson Correlation Hypothesized Mean Difference Df

4.18 1.252653061 50 0.242920704 0 49 - 2.073521735 0.021700975 1.676550893 0.043401951 2.009575199 t Stat P(T<=t) one-tail t Critical one-tail P(T<=t) two-tail t Critical two-tail

Thời gian I Thời gian II

4.18 Mean 0.158281588 Standard Error

4 Median 3 Mode 1.119219845 Standard Deviation 1.252653061 Sample Variance Mean Standard Error Median Mode Standard Deviation Sample Variance

- 0.123719857 Kurtosis 0.721203037 Skewness

4 Range 3 Minimum 7 Maximum 209 Sum 50 Count

4.62 0.184921384 4 4 1.307591648 1.709795918 - 0.999241749 0.354221725 4 3 7 231 50 7 3

7 Largest(1) 3 Smallest(1) Confidence Level(95.0%) 0.318078755 0.371613428 Kurtosis Skewness Range Minimum Maximum Sum Count Largest(1) Smallest(1) Confidence Level(95.0%)

138

Phụ lục 10. Lƣợng thuốc điều trị trung bình

t-Test: Paired Two Sample for Means

Colistin I Colistin II

924000 68391836735 50

836000 50106122449 50 0.242920704

0 49 -2.073521735 0.021700975 1.676550893 0.043401951 Mean Variance Observations Pearson Correlation Hypothesized Mean Difference Df t Stat P(T<=t) one-tail t Critical one-tail P(T<=t) two-tail

2.009575199 t Critical two-tail

Colistin I Colistin II

836000 Mean

31656.31768 Standard Error 800000 Median 600000 Mode 924000 36984.27686 800000 800000

223843.969 Standard Deviation

50106122449 Sample Variance Mean Standard Error Median Mode Standard Deviation Sample Variance

-0.12371986 Kurtosis 0.721203037 Skewness 800000 Range 600000 Minimum 1400000 Maximum 41800000 Sum

261518.3296 68391836735 - 0.999241749 0.354221725 800000 600000 1400000 46200000 50 1400000 600000

50 Count 1400000 Largest(1) 600000 Smallest(1) Confidence Level(95.0%) 63615.75091 74322.68554 Kurtosis Skewness Range Minimum Maximum Sum Count Largest(1) Smallest(1) Confidence Level(95.0%)

139

t-Test: Paired Two Sample for Means

Atropin I Atropin II

0.418

0.462 0.012526531 0.01709796 50

50 0.242920704

Mean Variance Observations Pearson Correlation Hypothesized Mean Difference Df

t Stat P(T<=t) one-tail t Critical one-tail P(T<=t) two-tail 0 49 - 2.073521735 0.021700975 1.676550893 0.043401951

t Critical two-tail 2.009575199

t-Test: Paired Two Sample for Means

Latat RingerI Latat RingerI

92.4 683.9183673 50 83.6 501.0612245 50 0.242920704

Mean Variance Observations Pearson Correlation Hypothesized Mean Difference df

t Stat P(T<=t) one-tail t Critical one-tail P(T<=t) two-tail t Critical two-tail 0 49 - 2.073521735 0.021700975 1.676550893 0.043401951 2.009575199

140

MỘT SỐ HÌNH ẢNH

(a) (b)

Ảnh 1. Chẩn đoán bằng Test kit PED Ag: (a) Các bƣớc thực hiện; (b) Test kit PED Ag dƣơng tính

(a) (b)

(d) (c)

Ảnh 2. Chẩn đoán RT-PCR: (a) Xử lý mẫu; (b) Chạy máy PCR; (c) Kết quả điện di; (d) Kết quả

141

(b) (a)

Ảnh 3. Lấy máu vịnh tĩnh mạch cổ lợn nái để kiểm tra kháng thể

(a) Lợn sau khi sử dụng phương pháp “gut feedback” 14 ngày

(b) Lợn sau khi sử dụng phương pháp “gut feedback” 21 ngày

Ảnh 4. Kết quả xét nghiệm kháng thể PED

142

(a) (b)

Ảnh 5. Tiêm Glucose 5% vào phúc mạc lợn mắc PED

(a) Sát trùng trƣớc khi tiêm; (b) Tiêm phúc mạc

143

CỘNG HÕA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập – Tự do – Hạnh phúc

……….o0o……..

(Mẫu) BIÊN BẢN MỔ KHÁM

Ngày ……….. tháng …….. năm…….. Địa điểm: ........................................................................................................................... Thành phần: ....................................................................................................................... …………............................................................................................................................. Nơi lấy mẫu:....................................................................................................................... Loài vật: …………Giống: ……………… Tuổi: ………………..Tính biệt:..................... Loại bệnh phẩm: ………………Số lượng: …………………..Tình trạng:......................... Thời gian chết: ……………………… Thời gian mổ: ..................................................... Diễn biến bệnh: Thời gian bắt đầu bị bệnh:................................................................................................... Tổng đàn: …………………… Số ốm: ………………………… Số chết:......................... Biểu hiện xung quanh:........................................................................................................ ............................................................................................................................................. Vacxin đã dùng:................................................................................................................. Thuốc điều trị:................................................................................................................. Thời gian:............................................................................................................................ Triệu chứng: ............................................................................................................................................. ............................................................................................................................................. ............................................................................................................................................. ............................................................................................................................................. ............................................................................................................................................. ............................................................................................................................................. ............................................................................................................................................. ............................................................................................................................................. ............................................................................................................................................. ............................................................................................................................................. ............................................................................................................................................. ............................................................................................................................................. ............................................................................................................................................. Bệnh phẩm gửi xét nghiệm:.................................................................................... ............................................................................................................................................. ............................................................................................................................................. ............................................................................................................................................. ............................................................................................................................................. ............................................................................................................................................. ............................................................................................................................................. ............................................................................................................................................. .............................................................................................................................................

Cán bộ mổ khám (Ký tên, ghi rõ họ tên)

144

Phân

(Mẫu) Phiếu theo dõi tình hình dịch tiêu chảy cấp PED trên đàn lợn nuôi tại trại ………. Tháng………… năm…………. Biểu hiện lâm sàng Nằm

Giảm Gầy Nằm trên Ghi chú lỏng màu ăn/Giả dồn Nôn Người theo dõi Ngày/thán g Ngày tuổi sút bụng mẹ Số con theo dõi Số con mắc bệnh vàng xám m bú đống

Số con tử vong (chết do PED)

145