intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến đói nghèo của các nông hộ ở huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình

Chia sẻ: Bình Bình | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:10

77
lượt xem
2
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết trình bày nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến đói nghèo của các nông hộ ở huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình. Với mục đích là đánh giá thực trạng nghèo đói, tìm hiểu những nguyên nhân chính dẫn đến sự nghèo đói của các hộ gia đình, từ đó đề xuất các giải pháp phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của huyện, nhằm góp phần xóa đói, giảm nghèo.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến đói nghèo của các nông hộ ở huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình

TẠP CHÍ KHOA HỌC, Đại học Huế, Số 68, 2011<br /> NGHIÊN CỨU CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN ĐÓI NGHÈO<br /> CỦA CÁC NÔNG HỘ Ở HUYỆN QUẢNG NINH, TỈNH QUẢNG BÌNH<br /> Lê Văn Dũng, Nguyễn Quang Trường<br /> Trường Trung cấp Kinh tế Quảng Bình<br /> <br /> TÓM TẮT<br /> Công tác xóa đói giảm nghèo ở huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình trong những năm<br /> qua đã có nhiều kết quả khả quan (tỷ lệ hộ nghèo bình quân hàng năm giảm 3,7%). Tuy nhiên,<br /> tỷ lệ hộ nghèo vẫn đang còn cao (24,12% năm 2011), nguy cơ hộ bị nghèo rất lớn (trên 22,5%<br /> hộ thuộc diện cận nghèo).<br /> Kết quả nghiên cứu cho thấy đối với những hộ nghèo, số lao động chính, vốn dùng cho<br /> sản xuất kinh doanh và trình độ văn hóa của chủ hộ thấp hơn những hộ không thuộc diện hộ<br /> nghèo.<br /> Có nhiều nhân tố làm cho người nông dân rơi vào diện hộ nghèo. Trong đó có các nhân<br /> tố thuộc về đặc điểm của hộ, kết quả nghiên cứu cho thấy, những hộ dân sống ở vùng miền núi<br /> và là người dân tộc Vân Kiều có nguy cơ lớn nhất, tiếp đến là những hộ thuần nông, những hộ<br /> thiếu lao động, thiếu vốn.<br /> Để đạt được mục tiêu giảm tỷ lệ hộ nghèo bình quân 2%/năm của huyện Quảng Ninh<br /> giai đoạn 2011 - 2015, các giải pháp để xóa đói giảm nghèo cần triển khai thực hiện theo định<br /> hướng: (1) Gắn giảm nghèo với đẩy mạnh tăng trưởng và phát triển kinh tế - xã hội; (2) Nâng<br /> cao năng lực sản xuất của người nghèo, tạo điều kiện cho người nghèo tiếp cận với các dịch vụ<br /> sản xuất tự vươn lên thoát nghèo.<br /> <br /> 1. Mở đầu<br /> Quảng Ninh là một huyện nằm trong khu vực các tỉnh duyên hải miền Trung,<br /> nơi thường xuyên bị thiên tai đe dọa. Trong những năm qua nhờ công tác xoá đói giảm<br /> nghèo, tỷ lệ hộ nghèo trong huyện đã giảm. Tuy nhiên hiện nay tỷ lệ hộ nghèo còn khá<br /> cao, tỷ lệ hộ nghèo giảm chưa vững chắc. Điều kiện sống như đường sá, văn hóa, giáo<br /> dục, y tế đang khó khăn đặc biệt là ở các xã miền núi, người dân tộc Vân Kiều. Vì vậy<br /> xóa đói giảm nghèo đang là mối quan tâm lớn của địa phương.<br /> Do nguồn lực dành cho công tác xóa đói giảm nghèo có hạn, ngoài việc xác định<br /> số người nghèo là một nội dung quan trọng để định hướng chính sách giảm nghèo, thì<br /> việc nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến nghèo đói nhất là các yếu tố đặc điểm của<br /> hộ gia đình là một vấn đề cần thiết.<br /> 17<br /> <br /> Xuất phát từ những vấn đề nên trên, chúng tôi đã tiến hành nghiên cứu các nhân<br /> tố ảnh hưởng đến đói nghèo của các nông hộ ở huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình.<br /> Với mục đích là đánh giá thực trạng nghèo đói, tìm hiểu những nguyên nhân<br /> chính dẫn đến sự nghèo đói của các hộ gia đình, từ đó đề xuất các giải pháp phù hợp với<br /> điều kiện kinh tế - xã hội của huyện, nhằm góp phần xóa đói, giảm nghèo.<br /> Để đạt được mục đích trên, nghiên cứu đã tập trung phân tích số liệu thứ cấp và<br /> tiến hành điều tra 180 hộ theo phương pháp chọn mẫu phân loại. Cụ thể: căn cứ đặc<br /> điểm địa hình của huyện, đầu tiên chúng tôi tiến hành chọn 3 xã đại diện cho 3 tiểu<br /> vùng sinh thái đó là miền núi, ven biển và đồng bằng (xã Trường Xuân, Hải Ninh, Hiền<br /> Ninh). Trong giai đoạn thứ hai, ở mỗi xã chọn ra 2 thôn. Các thôn được chọn là thôn có<br /> tỷ lệ hộ nghèo ở mức trung bình trong xã. Sau đó số hộ nghèo và không nghèo của mỗi<br /> thôn được chọn theo tỷ lệ hộ nghèo trong thôn đó. Hộ điều tra được chọn ngẫu nhiên<br /> theo khoảng cách trong danh sách từng loại hộ của từng thôn. Hộ đầu tiên được chọn<br /> bằng hình thức bốc xăm ngẫu nhiên. Kết quả có 87 hộ không nghèo và 93 hộ nghèo<br /> được chọn. Quá trình điều tra được tiến hành bằng phương pháp phỏng vấn trực tiếp với<br /> tập câu hỏi đã được chuẩn bị trước[2]. Phương pháp phân tích chủ yếu là thống kê mô tả<br /> và phân tích hồi quy.<br /> 2. Kết quả nghiên cứu<br /> 2.1. Thực trạng hộ nghèo ở huyện Quảng Ninh<br /> 2.1.1. Số lượng và tỷ lệ hộ nghèo giai đoạn 2006 - 2011<br /> Nhờ công tác xóa đói giảm nghèo triển khai nên tỷ lệ hộ nghèo đã giảm từ<br /> 32,4% năm 2006 còn 14,0% năm 2010 (bình quân mỗi năm tỷ lệ hộ nghèo giảm 3,7%)<br /> [4]. Tỷ lệ hộ nghèo ở các vùng sinh thái cũng khác nhau. Cao nhất là ở vùng núi, tiếp<br /> đến là ven biển.<br /> Bảng 1. Số hộ nghèo và tỷ lệ hộ nghèo ở huyện Quảng Ninh thời kỳ 2006 - 2011<br /> <br /> Phân theo vùng<br /> Năm<br /> <br /> Tổng số<br /> <br /> Vùng<br /> đồng bằng<br /> <br /> Vùng<br /> miền núi<br /> <br /> Vùng<br /> ven biển<br /> <br /> 2006<br /> <br /> 6.652<br /> <br /> 5.489<br /> <br /> 817<br /> <br /> 346<br /> <br /> 2007<br /> <br /> 4.248<br /> <br /> 3.418<br /> <br /> 591<br /> <br /> 239<br /> <br /> 2008<br /> <br /> 3.747<br /> <br /> 3.014<br /> <br /> 504<br /> <br /> 229<br /> <br /> 2009<br /> <br /> 3.247<br /> <br /> 2.628<br /> <br /> 476<br /> <br /> 143<br /> <br /> 2010<br /> <br /> 2.970<br /> <br /> 2.420<br /> <br /> 434<br /> <br /> 116<br /> <br /> 2011<br /> <br /> 5.432<br /> <br /> 4.373<br /> <br /> 791<br /> <br /> 268<br /> <br /> 1. Số hộ nghèo<br /> <br /> 18<br /> <br /> 2. Tỷ lệ hộ nghèo<br /> 2006<br /> <br /> 32,4<br /> <br /> 29,7<br /> <br /> 67,4<br /> <br /> 41,2<br /> <br /> 2007<br /> <br /> 19,7<br /> <br /> 17,8<br /> <br /> 43,6<br /> <br /> 26,2<br /> <br /> 2008<br /> <br /> 17,3<br /> <br /> 15,4<br /> <br /> 43,2<br /> <br /> 23,8<br /> <br /> 2009<br /> <br /> 15,3<br /> <br /> 14,0<br /> <br /> 33,0<br /> <br /> 18,2<br /> <br /> 2010<br /> 2011<br /> <br /> 14,0<br /> 24,12<br /> <br /> 12,9<br /> 21,9<br /> <br /> 30,1<br /> 53,6<br /> <br /> 15,0<br /> 24,7<br /> <br /> Nguồn: Phòng Lao động - Thương binh và Xã hội huyện Quảng Ninh.<br /> <br /> Tuy nhiên tỷ lệ hộ nghèo của huyện còn cao hơn mức bình quân chung của toàn<br /> tỉnh Quảng Bình (tỷ lệ hộ nghèo năm 2010 toàn tỉnh là 11,27% [5], giảm nghèo vẫn<br /> chưa bền vững (trung bình hàng năm có trên 600 hộ tái nghèo) [3]. Đồng thời nếu áp<br /> dụng theo chuẩn nghèo giai đoạn 2011 - 2015 của Chính phủ thì năm 2011 sẽ có trên<br /> 5.400 hộ nghèo (tỷ lệ hộ nghèo là 24,12%) và 5.060 hộ cận nghèo [4]. Điều đó đặt ra<br /> yêu cầu cần phải có những giải pháp hữu hiệu hơn nữa để thực hiện công tác xóa đói<br /> giảm nghèo ở địa phương, đặc biệt là đối với các xã vùng núi, ven biển.<br /> 2.1.2. Một số đặc trưng của các hộ nghèo<br /> 2.1.2.1. Lao động<br /> Lao động bình quân của nhóm hộ nghèo ít hơn nhóm hộ không nghèo (kiểm<br /> định T so sánh giá trị trung bình lao động 2 loại hộ có mức ý nghĩa lớn hơn 95%), cụ thể<br /> những hộ nghèo bình quân mỗi hộ có 1,86 lao động, trong khi đó những hộ không<br /> nghèo là 2,51 lao động. Sự khác biệt này thể hiện rõ ở cả 3 vùng sinh thái.<br /> Ở vùng đồng bằng, bình quân mỗi hộ nghèo có 1,77 lao động, hộ không nghèo<br /> có 2,21 lao động; ven biển, hộ nghèo có 1,56 lao động và hộ không nghèo có 2,64 lao<br /> động; còn ở miền núi hộ nghèo ít hơn hộ không nghèo 0,71 lao động.<br /> Bảng 2. Lao động chính theo loại hộ và theo vùng sinh thái<br /> <br /> Số lao động trong hộ<br /> <br /> Hộ nghèo<br /> <br /> Hộ không nghèo<br /> <br /> Số hộ<br /> <br /> Tỷ lệ (%)<br /> <br /> Số hộ<br /> <br /> Tỷ lệ (%)<br /> <br /> Vùng miền núi<br /> <br /> 39<br /> <br /> 100,0<br /> <br /> 21<br /> <br /> 100,0<br /> <br /> Không có lao động<br /> <br /> 6<br /> <br /> 15,4<br /> <br /> 0<br /> <br /> 0<br /> <br /> Từ 1 đến 2 lao động<br /> <br /> 17<br /> <br /> 43,6<br /> <br /> 7<br /> <br /> 33,3<br /> <br /> Trên 2 lao động<br /> <br /> 16<br /> <br /> 41,0<br /> <br /> 14<br /> <br /> Trung bình (l. động)<br /> <br /> 2,15<br /> <br /> 66,7<br /> 2,86<br /> <br /> ***<br /> <br /> Vùng đồng bằng<br /> <br /> 22<br /> <br /> 100,0<br /> <br /> 38<br /> <br /> 100,0<br /> <br /> Không có lao động<br /> <br /> 1<br /> <br /> 4,5<br /> <br /> 0<br /> <br /> 0<br /> <br /> Từ 1 đến 2 lao động<br /> <br /> 19<br /> <br /> 86,4<br /> <br /> 26<br /> <br /> 68,4<br /> <br /> 19<br /> <br /> Trên 2 lao động<br /> <br /> 2<br /> <br /> Trung bình (l. động)<br /> <br /> 9,1<br /> <br /> 12<br /> <br /> 31,6<br /> 2,21 **<br /> <br /> 1,77<br /> <br /> Vùng ven biển<br /> <br /> 32<br /> <br /> 100,0<br /> <br /> 28<br /> <br /> 100,0<br /> <br /> Không có lao động<br /> <br /> 7<br /> <br /> 21,9<br /> <br /> 0<br /> <br /> 0<br /> <br /> Từ 1 đến 2 lao động<br /> <br /> 20<br /> <br /> 62,5<br /> <br /> 12<br /> <br /> 42,9<br /> <br /> Trên 2 lao động<br /> <br /> 5<br /> <br /> 15,6<br /> <br /> 16<br /> <br /> 57,1<br /> <br /> Trung bình (l. động)<br /> <br /> 2,64 ***<br /> <br /> 1,56<br /> <br /> Bình quân<br /> <br /> 93<br /> <br /> 100,0<br /> <br /> 87<br /> <br /> 100,0<br /> <br /> Không có lao động<br /> <br /> 14<br /> <br /> 15,1<br /> <br /> 0<br /> <br /> 0<br /> <br /> Từ 1 đến 2 lao động<br /> <br /> 56<br /> <br /> 60,2<br /> <br /> 45<br /> <br /> 51,7<br /> <br /> Trên 2 lao động<br /> <br /> 23<br /> <br /> 24,7<br /> <br /> 42<br /> <br /> Trung bình (l. động)<br /> <br /> 1,86<br /> <br /> 48,3<br /> 2,51<br /> <br /> ***<br /> <br /> Ghi chú: **, ***: Có ý nghĩa thống kê tương ứng các mức 95%, 99%.<br /> Nguồn: Số liệu điều tra của tác giả.<br /> <br /> So sánh 2 loại hộ theo các quy mô lao động cho thấy, số hộ nghèo có liên quan<br /> mật thiết với số lao động trong hộ. Trong số 14 hộ điều tra không có lao động, hầu hết là<br /> những hộ bị nghèo, trong khi đó tỷ lệ hộ có trên 2 lao động rơi vào nghèo chỉ có 35%<br /> (23 hộ/65 hộ). Trong số các hộ nghèo được điều tra chúng ta vẫn có kết quả hộ nghèo<br /> tập trung ở nhóm hộ có 1 đến 2 lao động (chiếm 60,2%), hộ có từ 3 lao động trở lên chỉ<br /> chiếm 24,7%.<br /> Từ kết quả phân tích trên có thể nói, nhóm hộ có số lao động càng cao thì số hộ<br /> nghèo càng giảm, đặc biệt là những hộ không có lao động hoàn toàn là những hộ bị<br /> nghèo.<br /> 2.1.2.2. Vốn cho sản xuất kinh doanh<br /> Kết quả điều tra cho thấy trên 49,4% số hộ không nghèo có số vốn trên 10 triệu<br /> đồng, trong khi đó 50,5% số hộ nghèo có số vốn dưới 3 triệu đồng và không có hộ<br /> nghèo nào có tổng số vốn trên 10 triệu đồng. Số vốn của hộ nghèo ít hơn các hộ không<br /> nghèo ở tất cả các vùng sinh thái cũng như bình quân chung (kiểm định T cho mức ý<br /> nghĩa lớn hơn 95%). Bình quân mỗi hộ nghèo điều tra có vốn bình quân là 3,156 triệu<br /> đồng và hộ không nghèo là 11,719 triệu đồng. Ở vùng miền núi vốn dùng cho sản xuất<br /> của các hộ nông dân nghèo thấp hơn của hộ nghèo ở vùng đồng bằng và ven biển. Tích<br /> lũy hạn chế, cùng với tập quán sản xuất lạc hậu của người Vân Kiều đã là nguyên nhân<br /> các hộ không đầu tư cho tài sản sản xuất. Nhiều hoạt động của người dân thực hiện<br /> bằng thủ công.<br /> <br /> 20<br /> <br /> Bảng 3. Vốn dùng cho sản xuất kinh doanh của các loại hộ<br /> Đơn vị tính: triệu đồng<br /> <br /> Vùng<br /> <br /> Hộ nghèo<br /> <br /> Hộ không nghèo<br /> <br /> Vùng miền núi<br /> <br /> 2,262<br /> <br /> 7,212 ***<br /> <br /> Vùng đồng bằng<br /> <br /> 3,053<br /> <br /> 9,389 ***<br /> <br /> Vùng ven biển<br /> <br /> 4,318<br /> <br /> 18,263 ***<br /> <br /> Bình quân<br /> <br /> 3,156<br /> <br /> 11,719 ***<br /> <br /> Ghi chú: ***: Có ý nghĩa thống kê 99%.<br /> Nguồn: Số liệu điều tra của tác giả.<br /> <br /> Kết quả nghiên cứu cho thấy, năng lực sản xuất của các hộ nghèo hạn chế rất<br /> nhiều so với những hộ không nghèo. Bên cạnh đó tỷ lệ người ăn theo trong các hộ<br /> nghèo lại cao hơn những hộ không nghèo. Những khác biệt này sẽ ảnh hưởng đến kết<br /> quả sản xuất và thu nhập của các thành viên trong hộ.<br /> 2.1.2.3. Trình độ văn hóa của chủ hộ<br /> Trình độ văn hóa của chủ hộ có ảnh hưỏng rất lớn trong việc tiếp thu khoa học<br /> kỹ thuật, đến quá trình tổ chức điều hành sản xuất cũng như chi tiêu của hộ [6]. Kết quả<br /> điều tra tổng hợp ở bảng 3.10 cho thấy trình độ của những hộ nghèo thấp hơn nhiều so<br /> với những hộ không nghèo. Trình độ trung bình của chủ hộ là nghèo là lớp 5 còn những<br /> hộ không nghèo là lớp 8.<br /> Bảng 4. Trình độ văn hóa của chủ hộ<br /> <br /> Trình độ chủ hộ<br /> <br /> Hộ nghèo<br /> <br /> Hộ không nghèo<br /> <br /> Số hộ<br /> <br /> Tỷ lệ (%)<br /> <br /> Số hộ<br /> <br /> Tỷ lệ (%)<br /> <br /> Chưa tốt nghiệp TH<br /> <br /> 34<br /> <br /> 36,6<br /> <br /> 5<br /> <br /> 5,7<br /> <br /> Tốt nghiệp TH<br /> <br /> 36<br /> <br /> 38,7<br /> <br /> 25<br /> <br /> 28,7<br /> <br /> Tốt nghiệp THCS<br /> <br /> 20<br /> <br /> 21,5<br /> <br /> 31<br /> <br /> 35,6<br /> <br /> Tốt nghiệp THPT<br /> <br /> 3<br /> <br /> 3,2<br /> <br /> 26<br /> <br /> Trung bình (năm)<br /> <br /> 5,11<br /> <br /> 29,9<br /> 8,05<br /> <br /> ***<br /> <br /> Nguồn: Số liệu điều tra năm 2006.<br /> <br /> Sự khác biệt về trình độ văn hóa giữa hộ nghèo và không nghèo cho thấy học<br /> vấn có mối quan hệ rất chặt chẽ với tình trạng đói nghèo. Và việc nâng cao trình độ cho<br /> các hộ gia đình ở nông thôn, nhất là các hộ nghèo là rất cần thiết. Nâng cao trình độ sẽ<br /> giúp các hộ tiếp cận với trình độ kỹ thuật mới, phân tích được thông tin thị trường, để từ<br /> đó họ có thể áp dụng cho hoạt động sản xuất, giúp họ tự thoát nghèo.<br /> 21<br /> <br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
13=>1