ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN -----------------------------
ĐỖ TUYẾT NGÂN NGHIÊN CỨU THỰC TRẠNG VÀ ĐỀ XUẤT PHÁT TRIỂN
DU LỊCH MẠO HIỂM TẠI VƢỜN QUỐC GIA BA BỂ, TỈNH BẮC KẠN LUẬN VĂN THẠC SĨ DU LỊCH Hà Nội, 2015
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN -----------------------------
ĐỖ TUYẾT NGÂN NGHIÊN CỨU THỰC TRẠNG VÀ ĐỀ XUẤT PHÁT TRIỂN DU LỊCH MẠO HIỂM TẠI VƢỜN QUỐC GIA BA BỂ,
TỈNH BẮC KẠN Chuyên ngành: Du lịch
(Chương trình đào tạo thí điểm) LUẬN VĂN THẠC SĨ DU LỊCH Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Mạnh Hà
Hà Nội, 2015
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT ........................................................................ 2
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU, SƠ ĐỒ ................................................................. 3
1. Lý do chọn đề tài .................................................................................................. 4 2. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu ...................................................................... 12 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ....................................................................... 5 4. Lịch sử nghiên cứu ............................................................................................... 6 5. Phƣơng pháp nghiên cứu ...................................................................................... 8 6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài ........................................................... 10 7. Bố cục của luận văn ............................................................................................ 12 Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ DU LỊCH MẠO HIỂM ........ 13
1.1. Các khái niệm và cách tiếp cận ....................................................................... 13 1.2. Đặc điểm của loại hình du lịch mạo hiểm ...................................................... 15 1.3. Phân loại du lịch mạo hiểm ............................................................................ 16 1.4. Nguyên tắc phát triển sản phẩm du lịch mạo hiểm ......................................... 17 1.5. Các điều kiện phát triển của du lịch mạo hiểm ............................................... 18 1.6. Mối quan hệ giữa du lịch mạo hiểm và các loại hình du lịch khác ................ 18 1.7. Thị trƣờng và đối tƣợng khách tham gia vào du lịch mạo hiểm .................... 29 1.8. Thực tiễn tổ chức và khai thác du lịch mạo hiểm ........................................... 32 Chƣơng 2. ĐIỀU KIỆN VÀ THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN DU LỊCH MẠO HIỂM TẠI VƢỜN QUỐC GIA BA BỂ .............................................................................. 40
2.1. Khái quát về vƣờn quốc gia Ba Bể ................................................................. 40 2.2. Điều kiện phát triển du lịch mạo hiểm tại vƣờn quốc gia Ba Bể .................... 44 2.3. Hiện trạng khai thác phát triển du lịch mạo hiểm tại vƣờn quốc gia Ba Bể ... 50 2.4. Nguyên nhân của thực trạng phát triển du lịch mạo hiểm ở Ba Bể ................ 65 2.5. Đánh giá chung hoạt động du lịch mạo hiểm tại vƣờn quốc gia Ba Bể ......... 67
CHƢƠNG 3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN DU LỊCH MẠO HIỂM TẠI VƢỜN QUỐC GIA BA BỂ .................................................................................. 70
3.1. Những căn cứ chủ yếu .................................................................................... 70 3.2. Một số giải pháp cụ thể ................................................................................... 72 KẾT LUẬN ............................................................................................................... 84
KIẾN NGHỊ .............................................................................................................. 85
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
1
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
ATTA : Adventure Travel Trade Association
BQL
Tổ chức Du lịch Thương mại Mạo hiểm
: Ban Quản lý
Bộ NN&PTNN : Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn
CSVCKT
CSHT : Cơ sở hạ tầng
DLMH
: Cơ sở vật chất kỹ thuật
DLST
: Du lịch mạo hiểm
KBTTN
: Du lịch sinh thái
KT-XH
: Khu bảo tồn thiên nhiên
MICE
: Kinh tế - Xã hội
: Meeting, Incentive, Conventions and Exhibition
Du lịch kết hợp hội nghị, hội thảo, triển lãm, tổ chức sự kiện,
du lịch khen thưởng của các công ty cho nhân viên
Sở VHTT&DL : Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch
TAT : Tourism Authority of Thailand
Cơ quan Du lịch Thái Lan
UNWTO : United National World Tourism Organization
Tổ chức Du lịch Thế giới
VQG : Vƣờn Quốc Gia
2
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU, SƠ ĐỒ
Bảng biểu
Bảng 1.1. So sánh giữa du lịch sinh thái và du lịch mạo hiểm ................................. 27
Bảng 2.1. Số liệu khí hậu khu vực VQG Ba Bể………………………………..…..46
Bảng 2.2. Dân số các xã trong khu vực VQG Ba Bể……………..……….………47
Bảng 2.3. Nơi lƣu trú của khách du lịch tại Ba Bể……………………….….…….56
Bảng 2.4. Trình độ cán bộ TTGDMT&DVMTR VQG Ba Bể………………….....59
Biểu đồ
Biểu đồ 2.1. Lƣợng khách du lịch tại Ba Bể giai đoạn 2012 - 2014 ......................... 43
Biểu đồ 2.2. Cơ cấu khách tham gia du lịch mạo hiểm tại VQG Ba Bể ................... 54
Biểu đồ 2.3. Các hoạt động du lịch mạo hiểm du khách tham gia ............................ 58
Biểu đồ 2.4. Các kênh thông tin về du lịch mạo hiểm Ba Bể ................................... 63
Sơ đồ
Sơ đồ 2.1. Bản đồ du lịch VQG Ba Bể…………………………………….…...….41
3
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trên thế giới, du lịch mạo hiểm đã đƣợc biết đến từ những năm đầu của thế kỷ
XX và có sự tăng trƣởng khá nhanh thông qua việc ra đời của các sản phẩm cũng
nhƣ điểm đến mới. Ngày càng nhiều khách du lịch từ nhiều độ tuổi khác nhau,
không phân biệt giới tính tham gia vào các chƣơng trình du lịch mạo hiểm. Đối
tƣợng khách du lịch mạo hiểm thƣờng có khả năng chi trả cao, đi du lịch dài ngày.
Vì vậy, những nƣớc quan tâm phát triển du lịch thƣờng trú tâm tới loại hình du lịch
này nhằm đề ra chiến lƣợc quảng bá hiệu quả.
Việt Nam là quốc gia có tiềm năng du lịch và đang nổi lên là một điểm đến
mới, hấp dẫn trên bản đồ du lịch thế giới. Với 3/4 địa hình là đồi núi, hệ thống sông
ngòi đa dạng, các dãy núi đá vôi, nhiều hang động đẹp, nhiều khu rừng nguyên sinh
nhiệt đới, với hơn 3.000 km bờ biển tạo nên những cảnh đẹp vô cùng phong phú,
v.v. là những điều kiện thuận lợi cho việc phát triển các loại hình du lịch mạo hiểm.
Các hoạt động đi bộ băng rừng, leo núi, mô tô, xe đạp địa hình, khám phá hang
động, lặn biển, xuôi dòng bằng bè mảng, đua thuyền, lƣớt ván, nhảy dù, đu dây v.v.
trở thành các hoạt động du lịch hấp dẫn cho cả du khách trong nƣớc và quốc tế.
Hiện nay đã có một số doanh nghiệp lữ hành nghiên cứu, tổ chức các chƣơng trình
du lịch mạo hiểm nhƣ chƣơng trình chinh phục đỉnh Fan Xi Păng, đỉnh Lang Biang,
đỉnh Bạch Mã, đèo Prenn, các chƣơng trình lặn biển ở Nha Trang, Cù Lao Chàm,
Phú Quốc, Côn Đảo, đi xe đạp địa hình, xe mô tô thể thao ở Hà Giang, chèo thuyền
kayak trên vịnh Hạ Long, đảo Cát Bà, các trò chơi dây nƣớc, dây cáp ở Phong Nha
– Kẻ Bàng, v.v. Tuy nhiên, các hoạt động đó mới chỉ khai thác tài nguyên du lịch tại
khu vực đồng bằng, ven biển và một số khu vực miền núi gần các thị trấn, gần
đƣờng quốc lộ, còn một phần lớn các khu vực có điều kiện phát triển loại hình du
lịch mạo hiểm vẫn chƣa đƣợc đánh giá, khai thác. Việc xây dựng các chƣơng trình
du lịch mạo hiểm cho khách còn tƣơng đối manh mún, khai thác ở mức thí điểm,
4
thăm dò, chƣa đƣợc tổ chức hiệu quả. Do đó, cần có những nghiên cứu, đánh giá
sâu về loại hình du lịch đƣợc đánh giá là tiềm năng này ở Việt Nam nhằm có các đề
xuất cho việc khai thác hiệu quả giá trị đó, góp phần vào việc thực hiện chiến lƣợc
du lịch của quốc gia và của địa phƣơng.
Vƣờn quốc gia Ba Bể đƣợc thành lập năm 1992 theo Quyết định số 83/TTg, là
nơi bảo tồn sinh cảnh rừng thƣờng xanh mƣa ẩm nhiệt đới điển hình với đa dạng
sinh học cao. Ngoài ra, Ba Bể cũng đƣợc công nhận là một trong các khu đất ngập
nƣớc quan trọng của thế giới, và gần đây cũng đƣợc công nhận là một trong các khu
RAMSAR của Việt Nam.
Trung tâm VQG Ba Bể là hồ Ba Bể - hồ kiến tạo tự nhiên lớn nhất ở Việt
Nam, đƣợc UNESCO xếp vào một trong 20 hồ nƣớc ngọt tự nhiên đẹp trên thế giới
cần đƣợc bảo vệ và phát triển. Hồ có diện tích mặt nƣớc khoảng trên 500 ha với
chiều dài khoảng 7km, đƣợc bao bọc bởi vách núi đá và dạng địa hình đá vôi điển
hình. Tại khu vực hồ Ba Bể có nhiều điểm tham quan, thắng cảnh đẹp và hấp dẫn,
tiêu biểu là thác Đầu Đẳng, Ao Tiên, hệ thống các hang động có vẻ đẹp kỳ vĩ là điều
kiện rất thuận lợi cho các hoạt động tham quan, khám phá, mạo hiểm.
Tuy nhiên du lịch mạo hiểm tại Ba Bể phát triển chƣa xứng đáng với tiềm
năng. Các sản phẩm, dịch vụ còn đơn điệu, khai thác chƣa đồng bộ, hấp dẫn và chƣa
giữ chân đƣợc khách du lịch. Chính vì vậy việc tạo ra yếu tố mới, lạ về loại hình sản
phẩm, phƣơng thức tổ chức phù hợp sẽ là điều kiện quan trọng nhằm phát huy đƣợc
các tiềm năng du lịch ở đây, đặc biệt là loại hình du lịch mạo hiểm.
Từ những thực tế và sự cấp thiết đó, tác giả đã thực hiện đề tài: “Nghiên cứu
thực trạng và đề xuất phát triển du lịch mạo hiểm tại vƣờn quốc gia Ba Bể, tỉnh Bắc
Kạn”.
2. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tƣợng nghiên cứu: Du lịch mạo hiểm VQG Ba Bể.
5
Phạm vi nghiên cứu:
+ Về không gian: Vƣờn quốc gia Ba Bể và các bên liên quan đến hoạt động du
lịch mạo hiểm ở Ba Bể.
+ Về thời gian: Từ tháng 09/2014 đến tháng 08/2015.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Nghiên cứu, đánh giá thực trạng và kinh nghiệm phát triển du lịch mạo hiểm
tại Ba Bể nhằm đề xuất các giải pháp cho việc phát triển, khai thác hoạt động du
lịch mạo hiểm ở Ba Bể theo hƣớng hiệu quả, bền vững và trách nhiệm hơn.
4. Lịch sử nghiên cứu
Du lịch mạo hiểm đƣợc nghiên cứu ở nhiều nơi cả trên thế giới cũng nhƣ Việt
Nam. Mỗi nghiên cứu, đều thể hiện những quan điểm riêng, đánh giá vào các vấn
đề riêng của hoạt động du lịch mạo hiểm, từ tiềm năng, cách tổ chức, vận hành, lợi
ích, hiệu quả cũng nhƣ các tác động của chúng.
Trên thế giới có một số nghiên cứu đánh giá điển hình về du lịch mạo hiểm
nhƣ:
John Swarbrooke (2003), “Du lịch mạo hiểm: Lĩnh vực mới” (Adventure
tourism: The New Frontier): Tài liệu đã đề cập tới các vấn đề lý luận của du
lịch mạo hiểm nhƣ khái niệm du lịch mạo hiểm, các nhân tố của du lịch mạo
hiểm, thị trƣờng cung – cầu, việc quảng bá du lịch mạo hiểm, vấn đề quản lý
trong du lịch mạo hiểm.
Ralf Buckley (2006), “Du lịch mạo hiểm” (Adventure tourism): Tác giả dành
ra 23 trong 27 chƣơng để mô tả các loại hình du lịch mạo hiểm cụ thể tại các vùng
trên thế giới nhƣ đi xuyên rừng, chèo thuyền vƣợt thác, leo núi, lặn dƣới đáy biển,
nhảy dù. Ralf Buckley nhấn mạnh hai khía cạnh tạo nên sản phẩm du lịch đó là hoạt
động và nơi diễn ra các hoạt động ấy, đồng thời ông cũng đánh giá du lịch mạo
6
hiểm sẽ là tiềm năng của ngành du lịch nhằm tạo ra nét đặc sắc riêng giữa một môi
trƣờng cạnh tranh du lịch đang ngày càng gay gắt hiện nay.
Tại Việt Nam có một số nghiên cứu khoa học trong nƣớc nhƣ:
Trƣơng Quang Hải (2006): “Nghiên cứu tuyến Du lịch mạo hiểm Phong Nha –
Kẻ Bàng”. Đề tài tập trung vào vấn đề khai thác tiềm năng của một số tuyến du lịch
mạo hiểm, từ đó đƣa ra định hƣớng phát triển du lịch mạo hiểm tại Phong Nha – Kẻ
Bàng.
Phạm Trung Lƣơng (2008): “Cơ sở khoa học để phát triển các sản phẩm du
lịch thể thao - mạo hiểm ở vùng núi phía Bắc”. Đề tài tập trung nghiên cứu cơ sở lý
luận, tiềm năng, thực trạng và đề xuất giải pháp phát triển sản phẩm du lịch mạo
hiểm – thể thao ở khu vực vùng núi Phía Bắc, xây dựng những sản phẩm du lịch
phù hợp, đáp ứng nhu cầu xã hội.
Trịnh Lê Anh (2006): “Du lịch Trekking ở Việt Nam: Loại hình và phƣơng
thức tổ chức (Nghiên cứu trƣờng hợp ở Sa Pa – Lào Cai)”. Đề tài bƣớc đầu khái
quát cơ sở khoa học loại hình du lịch trekking và hiện trạng phƣơng thức tổ chức
trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn (trong phân hệ du lịch thể thao – khám phá, mạo
hiểm). Từ đó khuyến nghị phƣơng thức tổ chức khai thác du lịch trekking phù hợp
tại Sa Pa.
Trƣơng Việt Trƣờng (2010): “Nghiên cứu du lịch sinh thái kết hợp với du lịch
mạo hiểm tại khu mỏ Kẽm - Chì Chợ Đồn, huyện Chợ Đồn, tỉnh Bắc Kạn”. Nghiên
cứu trình bày cơ sở lý luận về du lịch sinh thái và du lịch mạo hiểm, hiện trạng các
loại hình du lịch sinh thái và du lịch mạo hiểm trên thế giới nói chung và Việt Nam
nói riêng, phân tích hiện trạng khu mỏ Kẽm – Chì, huyện Chợ Đồn, làm rõ các tiềm
năng, khả năng phát triển và đƣa ra một số định hƣớng nhằm phát triển du lịch sinh
thái, du lịch mạo hiểm cho khu mỏ này.
Các công trình trên đều tập trung vào việc phân tích, đánh giá về tiềm năng du
lịch của điểm nghiên cứu và đề xuất khai thác các hoạt động du lịch nên đƣợc khai
7
thác và phát triển cho địa phƣơng. Đây cũng là các nghiên cứu quan trọng nhất về
cở sở lý luận và định hƣớng cho việc phát triển du lịch mạo hiểm ở Việt Nam, đặc
biệt là ở Bắc Kạn và Ba Bể.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Các phương pháp nghiên cứu
Thu thập và xử lý thông tin: Mục đích của hoạt động này là nhằm tìm hiểu lịch
sử nghiên cứu, kế thừa thành tựu, bài học mà đồng nghiệp đã làm về cùng một vấn
đề. Do vậy, việc thu thập và đánh giá thông tin nhằm không lặp lại những công việc
mà đồng nghiệp đã thực hiện. Trong khuôn khổ của luận văn, tác giả thực hiện việc
thu thập các nghiên cứu, văn bản, tài liệu lý luận, các bài báo, công bố nghiên cứu
khác nhau về du lịch mạo hiểm, từ đó lựa chọn thông tin quan trọng phục vụ cho đề
tài nghiên cứu của mình. Các thông tin đƣợc thu thập từ các nghiên cứu, đánh giá,
bài bao khoa học, luận văn, đề án nghiên cứu, từ các nguồn khác nhau, các thông tin
về Ba Bể và các hoạt động du lịch ở Ba Bể đƣợc tập trung thu thập ở Sở
VHTT&DL tỉnh Bắc Kạn, Ban Quản lý VQG Ba Bể, v.v. Dựa trên nguồn thông
tin đó tác giả đã đánh giá, chọn lọc nội dung, thông tin, kinh nghiệm, so sánh,
bình luận, nhận định và trích dẫn trong luận văn.
Khảo sát thực địa: Các hoạt động nghiên cứu, đánh giá tại thực địa đã giúp tác
giả kiểm tra, đánh giá lại độ chính xác của các tƣ liệu, tài liệu và thu thập các số liệu
thực tế, các nguồn thông tin mới nhất mà các tài liệu chƣa cập nhật đƣợc. Khảo sát
thực địa đƣợc thực hiện thông qua các hoạt động thăm, quan sát, trải nghiệm và
đánh giá về hoạt động du lịch mạo hiểm tại Ba Bể. Tác giả đã tiến hành khảo sát
thực tế trên các tuyến du lịch chính đang đƣợc khai thác tại Ba Bể nhƣ:
1. Tuyến du lịch sông: Bến thuyền Buốc Lốm - Động Puông - Bản làng ven
sông Năng (Bản Cám, Bản Tàu) - Thác Đầu Đẳng.
2. Tuyến du lịch hồ: Hồ Ba Bể - Đảo Bà Goá - Đền An Mã - Ao Tiên.
8
3. Tuyến du lịch rừng: Đƣờng đi bộ trong rừng nguyên sinh VQG, các chòi
quan sát ngắm cảnh hồ, làng bản.
4. Tuyến du lịch làng bản ven hồ: Bản Pác Ngòi (Phía nam hồ) - Bản Bó Lù
(Phía Tây nam hồ) - Bản Cốc Tộc (Phía Tây nam hồ).
5. Các điểm tham quan du lịch lân cận hồ Ba Bể: Động Hua Mạ (Xã Quảng
Khê) - Thác Bạc (Xã Hoàng Trĩ).
Khảo sát ở các tuyến và điểm du lịch chính này nhằm tìm hiểu, đánh giá đƣợc
hiện trạng cơ sở hạ tầng – vật chất kĩ thuật, phƣơng thức tổ chức, hiệu quả và các
bất cập từ mô hình và cách quản lý vận hành các mô hình này.
Phương pháp điều tra xã hội học: Tác giả sử dụng phƣơng pháp điều tra xã
hội học để lấy ý kiến chủ quan của các đối tƣợng bằng những câu hỏi về nhu cầu
và mức độ hài lòng của đối tƣợng đƣợc khảo sát về du lịch mạo hiểm tại VQG
Ba Bể. Phƣơng pháp này đƣợc tiến hành với các giai đoạn nhƣ sau:
Giai đoạn 1: Lựa chọn nhóm đối tƣợng điều tra
Đối tƣợng tác giả lựa chọn là các bên liên quan tới hoạt động du lịch mạo
hiểm tại VQG Ba Bể. Tuy nhiên, việc am hiểu về tiềm năng và thực trạng của du
lịch mạo hiểm tại đây có thể khác nhau đối với từng nhóm đối tƣợng. Vì vậy, tác
giả đã phân khúc ra một số nhóm nhƣ sau:
- Những ngƣời làm công tác nghiên cứu, giảng dạy có hiểu biết sâu rộng về
du lịch mạo hiểm.
- Những ngƣời làm công tác tại ban quản lý và hƣớng dẫn viên tại địa
phƣơng tiến hành khảo sát.
- Ngƣời dân địa phƣơng sinh sống quanh khu vực nghiên cứu.
- Khách du lịch đến VQG Ba Bể.
Giai đoạn 2: Thực hiện khảo sát
9
Tác giả trực tiếp điều tra theo từng nhóm đối tƣợng dựa trên bảng hỏi (Xem
phụ lục 5, 7). Có 2 loại bảng hỏi đã đƣợc sử dụng là:
Bảng hỏi dành cho du khách (cho cả khách Việt Nam và khách nƣớc ngoài)
nhằm thu thập thông tin về những đánh giá, cảm nhận và góp ý của du khách về du
lịch mạo hiểm Ba Bể. Nội dung bảng hỏi gồm 2 phần chính: Phần thông tin của du
khách và đánh giá của du khách về du lịch mạo hiểm Ba Bể. Tổng số phiếu phát ra
là 60 phiếu, tổng số phiếu thu về là 52 phiếu (chiếm tỉ lệ 86,7%), số phiếu không
hợp lệ (không gửi lại hoặc không điền đầy đủ thông tin) là 8 phiếu (chiếm 13,3%).
Bảng hỏi dành cho ngƣời dân kinh doanh du lịch tại VQG Ba Bể nhằm thu
thập thông tin về nhận thức và nhu cầu của cộng đồng dân cƣ bản địa sinh sống
quanh khu vực nghiên cứu. Tổng số phiếu phát ra và thu về là 20 phiếu.
Nhờ sự giúp đỡ của ban quản lý và hƣớng dẫn viên tại VQG Ba Bể, tác giả đã
thu nhận đƣợc phần lớn bảng hỏi của du khách quốc tế. Theo tác giả nhận định, việc
tiếp cận với khách nội địa khó khăn hơn ngƣời nƣớc ngoài, bởi tính cách của ngƣời
Việt ngại hoặc chƣa quen với hoạt động cho ý kiến.
Giai đoạn 3: Tổng hợp và đƣa ra kết quả đánh giá
Sau khi tiến hành điều tra khảo sát, tác giả xử lý dữ liệu thu thập đƣợc để từ đó
đƣa ra các ý kiến mang tính khách quan nhất có thể. Để trình bày và xử lý những số
liệu điều tra, tác giả đã áp dụng phƣơng pháp tính tỉ lệ phần trăm. Phƣơng pháp này
đƣợc thực hiện qua việc lập bảng thống kê các số liệu thu đƣợc và tính tỉ lệ phần
trăm của các biến đƣợc chọn trong tổng số những ngƣời trả lời câu hỏi (áp dụng cho
những câu hỏi đƣợc soạn theo thang định danh nhƣ các câu hỏi về độ tuổi, giới tính,
v.v). Ngoài ra, việc sử dụng thang đo xếp hạng theo thứ tự cho biết đƣợc khoảng
cách giữa các thứ bậc. Ví dụ, khi đánh giá về tài nguyên du lịch, cơ sở hạ tầng – vật
chất kỹ thuật phục vụ du lịch mạo hiểm tại VQG Ba Bể, du khách sẽ đánh giá dựa
trên 5 mức độ: 1: Rất kém; 2: Kém; 3: Trung bình; 4: Tốt; 5: Rất tốt. Việc đánh giá
10
qua các mức độ của từng yếu tố giúp tác giả xác định mức độ giá trị, xếp hạng các
yếu tố và từ đó có thể rút ra nhận xét khách quan, khoa học.
Tham vấn chuyên gia: Trong quá trình thực hiện nghiên cứu, ngoài những
phƣơng pháp kể trên, tác giả cũng đã tiến hành lấy ý kiến của các hãng lữ hành, các
chuyên gia du lịch, các nhà quản lý tại VQG Ba Bể (phụ lục 8) về các vấn đề: Nhận
thức chung về du lịch mạo hiểm, những điều kiện thuận lợi, hiện trạng, tồn tại và
thách thức, các đề xuất, định hƣớng trong việc phát triển du lịch mạo hiểm tại VQG
Ba Bể.
5.2. Kế hoạch thực hiện luận văn
STT Thời gian thực Nội dung
hiện
1 15/8/2014 - Xác định tên đề tài và lập đề cƣơng chi tiết
15/09/2014
2 15/09/2014- Thu thập tài liệu
30/10/2014 - Những nghiên cứu trong nƣớc và nƣớc ngoài về du
lịch mạo hiểm
- Những tài liệu liên quan đến VQG Ba Bể.
3 30/10/2014- Khảo sát tại Ba Bể
09/11/2014 - Các điều kiện , thực trạng phát triển du lịch mạo hiểm
Ba Bể nhƣ tài nguyên du lịch, cơ sở hạ tầng, v.v.
09/11/20114- Thu thập ý kiến của các chuyên gia 4
15/12/2014
5 15/12/2014- Phân tích xử lý số liệu, tổng hợp tài liệu
15/02/2015
6 15/02/2015- Viết, chỉnh sửa và hoàn thiện luận văn
20/08/2015
11
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Ý nghĩa khoa học: Đề tài góp phần bổ xung cơ sở lý luận khoa học thực tiễn
cho việc phát triển loại hình du lịch mạo hiểm ở Việt Nam, đặc biệt là Ba Bể.
Ý nghĩa thực tiễn: Bƣớc đầu tìm hiểu về thực trạng và các kinh nghiệm thực
tế từ mô hình du lịch mạo hiểm ở Ba Bể với các kinh nghiệm, bài học thành công,
thất bại. Từ bài học và kinh nghiệm đó, đề xuất giải pháp nhằm phát triển, khai thác
hiệu quả hơn, nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các nhà quản lý, cộng đồng địa
phƣơng và du khách khi tham gia du lịch mạo hiểm tại Ba Bể.
7. Bố cục của luận văn
Luận văn gồm các phần chính sau:
Mở đầu
Chƣơng 1. Cơ sở lý luận và thực tiễn về du lịch mạo hiểm
Chƣơng 2. Điều kiện và thực trạng phát triển du lịch mạo hiểm tại VQG Ba Bể
Chƣơng 3. Một số giải pháp phát triển du lịch mạo hiểm tại VQG Ba Bể
Kết luận
Kiến nghị
Tài liệu tham khảo
Phụ lục
12
Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ
DU LỊCH MẠO HIỂM
1.1. Các khái niệm và cách tiếp cận
Theo Tổ chức Du lịch Thế giới (UNWTO), du lịch bao gồm tất cả mọi hoạt
động của những ngƣời du hành, tạm trú, trong mục đích tham quan, khám phá và
tìm hiểu, trải nghiệm hoặc trong mục đích nghỉ ngơi, giải trí, thƣ giãn cũng nhƣ
mục đích hành nghề và những mục đích khác nữa, trong thời gian liên tục nhƣng
không quá một năm, ở bên ngoài môi trƣờng sống định cƣ; nhƣng loại trừ các
chuyến du hành mà có mục đích chính là kiếm tiền. Còn lữ hành là việc thực hiện
chuyến đi từ nơi cƣ trú và làm việc thƣờng xuyên của con ngƣời đến một nơi khác
(Trần Đức Thanh, 2005). Nhƣ vậy, những chuyến đi không nhất thiết nhằm mục đích
nhằm những mục đích nhất định và những hoạt động phục vụ cho chuyến đi ấy
du lịch cũng đƣợc coi là chuyến lữ hành. Khái niệm “lữ hành” mở rộng hơn khái
niệm “du lịch” cả về nội hàm và ngoại diên của nó. Du lịch mạo hiểm là một
trong những loại hình du lịch đang thu hút sự quan tâm của nhiều du khách, đặc
biệt là những ngƣời ƣa khám phá, hoạt động mạo hiểm, gần gũi với thiên nhiên,
xu hƣớng hiểu và hòa mình với tự nhiên. Tuy nhiên, đây là một loại hình du
lịch còn mới, đang tiếp tục phát triển do đó thuật ngữ du lịch mạo hiểm vẫn
chƣa thực sự thống nhất và đƣợc hiểu theo nhiều cách với nhiều khái niệm.
Theo John Swarbrooke và cộng sự (2003), du lịch mạo hiểm là một hoạt động
giải trí, vì vậy có nhiều tên để chỉ loại hình du lịch này: sự mạo hiểm thú vị, hoạt
động giải trí mạo hiểm tự nhiên, sự theo đuổi những hoạt động ngoài trời, hoạt động
giải trí mạo hiểm, v.v.
Trong nghiên cứu của Millington (2001), ông cho rằng du lịch mạo hiểm là
một hoạt động giải trí đƣợc tổ chức tại một nơi xa nơi cƣ trú thƣờng xuyên, mới lạ
và hoang sơ, kết hợp với các hoạt động có mức độ vận động cao, chủ yếu là các
hoạt động ngoài trời. Ngƣời tham gia loại hình du lịch mạo hiểm mong muốn đƣợc
13
trải nghiệm sự mạo hiểm ở nhiều mức độ mạo hiểm khác nhau, cảm nhận sự thú vị,
tận hƣởng sự mới lạ và rèn luyện bản thân.
Muller & Cleaver (2000) đã đƣa ra một định nghĩa dƣới góc độ của những
ngƣời cung cấp dịch vụ rằng du lịch mạo hiểm đƣợc đặc trƣng bằng khả năng cung
cấp cho du khách các mức độ cảm nhận hào hứng thƣờng có đƣợc nhờ đƣa các
thành tố thực nghiệm có tính chất thách thức về mặt thể chất vào trải nghiệm của du
khách (thƣờng là ngắn). Trong định nghĩa này, các tác giả nhấn mạnh cảm nhận của
du khách thông qua việc tham gia trực tiếp vào các hoạt động đòi hỏi nỗ lực về mặt
thể chất để vƣợt qua một thách thức.
Theo Trƣơng Quang Hải (2006) thì “Du lịch mạo hiểm là một hoạt động
ngoài trời diễn ra ở nơi chúng ta không thƣờng xuyên tới hay ở một nơi đặc
biệt nào đó. Hoạt động này có thể dẫn đến một số rủi ro, song qua đấy chúng ta
có thể học đƣợc những kinh nghiệm mới để chế ngự chúng và vƣợt qua những
thử thách đối với bản thân” [21, tr.2].
Tác giả Phạm Trung Lƣơng (2008) trong báo cáo Cơ sở khoa học để phát
triển các sản phẩm du lịch thể thao mạo hiểm vùng núi phía bắc cho rằng “Du
lịch mạo hiểm là loại hình du lịch tại những khu vực tự nhiên còn tƣơng đối
hoang sơ, nơi du khách sẽ đƣợc thỏa mãn nhu cầu khám phá những điều không
ngờ tới cũng với những cảm xúc bị “đe dọa” bởi những hoạt động “mạo hiểm”
mà trƣớc đó họ chƣa thể hình dung đƣợc song đã tự nguyện chấp nhận tham
gia”[9, tr.18]. Ngoài ra, để làm rõ hơn nội hàm của khái niệm này, tác giả cũng
đồng thời đƣa ra khái niệm về du lịch thể thao – mạo hiểm: “Du lịch thể thao –
mạo hiểm là loại hình du lịch mang tính chất thể thao dựa vào việc khai thác các
giá trị tự nhiên có thể kết hợp với văn hóa địa phƣởng những khu vực còn tƣơng
đối hoang sơ, nhằm thỏa mãn nhu cầu tăng cƣờng sức khỏe và khám phá những
điều không ngờ tới với những cảm giác mạo hiểm”. Nhƣ vậy, du lịch mạo hiểm
thực chất là một phần nằm trong du lịch thể thao – mạo hiểm và cùng bao gồm
những yếu tố nỗ lực cao về mặt thể chất, tinh thần. Tuy nhiên du lịch mạo hiểm
14
chú trọng vào mục đích khám phá, vƣợt qua những khó khăn, thử thách, điều
kiện khắc nghiệt để đạt đƣợc cảm giác “mạo hiểm” còn du lịch thể thao – mạo
hiểm, ngoài mục đích trên còn hƣớng vào các hoạt động mang tính thể thao để
tăng cƣờng sức khỏe. Đây chính là dấu hiệu quan trọng để nhận biết sản phẩm
của 2 loại hình này.
Từ các định nghĩa, khái niệm, cách hiểu trên, có thể thấy rằng du lịch mạo
hiểm là loại hình du lịch trong đó cần có những đặc trƣng cụ thể sau đây: Tác động
linh hoạt, sự mạo hiểm, sự thách thức, tính mục đích, tính mới lạ, sự kích thích, sự
độc lập, sự thám hiểm và khám phá, sự say mê, sự trải nghiệm cảm xúc.
1.2. Đặc điểm của loại hình du lịch mạo hiểm
Du lịch mạo hiểm là một hình thức giải trí tạo cảm giác mạnh, có thể hoặc
không kết hợp việc di chuyển từ vùng nay sang vùng khác theo lịch trình, đòi hỏi
phải có sự nghiên cứu kĩ lƣỡng lịch trình chuyến đi và khu chọn làm địa điểm để
thực hiện chuyến đi, bởi trên nguyên tắc địa điểm đƣợc chọn phải đáp ứng đầy đủ
các tính chất phục vụ cho du lịch mạo hiểm (nhƣ tạo đƣợc thử thách cho du khách,
cảm giác gần gũi với thiên nhiên, gắn liền với văn hóa và phong tục địa phƣơng).
Không nhất thiết tất cả các chuyến mạo hiểm đều dựa vào thiên nhiên (trong
một vài trƣờng hợp có thể đƣợc tổ chức ở trong các thành phố lớn theo ý đồ của các
nhà tổ chức), đó có thể là sự kết hợp giữa các yếu tố mạo hiểm và giải trí ở các công
viên, cầu vƣợt trong thành phố hoặc là các trò chơi mang tính xếp hạng giữa các đội
chơi kết hợp với các yếu tố mạo hiểm.
Du lịch mạo hiểm rất an toàn khi có sự hỗ trợ của các trang thiết bị hiện đại,
và tùy theo mức độ hoạt động mà sự cần thiết của các trang thiết bị là khác nhau.
Nguồn nhân lực phục vụ loại hình du lịch mạo hiểm cần là những ngƣời có
trình độ chuyên môn, nghiệp vụ liên quan đến các loại hình du lịch này. Thông
thƣờng các hƣớng dẫn viên trong các tuyến, điểm du lịch mạo hiểm là các huấn
luyện viên cho các trò chơi, trải nghiệm, khám phá thử thách sẽ diễn ra trên tuyến.
15
Cũng nhƣ những loại hình khác, du lịch mạo hiểm cần có các sản phẩm và
dịch vụ đặc biệt dành riêng cho nó. Các sản phẩm dành cho du lịch mạo hiểm là các
trang thiết bị giúp du khách trải nghiệm đƣợc các hoạt động du lịch và công cụ để
đảm bảo an toàn cho du khách. Đối với các hoạt động trên cạn nhƣ đi bộ băng rừng,
leo vách núi cần dây leo, móc khóa, lều bạt, mũ bảo hiểm, các dụng cụ bảo vệ đầu
gối, cổ tay, máy bộ đàm, v.v. Các hoạt động trên không nhƣ nhảy dù, tàu lƣợn cần
mũ bảo hiểm, dù nhảy, các dụng cụ bảo về đầu, đầu gối khửu tay, v.v. Tùy theo các
hoạt động mà các thiết bị giống nhau đƣợc thiết kế khác nhau. Ví dụ, các công cụ để
tham gia các hoạt động khám phá dƣới nƣớc khác với trên cạn, mặc dù chúng có tên
gọi tƣơng tự (nhƣ mũ bảo hiểm các hoạt động leo núi khác với mũ bảo hiểm các
hoạt động dƣới nƣớc). Đối với du lịch mạo hiểm, yếu tố an toàn là yêu cầu quan
trọng nhất, trong đó bao gồm các dụng cụ cơ bản nhƣ hộp y tế và thông tin liên lạc
đơn giản, bên cạnh đó là các thiết bị chuyên dụng để trải nghiệm các hoạt động du
lịch cụ thể tại từng điểm.
Cơ sở nghỉ ngơi, lƣu trú dành cho loại hình du lịch mạo hiểm cũng rất phong
phú, có thể là các khách sạn đạt tiêu chuẩn, nhà dân hoặc chỉ là điểm cắm trại ngoài
trời để phù hợp với nhu cầu và ý thích của du khách. Các dịch vụ đi kèm nhƣ hƣớng
dẫn kỹ thuật, khuân vác, dẫn đƣờng, bán và cho thuê trang thiết bị, cứu hộ, v.v. luôn
là các gói dịch vụ cần có trong bất cứ loại hình nào của du lịch mạo hiểm.
1.3. Phân loại du lịch mạo hiểm
Trên thế giới, du lịch mạo hiểm đƣợc phân loại theo một số nhóm, mục tiêu,
đặc điểm chính nhƣ sau:
Phân loại theo mục đích chuyến đi
Phân loại theo mục đích chuyến đi có 2 loại: Du lịch với mục đích khám phá,
trải nghiệm; Du lịch với mục đích và khám phá, nghiên cứu của các nhà khoa học
qua việc thực hiên các chuyến khảo sát, phân tích, tìm hiểu các loài động, thực vật,
các hiện tƣợng trong tự nhiên.
Phân loại theo tính chất và đặc điểm
16
Phân loại theo tính chất và đặc điểm có 3 loại: Du lịch mạo hiểm trên cạn (leo
núi, khám phá hang động, đi bộ băng rừng); Du lịch mạo hiểm dƣới nƣớc (chèo
thuyền, vƣợt thác, lặn biển khám phá đại dƣơng); Du lịch mạo hiểm trên không
(nhảy dù, tàu bay, tàu lƣợn).
Phân loại theo mức độ mạo hiểm
Phân loại theo mức độ nguy hiểm có 3 loại: Loại hình có mức độ mạo hiểm
thấp (đi xe đạp địa hình, chèo thuyền, đi bộ băng rừng); Loại hình có mức độ mạo
hiểm trung bình (leo núi, chèo thuyền vƣợt thác); Loại hình có mức độ mạo hiểm
cao – đây là các hoạt động mang tính chất rủi ro cao hay địa điểm tổ chức là những
nơi có điều kiện tự nhiên khắc nghiệt (trƣợt tuyết trên miệng núi lửa ở Nhật Bản,
bay lƣợn trên không trung ở Brazil, nhảy xuống hồ cá mập ở Mexico, nhảy từ cao
ốc ở Dubai, leo núi băng ở Nepal).
Nhƣ vậy, sự phân loại du lịch mạo hiểm có thể dựa trên nhiều tiêu chí khác
nhau tùy theo mục đích, tính chất hay mức độ mạo hiểm.
1.4. Nguyên tắc phát triển sản phẩm du lịch mạo hiểm
Một số nguyên tắc đặc thù cần lƣu ý khi phát triển du lịch mạo hiểm gồm:
Tăng cƣờng các dịch vụ đảm bảo an toàn cho du khách, theo đó các dịch vụ
nhƣ huấn luyện, hƣớng dẫn, hỗ trợ an toàn phải đƣợc đƣa vào cấu thành chính mang
tính bắt buộc của sản phẩm du lịch mạo hiểm.
Ngoài các giá trị về tài nguyên nhƣ đặc điểm địa hình, độ cao, độ hoang sơ,
v.v. đóng vai trò chính ảnh hƣởng tới việc xây dựng các sản phẩm du lịch mạo
hiểm, cần chú trọng khai thác các giá trị văn hóa bản địa nhƣ sinh hoạt truyền thống
cộng đồng, kiến trúc nhà ở, văn nghệ dân gian, lễ hội truyền thống nhằm tạo sự
khác biệt và tăng tính hấp dẫn của sản phẩm.
Các sản phẩm du lịch mạo hiểm thƣờng đƣợc phát triển ở những khu vực
hoang sơ nên cần phát triển chúng theo nguyên tắc chỉ thỏa mãn nhu cầu của một
nhóm nhỏ du khách tại một thời điểm phù hợp với sức chứa của tài nguyên để giảm
thiểu tác động của hoạt động du lịch đến môi trƣờng. Đây là nguyên tắc quan trọng
17
đối với việc phát triển các loại hình du lịch dựa vào tự nhiên ở những khu vực
hoang sơ, nhạy cảm trƣớc những tác động của du lịch.
Chính vì thế, nếu đảm bảo những nguyên tắc cơ bản có tính đặc thù này sẽ
giúp xây dựng các sản phẩm du lịch mạo hiểm có tính hấp dẫn và tính cạnh tranh
cao, đáp ứng kỳ vọng của du khách.
1.5. Các điều kiện phát triển của du lịch mạo hiểm
Trong khi các loại hình du lịch tham quan, nghỉ dƣỡng, đòi hỏi hạ tầng cơ sở,
đặc biệt là hệ thống giao thông và cơ sở vật chất phục vụ du lịch đóng vai trò quan
trọng, thì đối với du lịch mạo hiểm những yếu tố trên ít có ảnh hƣởng. Trong nhiều
trƣờng hợp, sự khó khăn về hạ tầng và yếu kém về cơ sở vật chất lại là những yếu tố
góp phần làm tăng tính mạo hiểm của sản phẩm du lịch mạo hiểm mà du khách sẽ
trải nghiệm. Nhƣ vậy, đứng từ góc độ khái niệm về sản phẩm du lịch, có thể thấy có
những yếu tố cơ bản sau ảnh hƣởng tới sự phát triển của du lịch mạo hiểm.
1.5.1. Hệ thống tài nguyên du lịch
Tài nguyên du lịch đƣợc phân loại theo tài nguyên thiên nhiên gắn liền với các
yếu tố tự nhiên, và tài nguyên nhân văn gắn liền với các nhân tố về con ngƣời và xã
hội. Tuy nhiên vai trò của tài nguyên du lịch nhân văn không quyết định mà chỉ là
yếu tố bổ trợ quan trọng (Luật du lịch, 2005).
Cũng theo Luật du lịch (2005) thì tài nguyên du lịch là cảnh quan thiên nhiên,
di tích lịch sử, di tích cách mạng, giá trị nhân văn, công trình lao động sáng tạo của
con ngƣời có thể đƣợc sử dụng nhằm thoả mãn nhu cầu du lịch; là yếu tố cơ bản để
hình thành các điểm du lịch, khu du lịch nhằm tạo ra sự hấp dẫn du lịch.
Nhƣ vậy, tài nguyên du lịch đƣợc xem nhƣ tiền đề để phát triển sản phẩm du
lịch. Thực tế cho thấy, tài nguyên du lịch càng phong phú, càng đặc sắc bao nhiêu
thì sức hấp dẫn và hiệu quả hoạt động du lịch càng cao bấy nhiêu. Theo tác giả
Phạm Trung Lƣơng (2008) thì các dạng tài nguyên có thể khai thác để phát triển
loại hình du lịch mạo hiểm (DLMH) bao gồm :
18
Các dạng địa hình: Các dạng địa hình sử dụng để khai thác du lịch mạo hiểm
phải có các yếu tố phức tạp, hiểm trở về độ cao, độ dốc. Độ dốc càng lớn thì tính
mạo hiểm của sản phẩm du lịch tạo ra cũng sẽ càng lớn. Hiện nay, các tuyến du lịch
mạo hiểm (đi bộ mạo hiểm xuyên rừng, đi xe máy, xe đạp địa hình mạo hiểm, tàu
lƣợn) thƣờng đƣợc thiết kế ở những khu vực có độ dốc lớn nhằm khai thác tính
“mạo hiểm” ẩn chứa trong dạng tài nguyên này .
Ngoài ra, một dạng tài nguyên du lịch địa hình khác thƣờng đƣợc khai thác là
phần mở rộng chƣa đƣợc khám phá của hệ thống các hang động. “Những hang động
càng sâu, càng phức tạp (đƣợc cấu tạo hỗn hợp giữa 2 tính chất động thủy và động
khô) đƣợc quan tâm khai thác. Tất nhiên các giá trị cảnh quan, thẩm mỹ của hang
động cũng sẽ đóng vai trò quan trọng, tuy nhiên sẽ là thứ yếu nếu tài nguyên địa
hình này đƣợc khai thác cho mục đích du lịch mạo hiểm. Một dạng tài nguyên du
lịch địa hình khác hiện cũng thƣờng đƣợc khai thác cho mục đích du lịch mạo hiểm
là dạng địa hình sa mạc (hoặc bán hoang mạc) này chứa yếu tố chinh phục hấp dẫn
du khách” [9, tr.28].
Hệ thống sông, suối và hồ: Các đặc điểm về tốc độ dòng chảy và địa hình của
lòng sông, suối, thác ghềnh thƣờng đƣợc khai thác khi phát triển loại hình du lịch
mạo hiểm. Độ dốc, tốc độ dòng chảy càng lớn thì yếu tố mạo hiểm càng cao. Ngoài
đặc điểm cơ bản này, các giá trị cảnh quan xung quanh sẽ là yếu tố tài nguyên bổ
trợ quan trọng góp phần tạo nên tính hấp dẫn cho các hoạt động du lịch mạo hiểm.
Các giá trị cảnh quan, hệ sinh thái: Khi phân tích các dạng tài nguyên đƣợc sử
dụng phát triển các sản phẩm du lịch thể thao – mạo hiểm, tác giả Phạm Trung
Lƣơng (2008) cho rằng giá trị cảnh quan, hệ sinh thái tại các vƣờn quốc gia, khu
bảo tồn thiên nhiên (KBTTT) là dạng tài nguyên du lịch bổ trợ quan trọng. Thực tế
cho thấy các tuyến du lịch mạo hiểm ở vùng núi thƣờng đƣợc thiết kế đi qua các
khu vực có cảnh quan đẹp, hấp dẫn hay những vƣờn quốc gia (VQG), KBTTT có
các giá trị đa dạng sinh học cao. Nhƣ vậy, những giá trị tài nguyên này sẽ góp phần
không nhỏ tạo nên tính hấp dẫn của các sản phẩm du lịch mạo hiểm.
19
Các giá trị văn hóa bản địa: Tiêu biểu là phong tục tập quán, tín ngƣỡng, sinh
hoạt sản xuất truyền thống, tính quần cƣ, kiến trúc công trình đƣợc xem là dạng tài
nguyên du lịch bổ trợ quan trọng đối với du lịch mạo hiểm ở vùng núi. Một số nƣớc
phát triển du lịch mạo hiểm trên thế giới đã cho thấy rằng mức độ quan trọng của tài
nguyên du lịch chủ yếu trên đối với sự phát triển của loại hình du lịch mạo hiểm có
khác nhau. Cụ thể (theo thứ tự về mức độ quan trọng): Địa hình (độ cao, độ dốc,
hang động ); Hệ thống sông, suối và hồ; Các giá trị cảnh quan, hệ sinh thái; Các giá
trị văn hóa bản địa (Ralf Buckey, 2006).
Ngoài các yếu tố vừa nêu, còn có các điều kiện tự nhiên có ảnh hƣởng đến
hoạt động du lịch nói chung và du lịch mạo hiểm nói riêng nhƣ khí hậu, thời tiết, sự
an toàn và bất trắc của môi trƣờng tự nhiên.
Với các nguyên tắc và yêu cầu đó, Ba Bể đáp ứng gần nhƣ đầy đủ các điều
kiện cơ bản mà một điểm du lịch mạo hiểm cần có: Ở Ba Bể có sự hội tụ của sự đa
dạng của địa hình, sự phong phú của các loài, tính đa dạng của hệ thống thủy vực,
suối, hồ, sông với mức độ khó khăn của địa hình, sự phong phú về văn hóa và đời
sống của ngƣời dân địa phƣơng. Sự đa dạng và các tiềm năng đó cho thấy tiềm năng
thực sự và sự phù hợp của Ba Bể nhƣ một điểm lý tƣởng cho những du khách yêu
thích loại hình du lịch mạo hiểm và vấn đề làm thế nào, phát triển ra sao để phát
huy đƣợc các tiềm năng và thế mạnh đó.
1.5.2. Điều kiện kinh tế - xã hội
Sự phát triển của nền sản xuất xã hội có tầm quan trọng hàng đầu làm xuất
hiện nhu cầu du lịch và biến nhu cầu của con ngƣời thành hiện thực. Nền sản xuất
xã hội phát triển tạo điều kiện ra đời của nhiều nhân tố khác nhau nhƣ nhu cầu nghỉ
ngơi, giải trí, mức sống, mức thu nhập, thời gian rỗi rãi. Ở các nƣớc có nền kinh
tế chậm phát triển, nhìn chung nhu cầu nghỉ ngơi du lịch còn hạn chế, ngƣợc lại
nhu cầu nghỉ ngơi ở các nƣớc kinh tế phát triển rất đa dạng. Bên cạnh nhu cầu
giải trí cuối tuần, hàng năm ngƣời dân còn đòi hỏi những đợt nghỉ dài ngày ở
những vùng biển, trên núi, trong nƣớc hoặc nƣớc ngoài. Rõ ràng những nhu cầu
20
này phải dựa trên cơ sở vững chắc của nền sản xuất xã hội (Trần Thị Thúy Lan,
2005). Nhu cầu du lịch mạo hiểm cũng xuất phát từ các nƣớc phát triển, khi
ngƣời dân đã đƣợc đáp ứng đầy đủ các nhu cầu về xã hội, thì ngƣời ta sẽ tìm tới
những nhu cầu cao cấp hơn.
VQG Ba Bể có đặc điểm khá phức tạp về mặt quản lý do địa bàn rộng lớn
với 15 điểm dân cƣ (hơn 3000 ngƣời) sinh sống cả ngoài và trong vùng lõi. Nhìn
chung đời sống kinh tế của đồng bào sống trong vùng đang gặp nhiều khó khăn,
đặc biệt là trong vùng lõi. Tỷ lệ hộ đói nghèo chung cho các xã là 26.5%, tỷ lệ
ngƣời mù chữ ở độ tuổi 15 – 60 là 9.36%. Sức ép về phát triển kinh tế - xã hội và
nhu cầu lâm sản vào VQG là không nhỏ (khai thác và săn bắt động vật hoang dã,
xâm lấn đất đai, sử dụng chất nổ, xung điện đánh bắt cá ở vùng lòng hồ, v.v.).
Thực tế này đã ảnh hƣởng tới việc phát triển các loại hình dịch vụ nói chung
cũng nhƣ dịch vụ du lịch trên địa bàn
1.5.3. Điều kiện cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chất kỹ thuật
Điều kiện cơ sở hạ tầng
Cơ sở hạ tầng có vai trò quan trọng đối với việc phát triển du lịch nói chung và
du lịch mạo hiểm nói riêng, đặc biệt kết cấu hạ tầng du lịch là những nhân tố quan
trọng hàng đầu. Kết cấu hạ tầng du lịch bao gồm hệ thống giao thông, thông tin liên
lạc, hệ thống cung cấp điện, nƣớc và xử lý chất thải từ hoạt động du lịch. Giao
thông là một bộ phận của cơ sở hạ tầng kinh tế, nhƣng có những loại phƣơng tiện
giao thông sản xuất chỉ phục vụ riêng cho nhu cầu du lịch (Trần Thị Thúy Lan,
2005). Cũng nhƣ vậy, đối với du lịch mạo hiểm, giao thông là một điều kiện quan
trọng để du khách có thể tiếp cận tới nơi có các loại hình, hoạt động du lịch mạo
hiểm đang đƣợc khai thác.
Nhƣ vậy, cơ sở hạ tầng rất quan trọng trong phát triển du lịch. Tuy nhiên đối
với du lịch mạo hiểm nó không yêu cầu kết cấu hạ tầng du lịch ở những tiêu chuẩn
cao nhƣ đối với những loại hình du lịch khác (du lịch nghỉ dƣỡng, du lịch thăm
quan, du lịch kết hợp hội nghị, hội thảo, triển lãm, tổ chức sự kiện, du lịch khen
21
thƣởng v.v.). Đây là điều dễ hiểu bởi sự khó khăn, hạn chế đối với điều kiện trong
giao thông, nƣớc đƣợc xem nhƣ một phần không thể thiếu để kiểm chứng bản lĩnh
của du khách tham gia loại hình du lịch này. Nói một cách khác sự phát triển loại
hình và các sản phẩm du lịch mạo hiểm không nhất thiết phải là những điều kiện về
hạ tầng du lịch hoàn hảo. Tuy nhiên điều này không có nghĩa là điều kiện hạ tầng du
lịch mạo hiểm không cần phát triển.
Điều kiện cơ sở vật chất kỹ thuật
Cơ sở vật chất kỹ thuật đóng một vai trò quan trọng trong quá trình tạo ra và
khai thác sản phẩm du lịch cũng nhƣ quyết định mức độ hiệu quả khai thác các tiềm
năng du lịch nhằm thỏa mãn các nhu cầu của khách du lịch.
Du lịch là một ngành sản xuất nhiều và đa dạng về thể loại dịch vụ, hàng hóa
nhằm thỏa mãn nhu cầu của khách du lịch. Do vậy cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch
bao gồm nhiều thành phần khác nhau, nhƣ toàn bộ các phƣơng tiện vật chất tham
gia vào việc tạo ra và thực hiện dịch vụ hàng hóa du lịch nhằm đáp ứng mọi nhu cầu
của khách du lịch (các cơ sở lƣu trú, ăn uống, vui chơi giải trí, dịch vụ bổ sung
nhằm đáp ứng nhu cầu đa dạng của du khách).
Cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ du lịch mạo hiểm bao gồm hệ thống thống cơ
sở lƣu trú, các biển báo an toàn, sơ đồ chỉ đƣờng, các phƣơng tiện bổ trợ cho các
hoạt động du lịch mạo hiểm, v.v. Tuy nhiên tỷ trọng này trong thành phần các sản
phẩm du lịch thuộc các loại hình du lịch khác nhau sẽ khác nhau. Ví dụ: hệ thống
khách sạn, đặc biệt là các khách sạn cao cấp sẽ có vai trò rất quan trọng trong việc
phát triển các sản phẩm du lịch nghỉ dƣỡng chất lƣợng cao, các sản phẩm du lịch kết
hợp hội nghị, hội thảo, triển lãm, tổ chức sự kiện, du lịch khen thƣởng của các công
ty cho nhân viên (MICE). Tuy nhiên loại cơ sở vật chất kỹ thuật này lại không thật
sự cần thiết khi phát triển các sản phẩm du lịch sinh thái ở các khu bảo tồn thiên
nhiên hoặc du lịch làng quê, thiên nhiên. Đối với việc phát triển loại hình du lịch
mạo hiểm thì hệ thống cơ sở lƣu trú, đặc biệt tại các khu trung tâm, nơi xuất phát
của các chuyến du lịch mạo hiểm là cần thiết nhất. Đối với du lịch mạo hiểm, nhu
22
cầu lƣu trú ở các khách sạn cao cấp rất hạn chế. Do đó, điều kiện về cơ sở vật chất
kỹ thuật thƣờng không đƣợc đặt ra nhƣ một yêu cầu cấp thiết để phát triển loại hình
du lịch mạo hiểm. Tùy thuộc vào điều kiện của từng điểm, loại hình khai thác và
thời gian của chuyến du lịch mạo hiểm mà các cơ sở lƣu trú sẽ đƣợc bố trí trên
tuyến.
Tác giả Phạm Trung Lƣơng cho rằng “Ngoài các dịch vụ cơ bản có trong bất
cứ sản phẩm du lịch nào nhƣ dịch vụ lƣu trú, đi lại, ăn uống, v.v. Một số dịch vụ
đặc thù chủ yếu cần có và luôn đƣợc đƣa vào nhƣ một điều kiện cần khi khai thác
du lịch mạo hiểm bao gồm:
Dịch vụ huấn luyện: Nhằm trang bị cho du khách những kiến thức, kỹ năng cơ
bản để có thể làm chủ kỹ thuật, thiết bị, phƣơng tiện đƣợc sử dụng trong quá trình
tham gia vào các hoạt động du lịch mạo hiểm.
Dịch vụ hướng dẫn: Dịch vụ này thƣờng sẽ đặc biệt hơn so với dịch vụ hƣớng
dẫn ở những loại hình du lịch truyền thống nhƣ du lịch thăm quan, du lịch văn hóa.
Trong trƣờng hợp này ngƣời hƣớng dẫn viên không chỉ đơn thuần đƣợc trang bị tốt
những kiến thức về tự nhiên, văn hóa bản địa ở những khu vực diễn ra hoạt động du
lịch mạo hiểm, để đáp ứng yêu cầu tìm hiểu của du khách, họ còn cần đáp ứng nhu
cầu trợ giúp kỹ thuật, cứu trợ trong các trƣờng hợp khẩn cấp trong quá trình thực
hiện chƣơng trình du lịch mạo hiểm. Đối với hoạt động phát triển du lịch mạo hiểm,
ngƣời hƣớng dẫn viên (trong nhiều trƣờng hợp thực hiện cả vai trò huấn luyện viên)
đƣợc xem là yếu tố quan trọng có ý nghĩa đặc biệt đảm bảo sự thành công của các
hoạt động du lịch đó.
Dịch vụ ứng cứu: Du lịch mạo hiểm luôn chứa đựng những tình huống bất
ngờ, khó đoán trong quá trình thực hiện các hoạt động khám phá và thám hiểm.
Trong nhiều trƣờng hợp, du khách có thể cần sự hỗ trợ ứng cứu kịp thời để đảm bảo
sự an toàn cho bản thân và các thành viên khác trong đoàn. Chính vì thế, dịch vụ
ứng cứu luôn đƣợc xác định là quan trọng cùng với đó là các phƣơng tiện tìm kiếm,
cấp cứu phù hợp.
23
Dịch vụ bảo hiểm: Do tính đặc thù của du lịch mạo hiểm là luôn phải đối mặt
với những tình huống có thể nảy sinh ngoài ý muốn. Kết quả của tình trạng này có
thể ảnh hƣởng đến sức khoẻ, thậm chí tính mạng của khách du lịch, chính vì vậy
dịch vụ bảo hiểm là một dịch vụ rất quan trọng không thể thiếu trong việc phát triển
loại hình du lịch mạo hiểm [9, tr.31]”.
Một số hoạt động du lịch mạo hiểm đã đƣợc khai thác ở Ba Bể trong đó tập
trung vào việc khai thác các đặc điểm nổi trội nhƣ chèo thuyền vƣợt thác Đầu Đẳng,
đi bộ qua các dạng địa hình phức tạp trong vƣờn quốc gia. Tuy nhiên, các điều kiện
hỗ trợ phát triển du lịch nhƣ hệ thống cơ sở hạ tầng và trang thiết bị phục vụ cho các
hoạt động du lịch này vẫn còn thiếu và tƣơng đối đơn điệu. Hơn nữa, phần lớn các
nguyên tắc và yêu cầu cơ bản trên chƣa có kế hoạch phát triển. Có thể hoạt động du
lịch mạo hiểm ở Ba Bể chƣa thực sự đƣợc quan tâm phát triển nhƣ một hoạt động
mũi nhọn hoặc có thể du khách chƣa thực sự quan tâm tới các loại hình này. Do đó,
việc đầu tƣ, khai thác mới ở quy mô đó.
1.5.4. Các điều kiện khác
Đối tượng khách du lịch
Khách du lịch tham gia vào loại hình du lịch mạo hiểm không giống nhƣ
những loại hình khác. Để có thể tham gia vào loại hình du lịch mạo hiểm, đòi hỏi họ
phải có một số yếu tố nhất định, có sức khỏe, và mang trong mình sự yêu thích
khám phá tìm tòi. Khả năng tài chính cũng là yếu tố thúc đẩy du khách tham gia vào
các chƣơng trình du lịch mạo hiểm vì các hoạt động du lịch mạo hiểm cần có sự đầu
tƣ chuyên biệt về trang thiết bị và phƣơng tiện. Do đó giá thành thƣờng cao hơn so
với các loại hình du lịch khác và đối tƣợng khách cũng không phải đại trà nên chu
kì thu hồi vốn cũng lâu hơn.
Tính thời vụ
Có nhiều yếu tố ảnh hƣởng đến tính thời vụ du lịch nhƣ: khí hậu, thời gian rỗi,
phong tục tập quán. Điều đó cho thấy tính thời vụ là vấn đề tồn tại khách quan đối
24
với hoạt động du lịch. Đối với du lịch mạo hiểm thì yếu tố thời vụ cũng gây ra
những khó khăn nhất định cho các hoạt động mạo hiểm. Khí hậu mƣa hay nắng sẽ
ảnh hƣởng đến việc vƣợt ghềnh thác, hoặc đi xe đạp băng qua các cánh rừng, trƣợt
vách núi.
Tại Ba Bể, khí hậu có sự phân hóa theo mùa nên hoạt động du lịch vì thế mà
cũng mang tính thời vụ. Tuy nhiên, với thế mạnh về sự đa dạng của tài nguyên, đa
dạng về văn hóa, Ba Bể đã dần tạo cảm hứng khám phá cho du khách, đặc biệt là
đối tƣợng khách du lịch mạo hiểm giàu tiềm năng.
Thời gian rỗi
Một trong các tiêu chí đƣợc xác định trong định nghĩa du lịch là chuyến đi
thực hiện trong thời gian rỗi của con ngƣời. Trong điều kiện thƣ thái, du lịch sẽ đạt
đƣợc hiệu quả cao hơn, với nhiều cảm nhận và trải nghiệm thú vị hơn. Cũng giống
nhƣ các loại hình du lịch khác, khách du lịch mạo hiểm cũng cần có nhiều thời gian
để có thể tham gia vào các hoạt động. Thời gian ngắn, dài phụ thuộc vào các hoạt
động cụ thể trong các chuyến đi và loại hình tham gia. Do vậy thời gian là yếu tố và
là điều kiện cần thiết.
Bối cảnh quốc tế
Du lịch là chiếc cầu nối hòa bình giữa các dân tộc cũng nhƣ giúp cho các dân
tộc gần nhau hơn, hiểu hơn về giá trị văn hóa. Thế giới sẽ có những biến động về
kinh tế, chính trị, an ninh và an toàn dù lớn hay nhỏ đều ảnh hƣởng trực tiếp đến
hoạt động du lịch. Ổn định và an toàn là yếu tố có ý nghĩa rất lớn đối với du khách
và cơ quan cung ứng du lịch nói chung và du lịch mạo hiểm nói riêng.
Đối với Việt Nam, các yếu tố ổn định đang là động lực quan trọng lôi cuốn du
khách quốc tế. Đối với Ba Bể, tính đặc biệt của địa hình, cảnh quan sự đa dạng và
nguyên bản về văn hóa đang là những nét đặc sắc nổi bật nhất thu hút khách du lịch
tới đây.
25
1.6. Mối quan hệ giữa du lịch mạo hiểm và các loại hình du lịch khác
1.6.1. Du lịch thể thao và du lịch mạo hiểm
Du lịch thể thao thƣờng có mục đích chính là để thực hành hoặc cổ vũ cho các
hoạt động thể thao nhƣ thế vận hội, các giải thể thao. Thông thƣờng, những ngƣời
tham gia du lịch thể thao vừa là vận động viên vừa là khách du lịch. Họ có thể xem,
cổ vũ hoặc thi đấu các môn thể thao và phải sử dụng thành thạo các kỹ năng của
từng môn thể thao có trong chƣơng trình nhƣ đi bộ, đua xe đạp, trƣợt dây cáp, chèo
thuyền, leo núi, nhảy dù, đua ngựa. Tùy thuộc vào cách thức tham gia mà ta phân
loại du lịch thể thao thành hai loại là du lịch thể thao chủ động (du khách tham gia
trực tiếp vào các hoạt động thể thao nhƣ leo núi, bơi thuyền, lƣớt ván, săn bắn, câu
cá) hay du lịch thể thao bị động (bao gồm các cuộc hành trình du lịch để xem các
cuộc thi đấu thể thao, các cuộc biểu diễn, các thế vận hội). Du lịch thể thao không
nhất thiết đòi hỏi một khung cảnh thiên nhiên hay yếu tố mạo hiểm chính vì thế có
thể coi du lịch thể thao là một loại hình khác với du lịch mạo hiểm. Tuy nhiên, du
lịch thể thao lại có những yếu tố rất tƣơng đồng với du lịch mạo hiểm về những yếu
tố nỗ lực cao về mặt thể chất, tinh thần.
Nhƣ vậy, có thể thấy rằng có một mối quan hệ khá chặt chẽ giữa du lịch thể
thao và du lịch mạo hiểm. Khi kết hợp giữa du lịch thể thao và du lịch mạo hiểm, sẽ
có những đặc trƣng sau:
- Về phƣơng thức tổ chức: Các chuyến du lịch thể thao thƣờng đựơc tổ chức
thành một giải đua, thi đấu của các môn thể thao ngoài trời dựa vào tài nguyên thiên
nhiên nhƣ nhảy dù, tàu lƣợn, đi bộ, leo núi, khám phá hang động, đua ngựa, đua xe
đạp địa hình, leo vách đá, v.v.
- Về không gian tổ chức: Thƣờng diễn ra trong môi trƣờng tự nhiên hoang
sơ, đa dạng để có thể phát huy tối đa năng lực và kỹ năng cũng nhƣ kinh
nghiệm của du khách.
26
- Về mục đích của ngƣời tham gia: Đó là sự kết hợp giữa thể thao và khám
phá. Ngƣời tham gia có cơ hội khám phá không chỉ khả năng của bản thân mà còn
khám phá thiên nhiên kỳ bí cũng nhƣ những yếu tố văn hóa mới.
Ba Bể đã tổ chức một số giải đấu thể thao (nhƣ giải đua thuyền độc mộc tổ
chức vào tháng 3 hàng năm) nhƣng đây chỉ là các hoạt động đơn lẻ chƣa kết hợp
với phát triển du lịch nói chung và du lịch mạo hiểm nói riêng. Trong tƣơng lai, nếu
kết hợp đƣợc việc tổ chức các chuyến du lịch thể thao kết hợp yếu tố mạo hiểm
nhằm tăng tính trải nghiệm cũng nhƣ mang lại cho du khách những kinh nghiệm và
cảm nhận phong phú hơn, đây sẽ là một hƣớng phát triển mới cho du lịch Ba Bể.
1.6.2. Du lịch dựa vào tự nhiên, du lịch sinh thái và du lịch mạo hiểm
“Du lịch dựa vào thiên nhiên là một thuật ngữ rất rộng bao hàm bên trong nó
rất nhiều loại hình du lịch khác nhau thƣờng diễn ra trong khung cảnh tự nhiên
hoang sơ, chƣa bị làm biến đổi. Du lịch sinh thái chính là một trong những hình
thức đƣợc biết đến nhiều nhất. Du lịch sinh thái đƣợc coi nhƣ là loại hình du lịch có
tính bền vững nhất vì nó có tính giáo dục và bảo tồn cao. Càng ngày du lịch sinh
thái và du lịch mạo hiểm càng có những điểm tƣơng đồng, nhất là khi khoa học kỹ
thuật phát triển và đƣa vào ứng dụng những công nghệ mới gây tác động tối thiểu
đến môi trƣờng” [22, tr.34].
Tuy nhiên, khác với du lịch sinh thái, du lịch mạo hiểm không phải lúc nào
cũng tôn trọng môi trƣờng của khu vực tham quan. Du lịch mạo hiểm hƣớng vào sử
dụng khoảng không nhƣng không phải lúc nào cũng bảo vệ chúng. Du lịch mạo
hiểm hƣớng đến việc trải nghiệm, vƣợt qua các thách thức, vƣợt qua giới hạn của
bản thân chứ ít chú ý đến tìm hiểu môi trƣờng xung quanh.
Nghiên cứu của tác giả Trƣơng Thị Lan Hƣơng (2007) ở Lâm Đồng cũng cho
thấy sự khác biệt này:
27
Bảng 1.1. So sánh giữa du lịch sinh thái và du lịch mạo hiểm
Du lịch sinh thái Du lịch mạo hiểm
• Kinh nghiệm hƣớng vào thiên • Kinh nghiệm vận động
nhiên • Có tác động lên môi trƣờng
• Tác động tối thiểu • Thiên về kỹ năng, kỹ thuật
• Thiên về giáo dục • Kết hợp giữa công nghệ và
• Hƣớng vào các giá trị nội tại của thiên nhiên (trang thiết bị)
(Nguồn: Trương Thị Lan Hương, 2007)
thiên nhiên
Mối liên hệ giữa du lịch sinh thái và du lịch mạo hiểm tại Ba Bể đôi khi khó
phân biệt, có nhiều hoạt động của du lịch mạo hiểm đƣợc thực hiện theo cách tiếp
cận của du lịch sinh thái (nhƣ đi bộ băng rừng). Cho tới nay, chƣa có những đánh
giá đầy đủ về tiềm năng du lịch, cũng nhƣ quy hoạch phát triển du lịch sinh thái kết
hợp mạo hiểm cho VQG Ba Bể, dẫn tới sự phối hợp về các hoạt động dịch vụ du
lịch giữa VQG với các cơ sở du lịch trong khu vực còn thiếu, các hoạt động còn đơn
điệu. Để có cơ sở xây dựng các chƣơng trình phát triển du lịch sinh thái kết hợp du
lịch mạo hiểm, nhất thiết phải đánh giá đƣợc đầy đủ hiện trạng, tiềm năng du lịch về
các mặt tài nguyên và xây dựng các chƣơng trình du lịch cho phù hợp.
1.6.3. Du lịch văn hóa, du lịch dựa vào cộng đồng và du lịch mạo hiểm
Du lịch văn hóa là một trong những loại hình có tính hấp dẫn cao vì nó sử
dụng những giá trị văn hóa đậm đà bản sắc của địa phƣơng thông qua các vật dẫn
hoặc phƣơng thức biểu đạt, mang lại cho du khách cơ hội chiêm ngƣỡng, thử
nghiệm và cảm thụ. Việc hình thành văn hóa của từng dân tộc đều bắt nguồn từ các
điều kiện tự nhiên, xã hội của dân tộc đó nên có bản sắc rất riêng biệt. Chính vì thế,
khi đến một vùng đất nào đó, du khách thƣờng chú ý khám phá những điều mới mẻ, 28
khác biệt về văn hóa, và du lịch văn hóa cũng mang trong mình yếu tố khám phá.
Còn du lịch dựa vào cộng đồng là một xu hƣớng mới xuất hiện, khuyến khích sự
tham gia của ngƣời dân vào khai thác hoạt động du lịch một cách bền vững vì họ
chính là một phần của sản phẩm du lịch của điểm đến. Du lịch dựa vào cộng đồng
còn có ý nghĩa bảo tồn và chia sẻ lợi ích là những điều mấu chốt của phát triển bền
vững. Không có cộng đồng thì sẽ không có văn hoá. Do đó du lịch dựa vào cộng
đồng gắn liền với du lịch văn hóa. Du lịch mạo hiểm, ngoài ý nghĩa khám phá về
môi trƣờng thì còn có ý nghĩa khám phá về con ngƣời, về vùng đất nơi mình đến
thăm. Khi khám phá về văn hóa cũng nảy sinh rất nhiều yếu tố mạo hiểm. Có thể kể
đến sốc văn hóa của ngƣời vùng này khi sang một vùng khác. Đó cũng là một thách
thức có thật cần chinh phục.
Vài năm trở lại đây ngƣời dân ở Ba Bể (tại một số bản nhƣ Cốc Tộc, Pắc
Ngòi, Bó Lù) đã tham gia nhiều hơn vào hoạt động du lịch. Họ không chỉ cung cấp
dịch vụ lƣu trú, ăn uống mà còn là những hƣớng dẫn viên địa phƣơng đƣợc du
khách nƣớc ngoài tìm đến trong các hoạt động tìm hiểu, khám phá tại Ba Bể. Nhƣ
vậy, du lịch mạo hiểm không tách biệt mà nó nằm trong một mối quan hệ mật thiết
với du lịch văn hóa, du lịch dựa vào cộng đồng, mang lại cho du khách những cảm
nhận của sự chinh phục các thách thức và những kỹ năng cũng nhƣ kinh nghiệm
phong phú.
1.7. Thị trƣờng và đối tƣợng khách tham gia vào du lịch mạo hiểm
1.7.1. Thị trường khách du lịch mạo hiểm
Báo cáo “Nghiên cứu về thị trường du lịch mạo hiểm” của Hiệp hội Thƣơng
mại Du lịch Mạo hiểm (2013) đã nhận định thị trƣờng du lịch mạo hiểm là một
thị trƣờng có tốc độ phát triển gần nhƣ nhanh nhất trong những năm gần đây.
Cũng theo báo cáo này thì thị trƣờng dành cho du lịch mạo hiểm đã tăng lên đến
65% kể từ năm 2009. Bản báo cáo dựa trên cách thức so sánh trực tiếp giữa các
nghiên cứu và các bảng phân tích xu hƣớng tăng trƣởng của thị trƣờng du lịch
mạo hiểm. Ba khu vực đƣợc chú trọng là Châu Âu, Nam Mỹ và Bắc Mỹ chiếm
29
gần 70% các chuyến đi của toàn thế giới. Theo đó, khách du lịch mạo hiểm đã
chi hơn 345 tỉ đô la Mỹ cho các chi phí liên quan đến các chuyến du lịch mạo
hiểm của mình trong năm 2012.
Chƣơng trình Phát triển Năng lực Du lịch có Trách nhiệm với Môi trƣờng và
Xã hội (Dự án EU) do Liên minh Châu Âu tài trợ đã đề xuất “Chiến lược Marketing
Du lịch Việt Nam đến năm 2020 & kế hoạch hành động 2013 – 2015” trong đó xác
định một số thị trƣờng khách du lịch mạo hiểm chính ở Việt Nam là các thị trƣờng
Châu Âu bao gồm Đức, Ý, Tây Ban Nha và Bắc Mĩ bao gồm Mỹ, Canada. Tuy
nhiên, khách du lịch Châu Á nhƣ Nhật Bản và Hàn Quốc chƣa có những quan tâm
đến loại hình du lịch tiềm năng này.
Theo báo cáo “Phát triển du lịch sinh thái cho Ba Bể/ Na Hang” (Dự án
PARC, 2000) thì du lịch bắt đầu phát triển ở Ba Bể năm 1993 và tăng trƣởng đột
biến vào năm 1997. Ba Bể là điểm du lịch hấp dẫn nhất của tỉnh Bắc Kạn. Tại thời
điểm điều tra năm 1999, 100% khách du lịch quốc tế và 59% khách nội địa tới Bắc
Kạn để thăm Ba Bể, trong đó khách Pháp chiếm 50%, sau đó là các nƣớc Tây Âu
(Bỉ, Thụy Sĩ, Anh, Đức, Hà Lan, Ý, Tây Ban Nha) và một số khách tới từ Úc.
Đối với đối tƣợng khách trên, có thể nói Ba Bể là một thị trƣờng đầy tiềm
năng. Sở dĩ du lịch mạo hiểm Ba Bể có sức hấp dẫn với du khách Tây Âu, Bắc Mỹ
bởi mục đích đi du lịch của họ là khám phá và mở mang tri thức cho bản thân. Họ
thích khám phá những vùng đất hoang sơ, những trải nghiệm mới, nét văn hóa độc
đáo của các dân tộc. Vì vậy, họ thƣờng chọn những điểm đến có sự kết hợp giữa
yếu tố thiên nhiên và yếu tố con ngƣời.
1.7.2. Khách du lịch mạo hiểm
Khách du lịch là một thành phần không thể thiếu trong kinh doanh du lịch,
và đối với du lịch mạo hiểm thì khách du lịch càng đóng vai trò quan trọng. Hiện
nay con ngƣời đi du lịch theo xu hƣớng cá nhân nhỏ lẻ nhƣng chi tiêu cao. Con
30
ngƣời ngày càng tiến lên tầm cao mới, đời sống ngày càng đƣợc cải thiện dẫn
dến nhu cầu đi du lịch ngày càng nhiều, và xu hƣớng du lịch tìm về thiên nhiên
thƣởng ngoạn, giải trí, thử thách lòng can đảm đang trở thành “mốt” trong cuộc
sống hiện đại đầy cạnh tranh.
Cũng theo báo cáo“ Nghiên cứu về thị trường du lịch mạo hiểm 2013” thì
việc nhận thức về tự nhiên của du khách châu Á nói chung và Việt Nam nói
riêng vẫn còn hạn chế. Hầu nhƣ ngƣời Việt Nam chỉ tham gia nhiều vào các loại
hình du lịch thuần túy. Sau đây là một số đặc điểm của khách du lịch mạo hiểm
rút ra từ báo cáo:
Nhóm khách có độ tuổi trẻ từ 25-35 có độ quan tâm nhiều hơn so với nhóm
khách có độ tuổi cao hoặc ít tuổi hơn. Ở xu hƣớng du lịch mạo hiểm nhẹ có thể cao
hơn 55 tuổi. Tỷ lệ nam, nữ thay đổi theo hoạt động, những hoạt động nặng thu hút
giới trẻ và nam nhiều hơn (chiếm tới 87,6%).
42% khách du lịch tại Châu Âu, Nam và Bắc Mỹ cho biết họ có đi du lịch mạo
hiểm. Độ dài trung bình của một chuyến đi “mạo hiểm nhẹ” trong năm 2012 là 10
ngày so với chuyến đi 9 ngày năm 2009.
71% khách du lịch mạo hiểm có hộ chiếu hợp lệ. Một tỷ lệ nhỏ trong số họ đi
du lịch một mình, 21% đi du lịch với bạn bè, 37% với ngƣời phối ngẫu hoặc đối tác
và 30% với gia đình và con cái của họ.
Tính trung bình, chi tiêu của mỗi du khách trong chuyến đi du lịch mạo hiểm
(không bao gồm vé máy bay và thiết bị) tăng lên từ 593 đô la năm 2009 đến 947 đô
la trong năm 2012.
Xét về các điều kiện về tài nguyên du lịch, Ba Bể đƣợc đánh giá là một điểm
đến hấp dẫn. Tuy nhiên, số ngày lƣu trú của khách du lịch tại Ba Bể chƣa cao (trung
bình 2 đêm với khách quốc tế và 1 đêm với khách nội địa). Một trong những
nguyên nhân của tình trạng này là sự thiếu đa dạng của các loại hình du lịch. Khách
31
du lịch tới đây chủ yếu tham gia vào các hoạt động thăm quan hồ Ba Bể, thăm quan
bản làng. Trong khi đối tƣợng khách du lịch mạo hiểm luôn kì vọng sẽ có những
hoạt động bổ túc kinh nghiệm bởi sự phiêu lƣu, niềm thích thú và tìm kiếm sự nâng
cao kiến thức - sự hiểu biết cho bản thân. Vì vậy, nhìn chung tại Ba Bể chƣa khai
thác đƣợc thị trƣờng khách du lịch mạo hiểm có hiệu quả.
1.8. Thực tiễn tổ chức và khai thác du lịch mạo hiểm
1.8.1. Trên thế giới
Theo “Báo cáo phân ngành du lịch Pháp 2014” của tập đoàn tƣ vấn du lịch
IPK International thì Pháp là một thí dụ điển hình trong phát triển loại hình du lịch
mạo hiểm, luôn đứng trong tốp các điểm đến về du lịch mạo hiểm quốc tế trong
vòng 15 năm qua. Từ những năm 90 của thế kỷ XX, họ đã tổ chức thƣờng niên
chƣơng trình du lịch thể thao mạo hiểm nổi tiếng toàn cầu mang tên “Raid
Gauloises” đem lại nguồn thu lên tới hàng chục triệu USD mỗi năm. Báo cáo này
cũng đã chỉ ra trong năm 2014 có 14% du khách châu Âu chọn Pháp là điểm đến
trong kỳ nghỉ đông của họ ở châu Âu. Ngành du lịch Pháp chiếm 6,3% tổng sản
phẩm quốc nội và cung cấp 1,8 triệu việc làm trong nƣớc. Theo đó các sản phẩm,
dịch vụ chính của du lịch mạo hiểm Pháp bao gồm:
Đi xe đạp địa hình ở Burgundy
Leo núi ở dãy Alps
Trƣợt tuyết ở Chamrousse
Nhảy cầu ở Mediterranean
Bơi xuồng, bè mảng và chèo thuyền ở Dordogne
Lƣớt ván / Lƣớt sóng ở Côte d'Azur
Chính phủ Pháp đã xác định phát triển du lịch nói chung, du lịch mạo hiểm
khám phá nói riêng là ƣu tiên của quốc gia, kế hoạch chiến lƣợc tập trung vào 4
khía cạnh: Xúc tiến, tiếp cận, lòng hiếu khách và thích ứng với yêu cầu mới. Để
32
thực hiện định hƣớng chiến lƣợc này, chính phủ Pháp đã có những chính sách
khuyến khích các công ty du lịch xây dựng các chƣơng trình du lịch trên cơ sở khai
thác các giá trị tự nhiên hoang dã để phát triển loại hình du lịch mạo hiểm với sự hỗ
trợ của nhà nƣớc về các phƣơng tiện (cấp cứu bằng trực thăng, thông tin liên lạc,
định vị vị trí, v.v.) nhằm đảm bảo an toàn cho khách trong quá trình thực hiện các
chuyến du lịch đến các vùng rừng núi xa xôi, những thung lũng nhỏ áp sát bờ biển
(dãy Calanques), hay các đại dƣơng rộng lớn. Từ năm 2008, Pháp đã giành thị phần
từ các thị trƣờng gửi khách lớn nhƣ Đông Âu, Nga. Loại hình du lịch mạo hiểm
triển vọng trong tƣơng lai của thị trƣờng Pháp là đi xe đạp leo núi.
Du lịch là ngành công nghiệp dịch vụ lớn ở Thái Lan với dự báo đóng góp của
ngành du lịch với tổng sản phẩm nội địa của đất nƣớc (GDP) sẽ tăng trƣởng ở mức
10,4 % vào năm 2024 (World Travel Tourism Council, 2014). Địa hình đa dạng của
Thái Lan đem lại nhiều tiềm năng phát triển du lịch mạo hiểm ngoài trời. Các hoạt
động du lịch mạo hiểm chính ở Thái Lan bao gồm:
Đi xe đạp leo núi ở Chiang Mai
Lặn biển ở đảo Similan
Chèo thuyền Kayak ở vịnh Ko Tarutao,
Đu dây trong những cánh rừng già 1500 tuổi ở Chiang Mai
Trong chiến lƣợc phát triển du lịch của mình, Thái Lan tập trung vào 2 hƣớng
ƣu tiên chính là bảo vệ và bảo tồn các nguồn tài nguyên phục vụ phát triển bền vững
lâu dài thông qua ƣu tiên phát triển các loại hình du lịch thân thiện với môi trƣờng
nhƣ du lịch sinh thái, du lịch mạo hiểm. Đây là chiến lƣợc phát triển du lịch lâu dài,
bền vững của Thái Lan trong mối quan hệ với những loại hình du lịch ƣu tiên, trong
đó có du lịch mạo hiểm. Trong hƣớng ƣu tiên thứ nhất thì Thái Lan coi việc khám
phá những vùng đất mới lạ với những cảm xúc đặc biệt song hành cùng việc nâng
cao trách nhiệm bảo tồn các giá trị tài nguyên tự nhiên, văn hóa bản địa, trong đó
33
ngƣời dân địa phƣơng là trọng tâm sẽ là yếu tố nền tảng cho mọi kế hoạch phát triển
hay xúc tiến du lịch.
Trong hƣớng ƣu tiên thứ hai thì mục tiêu dài hạn là phát triển một hình ảnh
riêng, đặc thù, với các chuẩn mực đã đƣợc thừa nhận trên thế giới. Để làm đƣợc
điều này, Thái Lan xác định phải tập trung vào 3 hƣớng gồm phát triển các điểm,
địa danh du lịch chất lƣợng; nâng cao chất lƣợng dịch vụ và nâng cao chất lƣợng về
môi trƣờng. Cơ quan chịu trách nhiệm phát triển, nâng cao vai trò của du lịch đối
với quốc gia là Cơ quan Du lịch Thái Lan, viết tắt là TAT (Tourism Authority of
Thailand). Ở cấp độ địa phƣơng, TAT đặc biệt hỗ trợ các cộng đồng bản địa trong
việc duy trì sức hấp dẫn của các điểm tham quan du lịch. Bên cạnh các thành phố
lớn, các khu du lịch nổi tiếng thì để phát triển du lịch bền vững đòi hỏi có sự hỗ trợ
mang tính chuyên nghiệp từ các địa phƣơng khác. Ngoài ra TAT còn đảm bảo các
cơ quan nhà nƣớc, các viện nghiên cứu và các tổ chức khác cùng tích cực tham gia
vào mọi khía cạnh của việc quy hoạch, điều phối và triển khai các chiến lƣợc phát
triển du lịch của quốc gia.
Chính sách du lịch của các nƣớc tuy có những nét khác nhau, nhƣng có thể
thấy có những nét chung nhất định thể hiện ở hƣớng ƣu tiên phát triển đối với
những loại hình du lịch thân thiện với môi trƣờng, văn hóa bản địa và đề cao vai trò
của những bên tham gia vào hoạt động du lịch nhằm hƣớng tới du lịch bền vững.
1.8.2. Các kinh nghiệm của Việt Nam
Mặc dù Việt Nam đƣợc đánh giá là đất nƣớc có nhiều tiềm năng phát triển du
lịch mạo hiểm, tuy nhiên du lịch mạo hiểm ở Việt Nam hiện đƣợc xem là loại hình
du lịch còn mới cả về lý luận và thực tiễn. Điều này thể hiện rõ ràng qua việc điều
tra tổng quan việc xây dựng và chào bán các sản phẩm du lịch của phần lớn các
công ty lữ hành lớn, có uy tín ở Việt Nam nhƣ công ty du lịch Vietnamtourism tại
Hà Nội, Đà Nẵng, TP. Hồ Chí Minh, tổng Công ty du lịch SaigonTourist, Công ty
du lịch Bến Thành. Tỷ lệ các chƣơng trình du lịch có tính mạo hiểm chiếm tỷ lệ rất 34
thấp – khoảng 3-5% [3, tr.8]. Hiện nay, các công ty du lịch ở Việt Nam mới chú
trọng xây dựng và chào bán các sản phẩm du lịch thuộc các nhóm du lịch tham quan
(danh thắng, các di sản thế giới, các di tích lịch sử, văn hóa,v.v. ), du lịch nghỉ
dƣỡng (tại các khu du lịch ven biển, các khu vực có nƣớc khoáng nóng,v.v. ), du
lịch lễ hội và du lịch làng nghề.
Các công ty khai thác du lịch mạo hiểm chƣa có nhiều và đa phần là phục vụ
khách nƣớc ngoài. Có thể kể đến một số công ty lớn nhƣ Lửa Việt, Hồng Bàng,
Fiditourist khai thác tuyến leo núi, đi bộ xuyên rừng tại Đà Lạt, còn các tuyến chinh
phục đỉnh FanxiPang, xe máy vòng cung Tây - Đông Bắc đa phần do các văn phòng
du lịch nhỏ thực hiện. Một số công ty khai thác du lịch mạo hiểm ở miền Bắc phải
kể đến Topas travel, Handspan travel, Footprint, Bufalo, Marco Polo, Sinh travel
(Sinh cafe), Exotissimo. Để tổ chức một chƣơng trình du lịch mạo hiểm phức tạp
hơn rất nhiều so với du lịch nghỉ dƣỡng, tham quan đơn thuần, bởi vậy một công ty
lữ hành khi thâm nhập vào lĩnh vực này phải chuẩn bị, xây dựng chiến lƣợc, kế
hoạch lâu dài, kỹ lƣỡng, từ việc khảo sát hành trình, thiết kế chƣơng trình du lịch,
đầu tƣ nhân lực cho đến các bài toán kinh phí.
Năm 2002, Công ty Du lịch Việt Nam tại Hà Nội đã tổ chức chƣơng trình du
lịch thể thao mạo hiểm mang tên “Raid Gauloises” với sự tham gia của trên 800
khách du lịch quốc tế thuộc 17 quốc gia kéo dài 14 ngày tại 9 tỉnh vùng núi Đông
Bắc Việt Nam. Qua chƣơng trình này, khách du lịch đã đƣợc tham gia rất nhiều loại
hình du lịch mạo hiểm nhƣ đi bộ băng rừng, leo núi, vƣợt thác, chèo bè mảng, đi
thuyền cao su và thuyền nan trên suối, hồ ở vùng núi, đi xe đạp đổ đèo. Chƣơng
trình trên đã đƣợc các hãng truyền hình thể thao lớn và có uy tín trên thế giới đƣa
tin và truyền hình trực tiếp, góp phần quảng bá hiệu quả về du lịch Việt Nam nói
chung và du lịch mạo hiểm ở Việt Nam nói riêng trên thị trƣờng quốc tế. Đây là một
chƣơng trình hiệu quả và có ý nghĩa.
35
Năm 2004, Saigontourist hợp tác với Công ty Saffron Road Tours (Úc) tổ
chức chuyến du lịch dã ngoại bằng môtô (từ 175 đến 750 phân khối) xuyên Việt đầu
tiên mang tên "Saffron Road Vietnam Tour 2004" cho 19 khách Úc, Mỹ, Ailen.
Trong tour này khách du lịch có dịp khám phá hầu hết các địa danh du lịch nổi tiếng
của Việt Nam nhƣ TP Hồ Chí Minh, Cần Thơ, Đà Lạt, Nha Trang, Buôn Mê Thuột,
Hội An, Huế, Hà Nội, Sapa, Hạ Long. Khách du lịch không chỉ đƣợc ngắm cảnh
thiên nhiên mà còn tham gia sinh hoạt cùng với ngƣời dân địa phƣơng ở một số nơi
nhƣ Sapa, Cần Thơ. Đây là đợt thử nghiệm để chuẩn bị thực hiện triển khai dự án
phát triển các chƣơng trình du lịch mạo hiểm tại Việt Nam của Saigontourist.
Lào Cai đƣợc coi là một trong các tỉnh có sự phát triển mạnh trong hoạt động
du lịch mạo hiểm, trong đó Fansipan - ngọn núi cao nhất Đông Dƣơng hay khu rừng
quốc gia Hoàng Liên Sơn đƣợc coi là điểm đến ƣa thích của khách du lịch trong
nƣớc và quốc tế. Thế mạnh của Lào Cai trong du lịch là khai thác sự đa dạng của tài
nguyên du lịch tự nhiên và yếu tố giàu sắc thái văn hoá của các dân tộc. Tại đây, du
lịch mạo hiểm đƣợc phát triển trong những điều kiện thuận lợi về sự ƣu tiên trong
chính sách, hợp tác cả ở quy mô quốc tế cũng nhƣ địa phƣơng. Nhiều thủ tục hành
chính tại cửa khẩu biên giới đƣợc đơn giản hoá tạo điều kiện cho khách du lịch có
thể qua lại cửa khẩu dễ dàng hơn. Các nhà đầu tƣ và doanh nghiệp trong và ngoài
ngành du lịch đƣợc mời chào với những ƣu đãi thuận lợi. Hệ thống cơ sở giao thông
đặc biệt là đƣợc sắt và hệ thống quốc lộ nối Lào Cai với Hà Nội đƣợc cải thiện và
nâng cấp đáng kể. Tuyến đƣờng sắt Hà Nội – Lào Cai đƣợc ƣu tiên khai thác các
chuyến tàu du lịch, có sự tham gia khai thác của các đơn vị kinh doanh lữ hành.
Thành công của việc khai thác du lịch mạo hiểm tại Lào Cai là đƣa du lịch đến với
ngƣời dân, lôi kéo họ trực tiếp tham gia và quan trọng nhất là đƣợc chia sẻ những
lợi ích từ du lịch. Bên cạnh những thành công đó, cũng không thể bỏ qua những
thiếu sót và hạn chế mà du lịch tỉnh Lào Cai chƣa thể giải quyết. Đó là vấn đề an
toàn trong quản lý điểm đến, đó là sự chồng chéo và tƣơng đồng về sản phẩm du
lịch giữa Lào Cai với các tỉnh lân cận.
36
Đƣợc biết đến gần đây là một điểm du lịch mạo hiểm đầy hấp dẫn, VQG
Phong Nha – Kẻ Bàng đang lên kế hoạch khai thác thử nghiệm tuyến du lịch mạo
hiểm hang Sơn Đoòng. Theo đó, Công ty Lữ hành quốc tế Oxalis (Quảng Bình) là
đơn vị đƣợc phép khai thác tuyến du lịch mạo hiểm vào hang động lớn nhất thế giới
này. Mặc dù mới đƣợc đƣa vào hoạt động nhƣng công tác tổ chức du lịch mạo hiểm
đã thể hiện tính chuyên nghiệp và có sự đầu tƣ. Do những quy định nghiêm ngặt của
việc khai thác đi đôi với bảo tồn nên mỗi chuyến du lịch mạo hiểm tại Sơn Đoòng
chỉ có 8 – 10 khách du lịch, trong khi đội ngũ phục vụ lên đến 30 ngƣời: 2 chuyên
gia hang động từ Anh, 1 hƣớng dẫn viên, 2 trợ lý an toàn, 2 đầu bếp, 1 trƣởng nhóm
khuân vác, 2 kiểm lâm giám sát, và 20 ngƣời khuân vác thiết bị an toàn, cắm trại, và
thực phẩm. Tất cả du khách khi đăng ký đều đƣợc yêu cầu trả lời thật trong bảng
câu hỏi về sức khỏe, đƣợc các chuyên gia y tế kiểm tra nhịp tim và huyết áp kỹ
lƣỡng, nếu đạt thì mới đƣợc chấp nhận. Theo thống kê của Sở Văn hóa Thể thao &
Du lịch tỉnh Quảng Bình, trong 9 tháng đầu năm 2014, tỉnh Quảng Bình đón gần 2,6
triệu lƣợt khách, tăng hơn 130% so với cùng kỳ, trong đó khách quốc tế đạt 36,3
ngàn lƣợt, tăng 27,5%; khách du lịch lữ hành đạt 650,7 ngàn lƣợt, tăng 39,8% so
cùng kỳ. Về hình ảnh điểm đến, có thể nói không nhiều điểm đến ở Việt Nam xây
dựng chiến dịch quảng bá quy mô nhƣ ở Phong Nha – Kẻ Bàng. Rất nhiều báo chí
trong nuớc và quốc tế và đã phối hợp truyền thông đƣa Sơn Đoòng trở thành tuyến
du lịch đẳng cấp thế giới.
Từ kinh nghiệm thực tế từ hoạt động tổ chức một số chƣơng trình du lịch mạo
hiểm ở Việt Nam thời gian qua cho thấy những vấn đề chủ yếu sau:
(i) Việt Nam có nhiều tiềm năng để phát triển du lịch mạo hiểm với nhiều sản
phẩm hấp dẫn. Phát triển các sản phẩm du lịch mạo hiểm đặc thù không chỉ làm
tăng tính hấp dẫn mà còn góp phần tích cực vào phát triển cộng đồng hƣớng tới phát
triển bền vững.
37
(ii) Du lịch mạo hiểm đòi hỏi các nhà tổ chức kinh nghiệm và tính chuyên
nghiệp cao. Đây là vấn đề mà các doanh nghiệp du lịch Việt Nam còn yếu ở khâu tổ
chức và phát triển sản phẩm. Thực tế ngay cả các công ty lữ hành lớn trong nƣớc
cũng không thể tự đứng ra tổ chức chƣơng trình du lịch mạo hiểm để chào bán mà
phải phối hợp hoặc để cho các công ty nƣớc ngoài vào khai thác.
(iii) Hƣớng dẫn viên chuyên nghiệp là yếu tố quan trọng để cấu thành một sản
phẩm du lịch mạo hiểm. Hiện ở Việt Nam những hƣớng dẫn viên có tính chuyên
nghiệp nhƣ vậy còn thiếu và yếu. Vấn đề đào tạo đội ngũ hƣớng dẫn viên/ huấn
luyện viên để đáp ứng nhu cầu phát triển của loại hình du lịch đặc thù này là rất
quan trọng.
Ngoài ra để phát triển du lịch mạo hiểm ở Việt Nam, cần có thêm môi trƣờng
và chính sách pháp lý phù hợp. Cụ thể là đơn giản hóa các thủ tục hành chính, tạo
điều kiện trong quá trình cấp phép cho các doanh nghiệp tham gia khai thác các
chƣơng trình, các tuyến du lịch mạo hiểm. Một khi tạo đƣợc hành lang pháp lý
thông thoáng, các doanh nghiệp lữ hành mới mạnh dạn khai thác những sản phẩm
du lịch mạo hiểm hấp dẫn và có sức cạnh tranh.
Nhƣ vậy, qua những kinh nghiệm phát triển du lịch mạo hiểm trên thế giới và
Việt Nam, Ba Bể cần rút ra bài học kinh nghiệm cho mình. Trƣớc tiên về vấn đề
nhận thức, chính quyền cần xác định phát triển du lịch mạo hiểm là vấn đề cần thiết
khi Ba Bể có đầy đủ các điều kiện phát triển loại hình du lịch này. Từ đó cần có
những quy hoạch cụ thể về khu vực, tuyến điểm, xây dựng sản phẩm, thu hút đầu
tƣ, v.v. Tiếp đến để khai thác có hiệu quả cần chú trọng vào việc quảng bá, liên kết
tạo cho mình một thƣơng hiệu riêng của “du lịch mạo hiểm Ba Bể”
38
Tiểu kết chƣơng 1
Trên cơ sở tổng quan những tài liệu, nghiên cứu về du lịch mạo hiểm, đề tài
bƣớc đầu phân tích các khái niệm, đặc điểm, nguyên tắc phát triển, xét mối liên hệ
giữa du lịch mạo hiểm và một số loại hình du lịch khác. Đặc biệt, những kinh
nghiệm phát triển du lịch mạo hiểm trên thế giới và Việt Nam đã tô đậm sự khác
biệt trong cách thức tổ chức du lịch mạo hiểm tại từng quốc gia, từng khu vực.
Những vấn đề này đƣợc nhìn nhận, đánh giá dƣới góc độ thành công và hạn chế để
làm cơ sở cho những bài học kinh nghiệm áp dụng trong điều kiện thực tiễn ở VQG
Ba Bể.
39
Chƣơng 2. ĐIỀU KIỆN VÀ THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN DU
LỊCH MẠO HIỂM TẠI VƢỜN QUỐC GIA BA BỂ
2.1. Khái quát về vƣờn quốc gia Ba Bể
2.1.1. Vị trí địa lý
VQG Ba Bể nằm ở phía tây bắc huyện Ba Bể, cách thị xã Bắc Kạn 68 km theo
hƣớng Tây – Bắc, cách Thủ đô Hà Nội 260 km về phía Bắc.VQG Ba Bể mở rộng
bao gồm vùng bảo vệ nghiêm ngặt và vùng đệm nằm ở các xã Nam Mẫu, Khang
Ninh, Cao Thƣợng, Quảng Khê, Cao Trĩ thuộc vùng núi đá vôi xen kẽ các thung
lũng đất hẹp thuộc huyện Ba Bể, tỉnh Bắc Kạn. VQG Ba Bể nằm trên trục đƣờng
Hà Nội - Cao Bằng là một trong các tuyến giao thông quan trọng Quốc gia.
VQG Ba Bể có ranh giới nhƣ sau:
+ Phía Đông và Bắc: Giáp các xã Cao Thƣợng, Cao Trĩ và Khang Ninh (huyện
Ba Bể), xã Yến Dƣơng, Chu Hƣơng (huyện Chợ Đồn).
+ Phía Tây và Nam là ranh giới hai tỉnh Bắc Kạn, Tuyên Quang và giáp
các xã Quảng Khê, Nam Cƣờng, Xuân Lạc (huyện Chợ Đồn), Đà Vị ( Na Hang-
Tuyên Quang).
Với vị trí nằm trong khu du lịch vùng Đông Bắc Việt Nam, tiếp giáp khu
di tích lịch sử ATK (huyện Chợ Đồn), khu di tích Nà Tu (Cẩm Giàng), di tích
danh lam thắng cảnh cấp Quốc gia Động Nàng Tiên (huyện Na Rì), khu bảo tồn
thiên nhiên Na Hang (tỉnh Tuyên Quang), xa hơn là khu di tích lịch sử Pắc Bó,
Thác Bản Giốc (tỉnh Cao Bằng), VQG Ba Bể có thêm nhiều điều kiện thuận lợi
để phát triển du lịch.
2.1.2. Lịch sử hình thành
Lịch sử hình thành VQG Ba Bể đƣợc tính từ năm 1977 theo Quyết Định số
41-TTg ngày 24/1/1977 của Thủ tƣớng Chính phủ chính thức công nhận Ba Bể là
khu văn hoá lịch sử. Quan điểm trên đƣợc tái khẳng định trong Nghị định 194/CP,
ngày 9/8/1986 giao cho Bộ Lâm Nghiệp và các cơ quan chức năng tiến hành khảo
sát và xây dựng dự án đầu tƣ cho Ba Bể thành vƣờn quốc gia.
40
VQG Ba Bể đƣợc chính thức thành lập từ 10/11/1992 theo quyết định số
83/TTg của Thủ tƣớng Chính phủ. Chức năng nhiệm vụ của VQG Ba Bể là: Bảo
tồn các nguồn gen động, thực vật, các hệ sinh thái, cảnh quan môi trƣờng; Tổ chức,
quản lý, phục vụ nghiên cứu khoa học, du lịch dịch vụ. Về cơ cấu tổ chức, VQG Ba
Bể (trực thuộc Uỷ ban nhân dân tỉnh Bắc Kạn) gồm: Ban Giám đốc; Phòng Tổ chức
– Hành chính; Phòng Tài chính - Kế toán; Phòng Khoa học - Kỹ thuật; Hạt Kiểm
lâm; Trung tâm du lịch sinh thái và giáo dục môi trƣờng.
Trƣớc đây, VQG Ba Bể thuộc tỉnh Cao Bằng, sau khi tái lập tỉnh, VQG Ba Bể
nằm trên địa bàn tỉnh Bắc Kạn (1997). Từ năm 1997 đến năm 2002, VQG Ba Bể
chịu sự quản lý trực tiếp của Bộ Nông Nghiệp & Phát triển Nông thôn. Đến cuối
năm 2002, VQG Ba Bể đƣợc giao cho UBND tỉnh Bắc Kạn quản lý (Quyết định số
51/2002/QĐ-TTg ngày 17/4/2002 của Thủ tƣớng Chính phủ về việc chuyển VQG
Ba Bể thuộc Bộ NN & PTNT về UBND tỉnh Bắc Kạn quản lý).
Trong kế hoạch Hành động Đa dạng Sinh học (1994) đã đề xuất mở rộng
VQG Ba Bể lên 50.000 ha. Năm 1995, dự án đầu tƣ mở rộng VQG Ba Bể đƣợc xây
dựng với diện tích đề nghị là 23.340 ha. Năm 2014, Thủ tƣớng Chính phủ đã phê
duyệt “Quy hoạch hệ thống rừng đặc dụng cả nước đến năm 2020, tầm nhìn đến
năm 2030”, trong đó diện tích của VQG Ba Bể là 10.048 ha (bao gồm phân khu bảo
vệ nghiêm ngặt: 3.931 ha; Phục hồi sinh thái: 6.083ha; dịch vụ hành chính: 34 ha).
Năm 1995, tại Hội nghị Hồ nƣớc ngọt thế giới tổ chức tại Mỹ, hồ Ba Bể đƣợc
công nhận là một trong 20 hồ nƣớc ngọt cần đƣợc bảo vệ. Tháng 12 năm 2003,
VQG Ba Bể đƣợc công nhận là vƣờn di sản ASEAN. Ngày 02/02/2011, Ba Bể
chính thức đƣợc công nhận là khu Ramsar thứ 3 của Việt Nam, sau Xuân Thủy
(Nam Định) và Bàu Sấu (Đồng Nai). Hiện Việt Nam đang đề nghị UNESCO đƣa
VQG Ba Bể vào danh sách di sản thiên nhiên thế giới với 2 giá trị lớn nhất về cảnh
quan địa chất độc đáo và giá trị nổi bật về địa chất địa mạo.
41
2.1.3. Sơ lược về hoạt động du lịch tại vườn quốc gia Ba Bể
Tỉ lệ 1/100 000
(Nguồn: BQL VQG Ba Bể, 2014)
Sơ đồ 2.1. Bản đồ du lịch tại VQG Ba Bể
42
VQG Ba Bể là nơi có nguồn tài nguyên tự nhiên đa dạng và phong phú với
nhiều loại hình du lịch nhƣ tham quan, nghỉ dƣỡng, mạo hiểm, v.v. đã và đang đƣợc
khai thác cho hoạt động du lịch. Không chỉ có vẻ đẹp hoang sơ mà Ba Bể còn là nơi
hội tụ nhiều nền văn hóa phong phú và đặc sắc. Những nét sinh hoạt văn hóa của
đồng bào Tày, Dao, Mông với các làn điệu dân ca nhƣ hát Then, Sli, Lƣợn, múa
khèn, các lễ hội truyền thống (hội Lồng tồng, hội xuân), trò chơi dân gian (đua
thuyền độc mộc, chọi bò, võ dân tộc, bắn cung, bắn nỏ) đã tạo nên sự hấp dẫn,
khiến nơi đây thu hút đƣợc một lƣợng khách du lịch nhất định.
34621
32864
28964
Khách quốc tế
Khách nội địa
Tổng lƣợt khách
40000 35000 30000 25000 20000 15000 10000 5000 0
Khách quốc tế Khách nội địa Tổng lƣợt khách
2012 4989 23975 28964
2013 5333 27531 32864
2014 5987 28634 34621
Lƣợt khách
(Nguồn: Sở VHTT&DL Bắc Kạn, 2014)
Biểu đồ 2.1. Lƣợng khách du lịch tại Ba Bể giai đoạn 2012 - 2014
Vị trí của du lịch hồ Ba Bể đã đƣợc xác định nhƣ một điểm du lịch quan trọng
trong chiến lƣợc phát triển du lịch Việt Nam thời kỳ 2011 - 2020 và tầm nhìn đến
2030. Chính vì thế, việc phát huy đƣợc thế mạnh của Ba Bể qua việc tìm và phát
triển các loại hình du lịch tận dụng đƣợc đúng thế mạnh ở đây cần phải đƣợc xác
định là một nhiệm vụ không chỉ của VQG mà còn của cả chính quyền, nhân dân địa
phƣơng. Và đối với các thế mạnh về địa lý, địa mạo và đa dạng sinh học ở Ba Bể thì
43
các hoạt động du lịch sinh thái, du lịch mạo hiểm gắn với thác, hồ, địa hình núi là
các hoạt động du lịch phù hợp và có thế mạnh nhất.
2.2. Điều kiện phát triển du lịch mạo hiểm tại vƣờn quốc gia Ba Bể
2.2.1. Địa chất, địa hình
Địa hình của VQG Ba Bể mang đặc điểm của vùng trung du miền núi phía
Bắc tƣơng đối phức tạp, bị chia cắt bởi sông, suối, núi. Địa hình gồm 2 dạng chủ
yếu là đồi và núi cao. Khu vực phía Đông là các dãy núi kéo dài tít tắp của cánh
cung Ngân Sơn, cánh cung liên tục nhất, điển hình nhất ở vùng Đông Bắc. Các dãy
núi trong khu vực này có độ cao từ 800 –1500m. Một số núi cao hùng vĩ là danh
lam thắng cảnh quan trọng và có sức thu hút du khách với các hoạt động du lịch thể
thao, leo núi, khám phá và mạo hiểm, nhƣ dãy Phja Bjooc. Ngoài ra tại đây có hố
sụt karst điển hình nhất ở Việt Nam, hình thành nên cảnh quan vô cùng độc đáo.
Chính phức hệ hồ-sông-suối-núi đá vôi, tại VQG Ba Bể là điều kiện thuận lợi phát
những hoạt động khám phá kết hợp với đi thuyền theo các tuyến sông, thác.
Trên địa bàn VQG Ba Bể có 2 con sông Năng và Chợ Lùng chảy qua. Sông
Năng bắt nguồn từ dãy núi cao Pha Giạ chảy vào địa phận huyện Ba Bể từ xã Bành
Trạch theo hƣớng Đông - Tây; Sông Chợ Lùng bắt nguồn từ phía Nam huyện Ba Bể
theo hƣờng Đông - Tây sau đó đổ vào hồ Ba Bể rồi thông ra sông Năng; Cánh cung
sông Gâm chạy dài theo hƣớng Đông Bắc - Tây Nam, xuyên suốt địa giới của
huyện với nhiều ngọn núi cao đã tạo nên địa hình hiểm trở rất đặc trƣng của huyện
Ba Bể.
Với các đặc điểm địa hình nhƣ vậy, VQG Ba Bể có điều kiện thuận lợi để phát
triển các loại hình du lịch nhƣ dã ngoại, ngắm cảnh, thám hiểm và du lịch nghỉ
dƣỡng.
44
2.2.2. Hệ thống sông, suối, thác ghềnh
Là điểm tập trung của các hệ thống đứt gãy chính ở vùng Đông Bắc Việt Nam,
VQG Ba Bể và khu vực lân cận có mạng lƣới sông suối dày đặc với 2 – 2,5 km
dòng chảy/ km2.
Hồ Ba Bể Đặc điểm nổi bật nhất của VQG Ba Bể. Hồ nằm ở vị trí trung tâm
của Vƣờn, có cấu tạo đặc biệt thắt ở giữa và phình to ở hai đầu. Quanh hồ Ba Bể là
những vách đá, chỗ dựng đứng nhƣ một bức tƣờng, chỗ lại vòng vèo uốn lƣợn ăn
sâu vào các thung lũng làm cho hình dáng hồ rất độc đáo. Do có cấu tạo địa chất
đặc biệt nên hồ Ba Bể có những nét riêng biệt so với các hồ karst khác trên thế giới.
Ba con sông, suối chính đổ nƣớc về hồ Ba Bể là sông Tà Han, suối Bó Lù ở
phía Tây, sông Chợ Lèng ở phía Tây Nam. Hệ thống sông suối này hợp thành hệ
thuỷ phía Nam của VQG. Nƣớc Hồ Ba Bể chảy theo hƣớng Nam - Bắc đổ ra sông
Năng, chảy qua phần phía Bắc của VQG, sau đó tiếp tục chảy theo hƣớng Tây gặp
sông Gâm ở phía Đông của tỉnh Tuyên Quang.
Khu vực sông Năng, hồ Ba Bể là điều kiện bổ trợ rất tốt để kết hợp hoạt động
chèo thuyền vƣợt thác Đầu Đẳng với thăm ngắm cảnh quan tự nhiên, làng bản. Khi
chèo thuyền dọc sông Năng, khách du lịch có thể quan sát rừng nhiệt đới trên núi đá
vôi và vô số các kiến tạo hình thành trong vùng đá vôi. Ngoài ra, trong địa bàn
VQG Ba Bể cũng còn nhiều khu vực hoang sơ và có địa hình hiểm trở nhƣ khu vực
thác Bạc với nhiều đoạn suối, thác ghềnh, hang động phù hợp với những hoạt động
chèo thuyền vƣợt thác, kết hợp khám phá nét sinh hoạt độc đáo của các bản làng
ven sông.
2.2.3. Các giá trị tài nguyên du lịch bổ trợ
a. Cảnh quan tự nhiên
Hệ sinh thái vùng hồ bao quanh bởi hệ sinh thái núi đá vôi đã hình thành nên 3
loại hệ sinh thái: Hệ sinh thái sông/hồ, hệ sinh thái rừng ngập nƣớc và hệ sinh thái
45
rừng trên núi đá vôi. Khu vực này bao gồm 2 loại thực vật chính: Rừng trên đá vôi
(phân bố trên các sƣờn núi dốc, có thảm thực vật dày và chiếm phần lớn diện tích
của vƣờn quốc gia), rừng thƣờng xanh (phân bố trên các đồi thấp hơn và che phủ
bởi lớp đất dày hơn) (Thái Văn Trừng, 1978).
Theo báo cáo “Quy hoạch xây dựng khu du lịch Ba Bể, tỉnh Bắc Kạn đến năm
2030” của sở VHTT&DL Bắc Kạn phối hợp với Công ty Nikken Sekkei Civil
Engineering (2014), Ba Bể là một trong những VQG có độ che phủ và tỷ lệ rừng
nguyên sinh cao trong hệ thống rừng đặc dụng của Việt Nam và các khu vực núi đá
vôi trên thế giới. Khu vực Vƣờn đƣợc che phủ trên 73,68% diện tích rừng kín
thƣờng xanh mƣa ẩm nhiệt đới, trong đó kiểu rừng nguyên sinh ít bị tác động trên
núi đá vôi đƣợc coi là mẫu chuẩn của hệ sinh thái rừng trên núi đá vôi đặc trƣng cho
vùng Đông Bắc Việt Nam và thế giới. Các hệ sinh thái rừng đặc biệt này là một thế
mạnh riêng cho Ba Bể. Với các giá trị đó, nhiều loại hình du lịch đặc biệt có thể
khai thác đƣợc và có tiềm năng lớn nhƣ đu dây, đi xe đạp địa hình mạo hiểm.
Ba Bể đƣợc biết đến nhƣ là một khu vực tài nguyên rừng đa dạng, phong phú,
nhiều loại động vật, thực vật quý hiếm, có giá trị và đƣợc coi là một trung tâm bảo
tồn nguồn gen thực vật của vùng Đông Bắc. Hệ động vật có giá trị tự bảo tồn nguồn
gen cao với nhiều loại đặc hữu và quý hiếm. Về thực vật, các kết quả điều tra ở
VQG Ba Bể cho thấy có 280 loài thực vật, trong đó có 300 loài gỗ, 300 loài cây
thuốc, 52 loài đã đƣa vào sách đỏ Việt Nam.
Theo kết quả điều tra thực hiện từ các năm 1992, 1997, và các năm 1999, 2000
do Viện Điều tra Quy hoạch Rừng, Viện nghiên cứu Tài nguyên Sinh thái, Trƣờng
Đại học Lâm nghiệp, khu hệ động vật VQG Ba Bể gồm 38 loài thú, 111 loài chim,
lớp bò sát và lƣỡng cƣ có 24 loài, 54 loài cá, với rất nhiều loài có tên trong sách đỏ
Việt Nam. Trong đó có Voọc mũi hếch là loài đặc hữu và Voọc đen má trắng là loài
quý hiếm.
46
Các giá trị thiên nhiên này cũng là những tài nguyên du lịch quan trọng đối
với các hoạt động du lịch sinh thái kết hợp du lịch mạo hiểm ở Ba Bể nhƣ các hoạt
động xem chim, quan sát thú ban ngày và ban đêm kết hợp hoạt động đi bộ mạo
hiểm xuyên rừng. Đây là các hoạt động đã và đang đƣợc khai thác rất hiệu quả ở
nhiều VQG và khu bảo tồn khác ở Việt Nam nhƣ Xuân Thủy, Cát Tiên, Cúc
Phƣơng, Tam Đảo.
Với khu hệ thực vật có tính đa dạng sinh học cao, nhiều điểm riêng biệt
nhƣ vậy, đây sẽ là điểm hấp dẫn lớn với du khách, đồng thời cũng là các giá trị
mà hoạt động du lịch mạo hiểm có thể phát triển. Tuy nhiên,cần có biện pháp
bảo vệ những vùng nhạy cảm, tránh các tác động của hoạt động du lịch có thể
tạo ra ngay trong quá trình quy hoạch và ngay sau đó là quá trình khai thác du
lịch để giảm thiểu các tác động bất lợi đó.
b. Khí hậu
Bảng 2.1. Số liệu khí hậu khu vực Vƣờn quốc gia Ba Bể
Tháng 1. 2. 3. 4. 5. 6. 7. 8. 9. 10. 11. 12. cả
14,1 15,9 19,5 23,2 26,3 27,2 27,5 27 25,8 22,8 18,8 15,3 22,0
năm
18,2 24,3 39,1 92,3 174,9 226,5 249,4 235,3 131,4 82,5 48,6 21,0 1343,5
Nhiệt độ 0C
Lƣợng
mƣa
83
81
81
82
81
84
85
85
85
85
85
83
83
(mm)
Độ ẩm
(Nguồn: Niên giám thống kê huyện Ba Bể, 2014)
%
VQG Ba Bể mang đặc điểm khí hậu của vùng núi phía Bắc Việt Nam với
nhiệt độ trung bình năm là 22 độ C, độ ẩm 83,3%, lƣợng mƣa trung bình năm
47
1.378mm, số ngày mƣa phùn trung bình trong năm 33,3 ngày. Độ ẩm cao là điều
kiện thuận lợi cho thực vật của VQG phát triển mạnh mẽ, độc đáo, tuy nhiên, mùa
mƣa kéo dài gây bất lợi cho các hoạt động du lịch.
Ngoài ra, khí hậu có sự phân hóa theo mùa nên cũng có những tác động đến sự
hình thành tính thời vụ trong phát triển du lịch. Mùa du lịch cao điểm là các tháng
mùa khô. Điều kiện này cũng ảnh hƣởng đến sự hình thành phát triển các loại hình
và sản phẩm du lịch đặc thù (nhất là sự phát triển các tuyến điểm du lịch dã ngoại).
c. Các giá trị văn hóa bản địa
VQG Ba Bể là nơi cƣ ngụ của hơn 3000 cƣ dân thuộc 5 nhóm dân tộc khác
nhau. Hơn 2000 năm qua, cƣ dân ngƣời Tày đã định cƣ tại nơi này và trở thành tộc
ngƣời chiếm đa số ở Ba Bể. Ngƣời Kinh và ngƣời Mông là những nhóm định cƣ sau
các nhóm Tày, Nùng, Dao.
Bảng 2.2. Dân số các xã trong khu vực VQG Ba Bể
TT Tên xã Toàn vùng Vùng lõi Vùng đệm
Cao Trĩ 2.027 1 2.027
Cao Thƣợng 3.591 2 3.591
Nam Mẫu 2.726 2.726 3
Quảng Khê 3.371 4 609 2.762
Khang Ninh 4.029 5 224 3.805
(Nguồn: Niên giám thống kê huyện Ba Bể, 2014)
Tổng 15.744 3.559 12.185
Ngƣời Tày sinh sống tại các dải đất thấp ven hồ (chiếm 58%), ngƣời Dao cƣ
ngụ nơi lƣng chừng núi (chiếm 21%), ngƣời Mông sinh sống trên các vùng núi cáo
48
(chiếm 13%), ngƣời Nùng chiếm 7% và ngƣời Kinh chỉ chiếm 1% dân số. Ngƣời
Tày chủ yếu định cƣ ở các bản Pắc Ngòi, Lùng Quan, Bản Quán, Cốc Lùng, Bó Lù,
Cốc Tộc và Cám Hạ, cộng đồng ngƣời Dao sinh sống tại bản Cám Thƣợng, Bản
Tầu thuộc xã Cao Thƣợng. Tuy cộng đồng rất đoàn kết, song mỗi dân tộc vẫn giữ
đƣợc những bản sắc văn hóa rất riêng.
Ngƣời Tày và Nùng thuộc chung ngữ hệ Tày - Thái và có nhiều nét tƣơng
đồng về văn hoá. Theo truyền thống, ngƣời Tày thƣờng chăn nuôi, dệt thổ cẩm và
đánh bắt cá quanh hồ Ba Bể. Thuyền độc mộc cũng đƣợc sử dụng cho mục đích
này. Thổ cẩm giữ một vị trí đáng kể trong đời sống tinh thần và tình cảm của đồng
bào Tày. Nguyên liệu chính của dệt thổ cẩm là sợi đƣợc nhuộm thành nhiều màu
khác nhau.
Phong tục, tập quán: Trong đời sống hàng ngày, đồng bào các dân tộc ở đây
có những phong tục truyền thống rất đẹp, theo chuẩn mực văn hóa rất đáng trân
trọng. Ví dụ nhƣ trong các phong tục tập quán của ngƣời Mông thì việc cƣới xin để
lại những dấu ấn bản sắc mang tính truyền thống của ngƣời Mông nhiều hơn cả.
Đám cƣới của ngƣời Mông thƣờng đƣợc tổ chức vào mùa xuân hay cuối đông vì
đồng bào kiêng những tháng có sấm chớp. Hôn nhân của nhƣời Mông cũng tuân
theo những lễ nghi nhƣ dạm hỏi, ăn hỏi (hẹn cƣới) và lễ đón dâu.
Lễ hội: Các lễ hội của các đồng bào dân tộc ở đây luôn gắn bó với cuộc sống
lao động sản xuất của ngƣời dân. Lễ hội thể hiện ƣớc mơ khao khát của con ngƣời
về đời sống ấm no hạnh phúc, là cầu nối giữa con ngƣời với thế giới tâm linh, lễ hội
là hình thức giao tiếp để con ngƣời gửi đi thông điệp cầu xin thần linh bao bọc, che
chở, giúp đỡ con ngƣời chiến thắng cái ác, chiến thắng bệnh tật và cho mùa màng
bội thu. Những lễ hội tiêu biểu tại VQG Ba Bể nhƣ Lễ cầu mùa, Lễ hội xuân Ba Bể,
Lễ hội Lồng Tồng, Chợ tình Xuân Dƣơng, Tết thanh minh v.v
Ẩm thực: Ba Bể có nền văn hóa ẩm thực khá đa dạng, nhiều nét đặc sắc mang
hƣơng vị truyền thống của Việt Nam đƣợc nhận biết rộng rãi với mùi vị đặc trƣng
và thành phần tự nhiên. Những món ăn địa phƣơng trong khu vực này gồm cá
49
nƣớng, măng quấn thịt, thịt gác bếp, rƣợu ngô. Những loại thực phẩm khác bao gồm
thịt lợn, thịt gà, thịt bò, khoai tây, rau xanh, gạo nếp. Không chỉ đa dạng về các loại
thực phẩm, khi ăn cơm mọi ngƣời ngồi lại với nhau bên bàn tre tại tầng một của nhà
sàn truyền thống cũng là đặc điểm quan trong và đặc biệt về thói quen ăn uống của
ngƣời Việt trong mắt du khách.
Bên cạnh nguồn tài nguyên du lịch tự nhiên, những đặc trƣng văn hóa của
mỗi dân tộc là một yếu tố thu hút khách du lịch tới Ba Bể. Các hoạt động du lịch
văn hóa sẽ là một hình thức bổ trợ tốt, giúp đa dạng hóa các sản phẩm du lịch, khiến
khách du lịch có thêm nhiều lựa chọn, hoặc có nhiều hoạt động hơn trong kì nghỉ.
Sự đan xen các loại hình du lịch cũng làm cho du khách có nhiều hứng thú và trải
nghiệm thú vị, qua đó tăng thời gian lƣu trú cũng nhƣ lợi nhuận giúp việc kinh
doanh hiệu quả hơn.
Khi các hoạt động du lịch phát triển, ngƣời dân có thêm nguồn thu nhập giúp
đời sống cải thiện đời sống hàng ngày và cũng qua đó nâng cao nâng cao nhận thức
môi trƣờng, giữ gìn phát huy truyền thống bản sắc văn hóa của các cộng đồng ngƣời
dân tộc thiểu số sống gần đó.
2.3. Hiện trạng khai thác phát triển du lịch mạo hiểm tại VQG Ba Bể
2.3.1. Hệ thống cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chất kỹ thuật
Việc đầu tƣ xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ cho phát triển du lịch đã từng
bƣớc đƣợc quan tâm đầu tƣ xây dựng tại VQG Ba Bể. Một số tuyến đƣờng giao
thông đến các khu, điểm du lịch đã đƣợc đầu tƣ xây dựng, nâng cấp nhƣ: Cải tạo
nâng cấp đƣờng tỉnh lộ 258; Đƣờng nối khu du lịch Ba Bể với khu du bảo tồn Na
Hang (Tuyên Quang); Các tuyến đƣờng đi bộ trong vƣờn quốc gia Ba Bể; San gạt
mặt bằng, xây dựng bến thuyền, nhà chờ thuyền, bãi đỗ xe tại khu trung tâm đón
tiếp Buốc Lốm, bến thuyền Tà Kèn; Điện lƣới, thông tin liên lạc đã có ở hầu hết các
khu, điểm tham quan du lịch, hầu hết các tuyến đƣờng tới các điểm du lịch đã điện
lƣới và phủ sóng thông tin liên lạc. Đó là những dấu hiệu đáng mừng và là điều kiện
tốt cho sự phát triển của du lịch Ba Bể trong thời gian tới.
50
Tuy nhiên, đối với du lịch mạo hiểm nói riêng, do các điểm du lịch mạo hiểm
tại Ba Bể đều nằm ở các khu vực có địa hình phức tạp nhƣ núi cao, rừng rậm, thác,
hồ, nên việc phát triển cơ sở hạ tầng một cách đồng bộ chƣa đƣợc đầu tƣ. Do đó,
đây cũng có thể là một trong các điều kiện đã làm hạn chế tốc độ phát triển của du
lịch nói chung và du lịch mạo hiểm nói riêng tại Ba Bể.
Hệ thống đường xá: Theo báo cáo “Đánh giá hoạt động du lịch Bắc Kạn
giai đoạn 2005 – 2013” của Sở VHTT&DL Bắc Kạn (2014): Về hệ thống đƣờng bộ
ở VQG Ba Bể, các tuyến đƣờng tuy đƣợc rải nhựa nhƣng mặt đƣờng hẹp, kết cấu
mặt đƣờng bằng vật liệu không bền vững, chủ yếu mặt là cấp phối và đƣờng đất;
Đƣờng thôn, đƣờng mòn ra đồng, lên núi, lên các bản ở vùng cao là đƣờng đất đi
theo địa hình triền núi, thoát nƣớc còn kém, chủ yếu phục vụ đi lại và công việc
nƣơng rẫy của nhân dân; Đƣờng vào VQG Ba Bể vẫn đang đƣợc xây dựng, mặt cắt
đƣờng trục chính khu vực hiện nay chỉ có chiều rộng tối đa là 6m, chƣa đáp ứng
đƣợc nhu cầu du lịch bằng ô tô đang ngày càng tăng; Hệ thống cống thoát nƣớc dọc
và ngang đƣờng chƣa đƣợc bố trí đủ và chƣa hợp lý, do vậy khi mƣa thoát nƣớc
không kịp dẫn tới xói lở, phá nền đƣờng, mặt đƣờng. Với hiện trạng về hệ thống
đƣờng xá nhƣ vậy, Ba Bể sẽ không đáp ứng đƣợc nhu cầu về phát triển du lịch
trong tƣơng lai.
Đường thủy: Qua khảo sát cho thấy VQG Ba Bể chỉ có 01 tuyến đối nội vận
tải đƣờng thủy là tuyến sông Năng đoạn Chợ Rã - Ba Bể - Thác Đầu Đẳng dài 26
km. Phƣơng tiện vận tải của tuyến chủ yếu sử dụng xuồng máy, bè mảng, thuyền
độc mộc vừa phục vụ du lịch và vận chuyển ngƣời, hàng hóa dân sinh. Bến bãi
đƣờng thuỷ nội địa có 03 bến đón khách trên đoạn sông Năng là bến bến Bốc Lốm
(Khang Ninh), bến ở hồ Ba Bể và bến Thác Đầu Đẳng; có 02 bến neo đậu là bến
Động Puông và bến ngã ba sông Cao Thƣợng. Đặc biệt tại bến thác Đầu Đẳng là
nơi diễn ra hoạt động chèo thuyền vƣợt thác, nhƣng tại đây cơ sở vật chất nghèo
nàn, không có bất kì hệ thống thiết bị biển báo, cọc tiêu, thiết bị phòng hộ nào. Hệ
51
thống lan can cho du khách đứng quan sát cảnh quan đã han ghỉ, không đảm bảo
các yếu tố về độ an toàn.
Giao thông công cộng: Hiện nay tại Ba Bể chƣa có các loại hình giao thông
công cộng nhƣ xe buýt. Do địa hình khu vực có độ dốc lớn, quy mô mặt đƣờng nhỏ,
mật độ dân cƣ thấp nên việc tổ chức giao thông công cộng chƣa thể thực hiện. Bến
xe tạm ở Thị trấn Chợ Rã-huyện Ba Bể là bến trung chuyển của tuyến hồ Ba Bể -
Chợ Rã với tần suất 18-20 chuyến/ngày; Có 02 tuyến xe khách tƣ nhân vận tải phục
vụ việc giao thông đi lại của ngƣời dân và du khách tham quan du lịch vùng hồ Ba
Bể, đó là tuyến Chợ Đồn đến trung tâm Ba Bể và tuyến thị trấn Chợ Rã đến thị xã
Bắc Kạn. Các tuyến này về cơ bản đáp ứng đƣợc nhu cầu giao thông của cộng đồng
địa phƣơng xong chƣa đáp ứng đƣợc yêu cầu vận tải du lịch do phƣơng tiện cũ, độ
an toàn thấp hơn so với điều kiện của các hệ thống vận chuyển du lịch.
Hệ thống thông tin liên lạc: Tại Ba Bể, mạng lƣới thông tin liên lạc đã đƣợc
nâng cấp và trải rộng trên toàn địa bàn. Ngoài hệ thống thông tin liên lạc đƣờng dây
còn có hệ thống thông tin liên lạc không dây của vinaphone, mobiphone, viettel đã
đƣợc phủ sóng rộng khắp đáp ứng đƣợc nhu cầu trao đổi thông tin cơ bản của cộng
đồng, của VQG và cho cả khách du lịch trong quá trình thăm quan, lƣu trú tại Ba
Bể. Việc có thể tiếp cận đƣợc với một hệ thống thông tin nhƣ vậy cũng là điều kiện
rất tốt cho các hoạt động du lịch mạo hiểm triển khai ở Ba Bể.
Hệ thống cung cấp điện nước và xử lý chất thải: Công tác quản lý chất thải
ở Ba Bể hiện tại còn kém. Qua khảo sát thực tế tại khu vực động Hua Mạ, chất thải
thƣờng đƣợc các hộ dân tự xử lý bằng cách đốt hoặc chôn lấp, một số nơi ngƣời dân
vứt xuống các khu vực thung lũng hoặc ra các sông hồ. Đièu này gây ảnh hƣởng
nghiêm trọng đến vấn đề vệ sinh và các nguồn tài nguyên du lịch. Ngoài ra, dọc
theo tuyến sông Năng và tại các điểm du lịch mặt nƣớc hồ Ba Bể, có quá nhiều
phƣơng tiện giao thông đƣờng thủy di chuyển nên cũng gây ra một số ô nhiễm. Hầu
hết các phƣơng tiện này đều chạy nguyên liệu hóa thạch, gây ô nhiễm không khí và
tiếng ồn trên các tuyến di chuyển và bến bãi. Tại các điểm diễn ra hoạt động du lịch
52
mạo hiểm, rác thải cũng mới chỉ đƣợc thu gom về khu vực tập trung sau đó đƣợc
đốt hoặc chôn lấp ở các điểm trong VQG mà không có hệ thống xử lý tiêu chuẩn
nào.
Với hiện trạng ô nhiễm và xử lý chất thải nhƣ vậy, nếu không đƣợc quản lý
phù hợp thì trong tƣơng lai gần, việc ô nhiễm sẽ là điều khó tránh khỏi. Việc sử
dụng các phƣơng tiện vận tải đƣờng thủy có động cơ cũng cần phải có hình thức
quản lý chất thải, xả thải phù hợp, nếu không sẽ gây ô nhiễm nguồn nƣớc. Hồ Ba
Bể, thác Đầu Đẳng là những điểm nhấn cũng nhƣ giá trị cốt lõi của hoạt động du
lịch mạo hiểm tại Ba Bể, nếu nƣớc hồ bị ô nhiễm , thì hoạt động du lịch mạo hiểm
khó có thể duy trì một cách bền vững.
Hệ thống chỉ dẫn, các trạm cứu hộ du khách: Do đặc điểm về loại hình, du
lịch mạo hiểm rất chú trọng đến vấn đề an toàn. Vì vậy mà hệ thống chỉ dẫn hay các
trạm cứu hộ đóng vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ du khách trong những trƣờng
hợp đặc biệt. Tại Ba Bể hiện nay đã có một quầy thông tin hỗ trợ khách du lịch
đƣợc xây dựng ở cổng lối vào VQG, một đài quan sát đƣợc xây dựng trên tuyến
đƣờng đi bộ xuyên rừng. Tuy nhiên, qua khảo sát cho thấy, tại 2 địa điểm này
thƣờng xuyên không có ngƣời trực. Điều này đồng nghĩa với việc hoạt động ứng
cứu du khách trong trƣờng hợp cần thiết sẽ không đảm bảo.
Các trang thiết bị phục vụ hoạt động du lịch mạo hiểm: Một trong những
vấn đề tồn tại lớn nhất của du lịch mạo hiểm Ba Bể chính là chất lƣợng của các dịch
vụ trong du lịch mạo hiểm. Hiện tại các hộ dân trong VQG đã tham gia vào việc
cung cấp, cho du khách thuê các trang thiết bị hỗ trợ hoạt động du lịch mạo hiểm
(thuyền kayak, đèn pin, giầy leo núi, v.v.). Tuy nhiên vì chƣa có sự am hiểu về loại
hình này cũng nhƣ chƣa có sự đầu tƣ nên các hoạt động này diễn ra một cách tự
phát, không theo một quy định nào. Kết quả điều tra khảo sát cũng cho thấy có đến
34,6% du khách đƣa ra góp ý cần cải thiện, nâng cấp các thiết bị an toàn trong du
lịch mạo hiểm. Nếu không cải thiện vấn đề này, Ba Bể sẽ không thể xây dựng hệ
53
thống sản phẩm du lịch mạo hiểm theo chuẩn, đảm bảo các yêu cầu cần thiết để giữ
chân khách du lịch.
2.3.2. Hoạt động du lịch mạo hiểm ở Ba Bể
Hàng năm có khoảng hơn 32.000 lƣợt khách đến Ba Bể, trong đó lƣợng khách
nội địa khoảng 26.000 lƣợt (gấp 5 lần khách quốc tế). Cho tới nay vẫn chƣa có một
thống kê chính thức nào về lƣợng khách du lịch mạo hiểm tới Ba Bể đƣợc thực hiện
bởi VQG hay Sở VHTT&DL Bắc Kạn. Qua quá trình thực hiện khảo sát với 52 đối
tƣợng khách du lịch mạo hiểm, tác giả nhận thấy khách du lịch quốc tế tham gia
Châu Phi, 0
vào loại hình này là chủ yếu.
Châu Mĩ, 26.8
15.4
Khách quốc tế
84.6
Khách nội địa
Châu Âu, 50.7
Châu Đại Dƣơng, 16.9
Châu Á, 5.6
Đơn vị %
(Nguồn: Số liệu điều tra của tác giả, 2014)
Biểu đồ 2.2. Cơ cấu khách tham gia du lịch mạo hiểm tại VQG Ba Bể
Kết quả điều tra cũng cho thấy trong hoạt động du lịch mạo hiểm, khách quốc
tế chiếm 84,6% tổng lƣợng khách trong khi khách nội địa chỉ chiếm khoảng 15,4%.
Lý do khách nội địa ít tham gia vào các chƣơng trình du lịch mạo hiểm có thể là do
tâm lý e ngại về vấn đề an toàn hoặc chƣa thực sự muốn có những hoạt động mạnh
trong các kí nghỉ của mình. Chiếm tỉ lệ nhiều nhất trong số khách quốc tế là đối
54
tƣợng khách Tây Âu (Đức, Hà Lan), tiếp đó là Châu Mỹ (26,8%). Ngoài ra cũng có
một số khách du lịch đến từ các khu vực châu Đại Dƣơng nhƣ Úc, New Zeland. Có
thể các khách này đến từ các quốc gia phát triển và có đời sống cao, ngƣời dân thích
đi du lịch, đặc biệt là các hoạt động du lịch sinh thái, mạo hiểm nên họ là đối tƣợng
chính của loại hình du lịch mạo hiểm ở Ba Bể. Và dƣờng nhƣ đây cũng là mục tiêu
của nhiều du khách quốc tế khi đến du lịch Việt Nam mong đƣợc gần với thiên
nhiên hơn, có cơ hội trải nghiệm với các hoạt động mạo hiểm gắn với thiên nhiên.
Độ tuổi và giới tính: Kết quả điều tra cho thấy đối tƣợng khách tham gia du
lịch mạo hiểm tại Ba Bể chủ yếu tập trung vào độ tuổi từ 18 – 25 là 19,5 %, độ tuổi
từ 26 – 40 là 51,3% , độ tuổi từ 41-60 là 28 % và trên 60 là 1,2%. Điều này cho thấy
hoạt động du lịch mạo hiểm thu hút khách du lịch trẻ nhiều hơn. Có thể do một số
yêu cầu về sức khỏe và niềm yêu thích phiêu lƣu mạo hiểm nên hoạt động này đƣợc
nhiều ngƣời trẻ tuổi chọn hơn.
Về giới tính, trong số du khách tham gia hoạt động du lịch mạo hiểm ở Ba Bể
có có 57,3 % là nam và 42.7% là nữ. Đây là tỉ lệ có sự sai khác không lớn giữa nam
và nữ, và cũng cho thấy xu hƣớng du lịch mạo hiểm không phải là một hoạt động
không phù hợp với phái nữ.
Thành phần và trình độ của du khách: Khách du lịch mạo hiểm ở Ba Bể cũng
đến từ nhiều thành phần với mặt bằng nhận thực khác nhau trong xã hội. Các thông
tin phỏng vấn về trình độ học vấn của du khách cũng cho thấy trình độ cao đẳng –
đại học chiếm tới 47,6%, trình độ trên đại học chiếm 28,1 %, các đối tƣợng này tới
VQG Ba Bể với mục đích trải nghiệm du lịch mạo hiểm, nghiên cứu, học tập.
Tƣơng ứng với tỉ lệ về trình độ du khách, cơ cấu về nghề nghiệp của du khách gồm:
sinh viên chiếm 13,9%, nhà nghiên cứu 26,4%, quản lý 15,7%, nhân viên văn
phòng 32,3%. Kết quả điều tra ở Ba Bể cũng phù hợp với báo cáo “Nghiên cứu về
thị trường du lịch mạo hiểm 2013” của Hiệp hội Thƣơng mại Du lịch Mạo hiểm.
55
Lưu trú: So với nhiều VQG và KBTTN của Việt Nam. Ba Bể là một trong
những VQG có nhiều hình thức lƣu trú nhất, bao gồm nhà nghỉ của nhà nƣớc, của
tƣ nhân và nhà nghỉ du lịch cộng đồng.
Bảng 2.3. Nơi lƣu trú của khách du lịch tại Ba Bể
Nơi lƣu trú Số lƣợng khách Tỉ lệ %
Nhà nghỉ 5 9,6
Nhà nghỉ DLCĐ 36 69,2
Hình thức lƣu trú khác 11 21,2
(Nguồn: Số liệu điều tra của tác giả, 2014)
52 100 Tổng
Tại Ba Bể hiện nay mới chỉ có 2 khách sạn tiêu chuẩn một sao đang hoạt động
(xem phụ lục 3). Tuy nhiên qua khảo sát cho thấy phòng ốc có dấu hiệu xuống cấp,
trang thiết bị cũ kĩ, chất lƣợng dịch vụ chƣa tốt, nhân viên lễ tân hầu nhƣ không nói
đƣợc ngoại ngữ. Đến Ba Bể, đa phần khách du lịch mạo hiểm lựa chọn hình thức
lƣu trú tại các nhà nghỉ du lịch cộng đồng. Điều này cho thấy khách du lịch mạo
hiểm tuy không quan tâm nhiều đến tiện nghi sang trọng nhƣng vẫn thích lựa chọn
các nơi lƣu trú sạch sẽ, đảm bảo các tiêu chuẩn. Đây cũng là một lợi thế rất tốt để
các hộ dân tại Ba Bể phát triển các cơ sở lƣu trú và tăng thu nhập. Nếu có các định
hƣớng và đầu tƣ tốt, các hộ dân có thể tính đến việc tạo các điểm lƣu trú đủ điều
kiện trong rừng, trên các tuyến du lịch mạo hiểm nhằm đáp ứng tốt hơn nhu cầu của
khách và qua đó du khách cũng có cơ hội trải nghiệm nhiều hơn ở ngoài thiên nhiên
nơi mà hoạt động du lịch mạo hiểm đang diễn ra.
2.3.3. Sản phẩm du lịch mạo hiểm ở Ba Bể
So với tiềm năng của mình, các sản phẩm du lịch mạo hiểm tại Ba Bể nhìn
chung còn đơn điệu và chƣa có sự gắn kết. Hiện nay mới chỉ có 3 loại hình du lịch
mạo hiểm đang đƣợc khai thác tại đây:
56
Đi bộ mạo hiểm xuyên rừng: Khách du lịch có 2 lựa chọn
Lựa chọn 1: Tuyến đi bộ mạo hiểm xuyên rừng bắt đầu từ văn phòng vƣờn
quốc gia, đi qua thung lũng Tắc Kè, đi xuyên rừng lên độ cao 789m (so với mực
nƣớc biển) để quan sát thiên nhiên, chim thú, đặc biệt là toàn cảnh hồ Ba Bể, sau đó
tiếp tục xuyên rừng đến làng Him Đăm của dân tộc Dao, đi tiếp xuống Nà Mằm và
quay trở lại VQG.
Lựa chọn 2: Tuyến đi bộ xuyên rừng kéo dài khoảng 10 km, xuất phát từ
bản Cốc Tộc, qua các bản làng trên núi (Khau Qua, Nặm Dài) tới thác Đầu
Đẳng, lên thuyền trở về Cốc Tộc.
Đối với tuyến đi bộ mạo hiểm xuyên rừng, khách du lịch đi qua nhiều dạng
địa hình đồi núi phức tạp, nhiều kiểu rừng và nhiều cảnh quan khác nhau. Qua các
tuyến đó, du khách có cơ hội trải nghiệm các hoạt động đi bộ leo núi và cảm nhận
đƣợc sự thay đổi về khí hậu khi đi qua các kiểu rừng, các đai cao khác nhau trên núi
cao và cảm nhận sự mạo hiểm khi di chuyển qua các kiểu địa hình đó. Khách du
lịch sẽ trải nghiệm sự khó khăn khi băng qua các con đƣờng, các ngọn đồi, con suối,
chiêm ngƣỡng cảnh quan độc đáo, quan sát và tham gia vào các sinh hoạt độc đáo
của ngƣời dân bản địa nhƣ Mông, Dao, Tày, Nùng. Để trải nghiệm đƣợc tuyến du
lịch này, du khách cần một khoảng thời gian từ 1-2 ngày. Tuy nhiên, mức độ mạo
hiểm đối với sản phẩm du lịch này ở cấp độ nhẹ nên cũng phù hợp với nhiều đối
tƣợng khách, và cũng không cần đầu tƣ kỹ thuật cầu kì hay các hƣớng dẫn phức tạp
về kỹ thuật cũng nhƣ an toàn.
Khám phá hang động: Nhiều khách du lịch tới Ba Bể cũng quan tâm tới
hoạt động thăm và khám phá một số hang động đá vôi. Hiện nay ở Ba Bể có một số
hang động đang đƣợc khai thác du lịch nhƣ động Hua Mạ, động Puông. Trong
chuyến đi 1 ngày,khách du lịch sẽ đƣợc trải nghiệm các hoạt động nhƣ thăm bản
dân tộc Pắc Ngòi của ngƣời Tày hoặc chèo thuyền trên hồ Ba Bể kết hợp khám phá
động Puông. Không chỉ bị cuốn hút bởi vẻ nguyên sơ nhƣ ban đầu lúc hình thành,
57
khi đi sâu vào khám phá phần sau của hang động, khách du lịch sẽ có dịp đi bộ
khám phá lòng động tối tăm, đƣợc chiêm ngƣỡng các nhũ đá, rèm đá, cột đá với
hình dáng và màu sắc khác nhau.
Chèo thuyền vượt thác: Nói đến Ba Bể là nói đến hệ thống hồ trên núi nổi
tiếng của Việt Nam. Do đó, với Ba Bể thì các hoạt động du lịch gắn liền với nƣớc,
khám phá cảnh quan sẽ là các hoạt động du lịch đặc trƣng và có tiềm năng nhất.
Hiện tại, hoạt động chèo thuyền vƣợt thác Đầu Đẳng cũng đang đƣợc khai thác nhƣ
một dịch vụ du lịch mạo hiểm ở Ba Bể. Phƣơng tiện chính phục vụ cho hoạt động
này là những chiếc thuyền đơn hoặc thuyền đôi làm bằng nhựa composit, bằng cao
su đúc hoặc thuyền bơm hơi, có hình dạng chiếc lá tre, nhỏ, dài, mảnh mai. Khi
khách du lịch tham gia hoạt động này, họ có cơ hội kết hợp việc chèo thuyền vƣợt
qua những dòng chảy dữ dội của thác Đầu Đẳng, đồng thời ngắm cảnh hồ Ba Bể,
quan sát cảnh ven hồ và động vật (ở cạn và thủy sinh). Trong tuyến chèo thuyền
vƣợt thác tại Ba Bể, du khách sẽ chèo thuyền kayak từ bến thuyền Buốc Luốm, dọc
theo sông Năng tới thác Đầu Đẳng. Thời gian của hoạt động này là một ngày, mức
độ mạo hiểm đối ở cấp độ trung bình.
Theo kết quả điều tra khảo sát thì khi tham gia vào các hoạt động du lịch mạo
hiểm Ba Bể, khách du lịch tham gia nhiều nhất vào hoạt động đi bộ mạo hiểm
xuyên rừng, tiếp đó là chèo thuyền vƣợt thác, khám phá hang động. So với 2 hoạt
động trên, hoạt động đi bộ mạo hiểm xuyên rừng có nhiều yếu tố thu hút sự tham
gia của du khách, bởi nó vừa kết hợp đƣợc việc trải nghiệm khám phá các dạng địa
hình đồi núi vừa hòa mình vào thiên nhiên. Hơn nữa, hoạt động này cũng không cần
đầu tƣ kỹ thuật cầu kì hay các hƣớng dẫn phức tạp về kỹ thuật cũng nhƣ an toàn.
Trong các hang động trong VQG Ba Bể, động Hua Mạ mới chỉ đƣợc khảo sát du
lịch vào năm 2003-2004 và hiện vẫn chƣa phát triển nhiều về dịch vụ du lịch cũng
nhƣ số lƣợng du khách. Khách du lịch thông thƣờng tới đây chủ yếu thăm ngắm khu
vực phía ngoài hang, còn đối với khách du lịch mạo hiểm, họ sẽ tham gia vào việc
leo núi 300 mét sau đó khám phá lòng hang (rất rộng khoảng 1ha), và toàn bộ chiều 58
dài (tới hơn 700m). Trần động có chỗ rộng và cao tới 40 – 50m, chứa đựng nhiều
vách, nhũ đá kỳ vĩ. Tuy nhiên khi khảo sát tại đây cho thấy việc lắp các bóng đèn
chiếu sáng bằng ánh sáng trắng đã làm giảm đi rất nhiều vẻ đẹp cũng nhƣ mức độ
hoang sơ của hang động này.
80
65.4
60
48.1
40
19.2
20
0
Đi bộ mạo hiểm xuyên rừng
Khám phá hang động
Chèo thuyền vƣợt thác
Đơn vị %
(Nguồn: Số liệu điều tra của tác giả, 2014)
Biểu đồ 2.3. Các hoạt động du lịch mạo hiểm đƣợc du khách tham gia
Kết quả đánh giá chất lƣợng sản phẩm du lịch mạo hiểm tại VQG Ba Bể dựa
trên ý kiến du khách cho thấy mặc dù khách du lịch đánh giá cao về sự hấp dẫn của
tài nguyên du lịch mạo hiểm tại VQG Ba Bể (địa hình, hệ thống sông suối, cảnh
quan tự nhiên, khí hậu) nhƣng du khách cũng chƣa hài lòng về các yếu kém nhƣ cơ
sở hạ tầng vật chất kỹ thuật (hệ thống đƣờng xá, cơ sở cung câp dịch vụ du lịch),
chất lƣợng các dịch vụ phục vụ du lịch mạo hiểm (dịch vụ hƣớng dẫn, dịch vụ huấn
luyện , v.v.) (Xem phụ lục 5). Kết quả điều tra này cũng cho thấy, rõ ràng các loại
hình đang triển khai này là chƣa đạt hoặc chỉ mới ở mức độ giới thiệu. Cũng từ các
nhận xét đó, việc hoàn thiện về kỹ thuật và chất lƣợng của các loại hình đang khai
thác dƣờng nhƣ sẽ là những vấn đề cần giải quyết nhằm duy trì và tiến tới phát triển
các hoạt động du lịch phong phú hơn ở Ba Bể.
59
2.3.4. Nguồn nhân lực phục vụ du lịch mạo hiểm
Bộ máy tổ chức của ban quản lý VQG Ba Bể gồm: Ban giám đốc, 4 phòng
chức năng nghiệp vụ và 2 đơn vị trực thuộc (Hạt Kiểm lâm, Trung tâm Giáo dục
Môi trƣờng và Dịch vụ Môi trƣờng Rừng (GDMT&DVMTR).
Bảng 2.4. Trình độ cán bộ
Đơn vị: người
Trung tâm Giáo dục Môi trƣờng và Dịch vụ Môi trƣờng Rừng
STT Chuyên Tổng Trên Cao Trung Đại
ngành đẳng cấp Đại học
học
1 1 Du lịch 1
2 Lâm nghiệp 5 3 2
1 3 Môi trƣờng 4 3
4 Kế toán 1 1
(Nguồn: BQG VQG Ba Bể, 2014)
2 Cộng 11 0 6 3
Nhìn chung, lực lƣợng lao động phục vụ du lịch nói chung và du lịch mạo
hiểm nói riêng tại VQG Ba Bể còn thiếu và yếu về số lƣợng lẫn chất lƣợng. Cán bộ
có trình độ đại học chiếm 18,1%, cao đẳng là 54,6% và trung cấp là 27,3%. Hiện ít
hơn 10% cán bộ đang làm về du lịch trong VQG có chuyên môn về du lịch. Đây
thực sự là khoảng trống lớn về nghiệp vụ, nên khó có thể có các sản phẩm du lịch
có chất lƣợng khi số lƣợng nhân sự có chuyên môn phù hợp lại thiếu nhƣ vậy.
Đối với loại hình du lịch mạo hiểm là một hoạt động du lịch có tính chuyên
biệt và đòi hỏi kiến thức và kỹ thuật, lực lƣợng hƣớng dẫn viên đóng vai trò rất
quan trọng trong việc huấn luyện, hƣớng dẫn và tham gia cùng du khách trong các
hoạt động khám phá. Tuy nhiên số lƣợng cán bộ đƣợc đào tạo chuyên ngành du lịch
ở VQG Ba Bể hiện mới chỉ có một ngƣời và chƣa có ai đƣợc đào tạo nghiệp vụ,
60
chuyên môn phù hợp về quản lý và vận hành các hoạt động du lịch mạo hiểm.
Theo kết quả điều tra khảo sát, đa số khách du lịch đánh giá chất lƣợng dịch
vụ du lịch mạo hiểm của Ba Bể ở mức trung bình. Cụ thể là 25% du khách đánh giá
hoạt động hƣớng dẫn của hƣớng dẫn viên tốt, 59,7% đánh giá trung bình; Đánh giá
ở hoạt động huấn luyện trong các hoạt động chèo thuyền, khám phá hang động,
75% đánh giá trung bình, 25% đánh giá kém; Đánh giá ở dịch vụ ứng cứu, có đến
82,7% du khách đánh giá trung bình, 17,3% đánh giá kém .
Kết quả nghiên cứu cũng cho thấy về phía các công ty du lịch, hiện nay các
công ty kinh doanh loại hình du lịch mạo hiểm chƣa có sự quan tâm đến thị trƣờng
Ba Bể. Các hƣớng dẫn viên đi cùng du khách đến Ba Bể hầu hết là hƣớng dẫn viên
suốt tuyến không có kĩ năng, kinh nghiệm hƣớng dẫn khách tham gia hoạt động du
lịch mạo hiểm. Lý giải cho điều này, hƣớng dẫn viên du lịch mạo hiểm cần một sức
khỏe tốt, cần kinh nghiệm, khả năng tổ chức và xử lý mọi tình huống với các kỹ
thuật và trình độ chuyên nghiệp, cho nên số lƣợng hƣớng dẫn viên du lịch mạo hiểm
vốn không nhiều. Khi khảo sát tại thực địa, tác giả nhận thấy các công ty hay du
khách có nhu cầu về du lịch mạo hiểm đều tìm đến hƣớng dẫn viên là ngƣời dân bản
địa mới mức phí 300.000-500.000/ngày. Vấn đề đặt ra ở đây là 100% các hƣớng
dẫn viên địa phƣơng này đều chƣa đƣợc đào tạo qua một khóa học chuyên sâu
nào về du lịch mạo hiểm. Tất cả những gì họ có chỉ là kinh nghiệm cá nhân.
Ngoài ra họ hầu nhƣ không nói đƣợc ngoại ngữ nên việc giao tiếp giữa du khách
và hƣớng dẫn viên gặp rất nhiều khó khăn. Với tình hình đội ngũ nhân sự nhƣ trên
sẽ là một trở ngại lớn trong việc quản lý cũng nhƣ đảm bảo kỹ năng, nghiệp vụ ,xây
dựng định hƣớng phát triển du lịch du lịch nói chung và du lịch mạo hiểm nói riêng
tại VQG Ba Bể.
2.3.5. Chính sách đầu tư, quy hoạch và phát triển du lịch mạo hiểm
Với sự ra đời và phát triển của du lịch Ba Bể, một số công trình lớn nghiên
cứu về quy hoạch đã ra đời nhƣ: Quyết định số 1741/QĐ-UBND ngày 23/9/2002
61
của UBND tỉnh Bắc Kạn về Quy hoạch du lịch Vườn Quốc gia Ba Bể; Quyết định
số 1872/QĐ-UBND ngày 16/01/2014 vè Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch Ba
Bể, tỉnh Bắc Kạn đến năm 2030; Dự án Xây dựng các khu BTTN thông qua bảo tồn
sinh thái, cảnh quan (PARC)(1999); Dự án Quan hệ đối tác vì người nghèo trong
phát triển nông lâm nghiệp (3PAD)(2011). Ngoài ra, ngày 19/2/2012 Tỉnh ủy Bắc
Kạn ra nghị quyết số 18-NQ/TU xác định phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế
mũi nhọn trên cơ sở quy hoạch đầu tƣ xây dựng khu du lịch Ba Bể thành trung tâm
du lịch sinh thái của tỉnh và khu vực, với các loại hình du lịch kết hợp tham quan di
tích lịch sử, văn hóa và các lễ hội truyền thống.
Trong “Quy hoạch du lịch Vườn Quốc gia Ba Bể” chú trọng tới mục tiêu phát
huy tối đa tiềm năng du lịch kết hợp với bảo tôn nguyên vẹn giá trị địa chất, văn hóa
của vùng hồ. Quy hoạch đƣợc xây dựng nhằm xác định phát triển du lịch trở thành
ngành kinh tế mũi nhọn trên cơ sở đầu tƣ xây dựng khu du lịch Ba Bể thành trung
tâm du lịch sinh thái với các loại hình du lịch kết hợp tham quan di tích lịch sử.
Ngày 30/10/2013, UBND tỉnh Bắc Kạn đã có Quyết định số 1872/QĐ-UBND
phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch Ba Bể, tỉnh Bắc Kạn đến năm 2030.
Quy hoạch du lịch Ba Bể nhằm xác định phƣơng hƣớng, định hƣớng các sản phẩm
du lịch và định hƣớng cho quá trình đầu tƣ, khai thác du lịch gắn với phát triển kinh
tế nông-lâm nghiệp-dịch vụ và bảo tồn đa dạng sinh thái tự nhiên. Quy hoạch sẽ
giúp Ba Bể tạo thành nơi có sức hấp dẫn liên quan đến phát triển bền vững dựa trên
hệ sinh thái cảnh quan tự nhiên và làng xóm hiện hữu. Ngoài ra, quy hoạch còn giúp
xây dựng thƣơng hiệu vùng, khai thác tối đa giá trị tài nguyên cảnh quan có hệ sinh
thái đa dạng và đặc thù của Vƣờn Quốc gia Ba Bể “Phát triển du lịch Ba Bể hƣớng
tới trở thành khu du lịch sinh thái số 1 của Việt Nam”
Dự án “Xây dựng các Khu bảo tồn nhằm Bảo vệ Tài nguyên Thiên nhiên trên
Cơ sở Sinh thái Cảnh quan” (PARC): Là một dự án kết hợp bảo tồn và phát triển
của nƣớc Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Từ năm 1999 đến năm 2004, dự án
đã thử nghiệm phƣơng pháp tiếp cận sinh thái cảnh quan để bảo tồn di sản đa dạng 62
sinh học của Việt Nam, giúp bảo tồn một cách có hiệu quả đa dạng sinh học tại các
sinh cảnh đã bị chia cắt và chịu tác động của con ngƣời bằng cách áp dụng phƣơng
pháp tiếp cận sinh thái cảnh quan trong công tác quản lý khu bảo tồn.
Dự án “Quan hệ đối tác vì người nghèo trong phát triển nông lâm nghiệp tỉnh
Bắc Kạn” (viết tắt là Dự án 3PAD Bắc Kạn) có hiệu lực vào ngày 27/05/2009, kết
thúc vào ngày 30/06/2015. Một trong những hợp tiêu hợp phần của dự án là các
sáng kiến cải thiện môi trƣờng. Mục tiêu của hợp phần này là xây dựng các hệ
thống bảo vệ và bảo tồn đất dốc một cách bền vững về mặt xã hội, môi trƣờng và
kinh tế thông qua các tiểu hợp phần sau: (i) Quản lý đất bền vững và bảo tồn dựa
vào trồng cỏ; (ii) Chi trả cho dịch vụ môi trƣờng và (iii) Du lịch sinh thái.
Trong tất cả các nghiên cứu, quy hoạch này đều không thấy nhắc đến việc xây
dựng chiến lƣợc và quy hoạch du lịch mạo hiểm, mà chủ yếu là các sản phẩm, loại
hình du lịch đã và đang tồn tại tại Ba Bể. Vì vậy mặc dù đƣợc thừa nhận là điểm nổi
bật của du lịch Bắc Kạn với tài nguyên thiên nhiên và tài nguyên nhân văn, nhƣng
chiến lƣợc phát triển du lịch mạo hiểm Ba Bể vẫn là một bài toán chƣa có lời giải.
2.3.6. Hoạt động quảng bá du lịch mạo hiểm
Nhằm tuyên truyền, giới thiệu, quảng bá về miền đất, con ngƣời, tiềm năng
văn hóa, du lịch của Ba Bể đến với các nhà đầu tƣ, du khách trong và ngoài nƣớc,
trong những năm vừa qua, tỉnh Bắc Kạn đã tổ chức các hoạt động quảng bá xúc tiến
du lịch với nhiều hình thức và nội dung nhƣ: Xuất bản các ấn phẩm, tờ rơi, tập gấp,
đĩa DVD; quảng bá trên các phƣơng tiện thông tin đại chúng (báo, đài truyền hình
trung ƣơng, địa phƣơng, website của Sở); tổ chức các hội nghị giới thiệu quảng bá
du lich Ba Bể nói chung; tổ chức khảo sát, xây dựng, phát triển các chƣơng trình du
lịch liên vùng, ký kết thoả thuận hợp tác phát triển du lịch với các địa phƣơng trong
công tác phối hợp quảng bá du lịch, kêu gọi đầu tƣ, đào tạo nguồn nhân lực, trao đổi
kinh nghiệm quản lý. Đặc biệt đƣợc sự đồng ý của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du
lịch, tỉnh Bắc Kạn đã cùng với các tỉnh trong vùng chiến khu Việt Bắc: Hà Giang,
63
Tuyên Quang, Thái Nguyên, Lạng Sơn, Cao Bằng, cùng tổ chức Chƣơng trình “Du
lịch qua những miền di sản Việt Bắc” luân phiên hàng năm tại các tỉnh. Hoạt động
quảng bá xúc tiến, liên kết hợp tác phát triển du lịch nhìn chung đã đem lại hiệu
quả, hình ảnh du lịch của Ba Bể nói riêng và Bắc Kạn nói chung đã đƣợc đông đảo
công chúng, du khách trong và ngoài nƣớc biết đến, lƣợng khách du lịch đến Bắc
Kạn ngày càng tăng.
Hình thức khác, 21.2
Truyền miệng, 42.3
Sách hƣớng dẫn, 5.7
Công ty lữ hành, 17.3
Internet, 13.5
Đơn vị %
Biểu đồ 2.4. Các kênh thông tin về du lịch mạo hiểm Ba Bể
(Nguồn: Số liệu điều tra của tác giả, 2014)
Tuy nhiên, cho đến nay vẫn chƣa có một chiến dịch quảng bá riêng nào cho
loại hình du lịch mạo hiểm nói riêng. Nhắc đến Ba Bể từ lâu vẫn gắn liền với loại
hình du lịch sinh thái. Nếu đem so sánh với hoạt động quảng bá về hang Sơn Đoòng
của VQG Phong Nha – Kẻ Bàng thì du lịch mạo hiểm tại Ba Bể hầu nhƣ chƣa đƣợc
biết đến trên các phƣơng tiên thông tin đại chúng trong nƣớc chứ chƣa nói đến nƣớc
ngoài.
Theo kết quả khảo sát, 42,3% du khách biết đến du lịch mạo hiểm qua sự giới
thiệu của bạn bè, ngƣời quen, sau đó là qua các phƣơng tiện truyền thông, công ty
du lịch. Khảo sát tại thực địa cho thấy các trung tâm thông tin du lịch tại Ba Bể luôn
64
trong tình trạng không có ngƣời trực. Hoạt động giới thiệu quảng bá về du lịch mạo
hiểm Ba Bể tại các hãng lữ hành cũng không mấy khả quan qua con số 17,1% du
khách đƣợc hỏi trả lời rằng họ biết đến du lịch mạo hiểm Ba Bể qua sự chào bán
của công ty du lịch. Thông thƣờng các hãng lữ hành lớn ít chuyên về du lịch mạo
hiểm nên nếu khách có nhu cầu thì họ thƣờng bán lại cho các công ty lữ hành mạo
hiểm địa phƣơng hoặc thuê hƣớng dẫn viên địa phƣơng hƣớng dẫn trên tuyến nhƣ là
các hoạt động xen kẽ vào chƣơng trình du lịch của họ. Việc bán chƣơng trình du
lịch đƣợc thực hiện thông qua mạng hoặc khách trực tiếp đến văn phòng. Tờ rơi
cũng đƣợc phát đến các khách sạn nhƣng không phổ biến và không phải công ty nào
cũng làm. Việc việc chăm sóc khách hàng cũng chƣa đƣợc các công ty chú trọng.
Khi quan sát một số hoạt động du lịch với các hƣớng dẫn viên thì thấy trong quá
trình và kết thúc chuyến đi, họ không hề mời chào hay giới thiệu cho khách những
hoạt động mạo hiểm có ở Ba Bể, điều đó cũng là một hạn chế cho việc khách quay
trở lại lần tiếp theo.
2.4. Nguyên nhân của thực trạng phát triển du lịch mạo hiểm tại vƣờn quốc
gia Ba Bể
2.4.1. Những thành công và nguyên nhân
Du lịch mạo hiểm bƣớc đầu đƣợc khai thác ở VQG Ba Bể và thu hút đƣợc số
lƣợng khách du lịch nhất định. Có đƣợc những thành công bƣớc đầu nhƣ trên là do:
VQG Ba Bể có đặc điểm địa chất, địa hình, hệ thống sông ngòi đa dạng, thích
hợp với việc tổ chức các hoạt động tìm hiểu, khám phá. Hệ sinh thái độc đáo, đa
dạng, trong đó có nhiều loài quý hiếm cũng là đặc điểm giúp cho du khách có thêm
động lực đến thăm và tìm hiểu, đặc biệt đối với du khách quốc tế.
Điều kiện khí hậu và môi trƣờng tự nhiên của VQG Ba Bể cũng là điều kiện lý
tƣởng giúp phát triển các loại hình du lịch nói chung và du lịch mạo hiểm nói riêng.
Với khí hậu trong lành, thiên nhiên vẫn giữ đƣợc nét hoang sơ, ảnh hƣởng của các
65
hoạt động của con ngƣời lên môi trƣờng chƣa nhiều. Đây là đặc điểm quan trọng
thu hút đƣợc khách du lịch.
VQG Ba Bể có sức hút đối với du khách về việc khám phá, tìm hiểu, trải
nghiệm các đặc điểm văn hóa, truyền thống địa phƣơng. Cộng đồng dân cƣ tại Ba
Bể đã ý thức khá rõ về lợi ích của việc làm du lịch và bảo tồn các giá trị văn hóa của
dân tộc mình. Họ tuân thủ tốt các chính sách, quy định về giá cả, cách thức của Ban
quản lý VQG Ba Bể nói riêng và tỉnh Bắc Kạn nói chung, có thái độ niềm nở hiếu
khách. Du lịch phát triển đã đem lại nhiều lợi ích cho ngƣời dân bản địa. Đời sống
của họ không những đƣợc nâng cao mà các giá trị văn hóa truyền thống cũng đƣợc
bảo tồn. Khi hiểu đƣợc giá trị của các tài nguyên thiên nhiên thì việc phá rừng làm
rẫy cũng giảm rõ rệt.
2.4.2. Những hạn chế và nguyên nhân
Hoạt động du lịch mạo hiểm Ba Bể vẫn chƣa đƣợc phát triển đồng bộ và
tƣơng xứng với tiềm năng của nó. Một số khó khăn và nguyên nhân chính trong só
đó là:
Vấn đề nhận thức: Tuy đƣợc thừa nhận có nguồn tài nguyên du lịch phong phú
và có những điều kiện thuận lợi phát triển du lịch mạo hiểm nhƣng nhận thức từ các
cấp chính quyền đến ngƣời dân địa phƣơng về khai thác hiệu quả loại hình du lịch
mới mẻ này ở Ba Bể còn nhiều hạn chế. Điều này thể hiện ở chỗ hiện nay ở Ba Bể
chƣa có bất kì một quy hoạch nào về phát triển du lịch mạo hiểm. Đối với mọi cấp,
quy hoạch du lịch là rất cần thiết để có thể quản lý và thành công trong sự phát triển
ngành du lịch. Kinh nghiệm quốc tế và ở Việt Nam đã cho thấy những địa bàn phát
triển du lịch không có quy hoạch đều gặp phải những vấn đề về xã hội và môi
trƣờng, giảm lợi ích về kinh tế, không thể nào cạnh tranh một cách hiệu quả đối với
bất kỳ một nơi nào đã có quy hoạch du lịch.
66
Chƣa xây dựng đƣợc sản phẩm đặc trƣng cũng nhƣ đẩy mạnh hoạt động liên
kết phát triển thị trƣờng: “Sản phẩm du lịch đặc thù đƣợc phát triển dựa trên tính
độc đáo/duy nhất, nguyên bản và đại diện về tài nguyên du lịch (tự nhiên và nhân
văn) cho một lãnh thổ/điểm đến du lịch với những dịch vụ không chỉ làm thỏa mãn
nhu cầu, mong đợi của du khách mà còn tạo đƣợc ấn tƣợng bởi tính độc đáo và sáng
tạo” [5,tr.57]. Thực tế cho thấy, các sản phẩm du lịch mạo hiểm tại Ba Bể vẫn còn
đơn điệu và thiếu sự gắn kết giữa các tuyến, điểm du lịch, không gian du lịch của
VQG Ba Bể chƣa gắn kết chặt chẽ trong mối liên kết vùng của không gian du lịch
miền núi phía Bắc. Những chƣơng trình độc đáo hấp dẫn du khách còn hạn chế, du
lịch còn mang tính mùa vụ. Có rất nhiều du khách chỉ ghé qua Ba Bể rồi đến các
điểm du lịch khác, không lƣu trú hoặc lƣu trú 1 đêm.
Đây chính là các khó khăn và trở ngại chính ảnh hƣởng tới sự phát triển du
lịch nói chung và du lịch mạo hiểm nói riêng tại Ba Bể. Thực tế, so sánh về tiềm
năng thì Ba Bể có nhiều điều kiện phát triển hơn các khu vực khác xong việc khai
thác hiệu quả hoạt động du lịch chƣa tƣơng xứng với đúng giá trị và tiềm năng.
2.5. Đánh giá chung hoạt động du lịch mạo hiểm tại vƣờn quốc gia Ba Bể
Qua kết quả điều tra và phân tích điều kiện, thực trạng phát triển du lịch mạo
hiểm Ba Bể cho thấy du lịch mạo hiểm tại Ba Bể bên cạnh việc khai thác đƣợc
những lợi thế về tài nguyên, còn tồn tại nhiều hạn chế và thách thức cần đƣợc khắc
phục.
Điểm mạnh Điểm yếu
- Cảnh quan ngoạn mục, địa hình - Nhận thức về phát triển du lịch mạo
hiểm trở với các loại tài nguyên du hiểm của các cấp chính quyền, doanh
lịch tự nhiên điển hình của vùng nghiệp du lịch cũng nhƣ cộng đồng
Trung du miền núi phía Bắc. địa phƣơng còn hạn chế.
- Sức cuốn hút của văn hóa dân tộc - Cơ sở vật chất, hạ tầng kỹ thuật chƣa
67
thiểu (phong tục tập quán, lễ hội, ẩm đáp ứng đƣợc yêu cầu của loại hình du
thực) lịch mạo hiểm.
- Môi trƣờng chính trị ổn định, ngƣời - Sản phẩm du lịch đơn điệu, kém hấp
dân địa phƣơng thân thiện với khách dẫn, không có tính đặc trƣng.
du lịch.
Cơ hội Thách thức
- Ban đầu thu hút đƣợc sự hỗ trợ của - Chƣa có quy hoạch riêng cho du lịch
một số dự án nƣớc ngoài (PARC, mạo hiểm Ba Bể.
3PAD), sự đầu tƣ kinh doanh của một - Khai thác tài nguyên du lịch có xu
số doanh nghiệp lữ hành lớn (Saigon hƣớng không bền vững.
Tourist). - Một số tài nguyên du lịch có nguy cơ
- Bƣớc đầu có sự tham gia của ngƣời bị ô nhiễm và biến mất.
dân địa phƣơng vào các hoạt động - Lợi thế so sánh của VQG Ba Bể bị
khai thác du lịch. giảm do phải cạnh tranh với các vƣờn
quốc gia khu vực miền Bắc nhƣ VQG
Hoàng Liên, VQG Cúc Phƣơng.
68
Tiểu kết chƣơng 2
Vƣờn Quốc gia Ba Bể có nhiều tiềm năng để phát triển du lịch mạo hiểm.
Tuy nhiên mức độ khai thác tài nguyên đƣa vào phát triển du lịch nói chung và du
lịch mạo hiểm nói riêng còn rất ít. Qua quá trình khảo sát và điều tra lấy ý kiến du
khách cho thấy hiện trạng phát triển du lịch mạo hiểm VQG Ba Bể còn tồn tại các
vấn đề về quy hoạch, xây dựng sản phẩm, liên kết, phát triển thị trƣờng khách cùng
với đó là nhận thức về phát triển loại hình du lịch đặc thù của chính quyền, các
doanh nghiệp lữ hành và ngƣời dân địa phƣơng còn thấp. Việc chỉ ra nguyên nhân
của hiện trạng phát triển du lịch mạo hiểm và phân tích điểm mạnh – điểm yếu, cơ
hội – thách thức là cơ sở để đƣa ra những định hƣớng hay giải pháp nhằm khai thác
hiệu quả hoạt động du lịch mạo hiểm tại VQG Ba Bể.
69
Chƣơng 3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN DU
LỊCH MẠO HIỂM TẠI VƢỜN QUỐC GIA BA BỂ
3.1. Những căn cứ chủ yếu
3.1.1. Căn cứ pháp lý
Quyết định số 2153/QĐ-TTg ngày 21/12/2009 của Thủ tƣớng Chính phủ phê
duyệt “Quy hoạch xây dựng vùng liên tỉnh hồ Ba Bể thuộc tỉnh Bắc Kạn và Tuyên
Quang”.
Quyết định số 1890/QĐ-TTg ngày 14/10/2010 của Thủ tƣớng Chính phủ phê
duyệt “Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Bắc Kạn thời kỳ đến năm
2020”.
Quyết định số 201/QĐ-TTg ngày 22/01/2013 của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du
lịch phê duyệt “Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2020, tầm
nhìn đến năm 2030”.
Quyết định số 91/2008/QĐ-BVHTTDL ngày 30/12/2008 của Bộ Văn hóa, Thể
thao và Du lịch phê duyệt “Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch vùng Trung du
miền núi Bắc Bộ đến năm 2020”.
Quyết định số 3455/QĐ ngày 30/12/2011 của Bộ Văn hóa – Thể thao và Du
lịch phê duyệt “Chiến lược Marketing Du lịch Việt Nam đến năm 2020 & kế hoạch
hành động 2013 – 2015”.
Quyết định số 1741/QĐ-UBND ngày 23/09/2002 của UBND tỉnh Bắc Kạn
phê duyệt “Quy hoạch du lịch Vườn quốc gia Ba Bể”.
Quyết định số 1872/QĐ-UBND ngày 16/01/2014 của UBND tỉnh Bắc Kạn
phê duyệt “Quy hoạch xây dựng khu du lịch Ba Bể, tỉnh Bắc Kạn đến năm 2030”.
70
3.1.2. Định hướng phát triển du lịch mạo hiểm tại vườn quốc gia Ba Bể
Vấn đề bất cập của du lịch mạo hiểm Ba Bể hiện nay là thiếu quy hoạch cụ thể
cũng nhƣ định hƣớng phát triển. Do đó Ba Bể cần xác định một số định hƣớng
chính đối với việc phát triển du lịch mạo hiểm.
Định hướng về quy hoạch và xúc tiến đầu tư
Để thực thu hút đầu tƣ, việc lập quy hoạch phát triển du lịch mạo hiểm VQG
Ba Bể cần đƣợc tiến hành ƣu tiên hàng đầu. Việc lập quy hoạch phát triển du lịch
mạo hiểm phải đảm bảo phù hợp với chiến lƣợc và quy hoạch phát triển kinh tế - xã
hội của Tỉnh, bảo đảm tính khả thi, cân đối giữa cung và cầu du lịch, đồng thời phát
huy đƣợc thế mạnh để tạo ra sản phẩm du lịch mạo hiểm đặc thù Ba Bể nhằm sử
dụng hợp lý, hiệu quả tài nguyên du lịch.
Định hướng về liên kết, xúc tiến quảng bá
Hoạt động xúc tiến, quảng bá du lịch đƣợc coi là một nhân tố quan trọng góp
phần vào sự phát triển của ngành du lịch của mỗi địa phƣơng. Việc liên phát triển
du lịch nói chung và du lịch mạo hiểm Ba Bể nói riêng với các địa phƣơng vùng
Đông Bắc sẽ cho phép khai thác những lợi thế của các tỉnh để tạo nên sức hấp dẫn
khách du lịch đa dạng mang tính đặc thù toàn vùng. Ngoài ra nó còn góp phần phát
triển các sản phẩm du lịch mạo hiểm mới, hạn chế sự trùng lặp về sản phẩm du lịch
mạo hiểm giữa các tỉnh với nhau. Đây là một trong những hƣớng đi quan trọng cần
thực hiện nhằm khai thác có hiệu quả hoạt động du lịch mạo hiểm tại VQG Ba Bể.
Định hướng về phát triển sản phẩm – thị trường du lịch
Theo “Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Bắc Kạn thời kỳ đến
năm 2020” Bắc Kạn phấn đấu lƣợng khách du lịch (cả trong nƣớc và quốc tế) hằng
năm tăng từ 25 - 28%, doanh thu tăng từ 30 - 35%. Thực hiện quan điểm chiến lƣợc
tập trung vào chiều sâu, có trọng tâm, hiệu quả, bền vững, có thƣơng hiệu và sức
71
cạnh tranh, du lịch Bắc Kạn nói chung và du lịch mạo hiểm VQG Ba Bể nói riêng
cần tập trung xây dựng bộ sản phẩm du lịch mạo hiểm đặc thù, hình thành chuỗi giá
trị cung ứng dịch vụ đáp ứng nhu cầu từng nhóm thị trƣờng mục tiêu. Ngoài việc
định hình sản phẩm đặc thù, cần xác định đƣợc các đoạn thị trƣờng và đối tƣợng
khách mục tiêu để có chiến lƣợc quảng bá, thu hút khách du lịch phù hợp. Những
thị trƣờng khách du lịch mạo hiểm cần nhắm tới là Tây Âu (Đức, Ý), Bắc Mỹ (Mỹ).
Du lịch mạo hiểm không chỉ gắn chặt với tài nguyên tự nhiên mà còn có quan
hệ qua lại với cộng đồng địa phƣơng. Một chƣơng trình du lịch mạo hiểm có thể
không qua các bản làng mà chỉ nối liền các điểm đến, nhƣng du lịch mạo hiểm
muốn phát triển lâu bền thì không thể thiếu sự hỗ trợ của cộng đồng địa phƣơng bởi
tài nguyên tự nhiên và cộng đồng địa phƣơng không thể tách rời. Chính vì vậy mà
du lịch mạo hiểm phát triển theo quan điểm phát triển du lịch sinh thái và gắn kết
với cộng đồng địa phƣơng là hƣớng đi giúp phát triển du lịch ở Ba Bể bền vững hơn
và đạt đƣợc mục tiêu hài hòa lợi ích của các bên.
3.2. Một số giải pháp cụ thể
3.2.1. Nhóm giải pháp về phát triển sản phẩm
Với kết nghiên cứu về du lịch mạo hiểm tại Ba Bể, tác giả có một số đề
xuất trong việc định hƣớng phát triển các sản phẩm du lịch đặc trƣng bao gồm:
- Đi bộ mạo hiểm xuyên rừng: Tại Ba Bể hiện đi bộ mạo hiểm xuyên rừng là
hoạt động đƣợc nhiều du khách chọn lựa bởi mức độ mạo hiểm nhẹ và sự cuốn hút
của cảnh quan tự nhiên còn tƣơng đối hoang sơ. Tuy nhiên các chuyến đi bộ mới
chỉ kéo dài trong thời gian một ngày, để tăng tính hấp dẫn có thể kéo dài các tuyến
dã ngoại, cho khách cắm trại hoặc lƣu trú tại nhà dân trong các tuyến dã ngoại.
Ngoài ra, cần đảm bảo tốt các dịch vụ cấu thành của sản phẩm nhƣ: Dịch vụ lƣu trú
(cần các loại lều bạt chuyên dụng để cắm trại), dịch vụ ăn uống (đảm bảo an toàn vệ
sinh), dịch vụ cứu hộ (đảm báo ứng cứu kịp thời trong trƣờng họp xảy ra các vấn đề
về an toàn của du khách), dịch vụ thông tin liên lạc và dịch vụ bảo hiểm.
72
- Chèo thuyền vƣợt thác: Đây là nhóm sản phẩm thu hút đƣợc sự quan tâm của
khách du lịch và có nhiều điều kiện phát triển ở Ba Bể. Trong trƣờng hợp này thay
vì phƣơng tiện xuồng máy gây tiếng ồn và khói ảnh hƣởng đến môi trƣờng, các thiết
bị nhƣ thuyền độc mộc hay thuyền cao su chuyên dụng sẽ là sự lựa chọn hợp lý
hơn. Việc đầu tƣ trang thiết bị chuyên dụng là một trong những khó khăn đối với
các doanh nghiệp du lịch có kế hoạch xây dựng phát triển sản phẩm này. Hiện nay
một số hộ dân trong bản Pắc Ngòi đã sử dụng một loại thiết bị nữa là thả bè mảng
dọc theo sông. Đối với lại hình này, phƣơng tiện chủ yếu sử dụng nguyên liệu địa
phƣơng nhƣ tre/nứa hoặc cây gỗ để kết thành bè nên tiết kiệm đƣợc chi phí đầu tƣ
thiết bị. Tuy nhiên việc điều khiển những bè mảng này đòi hỏi phải là ngƣời dân
bản địa hoặc du khách phải đƣợc đào tạo kỹ năng trƣớc khi tiến hành hoạt động
khám phá dòng sông. Thời gian phù hợp để tổ chức xây dựng sản phẩm này ở Ba
Bể là vào mùa mƣa (từ tháng 6 đến tháng 8) bởi lúc này tốc độ dòng chảy của các
con sông cùng với tính mạo hiểm tăng lên thỏa mãn nhu cầu khám phá chính phục
thử thách của du khách.
- Thám hiểm hang động: Trong báo cáo “Cơ sở khoa học để phát triển các
sản phẩm du lịch thể thao mạo hiểm vùng núi phía Bắc”, tác giả Phạm Trung
Lƣơng đã nhận định một số hang động tại Ba Bể nhƣ động Hua Mạ, động Puông,
động Thẩm Kít, động Nà Phòong là những hang động sâu, có cấu trúc khá phức tạp,
vì vậy ngoài việc cảm nhận giá trị cảnh quan địa chất, du khách sẽ có đƣợc cảm xúc
“mạo hiểm” khi đi sâu thám hiểm toàn bộ chiều dài của hang. Cũng giống nhƣ một
số loại sản phẩm du lịch mạo hiểm trên, khách du lịch thám hiểm hang động cần trải
qua các lớp huấn luyện ngắn về các kĩ năng đi trong hang động, xử lý các tình
huống nảy sinh trong quá trình khám phá hang động. Bên cạnh các dịch vụ cơ bản
nhƣ lƣu trú, ăn uống thì dịch vụ huấn luyện, dịch vụ cứu hộ là những dịch vụ cần
thiết đƣa vào cấu thành sản phẩm du lịch mạo hiểm này. Du lịch thám hiểm hang
động có thể đƣợc tổ chức quanh năm ở Ba Bể nhƣng thời gian thuận lợi nhất vào
73
khoáng tháng 10 đến tháng 4 bởi đó là vào mùa khô, thời tiết khô ráo, những rủi ro
về sạt lở, ngập hang do lũ sẽ hạn chế.
- Du lịch mạo hiểm tổng hợp: Các sản phẩm thuộc nhóm này thực chất là sự
kết hợp của nhiều sản phẩm du lịch mạo hiểm khác nhau trong một chƣơng trình
tổng hợp trên một hành trình dài qua nhiều điểm đến. Việc tổ chức thành công
“Raid Gouloises”năm 2002 là một minh chứng cụ thể về khả năng xây dựng nhóm
sản phẩm du lịch dạng này. Tại Ba Bể có thể xây dựng tuyến Thái Nguyên (thám
hiểm hang đông) – Tuyên Quang (khám phá văn hóa) – Bắc Kạn (khám phá các giá
trị cảnh quan, leo núi) - Lạng Sơn (khám phá các giá trị cảnh quan) – Quảng Ninh
(chèo thuyền, lặn biển). Có thể nói tuyến du lịch Đông Bắc bao trùm các tỉnh Thái
Nguyên, Tuyên Quang, Bắc Kạn, Lạng Sơn, và Quảng Ninh hội đủ nhiều yếu tố
làm nên một sản phẩm du lịch riêng biệt, độc đáo và không trùng lặp. Đó là cảnh
quan thiên nhiên hoang sơ, hùng vỹ, nền văn hóa đậm đà bản sắc, con ngƣời thân
thiện. Nếu các hành trình du lịch thông thƣờng chỉ giúp khách du lịch cảm nhận
đƣợc phần nào vẻ đẹp tự nhiên của Đông Bắc thì du lịch mạo hiểm là sản phẩm sẽ
khai thác đƣợc tối đa những lợi thế sẵn có trên của vùng miền. Ngoài ra việc khai
thác và phát triển tuyến du lịch này còn nhằm góp phần tăng nguồn thu du lịch, xóa
đói giảm nghèo cho cộng đồng địa phƣơng cũng nhƣ gia tăng sự giao lƣu, hiểu biết
văn hóa giữa các vùng miền.
3.2.2. Nhóm giải pháp về tuyên truyền quảng bá và khai thác thị trường
Đối với thị trƣờng nƣớc ngoài cần chú trọng đến việc tiếp cận thị trƣờng khách
Tây Âu (Đức, Ý), Bắc Mỹ (Mỹ) vì đây là nhóm nƣớc có nhiều khách du lịch đến
Việt Nam và cũng đang tham gia nhiều hoạt động du lịch mạo hiểm tại Ba Bể. Do
đó, Ba Bể cần có các hình thức tiếp cận phù hợp nhƣ mở các trang mạng giới thiệu
bằng tiếng Anh về du lịch Ba Bể, hoặc mở các trang giới thiệu trên Facebook và
thông qua các chƣơng trình xúc tiến, hội chợ du lịch của tỉnh, của quốc gia để làm
công tác quảng bá. Các hoạt động quảng bá cần làm liên tục, đa dạng về thông tin
và cách tiếp cận nhằm thu hút ngƣời quan tâm.
74
Hoạt động quảng bá cũng cần thực hiện liên tục và thƣờng xuyên với thị
trƣờng du lịch nội địa (những thị trƣờng lớn nhƣ Hà Nội, Đà Nẵng, Hồ Chí Minh).
Đặc biệt quan tâm đến các đối tƣợng thanh niên nhất là học, sinh viên. Đây là đối
tƣợng du khách hiện nay có nhiều yêu cầu về đi du lịch dã ngoại, khám phá, đồng
thời họ cũng là những đối tƣợng có khả năng quảng bá và giúp mở rộng thị trƣờng.
Đối với các công ty du lịch cần tập trung khai thác hiệu quả các chƣơng trình
du lịch mạo hiểm (sản phẩm, chất lƣợng, dịch vụ) phù hợp với đặc điểm, sở thích và
nhu cầu của thị trƣờng khách quốc tế và khách nội địa. Chú trọng xây dựng và tạo
ra các loại hình và sản phẩm du lịch mạo hiểm mang bản sắc riêng của Ba Bể.
Chẳng hạn nhƣ: tại khu vực hồ Ba Bể, có thể tổ chức các cuộc thi chèo thuyền độc
mộc kết hợp với khám phá động Puông. Hoạt động này vừa mang tính khám phá
vừa khai thác đƣợc nét văn hóa đặc sắc của vùng. Đặc biệt tại Ba Bể có thể kết hợp
các hoạt động du lịch mạo hiểm với các hoạt động du lịch sinh thái, nghỉ dƣỡng hay
tham quan thuần tuý. Đây sẽ là một xu hƣớng phát triển mạnh trong tƣơng lai.
Loại hình du lịch mạo hiểm và du lịch thể thao mạo hiểm có nhiều nét tƣơng
đồng, do đó có thể tổ chức các giải, các cuộc thi có hoạt động mạo hiểm thể thao tại
tỉnh, vừa mang lại nguồn thu, vừa giúp quảng bá thƣơng hiệu cũng nhƣ tạo cơ hội
giao lƣu, học hỏi cho các nhà tổ chức kinh doanh du lịch mạo hiểm địa phƣơng.
Ngoài ra, việc tiếp xúc với các giải có uy tín sẽ tạo điều kiện để du lịch mạo hiểm
địa phƣơng tiếp cận với chuẩn mực quốc tế.
Qua kết quả nghiên cứu ở chƣơng 2, có thể thấy việc quảng bá qua hình thức
truyền miệng mang lại hiệu quả khá cao (42,3%). Do đó, cần xây dựng thƣơng hiệu,
hình ảnh riêng của du lịch mạo hiểm ở Ba Bể nói chung và ở từng điểm du lịch mạo
hiểm nói riêng bằng cách tạo niềm tin cho du khách về sự hấp dẫn của các loại hình
du lịch mạo hiểm ở từng điểm du lịch và về sự phát triển bền vững của nó. Trƣớc
hết cần thiết kế các tờ quảng cáo, các tờ gấp về từng điểm du lịch mạo hiểm và phát
miễn phí cho các công ty du lịch hoặc có thể in ghép vào nội dung các tờ quảng cáo
75
của các công ty lữ hành và các khách sạn khác. Việc đƣa ra các slogan nhƣ “Kì diệu
Ba Bể”, “Viên ngọc xanh Ba Bể” hay “Ba Bể - trải nghiệm khó quên” cũng là một
cách gây ấn tƣợng cho du khách về Ba Bể.
Cần xây dựng một quỹ dành riêng cho quảng bá, tiếp thị các loại hình du lịch
mạo hiểm trong ở Ba Bể. Do chi phí cho quảng bá và tiếp thị là một kinh phí không
nhỏ, nếu để cho từng công ty tự quảng bá thì do kinh phí hạn chế, việc tiếp thị sẽ
không đem lại hiệu quả. Do vậy, Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch nên lập và quản lý
quỹ quảng bá và tiếp thị với sự đóng góp của các công ty du lịch trích từ doanh thu
hằng năm của họ để duy trì việc quảng bá đều đặn và có hiệu quả.
Quảng bá du lịch thông qua các trang mạng xã hội đang thịnh hành trong thời
buổi bùng nổ công nghệ thông tin nhƣ hiện nay. Các trang mạng xã hội nhƣ
Facebook, Twitter, Tripadvisor, v.v. ngày càng thu hút đông đảo lƣợng ngƣời truy
cập. Có thể nói, đây là một trong những công cụ hữu hiệu để khai thác, quảng bá
hình ảnh du lịch. Để thực hiện việc quảng bá du lịch qua mạng xã hội, Sở
VHTT&DL Bắc Kạn cần xây dựng website riêng của VQG Ba Bể (trang tiếng Việt
và tiếng Anh). Trong đó không chỉ cung cấp các thông tin giới thiệu về Ba Bể, các
kinh nghiệm, kỹ năng khi tham gia các loại hình du lịch mà còn là nơi khách du lịch
có thể đăng kí mua chƣơng trình du lịch trực tuyến. Có thể thấy rằng trong bối cảnh
ngân sách nhà nƣớc đầu tƣ cho xúc tiến, quảng bá còn hạn chế thì những tiện ích
của việc quảng bá du lịch qua mạng xã hội (nhƣ chi phí thấp để truyền tải thông tin
và truyền thông đến số lƣợng lớn đối tƣợng tiếp nhận; thông điệp đƣợc truyền tải
dƣới nhiều hình thức nhƣ văn bản, hình ảnh, âm thanh, phim và trò chơi, v.v.) có ý
nghĩa thiết thực.
3.2.3. Nhóm giải pháp về nâng cấp cơ sở hạ tầng, cơ sở vật chất kỹ thuật
- Hoàn thiện hệ thống cấp thoát nƣớc trên địa bàn các bản phục vụ du lịch và
các bản xung quanh. Hiện nay 2 bản Cốc Tộc, Pác Ngòi chƣa có hệ thống cấp nƣớc
sinh hoạt (nguồn nƣớc chủ yếu các hộ dân ở Cốc Tộc sử dụng vẫn là nguồn mạch
76
nông), chỉ có khu trung tâm Bó Lù đƣợc đầu tƣ hệ thống nƣớc sạch và hệ thống bể
phân phối tại các khu trụ sở ủy ban và bƣu điện. Do đó, cần chú trọng vào các bản
nhƣ Pắc Ngòi, Cốc Tộc bởi đây là các khu vực khách du lịch quốc tế thƣờng xuyên
tới tham quan và lƣu trú qua đêm.
- Hỗ trợ việc thiết kế, xây dựng và quản lý các cơ sở lƣu trú nhà nghỉ du lịch
cộng đồng, các quầy bán hàng lƣu niệm, đồ ăn, thức ăn uống, v.v. đảm bảo vệ sinh
và an toàn nhằm phục vụ nhu cầu ở lại đêm và nghỉ ngơi của du khách. Ngoài ra,
nhằm hạn chế sự ô nhiễm môi trƣờng từ các rác thải sinh hoạt, cần ban hành những
quy định về vệ sinh môi trƣờng tại các điểm bán hàng tại bờ hồ Ba Bể - nơi tập
trung nhiều hộ kinh doanh; Đặt các thùng rác nhỏ trên thuyền, tại những điểm tham
quan, dừng chân của du khách; Vệ sinh định kỳ tại các địa điểm du lịch, 2lần/tháng.
Việc này có thể giao cho cộng đồng địa phƣơng tự thành lập các đội tự quản dƣới
sự giám sát của BQL VQG.
- Củng cố và duy trì hệ thống hƣớng dẫn gồm: cột mốc, các bảng chỉ dẫn,
bảng nội quy, thông tin hƣớng dẫn dành cho khách du lịch mạo hiểm ở các tuyến
điểm chính và ở các khu vực phụ cận nhằm hỗ trợ khách du lịch và cũng nhằm
quảng bá cho Ba Bể.
- Xây dựng trạm dừng chân tại tuyến đi bộ trong rừng. Trạm nghỉ dừng chân
nên làm theo kiến trúc của nhà sàn ngƣời Tày có vị trí cao ráo nhằm hóng gió và
quan sát thiên nhiên xung quanh một cách dễ dàng.
- Nâng cấp các bến thuyền, và đảm bảo các trạm hƣớng dẫn du lịch luôn trong
tình trạng có ngƣời trực để đảm bảo và hỗ trợ an toàn cho du khách. Xây dựng và
nâng cấp tất cả các trạm kiểm lâm, trạm bảo vệ rừng thành các trạm hƣớng dẫn. Đây
cũng là nơi cung cấp ngƣời dẫn đƣờng hoặc hỗ trợ khi cần thiết theo yêu cầu của
du khách du lịch mạo hiểm.
77
3.2.4. Nhóm giải pháp về phát triển nguồn nhân lực
Do tính đặc thù, đội ngũ lao động phục trong du lịch mạo hiểm có yêu cầu cao
hơn hẳn so với các loại hình du lịch khác. Họ phải đƣợc đào tạo bài bản về trình độ,
kỹ năng (kỹ năng cứu hộ, kỹ năng xử lý trong những tình huống khẩn cấp, tai nạn).
Hiện nay chất lƣợng nguồn nhân lực phục vụ DLMH tại Ba Bể không những thiếu
về số lƣợng mà còn kém về chất lƣợng. Để từng bƣớc khắc phục vấn đề này, cần
thực hiện một số biện pháp sau:
- Tiến hành đánh giá thực trạng đội ngũ lao động ngành du lịch cả về số lƣợng
và chất lƣợng và căn cứ yêu cầu phát triển trong từng giai đoạn để xây dựng kế
hoạch đào tạo mới và đào tạo lại cho phù hợp và có hiệu quả.
- Việc đầu tƣ cho công tác đào tạo, bồi dƣỡng nguồn nhân lực du lịch có chất
lƣợng cho ngành du lịch cần tập trung theo các hƣớng:
Đào tạo tại chỗ: Tập huấn và tổ chức cho cộng đồng dân cƣ tham gia vào hoạt
động du lịch tại chỗ thông qua hoạt động cung ứng dịch vụ nhà trọ, sản xuất hàng
lƣu niệm, cải thiện vệ sinh làng bản, cung ứng lƣơng thực thực phẩm cho du lịch,
mang vác trang thiết bị, đồ dùng cho các tuyến du lịch mạo hiểm.
Đào tạo ở các địa phương khác: Lựa chọn các địa phƣơng có mô hình du
lịch mạo hiểm phù hợp với Ba Bể, hoặc có các mô hình đang thực hiện thành công,
sau đó sẽ gửi ngƣời đi học tập kinh nghiệm. Việc này nhằm phát huy các bài học
thành công, rút kinh nghiệm từ hạn chế của các mô hình khác khi vận dụng vào Ba
Bể.
- Trung tâm Giáo dục và Dịch vụ Môi trƣờng Rừng và hạt kiểm lâm thuộc
VQG cần lên kế hoạch phối hợp với nhau nhằm có kế hoạch phát triển nhân lực phù
hợp. Cụ thể, tuyển chọn và gửi một số kiểm lâm viên đi đào tạo, bồi dƣỡng nâng
cao nghiệp vụ về du lịch mạo hiểm. Trong trƣờng hợp cần, họ sẽ trở thành những
hƣớng dẫn viên du lịch. Đây là lực lƣợng đã đƣợc đào tạo kiến thức về đa dạng sinh
78
học, có sức khỏe tốt. Sử dụng nguồn lao động này làm hƣớng dẫn viên du lịch mạo
hiểm là rất phù hợp bởi nó vừa đáp ứng nhu cầu về nguồn lực lao động để phát triển
du lịch mạo hiểm vừa động viên họ làm tốt công tác quản lý, bảo vệ và từng bƣớc
phát huy giá trị của VQG Ba Bể. Mô hình này đã đƣợc một số VQG ở trong nƣớc
áp dụng rất có hiệu quả (VQG Cúc Phƣơng, VQG Cát Tiên).
- Mở thêm các lớp đào tạo, đặc biệt là về ngoại ngữ nhƣ: Những lớp giao tiếp
căn bản cho ngƣời kinh doanh tại điểm tham quan; Những lớp kỹ năng chuyên
ngành cho các hƣớng dẫn viên nhằm nâng cao năng lực hƣớng dẫn du khách, đặc
biệt là với du khách quôc tế.
Với sự đa dạng, phức tạp về địa hình, thiên nhiên hùng vĩ, văn hóa cổ truyền
đặc sắc, VQG Ba Bể có điều kiện thuận lợi phát triển du lịch mạo hiểm, khám phá.
Tuy nhiên, do những nguyên nhân chủ quan và khách quan mà du lịch mạo hiểm Ba
Bể hiện nay vẫn chƣa đƣợc khai thác hiệu quả và đảm bảo theo các nguyên tắc của
phát triển bền vững. Để khai thác du lịch mạo hiểm đạt hiệu quả cao, cần thực hiện
đồng bộ các giải pháp về: cơ chế chính sách, nâng cấp cơ sở hạ tầng, cơ sở vật chất
kỹ thuật, phát triển sản phẩm, tuyên truyền quảng bá, phát triển nguồn nhân lực.
Các giải pháp này cần đƣợc thực hiện trong thời gian dài và sự nỗ lực hợp tác chặt
chẽ giữa các cấp chính quyền, ngành du lịch, các ban ngành liên quan, các doanh
nghiệp du lịch và cộng đồng địa phƣơng.
3.2.5. Nhóm giải pháp về liên kết, phát triển sản phẩm du lịch mạo hiểm
Trƣớc hết, việc phát triển và liên kết sản phẩm du lịch mạo hiểm cần khai
thác đƣợc thế mạnh của các điểm du lịch Ba Bể, dựa trên định vị của sản phẩm du
lịch Ba Bể. Định hƣớng này dựa trên đặc điểm cạnh tranh của các điểm du lịch
trong vùng. Khu vực Đông Bắc có một số sản phẩm khá tƣơng đồng về văn hóa
cũng nhƣ nghỉ dƣỡng – sinh thái – thể thao -mạo hiểm. Hơn nữa vùng này có nhiều
tài nguyên du lịch tạo ra những sản phẩm du lịch có giá trị cao. Việc phát triển liên
kết điểm du lịch mạo hiểm của Ba Bể phải tính tới những điều kiện này và chú
79
trọng vào định vị của Ba Bể. Tuy sản phẩm du lịch mạo hiểm của Ba Bể chƣa thể
cạnh tranh trực tiếp với sản phẩm du lịch của các địa phƣơng khác nhƣng sẽ là một
sản phẩm thay thế quan trọng, đáp ứng nhu cầu đa dạng của khách du lịch.
Thứ hai là vai trò của cơ quan quản lý nhà nƣớc về du lịch trong việc thúc
đẩy liên kết, hợp tác khu vực, xây dựng sản phẩm du lịch mạo hiểm và đặc biệt là
trong khuyến khích doanh nghiệp lữ hành, cộng đồng địa phƣơng tham gia phát
triển và khai thác sản phẩm du lịch mạo hiểm. Sản phẩm du lịch mạo hiểm Ba Bể
chƣa phát triển, phần lớn mới ở dạng tiềm năng. Phần lớn các công ty lữ hành có xu
hƣớng khai thác các sản phẩm du lịch có sẵn mà ít đầu tƣ phát triển sản phẩm mới.
Lợi thế lớn nhất của Ba Bể hiện nay là khí hậu và cảnh quan, phù hợp với phát
triển du lịch sinh thái nghỉ dƣỡng và tham quan, du lịch mạo hiểm có thể liên kết
với các loại hình du lịch này để có một chƣơng trình du lịch hấp dẫn du khách nhƣ:
Tuyến du lịch khám phá: Hà Nội –Ba Bể – thác Bản Dốc – đông Tam Thanh –
vịnh Bái Tử Long.
Tuyến du lịch khám phá bằng xe mô tô: Hà Nội – Bắc Hà – Mèo Vạc – Đồng
Văn - Hoàng Su Phì.
Khách du lịch tham gia các tuyến du lịch mạo hiểm này sẽ có dịp đi qua những
cung đƣờng Đông Bắc trắc trở, cùng với khung cảnh thiên nhiên hùng vĩ, cảnh sắc
hoang sơ, những phong tục tập quan độc đáo của ngƣời dân địa phƣơng. Đây là
những yếu đặc biệt hấp dẫn khách du lịch tham gia vào các loại hình du lịch mạo
hiểm, khám phá.
3.2.6. Nhóm giải pháp về cơ chế chính sách
Hoàn thiện quy hoạch du lịch mạo hiểm
Xây dựng quy hoạch chi tiết không gian, khu vực, tuyến, điểm, sản phẩm du
lịch mạo hiểm là bƣớc đi đầu tiên cần thực hiện ở Ba Bể. Trong thời gian sớm nhất,
Ba Bể cần một chiến lƣợc bài bản và đồng bộ về phát triển du lịch mạo hiểm. Trên
cơ sở đó, có kế hoạch đầu tƣ hạ tầng hoặc kêu gọi đầu tƣ cũng nhƣ có cơ chế 80
khuyến khích thu hút đầu tƣ từ các nguồn khác nhau. Trong kế hoạch đó, một số nội
dung cần đƣợc chi tiết hóa:
- Xây dựng các tuyến, các khu vực tổ chức du lịch mạo hiểm thƣờng xuyên
cho khách du lịch. Cần chú trọng các khu vực ở hồ Ba Bể, hệ thống các hang động
nhƣ động Hua Mạ, động Puông, động Nà Phoòng, các bản làng trên núi, các tuyến
du lịch theo hệ thống thác, hồ, sông, đƣờng đi bộ qua rừng, qua các bản làng, hệ
thống các đèo.
- Xác định đƣợc các nguồn vốn, dòng tài chính để thực hiện kế hoạch. Ngoài
nguồn vốn truyền thống từ ngân sách, các nguồn vốn khác cũng cần đƣợc xác định
là quan trọng (đầu tƣ của khối tƣ nhân, cá nhân, cộng đồng, v.v.). Trong kế hoạch
cũng cần xác định rõ phƣơng án cụ thể nhằm thu hút, phát động đầu tƣ của các
nguồn vốn đó.
- Tăng cƣờng sự tham gia của các bên: các cơ quan nghiên cứu/quy hoạch
chuyên ngành, các nhà quản lý, công ty du lịch, cộng đồng địa phƣơng nhằm có
đƣợc sự đồng thuận và các nỗ lực chung trong việc thực hiện kế hoạch sau này.
Về tài chính
- Để phát triển đƣợc du lịch ở Ba Bể thì xã hội hóa việc phát triển du lịch sẽ là
một trong những mục tiêu cần huớng tới. Thực tế phát triển du lịch hiện tại cho thấy
các mô hình lƣu trú địa phƣơng, việc sử dụng các hƣớng dẫn viên địa phƣơng đang
thu hút đƣợc du khách. Do đó, nhằm thực sự hỗ trợ các gia đình và tổ chức địa
phƣơng tham gia và phát triển đƣợc các hoạt động du lịch của mình thì chính sách
cho vay và hỗ trợ vốn cần phải đƣợc cải thiện. Cụ thể, Huyện và VQG có thể thí
điểm cho 10 – 20 hộ gia đình vay vốn ƣu đãi với lãi suất thấp hoặc miễn lãi suất
trong vòng 5 năm. Hình thức cho vay vốn có thể thông qua các khoảng đầu tƣ trực
tiếp từ VQG hoặc ngân hàng huyện với hình thức thế chấp, tín chấp đơn giản để
ngƣời dân có thể tìm đƣợc nguồn vốn phù hợp.
81
- Trích một phần từ nguồn thu vé tham quan cho VQG Ba Bể để bổ sung thêm
nguồn chi phí cho công tác quy hoạch, đào tạo nhân lực cho các hộ gia đình tham
gia hoạt động du lịch. Nguồn trích này có thể từ 10-20% từ vé vào cửa làm quỹ đào
tạo và phát triển du lịch. Quỹ đƣợc quản lý bởi cộng đồng và chỉ dùng cho các hoạt
động đào tạo kỹ năng, kiến thức về du lịch (nghiệp vụ hƣớng dẫn, nấu ăn, ngoại
ngữ, v.v.) nhằm phát triển hệ thống và dịch vụ lƣu trú cộng đồng chuyên nghiệp
hơn.
Về thu hút đầu tư
- Có chính sách miễn tiền thuê đất, thuế doanh nghiệp trong một thời gian
nhất định cho các doanh nghiệp đầu tƣ phát triển du lịch tại Ba Bể, đặc biệt khuyến
khích các mô hình du lịch mạo hiểm, du lịch sinh thái có sự tham gia của cộng
đồng.
- Các cơ quan quản lý cần cải cách thủ tục hành chính, đơn giản hóa thủ tục
cấp phép đầu tƣ, đền bù giải phóng mặt bằng. Hỗ trợ lãi suất tiền vay cho các dự án
đầu tƣ phát triển đa dạng sản phẩm du lịch mạo hiểm tại VQG Ba Bể.
- Trong chính sách thu hút đầu tƣ không nên phân biệt doanh nghiệp trong
nƣớc hay nƣớc ngoài, trong tỉnh hay ngoài tỉnh. Cần chú trọng thu hút vốn đầu tƣ
lớn, tạo ra các sản phẩm du lịch độc đáo, hấp dẫn, đồng thời thu hút con ngƣời có
kinh nghiệm quản lý trong khai thác và kinh doanh du lịch. Đây có thể coi nhƣ
chính sách mang tính đòn bẩy để tạo đà cho phát triển du lịch Ba Bể.
82
Tiểu kết chƣơng 3
Dựa trên cơ sở nghiên cứu, đánh giá tiềm năng và thực trạng phát triển du lịch
mạo hiểm tại VQG Ba Bể, luận văn đã đề ra một số giải pháp cơ bản nhằm khai
thác có hiệu quả du lịch mạo hiểm.
Căn cứ vào các quy hoạch du lịch quốc gia, vùng; quy hoạch tổng thể phát
triển kinh tế - xã hội Bắc Kạn đến năm 2020; quy hoạch du lịch chung và quy hoạch
tổng thể xây dựng khu du lịch Ba Bể, tỉnh Bắc Kạn đến năm 2030, v.v. Tác giả đã
đề xuất một số giải pháp trên các lĩnh vực nhƣ sau: Phát triển sản phẩm, đẩy mạnh
xúc tiến đầu tƣ, quảng bá du lịch mạo hiểm; nâng cao nhận thức cũng nhƣ chất
lƣợng nguồn nhân lực phục vụ du lịch mạo hiểm, đầu tƣ phát triển cơ sở hạ tầng, cơ
sở vật chất kỹ thuật phục vụ du lịch mạo hiểm; hoàn thiện quy hoạch du lịch mạo
hiểm. Trong đó giải pháp về xây dựng quy hoạch du lịch mạo hiểm là giải pháp cấp
bách cần thực hiện trƣớc tiên tại Ba Bể.
83
KẾT LUẬN
Luận văn nghiên cứu điều kiện và thực trạng khai thác hoạt động du lịch mạo
hiểm tại VQG Ba Bể, từ đó đề xuất những giải pháp phát triển loại hình du lịch du
lịch mạo hiểm trên địa bàn này. Qua quá trình thực hiện đề tài, tác giả rút ra một số
kết luận sau:
Du lịch mạo hiểm là một trong những loại hình du lịch đang thu hút sự quan
tâm của nhiều khách du lịch, đặc biệt là những khách du lịch ƣa khám phá, mạo
hiểm. Loại hình du lịch này đã đƣợc phát triển thành công ở nhiều nƣớc trên thế
giới. Ở Việt Nam, du lịch mạo hiểm cũng đƣợc tổ chức thành công ở nhiều VQG
nhƣ Phong Nha – Kẻ Bàng, VQG Hoàng Liên Sơn.
Nằm trong trong tiểu vùng du lịch Đông Bắc, VQG Ba Bể có thế mạnh lớn về
tài nguyên du lịch và đã khai thác một số hoạt động du lịch mạo hiểm nhƣ du lịch
thám hiểm hang động, du lịch dã ngoại, du lịch khám phá sông hồ. Tuy nhiên, hiện
trạng du lịch mạo hiểm Ba Bể còn tồn tại những vấn đề bất cập: Cơ sở vật chất,hạ
tầng kỹ thuật phục vụ du lịch yếu kém, sản phẩm đơn điệu, thiếu hấp dẫn; Các hoạt
động hƣớng dẫn, cung cấp thông tin chƣa mang lại hiệu quả. Hơn nữa, công tác
quảng bá du lịch Ba Bể chƣa đƣợc quan tâm đúng mức nên nhiều du khách còn
chƣa biết đến du lịch Ba Bể.
Từ kết quả nghiên cứu, tác giả đã đề xuất một số giải pháp gồm nâng cấp cơ
sở hạ tầng, cơ sở vật chất kỹ thuật, phát triển sản phẩm, phát triển nguồn nhân lực,
quảng bá và khai thác thi trƣờng nhằm khai thác hiệu quả hoạt động du lịch mạo
hiểm ở VQG Ba Bể. Thiên nhiên Ba Bể là nguồn tài nguyên du lịch chính, vì vậy
việc khai thác và bảo toàn môi trƣờng trƣờng tự nhiên là yếu tố quan trọng nhất để
phát triển du lịch mạo hiểm VQG Ba Bể.
84
KIẾN NGHỊ
Trong quá trình thực hiện, với những hạn chế về thời gian và kinh nghiệm, kết
quả nghiên cứu đạt đƣợc của đê tài mới dừng lại ở những khảo sát ban đầu. Vì thế,
tôi có một số kiến nghị sau đây:
Cần có thêm những hoạt động nghiên cứu nhằm giải quyết tốt hơn các vấn đề
đặt ra nhƣ triển khai áp dụng thêm các phƣơng pháp đánh giá không gian thuận lợi
cho phát triển du lịch mạo hiểm (ví dụ nhƣ sử dụng các phƣơng pháp sơ đồ, bản đồ
nhằm phân tích, đánh giá tiềm năng phát triển du lịch mạo hiểm và điều kiện có liên
quan).
Cần tiếp tục có những nghiên cứu cụ thể hơn và cần có một lộ trình lâu dài với
sự tham gia của nhiều bên liên quan để đánh giá tổng quát đƣợc hiện trạng và
phƣơng hƣớng quản lý đối với du lịch mạo hiểm Ba Bể.
85
TÀI LIỆU THAM KHẢO
TIẾNG VIỆT
1. Bộ Kế hoạch Đầu tƣ, 2008. Quy hoạch tổng thể phát triển Kinh tế - xã hội
Bắc Kạn đến năm 2020. Hà Nội, 2008.
2. Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, 2000. Chƣơng trình Phát triển Liên
hợp quốc (UNDP), Phát triển du lịch sinh thái cho Ba Bể/ Na Hang. Hà Nội,
2000.
3. Bộ Văn hóa – Thể thao và Du lịch. Chiến lược Marketing Du lịch Việt Nam
đến năm 2020 & kế hoạch hành động 2013 – 2015. Hà Nội, 2013.
4. Bộ Văn hóa – Thể thao và Du lịch. Quy hoạch tổng thể phát triển Du lịch
Việt Nam đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030. Hà Nội, 2010.
5. Bùi Thị Hải Yến, 2006. Quy hoạch du lịch. NXB Giáo dục.
6. Cục thống kê tỉnh Bắc Kạn, 2014. Niêm giám thống kê huyện Ba Bể năm
2014.
7. Hoàng Đỗ Vân, 2010. Du lịch mạo hiểm với sự phát triển du lịch của thị trấn
SaPa – huyện Lào Cai. Khóa luận tốt nghiệp, Đại học Văn Hóa.
8. Nguyễn Đình Hòe, Vũ Văn Hiếu, 2001. Du lịch bền vững. Nxb Đại học
Quốc Gia Hà Nội, Hà Nội.
9. Phạm Trung Lƣơng, 2007. Cơ sở khoa học để phát triển các sản phẩm du
lịch thể thao – mạo hiểm vùng núi phía Bắc, Báo cáo khoa học cấp Bộ, Hà
Nội.
10. Sở Văn hóa - Thể thao và Du lịch tỉnh Bắc Kạn. Báo cáo đánh giá hoạt động
du lịch Bắc Kạn (2005 – 2013). Định hướng phát triển du lịch trong những
năm tiếp theo.
11. Sở Văn hóa - Thể thao và Du lịch tỉnh Bắc Kạn. Cẩm nang du lịch Bắc Kạn.
12. Thái Văn Trừng, 1978. Thảm thực vật rừng Việt Nam. Nxb Khoa học Kỹ
thuật, Hà Nội.
86
13. Thủ tƣớng Chính phủ, 2001. Kế hoạch hành động đa dạng sinh học của Việt
Nam. Hà Nội, 1995.
14. Thủ tƣớng Chính phủ, 1992. Luận chứng kinh tế - kỹ thuật đầu tư xây dựng
VQG Ba Bể (giai đoạn 1). Hà Nội, 1992.
15. Thủ tƣớng Chính phủ, 2014. Phê duyệt quy hoạch hệ thống rừng đặc dụng
cả nước đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030. Hà Nội, 2014.
16. Thủ tƣớng Chính phủ, 2001. Quy chế Quản lý rừng đặc dụng, rừng phòng
hộ và rừng sản xuất là rừng tự nhiên. Hà Nội, 2011.
17. Trần Đức Thanh, 2005. Nhập môn khoa học du lịch. Nxb ĐHQG Hà Nôi, Hà
Nội.
18. Trần Thị Thúy Lan, 2005. Giáo trình tổng quan du lịch. Nxb Hà Nội.
19. Trịnh Lê Anh, 2006. Du lịch Trekking ở Việt Nam: Loại hình và phương
thức tổ chức (Nghiên cứu trường hợp ở Sa Pa – Lào Cai). Luận văn Thạc sĩ,
Đại học Quốc Gia Hà Nội.
20. Trƣơng Quang Hải, 2006. Nghiên cứu tuyến Du lịch mạo hiểm Phong Nha
– Kẻ Bàng. Đề tài NCKH cấp Bộ, Đại học Quốc gia Hà Nội.
21. Trƣơng Thị Lan Hƣơng, 2007. Du lịch mạo hiểm núi tại Lâm Đồng: Cơ sở lý
thuyết và nghiên cứu trường hợp. Đề tài nghiên cứu cấp trƣờng, Trƣờng Đại
học Đà Lạt.
22. Trƣơng Việt Trƣờng, 2010. Nghiên cứu du lịch sinh thái kết hợp với du lịch
mạo hiểm tại khu mỏ Kẽm - Chì Chợ Đồn, huyện Chợ Đồn, tỉnh Bắc Kạn.
Luận văn Thạc sĩ, Đại học Quốc Gia Hà Nội.
23. UBND tỉnh Bắc Kạn. Ban thực hiện dự án phát triển du lịch bền vững tiểu
vùng sông Mê Kông mở rộng. Báo cáo khảo sát đánh giá sản phẩm du lịch
dụa vào cộng đồng (tại huyện Ba Bể và thị xã Bắc Kạn) năm 2013.
24. UBND tỉnh Bắc Kạn. Nghị quyết số 18-NQ/TU ngày 19/4/2012, Phát triển
thương mại, dịch vụ, du lịch đến năm 2015, định hướng đến năm 2020.
87
25. UBND tỉnh Bắc Kạn, 2003. Quy chế tổ chức, quản lý và hoạt động của Vườn
Quốc gia Ba Bể. Bắc Kạn, 2003.
26. UBND tỉnh Bắc Kạn. Quyết định số 1741/QĐ-UBND ngày 23/9/2002. Quy
hoạch du lịch Vườn Quốc gia Ba Bể.
27. UBND tỉnh Bắc Kạn. Quyết định số 1872/QĐ-UBND ngày 16/01/2014. Quy
hoạch xây dựng khu du lịch Ba Bể, tỉnh Bắc Kạn đến năm 2030.
28. Ủy ban Thƣờng vụ Quốc hội. Luật Du lịch, Hà Nội, 2005.
29. Văn phòng Chính phủ, 2010. Đăng ký Vườn Quốc gia Ba Bể vào danh sách
Ramsar. Hà Nội, 2010.
30. Vƣờn quốc gia Ba Bể. Báo cáo Kết quả thực hiện nhiệm vụ năm 2014, triển
khai nhiệm vụ năm 2015.
TIẾNG ANH
31. Adventure Market Study 2013.Adventure Travel Trade Associantion and The
George Washington University (2013).
32. Euromonitor International, Travel and Tourism in France, Country Report
2013.
33. John Swarbrooke, 2003. Adventure Tourism: The new frontier, Oxford ;
Boston, MA : Butterworth-Heinemann.
34. Millington K. Locke, 2001. Occasionnal studies: Adventure travel, Travel
and Tourism Analyst, 4, 65-97.
35. Ralf Buckley, 2006. Adventure tourism, Wallingford, Oxon, UK,
Cambridge.
36. Tourism Organization, 2014. Global Report on Adventure.
37. World Travel Tourism Council. Travel & Tourism: Economic impact 2014
Thailand.
88
PHỤ LỤC
Nguồn: BQL VQG Ba Bể
Phụ lục 1: Các bản đồ của VQG Ba Bể
89
Nguồn: BQL VQG Ba Bể
90
Ảnh 1. Sơ đồ chỉ dẫn thăm quan Ba Bể
Ảnh 2. Đặc sản cá nướng
Ảnh 4. Thác Đầu Đẳng
Ảnh 3. Du khách chèo thuyền Kayay trên
sông Năng
(Nguồn: Tác giả khảo sát, 2014)
Phụ lục 2: Một số hình ảnh khảo sát tại VQG Ba Bể
91
Ảnh 6. Quầy thông tin du lịch
Ảnh 5. Đường xuống động Hua Mạ
không có người trực
Ảnh 8. Văn phòng đại diện của một Công
Ảnh 7. Rác thải bừa bãi tại đường vào động Hua
ty lữ hành DLMH tại Ba Bể
Mạ
(Nguồn: Tác giả khảo sát, 2014)
92
Ảnh 10. Các ấn phẩm quảng bá về Ba Bể
Ảnh 9. Phỏng vấn du khách
Ảnh 11. Góc nhìn từ một ngôi hà sàn tại Ba Bể
Ảnh 12. Khảo sát tại đông Puông
(Nguồn: Tác giả khảo sát, 2014)
93
Phụ lục 3
Danh sách các cơ sở lƣu trú trên địa bạn huyện Ba Bể
Liên lạc
Loại, hạng
STT
Số
Số
Tên cơ
Tên chủ cơ
Chƣa
Đã
sở
sở
phòng
giƣờng
Địa chỉ
Số điện thoại
Đã
xếp
treo
xếp
hạng
biển
cơ sở
hạng
hạng
1 KS Bƣu
Hoàng Văn
Nà Mằm,
02813894455 1 SAO
X
15
23
Điện
Nghị
Khang
Ninh
2 An
Hoàng Thị
Nà Mằm,
02813894288 NNDL
0
10
10
Thảo
Êm
Khang
CĐ
Ninh
3 Trứ
Đinh Công
Nà Mằm,
0982006103 NNDL
0
05
08
Diện
Trứ
Khang
CĐ
Ninh
4 Huỳnh
Nguyễn Văn
Nà Mằm,
0983025306 NNDL
0
04
10
Len
Huỳnh
Khang
CĐ
Ninh
5 Đức
Triệu Đức
Pác Ngòi,
0989657710 NNDL
X
07
13
Khuyến
Khuyến
Nam
CĐ
Mẫu
6 Hồng
Dƣơng Văn
Pác Ngòi,
02813894073 NNDL
X
03
07
Vịnh
Thụ
Nam
CĐ
Mẫu
7 Ông
Ngôn Văn
Pác Ngòi,
02813894067 NNDL
X
03
08
Toàn
Toàn
Nam
CĐ
94
Mẫu
8 Duy
Triệu Duy
Pác Ngòi,
01652022985 NNDL
X
06
15
Nam
Thơ
Thơ
CĐ
Mẫu
9 Huỳnh
Giá Đình
Pác Ngòi,
02813894066 NNDL
X
06
15
Nam
Hà
Huyên
CĐ
Mẫu
10 Hoàng
Hoàng Văn
Pác Ngòi,
01695420262 NNDL
X
02
08
Nam
Họp
Họp
CĐ
Mẫu
11 Hoàng
Dƣơng Văn
Pác Ngòi,
01645852632 NNDL
X
06
08
Nam
Nguyên
Vĩnh
CĐ
Mẫu
12 Hoa
Ngôn Thị
Pác Ngòi,
02813894065 NNDL
X
06
15
Nam
Sơn
Lơ
CĐ
Mẫu
13 Hoành
Dƣơng Văn
Pác Ngòi,
02813894071 NNDL
X
05
12
Nam
Tứ
Sảo
CĐ
Mẫu
14 Đạt
Ma Văn Tuệ Pác Ngòi,
01668194383 NNDL
X
02
06
Nam
Diễm
CĐ
Mẫu
15 Du Tƣ Đàm Ngọc
Bó Lù
0947642292 NNDL
0
04
09
Nam
Du
CĐ
Mẫu
16 Minh
Nguyễn Văn
Bó Lù
0946511966 NNDL
X
03
10
Nam
Tân
Từ
CĐ
Mẫu
17 Hồng
Nguyễn Văn
Bó Lù
0916512001 NNDL
X
04
10
Sơn
Đằng
Nam
CĐ
95
Mẫu
18 Quỳnh
Mã Thị Viền Bó Lù
01665678714 NNDL
X
04
10
Mai
CĐ
Nam
Mẫu
19 Suối
Ma Thị Tích Bó Lù
02813894049 NNDL
X
04
10
Mơ
CĐ
Nam
Mẫu
20 Thủy
Nguyễn
Bó Lù
02813894094 NNDL
X
10
20
Tiên
Xuân Khải
Nam
CĐ
Mẫu
21 Thái
Triệu Thị
Bó Lù
02813507095 NNDL
X
04
02
Khuyên
Khuyên
CĐ
Nam
Mẫu
22 Thuận
Đàm Ngọc
Bó Lù
01693468347 NNDL
X
06
10
Thơm
Thuận
CĐ
Nam
Mẫu
23 Chi Hòa Nguyễn Thị
Bó Lù
0915198915 NNDL
X
07
11
Hằng
CĐ
Nam
Mẫu
24 Nhật
Lý Văn Tập Cốc Tộc
01665448407 NNDL
0
05
07
Quang
CĐ
Nam
Mẫu
25 Ông
Nông Văn
Bản Cám,
02812212595 NNDL
0
05
15
Hiến
Thấm
CĐ
Nam
Mẫu
26 VQG
TTGDMT&
Xã
0912267559 01
X
54
107
Ba Bể
DVMT
Khang
SAO
Ninh
(Nguồn: Sở VHTT&DL Bắc Kạn năm 2014)
96
Phụ lục 4
PHIẾU ĐIỀU TRA
ĐÁNH GIÁ CỦA DU KHÁCH VỀ HOẠT ĐỘNG DU LỊCH
MẠO HIỂM TẠI VƢỜN QUỐC GIA BA BỂ
Mã số phiếu
Kính thưa quý khách: Nhằm góp phần phát triển du lịch, đặc biệt du lịch
mạo hiểm tại Vườn quốc gia Ba Bể, rất mong quý khách dành chút thời gian
giúp chúng tôi hoàn thành bảng hỏi này. Ý kiến của quý khách sẽ rất bổ ích cho
nghiên cứu của chúng tôi trong việc thúc đẩy hoạt động du lịch mạo hiểm
(DLMH) tại Vườn quốc gia (VQG) Ba Bể.
Hãy đánh dấu V vào ô thích hợp:
1. Qúy khách hiểu như thế nào về du lịch mạo hiểm?
...........................................................................................................................................................................
...........................................................................................................................................................................
2. Quý khách biết đến VQG Ba Bể qua những nguồn thông tin nào?
Truyền miệng Internet/ TV
Hãng lữ hành
Sách du lịch
Lý do khác………………………….
3. Tới Ba Bể, quý khách lưu trú ở đâu?
- Khách sạn - Nhà dân (Homestay)
97
- Nhà nghỉ - Hình thức khác( lều trại)…………………
4. Quý khách đã trải nghiệm hoạt động du lịch mạo hiểm nào tại VQG Ba Bể
(có thể chọn nhiều đáp án)?
Đi bộ mạo hiểm trong rừng Leo núi
5. Quý khách đánh giá thế nào về tài nguyên du lịch tại VQG Ba Bể?
Khám phá hang động Chèo thuyền vƣợt thác
Mức đánh giá
Trung Rất Chỉ tiêu Rất tốt Tốt Kém bình kém
- Địa chất, địa hình
- Hệ thống sông, suối, thác ghềnh
- Cảnh quan tự nhiên
- Khí hậu
- Các giá trị văn hóa bản địa
6. Quý khách đánh giá như thế nào về chất lượng dịch vụ DLMH tại VQG Ba
Bể?
Mức đánh giá
Chỉ tiêu Trung Rất Rất tốt Tốt Kém bình kém
- Dịch vụ hƣớng dẫn
- Dịch vụ huấn luyện
-Dịch vụ ứng cứu
- Dịch vụ bảo hiểm
- Dịch vụ khác (cung cấp thiết bị
98
DLMH…)
7. Điều gì làm Quý khách chưa hài lòng nhất khi tham gia DLMH ở VQG Ba
Bể?
..........................................................................................................................................................................
..........................................................................................................................................................................
8. Ý kiến đóng góp của quý khách để VQG Ba Bể trở thành điểm đến DLMH hấp
dẫn?
..................... .....................................................................................................................................................
..........................................................................................................................................................................
9. Quý khách có dự định thăm lại VQG Ba Bể không?
- Có - Không - Chƣa chắc chắn
10. Quý khách có dự định giới thiệu VQG Ba Bể cho bạn bè và người thân
không?
Không - Chƣa chắc chắn - Có
Các thông tin cá nhân của ngƣời trả lời:
Nữ
Giới tính: Nam
Độ tuổi:
26-40 Dƣới 15 15-25 41-60 Trên 60
Trình độ học vấn:
THCS, THPT THCN CĐ- ĐH Sau ĐH
Nghề nghiệp:……………………………………………………………
Xin chân thành cảm ơn những ý kiến đóng góp quý báu của Quý khách!
99
SURVEY
TOURIST’S ASSESSMENT ABOUT ADVENTURE TOURISM
IN BA BE NATIONAL PARK
No
Ladies and gentlement: To support tourism
especially adventure tourism in Ba Be National Park, we are grateful if you
can spend some of your time filling this questionaire. Your valuable opinions
will be usefulf or our research to push up adventure tourism in Ba Be
National Park.
PleasecheckVintheappropriate
1. What do you know about Adventure tourism?
...........................................................................................................................................................................
...........................................................................................................................................................................
2. How do you know about Ba Be adventure tourism?
The recommendation of other Internet/ TV
people
The introduction of the tour Guidebook
company
Other………………………………
3. Where did you stay in Ba Be?
- Hotel - Homestay
- Motel - Other……………………………..
4. Which adventure activities did you experience in Ba Be? ( You can choose
more than one option)
100
Trekking in wilde forest Moutaining
5. What is your general perception about tourism resources in Ba Be National
Caving Kayaking on Dau Dang waterfall
Park?
Level
Very Very Categories Good Inadequate Bad good bad
- Topography
- river and waterfall
- Natuaral lanscape
- Cliamte
- Ethnic culture feature
6. What is your comment on the quality of tourism servicein Ba Be National
Park?
Level Categories Very Very Good Inadequate Bad good bad
- Guilding service
- Training service
- Rescue service
- Insurance
- Other (like selling souvenir…)
7. What is your most dissatisfied with Ba Be adventure tourism?
...................................................................................................................................................................
8. What can you suggest or advise to increase quality of tourism activities?
.....................................................................................................................................................................
101
9. If you visit Vietnam again, will you enjoy adventure tourism in Ba Be?
- Yes - No - Not yet enjoy
10. Will you recommend Ba Be adventure tourism to friends?
- Yes - No - Not yet enjoy
Personal Information of Interviewee:
Nationality:…….......................................….............................
Gender: Male Female
Age:
26-40 Under 15 15-25 41-60 Over 60
Educational background:
High school Vocational education
Job:………………………………………….
Graduated Post graduated
Thank you for your help!!!
102
Phụ lục 5
Kết quả phiếu điều tra ý kiến du khách tại VQG Ba Bể
Số STT Câu hỏi Nội dung đánh giá % phiếu
Truyền miệng 22 42,3
Internet , TV 7 13,5
Quý khách biết đến VQG Ba Bể Công ty lữ hành 9 17,3 1 qua những nguồn thông tin nào? Sách hƣớng dẫn du 3 5,7 lịch
Khác 11 21,2
Khách sạn 0 0
Nhà nghỉ 5 9,6 Tới Ba Bể, quý khách lƣu trú ở 2 đâu? Nhà dân (home stay) 36 69.2
Hình thức khác 11 21.2
Quý khách đã trải nghiệm loại Đi bộ xuyên rừng 34 65,4
hình du lịch mạo hiểm nào tại Khám phá hang động 10 19,2
3 VQG Ba Bể (có thể chọn nhiều Leo núi 0 0
đáp án)? Chèo thuyền kayak 25 48,1
Đánh giá của quý khách về sự Rất Tốt Trung Rất Kém hấp dẫn của VQG Ba Bể? tốt bình kém
Địa hình 61,6 38,4 0 0 0
Hệ thống sông, suối, thác ghềnh 59,7 32,7 7,6 0 0 4
Cảnh quan tự nhiên 73,1 26,9 0 0 0
Khí hậu 36,5 48,1 15,4 0 0
Các giá trị văn hóa bản địa 46,2 30,8 17,3 5,7 0
103
Rất Tốt Trung Rất Kém Đánh giá của Quý khách về hệ tốt bình kém thống cơ sở hạ tầng, cơ sở vật
chất kỹ thuật của VQG Ba Bể
5 Cơ sở lƣu trú 7,7 28,8 51,9 11,6 0
Cơ sở phục vụ dịch vụ ăn uống 0 15,4 71,2 9,6 3,8
Cơ sở hạ tẩng tại điểm tham quan 0 9,6 13,5 61,5 15,4
Hệ thống đƣờng xá 0 21,2 44,2 26,9 7,7
Đánh giá của Qúy khách về chất
lƣợng dịch vụ DLMH ở Ba Bể
Dịch vụ hƣớng dẫn 25 59,7 0 9,6 5,7
Dịch vụ huấn luyện 0 0 0 75 25 6
Dịch vụ ứng cứu 0 0 0 82,7 17,3
Dịch vụ bảo hiểm 0 9,6 69,2 21,2 0
Dịch vụ khác 0 0 30,8 55,8 13,5
Có 18 34,6 Quý khách có dự định thăm lại
9 vƣờn quốc gia này không? Không 10 19,2
Chƣa chắc chắn 24 46,2
Có 42 80,8 Quý khách có dự định giới thiệu
10 vƣờn quốc gia này cho bạn bè và Không 2 3,8
ngƣời thân không? Chƣa chắc chắn 8 15,4
Nguồn: Tác giả điều tra tổng hợp
104
Bảng tổng hợp về khách du lịch tại Ba Bể
Chỉ tiêu Kết quả
Giới tính Nam: 57,3% Nữ 42,7%
Quốc tịch Nội địa: 13,4 % Quốc tế:86,6%
- Châu Âu: 50,7 %
Pháp, Hà Lan, Đức, Thuỵ sĩ, Ba Lan,
Thụy Điển, Tây Ban Nha…
- Châu Á: 5.6 %
Hàn Quốc
- Châu Mỹ: 26,8 %
Mỹ, Canada, Chi lê...
- Châu Đại dƣơng: 16,9%
Úc, New Zeland....
- Châu Phi: 0 %
Độ tuổi Dƣới 18: 0 %. 18-25: 19,5 %. 26-40: 51,3%.
41-60: 28 % Trên 60: 1,2 %
Nghề nghiệp Sinh viên (13,9%) Nhà nghiên cứu (26,4%) Quản lý (15,7%)
Nhân viên văn phòng (32,3%) Khác (11,7%)
Trình độ học Hết cấp 3: 8,5 %, Trƣờng nghề: 15,8 %, Cao đẳng, đại học:
vấn 47,6%,
Sau đại học: 28,1 %
Nguồn: Tác giả điều tra tổng hợp
105
Phụ lục 6
BẢNG HỎI HỘ KINH DOANH DU LỊCH
Mã số phiếu
Nhóm nghiên cứu trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân Văn – Đại
học Quốc gia Hà Nội đang tiến hành khảo sát ý kiến của các hộ kinh doanh du
lịch trên địa bàn VQG Ba Bể. Kết quả của nghiên cứu này sẽ giúp định hướng
chính sách để du lịch Ba Bể - Bắc Kạn ngày càng phát triển, đáp ứng tốt hơn yêu
cầu của du khách. Rất mong nhận được những ý kiến xác thực và chân tình của
quý vị!
I. Thông tin cá nhân
-Giới tính:………………………… ……………………………………………
-Nghề nghiệp:…………………….. ……………………………………………
-Địa chỉ:…………………………… ……………………………………………
II. Thông tin nghiên cứu
Câu 1. Anh/chị hiểu gì về du lịch mạo hiểm (DLMH)?
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
Câu 2. Anh/chị có sẵn lòng giới thiệu những hoạt động DLMH và những nét đẹp
văn hóa của địa phƣơng với khách du lịch không?
Có Không Chƣa biết
Câu 3. Anh/chị có sẵn lòng tham gia các hoạt động DLMH với du khách không ?
Rất thích Thích Bình thƣờng
Không quan tâm Không thích Rất không thích
106
Câu 4. Theo anh/chị du khách tới đây thƣờng thích những hoạt động DLMH gì?
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
Câu 5. Theo anh/chị DLMH có vai trò nhƣ thế nào đối với việc phát triển du lịch ở
địa phƣơng?
Có lợi Có hại Vừa có lợi vừa có hại Không biết
Câu 6. Anh/chị có muốn loại hình du lịch mạo hiểm ở địa phƣơng mình ngày càng
phát triển không ?
Có Không
Câu 7. Anh/chị có sẵn sàng đầu tƣ cơ sở vật chất phục vụ cho DLMH (các tuyến,
các trò chơi, các hoạt động hỗ trợ du lịch khác…) không?
Có Không Chƣa biết
Câu 8. Chính quyền địa phƣơng có tổ chức tuyên truyền và phổ biến kiến thức về
du lịch mạo hiểm cho nhân dân không?
Có Không Không biết
Câu 9. Anh/chị có tham gia tập huấn về du lịch mạo hiểm lần nào không?
Chƣa lần nào 1 lần 2 lần Từ 2 lần trở
lên
Câu 10. Anh/chị có muốn đƣợc tham gia các khóa học về du lịch mạo hiểm không?
Rất muốn Muốn Bình thƣờng
Không quan tâm Không muốn Rất không muốn
Câu 11. Anh/chị muốn đƣợc tập huấn thêm về những nội dung gì?
………………………………………………………………………………………
Câu 12. Đề xuất của anh/chị cho sự phát triển hoạt động du lịch mạo hiểm ở địa
phƣơng
………………………………………………………………………………………
Trân trọng cảm ơn sự hợp tác và giúp đỡ của quý vị!
107
Phụ lục 7
Kết quả phiếu điều tra ý kiến hộ kinh doanh du lịch tại VQG Ba Bể
STT Câu hỏi Nội dung Số Tỉ lệ %
đánh giá phiếu
1 Anh/chị có sẵn lòng giới thiệu những Có 20 100
hoạt động DLMH và những nét đẹp Không 0 0 văn hóa của địa phƣơng với khách du
Chƣa biết 0 0 lịch không?
2 Anh/chị có sẵn lòng tham gia các hoạt Rất thích 2 10
động DLMH với du khách không ? Thích 11 55
Không quan 7 35
tâm
Không thích 0 0
Rất không 0 0
thích
Có lợi 60 3 Theo anh/chị DLMH có vai trò nhƣ 12
thế nào đối với việc phát triển du lịch Có hại 0
ở địa phƣơng? Vừa có lợi 3 15
vừa có hại
Không biết 5 25
4 Anh/chị có muốn loại hình du lịch Có 20 100
mạo hiểm ở địa phƣơng mình ngày 0 0 Không
càng phát triển không ?
4 20 5 Anh/chị có sẵn sàng đầu tƣ cơ sở vật Có
chất phục vụ cho DLMH (các tuyến,
108
các trò chơi, các hoạt động hỗ trợ du Không 0 0
lịch khác…) không?
Chƣa biết 16 80
6 Chính quyền địa phƣơng có tổ chức Có 0 0
tuyên truyền và phổ biến kiến thức về Không 13 65
du lịch mạo hiểm cho nhân dân Không biết 7 35 không?
7 Anh/chị có tham gia tập huấn về du Chƣa lần nào 20 100
lịch mạo hiểm lần nào không? 1 lần 0 0
2 lần 0 0
Từ 2 lần trở 0 0
lên
5 25 8 Anh/chị có muốn đƣợc tham gia các Rất muốn
khóa học về du lịch mạo hiểm không? 15 75 Muốn
0 0 Bình thƣờng
(Nguồn: Tác giả điều tra tổng hợp, 2014)
109
Phụ lục 8
Danh sách các chuyên gia đƣợc phỏng vấn
STT Họ và tên Nơi công tác Thời gian
phỏng vấn
1 TS. Nguyễn Mạnh Hà Trung tâm Nghiên cứu 09/2014
Tài nguyên và Môi
trƣờng
2 Ông Nguyễn Xuân Hải Viện Nghiên cứu Phát 10/2014
triển Du lịch
3 Bà Lý Thị Mƣời Sở VHTT&DL Bắc Kạn 10/2014
4 Ông Bùi Văn Quang Phó giám đốc VQG Ba 10/2014
Bể
5 Ông Huỳnh Bình Toàn Cán bộ phụ trách du lịch 10/2014
VQG Ba Bể
6 Ông Trần Giao Linh Giám đốc công ty 10/2014
TNHH Mr.Linh’s
Adventure
7 Ông Trần Văn Hoàn Hƣớng dẫn viên du lịch 11/2014
tại VQG Ba Bể
8 TS. Nguyễn Xuân Giới Khoa Môi trƣờng - Trái 11/2014
đất, Đại học Khoa học
Thái Nguyên
110
111