ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN -----------------------------

ĐỖ TUYẾT NGÂN NGHIÊN CỨU THỰC TRẠNG VÀ ĐỀ XUẤT PHÁT TRIỂN

DU LỊCH MẠO HIỂM TẠI VƢỜN QUỐC GIA BA BỂ, TỈNH BẮC KẠN LUẬN VĂN THẠC SĨ DU LỊCH Hà Nội, 2015

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN -----------------------------

ĐỖ TUYẾT NGÂN NGHIÊN CỨU THỰC TRẠNG VÀ ĐỀ XUẤT PHÁT TRIỂN DU LỊCH MẠO HIỂM TẠI VƢỜN QUỐC GIA BA BỂ,

TỈNH BẮC KẠN Chuyên ngành: Du lịch

(Chương trình đào tạo thí điểm) LUẬN VĂN THẠC SĨ DU LỊCH Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Mạnh Hà

Hà Nội, 2015

MỤC LỤC

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT ........................................................................ 2

DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU, SƠ ĐỒ ................................................................. 3

1. Lý do chọn đề tài .................................................................................................. 4 2. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu ...................................................................... 12 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ....................................................................... 5 4. Lịch sử nghiên cứu ............................................................................................... 6 5. Phƣơng pháp nghiên cứu ...................................................................................... 8 6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài ........................................................... 10 7. Bố cục của luận văn ............................................................................................ 12 Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ DU LỊCH MẠO HIỂM ........ 13

1.1. Các khái niệm và cách tiếp cận ....................................................................... 13 1.2. Đặc điểm của loại hình du lịch mạo hiểm ...................................................... 15 1.3. Phân loại du lịch mạo hiểm ............................................................................ 16 1.4. Nguyên tắc phát triển sản phẩm du lịch mạo hiểm ......................................... 17 1.5. Các điều kiện phát triển của du lịch mạo hiểm ............................................... 18 1.6. Mối quan hệ giữa du lịch mạo hiểm và các loại hình du lịch khác ................ 18 1.7. Thị trƣờng và đối tƣợng khách tham gia vào du lịch mạo hiểm .................... 29 1.8. Thực tiễn tổ chức và khai thác du lịch mạo hiểm ........................................... 32 Chƣơng 2. ĐIỀU KIỆN VÀ THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN DU LỊCH MẠO HIỂM TẠI VƢỜN QUỐC GIA BA BỂ .............................................................................. 40

2.1. Khái quát về vƣờn quốc gia Ba Bể ................................................................. 40 2.2. Điều kiện phát triển du lịch mạo hiểm tại vƣờn quốc gia Ba Bể .................... 44 2.3. Hiện trạng khai thác phát triển du lịch mạo hiểm tại vƣờn quốc gia Ba Bể ... 50 2.4. Nguyên nhân của thực trạng phát triển du lịch mạo hiểm ở Ba Bể ................ 65 2.5. Đánh giá chung hoạt động du lịch mạo hiểm tại vƣờn quốc gia Ba Bể ......... 67

CHƢƠNG 3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN DU LỊCH MẠO HIỂM TẠI VƢỜN QUỐC GIA BA BỂ .................................................................................. 70

3.1. Những căn cứ chủ yếu .................................................................................... 70 3.2. Một số giải pháp cụ thể ................................................................................... 72 KẾT LUẬN ............................................................................................................... 84

KIẾN NGHỊ .............................................................................................................. 85

TÀI LIỆU THAM KHẢO

PHỤ LỤC

1

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

ATTA : Adventure Travel Trade Association

BQL

Tổ chức Du lịch Thương mại Mạo hiểm

: Ban Quản lý

Bộ NN&PTNN : Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn

CSVCKT

CSHT : Cơ sở hạ tầng

DLMH

: Cơ sở vật chất kỹ thuật

DLST

: Du lịch mạo hiểm

KBTTN

: Du lịch sinh thái

KT-XH

: Khu bảo tồn thiên nhiên

MICE

: Kinh tế - Xã hội

: Meeting, Incentive, Conventions and Exhibition

Du lịch kết hợp hội nghị, hội thảo, triển lãm, tổ chức sự kiện,

du lịch khen thưởng của các công ty cho nhân viên

Sở VHTT&DL : Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch

TAT : Tourism Authority of Thailand

Cơ quan Du lịch Thái Lan

UNWTO : United National World Tourism Organization

Tổ chức Du lịch Thế giới

VQG : Vƣờn Quốc Gia

2

DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU, SƠ ĐỒ

Bảng biểu

Bảng 1.1. So sánh giữa du lịch sinh thái và du lịch mạo hiểm ................................. 27

Bảng 2.1. Số liệu khí hậu khu vực VQG Ba Bể………………………………..…..46

Bảng 2.2. Dân số các xã trong khu vực VQG Ba Bể……………..……….………47

Bảng 2.3. Nơi lƣu trú của khách du lịch tại Ba Bể……………………….….…….56

Bảng 2.4. Trình độ cán bộ TTGDMT&DVMTR VQG Ba Bể………………….....59

Biểu đồ

Biểu đồ 2.1. Lƣợng khách du lịch tại Ba Bể giai đoạn 2012 - 2014 ......................... 43

Biểu đồ 2.2. Cơ cấu khách tham gia du lịch mạo hiểm tại VQG Ba Bể ................... 54

Biểu đồ 2.3. Các hoạt động du lịch mạo hiểm du khách tham gia ............................ 58

Biểu đồ 2.4. Các kênh thông tin về du lịch mạo hiểm Ba Bể ................................... 63

Sơ đồ

Sơ đồ 2.1. Bản đồ du lịch VQG Ba Bể…………………………………….…...….41

3

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Trên thế giới, du lịch mạo hiểm đã đƣợc biết đến từ những năm đầu của thế kỷ

XX và có sự tăng trƣởng khá nhanh thông qua việc ra đời của các sản phẩm cũng

nhƣ điểm đến mới. Ngày càng nhiều khách du lịch từ nhiều độ tuổi khác nhau,

không phân biệt giới tính tham gia vào các chƣơng trình du lịch mạo hiểm. Đối

tƣợng khách du lịch mạo hiểm thƣờng có khả năng chi trả cao, đi du lịch dài ngày.

Vì vậy, những nƣớc quan tâm phát triển du lịch thƣờng trú tâm tới loại hình du lịch

này nhằm đề ra chiến lƣợc quảng bá hiệu quả.

Việt Nam là quốc gia có tiềm năng du lịch và đang nổi lên là một điểm đến

mới, hấp dẫn trên bản đồ du lịch thế giới. Với 3/4 địa hình là đồi núi, hệ thống sông

ngòi đa dạng, các dãy núi đá vôi, nhiều hang động đẹp, nhiều khu rừng nguyên sinh

nhiệt đới, với hơn 3.000 km bờ biển tạo nên những cảnh đẹp vô cùng phong phú,

v.v. là những điều kiện thuận lợi cho việc phát triển các loại hình du lịch mạo hiểm.

Các hoạt động đi bộ băng rừng, leo núi, mô tô, xe đạp địa hình, khám phá hang

động, lặn biển, xuôi dòng bằng bè mảng, đua thuyền, lƣớt ván, nhảy dù, đu dây v.v.

trở thành các hoạt động du lịch hấp dẫn cho cả du khách trong nƣớc và quốc tế.

Hiện nay đã có một số doanh nghiệp lữ hành nghiên cứu, tổ chức các chƣơng trình

du lịch mạo hiểm nhƣ chƣơng trình chinh phục đỉnh Fan Xi Păng, đỉnh Lang Biang,

đỉnh Bạch Mã, đèo Prenn, các chƣơng trình lặn biển ở Nha Trang, Cù Lao Chàm,

Phú Quốc, Côn Đảo, đi xe đạp địa hình, xe mô tô thể thao ở Hà Giang, chèo thuyền

kayak trên vịnh Hạ Long, đảo Cát Bà, các trò chơi dây nƣớc, dây cáp ở Phong Nha

– Kẻ Bàng, v.v. Tuy nhiên, các hoạt động đó mới chỉ khai thác tài nguyên du lịch tại

khu vực đồng bằng, ven biển và một số khu vực miền núi gần các thị trấn, gần

đƣờng quốc lộ, còn một phần lớn các khu vực có điều kiện phát triển loại hình du

lịch mạo hiểm vẫn chƣa đƣợc đánh giá, khai thác. Việc xây dựng các chƣơng trình

du lịch mạo hiểm cho khách còn tƣơng đối manh mún, khai thác ở mức thí điểm,

4

thăm dò, chƣa đƣợc tổ chức hiệu quả. Do đó, cần có những nghiên cứu, đánh giá

sâu về loại hình du lịch đƣợc đánh giá là tiềm năng này ở Việt Nam nhằm có các đề

xuất cho việc khai thác hiệu quả giá trị đó, góp phần vào việc thực hiện chiến lƣợc

du lịch của quốc gia và của địa phƣơng.

Vƣờn quốc gia Ba Bể đƣợc thành lập năm 1992 theo Quyết định số 83/TTg, là

nơi bảo tồn sinh cảnh rừng thƣờng xanh mƣa ẩm nhiệt đới điển hình với đa dạng

sinh học cao. Ngoài ra, Ba Bể cũng đƣợc công nhận là một trong các khu đất ngập

nƣớc quan trọng của thế giới, và gần đây cũng đƣợc công nhận là một trong các khu

RAMSAR của Việt Nam.

Trung tâm VQG Ba Bể là hồ Ba Bể - hồ kiến tạo tự nhiên lớn nhất ở Việt

Nam, đƣợc UNESCO xếp vào một trong 20 hồ nƣớc ngọt tự nhiên đẹp trên thế giới

cần đƣợc bảo vệ và phát triển. Hồ có diện tích mặt nƣớc khoảng trên 500 ha với

chiều dài khoảng 7km, đƣợc bao bọc bởi vách núi đá và dạng địa hình đá vôi điển

hình. Tại khu vực hồ Ba Bể có nhiều điểm tham quan, thắng cảnh đẹp và hấp dẫn,

tiêu biểu là thác Đầu Đẳng, Ao Tiên, hệ thống các hang động có vẻ đẹp kỳ vĩ là điều

kiện rất thuận lợi cho các hoạt động tham quan, khám phá, mạo hiểm.

Tuy nhiên du lịch mạo hiểm tại Ba Bể phát triển chƣa xứng đáng với tiềm

năng. Các sản phẩm, dịch vụ còn đơn điệu, khai thác chƣa đồng bộ, hấp dẫn và chƣa

giữ chân đƣợc khách du lịch. Chính vì vậy việc tạo ra yếu tố mới, lạ về loại hình sản

phẩm, phƣơng thức tổ chức phù hợp sẽ là điều kiện quan trọng nhằm phát huy đƣợc

các tiềm năng du lịch ở đây, đặc biệt là loại hình du lịch mạo hiểm.

Từ những thực tế và sự cấp thiết đó, tác giả đã thực hiện đề tài: “Nghiên cứu

thực trạng và đề xuất phát triển du lịch mạo hiểm tại vƣờn quốc gia Ba Bể, tỉnh Bắc

Kạn”.

2. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

Đối tƣợng nghiên cứu: Du lịch mạo hiểm VQG Ba Bể.

5

Phạm vi nghiên cứu:

+ Về không gian: Vƣờn quốc gia Ba Bể và các bên liên quan đến hoạt động du

lịch mạo hiểm ở Ba Bể.

+ Về thời gian: Từ tháng 09/2014 đến tháng 08/2015.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

Nghiên cứu, đánh giá thực trạng và kinh nghiệm phát triển du lịch mạo hiểm

tại Ba Bể nhằm đề xuất các giải pháp cho việc phát triển, khai thác hoạt động du

lịch mạo hiểm ở Ba Bể theo hƣớng hiệu quả, bền vững và trách nhiệm hơn.

4. Lịch sử nghiên cứu

Du lịch mạo hiểm đƣợc nghiên cứu ở nhiều nơi cả trên thế giới cũng nhƣ Việt

Nam. Mỗi nghiên cứu, đều thể hiện những quan điểm riêng, đánh giá vào các vấn

đề riêng của hoạt động du lịch mạo hiểm, từ tiềm năng, cách tổ chức, vận hành, lợi

ích, hiệu quả cũng nhƣ các tác động của chúng.

Trên thế giới có một số nghiên cứu đánh giá điển hình về du lịch mạo hiểm

nhƣ:

John Swarbrooke (2003), “Du lịch mạo hiểm: Lĩnh vực mới” (Adventure

tourism: The New Frontier): Tài liệu đã đề cập tới các vấn đề lý luận của du

lịch mạo hiểm nhƣ khái niệm du lịch mạo hiểm, các nhân tố của du lịch mạo

hiểm, thị trƣờng cung – cầu, việc quảng bá du lịch mạo hiểm, vấn đề quản lý

trong du lịch mạo hiểm.

Ralf Buckley (2006), “Du lịch mạo hiểm” (Adventure tourism): Tác giả dành

ra 23 trong 27 chƣơng để mô tả các loại hình du lịch mạo hiểm cụ thể tại các vùng

trên thế giới nhƣ đi xuyên rừng, chèo thuyền vƣợt thác, leo núi, lặn dƣới đáy biển,

nhảy dù. Ralf Buckley nhấn mạnh hai khía cạnh tạo nên sản phẩm du lịch đó là hoạt

động và nơi diễn ra các hoạt động ấy, đồng thời ông cũng đánh giá du lịch mạo

6

hiểm sẽ là tiềm năng của ngành du lịch nhằm tạo ra nét đặc sắc riêng giữa một môi

trƣờng cạnh tranh du lịch đang ngày càng gay gắt hiện nay.

Tại Việt Nam có một số nghiên cứu khoa học trong nƣớc nhƣ:

Trƣơng Quang Hải (2006): “Nghiên cứu tuyến Du lịch mạo hiểm Phong Nha –

Kẻ Bàng”. Đề tài tập trung vào vấn đề khai thác tiềm năng của một số tuyến du lịch

mạo hiểm, từ đó đƣa ra định hƣớng phát triển du lịch mạo hiểm tại Phong Nha – Kẻ

Bàng.

Phạm Trung Lƣơng (2008): “Cơ sở khoa học để phát triển các sản phẩm du

lịch thể thao - mạo hiểm ở vùng núi phía Bắc”. Đề tài tập trung nghiên cứu cơ sở lý

luận, tiềm năng, thực trạng và đề xuất giải pháp phát triển sản phẩm du lịch mạo

hiểm – thể thao ở khu vực vùng núi Phía Bắc, xây dựng những sản phẩm du lịch

phù hợp, đáp ứng nhu cầu xã hội.

Trịnh Lê Anh (2006): “Du lịch Trekking ở Việt Nam: Loại hình và phƣơng

thức tổ chức (Nghiên cứu trƣờng hợp ở Sa Pa – Lào Cai)”. Đề tài bƣớc đầu khái

quát cơ sở khoa học loại hình du lịch trekking và hiện trạng phƣơng thức tổ chức

trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn (trong phân hệ du lịch thể thao – khám phá, mạo

hiểm). Từ đó khuyến nghị phƣơng thức tổ chức khai thác du lịch trekking phù hợp

tại Sa Pa.

Trƣơng Việt Trƣờng (2010): “Nghiên cứu du lịch sinh thái kết hợp với du lịch

mạo hiểm tại khu mỏ Kẽm - Chì Chợ Đồn, huyện Chợ Đồn, tỉnh Bắc Kạn”. Nghiên

cứu trình bày cơ sở lý luận về du lịch sinh thái và du lịch mạo hiểm, hiện trạng các

loại hình du lịch sinh thái và du lịch mạo hiểm trên thế giới nói chung và Việt Nam

nói riêng, phân tích hiện trạng khu mỏ Kẽm – Chì, huyện Chợ Đồn, làm rõ các tiềm

năng, khả năng phát triển và đƣa ra một số định hƣớng nhằm phát triển du lịch sinh

thái, du lịch mạo hiểm cho khu mỏ này.

Các công trình trên đều tập trung vào việc phân tích, đánh giá về tiềm năng du

lịch của điểm nghiên cứu và đề xuất khai thác các hoạt động du lịch nên đƣợc khai

7

thác và phát triển cho địa phƣơng. Đây cũng là các nghiên cứu quan trọng nhất về

cở sở lý luận và định hƣớng cho việc phát triển du lịch mạo hiểm ở Việt Nam, đặc

biệt là ở Bắc Kạn và Ba Bể.

5. Phƣơng pháp nghiên cứu

5.1. Các phương pháp nghiên cứu

Thu thập và xử lý thông tin: Mục đích của hoạt động này là nhằm tìm hiểu lịch

sử nghiên cứu, kế thừa thành tựu, bài học mà đồng nghiệp đã làm về cùng một vấn

đề. Do vậy, việc thu thập và đánh giá thông tin nhằm không lặp lại những công việc

mà đồng nghiệp đã thực hiện. Trong khuôn khổ của luận văn, tác giả thực hiện việc

thu thập các nghiên cứu, văn bản, tài liệu lý luận, các bài báo, công bố nghiên cứu

khác nhau về du lịch mạo hiểm, từ đó lựa chọn thông tin quan trọng phục vụ cho đề

tài nghiên cứu của mình. Các thông tin đƣợc thu thập từ các nghiên cứu, đánh giá,

bài bao khoa học, luận văn, đề án nghiên cứu, từ các nguồn khác nhau, các thông tin

về Ba Bể và các hoạt động du lịch ở Ba Bể đƣợc tập trung thu thập ở Sở

VHTT&DL tỉnh Bắc Kạn, Ban Quản lý VQG Ba Bể, v.v. Dựa trên nguồn thông

tin đó tác giả đã đánh giá, chọn lọc nội dung, thông tin, kinh nghiệm, so sánh,

bình luận, nhận định và trích dẫn trong luận văn.

Khảo sát thực địa: Các hoạt động nghiên cứu, đánh giá tại thực địa đã giúp tác

giả kiểm tra, đánh giá lại độ chính xác của các tƣ liệu, tài liệu và thu thập các số liệu

thực tế, các nguồn thông tin mới nhất mà các tài liệu chƣa cập nhật đƣợc. Khảo sát

thực địa đƣợc thực hiện thông qua các hoạt động thăm, quan sát, trải nghiệm và

đánh giá về hoạt động du lịch mạo hiểm tại Ba Bể. Tác giả đã tiến hành khảo sát

thực tế trên các tuyến du lịch chính đang đƣợc khai thác tại Ba Bể nhƣ:

1. Tuyến du lịch sông: Bến thuyền Buốc Lốm - Động Puông - Bản làng ven

sông Năng (Bản Cám, Bản Tàu) - Thác Đầu Đẳng.

2. Tuyến du lịch hồ: Hồ Ba Bể - Đảo Bà Goá - Đền An Mã - Ao Tiên.

8

3. Tuyến du lịch rừng: Đƣờng đi bộ trong rừng nguyên sinh VQG, các chòi

quan sát ngắm cảnh hồ, làng bản.

4. Tuyến du lịch làng bản ven hồ: Bản Pác Ngòi (Phía nam hồ) - Bản Bó Lù

(Phía Tây nam hồ) - Bản Cốc Tộc (Phía Tây nam hồ).

5. Các điểm tham quan du lịch lân cận hồ Ba Bể: Động Hua Mạ (Xã Quảng

Khê) - Thác Bạc (Xã Hoàng Trĩ).

Khảo sát ở các tuyến và điểm du lịch chính này nhằm tìm hiểu, đánh giá đƣợc

hiện trạng cơ sở hạ tầng – vật chất kĩ thuật, phƣơng thức tổ chức, hiệu quả và các

bất cập từ mô hình và cách quản lý vận hành các mô hình này.

Phương pháp điều tra xã hội học: Tác giả sử dụng phƣơng pháp điều tra xã

hội học để lấy ý kiến chủ quan của các đối tƣợng bằng những câu hỏi về nhu cầu

và mức độ hài lòng của đối tƣợng đƣợc khảo sát về du lịch mạo hiểm tại VQG

Ba Bể. Phƣơng pháp này đƣợc tiến hành với các giai đoạn nhƣ sau:

Giai đoạn 1: Lựa chọn nhóm đối tƣợng điều tra

Đối tƣợng tác giả lựa chọn là các bên liên quan tới hoạt động du lịch mạo

hiểm tại VQG Ba Bể. Tuy nhiên, việc am hiểu về tiềm năng và thực trạng của du

lịch mạo hiểm tại đây có thể khác nhau đối với từng nhóm đối tƣợng. Vì vậy, tác

giả đã phân khúc ra một số nhóm nhƣ sau:

- Những ngƣời làm công tác nghiên cứu, giảng dạy có hiểu biết sâu rộng về

du lịch mạo hiểm.

- Những ngƣời làm công tác tại ban quản lý và hƣớng dẫn viên tại địa

phƣơng tiến hành khảo sát.

- Ngƣời dân địa phƣơng sinh sống quanh khu vực nghiên cứu.

- Khách du lịch đến VQG Ba Bể.

Giai đoạn 2: Thực hiện khảo sát

9

Tác giả trực tiếp điều tra theo từng nhóm đối tƣợng dựa trên bảng hỏi (Xem

phụ lục 5, 7). Có 2 loại bảng hỏi đã đƣợc sử dụng là:

Bảng hỏi dành cho du khách (cho cả khách Việt Nam và khách nƣớc ngoài)

nhằm thu thập thông tin về những đánh giá, cảm nhận và góp ý của du khách về du

lịch mạo hiểm Ba Bể. Nội dung bảng hỏi gồm 2 phần chính: Phần thông tin của du

khách và đánh giá của du khách về du lịch mạo hiểm Ba Bể. Tổng số phiếu phát ra

là 60 phiếu, tổng số phiếu thu về là 52 phiếu (chiếm tỉ lệ 86,7%), số phiếu không

hợp lệ (không gửi lại hoặc không điền đầy đủ thông tin) là 8 phiếu (chiếm 13,3%).

Bảng hỏi dành cho ngƣời dân kinh doanh du lịch tại VQG Ba Bể nhằm thu

thập thông tin về nhận thức và nhu cầu của cộng đồng dân cƣ bản địa sinh sống

quanh khu vực nghiên cứu. Tổng số phiếu phát ra và thu về là 20 phiếu.

Nhờ sự giúp đỡ của ban quản lý và hƣớng dẫn viên tại VQG Ba Bể, tác giả đã

thu nhận đƣợc phần lớn bảng hỏi của du khách quốc tế. Theo tác giả nhận định, việc

tiếp cận với khách nội địa khó khăn hơn ngƣời nƣớc ngoài, bởi tính cách của ngƣời

Việt ngại hoặc chƣa quen với hoạt động cho ý kiến.

Giai đoạn 3: Tổng hợp và đƣa ra kết quả đánh giá

Sau khi tiến hành điều tra khảo sát, tác giả xử lý dữ liệu thu thập đƣợc để từ đó

đƣa ra các ý kiến mang tính khách quan nhất có thể. Để trình bày và xử lý những số

liệu điều tra, tác giả đã áp dụng phƣơng pháp tính tỉ lệ phần trăm. Phƣơng pháp này

đƣợc thực hiện qua việc lập bảng thống kê các số liệu thu đƣợc và tính tỉ lệ phần

trăm của các biến đƣợc chọn trong tổng số những ngƣời trả lời câu hỏi (áp dụng cho

những câu hỏi đƣợc soạn theo thang định danh nhƣ các câu hỏi về độ tuổi, giới tính,

v.v). Ngoài ra, việc sử dụng thang đo xếp hạng theo thứ tự cho biết đƣợc khoảng

cách giữa các thứ bậc. Ví dụ, khi đánh giá về tài nguyên du lịch, cơ sở hạ tầng – vật

chất kỹ thuật phục vụ du lịch mạo hiểm tại VQG Ba Bể, du khách sẽ đánh giá dựa

trên 5 mức độ: 1: Rất kém; 2: Kém; 3: Trung bình; 4: Tốt; 5: Rất tốt. Việc đánh giá

10

qua các mức độ của từng yếu tố giúp tác giả xác định mức độ giá trị, xếp hạng các

yếu tố và từ đó có thể rút ra nhận xét khách quan, khoa học.

Tham vấn chuyên gia: Trong quá trình thực hiện nghiên cứu, ngoài những

phƣơng pháp kể trên, tác giả cũng đã tiến hành lấy ý kiến của các hãng lữ hành, các

chuyên gia du lịch, các nhà quản lý tại VQG Ba Bể (phụ lục 8) về các vấn đề: Nhận

thức chung về du lịch mạo hiểm, những điều kiện thuận lợi, hiện trạng, tồn tại và

thách thức, các đề xuất, định hƣớng trong việc phát triển du lịch mạo hiểm tại VQG

Ba Bể.

5.2. Kế hoạch thực hiện luận văn

STT Thời gian thực Nội dung

hiện

1 15/8/2014 - Xác định tên đề tài và lập đề cƣơng chi tiết

15/09/2014

2 15/09/2014- Thu thập tài liệu

30/10/2014 - Những nghiên cứu trong nƣớc và nƣớc ngoài về du

lịch mạo hiểm

- Những tài liệu liên quan đến VQG Ba Bể.

3 30/10/2014- Khảo sát tại Ba Bể

09/11/2014 - Các điều kiện , thực trạng phát triển du lịch mạo hiểm

Ba Bể nhƣ tài nguyên du lịch, cơ sở hạ tầng, v.v.

09/11/20114- Thu thập ý kiến của các chuyên gia 4

15/12/2014

5 15/12/2014- Phân tích xử lý số liệu, tổng hợp tài liệu

15/02/2015

6 15/02/2015- Viết, chỉnh sửa và hoàn thiện luận văn

20/08/2015

11

6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài

Ý nghĩa khoa học: Đề tài góp phần bổ xung cơ sở lý luận khoa học thực tiễn

cho việc phát triển loại hình du lịch mạo hiểm ở Việt Nam, đặc biệt là Ba Bể.

Ý nghĩa thực tiễn: Bƣớc đầu tìm hiểu về thực trạng và các kinh nghiệm thực

tế từ mô hình du lịch mạo hiểm ở Ba Bể với các kinh nghiệm, bài học thành công,

thất bại. Từ bài học và kinh nghiệm đó, đề xuất giải pháp nhằm phát triển, khai thác

hiệu quả hơn, nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các nhà quản lý, cộng đồng địa

phƣơng và du khách khi tham gia du lịch mạo hiểm tại Ba Bể.

7. Bố cục của luận văn

Luận văn gồm các phần chính sau:

Mở đầu

Chƣơng 1. Cơ sở lý luận và thực tiễn về du lịch mạo hiểm

Chƣơng 2. Điều kiện và thực trạng phát triển du lịch mạo hiểm tại VQG Ba Bể

Chƣơng 3. Một số giải pháp phát triển du lịch mạo hiểm tại VQG Ba Bể

Kết luận

Kiến nghị

Tài liệu tham khảo

Phụ lục

12

Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ

DU LỊCH MẠO HIỂM

1.1. Các khái niệm và cách tiếp cận

Theo Tổ chức Du lịch Thế giới (UNWTO), du lịch bao gồm tất cả mọi hoạt

động của những ngƣời du hành, tạm trú, trong mục đích tham quan, khám phá và

tìm hiểu, trải nghiệm hoặc trong mục đích nghỉ ngơi, giải trí, thƣ giãn cũng nhƣ

mục đích hành nghề và những mục đích khác nữa, trong thời gian liên tục nhƣng

không quá một năm, ở bên ngoài môi trƣờng sống định cƣ; nhƣng loại trừ các

chuyến du hành mà có mục đích chính là kiếm tiền. Còn lữ hành là việc thực hiện

chuyến đi từ nơi cƣ trú và làm việc thƣờng xuyên của con ngƣời đến một nơi khác

(Trần Đức Thanh, 2005). Nhƣ vậy, những chuyến đi không nhất thiết nhằm mục đích

nhằm những mục đích nhất định và những hoạt động phục vụ cho chuyến đi ấy

du lịch cũng đƣợc coi là chuyến lữ hành. Khái niệm “lữ hành” mở rộng hơn khái

niệm “du lịch” cả về nội hàm và ngoại diên của nó. Du lịch mạo hiểm là một

trong những loại hình du lịch đang thu hút sự quan tâm của nhiều du khách, đặc

biệt là những ngƣời ƣa khám phá, hoạt động mạo hiểm, gần gũi với thiên nhiên,

xu hƣớng hiểu và hòa mình với tự nhiên. Tuy nhiên, đây là một loại hình du

lịch còn mới, đang tiếp tục phát triển do đó thuật ngữ du lịch mạo hiểm vẫn

chƣa thực sự thống nhất và đƣợc hiểu theo nhiều cách với nhiều khái niệm.

Theo John Swarbrooke và cộng sự (2003), du lịch mạo hiểm là một hoạt động

giải trí, vì vậy có nhiều tên để chỉ loại hình du lịch này: sự mạo hiểm thú vị, hoạt

động giải trí mạo hiểm tự nhiên, sự theo đuổi những hoạt động ngoài trời, hoạt động

giải trí mạo hiểm, v.v.

Trong nghiên cứu của Millington (2001), ông cho rằng du lịch mạo hiểm là

một hoạt động giải trí đƣợc tổ chức tại một nơi xa nơi cƣ trú thƣờng xuyên, mới lạ

và hoang sơ, kết hợp với các hoạt động có mức độ vận động cao, chủ yếu là các

hoạt động ngoài trời. Ngƣời tham gia loại hình du lịch mạo hiểm mong muốn đƣợc

13

trải nghiệm sự mạo hiểm ở nhiều mức độ mạo hiểm khác nhau, cảm nhận sự thú vị,

tận hƣởng sự mới lạ và rèn luyện bản thân.

Muller & Cleaver (2000) đã đƣa ra một định nghĩa dƣới góc độ của những

ngƣời cung cấp dịch vụ rằng du lịch mạo hiểm đƣợc đặc trƣng bằng khả năng cung

cấp cho du khách các mức độ cảm nhận hào hứng thƣờng có đƣợc nhờ đƣa các

thành tố thực nghiệm có tính chất thách thức về mặt thể chất vào trải nghiệm của du

khách (thƣờng là ngắn). Trong định nghĩa này, các tác giả nhấn mạnh cảm nhận của

du khách thông qua việc tham gia trực tiếp vào các hoạt động đòi hỏi nỗ lực về mặt

thể chất để vƣợt qua một thách thức.

Theo Trƣơng Quang Hải (2006) thì “Du lịch mạo hiểm là một hoạt động

ngoài trời diễn ra ở nơi chúng ta không thƣờng xuyên tới hay ở một nơi đặc

biệt nào đó. Hoạt động này có thể dẫn đến một số rủi ro, song qua đấy chúng ta

có thể học đƣợc những kinh nghiệm mới để chế ngự chúng và vƣợt qua những

thử thách đối với bản thân” [21, tr.2].

Tác giả Phạm Trung Lƣơng (2008) trong báo cáo Cơ sở khoa học để phát

triển các sản phẩm du lịch thể thao mạo hiểm vùng núi phía bắc cho rằng “Du

lịch mạo hiểm là loại hình du lịch tại những khu vực tự nhiên còn tƣơng đối

hoang sơ, nơi du khách sẽ đƣợc thỏa mãn nhu cầu khám phá những điều không

ngờ tới cũng với những cảm xúc bị “đe dọa” bởi những hoạt động “mạo hiểm”

mà trƣớc đó họ chƣa thể hình dung đƣợc song đã tự nguyện chấp nhận tham

gia”[9, tr.18]. Ngoài ra, để làm rõ hơn nội hàm của khái niệm này, tác giả cũng

đồng thời đƣa ra khái niệm về du lịch thể thao – mạo hiểm: “Du lịch thể thao –

mạo hiểm là loại hình du lịch mang tính chất thể thao dựa vào việc khai thác các

giá trị tự nhiên có thể kết hợp với văn hóa địa phƣởng những khu vực còn tƣơng

đối hoang sơ, nhằm thỏa mãn nhu cầu tăng cƣờng sức khỏe và khám phá những

điều không ngờ tới với những cảm giác mạo hiểm”. Nhƣ vậy, du lịch mạo hiểm

thực chất là một phần nằm trong du lịch thể thao – mạo hiểm và cùng bao gồm

những yếu tố nỗ lực cao về mặt thể chất, tinh thần. Tuy nhiên du lịch mạo hiểm

14

chú trọng vào mục đích khám phá, vƣợt qua những khó khăn, thử thách, điều

kiện khắc nghiệt để đạt đƣợc cảm giác “mạo hiểm” còn du lịch thể thao – mạo

hiểm, ngoài mục đích trên còn hƣớng vào các hoạt động mang tính thể thao để

tăng cƣờng sức khỏe. Đây chính là dấu hiệu quan trọng để nhận biết sản phẩm

của 2 loại hình này.

Từ các định nghĩa, khái niệm, cách hiểu trên, có thể thấy rằng du lịch mạo

hiểm là loại hình du lịch trong đó cần có những đặc trƣng cụ thể sau đây: Tác động

linh hoạt, sự mạo hiểm, sự thách thức, tính mục đích, tính mới lạ, sự kích thích, sự

độc lập, sự thám hiểm và khám phá, sự say mê, sự trải nghiệm cảm xúc.

1.2. Đặc điểm của loại hình du lịch mạo hiểm

Du lịch mạo hiểm là một hình thức giải trí tạo cảm giác mạnh, có thể hoặc

không kết hợp việc di chuyển từ vùng nay sang vùng khác theo lịch trình, đòi hỏi

phải có sự nghiên cứu kĩ lƣỡng lịch trình chuyến đi và khu chọn làm địa điểm để

thực hiện chuyến đi, bởi trên nguyên tắc địa điểm đƣợc chọn phải đáp ứng đầy đủ

các tính chất phục vụ cho du lịch mạo hiểm (nhƣ tạo đƣợc thử thách cho du khách,

cảm giác gần gũi với thiên nhiên, gắn liền với văn hóa và phong tục địa phƣơng).

Không nhất thiết tất cả các chuyến mạo hiểm đều dựa vào thiên nhiên (trong

một vài trƣờng hợp có thể đƣợc tổ chức ở trong các thành phố lớn theo ý đồ của các

nhà tổ chức), đó có thể là sự kết hợp giữa các yếu tố mạo hiểm và giải trí ở các công

viên, cầu vƣợt trong thành phố hoặc là các trò chơi mang tính xếp hạng giữa các đội

chơi kết hợp với các yếu tố mạo hiểm.

Du lịch mạo hiểm rất an toàn khi có sự hỗ trợ của các trang thiết bị hiện đại,

và tùy theo mức độ hoạt động mà sự cần thiết của các trang thiết bị là khác nhau.

Nguồn nhân lực phục vụ loại hình du lịch mạo hiểm cần là những ngƣời có

trình độ chuyên môn, nghiệp vụ liên quan đến các loại hình du lịch này. Thông

thƣờng các hƣớng dẫn viên trong các tuyến, điểm du lịch mạo hiểm là các huấn

luyện viên cho các trò chơi, trải nghiệm, khám phá thử thách sẽ diễn ra trên tuyến.

15

Cũng nhƣ những loại hình khác, du lịch mạo hiểm cần có các sản phẩm và

dịch vụ đặc biệt dành riêng cho nó. Các sản phẩm dành cho du lịch mạo hiểm là các

trang thiết bị giúp du khách trải nghiệm đƣợc các hoạt động du lịch và công cụ để

đảm bảo an toàn cho du khách. Đối với các hoạt động trên cạn nhƣ đi bộ băng rừng,

leo vách núi cần dây leo, móc khóa, lều bạt, mũ bảo hiểm, các dụng cụ bảo vệ đầu

gối, cổ tay, máy bộ đàm, v.v. Các hoạt động trên không nhƣ nhảy dù, tàu lƣợn cần

mũ bảo hiểm, dù nhảy, các dụng cụ bảo về đầu, đầu gối khửu tay, v.v. Tùy theo các

hoạt động mà các thiết bị giống nhau đƣợc thiết kế khác nhau. Ví dụ, các công cụ để

tham gia các hoạt động khám phá dƣới nƣớc khác với trên cạn, mặc dù chúng có tên

gọi tƣơng tự (nhƣ mũ bảo hiểm các hoạt động leo núi khác với mũ bảo hiểm các

hoạt động dƣới nƣớc). Đối với du lịch mạo hiểm, yếu tố an toàn là yêu cầu quan

trọng nhất, trong đó bao gồm các dụng cụ cơ bản nhƣ hộp y tế và thông tin liên lạc

đơn giản, bên cạnh đó là các thiết bị chuyên dụng để trải nghiệm các hoạt động du

lịch cụ thể tại từng điểm.

Cơ sở nghỉ ngơi, lƣu trú dành cho loại hình du lịch mạo hiểm cũng rất phong

phú, có thể là các khách sạn đạt tiêu chuẩn, nhà dân hoặc chỉ là điểm cắm trại ngoài

trời để phù hợp với nhu cầu và ý thích của du khách. Các dịch vụ đi kèm nhƣ hƣớng

dẫn kỹ thuật, khuân vác, dẫn đƣờng, bán và cho thuê trang thiết bị, cứu hộ, v.v. luôn

là các gói dịch vụ cần có trong bất cứ loại hình nào của du lịch mạo hiểm.

1.3. Phân loại du lịch mạo hiểm

Trên thế giới, du lịch mạo hiểm đƣợc phân loại theo một số nhóm, mục tiêu,

đặc điểm chính nhƣ sau:

Phân loại theo mục đích chuyến đi

Phân loại theo mục đích chuyến đi có 2 loại: Du lịch với mục đích khám phá,

trải nghiệm; Du lịch với mục đích và khám phá, nghiên cứu của các nhà khoa học

qua việc thực hiên các chuyến khảo sát, phân tích, tìm hiểu các loài động, thực vật,

các hiện tƣợng trong tự nhiên.

Phân loại theo tính chất và đặc điểm

16

Phân loại theo tính chất và đặc điểm có 3 loại: Du lịch mạo hiểm trên cạn (leo

núi, khám phá hang động, đi bộ băng rừng); Du lịch mạo hiểm dƣới nƣớc (chèo

thuyền, vƣợt thác, lặn biển khám phá đại dƣơng); Du lịch mạo hiểm trên không

(nhảy dù, tàu bay, tàu lƣợn).

Phân loại theo mức độ mạo hiểm

Phân loại theo mức độ nguy hiểm có 3 loại: Loại hình có mức độ mạo hiểm

thấp (đi xe đạp địa hình, chèo thuyền, đi bộ băng rừng); Loại hình có mức độ mạo

hiểm trung bình (leo núi, chèo thuyền vƣợt thác); Loại hình có mức độ mạo hiểm

cao – đây là các hoạt động mang tính chất rủi ro cao hay địa điểm tổ chức là những

nơi có điều kiện tự nhiên khắc nghiệt (trƣợt tuyết trên miệng núi lửa ở Nhật Bản,

bay lƣợn trên không trung ở Brazil, nhảy xuống hồ cá mập ở Mexico, nhảy từ cao

ốc ở Dubai, leo núi băng ở Nepal).

Nhƣ vậy, sự phân loại du lịch mạo hiểm có thể dựa trên nhiều tiêu chí khác

nhau tùy theo mục đích, tính chất hay mức độ mạo hiểm.

1.4. Nguyên tắc phát triển sản phẩm du lịch mạo hiểm

Một số nguyên tắc đặc thù cần lƣu ý khi phát triển du lịch mạo hiểm gồm:

Tăng cƣờng các dịch vụ đảm bảo an toàn cho du khách, theo đó các dịch vụ

nhƣ huấn luyện, hƣớng dẫn, hỗ trợ an toàn phải đƣợc đƣa vào cấu thành chính mang

tính bắt buộc của sản phẩm du lịch mạo hiểm.

Ngoài các giá trị về tài nguyên nhƣ đặc điểm địa hình, độ cao, độ hoang sơ,

v.v. đóng vai trò chính ảnh hƣởng tới việc xây dựng các sản phẩm du lịch mạo

hiểm, cần chú trọng khai thác các giá trị văn hóa bản địa nhƣ sinh hoạt truyền thống

cộng đồng, kiến trúc nhà ở, văn nghệ dân gian, lễ hội truyền thống nhằm tạo sự

khác biệt và tăng tính hấp dẫn của sản phẩm.

Các sản phẩm du lịch mạo hiểm thƣờng đƣợc phát triển ở những khu vực

hoang sơ nên cần phát triển chúng theo nguyên tắc chỉ thỏa mãn nhu cầu của một

nhóm nhỏ du khách tại một thời điểm phù hợp với sức chứa của tài nguyên để giảm

thiểu tác động của hoạt động du lịch đến môi trƣờng. Đây là nguyên tắc quan trọng

17

đối với việc phát triển các loại hình du lịch dựa vào tự nhiên ở những khu vực

hoang sơ, nhạy cảm trƣớc những tác động của du lịch.

Chính vì thế, nếu đảm bảo những nguyên tắc cơ bản có tính đặc thù này sẽ

giúp xây dựng các sản phẩm du lịch mạo hiểm có tính hấp dẫn và tính cạnh tranh

cao, đáp ứng kỳ vọng của du khách.

1.5. Các điều kiện phát triển của du lịch mạo hiểm

Trong khi các loại hình du lịch tham quan, nghỉ dƣỡng, đòi hỏi hạ tầng cơ sở,

đặc biệt là hệ thống giao thông và cơ sở vật chất phục vụ du lịch đóng vai trò quan

trọng, thì đối với du lịch mạo hiểm những yếu tố trên ít có ảnh hƣởng. Trong nhiều

trƣờng hợp, sự khó khăn về hạ tầng và yếu kém về cơ sở vật chất lại là những yếu tố

góp phần làm tăng tính mạo hiểm của sản phẩm du lịch mạo hiểm mà du khách sẽ

trải nghiệm. Nhƣ vậy, đứng từ góc độ khái niệm về sản phẩm du lịch, có thể thấy có

những yếu tố cơ bản sau ảnh hƣởng tới sự phát triển của du lịch mạo hiểm.

1.5.1. Hệ thống tài nguyên du lịch

Tài nguyên du lịch đƣợc phân loại theo tài nguyên thiên nhiên gắn liền với các

yếu tố tự nhiên, và tài nguyên nhân văn gắn liền với các nhân tố về con ngƣời và xã

hội. Tuy nhiên vai trò của tài nguyên du lịch nhân văn không quyết định mà chỉ là

yếu tố bổ trợ quan trọng (Luật du lịch, 2005).

Cũng theo Luật du lịch (2005) thì tài nguyên du lịch là cảnh quan thiên nhiên,

di tích lịch sử, di tích cách mạng, giá trị nhân văn, công trình lao động sáng tạo của

con ngƣời có thể đƣợc sử dụng nhằm thoả mãn nhu cầu du lịch; là yếu tố cơ bản để

hình thành các điểm du lịch, khu du lịch nhằm tạo ra sự hấp dẫn du lịch.

Nhƣ vậy, tài nguyên du lịch đƣợc xem nhƣ tiền đề để phát triển sản phẩm du

lịch. Thực tế cho thấy, tài nguyên du lịch càng phong phú, càng đặc sắc bao nhiêu

thì sức hấp dẫn và hiệu quả hoạt động du lịch càng cao bấy nhiêu. Theo tác giả

Phạm Trung Lƣơng (2008) thì các dạng tài nguyên có thể khai thác để phát triển

loại hình du lịch mạo hiểm (DLMH) bao gồm :

18

Các dạng địa hình: Các dạng địa hình sử dụng để khai thác du lịch mạo hiểm

phải có các yếu tố phức tạp, hiểm trở về độ cao, độ dốc. Độ dốc càng lớn thì tính

mạo hiểm của sản phẩm du lịch tạo ra cũng sẽ càng lớn. Hiện nay, các tuyến du lịch

mạo hiểm (đi bộ mạo hiểm xuyên rừng, đi xe máy, xe đạp địa hình mạo hiểm, tàu

lƣợn) thƣờng đƣợc thiết kế ở những khu vực có độ dốc lớn nhằm khai thác tính

“mạo hiểm” ẩn chứa trong dạng tài nguyên này .

Ngoài ra, một dạng tài nguyên du lịch địa hình khác thƣờng đƣợc khai thác là

phần mở rộng chƣa đƣợc khám phá của hệ thống các hang động. “Những hang động

càng sâu, càng phức tạp (đƣợc cấu tạo hỗn hợp giữa 2 tính chất động thủy và động

khô) đƣợc quan tâm khai thác. Tất nhiên các giá trị cảnh quan, thẩm mỹ của hang

động cũng sẽ đóng vai trò quan trọng, tuy nhiên sẽ là thứ yếu nếu tài nguyên địa

hình này đƣợc khai thác cho mục đích du lịch mạo hiểm. Một dạng tài nguyên du

lịch địa hình khác hiện cũng thƣờng đƣợc khai thác cho mục đích du lịch mạo hiểm

là dạng địa hình sa mạc (hoặc bán hoang mạc) này chứa yếu tố chinh phục hấp dẫn

du khách” [9, tr.28].

Hệ thống sông, suối và hồ: Các đặc điểm về tốc độ dòng chảy và địa hình của

lòng sông, suối, thác ghềnh thƣờng đƣợc khai thác khi phát triển loại hình du lịch

mạo hiểm. Độ dốc, tốc độ dòng chảy càng lớn thì yếu tố mạo hiểm càng cao. Ngoài

đặc điểm cơ bản này, các giá trị cảnh quan xung quanh sẽ là yếu tố tài nguyên bổ

trợ quan trọng góp phần tạo nên tính hấp dẫn cho các hoạt động du lịch mạo hiểm.

Các giá trị cảnh quan, hệ sinh thái: Khi phân tích các dạng tài nguyên đƣợc sử

dụng phát triển các sản phẩm du lịch thể thao – mạo hiểm, tác giả Phạm Trung

Lƣơng (2008) cho rằng giá trị cảnh quan, hệ sinh thái tại các vƣờn quốc gia, khu

bảo tồn thiên nhiên (KBTTT) là dạng tài nguyên du lịch bổ trợ quan trọng. Thực tế

cho thấy các tuyến du lịch mạo hiểm ở vùng núi thƣờng đƣợc thiết kế đi qua các

khu vực có cảnh quan đẹp, hấp dẫn hay những vƣờn quốc gia (VQG), KBTTT có

các giá trị đa dạng sinh học cao. Nhƣ vậy, những giá trị tài nguyên này sẽ góp phần

không nhỏ tạo nên tính hấp dẫn của các sản phẩm du lịch mạo hiểm.

19

Các giá trị văn hóa bản địa: Tiêu biểu là phong tục tập quán, tín ngƣỡng, sinh

hoạt sản xuất truyền thống, tính quần cƣ, kiến trúc công trình đƣợc xem là dạng tài

nguyên du lịch bổ trợ quan trọng đối với du lịch mạo hiểm ở vùng núi. Một số nƣớc

phát triển du lịch mạo hiểm trên thế giới đã cho thấy rằng mức độ quan trọng của tài

nguyên du lịch chủ yếu trên đối với sự phát triển của loại hình du lịch mạo hiểm có

khác nhau. Cụ thể (theo thứ tự về mức độ quan trọng): Địa hình (độ cao, độ dốc,

hang động ); Hệ thống sông, suối và hồ; Các giá trị cảnh quan, hệ sinh thái; Các giá

trị văn hóa bản địa (Ralf Buckey, 2006).

Ngoài các yếu tố vừa nêu, còn có các điều kiện tự nhiên có ảnh hƣởng đến

hoạt động du lịch nói chung và du lịch mạo hiểm nói riêng nhƣ khí hậu, thời tiết, sự

an toàn và bất trắc của môi trƣờng tự nhiên.

Với các nguyên tắc và yêu cầu đó, Ba Bể đáp ứng gần nhƣ đầy đủ các điều

kiện cơ bản mà một điểm du lịch mạo hiểm cần có: Ở Ba Bể có sự hội tụ của sự đa

dạng của địa hình, sự phong phú của các loài, tính đa dạng của hệ thống thủy vực,

suối, hồ, sông với mức độ khó khăn của địa hình, sự phong phú về văn hóa và đời

sống của ngƣời dân địa phƣơng. Sự đa dạng và các tiềm năng đó cho thấy tiềm năng

thực sự và sự phù hợp của Ba Bể nhƣ một điểm lý tƣởng cho những du khách yêu

thích loại hình du lịch mạo hiểm và vấn đề làm thế nào, phát triển ra sao để phát

huy đƣợc các tiềm năng và thế mạnh đó.

1.5.2. Điều kiện kinh tế - xã hội

Sự phát triển của nền sản xuất xã hội có tầm quan trọng hàng đầu làm xuất

hiện nhu cầu du lịch và biến nhu cầu của con ngƣời thành hiện thực. Nền sản xuất

xã hội phát triển tạo điều kiện ra đời của nhiều nhân tố khác nhau nhƣ nhu cầu nghỉ

ngơi, giải trí, mức sống, mức thu nhập, thời gian rỗi rãi. Ở các nƣớc có nền kinh

tế chậm phát triển, nhìn chung nhu cầu nghỉ ngơi du lịch còn hạn chế, ngƣợc lại

nhu cầu nghỉ ngơi ở các nƣớc kinh tế phát triển rất đa dạng. Bên cạnh nhu cầu

giải trí cuối tuần, hàng năm ngƣời dân còn đòi hỏi những đợt nghỉ dài ngày ở

những vùng biển, trên núi, trong nƣớc hoặc nƣớc ngoài. Rõ ràng những nhu cầu

20

này phải dựa trên cơ sở vững chắc của nền sản xuất xã hội (Trần Thị Thúy Lan,

2005). Nhu cầu du lịch mạo hiểm cũng xuất phát từ các nƣớc phát triển, khi

ngƣời dân đã đƣợc đáp ứng đầy đủ các nhu cầu về xã hội, thì ngƣời ta sẽ tìm tới

những nhu cầu cao cấp hơn.

VQG Ba Bể có đặc điểm khá phức tạp về mặt quản lý do địa bàn rộng lớn

với 15 điểm dân cƣ (hơn 3000 ngƣời) sinh sống cả ngoài và trong vùng lõi. Nhìn

chung đời sống kinh tế của đồng bào sống trong vùng đang gặp nhiều khó khăn,

đặc biệt là trong vùng lõi. Tỷ lệ hộ đói nghèo chung cho các xã là 26.5%, tỷ lệ

ngƣời mù chữ ở độ tuổi 15 – 60 là 9.36%. Sức ép về phát triển kinh tế - xã hội và

nhu cầu lâm sản vào VQG là không nhỏ (khai thác và săn bắt động vật hoang dã,

xâm lấn đất đai, sử dụng chất nổ, xung điện đánh bắt cá ở vùng lòng hồ, v.v.).

Thực tế này đã ảnh hƣởng tới việc phát triển các loại hình dịch vụ nói chung

cũng nhƣ dịch vụ du lịch trên địa bàn

1.5.3. Điều kiện cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chất kỹ thuật

Điều kiện cơ sở hạ tầng

Cơ sở hạ tầng có vai trò quan trọng đối với việc phát triển du lịch nói chung và

du lịch mạo hiểm nói riêng, đặc biệt kết cấu hạ tầng du lịch là những nhân tố quan

trọng hàng đầu. Kết cấu hạ tầng du lịch bao gồm hệ thống giao thông, thông tin liên

lạc, hệ thống cung cấp điện, nƣớc và xử lý chất thải từ hoạt động du lịch. Giao

thông là một bộ phận của cơ sở hạ tầng kinh tế, nhƣng có những loại phƣơng tiện

giao thông sản xuất chỉ phục vụ riêng cho nhu cầu du lịch (Trần Thị Thúy Lan,

2005). Cũng nhƣ vậy, đối với du lịch mạo hiểm, giao thông là một điều kiện quan

trọng để du khách có thể tiếp cận tới nơi có các loại hình, hoạt động du lịch mạo

hiểm đang đƣợc khai thác.

Nhƣ vậy, cơ sở hạ tầng rất quan trọng trong phát triển du lịch. Tuy nhiên đối

với du lịch mạo hiểm nó không yêu cầu kết cấu hạ tầng du lịch ở những tiêu chuẩn

cao nhƣ đối với những loại hình du lịch khác (du lịch nghỉ dƣỡng, du lịch thăm

quan, du lịch kết hợp hội nghị, hội thảo, triển lãm, tổ chức sự kiện, du lịch khen

21

thƣởng v.v.). Đây là điều dễ hiểu bởi sự khó khăn, hạn chế đối với điều kiện trong

giao thông, nƣớc đƣợc xem nhƣ một phần không thể thiếu để kiểm chứng bản lĩnh

của du khách tham gia loại hình du lịch này. Nói một cách khác sự phát triển loại

hình và các sản phẩm du lịch mạo hiểm không nhất thiết phải là những điều kiện về

hạ tầng du lịch hoàn hảo. Tuy nhiên điều này không có nghĩa là điều kiện hạ tầng du

lịch mạo hiểm không cần phát triển.

Điều kiện cơ sở vật chất kỹ thuật

Cơ sở vật chất kỹ thuật đóng một vai trò quan trọng trong quá trình tạo ra và

khai thác sản phẩm du lịch cũng nhƣ quyết định mức độ hiệu quả khai thác các tiềm

năng du lịch nhằm thỏa mãn các nhu cầu của khách du lịch.

Du lịch là một ngành sản xuất nhiều và đa dạng về thể loại dịch vụ, hàng hóa

nhằm thỏa mãn nhu cầu của khách du lịch. Do vậy cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch

bao gồm nhiều thành phần khác nhau, nhƣ toàn bộ các phƣơng tiện vật chất tham

gia vào việc tạo ra và thực hiện dịch vụ hàng hóa du lịch nhằm đáp ứng mọi nhu cầu

của khách du lịch (các cơ sở lƣu trú, ăn uống, vui chơi giải trí, dịch vụ bổ sung

nhằm đáp ứng nhu cầu đa dạng của du khách).

Cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ du lịch mạo hiểm bao gồm hệ thống thống cơ

sở lƣu trú, các biển báo an toàn, sơ đồ chỉ đƣờng, các phƣơng tiện bổ trợ cho các

hoạt động du lịch mạo hiểm, v.v. Tuy nhiên tỷ trọng này trong thành phần các sản

phẩm du lịch thuộc các loại hình du lịch khác nhau sẽ khác nhau. Ví dụ: hệ thống

khách sạn, đặc biệt là các khách sạn cao cấp sẽ có vai trò rất quan trọng trong việc

phát triển các sản phẩm du lịch nghỉ dƣỡng chất lƣợng cao, các sản phẩm du lịch kết

hợp hội nghị, hội thảo, triển lãm, tổ chức sự kiện, du lịch khen thƣởng của các công

ty cho nhân viên (MICE). Tuy nhiên loại cơ sở vật chất kỹ thuật này lại không thật

sự cần thiết khi phát triển các sản phẩm du lịch sinh thái ở các khu bảo tồn thiên

nhiên hoặc du lịch làng quê, thiên nhiên. Đối với việc phát triển loại hình du lịch

mạo hiểm thì hệ thống cơ sở lƣu trú, đặc biệt tại các khu trung tâm, nơi xuất phát

của các chuyến du lịch mạo hiểm là cần thiết nhất. Đối với du lịch mạo hiểm, nhu

22

cầu lƣu trú ở các khách sạn cao cấp rất hạn chế. Do đó, điều kiện về cơ sở vật chất

kỹ thuật thƣờng không đƣợc đặt ra nhƣ một yêu cầu cấp thiết để phát triển loại hình

du lịch mạo hiểm. Tùy thuộc vào điều kiện của từng điểm, loại hình khai thác và

thời gian của chuyến du lịch mạo hiểm mà các cơ sở lƣu trú sẽ đƣợc bố trí trên

tuyến.

Tác giả Phạm Trung Lƣơng cho rằng “Ngoài các dịch vụ cơ bản có trong bất

cứ sản phẩm du lịch nào nhƣ dịch vụ lƣu trú, đi lại, ăn uống, v.v. Một số dịch vụ

đặc thù chủ yếu cần có và luôn đƣợc đƣa vào nhƣ một điều kiện cần khi khai thác

du lịch mạo hiểm bao gồm:

Dịch vụ huấn luyện: Nhằm trang bị cho du khách những kiến thức, kỹ năng cơ

bản để có thể làm chủ kỹ thuật, thiết bị, phƣơng tiện đƣợc sử dụng trong quá trình

tham gia vào các hoạt động du lịch mạo hiểm.

Dịch vụ hướng dẫn: Dịch vụ này thƣờng sẽ đặc biệt hơn so với dịch vụ hƣớng

dẫn ở những loại hình du lịch truyền thống nhƣ du lịch thăm quan, du lịch văn hóa.

Trong trƣờng hợp này ngƣời hƣớng dẫn viên không chỉ đơn thuần đƣợc trang bị tốt

những kiến thức về tự nhiên, văn hóa bản địa ở những khu vực diễn ra hoạt động du

lịch mạo hiểm, để đáp ứng yêu cầu tìm hiểu của du khách, họ còn cần đáp ứng nhu

cầu trợ giúp kỹ thuật, cứu trợ trong các trƣờng hợp khẩn cấp trong quá trình thực

hiện chƣơng trình du lịch mạo hiểm. Đối với hoạt động phát triển du lịch mạo hiểm,

ngƣời hƣớng dẫn viên (trong nhiều trƣờng hợp thực hiện cả vai trò huấn luyện viên)

đƣợc xem là yếu tố quan trọng có ý nghĩa đặc biệt đảm bảo sự thành công của các

hoạt động du lịch đó.

Dịch vụ ứng cứu: Du lịch mạo hiểm luôn chứa đựng những tình huống bất

ngờ, khó đoán trong quá trình thực hiện các hoạt động khám phá và thám hiểm.

Trong nhiều trƣờng hợp, du khách có thể cần sự hỗ trợ ứng cứu kịp thời để đảm bảo

sự an toàn cho bản thân và các thành viên khác trong đoàn. Chính vì thế, dịch vụ

ứng cứu luôn đƣợc xác định là quan trọng cùng với đó là các phƣơng tiện tìm kiếm,

cấp cứu phù hợp.

23

Dịch vụ bảo hiểm: Do tính đặc thù của du lịch mạo hiểm là luôn phải đối mặt

với những tình huống có thể nảy sinh ngoài ý muốn. Kết quả của tình trạng này có

thể ảnh hƣởng đến sức khoẻ, thậm chí tính mạng của khách du lịch, chính vì vậy

dịch vụ bảo hiểm là một dịch vụ rất quan trọng không thể thiếu trong việc phát triển

loại hình du lịch mạo hiểm [9, tr.31]”.

Một số hoạt động du lịch mạo hiểm đã đƣợc khai thác ở Ba Bể trong đó tập

trung vào việc khai thác các đặc điểm nổi trội nhƣ chèo thuyền vƣợt thác Đầu Đẳng,

đi bộ qua các dạng địa hình phức tạp trong vƣờn quốc gia. Tuy nhiên, các điều kiện

hỗ trợ phát triển du lịch nhƣ hệ thống cơ sở hạ tầng và trang thiết bị phục vụ cho các

hoạt động du lịch này vẫn còn thiếu và tƣơng đối đơn điệu. Hơn nữa, phần lớn các

nguyên tắc và yêu cầu cơ bản trên chƣa có kế hoạch phát triển. Có thể hoạt động du

lịch mạo hiểm ở Ba Bể chƣa thực sự đƣợc quan tâm phát triển nhƣ một hoạt động

mũi nhọn hoặc có thể du khách chƣa thực sự quan tâm tới các loại hình này. Do đó,

việc đầu tƣ, khai thác mới ở quy mô đó.

1.5.4. Các điều kiện khác

Đối tượng khách du lịch

Khách du lịch tham gia vào loại hình du lịch mạo hiểm không giống nhƣ

những loại hình khác. Để có thể tham gia vào loại hình du lịch mạo hiểm, đòi hỏi họ

phải có một số yếu tố nhất định, có sức khỏe, và mang trong mình sự yêu thích

khám phá tìm tòi. Khả năng tài chính cũng là yếu tố thúc đẩy du khách tham gia vào

các chƣơng trình du lịch mạo hiểm vì các hoạt động du lịch mạo hiểm cần có sự đầu

tƣ chuyên biệt về trang thiết bị và phƣơng tiện. Do đó giá thành thƣờng cao hơn so

với các loại hình du lịch khác và đối tƣợng khách cũng không phải đại trà nên chu

kì thu hồi vốn cũng lâu hơn.

Tính thời vụ

Có nhiều yếu tố ảnh hƣởng đến tính thời vụ du lịch nhƣ: khí hậu, thời gian rỗi,

phong tục tập quán. Điều đó cho thấy tính thời vụ là vấn đề tồn tại khách quan đối

24

với hoạt động du lịch. Đối với du lịch mạo hiểm thì yếu tố thời vụ cũng gây ra

những khó khăn nhất định cho các hoạt động mạo hiểm. Khí hậu mƣa hay nắng sẽ

ảnh hƣởng đến việc vƣợt ghềnh thác, hoặc đi xe đạp băng qua các cánh rừng, trƣợt

vách núi.

Tại Ba Bể, khí hậu có sự phân hóa theo mùa nên hoạt động du lịch vì thế mà

cũng mang tính thời vụ. Tuy nhiên, với thế mạnh về sự đa dạng của tài nguyên, đa

dạng về văn hóa, Ba Bể đã dần tạo cảm hứng khám phá cho du khách, đặc biệt là

đối tƣợng khách du lịch mạo hiểm giàu tiềm năng.

Thời gian rỗi

Một trong các tiêu chí đƣợc xác định trong định nghĩa du lịch là chuyến đi

thực hiện trong thời gian rỗi của con ngƣời. Trong điều kiện thƣ thái, du lịch sẽ đạt

đƣợc hiệu quả cao hơn, với nhiều cảm nhận và trải nghiệm thú vị hơn. Cũng giống

nhƣ các loại hình du lịch khác, khách du lịch mạo hiểm cũng cần có nhiều thời gian

để có thể tham gia vào các hoạt động. Thời gian ngắn, dài phụ thuộc vào các hoạt

động cụ thể trong các chuyến đi và loại hình tham gia. Do vậy thời gian là yếu tố và

là điều kiện cần thiết.

Bối cảnh quốc tế

Du lịch là chiếc cầu nối hòa bình giữa các dân tộc cũng nhƣ giúp cho các dân

tộc gần nhau hơn, hiểu hơn về giá trị văn hóa. Thế giới sẽ có những biến động về

kinh tế, chính trị, an ninh và an toàn dù lớn hay nhỏ đều ảnh hƣởng trực tiếp đến

hoạt động du lịch. Ổn định và an toàn là yếu tố có ý nghĩa rất lớn đối với du khách

và cơ quan cung ứng du lịch nói chung và du lịch mạo hiểm nói riêng.

Đối với Việt Nam, các yếu tố ổn định đang là động lực quan trọng lôi cuốn du

khách quốc tế. Đối với Ba Bể, tính đặc biệt của địa hình, cảnh quan sự đa dạng và

nguyên bản về văn hóa đang là những nét đặc sắc nổi bật nhất thu hút khách du lịch

tới đây.

25

1.6. Mối quan hệ giữa du lịch mạo hiểm và các loại hình du lịch khác

1.6.1. Du lịch thể thao và du lịch mạo hiểm

Du lịch thể thao thƣờng có mục đích chính là để thực hành hoặc cổ vũ cho các

hoạt động thể thao nhƣ thế vận hội, các giải thể thao. Thông thƣờng, những ngƣời

tham gia du lịch thể thao vừa là vận động viên vừa là khách du lịch. Họ có thể xem,

cổ vũ hoặc thi đấu các môn thể thao và phải sử dụng thành thạo các kỹ năng của

từng môn thể thao có trong chƣơng trình nhƣ đi bộ, đua xe đạp, trƣợt dây cáp, chèo

thuyền, leo núi, nhảy dù, đua ngựa. Tùy thuộc vào cách thức tham gia mà ta phân

loại du lịch thể thao thành hai loại là du lịch thể thao chủ động (du khách tham gia

trực tiếp vào các hoạt động thể thao nhƣ leo núi, bơi thuyền, lƣớt ván, săn bắn, câu

cá) hay du lịch thể thao bị động (bao gồm các cuộc hành trình du lịch để xem các

cuộc thi đấu thể thao, các cuộc biểu diễn, các thế vận hội). Du lịch thể thao không

nhất thiết đòi hỏi một khung cảnh thiên nhiên hay yếu tố mạo hiểm chính vì thế có

thể coi du lịch thể thao là một loại hình khác với du lịch mạo hiểm. Tuy nhiên, du

lịch thể thao lại có những yếu tố rất tƣơng đồng với du lịch mạo hiểm về những yếu

tố nỗ lực cao về mặt thể chất, tinh thần.

Nhƣ vậy, có thể thấy rằng có một mối quan hệ khá chặt chẽ giữa du lịch thể

thao và du lịch mạo hiểm. Khi kết hợp giữa du lịch thể thao và du lịch mạo hiểm, sẽ

có những đặc trƣng sau:

- Về phƣơng thức tổ chức: Các chuyến du lịch thể thao thƣờng đựơc tổ chức

thành một giải đua, thi đấu của các môn thể thao ngoài trời dựa vào tài nguyên thiên

nhiên nhƣ nhảy dù, tàu lƣợn, đi bộ, leo núi, khám phá hang động, đua ngựa, đua xe

đạp địa hình, leo vách đá, v.v.

- Về không gian tổ chức: Thƣờng diễn ra trong môi trƣờng tự nhiên hoang

sơ, đa dạng để có thể phát huy tối đa năng lực và kỹ năng cũng nhƣ kinh

nghiệm của du khách.

26

- Về mục đích của ngƣời tham gia: Đó là sự kết hợp giữa thể thao và khám

phá. Ngƣời tham gia có cơ hội khám phá không chỉ khả năng của bản thân mà còn

khám phá thiên nhiên kỳ bí cũng nhƣ những yếu tố văn hóa mới.

Ba Bể đã tổ chức một số giải đấu thể thao (nhƣ giải đua thuyền độc mộc tổ

chức vào tháng 3 hàng năm) nhƣng đây chỉ là các hoạt động đơn lẻ chƣa kết hợp

với phát triển du lịch nói chung và du lịch mạo hiểm nói riêng. Trong tƣơng lai, nếu

kết hợp đƣợc việc tổ chức các chuyến du lịch thể thao kết hợp yếu tố mạo hiểm

nhằm tăng tính trải nghiệm cũng nhƣ mang lại cho du khách những kinh nghiệm và

cảm nhận phong phú hơn, đây sẽ là một hƣớng phát triển mới cho du lịch Ba Bể.

1.6.2. Du lịch dựa vào tự nhiên, du lịch sinh thái và du lịch mạo hiểm

“Du lịch dựa vào thiên nhiên là một thuật ngữ rất rộng bao hàm bên trong nó

rất nhiều loại hình du lịch khác nhau thƣờng diễn ra trong khung cảnh tự nhiên

hoang sơ, chƣa bị làm biến đổi. Du lịch sinh thái chính là một trong những hình

thức đƣợc biết đến nhiều nhất. Du lịch sinh thái đƣợc coi nhƣ là loại hình du lịch có

tính bền vững nhất vì nó có tính giáo dục và bảo tồn cao. Càng ngày du lịch sinh

thái và du lịch mạo hiểm càng có những điểm tƣơng đồng, nhất là khi khoa học kỹ

thuật phát triển và đƣa vào ứng dụng những công nghệ mới gây tác động tối thiểu

đến môi trƣờng” [22, tr.34].

Tuy nhiên, khác với du lịch sinh thái, du lịch mạo hiểm không phải lúc nào

cũng tôn trọng môi trƣờng của khu vực tham quan. Du lịch mạo hiểm hƣớng vào sử

dụng khoảng không nhƣng không phải lúc nào cũng bảo vệ chúng. Du lịch mạo

hiểm hƣớng đến việc trải nghiệm, vƣợt qua các thách thức, vƣợt qua giới hạn của

bản thân chứ ít chú ý đến tìm hiểu môi trƣờng xung quanh.

Nghiên cứu của tác giả Trƣơng Thị Lan Hƣơng (2007) ở Lâm Đồng cũng cho

thấy sự khác biệt này:

27

Bảng 1.1. So sánh giữa du lịch sinh thái và du lịch mạo hiểm

Du lịch sinh thái Du lịch mạo hiểm

• Kinh nghiệm hƣớng vào thiên • Kinh nghiệm vận động

nhiên • Có tác động lên môi trƣờng

• Tác động tối thiểu • Thiên về kỹ năng, kỹ thuật

• Thiên về giáo dục • Kết hợp giữa công nghệ và

• Hƣớng vào các giá trị nội tại của thiên nhiên (trang thiết bị)

(Nguồn: Trương Thị Lan Hương, 2007)

thiên nhiên

Mối liên hệ giữa du lịch sinh thái và du lịch mạo hiểm tại Ba Bể đôi khi khó

phân biệt, có nhiều hoạt động của du lịch mạo hiểm đƣợc thực hiện theo cách tiếp

cận của du lịch sinh thái (nhƣ đi bộ băng rừng). Cho tới nay, chƣa có những đánh

giá đầy đủ về tiềm năng du lịch, cũng nhƣ quy hoạch phát triển du lịch sinh thái kết

hợp mạo hiểm cho VQG Ba Bể, dẫn tới sự phối hợp về các hoạt động dịch vụ du

lịch giữa VQG với các cơ sở du lịch trong khu vực còn thiếu, các hoạt động còn đơn

điệu. Để có cơ sở xây dựng các chƣơng trình phát triển du lịch sinh thái kết hợp du

lịch mạo hiểm, nhất thiết phải đánh giá đƣợc đầy đủ hiện trạng, tiềm năng du lịch về

các mặt tài nguyên và xây dựng các chƣơng trình du lịch cho phù hợp.

1.6.3. Du lịch văn hóa, du lịch dựa vào cộng đồng và du lịch mạo hiểm

Du lịch văn hóa là một trong những loại hình có tính hấp dẫn cao vì nó sử

dụng những giá trị văn hóa đậm đà bản sắc của địa phƣơng thông qua các vật dẫn

hoặc phƣơng thức biểu đạt, mang lại cho du khách cơ hội chiêm ngƣỡng, thử

nghiệm và cảm thụ. Việc hình thành văn hóa của từng dân tộc đều bắt nguồn từ các

điều kiện tự nhiên, xã hội của dân tộc đó nên có bản sắc rất riêng biệt. Chính vì thế,

khi đến một vùng đất nào đó, du khách thƣờng chú ý khám phá những điều mới mẻ, 28

khác biệt về văn hóa, và du lịch văn hóa cũng mang trong mình yếu tố khám phá.

Còn du lịch dựa vào cộng đồng là một xu hƣớng mới xuất hiện, khuyến khích sự

tham gia của ngƣời dân vào khai thác hoạt động du lịch một cách bền vững vì họ

chính là một phần của sản phẩm du lịch của điểm đến. Du lịch dựa vào cộng đồng

còn có ý nghĩa bảo tồn và chia sẻ lợi ích là những điều mấu chốt của phát triển bền

vững. Không có cộng đồng thì sẽ không có văn hoá. Do đó du lịch dựa vào cộng

đồng gắn liền với du lịch văn hóa. Du lịch mạo hiểm, ngoài ý nghĩa khám phá về

môi trƣờng thì còn có ý nghĩa khám phá về con ngƣời, về vùng đất nơi mình đến

thăm. Khi khám phá về văn hóa cũng nảy sinh rất nhiều yếu tố mạo hiểm. Có thể kể

đến sốc văn hóa của ngƣời vùng này khi sang một vùng khác. Đó cũng là một thách

thức có thật cần chinh phục.

Vài năm trở lại đây ngƣời dân ở Ba Bể (tại một số bản nhƣ Cốc Tộc, Pắc

Ngòi, Bó Lù) đã tham gia nhiều hơn vào hoạt động du lịch. Họ không chỉ cung cấp

dịch vụ lƣu trú, ăn uống mà còn là những hƣớng dẫn viên địa phƣơng đƣợc du

khách nƣớc ngoài tìm đến trong các hoạt động tìm hiểu, khám phá tại Ba Bể. Nhƣ

vậy, du lịch mạo hiểm không tách biệt mà nó nằm trong một mối quan hệ mật thiết

với du lịch văn hóa, du lịch dựa vào cộng đồng, mang lại cho du khách những cảm

nhận của sự chinh phục các thách thức và những kỹ năng cũng nhƣ kinh nghiệm

phong phú.

1.7. Thị trƣờng và đối tƣợng khách tham gia vào du lịch mạo hiểm

1.7.1. Thị trường khách du lịch mạo hiểm

Báo cáo “Nghiên cứu về thị trường du lịch mạo hiểm” của Hiệp hội Thƣơng

mại Du lịch Mạo hiểm (2013) đã nhận định thị trƣờng du lịch mạo hiểm là một

thị trƣờng có tốc độ phát triển gần nhƣ nhanh nhất trong những năm gần đây.

Cũng theo báo cáo này thì thị trƣờng dành cho du lịch mạo hiểm đã tăng lên đến

65% kể từ năm 2009. Bản báo cáo dựa trên cách thức so sánh trực tiếp giữa các

nghiên cứu và các bảng phân tích xu hƣớng tăng trƣởng của thị trƣờng du lịch

mạo hiểm. Ba khu vực đƣợc chú trọng là Châu Âu, Nam Mỹ và Bắc Mỹ chiếm

29

gần 70% các chuyến đi của toàn thế giới. Theo đó, khách du lịch mạo hiểm đã

chi hơn 345 tỉ đô la Mỹ cho các chi phí liên quan đến các chuyến du lịch mạo

hiểm của mình trong năm 2012.

Chƣơng trình Phát triển Năng lực Du lịch có Trách nhiệm với Môi trƣờng và

Xã hội (Dự án EU) do Liên minh Châu Âu tài trợ đã đề xuất “Chiến lược Marketing

Du lịch Việt Nam đến năm 2020 & kế hoạch hành động 2013 – 2015” trong đó xác

định một số thị trƣờng khách du lịch mạo hiểm chính ở Việt Nam là các thị trƣờng

Châu Âu bao gồm Đức, Ý, Tây Ban Nha và Bắc Mĩ bao gồm Mỹ, Canada. Tuy

nhiên, khách du lịch Châu Á nhƣ Nhật Bản và Hàn Quốc chƣa có những quan tâm

đến loại hình du lịch tiềm năng này.

Theo báo cáo “Phát triển du lịch sinh thái cho Ba Bể/ Na Hang” (Dự án

PARC, 2000) thì du lịch bắt đầu phát triển ở Ba Bể năm 1993 và tăng trƣởng đột

biến vào năm 1997. Ba Bể là điểm du lịch hấp dẫn nhất của tỉnh Bắc Kạn. Tại thời

điểm điều tra năm 1999, 100% khách du lịch quốc tế và 59% khách nội địa tới Bắc

Kạn để thăm Ba Bể, trong đó khách Pháp chiếm 50%, sau đó là các nƣớc Tây Âu

(Bỉ, Thụy Sĩ, Anh, Đức, Hà Lan, Ý, Tây Ban Nha) và một số khách tới từ Úc.

Đối với đối tƣợng khách trên, có thể nói Ba Bể là một thị trƣờng đầy tiềm

năng. Sở dĩ du lịch mạo hiểm Ba Bể có sức hấp dẫn với du khách Tây Âu, Bắc Mỹ

bởi mục đích đi du lịch của họ là khám phá và mở mang tri thức cho bản thân. Họ

thích khám phá những vùng đất hoang sơ, những trải nghiệm mới, nét văn hóa độc

đáo của các dân tộc. Vì vậy, họ thƣờng chọn những điểm đến có sự kết hợp giữa

yếu tố thiên nhiên và yếu tố con ngƣời.

1.7.2. Khách du lịch mạo hiểm

Khách du lịch là một thành phần không thể thiếu trong kinh doanh du lịch,

và đối với du lịch mạo hiểm thì khách du lịch càng đóng vai trò quan trọng. Hiện

nay con ngƣời đi du lịch theo xu hƣớng cá nhân nhỏ lẻ nhƣng chi tiêu cao. Con

30

ngƣời ngày càng tiến lên tầm cao mới, đời sống ngày càng đƣợc cải thiện dẫn

dến nhu cầu đi du lịch ngày càng nhiều, và xu hƣớng du lịch tìm về thiên nhiên

thƣởng ngoạn, giải trí, thử thách lòng can đảm đang trở thành “mốt” trong cuộc

sống hiện đại đầy cạnh tranh.

Cũng theo báo cáo“ Nghiên cứu về thị trường du lịch mạo hiểm 2013” thì

việc nhận thức về tự nhiên của du khách châu Á nói chung và Việt Nam nói

riêng vẫn còn hạn chế. Hầu nhƣ ngƣời Việt Nam chỉ tham gia nhiều vào các loại

hình du lịch thuần túy. Sau đây là một số đặc điểm của khách du lịch mạo hiểm

rút ra từ báo cáo:

Nhóm khách có độ tuổi trẻ từ 25-35 có độ quan tâm nhiều hơn so với nhóm

khách có độ tuổi cao hoặc ít tuổi hơn. Ở xu hƣớng du lịch mạo hiểm nhẹ có thể cao

hơn 55 tuổi. Tỷ lệ nam, nữ thay đổi theo hoạt động, những hoạt động nặng thu hút

giới trẻ và nam nhiều hơn (chiếm tới 87,6%).

42% khách du lịch tại Châu Âu, Nam và Bắc Mỹ cho biết họ có đi du lịch mạo

hiểm. Độ dài trung bình của một chuyến đi “mạo hiểm nhẹ” trong năm 2012 là 10

ngày so với chuyến đi 9 ngày năm 2009.

71% khách du lịch mạo hiểm có hộ chiếu hợp lệ. Một tỷ lệ nhỏ trong số họ đi

du lịch một mình, 21% đi du lịch với bạn bè, 37% với ngƣời phối ngẫu hoặc đối tác

và 30% với gia đình và con cái của họ.

Tính trung bình, chi tiêu của mỗi du khách trong chuyến đi du lịch mạo hiểm

(không bao gồm vé máy bay và thiết bị) tăng lên từ 593 đô la năm 2009 đến 947 đô

la trong năm 2012.

Xét về các điều kiện về tài nguyên du lịch, Ba Bể đƣợc đánh giá là một điểm

đến hấp dẫn. Tuy nhiên, số ngày lƣu trú của khách du lịch tại Ba Bể chƣa cao (trung

bình 2 đêm với khách quốc tế và 1 đêm với khách nội địa). Một trong những

nguyên nhân của tình trạng này là sự thiếu đa dạng của các loại hình du lịch. Khách

31

du lịch tới đây chủ yếu tham gia vào các hoạt động thăm quan hồ Ba Bể, thăm quan

bản làng. Trong khi đối tƣợng khách du lịch mạo hiểm luôn kì vọng sẽ có những

hoạt động bổ túc kinh nghiệm bởi sự phiêu lƣu, niềm thích thú và tìm kiếm sự nâng

cao kiến thức - sự hiểu biết cho bản thân. Vì vậy, nhìn chung tại Ba Bể chƣa khai

thác đƣợc thị trƣờng khách du lịch mạo hiểm có hiệu quả.

1.8. Thực tiễn tổ chức và khai thác du lịch mạo hiểm

1.8.1. Trên thế giới

Theo “Báo cáo phân ngành du lịch Pháp 2014” của tập đoàn tƣ vấn du lịch

IPK International thì Pháp là một thí dụ điển hình trong phát triển loại hình du lịch

mạo hiểm, luôn đứng trong tốp các điểm đến về du lịch mạo hiểm quốc tế trong

vòng 15 năm qua. Từ những năm 90 của thế kỷ XX, họ đã tổ chức thƣờng niên

chƣơng trình du lịch thể thao mạo hiểm nổi tiếng toàn cầu mang tên “Raid

Gauloises” đem lại nguồn thu lên tới hàng chục triệu USD mỗi năm. Báo cáo này

cũng đã chỉ ra trong năm 2014 có 14% du khách châu Âu chọn Pháp là điểm đến

trong kỳ nghỉ đông của họ ở châu Âu. Ngành du lịch Pháp chiếm 6,3% tổng sản

phẩm quốc nội và cung cấp 1,8 triệu việc làm trong nƣớc. Theo đó các sản phẩm,

dịch vụ chính của du lịch mạo hiểm Pháp bao gồm:

 Đi xe đạp địa hình ở Burgundy

 Leo núi ở dãy Alps

 Trƣợt tuyết ở Chamrousse

 Nhảy cầu ở Mediterranean

 Bơi xuồng, bè mảng và chèo thuyền ở Dordogne

 Lƣớt ván / Lƣớt sóng ở Côte d'Azur

Chính phủ Pháp đã xác định phát triển du lịch nói chung, du lịch mạo hiểm

khám phá nói riêng là ƣu tiên của quốc gia, kế hoạch chiến lƣợc tập trung vào 4

khía cạnh: Xúc tiến, tiếp cận, lòng hiếu khách và thích ứng với yêu cầu mới. Để

32

thực hiện định hƣớng chiến lƣợc này, chính phủ Pháp đã có những chính sách

khuyến khích các công ty du lịch xây dựng các chƣơng trình du lịch trên cơ sở khai

thác các giá trị tự nhiên hoang dã để phát triển loại hình du lịch mạo hiểm với sự hỗ

trợ của nhà nƣớc về các phƣơng tiện (cấp cứu bằng trực thăng, thông tin liên lạc,

định vị vị trí, v.v.) nhằm đảm bảo an toàn cho khách trong quá trình thực hiện các

chuyến du lịch đến các vùng rừng núi xa xôi, những thung lũng nhỏ áp sát bờ biển

(dãy Calanques), hay các đại dƣơng rộng lớn. Từ năm 2008, Pháp đã giành thị phần

từ các thị trƣờng gửi khách lớn nhƣ Đông Âu, Nga. Loại hình du lịch mạo hiểm

triển vọng trong tƣơng lai của thị trƣờng Pháp là đi xe đạp leo núi.

Du lịch là ngành công nghiệp dịch vụ lớn ở Thái Lan với dự báo đóng góp của

ngành du lịch với tổng sản phẩm nội địa của đất nƣớc (GDP) sẽ tăng trƣởng ở mức

10,4 % vào năm 2024 (World Travel Tourism Council, 2014). Địa hình đa dạng của

Thái Lan đem lại nhiều tiềm năng phát triển du lịch mạo hiểm ngoài trời. Các hoạt

động du lịch mạo hiểm chính ở Thái Lan bao gồm:

Đi xe đạp leo núi ở Chiang Mai 

Lặn biển ở đảo Similan 

Chèo thuyền Kayak ở vịnh Ko Tarutao, 

 Đu dây trong những cánh rừng già 1500 tuổi ở Chiang Mai

Trong chiến lƣợc phát triển du lịch của mình, Thái Lan tập trung vào 2 hƣớng

ƣu tiên chính là bảo vệ và bảo tồn các nguồn tài nguyên phục vụ phát triển bền vững

lâu dài thông qua ƣu tiên phát triển các loại hình du lịch thân thiện với môi trƣờng

nhƣ du lịch sinh thái, du lịch mạo hiểm. Đây là chiến lƣợc phát triển du lịch lâu dài,

bền vững của Thái Lan trong mối quan hệ với những loại hình du lịch ƣu tiên, trong

đó có du lịch mạo hiểm. Trong hƣớng ƣu tiên thứ nhất thì Thái Lan coi việc khám

phá những vùng đất mới lạ với những cảm xúc đặc biệt song hành cùng việc nâng

cao trách nhiệm bảo tồn các giá trị tài nguyên tự nhiên, văn hóa bản địa, trong đó

33

ngƣời dân địa phƣơng là trọng tâm sẽ là yếu tố nền tảng cho mọi kế hoạch phát triển

hay xúc tiến du lịch.

Trong hƣớng ƣu tiên thứ hai thì mục tiêu dài hạn là phát triển một hình ảnh

riêng, đặc thù, với các chuẩn mực đã đƣợc thừa nhận trên thế giới. Để làm đƣợc

điều này, Thái Lan xác định phải tập trung vào 3 hƣớng gồm phát triển các điểm,

địa danh du lịch chất lƣợng; nâng cao chất lƣợng dịch vụ và nâng cao chất lƣợng về

môi trƣờng. Cơ quan chịu trách nhiệm phát triển, nâng cao vai trò của du lịch đối

với quốc gia là Cơ quan Du lịch Thái Lan, viết tắt là TAT (Tourism Authority of

Thailand). Ở cấp độ địa phƣơng, TAT đặc biệt hỗ trợ các cộng đồng bản địa trong

việc duy trì sức hấp dẫn của các điểm tham quan du lịch. Bên cạnh các thành phố

lớn, các khu du lịch nổi tiếng thì để phát triển du lịch bền vững đòi hỏi có sự hỗ trợ

mang tính chuyên nghiệp từ các địa phƣơng khác. Ngoài ra TAT còn đảm bảo các

cơ quan nhà nƣớc, các viện nghiên cứu và các tổ chức khác cùng tích cực tham gia

vào mọi khía cạnh của việc quy hoạch, điều phối và triển khai các chiến lƣợc phát

triển du lịch của quốc gia.

Chính sách du lịch của các nƣớc tuy có những nét khác nhau, nhƣng có thể

thấy có những nét chung nhất định thể hiện ở hƣớng ƣu tiên phát triển đối với

những loại hình du lịch thân thiện với môi trƣờng, văn hóa bản địa và đề cao vai trò

của những bên tham gia vào hoạt động du lịch nhằm hƣớng tới du lịch bền vững.

1.8.2. Các kinh nghiệm của Việt Nam

Mặc dù Việt Nam đƣợc đánh giá là đất nƣớc có nhiều tiềm năng phát triển du

lịch mạo hiểm, tuy nhiên du lịch mạo hiểm ở Việt Nam hiện đƣợc xem là loại hình

du lịch còn mới cả về lý luận và thực tiễn. Điều này thể hiện rõ ràng qua việc điều

tra tổng quan việc xây dựng và chào bán các sản phẩm du lịch của phần lớn các

công ty lữ hành lớn, có uy tín ở Việt Nam nhƣ công ty du lịch Vietnamtourism tại

Hà Nội, Đà Nẵng, TP. Hồ Chí Minh, tổng Công ty du lịch SaigonTourist, Công ty

du lịch Bến Thành. Tỷ lệ các chƣơng trình du lịch có tính mạo hiểm chiếm tỷ lệ rất 34

thấp – khoảng 3-5% [3, tr.8]. Hiện nay, các công ty du lịch ở Việt Nam mới chú

trọng xây dựng và chào bán các sản phẩm du lịch thuộc các nhóm du lịch tham quan

(danh thắng, các di sản thế giới, các di tích lịch sử, văn hóa,v.v. ), du lịch nghỉ

dƣỡng (tại các khu du lịch ven biển, các khu vực có nƣớc khoáng nóng,v.v. ), du

lịch lễ hội và du lịch làng nghề.

Các công ty khai thác du lịch mạo hiểm chƣa có nhiều và đa phần là phục vụ

khách nƣớc ngoài. Có thể kể đến một số công ty lớn nhƣ Lửa Việt, Hồng Bàng,

Fiditourist khai thác tuyến leo núi, đi bộ xuyên rừng tại Đà Lạt, còn các tuyến chinh

phục đỉnh FanxiPang, xe máy vòng cung Tây - Đông Bắc đa phần do các văn phòng

du lịch nhỏ thực hiện. Một số công ty khai thác du lịch mạo hiểm ở miền Bắc phải

kể đến Topas travel, Handspan travel, Footprint, Bufalo, Marco Polo, Sinh travel

(Sinh cafe), Exotissimo. Để tổ chức một chƣơng trình du lịch mạo hiểm phức tạp

hơn rất nhiều so với du lịch nghỉ dƣỡng, tham quan đơn thuần, bởi vậy một công ty

lữ hành khi thâm nhập vào lĩnh vực này phải chuẩn bị, xây dựng chiến lƣợc, kế

hoạch lâu dài, kỹ lƣỡng, từ việc khảo sát hành trình, thiết kế chƣơng trình du lịch,

đầu tƣ nhân lực cho đến các bài toán kinh phí.

Năm 2002, Công ty Du lịch Việt Nam tại Hà Nội đã tổ chức chƣơng trình du

lịch thể thao mạo hiểm mang tên “Raid Gauloises” với sự tham gia của trên 800

khách du lịch quốc tế thuộc 17 quốc gia kéo dài 14 ngày tại 9 tỉnh vùng núi Đông

Bắc Việt Nam. Qua chƣơng trình này, khách du lịch đã đƣợc tham gia rất nhiều loại

hình du lịch mạo hiểm nhƣ đi bộ băng rừng, leo núi, vƣợt thác, chèo bè mảng, đi

thuyền cao su và thuyền nan trên suối, hồ ở vùng núi, đi xe đạp đổ đèo. Chƣơng

trình trên đã đƣợc các hãng truyền hình thể thao lớn và có uy tín trên thế giới đƣa

tin và truyền hình trực tiếp, góp phần quảng bá hiệu quả về du lịch Việt Nam nói

chung và du lịch mạo hiểm ở Việt Nam nói riêng trên thị trƣờng quốc tế. Đây là một

chƣơng trình hiệu quả và có ý nghĩa.

35

Năm 2004, Saigontourist hợp tác với Công ty Saffron Road Tours (Úc) tổ

chức chuyến du lịch dã ngoại bằng môtô (từ 175 đến 750 phân khối) xuyên Việt đầu

tiên mang tên "Saffron Road Vietnam Tour 2004" cho 19 khách Úc, Mỹ, Ailen.

Trong tour này khách du lịch có dịp khám phá hầu hết các địa danh du lịch nổi tiếng

của Việt Nam nhƣ TP Hồ Chí Minh, Cần Thơ, Đà Lạt, Nha Trang, Buôn Mê Thuột,

Hội An, Huế, Hà Nội, Sapa, Hạ Long. Khách du lịch không chỉ đƣợc ngắm cảnh

thiên nhiên mà còn tham gia sinh hoạt cùng với ngƣời dân địa phƣơng ở một số nơi

nhƣ Sapa, Cần Thơ. Đây là đợt thử nghiệm để chuẩn bị thực hiện triển khai dự án

phát triển các chƣơng trình du lịch mạo hiểm tại Việt Nam của Saigontourist.

Lào Cai đƣợc coi là một trong các tỉnh có sự phát triển mạnh trong hoạt động

du lịch mạo hiểm, trong đó Fansipan - ngọn núi cao nhất Đông Dƣơng hay khu rừng

quốc gia Hoàng Liên Sơn đƣợc coi là điểm đến ƣa thích của khách du lịch trong

nƣớc và quốc tế. Thế mạnh của Lào Cai trong du lịch là khai thác sự đa dạng của tài

nguyên du lịch tự nhiên và yếu tố giàu sắc thái văn hoá của các dân tộc. Tại đây, du

lịch mạo hiểm đƣợc phát triển trong những điều kiện thuận lợi về sự ƣu tiên trong

chính sách, hợp tác cả ở quy mô quốc tế cũng nhƣ địa phƣơng. Nhiều thủ tục hành

chính tại cửa khẩu biên giới đƣợc đơn giản hoá tạo điều kiện cho khách du lịch có

thể qua lại cửa khẩu dễ dàng hơn. Các nhà đầu tƣ và doanh nghiệp trong và ngoài

ngành du lịch đƣợc mời chào với những ƣu đãi thuận lợi. Hệ thống cơ sở giao thông

đặc biệt là đƣợc sắt và hệ thống quốc lộ nối Lào Cai với Hà Nội đƣợc cải thiện và

nâng cấp đáng kể. Tuyến đƣờng sắt Hà Nội – Lào Cai đƣợc ƣu tiên khai thác các

chuyến tàu du lịch, có sự tham gia khai thác của các đơn vị kinh doanh lữ hành.

Thành công của việc khai thác du lịch mạo hiểm tại Lào Cai là đƣa du lịch đến với

ngƣời dân, lôi kéo họ trực tiếp tham gia và quan trọng nhất là đƣợc chia sẻ những

lợi ích từ du lịch. Bên cạnh những thành công đó, cũng không thể bỏ qua những

thiếu sót và hạn chế mà du lịch tỉnh Lào Cai chƣa thể giải quyết. Đó là vấn đề an

toàn trong quản lý điểm đến, đó là sự chồng chéo và tƣơng đồng về sản phẩm du

lịch giữa Lào Cai với các tỉnh lân cận.

36

Đƣợc biết đến gần đây là một điểm du lịch mạo hiểm đầy hấp dẫn, VQG

Phong Nha – Kẻ Bàng đang lên kế hoạch khai thác thử nghiệm tuyến du lịch mạo

hiểm hang Sơn Đoòng. Theo đó, Công ty Lữ hành quốc tế Oxalis (Quảng Bình) là

đơn vị đƣợc phép khai thác tuyến du lịch mạo hiểm vào hang động lớn nhất thế giới

này. Mặc dù mới đƣợc đƣa vào hoạt động nhƣng công tác tổ chức du lịch mạo hiểm

đã thể hiện tính chuyên nghiệp và có sự đầu tƣ. Do những quy định nghiêm ngặt của

việc khai thác đi đôi với bảo tồn nên mỗi chuyến du lịch mạo hiểm tại Sơn Đoòng

chỉ có 8 – 10 khách du lịch, trong khi đội ngũ phục vụ lên đến 30 ngƣời: 2 chuyên

gia hang động từ Anh, 1 hƣớng dẫn viên, 2 trợ lý an toàn, 2 đầu bếp, 1 trƣởng nhóm

khuân vác, 2 kiểm lâm giám sát, và 20 ngƣời khuân vác thiết bị an toàn, cắm trại, và

thực phẩm. Tất cả du khách khi đăng ký đều đƣợc yêu cầu trả lời thật trong bảng

câu hỏi về sức khỏe, đƣợc các chuyên gia y tế kiểm tra nhịp tim và huyết áp kỹ

lƣỡng, nếu đạt thì mới đƣợc chấp nhận. Theo thống kê của Sở Văn hóa Thể thao &

Du lịch tỉnh Quảng Bình, trong 9 tháng đầu năm 2014, tỉnh Quảng Bình đón gần 2,6

triệu lƣợt khách, tăng hơn 130% so với cùng kỳ, trong đó khách quốc tế đạt 36,3

ngàn lƣợt, tăng 27,5%; khách du lịch lữ hành đạt 650,7 ngàn lƣợt, tăng 39,8% so

cùng kỳ. Về hình ảnh điểm đến, có thể nói không nhiều điểm đến ở Việt Nam xây

dựng chiến dịch quảng bá quy mô nhƣ ở Phong Nha – Kẻ Bàng. Rất nhiều báo chí

trong nuớc và quốc tế và đã phối hợp truyền thông đƣa Sơn Đoòng trở thành tuyến

du lịch đẳng cấp thế giới.

Từ kinh nghiệm thực tế từ hoạt động tổ chức một số chƣơng trình du lịch mạo

hiểm ở Việt Nam thời gian qua cho thấy những vấn đề chủ yếu sau:

(i) Việt Nam có nhiều tiềm năng để phát triển du lịch mạo hiểm với nhiều sản

phẩm hấp dẫn. Phát triển các sản phẩm du lịch mạo hiểm đặc thù không chỉ làm

tăng tính hấp dẫn mà còn góp phần tích cực vào phát triển cộng đồng hƣớng tới phát

triển bền vững.

37

(ii) Du lịch mạo hiểm đòi hỏi các nhà tổ chức kinh nghiệm và tính chuyên

nghiệp cao. Đây là vấn đề mà các doanh nghiệp du lịch Việt Nam còn yếu ở khâu tổ

chức và phát triển sản phẩm. Thực tế ngay cả các công ty lữ hành lớn trong nƣớc

cũng không thể tự đứng ra tổ chức chƣơng trình du lịch mạo hiểm để chào bán mà

phải phối hợp hoặc để cho các công ty nƣớc ngoài vào khai thác.

(iii) Hƣớng dẫn viên chuyên nghiệp là yếu tố quan trọng để cấu thành một sản

phẩm du lịch mạo hiểm. Hiện ở Việt Nam những hƣớng dẫn viên có tính chuyên

nghiệp nhƣ vậy còn thiếu và yếu. Vấn đề đào tạo đội ngũ hƣớng dẫn viên/ huấn

luyện viên để đáp ứng nhu cầu phát triển của loại hình du lịch đặc thù này là rất

quan trọng.

Ngoài ra để phát triển du lịch mạo hiểm ở Việt Nam, cần có thêm môi trƣờng

và chính sách pháp lý phù hợp. Cụ thể là đơn giản hóa các thủ tục hành chính, tạo

điều kiện trong quá trình cấp phép cho các doanh nghiệp tham gia khai thác các

chƣơng trình, các tuyến du lịch mạo hiểm. Một khi tạo đƣợc hành lang pháp lý

thông thoáng, các doanh nghiệp lữ hành mới mạnh dạn khai thác những sản phẩm

du lịch mạo hiểm hấp dẫn và có sức cạnh tranh.

Nhƣ vậy, qua những kinh nghiệm phát triển du lịch mạo hiểm trên thế giới và

Việt Nam, Ba Bể cần rút ra bài học kinh nghiệm cho mình. Trƣớc tiên về vấn đề

nhận thức, chính quyền cần xác định phát triển du lịch mạo hiểm là vấn đề cần thiết

khi Ba Bể có đầy đủ các điều kiện phát triển loại hình du lịch này. Từ đó cần có

những quy hoạch cụ thể về khu vực, tuyến điểm, xây dựng sản phẩm, thu hút đầu

tƣ, v.v. Tiếp đến để khai thác có hiệu quả cần chú trọng vào việc quảng bá, liên kết

tạo cho mình một thƣơng hiệu riêng của “du lịch mạo hiểm Ba Bể”

38

Tiểu kết chƣơng 1

Trên cơ sở tổng quan những tài liệu, nghiên cứu về du lịch mạo hiểm, đề tài

bƣớc đầu phân tích các khái niệm, đặc điểm, nguyên tắc phát triển, xét mối liên hệ

giữa du lịch mạo hiểm và một số loại hình du lịch khác. Đặc biệt, những kinh

nghiệm phát triển du lịch mạo hiểm trên thế giới và Việt Nam đã tô đậm sự khác

biệt trong cách thức tổ chức du lịch mạo hiểm tại từng quốc gia, từng khu vực.

Những vấn đề này đƣợc nhìn nhận, đánh giá dƣới góc độ thành công và hạn chế để

làm cơ sở cho những bài học kinh nghiệm áp dụng trong điều kiện thực tiễn ở VQG

Ba Bể.

39

Chƣơng 2. ĐIỀU KIỆN VÀ THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN DU

LỊCH MẠO HIỂM TẠI VƢỜN QUỐC GIA BA BỂ

2.1. Khái quát về vƣờn quốc gia Ba Bể

2.1.1. Vị trí địa lý

VQG Ba Bể nằm ở phía tây bắc huyện Ba Bể, cách thị xã Bắc Kạn 68 km theo

hƣớng Tây – Bắc, cách Thủ đô Hà Nội 260 km về phía Bắc.VQG Ba Bể mở rộng

bao gồm vùng bảo vệ nghiêm ngặt và vùng đệm nằm ở các xã Nam Mẫu, Khang

Ninh, Cao Thƣợng, Quảng Khê, Cao Trĩ thuộc vùng núi đá vôi xen kẽ các thung

lũng đất hẹp thuộc huyện Ba Bể, tỉnh Bắc Kạn. VQG Ba Bể nằm trên trục đƣờng

Hà Nội - Cao Bằng là một trong các tuyến giao thông quan trọng Quốc gia.

VQG Ba Bể có ranh giới nhƣ sau:

+ Phía Đông và Bắc: Giáp các xã Cao Thƣợng, Cao Trĩ và Khang Ninh (huyện

Ba Bể), xã Yến Dƣơng, Chu Hƣơng (huyện Chợ Đồn).

+ Phía Tây và Nam là ranh giới hai tỉnh Bắc Kạn, Tuyên Quang và giáp

các xã Quảng Khê, Nam Cƣờng, Xuân Lạc (huyện Chợ Đồn), Đà Vị ( Na Hang-

Tuyên Quang).

Với vị trí nằm trong khu du lịch vùng Đông Bắc Việt Nam, tiếp giáp khu

di tích lịch sử ATK (huyện Chợ Đồn), khu di tích Nà Tu (Cẩm Giàng), di tích

danh lam thắng cảnh cấp Quốc gia Động Nàng Tiên (huyện Na Rì), khu bảo tồn

thiên nhiên Na Hang (tỉnh Tuyên Quang), xa hơn là khu di tích lịch sử Pắc Bó,

Thác Bản Giốc (tỉnh Cao Bằng), VQG Ba Bể có thêm nhiều điều kiện thuận lợi

để phát triển du lịch.

2.1.2. Lịch sử hình thành

Lịch sử hình thành VQG Ba Bể đƣợc tính từ năm 1977 theo Quyết Định số

41-TTg ngày 24/1/1977 của Thủ tƣớng Chính phủ chính thức công nhận Ba Bể là

khu văn hoá lịch sử. Quan điểm trên đƣợc tái khẳng định trong Nghị định 194/CP,

ngày 9/8/1986 giao cho Bộ Lâm Nghiệp và các cơ quan chức năng tiến hành khảo

sát và xây dựng dự án đầu tƣ cho Ba Bể thành vƣờn quốc gia.

40

VQG Ba Bể đƣợc chính thức thành lập từ 10/11/1992 theo quyết định số

83/TTg của Thủ tƣớng Chính phủ. Chức năng nhiệm vụ của VQG Ba Bể là: Bảo

tồn các nguồn gen động, thực vật, các hệ sinh thái, cảnh quan môi trƣờng; Tổ chức,

quản lý, phục vụ nghiên cứu khoa học, du lịch dịch vụ. Về cơ cấu tổ chức, VQG Ba

Bể (trực thuộc Uỷ ban nhân dân tỉnh Bắc Kạn) gồm: Ban Giám đốc; Phòng Tổ chức

– Hành chính; Phòng Tài chính - Kế toán; Phòng Khoa học - Kỹ thuật; Hạt Kiểm

lâm; Trung tâm du lịch sinh thái và giáo dục môi trƣờng.

Trƣớc đây, VQG Ba Bể thuộc tỉnh Cao Bằng, sau khi tái lập tỉnh, VQG Ba Bể

nằm trên địa bàn tỉnh Bắc Kạn (1997). Từ năm 1997 đến năm 2002, VQG Ba Bể

chịu sự quản lý trực tiếp của Bộ Nông Nghiệp & Phát triển Nông thôn. Đến cuối

năm 2002, VQG Ba Bể đƣợc giao cho UBND tỉnh Bắc Kạn quản lý (Quyết định số

51/2002/QĐ-TTg ngày 17/4/2002 của Thủ tƣớng Chính phủ về việc chuyển VQG

Ba Bể thuộc Bộ NN & PTNT về UBND tỉnh Bắc Kạn quản lý).

Trong kế hoạch Hành động Đa dạng Sinh học (1994) đã đề xuất mở rộng

VQG Ba Bể lên 50.000 ha. Năm 1995, dự án đầu tƣ mở rộng VQG Ba Bể đƣợc xây

dựng với diện tích đề nghị là 23.340 ha. Năm 2014, Thủ tƣớng Chính phủ đã phê

duyệt “Quy hoạch hệ thống rừng đặc dụng cả nước đến năm 2020, tầm nhìn đến

năm 2030”, trong đó diện tích của VQG Ba Bể là 10.048 ha (bao gồm phân khu bảo

vệ nghiêm ngặt: 3.931 ha; Phục hồi sinh thái: 6.083ha; dịch vụ hành chính: 34 ha).

Năm 1995, tại Hội nghị Hồ nƣớc ngọt thế giới tổ chức tại Mỹ, hồ Ba Bể đƣợc

công nhận là một trong 20 hồ nƣớc ngọt cần đƣợc bảo vệ. Tháng 12 năm 2003,

VQG Ba Bể đƣợc công nhận là vƣờn di sản ASEAN. Ngày 02/02/2011, Ba Bể

chính thức đƣợc công nhận là khu Ramsar thứ 3 của Việt Nam, sau Xuân Thủy

(Nam Định) và Bàu Sấu (Đồng Nai). Hiện Việt Nam đang đề nghị UNESCO đƣa

VQG Ba Bể vào danh sách di sản thiên nhiên thế giới với 2 giá trị lớn nhất về cảnh

quan địa chất độc đáo và giá trị nổi bật về địa chất địa mạo.

41

2.1.3. Sơ lược về hoạt động du lịch tại vườn quốc gia Ba Bể

Tỉ lệ 1/100 000

(Nguồn: BQL VQG Ba Bể, 2014)

Sơ đồ 2.1. Bản đồ du lịch tại VQG Ba Bể

42

VQG Ba Bể là nơi có nguồn tài nguyên tự nhiên đa dạng và phong phú với

nhiều loại hình du lịch nhƣ tham quan, nghỉ dƣỡng, mạo hiểm, v.v. đã và đang đƣợc

khai thác cho hoạt động du lịch. Không chỉ có vẻ đẹp hoang sơ mà Ba Bể còn là nơi

hội tụ nhiều nền văn hóa phong phú và đặc sắc. Những nét sinh hoạt văn hóa của

đồng bào Tày, Dao, Mông với các làn điệu dân ca nhƣ hát Then, Sli, Lƣợn, múa

khèn, các lễ hội truyền thống (hội Lồng tồng, hội xuân), trò chơi dân gian (đua

thuyền độc mộc, chọi bò, võ dân tộc, bắn cung, bắn nỏ) đã tạo nên sự hấp dẫn,

khiến nơi đây thu hút đƣợc một lƣợng khách du lịch nhất định.

34621

32864

28964

Khách quốc tế

Khách nội địa

Tổng lƣợt khách

40000 35000 30000 25000 20000 15000 10000 5000 0

Khách quốc tế Khách nội địa Tổng lƣợt khách

2012 4989 23975 28964

2013 5333 27531 32864

2014 5987 28634 34621

Lƣợt khách

(Nguồn: Sở VHTT&DL Bắc Kạn, 2014)

Biểu đồ 2.1. Lƣợng khách du lịch tại Ba Bể giai đoạn 2012 - 2014

Vị trí của du lịch hồ Ba Bể đã đƣợc xác định nhƣ một điểm du lịch quan trọng

trong chiến lƣợc phát triển du lịch Việt Nam thời kỳ 2011 - 2020 và tầm nhìn đến

2030. Chính vì thế, việc phát huy đƣợc thế mạnh của Ba Bể qua việc tìm và phát

triển các loại hình du lịch tận dụng đƣợc đúng thế mạnh ở đây cần phải đƣợc xác

định là một nhiệm vụ không chỉ của VQG mà còn của cả chính quyền, nhân dân địa

phƣơng. Và đối với các thế mạnh về địa lý, địa mạo và đa dạng sinh học ở Ba Bể thì

43

các hoạt động du lịch sinh thái, du lịch mạo hiểm gắn với thác, hồ, địa hình núi là

các hoạt động du lịch phù hợp và có thế mạnh nhất.

2.2. Điều kiện phát triển du lịch mạo hiểm tại vƣờn quốc gia Ba Bể

2.2.1. Địa chất, địa hình

Địa hình của VQG Ba Bể mang đặc điểm của vùng trung du miền núi phía

Bắc tƣơng đối phức tạp, bị chia cắt bởi sông, suối, núi. Địa hình gồm 2 dạng chủ

yếu là đồi và núi cao. Khu vực phía Đông là các dãy núi kéo dài tít tắp của cánh

cung Ngân Sơn, cánh cung liên tục nhất, điển hình nhất ở vùng Đông Bắc. Các dãy

núi trong khu vực này có độ cao từ 800 –1500m. Một số núi cao hùng vĩ là danh

lam thắng cảnh quan trọng và có sức thu hút du khách với các hoạt động du lịch thể

thao, leo núi, khám phá và mạo hiểm, nhƣ dãy Phja Bjooc. Ngoài ra tại đây có hố

sụt karst điển hình nhất ở Việt Nam, hình thành nên cảnh quan vô cùng độc đáo.

Chính phức hệ hồ-sông-suối-núi đá vôi, tại VQG Ba Bể là điều kiện thuận lợi phát

những hoạt động khám phá kết hợp với đi thuyền theo các tuyến sông, thác.

Trên địa bàn VQG Ba Bể có 2 con sông Năng và Chợ Lùng chảy qua. Sông

Năng bắt nguồn từ dãy núi cao Pha Giạ chảy vào địa phận huyện Ba Bể từ xã Bành

Trạch theo hƣớng Đông - Tây; Sông Chợ Lùng bắt nguồn từ phía Nam huyện Ba Bể

theo hƣờng Đông - Tây sau đó đổ vào hồ Ba Bể rồi thông ra sông Năng; Cánh cung

sông Gâm chạy dài theo hƣớng Đông Bắc - Tây Nam, xuyên suốt địa giới của

huyện với nhiều ngọn núi cao đã tạo nên địa hình hiểm trở rất đặc trƣng của huyện

Ba Bể.

Với các đặc điểm địa hình nhƣ vậy, VQG Ba Bể có điều kiện thuận lợi để phát

triển các loại hình du lịch nhƣ dã ngoại, ngắm cảnh, thám hiểm và du lịch nghỉ

dƣỡng.

44

2.2.2. Hệ thống sông, suối, thác ghềnh

Là điểm tập trung của các hệ thống đứt gãy chính ở vùng Đông Bắc Việt Nam,

VQG Ba Bể và khu vực lân cận có mạng lƣới sông suối dày đặc với 2 – 2,5 km

dòng chảy/ km2.

Hồ Ba Bể Đặc điểm nổi bật nhất của VQG Ba Bể. Hồ nằm ở vị trí trung tâm

của Vƣờn, có cấu tạo đặc biệt thắt ở giữa và phình to ở hai đầu. Quanh hồ Ba Bể là

những vách đá, chỗ dựng đứng nhƣ một bức tƣờng, chỗ lại vòng vèo uốn lƣợn ăn

sâu vào các thung lũng làm cho hình dáng hồ rất độc đáo. Do có cấu tạo địa chất

đặc biệt nên hồ Ba Bể có những nét riêng biệt so với các hồ karst khác trên thế giới.

Ba con sông, suối chính đổ nƣớc về hồ Ba Bể là sông Tà Han, suối Bó Lù ở

phía Tây, sông Chợ Lèng ở phía Tây Nam. Hệ thống sông suối này hợp thành hệ

thuỷ phía Nam của VQG. Nƣớc Hồ Ba Bể chảy theo hƣớng Nam - Bắc đổ ra sông

Năng, chảy qua phần phía Bắc của VQG, sau đó tiếp tục chảy theo hƣớng Tây gặp

sông Gâm ở phía Đông của tỉnh Tuyên Quang.

Khu vực sông Năng, hồ Ba Bể là điều kiện bổ trợ rất tốt để kết hợp hoạt động

chèo thuyền vƣợt thác Đầu Đẳng với thăm ngắm cảnh quan tự nhiên, làng bản. Khi

chèo thuyền dọc sông Năng, khách du lịch có thể quan sát rừng nhiệt đới trên núi đá

vôi và vô số các kiến tạo hình thành trong vùng đá vôi. Ngoài ra, trong địa bàn

VQG Ba Bể cũng còn nhiều khu vực hoang sơ và có địa hình hiểm trở nhƣ khu vực

thác Bạc với nhiều đoạn suối, thác ghềnh, hang động phù hợp với những hoạt động

chèo thuyền vƣợt thác, kết hợp khám phá nét sinh hoạt độc đáo của các bản làng

ven sông.

2.2.3. Các giá trị tài nguyên du lịch bổ trợ

a. Cảnh quan tự nhiên

Hệ sinh thái vùng hồ bao quanh bởi hệ sinh thái núi đá vôi đã hình thành nên 3

loại hệ sinh thái: Hệ sinh thái sông/hồ, hệ sinh thái rừng ngập nƣớc và hệ sinh thái

45

rừng trên núi đá vôi. Khu vực này bao gồm 2 loại thực vật chính: Rừng trên đá vôi

(phân bố trên các sƣờn núi dốc, có thảm thực vật dày và chiếm phần lớn diện tích

của vƣờn quốc gia), rừng thƣờng xanh (phân bố trên các đồi thấp hơn và che phủ

bởi lớp đất dày hơn) (Thái Văn Trừng, 1978).

Theo báo cáo “Quy hoạch xây dựng khu du lịch Ba Bể, tỉnh Bắc Kạn đến năm

2030” của sở VHTT&DL Bắc Kạn phối hợp với Công ty Nikken Sekkei Civil

Engineering (2014), Ba Bể là một trong những VQG có độ che phủ và tỷ lệ rừng

nguyên sinh cao trong hệ thống rừng đặc dụng của Việt Nam và các khu vực núi đá

vôi trên thế giới. Khu vực Vƣờn đƣợc che phủ trên 73,68% diện tích rừng kín

thƣờng xanh mƣa ẩm nhiệt đới, trong đó kiểu rừng nguyên sinh ít bị tác động trên

núi đá vôi đƣợc coi là mẫu chuẩn của hệ sinh thái rừng trên núi đá vôi đặc trƣng cho

vùng Đông Bắc Việt Nam và thế giới. Các hệ sinh thái rừng đặc biệt này là một thế

mạnh riêng cho Ba Bể. Với các giá trị đó, nhiều loại hình du lịch đặc biệt có thể

khai thác đƣợc và có tiềm năng lớn nhƣ đu dây, đi xe đạp địa hình mạo hiểm.

Ba Bể đƣợc biết đến nhƣ là một khu vực tài nguyên rừng đa dạng, phong phú,

nhiều loại động vật, thực vật quý hiếm, có giá trị và đƣợc coi là một trung tâm bảo

tồn nguồn gen thực vật của vùng Đông Bắc. Hệ động vật có giá trị tự bảo tồn nguồn

gen cao với nhiều loại đặc hữu và quý hiếm. Về thực vật, các kết quả điều tra ở

VQG Ba Bể cho thấy có 280 loài thực vật, trong đó có 300 loài gỗ, 300 loài cây

thuốc, 52 loài đã đƣa vào sách đỏ Việt Nam.

Theo kết quả điều tra thực hiện từ các năm 1992, 1997, và các năm 1999, 2000

do Viện Điều tra Quy hoạch Rừng, Viện nghiên cứu Tài nguyên Sinh thái, Trƣờng

Đại học Lâm nghiệp, khu hệ động vật VQG Ba Bể gồm 38 loài thú, 111 loài chim,

lớp bò sát và lƣỡng cƣ có 24 loài, 54 loài cá, với rất nhiều loài có tên trong sách đỏ

Việt Nam. Trong đó có Voọc mũi hếch là loài đặc hữu và Voọc đen má trắng là loài

quý hiếm.

46

Các giá trị thiên nhiên này cũng là những tài nguyên du lịch quan trọng đối

với các hoạt động du lịch sinh thái kết hợp du lịch mạo hiểm ở Ba Bể nhƣ các hoạt

động xem chim, quan sát thú ban ngày và ban đêm kết hợp hoạt động đi bộ mạo

hiểm xuyên rừng. Đây là các hoạt động đã và đang đƣợc khai thác rất hiệu quả ở

nhiều VQG và khu bảo tồn khác ở Việt Nam nhƣ Xuân Thủy, Cát Tiên, Cúc

Phƣơng, Tam Đảo.

Với khu hệ thực vật có tính đa dạng sinh học cao, nhiều điểm riêng biệt

nhƣ vậy, đây sẽ là điểm hấp dẫn lớn với du khách, đồng thời cũng là các giá trị

mà hoạt động du lịch mạo hiểm có thể phát triển. Tuy nhiên,cần có biện pháp

bảo vệ những vùng nhạy cảm, tránh các tác động của hoạt động du lịch có thể

tạo ra ngay trong quá trình quy hoạch và ngay sau đó là quá trình khai thác du

lịch để giảm thiểu các tác động bất lợi đó.

b. Khí hậu

Bảng 2.1. Số liệu khí hậu khu vực Vƣờn quốc gia Ba Bể

Tháng 1. 2. 3. 4. 5. 6. 7. 8. 9. 10. 11. 12. cả

14,1 15,9 19,5 23,2 26,3 27,2 27,5 27 25,8 22,8 18,8 15,3 22,0

năm

18,2 24,3 39,1 92,3 174,9 226,5 249,4 235,3 131,4 82,5 48,6 21,0 1343,5

Nhiệt độ 0C

Lƣợng

mƣa

83

81

81

82

81

84

85

85

85

85

85

83

83

(mm)

Độ ẩm

(Nguồn: Niên giám thống kê huyện Ba Bể, 2014)

%

VQG Ba Bể mang đặc điểm khí hậu của vùng núi phía Bắc Việt Nam với

nhiệt độ trung bình năm là 22 độ C, độ ẩm 83,3%, lƣợng mƣa trung bình năm

47

1.378mm, số ngày mƣa phùn trung bình trong năm 33,3 ngày. Độ ẩm cao là điều

kiện thuận lợi cho thực vật của VQG phát triển mạnh mẽ, độc đáo, tuy nhiên, mùa

mƣa kéo dài gây bất lợi cho các hoạt động du lịch.

Ngoài ra, khí hậu có sự phân hóa theo mùa nên cũng có những tác động đến sự

hình thành tính thời vụ trong phát triển du lịch. Mùa du lịch cao điểm là các tháng

mùa khô. Điều kiện này cũng ảnh hƣởng đến sự hình thành phát triển các loại hình

và sản phẩm du lịch đặc thù (nhất là sự phát triển các tuyến điểm du lịch dã ngoại).

c. Các giá trị văn hóa bản địa

VQG Ba Bể là nơi cƣ ngụ của hơn 3000 cƣ dân thuộc 5 nhóm dân tộc khác

nhau. Hơn 2000 năm qua, cƣ dân ngƣời Tày đã định cƣ tại nơi này và trở thành tộc

ngƣời chiếm đa số ở Ba Bể. Ngƣời Kinh và ngƣời Mông là những nhóm định cƣ sau

các nhóm Tày, Nùng, Dao.

Bảng 2.2. Dân số các xã trong khu vực VQG Ba Bể

TT Tên xã Toàn vùng Vùng lõi Vùng đệm

Cao Trĩ 2.027 1 2.027

Cao Thƣợng 3.591 2 3.591

Nam Mẫu 2.726 2.726 3

Quảng Khê 3.371 4 609 2.762

Khang Ninh 4.029 5 224 3.805

(Nguồn: Niên giám thống kê huyện Ba Bể, 2014)

Tổng 15.744 3.559 12.185

Ngƣời Tày sinh sống tại các dải đất thấp ven hồ (chiếm 58%), ngƣời Dao cƣ

ngụ nơi lƣng chừng núi (chiếm 21%), ngƣời Mông sinh sống trên các vùng núi cáo

48

(chiếm 13%), ngƣời Nùng chiếm 7% và ngƣời Kinh chỉ chiếm 1% dân số. Ngƣời

Tày chủ yếu định cƣ ở các bản Pắc Ngòi, Lùng Quan, Bản Quán, Cốc Lùng, Bó Lù,

Cốc Tộc và Cám Hạ, cộng đồng ngƣời Dao sinh sống tại bản Cám Thƣợng, Bản

Tầu thuộc xã Cao Thƣợng. Tuy cộng đồng rất đoàn kết, song mỗi dân tộc vẫn giữ

đƣợc những bản sắc văn hóa rất riêng.

Ngƣời Tày và Nùng thuộc chung ngữ hệ Tày - Thái và có nhiều nét tƣơng

đồng về văn hoá. Theo truyền thống, ngƣời Tày thƣờng chăn nuôi, dệt thổ cẩm và

đánh bắt cá quanh hồ Ba Bể. Thuyền độc mộc cũng đƣợc sử dụng cho mục đích

này. Thổ cẩm giữ một vị trí đáng kể trong đời sống tinh thần và tình cảm của đồng

bào Tày. Nguyên liệu chính của dệt thổ cẩm là sợi đƣợc nhuộm thành nhiều màu

khác nhau.

Phong tục, tập quán: Trong đời sống hàng ngày, đồng bào các dân tộc ở đây

có những phong tục truyền thống rất đẹp, theo chuẩn mực văn hóa rất đáng trân

trọng. Ví dụ nhƣ trong các phong tục tập quán của ngƣời Mông thì việc cƣới xin để

lại những dấu ấn bản sắc mang tính truyền thống của ngƣời Mông nhiều hơn cả.

Đám cƣới của ngƣời Mông thƣờng đƣợc tổ chức vào mùa xuân hay cuối đông vì

đồng bào kiêng những tháng có sấm chớp. Hôn nhân của nhƣời Mông cũng tuân

theo những lễ nghi nhƣ dạm hỏi, ăn hỏi (hẹn cƣới) và lễ đón dâu.

Lễ hội: Các lễ hội của các đồng bào dân tộc ở đây luôn gắn bó với cuộc sống

lao động sản xuất của ngƣời dân. Lễ hội thể hiện ƣớc mơ khao khát của con ngƣời

về đời sống ấm no hạnh phúc, là cầu nối giữa con ngƣời với thế giới tâm linh, lễ hội

là hình thức giao tiếp để con ngƣời gửi đi thông điệp cầu xin thần linh bao bọc, che

chở, giúp đỡ con ngƣời chiến thắng cái ác, chiến thắng bệnh tật và cho mùa màng

bội thu. Những lễ hội tiêu biểu tại VQG Ba Bể nhƣ Lễ cầu mùa, Lễ hội xuân Ba Bể,

Lễ hội Lồng Tồng, Chợ tình Xuân Dƣơng, Tết thanh minh v.v

Ẩm thực: Ba Bể có nền văn hóa ẩm thực khá đa dạng, nhiều nét đặc sắc mang

hƣơng vị truyền thống của Việt Nam đƣợc nhận biết rộng rãi với mùi vị đặc trƣng

và thành phần tự nhiên. Những món ăn địa phƣơng trong khu vực này gồm cá

49

nƣớng, măng quấn thịt, thịt gác bếp, rƣợu ngô. Những loại thực phẩm khác bao gồm

thịt lợn, thịt gà, thịt bò, khoai tây, rau xanh, gạo nếp. Không chỉ đa dạng về các loại

thực phẩm, khi ăn cơm mọi ngƣời ngồi lại với nhau bên bàn tre tại tầng một của nhà

sàn truyền thống cũng là đặc điểm quan trong và đặc biệt về thói quen ăn uống của

ngƣời Việt trong mắt du khách.

Bên cạnh nguồn tài nguyên du lịch tự nhiên, những đặc trƣng văn hóa của

mỗi dân tộc là một yếu tố thu hút khách du lịch tới Ba Bể. Các hoạt động du lịch

văn hóa sẽ là một hình thức bổ trợ tốt, giúp đa dạng hóa các sản phẩm du lịch, khiến

khách du lịch có thêm nhiều lựa chọn, hoặc có nhiều hoạt động hơn trong kì nghỉ.

Sự đan xen các loại hình du lịch cũng làm cho du khách có nhiều hứng thú và trải

nghiệm thú vị, qua đó tăng thời gian lƣu trú cũng nhƣ lợi nhuận giúp việc kinh

doanh hiệu quả hơn.

Khi các hoạt động du lịch phát triển, ngƣời dân có thêm nguồn thu nhập giúp

đời sống cải thiện đời sống hàng ngày và cũng qua đó nâng cao nâng cao nhận thức

môi trƣờng, giữ gìn phát huy truyền thống bản sắc văn hóa của các cộng đồng ngƣời

dân tộc thiểu số sống gần đó.

2.3. Hiện trạng khai thác phát triển du lịch mạo hiểm tại VQG Ba Bể

2.3.1. Hệ thống cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chất kỹ thuật

Việc đầu tƣ xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ cho phát triển du lịch đã từng

bƣớc đƣợc quan tâm đầu tƣ xây dựng tại VQG Ba Bể. Một số tuyến đƣờng giao

thông đến các khu, điểm du lịch đã đƣợc đầu tƣ xây dựng, nâng cấp nhƣ: Cải tạo

nâng cấp đƣờng tỉnh lộ 258; Đƣờng nối khu du lịch Ba Bể với khu du bảo tồn Na

Hang (Tuyên Quang); Các tuyến đƣờng đi bộ trong vƣờn quốc gia Ba Bể; San gạt

mặt bằng, xây dựng bến thuyền, nhà chờ thuyền, bãi đỗ xe tại khu trung tâm đón

tiếp Buốc Lốm, bến thuyền Tà Kèn; Điện lƣới, thông tin liên lạc đã có ở hầu hết các

khu, điểm tham quan du lịch, hầu hết các tuyến đƣờng tới các điểm du lịch đã điện

lƣới và phủ sóng thông tin liên lạc. Đó là những dấu hiệu đáng mừng và là điều kiện

tốt cho sự phát triển của du lịch Ba Bể trong thời gian tới.

50

Tuy nhiên, đối với du lịch mạo hiểm nói riêng, do các điểm du lịch mạo hiểm

tại Ba Bể đều nằm ở các khu vực có địa hình phức tạp nhƣ núi cao, rừng rậm, thác,

hồ, nên việc phát triển cơ sở hạ tầng một cách đồng bộ chƣa đƣợc đầu tƣ. Do đó,

đây cũng có thể là một trong các điều kiện đã làm hạn chế tốc độ phát triển của du

lịch nói chung và du lịch mạo hiểm nói riêng tại Ba Bể.

Hệ thống đường xá: Theo báo cáo “Đánh giá hoạt động du lịch Bắc Kạn

giai đoạn 2005 – 2013” của Sở VHTT&DL Bắc Kạn (2014): Về hệ thống đƣờng bộ

ở VQG Ba Bể, các tuyến đƣờng tuy đƣợc rải nhựa nhƣng mặt đƣờng hẹp, kết cấu

mặt đƣờng bằng vật liệu không bền vững, chủ yếu mặt là cấp phối và đƣờng đất;

Đƣờng thôn, đƣờng mòn ra đồng, lên núi, lên các bản ở vùng cao là đƣờng đất đi

theo địa hình triền núi, thoát nƣớc còn kém, chủ yếu phục vụ đi lại và công việc

nƣơng rẫy của nhân dân; Đƣờng vào VQG Ba Bể vẫn đang đƣợc xây dựng, mặt cắt

đƣờng trục chính khu vực hiện nay chỉ có chiều rộng tối đa là 6m, chƣa đáp ứng

đƣợc nhu cầu du lịch bằng ô tô đang ngày càng tăng; Hệ thống cống thoát nƣớc dọc

và ngang đƣờng chƣa đƣợc bố trí đủ và chƣa hợp lý, do vậy khi mƣa thoát nƣớc

không kịp dẫn tới xói lở, phá nền đƣờng, mặt đƣờng. Với hiện trạng về hệ thống

đƣờng xá nhƣ vậy, Ba Bể sẽ không đáp ứng đƣợc nhu cầu về phát triển du lịch

trong tƣơng lai.

Đường thủy: Qua khảo sát cho thấy VQG Ba Bể chỉ có 01 tuyến đối nội vận

tải đƣờng thủy là tuyến sông Năng đoạn Chợ Rã - Ba Bể - Thác Đầu Đẳng dài 26

km. Phƣơng tiện vận tải của tuyến chủ yếu sử dụng xuồng máy, bè mảng, thuyền

độc mộc vừa phục vụ du lịch và vận chuyển ngƣời, hàng hóa dân sinh. Bến bãi

đƣờng thuỷ nội địa có 03 bến đón khách trên đoạn sông Năng là bến bến Bốc Lốm

(Khang Ninh), bến ở hồ Ba Bể và bến Thác Đầu Đẳng; có 02 bến neo đậu là bến

Động Puông và bến ngã ba sông Cao Thƣợng. Đặc biệt tại bến thác Đầu Đẳng là

nơi diễn ra hoạt động chèo thuyền vƣợt thác, nhƣng tại đây cơ sở vật chất nghèo

nàn, không có bất kì hệ thống thiết bị biển báo, cọc tiêu, thiết bị phòng hộ nào. Hệ

51

thống lan can cho du khách đứng quan sát cảnh quan đã han ghỉ, không đảm bảo

các yếu tố về độ an toàn.

Giao thông công cộng: Hiện nay tại Ba Bể chƣa có các loại hình giao thông

công cộng nhƣ xe buýt. Do địa hình khu vực có độ dốc lớn, quy mô mặt đƣờng nhỏ,

mật độ dân cƣ thấp nên việc tổ chức giao thông công cộng chƣa thể thực hiện. Bến

xe tạm ở Thị trấn Chợ Rã-huyện Ba Bể là bến trung chuyển của tuyến hồ Ba Bể -

Chợ Rã với tần suất 18-20 chuyến/ngày; Có 02 tuyến xe khách tƣ nhân vận tải phục

vụ việc giao thông đi lại của ngƣời dân và du khách tham quan du lịch vùng hồ Ba

Bể, đó là tuyến Chợ Đồn đến trung tâm Ba Bể và tuyến thị trấn Chợ Rã đến thị xã

Bắc Kạn. Các tuyến này về cơ bản đáp ứng đƣợc nhu cầu giao thông của cộng đồng

địa phƣơng xong chƣa đáp ứng đƣợc yêu cầu vận tải du lịch do phƣơng tiện cũ, độ

an toàn thấp hơn so với điều kiện của các hệ thống vận chuyển du lịch.

Hệ thống thông tin liên lạc: Tại Ba Bể, mạng lƣới thông tin liên lạc đã đƣợc

nâng cấp và trải rộng trên toàn địa bàn. Ngoài hệ thống thông tin liên lạc đƣờng dây

còn có hệ thống thông tin liên lạc không dây của vinaphone, mobiphone, viettel đã

đƣợc phủ sóng rộng khắp đáp ứng đƣợc nhu cầu trao đổi thông tin cơ bản của cộng

đồng, của VQG và cho cả khách du lịch trong quá trình thăm quan, lƣu trú tại Ba

Bể. Việc có thể tiếp cận đƣợc với một hệ thống thông tin nhƣ vậy cũng là điều kiện

rất tốt cho các hoạt động du lịch mạo hiểm triển khai ở Ba Bể.

Hệ thống cung cấp điện nước và xử lý chất thải: Công tác quản lý chất thải

ở Ba Bể hiện tại còn kém. Qua khảo sát thực tế tại khu vực động Hua Mạ, chất thải

thƣờng đƣợc các hộ dân tự xử lý bằng cách đốt hoặc chôn lấp, một số nơi ngƣời dân

vứt xuống các khu vực thung lũng hoặc ra các sông hồ. Đièu này gây ảnh hƣởng

nghiêm trọng đến vấn đề vệ sinh và các nguồn tài nguyên du lịch. Ngoài ra, dọc

theo tuyến sông Năng và tại các điểm du lịch mặt nƣớc hồ Ba Bể, có quá nhiều

phƣơng tiện giao thông đƣờng thủy di chuyển nên cũng gây ra một số ô nhiễm. Hầu

hết các phƣơng tiện này đều chạy nguyên liệu hóa thạch, gây ô nhiễm không khí và

tiếng ồn trên các tuyến di chuyển và bến bãi. Tại các điểm diễn ra hoạt động du lịch

52

mạo hiểm, rác thải cũng mới chỉ đƣợc thu gom về khu vực tập trung sau đó đƣợc

đốt hoặc chôn lấp ở các điểm trong VQG mà không có hệ thống xử lý tiêu chuẩn

nào.

Với hiện trạng ô nhiễm và xử lý chất thải nhƣ vậy, nếu không đƣợc quản lý

phù hợp thì trong tƣơng lai gần, việc ô nhiễm sẽ là điều khó tránh khỏi. Việc sử

dụng các phƣơng tiện vận tải đƣờng thủy có động cơ cũng cần phải có hình thức

quản lý chất thải, xả thải phù hợp, nếu không sẽ gây ô nhiễm nguồn nƣớc. Hồ Ba

Bể, thác Đầu Đẳng là những điểm nhấn cũng nhƣ giá trị cốt lõi của hoạt động du

lịch mạo hiểm tại Ba Bể, nếu nƣớc hồ bị ô nhiễm , thì hoạt động du lịch mạo hiểm

khó có thể duy trì một cách bền vững.

Hệ thống chỉ dẫn, các trạm cứu hộ du khách: Do đặc điểm về loại hình, du

lịch mạo hiểm rất chú trọng đến vấn đề an toàn. Vì vậy mà hệ thống chỉ dẫn hay các

trạm cứu hộ đóng vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ du khách trong những trƣờng

hợp đặc biệt. Tại Ba Bể hiện nay đã có một quầy thông tin hỗ trợ khách du lịch

đƣợc xây dựng ở cổng lối vào VQG, một đài quan sát đƣợc xây dựng trên tuyến

đƣờng đi bộ xuyên rừng. Tuy nhiên, qua khảo sát cho thấy, tại 2 địa điểm này

thƣờng xuyên không có ngƣời trực. Điều này đồng nghĩa với việc hoạt động ứng

cứu du khách trong trƣờng hợp cần thiết sẽ không đảm bảo.

Các trang thiết bị phục vụ hoạt động du lịch mạo hiểm: Một trong những

vấn đề tồn tại lớn nhất của du lịch mạo hiểm Ba Bể chính là chất lƣợng của các dịch

vụ trong du lịch mạo hiểm. Hiện tại các hộ dân trong VQG đã tham gia vào việc

cung cấp, cho du khách thuê các trang thiết bị hỗ trợ hoạt động du lịch mạo hiểm

(thuyền kayak, đèn pin, giầy leo núi, v.v.). Tuy nhiên vì chƣa có sự am hiểu về loại

hình này cũng nhƣ chƣa có sự đầu tƣ nên các hoạt động này diễn ra một cách tự

phát, không theo một quy định nào. Kết quả điều tra khảo sát cũng cho thấy có đến

34,6% du khách đƣa ra góp ý cần cải thiện, nâng cấp các thiết bị an toàn trong du

lịch mạo hiểm. Nếu không cải thiện vấn đề này, Ba Bể sẽ không thể xây dựng hệ

53

thống sản phẩm du lịch mạo hiểm theo chuẩn, đảm bảo các yêu cầu cần thiết để giữ

chân khách du lịch.

2.3.2. Hoạt động du lịch mạo hiểm ở Ba Bể

Hàng năm có khoảng hơn 32.000 lƣợt khách đến Ba Bể, trong đó lƣợng khách

nội địa khoảng 26.000 lƣợt (gấp 5 lần khách quốc tế). Cho tới nay vẫn chƣa có một

thống kê chính thức nào về lƣợng khách du lịch mạo hiểm tới Ba Bể đƣợc thực hiện

bởi VQG hay Sở VHTT&DL Bắc Kạn. Qua quá trình thực hiện khảo sát với 52 đối

tƣợng khách du lịch mạo hiểm, tác giả nhận thấy khách du lịch quốc tế tham gia

Châu Phi, 0

vào loại hình này là chủ yếu.

Châu Mĩ, 26.8

15.4

Khách quốc tế

84.6

Khách nội địa

Châu Âu, 50.7

Châu Đại Dƣơng, 16.9

Châu Á, 5.6

Đơn vị %

(Nguồn: Số liệu điều tra của tác giả, 2014)

Biểu đồ 2.2. Cơ cấu khách tham gia du lịch mạo hiểm tại VQG Ba Bể

Kết quả điều tra cũng cho thấy trong hoạt động du lịch mạo hiểm, khách quốc

tế chiếm 84,6% tổng lƣợng khách trong khi khách nội địa chỉ chiếm khoảng 15,4%.

Lý do khách nội địa ít tham gia vào các chƣơng trình du lịch mạo hiểm có thể là do

tâm lý e ngại về vấn đề an toàn hoặc chƣa thực sự muốn có những hoạt động mạnh

trong các kí nghỉ của mình. Chiếm tỉ lệ nhiều nhất trong số khách quốc tế là đối

54

tƣợng khách Tây Âu (Đức, Hà Lan), tiếp đó là Châu Mỹ (26,8%). Ngoài ra cũng có

một số khách du lịch đến từ các khu vực châu Đại Dƣơng nhƣ Úc, New Zeland. Có

thể các khách này đến từ các quốc gia phát triển và có đời sống cao, ngƣời dân thích

đi du lịch, đặc biệt là các hoạt động du lịch sinh thái, mạo hiểm nên họ là đối tƣợng

chính của loại hình du lịch mạo hiểm ở Ba Bể. Và dƣờng nhƣ đây cũng là mục tiêu

của nhiều du khách quốc tế khi đến du lịch Việt Nam mong đƣợc gần với thiên

nhiên hơn, có cơ hội trải nghiệm với các hoạt động mạo hiểm gắn với thiên nhiên.

Độ tuổi và giới tính: Kết quả điều tra cho thấy đối tƣợng khách tham gia du

lịch mạo hiểm tại Ba Bể chủ yếu tập trung vào độ tuổi từ 18 – 25 là 19,5 %, độ tuổi

từ 26 – 40 là 51,3% , độ tuổi từ 41-60 là 28 % và trên 60 là 1,2%. Điều này cho thấy

hoạt động du lịch mạo hiểm thu hút khách du lịch trẻ nhiều hơn. Có thể do một số

yêu cầu về sức khỏe và niềm yêu thích phiêu lƣu mạo hiểm nên hoạt động này đƣợc

nhiều ngƣời trẻ tuổi chọn hơn.

Về giới tính, trong số du khách tham gia hoạt động du lịch mạo hiểm ở Ba Bể

có có 57,3 % là nam và 42.7% là nữ. Đây là tỉ lệ có sự sai khác không lớn giữa nam

và nữ, và cũng cho thấy xu hƣớng du lịch mạo hiểm không phải là một hoạt động

không phù hợp với phái nữ.

Thành phần và trình độ của du khách: Khách du lịch mạo hiểm ở Ba Bể cũng

đến từ nhiều thành phần với mặt bằng nhận thực khác nhau trong xã hội. Các thông

tin phỏng vấn về trình độ học vấn của du khách cũng cho thấy trình độ cao đẳng –

đại học chiếm tới 47,6%, trình độ trên đại học chiếm 28,1 %, các đối tƣợng này tới

VQG Ba Bể với mục đích trải nghiệm du lịch mạo hiểm, nghiên cứu, học tập.

Tƣơng ứng với tỉ lệ về trình độ du khách, cơ cấu về nghề nghiệp của du khách gồm:

sinh viên chiếm 13,9%, nhà nghiên cứu 26,4%, quản lý 15,7%, nhân viên văn

phòng 32,3%. Kết quả điều tra ở Ba Bể cũng phù hợp với báo cáo “Nghiên cứu về

thị trường du lịch mạo hiểm 2013” của Hiệp hội Thƣơng mại Du lịch Mạo hiểm.

55

Lưu trú: So với nhiều VQG và KBTTN của Việt Nam. Ba Bể là một trong

những VQG có nhiều hình thức lƣu trú nhất, bao gồm nhà nghỉ của nhà nƣớc, của

tƣ nhân và nhà nghỉ du lịch cộng đồng.

Bảng 2.3. Nơi lƣu trú của khách du lịch tại Ba Bể

Nơi lƣu trú Số lƣợng khách Tỉ lệ %

Nhà nghỉ 5 9,6

Nhà nghỉ DLCĐ 36 69,2

Hình thức lƣu trú khác 11 21,2

(Nguồn: Số liệu điều tra của tác giả, 2014)

52 100 Tổng

Tại Ba Bể hiện nay mới chỉ có 2 khách sạn tiêu chuẩn một sao đang hoạt động

(xem phụ lục 3). Tuy nhiên qua khảo sát cho thấy phòng ốc có dấu hiệu xuống cấp,

trang thiết bị cũ kĩ, chất lƣợng dịch vụ chƣa tốt, nhân viên lễ tân hầu nhƣ không nói

đƣợc ngoại ngữ. Đến Ba Bể, đa phần khách du lịch mạo hiểm lựa chọn hình thức

lƣu trú tại các nhà nghỉ du lịch cộng đồng. Điều này cho thấy khách du lịch mạo

hiểm tuy không quan tâm nhiều đến tiện nghi sang trọng nhƣng vẫn thích lựa chọn

các nơi lƣu trú sạch sẽ, đảm bảo các tiêu chuẩn. Đây cũng là một lợi thế rất tốt để

các hộ dân tại Ba Bể phát triển các cơ sở lƣu trú và tăng thu nhập. Nếu có các định

hƣớng và đầu tƣ tốt, các hộ dân có thể tính đến việc tạo các điểm lƣu trú đủ điều

kiện trong rừng, trên các tuyến du lịch mạo hiểm nhằm đáp ứng tốt hơn nhu cầu của

khách và qua đó du khách cũng có cơ hội trải nghiệm nhiều hơn ở ngoài thiên nhiên

nơi mà hoạt động du lịch mạo hiểm đang diễn ra.

2.3.3. Sản phẩm du lịch mạo hiểm ở Ba Bể

So với tiềm năng của mình, các sản phẩm du lịch mạo hiểm tại Ba Bể nhìn

chung còn đơn điệu và chƣa có sự gắn kết. Hiện nay mới chỉ có 3 loại hình du lịch

mạo hiểm đang đƣợc khai thác tại đây:

56

Đi bộ mạo hiểm xuyên rừng: Khách du lịch có 2 lựa chọn

Lựa chọn 1: Tuyến đi bộ mạo hiểm xuyên rừng bắt đầu từ văn phòng vƣờn

quốc gia, đi qua thung lũng Tắc Kè, đi xuyên rừng lên độ cao 789m (so với mực

nƣớc biển) để quan sát thiên nhiên, chim thú, đặc biệt là toàn cảnh hồ Ba Bể, sau đó

tiếp tục xuyên rừng đến làng Him Đăm của dân tộc Dao, đi tiếp xuống Nà Mằm và

quay trở lại VQG.

Lựa chọn 2: Tuyến đi bộ xuyên rừng kéo dài khoảng 10 km, xuất phát từ

bản Cốc Tộc, qua các bản làng trên núi (Khau Qua, Nặm Dài) tới thác Đầu

Đẳng, lên thuyền trở về Cốc Tộc.

Đối với tuyến đi bộ mạo hiểm xuyên rừng, khách du lịch đi qua nhiều dạng

địa hình đồi núi phức tạp, nhiều kiểu rừng và nhiều cảnh quan khác nhau. Qua các

tuyến đó, du khách có cơ hội trải nghiệm các hoạt động đi bộ leo núi và cảm nhận

đƣợc sự thay đổi về khí hậu khi đi qua các kiểu rừng, các đai cao khác nhau trên núi

cao và cảm nhận sự mạo hiểm khi di chuyển qua các kiểu địa hình đó. Khách du

lịch sẽ trải nghiệm sự khó khăn khi băng qua các con đƣờng, các ngọn đồi, con suối,

chiêm ngƣỡng cảnh quan độc đáo, quan sát và tham gia vào các sinh hoạt độc đáo

của ngƣời dân bản địa nhƣ Mông, Dao, Tày, Nùng. Để trải nghiệm đƣợc tuyến du

lịch này, du khách cần một khoảng thời gian từ 1-2 ngày. Tuy nhiên, mức độ mạo

hiểm đối với sản phẩm du lịch này ở cấp độ nhẹ nên cũng phù hợp với nhiều đối

tƣợng khách, và cũng không cần đầu tƣ kỹ thuật cầu kì hay các hƣớng dẫn phức tạp

về kỹ thuật cũng nhƣ an toàn.

Khám phá hang động: Nhiều khách du lịch tới Ba Bể cũng quan tâm tới

hoạt động thăm và khám phá một số hang động đá vôi. Hiện nay ở Ba Bể có một số

hang động đang đƣợc khai thác du lịch nhƣ động Hua Mạ, động Puông. Trong

chuyến đi 1 ngày,khách du lịch sẽ đƣợc trải nghiệm các hoạt động nhƣ thăm bản

dân tộc Pắc Ngòi của ngƣời Tày hoặc chèo thuyền trên hồ Ba Bể kết hợp khám phá

động Puông. Không chỉ bị cuốn hút bởi vẻ nguyên sơ nhƣ ban đầu lúc hình thành,

57

khi đi sâu vào khám phá phần sau của hang động, khách du lịch sẽ có dịp đi bộ

khám phá lòng động tối tăm, đƣợc chiêm ngƣỡng các nhũ đá, rèm đá, cột đá với

hình dáng và màu sắc khác nhau.

Chèo thuyền vượt thác: Nói đến Ba Bể là nói đến hệ thống hồ trên núi nổi

tiếng của Việt Nam. Do đó, với Ba Bể thì các hoạt động du lịch gắn liền với nƣớc,

khám phá cảnh quan sẽ là các hoạt động du lịch đặc trƣng và có tiềm năng nhất.

Hiện tại, hoạt động chèo thuyền vƣợt thác Đầu Đẳng cũng đang đƣợc khai thác nhƣ

một dịch vụ du lịch mạo hiểm ở Ba Bể. Phƣơng tiện chính phục vụ cho hoạt động

này là những chiếc thuyền đơn hoặc thuyền đôi làm bằng nhựa composit, bằng cao

su đúc hoặc thuyền bơm hơi, có hình dạng chiếc lá tre, nhỏ, dài, mảnh mai. Khi

khách du lịch tham gia hoạt động này, họ có cơ hội kết hợp việc chèo thuyền vƣợt

qua những dòng chảy dữ dội của thác Đầu Đẳng, đồng thời ngắm cảnh hồ Ba Bể,

quan sát cảnh ven hồ và động vật (ở cạn và thủy sinh). Trong tuyến chèo thuyền

vƣợt thác tại Ba Bể, du khách sẽ chèo thuyền kayak từ bến thuyền Buốc Luốm, dọc

theo sông Năng tới thác Đầu Đẳng. Thời gian của hoạt động này là một ngày, mức

độ mạo hiểm đối ở cấp độ trung bình.

Theo kết quả điều tra khảo sát thì khi tham gia vào các hoạt động du lịch mạo

hiểm Ba Bể, khách du lịch tham gia nhiều nhất vào hoạt động đi bộ mạo hiểm

xuyên rừng, tiếp đó là chèo thuyền vƣợt thác, khám phá hang động. So với 2 hoạt

động trên, hoạt động đi bộ mạo hiểm xuyên rừng có nhiều yếu tố thu hút sự tham

gia của du khách, bởi nó vừa kết hợp đƣợc việc trải nghiệm khám phá các dạng địa

hình đồi núi vừa hòa mình vào thiên nhiên. Hơn nữa, hoạt động này cũng không cần

đầu tƣ kỹ thuật cầu kì hay các hƣớng dẫn phức tạp về kỹ thuật cũng nhƣ an toàn.

Trong các hang động trong VQG Ba Bể, động Hua Mạ mới chỉ đƣợc khảo sát du

lịch vào năm 2003-2004 và hiện vẫn chƣa phát triển nhiều về dịch vụ du lịch cũng

nhƣ số lƣợng du khách. Khách du lịch thông thƣờng tới đây chủ yếu thăm ngắm khu

vực phía ngoài hang, còn đối với khách du lịch mạo hiểm, họ sẽ tham gia vào việc

leo núi 300 mét sau đó khám phá lòng hang (rất rộng khoảng 1ha), và toàn bộ chiều 58

dài (tới hơn 700m). Trần động có chỗ rộng và cao tới 40 – 50m, chứa đựng nhiều

vách, nhũ đá kỳ vĩ. Tuy nhiên khi khảo sát tại đây cho thấy việc lắp các bóng đèn

chiếu sáng bằng ánh sáng trắng đã làm giảm đi rất nhiều vẻ đẹp cũng nhƣ mức độ

hoang sơ của hang động này.

80

65.4

60

48.1

40

19.2

20

0

Đi bộ mạo hiểm xuyên rừng

Khám phá hang động

Chèo thuyền vƣợt thác

Đơn vị %

(Nguồn: Số liệu điều tra của tác giả, 2014)

Biểu đồ 2.3. Các hoạt động du lịch mạo hiểm đƣợc du khách tham gia

Kết quả đánh giá chất lƣợng sản phẩm du lịch mạo hiểm tại VQG Ba Bể dựa

trên ý kiến du khách cho thấy mặc dù khách du lịch đánh giá cao về sự hấp dẫn của

tài nguyên du lịch mạo hiểm tại VQG Ba Bể (địa hình, hệ thống sông suối, cảnh

quan tự nhiên, khí hậu) nhƣng du khách cũng chƣa hài lòng về các yếu kém nhƣ cơ

sở hạ tầng vật chất kỹ thuật (hệ thống đƣờng xá, cơ sở cung câp dịch vụ du lịch),

chất lƣợng các dịch vụ phục vụ du lịch mạo hiểm (dịch vụ hƣớng dẫn, dịch vụ huấn

luyện , v.v.) (Xem phụ lục 5). Kết quả điều tra này cũng cho thấy, rõ ràng các loại

hình đang triển khai này là chƣa đạt hoặc chỉ mới ở mức độ giới thiệu. Cũng từ các

nhận xét đó, việc hoàn thiện về kỹ thuật và chất lƣợng của các loại hình đang khai

thác dƣờng nhƣ sẽ là những vấn đề cần giải quyết nhằm duy trì và tiến tới phát triển

các hoạt động du lịch phong phú hơn ở Ba Bể.

59

2.3.4. Nguồn nhân lực phục vụ du lịch mạo hiểm

Bộ máy tổ chức của ban quản lý VQG Ba Bể gồm: Ban giám đốc, 4 phòng

chức năng nghiệp vụ và 2 đơn vị trực thuộc (Hạt Kiểm lâm, Trung tâm Giáo dục

Môi trƣờng và Dịch vụ Môi trƣờng Rừng (GDMT&DVMTR).

Bảng 2.4. Trình độ cán bộ

Đơn vị: người

Trung tâm Giáo dục Môi trƣờng và Dịch vụ Môi trƣờng Rừng

STT Chuyên Tổng Trên Cao Trung Đại

ngành đẳng cấp Đại học

học

1 1 Du lịch 1

2 Lâm nghiệp 5 3 2

1 3 Môi trƣờng 4 3

4 Kế toán 1 1

(Nguồn: BQG VQG Ba Bể, 2014)

2 Cộng 11 0 6 3

Nhìn chung, lực lƣợng lao động phục vụ du lịch nói chung và du lịch mạo

hiểm nói riêng tại VQG Ba Bể còn thiếu và yếu về số lƣợng lẫn chất lƣợng. Cán bộ

có trình độ đại học chiếm 18,1%, cao đẳng là 54,6% và trung cấp là 27,3%. Hiện ít

hơn 10% cán bộ đang làm về du lịch trong VQG có chuyên môn về du lịch. Đây

thực sự là khoảng trống lớn về nghiệp vụ, nên khó có thể có các sản phẩm du lịch

có chất lƣợng khi số lƣợng nhân sự có chuyên môn phù hợp lại thiếu nhƣ vậy.

Đối với loại hình du lịch mạo hiểm là một hoạt động du lịch có tính chuyên

biệt và đòi hỏi kiến thức và kỹ thuật, lực lƣợng hƣớng dẫn viên đóng vai trò rất

quan trọng trong việc huấn luyện, hƣớng dẫn và tham gia cùng du khách trong các

hoạt động khám phá. Tuy nhiên số lƣợng cán bộ đƣợc đào tạo chuyên ngành du lịch

ở VQG Ba Bể hiện mới chỉ có một ngƣời và chƣa có ai đƣợc đào tạo nghiệp vụ,

60

chuyên môn phù hợp về quản lý và vận hành các hoạt động du lịch mạo hiểm.

Theo kết quả điều tra khảo sát, đa số khách du lịch đánh giá chất lƣợng dịch

vụ du lịch mạo hiểm của Ba Bể ở mức trung bình. Cụ thể là 25% du khách đánh giá

hoạt động hƣớng dẫn của hƣớng dẫn viên tốt, 59,7% đánh giá trung bình; Đánh giá

ở hoạt động huấn luyện trong các hoạt động chèo thuyền, khám phá hang động,

75% đánh giá trung bình, 25% đánh giá kém; Đánh giá ở dịch vụ ứng cứu, có đến

82,7% du khách đánh giá trung bình, 17,3% đánh giá kém .

Kết quả nghiên cứu cũng cho thấy về phía các công ty du lịch, hiện nay các

công ty kinh doanh loại hình du lịch mạo hiểm chƣa có sự quan tâm đến thị trƣờng

Ba Bể. Các hƣớng dẫn viên đi cùng du khách đến Ba Bể hầu hết là hƣớng dẫn viên

suốt tuyến không có kĩ năng, kinh nghiệm hƣớng dẫn khách tham gia hoạt động du

lịch mạo hiểm. Lý giải cho điều này, hƣớng dẫn viên du lịch mạo hiểm cần một sức

khỏe tốt, cần kinh nghiệm, khả năng tổ chức và xử lý mọi tình huống với các kỹ

thuật và trình độ chuyên nghiệp, cho nên số lƣợng hƣớng dẫn viên du lịch mạo hiểm

vốn không nhiều. Khi khảo sát tại thực địa, tác giả nhận thấy các công ty hay du

khách có nhu cầu về du lịch mạo hiểm đều tìm đến hƣớng dẫn viên là ngƣời dân bản

địa mới mức phí 300.000-500.000/ngày. Vấn đề đặt ra ở đây là 100% các hƣớng

dẫn viên địa phƣơng này đều chƣa đƣợc đào tạo qua một khóa học chuyên sâu

nào về du lịch mạo hiểm. Tất cả những gì họ có chỉ là kinh nghiệm cá nhân.

Ngoài ra họ hầu nhƣ không nói đƣợc ngoại ngữ nên việc giao tiếp giữa du khách

và hƣớng dẫn viên gặp rất nhiều khó khăn. Với tình hình đội ngũ nhân sự nhƣ trên

sẽ là một trở ngại lớn trong việc quản lý cũng nhƣ đảm bảo kỹ năng, nghiệp vụ ,xây

dựng định hƣớng phát triển du lịch du lịch nói chung và du lịch mạo hiểm nói riêng

tại VQG Ba Bể.

2.3.5. Chính sách đầu tư, quy hoạch và phát triển du lịch mạo hiểm

Với sự ra đời và phát triển của du lịch Ba Bể, một số công trình lớn nghiên

cứu về quy hoạch đã ra đời nhƣ: Quyết định số 1741/QĐ-UBND ngày 23/9/2002

61

của UBND tỉnh Bắc Kạn về Quy hoạch du lịch Vườn Quốc gia Ba Bể; Quyết định

số 1872/QĐ-UBND ngày 16/01/2014 vè Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch Ba

Bể, tỉnh Bắc Kạn đến năm 2030; Dự án Xây dựng các khu BTTN thông qua bảo tồn

sinh thái, cảnh quan (PARC)(1999); Dự án Quan hệ đối tác vì người nghèo trong

phát triển nông lâm nghiệp (3PAD)(2011). Ngoài ra, ngày 19/2/2012 Tỉnh ủy Bắc

Kạn ra nghị quyết số 18-NQ/TU xác định phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế

mũi nhọn trên cơ sở quy hoạch đầu tƣ xây dựng khu du lịch Ba Bể thành trung tâm

du lịch sinh thái của tỉnh và khu vực, với các loại hình du lịch kết hợp tham quan di

tích lịch sử, văn hóa và các lễ hội truyền thống.

Trong “Quy hoạch du lịch Vườn Quốc gia Ba Bể” chú trọng tới mục tiêu phát

huy tối đa tiềm năng du lịch kết hợp với bảo tôn nguyên vẹn giá trị địa chất, văn hóa

của vùng hồ. Quy hoạch đƣợc xây dựng nhằm xác định phát triển du lịch trở thành

ngành kinh tế mũi nhọn trên cơ sở đầu tƣ xây dựng khu du lịch Ba Bể thành trung

tâm du lịch sinh thái với các loại hình du lịch kết hợp tham quan di tích lịch sử.

Ngày 30/10/2013, UBND tỉnh Bắc Kạn đã có Quyết định số 1872/QĐ-UBND

phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch Ba Bể, tỉnh Bắc Kạn đến năm 2030.

Quy hoạch du lịch Ba Bể nhằm xác định phƣơng hƣớng, định hƣớng các sản phẩm

du lịch và định hƣớng cho quá trình đầu tƣ, khai thác du lịch gắn với phát triển kinh

tế nông-lâm nghiệp-dịch vụ và bảo tồn đa dạng sinh thái tự nhiên. Quy hoạch sẽ

giúp Ba Bể tạo thành nơi có sức hấp dẫn liên quan đến phát triển bền vững dựa trên

hệ sinh thái cảnh quan tự nhiên và làng xóm hiện hữu. Ngoài ra, quy hoạch còn giúp

xây dựng thƣơng hiệu vùng, khai thác tối đa giá trị tài nguyên cảnh quan có hệ sinh

thái đa dạng và đặc thù của Vƣờn Quốc gia Ba Bể “Phát triển du lịch Ba Bể hƣớng

tới trở thành khu du lịch sinh thái số 1 của Việt Nam”

Dự án “Xây dựng các Khu bảo tồn nhằm Bảo vệ Tài nguyên Thiên nhiên trên

Cơ sở Sinh thái Cảnh quan” (PARC): Là một dự án kết hợp bảo tồn và phát triển

của nƣớc Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Từ năm 1999 đến năm 2004, dự án

đã thử nghiệm phƣơng pháp tiếp cận sinh thái cảnh quan để bảo tồn di sản đa dạng 62

sinh học của Việt Nam, giúp bảo tồn một cách có hiệu quả đa dạng sinh học tại các

sinh cảnh đã bị chia cắt và chịu tác động của con ngƣời bằng cách áp dụng phƣơng

pháp tiếp cận sinh thái cảnh quan trong công tác quản lý khu bảo tồn.

Dự án “Quan hệ đối tác vì người nghèo trong phát triển nông lâm nghiệp tỉnh

Bắc Kạn” (viết tắt là Dự án 3PAD Bắc Kạn) có hiệu lực vào ngày 27/05/2009, kết

thúc vào ngày 30/06/2015. Một trong những hợp tiêu hợp phần của dự án là các

sáng kiến cải thiện môi trƣờng. Mục tiêu của hợp phần này là xây dựng các hệ

thống bảo vệ và bảo tồn đất dốc một cách bền vững về mặt xã hội, môi trƣờng và

kinh tế thông qua các tiểu hợp phần sau: (i) Quản lý đất bền vững và bảo tồn dựa

vào trồng cỏ; (ii) Chi trả cho dịch vụ môi trƣờng và (iii) Du lịch sinh thái.

Trong tất cả các nghiên cứu, quy hoạch này đều không thấy nhắc đến việc xây

dựng chiến lƣợc và quy hoạch du lịch mạo hiểm, mà chủ yếu là các sản phẩm, loại

hình du lịch đã và đang tồn tại tại Ba Bể. Vì vậy mặc dù đƣợc thừa nhận là điểm nổi

bật của du lịch Bắc Kạn với tài nguyên thiên nhiên và tài nguyên nhân văn, nhƣng

chiến lƣợc phát triển du lịch mạo hiểm Ba Bể vẫn là một bài toán chƣa có lời giải.

2.3.6. Hoạt động quảng bá du lịch mạo hiểm

Nhằm tuyên truyền, giới thiệu, quảng bá về miền đất, con ngƣời, tiềm năng

văn hóa, du lịch của Ba Bể đến với các nhà đầu tƣ, du khách trong và ngoài nƣớc,

trong những năm vừa qua, tỉnh Bắc Kạn đã tổ chức các hoạt động quảng bá xúc tiến

du lịch với nhiều hình thức và nội dung nhƣ: Xuất bản các ấn phẩm, tờ rơi, tập gấp,

đĩa DVD; quảng bá trên các phƣơng tiện thông tin đại chúng (báo, đài truyền hình

trung ƣơng, địa phƣơng, website của Sở); tổ chức các hội nghị giới thiệu quảng bá

du lich Ba Bể nói chung; tổ chức khảo sát, xây dựng, phát triển các chƣơng trình du

lịch liên vùng, ký kết thoả thuận hợp tác phát triển du lịch với các địa phƣơng trong

công tác phối hợp quảng bá du lịch, kêu gọi đầu tƣ, đào tạo nguồn nhân lực, trao đổi

kinh nghiệm quản lý. Đặc biệt đƣợc sự đồng ý của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du

lịch, tỉnh Bắc Kạn đã cùng với các tỉnh trong vùng chiến khu Việt Bắc: Hà Giang,

63

Tuyên Quang, Thái Nguyên, Lạng Sơn, Cao Bằng, cùng tổ chức Chƣơng trình “Du

lịch qua những miền di sản Việt Bắc” luân phiên hàng năm tại các tỉnh. Hoạt động

quảng bá xúc tiến, liên kết hợp tác phát triển du lịch nhìn chung đã đem lại hiệu

quả, hình ảnh du lịch của Ba Bể nói riêng và Bắc Kạn nói chung đã đƣợc đông đảo

công chúng, du khách trong và ngoài nƣớc biết đến, lƣợng khách du lịch đến Bắc

Kạn ngày càng tăng.

Hình thức khác, 21.2

Truyền miệng, 42.3

Sách hƣớng dẫn, 5.7

Công ty lữ hành, 17.3

Internet, 13.5

Đơn vị %

Biểu đồ 2.4. Các kênh thông tin về du lịch mạo hiểm Ba Bể

(Nguồn: Số liệu điều tra của tác giả, 2014)

Tuy nhiên, cho đến nay vẫn chƣa có một chiến dịch quảng bá riêng nào cho

loại hình du lịch mạo hiểm nói riêng. Nhắc đến Ba Bể từ lâu vẫn gắn liền với loại

hình du lịch sinh thái. Nếu đem so sánh với hoạt động quảng bá về hang Sơn Đoòng

của VQG Phong Nha – Kẻ Bàng thì du lịch mạo hiểm tại Ba Bể hầu nhƣ chƣa đƣợc

biết đến trên các phƣơng tiên thông tin đại chúng trong nƣớc chứ chƣa nói đến nƣớc

ngoài.

Theo kết quả khảo sát, 42,3% du khách biết đến du lịch mạo hiểm qua sự giới

thiệu của bạn bè, ngƣời quen, sau đó là qua các phƣơng tiện truyền thông, công ty

du lịch. Khảo sát tại thực địa cho thấy các trung tâm thông tin du lịch tại Ba Bể luôn

64

trong tình trạng không có ngƣời trực. Hoạt động giới thiệu quảng bá về du lịch mạo

hiểm Ba Bể tại các hãng lữ hành cũng không mấy khả quan qua con số 17,1% du

khách đƣợc hỏi trả lời rằng họ biết đến du lịch mạo hiểm Ba Bể qua sự chào bán

của công ty du lịch. Thông thƣờng các hãng lữ hành lớn ít chuyên về du lịch mạo

hiểm nên nếu khách có nhu cầu thì họ thƣờng bán lại cho các công ty lữ hành mạo

hiểm địa phƣơng hoặc thuê hƣớng dẫn viên địa phƣơng hƣớng dẫn trên tuyến nhƣ là

các hoạt động xen kẽ vào chƣơng trình du lịch của họ. Việc bán chƣơng trình du

lịch đƣợc thực hiện thông qua mạng hoặc khách trực tiếp đến văn phòng. Tờ rơi

cũng đƣợc phát đến các khách sạn nhƣng không phổ biến và không phải công ty nào

cũng làm. Việc việc chăm sóc khách hàng cũng chƣa đƣợc các công ty chú trọng.

Khi quan sát một số hoạt động du lịch với các hƣớng dẫn viên thì thấy trong quá

trình và kết thúc chuyến đi, họ không hề mời chào hay giới thiệu cho khách những

hoạt động mạo hiểm có ở Ba Bể, điều đó cũng là một hạn chế cho việc khách quay

trở lại lần tiếp theo.

2.4. Nguyên nhân của thực trạng phát triển du lịch mạo hiểm tại vƣờn quốc

gia Ba Bể

2.4.1. Những thành công và nguyên nhân

Du lịch mạo hiểm bƣớc đầu đƣợc khai thác ở VQG Ba Bể và thu hút đƣợc số

lƣợng khách du lịch nhất định. Có đƣợc những thành công bƣớc đầu nhƣ trên là do:

VQG Ba Bể có đặc điểm địa chất, địa hình, hệ thống sông ngòi đa dạng, thích

hợp với việc tổ chức các hoạt động tìm hiểu, khám phá. Hệ sinh thái độc đáo, đa

dạng, trong đó có nhiều loài quý hiếm cũng là đặc điểm giúp cho du khách có thêm

động lực đến thăm và tìm hiểu, đặc biệt đối với du khách quốc tế.

Điều kiện khí hậu và môi trƣờng tự nhiên của VQG Ba Bể cũng là điều kiện lý

tƣởng giúp phát triển các loại hình du lịch nói chung và du lịch mạo hiểm nói riêng.

Với khí hậu trong lành, thiên nhiên vẫn giữ đƣợc nét hoang sơ, ảnh hƣởng của các

65

hoạt động của con ngƣời lên môi trƣờng chƣa nhiều. Đây là đặc điểm quan trọng

thu hút đƣợc khách du lịch.

VQG Ba Bể có sức hút đối với du khách về việc khám phá, tìm hiểu, trải

nghiệm các đặc điểm văn hóa, truyền thống địa phƣơng. Cộng đồng dân cƣ tại Ba

Bể đã ý thức khá rõ về lợi ích của việc làm du lịch và bảo tồn các giá trị văn hóa của

dân tộc mình. Họ tuân thủ tốt các chính sách, quy định về giá cả, cách thức của Ban

quản lý VQG Ba Bể nói riêng và tỉnh Bắc Kạn nói chung, có thái độ niềm nở hiếu

khách. Du lịch phát triển đã đem lại nhiều lợi ích cho ngƣời dân bản địa. Đời sống

của họ không những đƣợc nâng cao mà các giá trị văn hóa truyền thống cũng đƣợc

bảo tồn. Khi hiểu đƣợc giá trị của các tài nguyên thiên nhiên thì việc phá rừng làm

rẫy cũng giảm rõ rệt.

2.4.2. Những hạn chế và nguyên nhân

Hoạt động du lịch mạo hiểm Ba Bể vẫn chƣa đƣợc phát triển đồng bộ và

tƣơng xứng với tiềm năng của nó. Một số khó khăn và nguyên nhân chính trong só

đó là:

Vấn đề nhận thức: Tuy đƣợc thừa nhận có nguồn tài nguyên du lịch phong phú

và có những điều kiện thuận lợi phát triển du lịch mạo hiểm nhƣng nhận thức từ các

cấp chính quyền đến ngƣời dân địa phƣơng về khai thác hiệu quả loại hình du lịch

mới mẻ này ở Ba Bể còn nhiều hạn chế. Điều này thể hiện ở chỗ hiện nay ở Ba Bể

chƣa có bất kì một quy hoạch nào về phát triển du lịch mạo hiểm. Đối với mọi cấp,

quy hoạch du lịch là rất cần thiết để có thể quản lý và thành công trong sự phát triển

ngành du lịch. Kinh nghiệm quốc tế và ở Việt Nam đã cho thấy những địa bàn phát

triển du lịch không có quy hoạch đều gặp phải những vấn đề về xã hội và môi

trƣờng, giảm lợi ích về kinh tế, không thể nào cạnh tranh một cách hiệu quả đối với

bất kỳ một nơi nào đã có quy hoạch du lịch.

66

Chƣa xây dựng đƣợc sản phẩm đặc trƣng cũng nhƣ đẩy mạnh hoạt động liên

kết phát triển thị trƣờng: “Sản phẩm du lịch đặc thù đƣợc phát triển dựa trên tính

độc đáo/duy nhất, nguyên bản và đại diện về tài nguyên du lịch (tự nhiên và nhân

văn) cho một lãnh thổ/điểm đến du lịch với những dịch vụ không chỉ làm thỏa mãn

nhu cầu, mong đợi của du khách mà còn tạo đƣợc ấn tƣợng bởi tính độc đáo và sáng

tạo” [5,tr.57]. Thực tế cho thấy, các sản phẩm du lịch mạo hiểm tại Ba Bể vẫn còn

đơn điệu và thiếu sự gắn kết giữa các tuyến, điểm du lịch, không gian du lịch của

VQG Ba Bể chƣa gắn kết chặt chẽ trong mối liên kết vùng của không gian du lịch

miền núi phía Bắc. Những chƣơng trình độc đáo hấp dẫn du khách còn hạn chế, du

lịch còn mang tính mùa vụ. Có rất nhiều du khách chỉ ghé qua Ba Bể rồi đến các

điểm du lịch khác, không lƣu trú hoặc lƣu trú 1 đêm.

Đây chính là các khó khăn và trở ngại chính ảnh hƣởng tới sự phát triển du

lịch nói chung và du lịch mạo hiểm nói riêng tại Ba Bể. Thực tế, so sánh về tiềm

năng thì Ba Bể có nhiều điều kiện phát triển hơn các khu vực khác xong việc khai

thác hiệu quả hoạt động du lịch chƣa tƣơng xứng với đúng giá trị và tiềm năng.

2.5. Đánh giá chung hoạt động du lịch mạo hiểm tại vƣờn quốc gia Ba Bể

Qua kết quả điều tra và phân tích điều kiện, thực trạng phát triển du lịch mạo

hiểm Ba Bể cho thấy du lịch mạo hiểm tại Ba Bể bên cạnh việc khai thác đƣợc

những lợi thế về tài nguyên, còn tồn tại nhiều hạn chế và thách thức cần đƣợc khắc

phục.

Điểm mạnh Điểm yếu

- Cảnh quan ngoạn mục, địa hình - Nhận thức về phát triển du lịch mạo

hiểm trở với các loại tài nguyên du hiểm của các cấp chính quyền, doanh

lịch tự nhiên điển hình của vùng nghiệp du lịch cũng nhƣ cộng đồng

Trung du miền núi phía Bắc. địa phƣơng còn hạn chế.

- Sức cuốn hút của văn hóa dân tộc - Cơ sở vật chất, hạ tầng kỹ thuật chƣa

67

thiểu (phong tục tập quán, lễ hội, ẩm đáp ứng đƣợc yêu cầu của loại hình du

thực) lịch mạo hiểm.

- Môi trƣờng chính trị ổn định, ngƣời - Sản phẩm du lịch đơn điệu, kém hấp

dân địa phƣơng thân thiện với khách dẫn, không có tính đặc trƣng.

du lịch.

Cơ hội Thách thức

- Ban đầu thu hút đƣợc sự hỗ trợ của - Chƣa có quy hoạch riêng cho du lịch

một số dự án nƣớc ngoài (PARC, mạo hiểm Ba Bể.

3PAD), sự đầu tƣ kinh doanh của một - Khai thác tài nguyên du lịch có xu

số doanh nghiệp lữ hành lớn (Saigon hƣớng không bền vững.

Tourist). - Một số tài nguyên du lịch có nguy cơ

- Bƣớc đầu có sự tham gia của ngƣời bị ô nhiễm và biến mất.

dân địa phƣơng vào các hoạt động - Lợi thế so sánh của VQG Ba Bể bị

khai thác du lịch. giảm do phải cạnh tranh với các vƣờn

quốc gia khu vực miền Bắc nhƣ VQG

Hoàng Liên, VQG Cúc Phƣơng.

68

Tiểu kết chƣơng 2

Vƣờn Quốc gia Ba Bể có nhiều tiềm năng để phát triển du lịch mạo hiểm.

Tuy nhiên mức độ khai thác tài nguyên đƣa vào phát triển du lịch nói chung và du

lịch mạo hiểm nói riêng còn rất ít. Qua quá trình khảo sát và điều tra lấy ý kiến du

khách cho thấy hiện trạng phát triển du lịch mạo hiểm VQG Ba Bể còn tồn tại các

vấn đề về quy hoạch, xây dựng sản phẩm, liên kết, phát triển thị trƣờng khách cùng

với đó là nhận thức về phát triển loại hình du lịch đặc thù của chính quyền, các

doanh nghiệp lữ hành và ngƣời dân địa phƣơng còn thấp. Việc chỉ ra nguyên nhân

của hiện trạng phát triển du lịch mạo hiểm và phân tích điểm mạnh – điểm yếu, cơ

hội – thách thức là cơ sở để đƣa ra những định hƣớng hay giải pháp nhằm khai thác

hiệu quả hoạt động du lịch mạo hiểm tại VQG Ba Bể.

69

Chƣơng 3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN DU

LỊCH MẠO HIỂM TẠI VƢỜN QUỐC GIA BA BỂ

3.1. Những căn cứ chủ yếu

3.1.1. Căn cứ pháp lý

Quyết định số 2153/QĐ-TTg ngày 21/12/2009 của Thủ tƣớng Chính phủ phê

duyệt “Quy hoạch xây dựng vùng liên tỉnh hồ Ba Bể thuộc tỉnh Bắc Kạn và Tuyên

Quang”.

Quyết định số 1890/QĐ-TTg ngày 14/10/2010 của Thủ tƣớng Chính phủ phê

duyệt “Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Bắc Kạn thời kỳ đến năm

2020”.

Quyết định số 201/QĐ-TTg ngày 22/01/2013 của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du

lịch phê duyệt “Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2020, tầm

nhìn đến năm 2030”.

Quyết định số 91/2008/QĐ-BVHTTDL ngày 30/12/2008 của Bộ Văn hóa, Thể

thao và Du lịch phê duyệt “Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch vùng Trung du

miền núi Bắc Bộ đến năm 2020”.

Quyết định số 3455/QĐ ngày 30/12/2011 của Bộ Văn hóa – Thể thao và Du

lịch phê duyệt “Chiến lược Marketing Du lịch Việt Nam đến năm 2020 & kế hoạch

hành động 2013 – 2015”.

Quyết định số 1741/QĐ-UBND ngày 23/09/2002 của UBND tỉnh Bắc Kạn

phê duyệt “Quy hoạch du lịch Vườn quốc gia Ba Bể”.

Quyết định số 1872/QĐ-UBND ngày 16/01/2014 của UBND tỉnh Bắc Kạn

phê duyệt “Quy hoạch xây dựng khu du lịch Ba Bể, tỉnh Bắc Kạn đến năm 2030”.

70

3.1.2. Định hướng phát triển du lịch mạo hiểm tại vườn quốc gia Ba Bể

Vấn đề bất cập của du lịch mạo hiểm Ba Bể hiện nay là thiếu quy hoạch cụ thể

cũng nhƣ định hƣớng phát triển. Do đó Ba Bể cần xác định một số định hƣớng

chính đối với việc phát triển du lịch mạo hiểm.

Định hướng về quy hoạch và xúc tiến đầu tư

Để thực thu hút đầu tƣ, việc lập quy hoạch phát triển du lịch mạo hiểm VQG

Ba Bể cần đƣợc tiến hành ƣu tiên hàng đầu. Việc lập quy hoạch phát triển du lịch

mạo hiểm phải đảm bảo phù hợp với chiến lƣợc và quy hoạch phát triển kinh tế - xã

hội của Tỉnh, bảo đảm tính khả thi, cân đối giữa cung và cầu du lịch, đồng thời phát

huy đƣợc thế mạnh để tạo ra sản phẩm du lịch mạo hiểm đặc thù Ba Bể nhằm sử

dụng hợp lý, hiệu quả tài nguyên du lịch.

Định hướng về liên kết, xúc tiến quảng bá

Hoạt động xúc tiến, quảng bá du lịch đƣợc coi là một nhân tố quan trọng góp

phần vào sự phát triển của ngành du lịch của mỗi địa phƣơng. Việc liên phát triển

du lịch nói chung và du lịch mạo hiểm Ba Bể nói riêng với các địa phƣơng vùng

Đông Bắc sẽ cho phép khai thác những lợi thế của các tỉnh để tạo nên sức hấp dẫn

khách du lịch đa dạng mang tính đặc thù toàn vùng. Ngoài ra nó còn góp phần phát

triển các sản phẩm du lịch mạo hiểm mới, hạn chế sự trùng lặp về sản phẩm du lịch

mạo hiểm giữa các tỉnh với nhau. Đây là một trong những hƣớng đi quan trọng cần

thực hiện nhằm khai thác có hiệu quả hoạt động du lịch mạo hiểm tại VQG Ba Bể.

Định hướng về phát triển sản phẩm – thị trường du lịch

Theo “Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Bắc Kạn thời kỳ đến

năm 2020” Bắc Kạn phấn đấu lƣợng khách du lịch (cả trong nƣớc và quốc tế) hằng

năm tăng từ 25 - 28%, doanh thu tăng từ 30 - 35%. Thực hiện quan điểm chiến lƣợc

tập trung vào chiều sâu, có trọng tâm, hiệu quả, bền vững, có thƣơng hiệu và sức

71

cạnh tranh, du lịch Bắc Kạn nói chung và du lịch mạo hiểm VQG Ba Bể nói riêng

cần tập trung xây dựng bộ sản phẩm du lịch mạo hiểm đặc thù, hình thành chuỗi giá

trị cung ứng dịch vụ đáp ứng nhu cầu từng nhóm thị trƣờng mục tiêu. Ngoài việc

định hình sản phẩm đặc thù, cần xác định đƣợc các đoạn thị trƣờng và đối tƣợng

khách mục tiêu để có chiến lƣợc quảng bá, thu hút khách du lịch phù hợp. Những

thị trƣờng khách du lịch mạo hiểm cần nhắm tới là Tây Âu (Đức, Ý), Bắc Mỹ (Mỹ).

Du lịch mạo hiểm không chỉ gắn chặt với tài nguyên tự nhiên mà còn có quan

hệ qua lại với cộng đồng địa phƣơng. Một chƣơng trình du lịch mạo hiểm có thể

không qua các bản làng mà chỉ nối liền các điểm đến, nhƣng du lịch mạo hiểm

muốn phát triển lâu bền thì không thể thiếu sự hỗ trợ của cộng đồng địa phƣơng bởi

tài nguyên tự nhiên và cộng đồng địa phƣơng không thể tách rời. Chính vì vậy mà

du lịch mạo hiểm phát triển theo quan điểm phát triển du lịch sinh thái và gắn kết

với cộng đồng địa phƣơng là hƣớng đi giúp phát triển du lịch ở Ba Bể bền vững hơn

và đạt đƣợc mục tiêu hài hòa lợi ích của các bên.

3.2. Một số giải pháp cụ thể

3.2.1. Nhóm giải pháp về phát triển sản phẩm

Với kết nghiên cứu về du lịch mạo hiểm tại Ba Bể, tác giả có một số đề

xuất trong việc định hƣớng phát triển các sản phẩm du lịch đặc trƣng bao gồm:

- Đi bộ mạo hiểm xuyên rừng: Tại Ba Bể hiện đi bộ mạo hiểm xuyên rừng là

hoạt động đƣợc nhiều du khách chọn lựa bởi mức độ mạo hiểm nhẹ và sự cuốn hút

của cảnh quan tự nhiên còn tƣơng đối hoang sơ. Tuy nhiên các chuyến đi bộ mới

chỉ kéo dài trong thời gian một ngày, để tăng tính hấp dẫn có thể kéo dài các tuyến

dã ngoại, cho khách cắm trại hoặc lƣu trú tại nhà dân trong các tuyến dã ngoại.

Ngoài ra, cần đảm bảo tốt các dịch vụ cấu thành của sản phẩm nhƣ: Dịch vụ lƣu trú

(cần các loại lều bạt chuyên dụng để cắm trại), dịch vụ ăn uống (đảm bảo an toàn vệ

sinh), dịch vụ cứu hộ (đảm báo ứng cứu kịp thời trong trƣờng họp xảy ra các vấn đề

về an toàn của du khách), dịch vụ thông tin liên lạc và dịch vụ bảo hiểm.

72

- Chèo thuyền vƣợt thác: Đây là nhóm sản phẩm thu hút đƣợc sự quan tâm của

khách du lịch và có nhiều điều kiện phát triển ở Ba Bể. Trong trƣờng hợp này thay

vì phƣơng tiện xuồng máy gây tiếng ồn và khói ảnh hƣởng đến môi trƣờng, các thiết

bị nhƣ thuyền độc mộc hay thuyền cao su chuyên dụng sẽ là sự lựa chọn hợp lý

hơn. Việc đầu tƣ trang thiết bị chuyên dụng là một trong những khó khăn đối với

các doanh nghiệp du lịch có kế hoạch xây dựng phát triển sản phẩm này. Hiện nay

một số hộ dân trong bản Pắc Ngòi đã sử dụng một loại thiết bị nữa là thả bè mảng

dọc theo sông. Đối với lại hình này, phƣơng tiện chủ yếu sử dụng nguyên liệu địa

phƣơng nhƣ tre/nứa hoặc cây gỗ để kết thành bè nên tiết kiệm đƣợc chi phí đầu tƣ

thiết bị. Tuy nhiên việc điều khiển những bè mảng này đòi hỏi phải là ngƣời dân

bản địa hoặc du khách phải đƣợc đào tạo kỹ năng trƣớc khi tiến hành hoạt động

khám phá dòng sông. Thời gian phù hợp để tổ chức xây dựng sản phẩm này ở Ba

Bể là vào mùa mƣa (từ tháng 6 đến tháng 8) bởi lúc này tốc độ dòng chảy của các

con sông cùng với tính mạo hiểm tăng lên thỏa mãn nhu cầu khám phá chính phục

thử thách của du khách.

- Thám hiểm hang động: Trong báo cáo “Cơ sở khoa học để phát triển các

sản phẩm du lịch thể thao mạo hiểm vùng núi phía Bắc”, tác giả Phạm Trung

Lƣơng đã nhận định một số hang động tại Ba Bể nhƣ động Hua Mạ, động Puông,

động Thẩm Kít, động Nà Phòong là những hang động sâu, có cấu trúc khá phức tạp,

vì vậy ngoài việc cảm nhận giá trị cảnh quan địa chất, du khách sẽ có đƣợc cảm xúc

“mạo hiểm” khi đi sâu thám hiểm toàn bộ chiều dài của hang. Cũng giống nhƣ một

số loại sản phẩm du lịch mạo hiểm trên, khách du lịch thám hiểm hang động cần trải

qua các lớp huấn luyện ngắn về các kĩ năng đi trong hang động, xử lý các tình

huống nảy sinh trong quá trình khám phá hang động. Bên cạnh các dịch vụ cơ bản

nhƣ lƣu trú, ăn uống thì dịch vụ huấn luyện, dịch vụ cứu hộ là những dịch vụ cần

thiết đƣa vào cấu thành sản phẩm du lịch mạo hiểm này. Du lịch thám hiểm hang

động có thể đƣợc tổ chức quanh năm ở Ba Bể nhƣng thời gian thuận lợi nhất vào

73

khoáng tháng 10 đến tháng 4 bởi đó là vào mùa khô, thời tiết khô ráo, những rủi ro

về sạt lở, ngập hang do lũ sẽ hạn chế.

- Du lịch mạo hiểm tổng hợp: Các sản phẩm thuộc nhóm này thực chất là sự

kết hợp của nhiều sản phẩm du lịch mạo hiểm khác nhau trong một chƣơng trình

tổng hợp trên một hành trình dài qua nhiều điểm đến. Việc tổ chức thành công

“Raid Gouloises”năm 2002 là một minh chứng cụ thể về khả năng xây dựng nhóm

sản phẩm du lịch dạng này. Tại Ba Bể có thể xây dựng tuyến Thái Nguyên (thám

hiểm hang đông) – Tuyên Quang (khám phá văn hóa) – Bắc Kạn (khám phá các giá

trị cảnh quan, leo núi) - Lạng Sơn (khám phá các giá trị cảnh quan) – Quảng Ninh

(chèo thuyền, lặn biển). Có thể nói tuyến du lịch Đông Bắc bao trùm các tỉnh Thái

Nguyên, Tuyên Quang, Bắc Kạn, Lạng Sơn, và Quảng Ninh hội đủ nhiều yếu tố

làm nên một sản phẩm du lịch riêng biệt, độc đáo và không trùng lặp. Đó là cảnh

quan thiên nhiên hoang sơ, hùng vỹ, nền văn hóa đậm đà bản sắc, con ngƣời thân

thiện. Nếu các hành trình du lịch thông thƣờng chỉ giúp khách du lịch cảm nhận

đƣợc phần nào vẻ đẹp tự nhiên của Đông Bắc thì du lịch mạo hiểm là sản phẩm sẽ

khai thác đƣợc tối đa những lợi thế sẵn có trên của vùng miền. Ngoài ra việc khai

thác và phát triển tuyến du lịch này còn nhằm góp phần tăng nguồn thu du lịch, xóa

đói giảm nghèo cho cộng đồng địa phƣơng cũng nhƣ gia tăng sự giao lƣu, hiểu biết

văn hóa giữa các vùng miền.

3.2.2. Nhóm giải pháp về tuyên truyền quảng bá và khai thác thị trường

Đối với thị trƣờng nƣớc ngoài cần chú trọng đến việc tiếp cận thị trƣờng khách

Tây Âu (Đức, Ý), Bắc Mỹ (Mỹ) vì đây là nhóm nƣớc có nhiều khách du lịch đến

Việt Nam và cũng đang tham gia nhiều hoạt động du lịch mạo hiểm tại Ba Bể. Do

đó, Ba Bể cần có các hình thức tiếp cận phù hợp nhƣ mở các trang mạng giới thiệu

bằng tiếng Anh về du lịch Ba Bể, hoặc mở các trang giới thiệu trên Facebook và

thông qua các chƣơng trình xúc tiến, hội chợ du lịch của tỉnh, của quốc gia để làm

công tác quảng bá. Các hoạt động quảng bá cần làm liên tục, đa dạng về thông tin

và cách tiếp cận nhằm thu hút ngƣời quan tâm.

74

Hoạt động quảng bá cũng cần thực hiện liên tục và thƣờng xuyên với thị

trƣờng du lịch nội địa (những thị trƣờng lớn nhƣ Hà Nội, Đà Nẵng, Hồ Chí Minh).

Đặc biệt quan tâm đến các đối tƣợng thanh niên nhất là học, sinh viên. Đây là đối

tƣợng du khách hiện nay có nhiều yêu cầu về đi du lịch dã ngoại, khám phá, đồng

thời họ cũng là những đối tƣợng có khả năng quảng bá và giúp mở rộng thị trƣờng.

Đối với các công ty du lịch cần tập trung khai thác hiệu quả các chƣơng trình

du lịch mạo hiểm (sản phẩm, chất lƣợng, dịch vụ) phù hợp với đặc điểm, sở thích và

nhu cầu của thị trƣờng khách quốc tế và khách nội địa. Chú trọng xây dựng và tạo

ra các loại hình và sản phẩm du lịch mạo hiểm mang bản sắc riêng của Ba Bể.

Chẳng hạn nhƣ: tại khu vực hồ Ba Bể, có thể tổ chức các cuộc thi chèo thuyền độc

mộc kết hợp với khám phá động Puông. Hoạt động này vừa mang tính khám phá

vừa khai thác đƣợc nét văn hóa đặc sắc của vùng. Đặc biệt tại Ba Bể có thể kết hợp

các hoạt động du lịch mạo hiểm với các hoạt động du lịch sinh thái, nghỉ dƣỡng hay

tham quan thuần tuý. Đây sẽ là một xu hƣớng phát triển mạnh trong tƣơng lai.

Loại hình du lịch mạo hiểm và du lịch thể thao mạo hiểm có nhiều nét tƣơng

đồng, do đó có thể tổ chức các giải, các cuộc thi có hoạt động mạo hiểm thể thao tại

tỉnh, vừa mang lại nguồn thu, vừa giúp quảng bá thƣơng hiệu cũng nhƣ tạo cơ hội

giao lƣu, học hỏi cho các nhà tổ chức kinh doanh du lịch mạo hiểm địa phƣơng.

Ngoài ra, việc tiếp xúc với các giải có uy tín sẽ tạo điều kiện để du lịch mạo hiểm

địa phƣơng tiếp cận với chuẩn mực quốc tế.

Qua kết quả nghiên cứu ở chƣơng 2, có thể thấy việc quảng bá qua hình thức

truyền miệng mang lại hiệu quả khá cao (42,3%). Do đó, cần xây dựng thƣơng hiệu,

hình ảnh riêng của du lịch mạo hiểm ở Ba Bể nói chung và ở từng điểm du lịch mạo

hiểm nói riêng bằng cách tạo niềm tin cho du khách về sự hấp dẫn của các loại hình

du lịch mạo hiểm ở từng điểm du lịch và về sự phát triển bền vững của nó. Trƣớc

hết cần thiết kế các tờ quảng cáo, các tờ gấp về từng điểm du lịch mạo hiểm và phát

miễn phí cho các công ty du lịch hoặc có thể in ghép vào nội dung các tờ quảng cáo

75

của các công ty lữ hành và các khách sạn khác. Việc đƣa ra các slogan nhƣ “Kì diệu

Ba Bể”, “Viên ngọc xanh Ba Bể” hay “Ba Bể - trải nghiệm khó quên” cũng là một

cách gây ấn tƣợng cho du khách về Ba Bể.

Cần xây dựng một quỹ dành riêng cho quảng bá, tiếp thị các loại hình du lịch

mạo hiểm trong ở Ba Bể. Do chi phí cho quảng bá và tiếp thị là một kinh phí không

nhỏ, nếu để cho từng công ty tự quảng bá thì do kinh phí hạn chế, việc tiếp thị sẽ

không đem lại hiệu quả. Do vậy, Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch nên lập và quản lý

quỹ quảng bá và tiếp thị với sự đóng góp của các công ty du lịch trích từ doanh thu

hằng năm của họ để duy trì việc quảng bá đều đặn và có hiệu quả.

Quảng bá du lịch thông qua các trang mạng xã hội đang thịnh hành trong thời

buổi bùng nổ công nghệ thông tin nhƣ hiện nay. Các trang mạng xã hội nhƣ

Facebook, Twitter, Tripadvisor, v.v. ngày càng thu hút đông đảo lƣợng ngƣời truy

cập. Có thể nói, đây là một trong những công cụ hữu hiệu để khai thác, quảng bá

hình ảnh du lịch. Để thực hiện việc quảng bá du lịch qua mạng xã hội, Sở

VHTT&DL Bắc Kạn cần xây dựng website riêng của VQG Ba Bể (trang tiếng Việt

và tiếng Anh). Trong đó không chỉ cung cấp các thông tin giới thiệu về Ba Bể, các

kinh nghiệm, kỹ năng khi tham gia các loại hình du lịch mà còn là nơi khách du lịch

có thể đăng kí mua chƣơng trình du lịch trực tuyến. Có thể thấy rằng trong bối cảnh

ngân sách nhà nƣớc đầu tƣ cho xúc tiến, quảng bá còn hạn chế thì những tiện ích

của việc quảng bá du lịch qua mạng xã hội (nhƣ chi phí thấp để truyền tải thông tin

và truyền thông đến số lƣợng lớn đối tƣợng tiếp nhận; thông điệp đƣợc truyền tải

dƣới nhiều hình thức nhƣ văn bản, hình ảnh, âm thanh, phim và trò chơi, v.v.) có ý

nghĩa thiết thực.

3.2.3. Nhóm giải pháp về nâng cấp cơ sở hạ tầng, cơ sở vật chất kỹ thuật

- Hoàn thiện hệ thống cấp thoát nƣớc trên địa bàn các bản phục vụ du lịch và

các bản xung quanh. Hiện nay 2 bản Cốc Tộc, Pác Ngòi chƣa có hệ thống cấp nƣớc

sinh hoạt (nguồn nƣớc chủ yếu các hộ dân ở Cốc Tộc sử dụng vẫn là nguồn mạch

76

nông), chỉ có khu trung tâm Bó Lù đƣợc đầu tƣ hệ thống nƣớc sạch và hệ thống bể

phân phối tại các khu trụ sở ủy ban và bƣu điện. Do đó, cần chú trọng vào các bản

nhƣ Pắc Ngòi, Cốc Tộc bởi đây là các khu vực khách du lịch quốc tế thƣờng xuyên

tới tham quan và lƣu trú qua đêm.

- Hỗ trợ việc thiết kế, xây dựng và quản lý các cơ sở lƣu trú nhà nghỉ du lịch

cộng đồng, các quầy bán hàng lƣu niệm, đồ ăn, thức ăn uống, v.v. đảm bảo vệ sinh

và an toàn nhằm phục vụ nhu cầu ở lại đêm và nghỉ ngơi của du khách. Ngoài ra,

nhằm hạn chế sự ô nhiễm môi trƣờng từ các rác thải sinh hoạt, cần ban hành những

quy định về vệ sinh môi trƣờng tại các điểm bán hàng tại bờ hồ Ba Bể - nơi tập

trung nhiều hộ kinh doanh; Đặt các thùng rác nhỏ trên thuyền, tại những điểm tham

quan, dừng chân của du khách; Vệ sinh định kỳ tại các địa điểm du lịch, 2lần/tháng.

Việc này có thể giao cho cộng đồng địa phƣơng tự thành lập các đội tự quản dƣới

sự giám sát của BQL VQG.

- Củng cố và duy trì hệ thống hƣớng dẫn gồm: cột mốc, các bảng chỉ dẫn,

bảng nội quy, thông tin hƣớng dẫn dành cho khách du lịch mạo hiểm ở các tuyến

điểm chính và ở các khu vực phụ cận nhằm hỗ trợ khách du lịch và cũng nhằm

quảng bá cho Ba Bể.

- Xây dựng trạm dừng chân tại tuyến đi bộ trong rừng. Trạm nghỉ dừng chân

nên làm theo kiến trúc của nhà sàn ngƣời Tày có vị trí cao ráo nhằm hóng gió và

quan sát thiên nhiên xung quanh một cách dễ dàng.

- Nâng cấp các bến thuyền, và đảm bảo các trạm hƣớng dẫn du lịch luôn trong

tình trạng có ngƣời trực để đảm bảo và hỗ trợ an toàn cho du khách. Xây dựng và

nâng cấp tất cả các trạm kiểm lâm, trạm bảo vệ rừng thành các trạm hƣớng dẫn. Đây

cũng là nơi cung cấp ngƣời dẫn đƣờng hoặc hỗ trợ khi cần thiết theo yêu cầu của

du khách du lịch mạo hiểm.

77

3.2.4. Nhóm giải pháp về phát triển nguồn nhân lực

Do tính đặc thù, đội ngũ lao động phục trong du lịch mạo hiểm có yêu cầu cao

hơn hẳn so với các loại hình du lịch khác. Họ phải đƣợc đào tạo bài bản về trình độ,

kỹ năng (kỹ năng cứu hộ, kỹ năng xử lý trong những tình huống khẩn cấp, tai nạn).

Hiện nay chất lƣợng nguồn nhân lực phục vụ DLMH tại Ba Bể không những thiếu

về số lƣợng mà còn kém về chất lƣợng. Để từng bƣớc khắc phục vấn đề này, cần

thực hiện một số biện pháp sau:

- Tiến hành đánh giá thực trạng đội ngũ lao động ngành du lịch cả về số lƣợng

và chất lƣợng và căn cứ yêu cầu phát triển trong từng giai đoạn để xây dựng kế

hoạch đào tạo mới và đào tạo lại cho phù hợp và có hiệu quả.

- Việc đầu tƣ cho công tác đào tạo, bồi dƣỡng nguồn nhân lực du lịch có chất

lƣợng cho ngành du lịch cần tập trung theo các hƣớng:

Đào tạo tại chỗ: Tập huấn và tổ chức cho cộng đồng dân cƣ tham gia vào hoạt

động du lịch tại chỗ thông qua hoạt động cung ứng dịch vụ nhà trọ, sản xuất hàng

lƣu niệm, cải thiện vệ sinh làng bản, cung ứng lƣơng thực thực phẩm cho du lịch,

mang vác trang thiết bị, đồ dùng cho các tuyến du lịch mạo hiểm.

Đào tạo ở các địa phương khác: Lựa chọn các địa phƣơng có mô hình du

lịch mạo hiểm phù hợp với Ba Bể, hoặc có các mô hình đang thực hiện thành công,

sau đó sẽ gửi ngƣời đi học tập kinh nghiệm. Việc này nhằm phát huy các bài học

thành công, rút kinh nghiệm từ hạn chế của các mô hình khác khi vận dụng vào Ba

Bể.

- Trung tâm Giáo dục và Dịch vụ Môi trƣờng Rừng và hạt kiểm lâm thuộc

VQG cần lên kế hoạch phối hợp với nhau nhằm có kế hoạch phát triển nhân lực phù

hợp. Cụ thể, tuyển chọn và gửi một số kiểm lâm viên đi đào tạo, bồi dƣỡng nâng

cao nghiệp vụ về du lịch mạo hiểm. Trong trƣờng hợp cần, họ sẽ trở thành những

hƣớng dẫn viên du lịch. Đây là lực lƣợng đã đƣợc đào tạo kiến thức về đa dạng sinh

78

học, có sức khỏe tốt. Sử dụng nguồn lao động này làm hƣớng dẫn viên du lịch mạo

hiểm là rất phù hợp bởi nó vừa đáp ứng nhu cầu về nguồn lực lao động để phát triển

du lịch mạo hiểm vừa động viên họ làm tốt công tác quản lý, bảo vệ và từng bƣớc

phát huy giá trị của VQG Ba Bể. Mô hình này đã đƣợc một số VQG ở trong nƣớc

áp dụng rất có hiệu quả (VQG Cúc Phƣơng, VQG Cát Tiên).

- Mở thêm các lớp đào tạo, đặc biệt là về ngoại ngữ nhƣ: Những lớp giao tiếp

căn bản cho ngƣời kinh doanh tại điểm tham quan; Những lớp kỹ năng chuyên

ngành cho các hƣớng dẫn viên nhằm nâng cao năng lực hƣớng dẫn du khách, đặc

biệt là với du khách quôc tế.

Với sự đa dạng, phức tạp về địa hình, thiên nhiên hùng vĩ, văn hóa cổ truyền

đặc sắc, VQG Ba Bể có điều kiện thuận lợi phát triển du lịch mạo hiểm, khám phá.

Tuy nhiên, do những nguyên nhân chủ quan và khách quan mà du lịch mạo hiểm Ba

Bể hiện nay vẫn chƣa đƣợc khai thác hiệu quả và đảm bảo theo các nguyên tắc của

phát triển bền vững. Để khai thác du lịch mạo hiểm đạt hiệu quả cao, cần thực hiện

đồng bộ các giải pháp về: cơ chế chính sách, nâng cấp cơ sở hạ tầng, cơ sở vật chất

kỹ thuật, phát triển sản phẩm, tuyên truyền quảng bá, phát triển nguồn nhân lực.

Các giải pháp này cần đƣợc thực hiện trong thời gian dài và sự nỗ lực hợp tác chặt

chẽ giữa các cấp chính quyền, ngành du lịch, các ban ngành liên quan, các doanh

nghiệp du lịch và cộng đồng địa phƣơng.

3.2.5. Nhóm giải pháp về liên kết, phát triển sản phẩm du lịch mạo hiểm

Trƣớc hết, việc phát triển và liên kết sản phẩm du lịch mạo hiểm cần khai

thác đƣợc thế mạnh của các điểm du lịch Ba Bể, dựa trên định vị của sản phẩm du

lịch Ba Bể. Định hƣớng này dựa trên đặc điểm cạnh tranh của các điểm du lịch

trong vùng. Khu vực Đông Bắc có một số sản phẩm khá tƣơng đồng về văn hóa

cũng nhƣ nghỉ dƣỡng – sinh thái – thể thao -mạo hiểm. Hơn nữa vùng này có nhiều

tài nguyên du lịch tạo ra những sản phẩm du lịch có giá trị cao. Việc phát triển liên

kết điểm du lịch mạo hiểm của Ba Bể phải tính tới những điều kiện này và chú

79

trọng vào định vị của Ba Bể. Tuy sản phẩm du lịch mạo hiểm của Ba Bể chƣa thể

cạnh tranh trực tiếp với sản phẩm du lịch của các địa phƣơng khác nhƣng sẽ là một

sản phẩm thay thế quan trọng, đáp ứng nhu cầu đa dạng của khách du lịch.

Thứ hai là vai trò của cơ quan quản lý nhà nƣớc về du lịch trong việc thúc

đẩy liên kết, hợp tác khu vực, xây dựng sản phẩm du lịch mạo hiểm và đặc biệt là

trong khuyến khích doanh nghiệp lữ hành, cộng đồng địa phƣơng tham gia phát

triển và khai thác sản phẩm du lịch mạo hiểm. Sản phẩm du lịch mạo hiểm Ba Bể

chƣa phát triển, phần lớn mới ở dạng tiềm năng. Phần lớn các công ty lữ hành có xu

hƣớng khai thác các sản phẩm du lịch có sẵn mà ít đầu tƣ phát triển sản phẩm mới.

Lợi thế lớn nhất của Ba Bể hiện nay là khí hậu và cảnh quan, phù hợp với phát

triển du lịch sinh thái nghỉ dƣỡng và tham quan, du lịch mạo hiểm có thể liên kết

với các loại hình du lịch này để có một chƣơng trình du lịch hấp dẫn du khách nhƣ:

Tuyến du lịch khám phá: Hà Nội –Ba Bể – thác Bản Dốc – đông Tam Thanh –

vịnh Bái Tử Long.

Tuyến du lịch khám phá bằng xe mô tô: Hà Nội – Bắc Hà – Mèo Vạc – Đồng

Văn - Hoàng Su Phì.

Khách du lịch tham gia các tuyến du lịch mạo hiểm này sẽ có dịp đi qua những

cung đƣờng Đông Bắc trắc trở, cùng với khung cảnh thiên nhiên hùng vĩ, cảnh sắc

hoang sơ, những phong tục tập quan độc đáo của ngƣời dân địa phƣơng. Đây là

những yếu đặc biệt hấp dẫn khách du lịch tham gia vào các loại hình du lịch mạo

hiểm, khám phá.

3.2.6. Nhóm giải pháp về cơ chế chính sách

Hoàn thiện quy hoạch du lịch mạo hiểm

Xây dựng quy hoạch chi tiết không gian, khu vực, tuyến, điểm, sản phẩm du

lịch mạo hiểm là bƣớc đi đầu tiên cần thực hiện ở Ba Bể. Trong thời gian sớm nhất,

Ba Bể cần một chiến lƣợc bài bản và đồng bộ về phát triển du lịch mạo hiểm. Trên

cơ sở đó, có kế hoạch đầu tƣ hạ tầng hoặc kêu gọi đầu tƣ cũng nhƣ có cơ chế 80

khuyến khích thu hút đầu tƣ từ các nguồn khác nhau. Trong kế hoạch đó, một số nội

dung cần đƣợc chi tiết hóa:

- Xây dựng các tuyến, các khu vực tổ chức du lịch mạo hiểm thƣờng xuyên

cho khách du lịch. Cần chú trọng các khu vực ở hồ Ba Bể, hệ thống các hang động

nhƣ động Hua Mạ, động Puông, động Nà Phoòng, các bản làng trên núi, các tuyến

du lịch theo hệ thống thác, hồ, sông, đƣờng đi bộ qua rừng, qua các bản làng, hệ

thống các đèo.

- Xác định đƣợc các nguồn vốn, dòng tài chính để thực hiện kế hoạch. Ngoài

nguồn vốn truyền thống từ ngân sách, các nguồn vốn khác cũng cần đƣợc xác định

là quan trọng (đầu tƣ của khối tƣ nhân, cá nhân, cộng đồng, v.v.). Trong kế hoạch

cũng cần xác định rõ phƣơng án cụ thể nhằm thu hút, phát động đầu tƣ của các

nguồn vốn đó.

- Tăng cƣờng sự tham gia của các bên: các cơ quan nghiên cứu/quy hoạch

chuyên ngành, các nhà quản lý, công ty du lịch, cộng đồng địa phƣơng nhằm có

đƣợc sự đồng thuận và các nỗ lực chung trong việc thực hiện kế hoạch sau này.

Về tài chính

- Để phát triển đƣợc du lịch ở Ba Bể thì xã hội hóa việc phát triển du lịch sẽ là

một trong những mục tiêu cần huớng tới. Thực tế phát triển du lịch hiện tại cho thấy

các mô hình lƣu trú địa phƣơng, việc sử dụng các hƣớng dẫn viên địa phƣơng đang

thu hút đƣợc du khách. Do đó, nhằm thực sự hỗ trợ các gia đình và tổ chức địa

phƣơng tham gia và phát triển đƣợc các hoạt động du lịch của mình thì chính sách

cho vay và hỗ trợ vốn cần phải đƣợc cải thiện. Cụ thể, Huyện và VQG có thể thí

điểm cho 10 – 20 hộ gia đình vay vốn ƣu đãi với lãi suất thấp hoặc miễn lãi suất

trong vòng 5 năm. Hình thức cho vay vốn có thể thông qua các khoảng đầu tƣ trực

tiếp từ VQG hoặc ngân hàng huyện với hình thức thế chấp, tín chấp đơn giản để

ngƣời dân có thể tìm đƣợc nguồn vốn phù hợp.

81

- Trích một phần từ nguồn thu vé tham quan cho VQG Ba Bể để bổ sung thêm

nguồn chi phí cho công tác quy hoạch, đào tạo nhân lực cho các hộ gia đình tham

gia hoạt động du lịch. Nguồn trích này có thể từ 10-20% từ vé vào cửa làm quỹ đào

tạo và phát triển du lịch. Quỹ đƣợc quản lý bởi cộng đồng và chỉ dùng cho các hoạt

động đào tạo kỹ năng, kiến thức về du lịch (nghiệp vụ hƣớng dẫn, nấu ăn, ngoại

ngữ, v.v.) nhằm phát triển hệ thống và dịch vụ lƣu trú cộng đồng chuyên nghiệp

hơn.

Về thu hút đầu tư

- Có chính sách miễn tiền thuê đất, thuế doanh nghiệp trong một thời gian

nhất định cho các doanh nghiệp đầu tƣ phát triển du lịch tại Ba Bể, đặc biệt khuyến

khích các mô hình du lịch mạo hiểm, du lịch sinh thái có sự tham gia của cộng

đồng.

- Các cơ quan quản lý cần cải cách thủ tục hành chính, đơn giản hóa thủ tục

cấp phép đầu tƣ, đền bù giải phóng mặt bằng. Hỗ trợ lãi suất tiền vay cho các dự án

đầu tƣ phát triển đa dạng sản phẩm du lịch mạo hiểm tại VQG Ba Bể.

- Trong chính sách thu hút đầu tƣ không nên phân biệt doanh nghiệp trong

nƣớc hay nƣớc ngoài, trong tỉnh hay ngoài tỉnh. Cần chú trọng thu hút vốn đầu tƣ

lớn, tạo ra các sản phẩm du lịch độc đáo, hấp dẫn, đồng thời thu hút con ngƣời có

kinh nghiệm quản lý trong khai thác và kinh doanh du lịch. Đây có thể coi nhƣ

chính sách mang tính đòn bẩy để tạo đà cho phát triển du lịch Ba Bể.

82

Tiểu kết chƣơng 3

Dựa trên cơ sở nghiên cứu, đánh giá tiềm năng và thực trạng phát triển du lịch

mạo hiểm tại VQG Ba Bể, luận văn đã đề ra một số giải pháp cơ bản nhằm khai

thác có hiệu quả du lịch mạo hiểm.

Căn cứ vào các quy hoạch du lịch quốc gia, vùng; quy hoạch tổng thể phát

triển kinh tế - xã hội Bắc Kạn đến năm 2020; quy hoạch du lịch chung và quy hoạch

tổng thể xây dựng khu du lịch Ba Bể, tỉnh Bắc Kạn đến năm 2030, v.v. Tác giả đã

đề xuất một số giải pháp trên các lĩnh vực nhƣ sau: Phát triển sản phẩm, đẩy mạnh

xúc tiến đầu tƣ, quảng bá du lịch mạo hiểm; nâng cao nhận thức cũng nhƣ chất

lƣợng nguồn nhân lực phục vụ du lịch mạo hiểm, đầu tƣ phát triển cơ sở hạ tầng, cơ

sở vật chất kỹ thuật phục vụ du lịch mạo hiểm; hoàn thiện quy hoạch du lịch mạo

hiểm. Trong đó giải pháp về xây dựng quy hoạch du lịch mạo hiểm là giải pháp cấp

bách cần thực hiện trƣớc tiên tại Ba Bể.

83

KẾT LUẬN

Luận văn nghiên cứu điều kiện và thực trạng khai thác hoạt động du lịch mạo

hiểm tại VQG Ba Bể, từ đó đề xuất những giải pháp phát triển loại hình du lịch du

lịch mạo hiểm trên địa bàn này. Qua quá trình thực hiện đề tài, tác giả rút ra một số

kết luận sau:

Du lịch mạo hiểm là một trong những loại hình du lịch đang thu hút sự quan

tâm của nhiều khách du lịch, đặc biệt là những khách du lịch ƣa khám phá, mạo

hiểm. Loại hình du lịch này đã đƣợc phát triển thành công ở nhiều nƣớc trên thế

giới. Ở Việt Nam, du lịch mạo hiểm cũng đƣợc tổ chức thành công ở nhiều VQG

nhƣ Phong Nha – Kẻ Bàng, VQG Hoàng Liên Sơn.

Nằm trong trong tiểu vùng du lịch Đông Bắc, VQG Ba Bể có thế mạnh lớn về

tài nguyên du lịch và đã khai thác một số hoạt động du lịch mạo hiểm nhƣ du lịch

thám hiểm hang động, du lịch dã ngoại, du lịch khám phá sông hồ. Tuy nhiên, hiện

trạng du lịch mạo hiểm Ba Bể còn tồn tại những vấn đề bất cập: Cơ sở vật chất,hạ

tầng kỹ thuật phục vụ du lịch yếu kém, sản phẩm đơn điệu, thiếu hấp dẫn; Các hoạt

động hƣớng dẫn, cung cấp thông tin chƣa mang lại hiệu quả. Hơn nữa, công tác

quảng bá du lịch Ba Bể chƣa đƣợc quan tâm đúng mức nên nhiều du khách còn

chƣa biết đến du lịch Ba Bể.

Từ kết quả nghiên cứu, tác giả đã đề xuất một số giải pháp gồm nâng cấp cơ

sở hạ tầng, cơ sở vật chất kỹ thuật, phát triển sản phẩm, phát triển nguồn nhân lực,

quảng bá và khai thác thi trƣờng nhằm khai thác hiệu quả hoạt động du lịch mạo

hiểm ở VQG Ba Bể. Thiên nhiên Ba Bể là nguồn tài nguyên du lịch chính, vì vậy

việc khai thác và bảo toàn môi trƣờng trƣờng tự nhiên là yếu tố quan trọng nhất để

phát triển du lịch mạo hiểm VQG Ba Bể.

84

KIẾN NGHỊ

Trong quá trình thực hiện, với những hạn chế về thời gian và kinh nghiệm, kết

quả nghiên cứu đạt đƣợc của đê tài mới dừng lại ở những khảo sát ban đầu. Vì thế,

tôi có một số kiến nghị sau đây:

Cần có thêm những hoạt động nghiên cứu nhằm giải quyết tốt hơn các vấn đề

đặt ra nhƣ triển khai áp dụng thêm các phƣơng pháp đánh giá không gian thuận lợi

cho phát triển du lịch mạo hiểm (ví dụ nhƣ sử dụng các phƣơng pháp sơ đồ, bản đồ

nhằm phân tích, đánh giá tiềm năng phát triển du lịch mạo hiểm và điều kiện có liên

quan).

Cần tiếp tục có những nghiên cứu cụ thể hơn và cần có một lộ trình lâu dài với

sự tham gia của nhiều bên liên quan để đánh giá tổng quát đƣợc hiện trạng và

phƣơng hƣớng quản lý đối với du lịch mạo hiểm Ba Bể.

85

TÀI LIỆU THAM KHẢO

TIẾNG VIỆT

1. Bộ Kế hoạch Đầu tƣ, 2008. Quy hoạch tổng thể phát triển Kinh tế - xã hội

Bắc Kạn đến năm 2020. Hà Nội, 2008.

2. Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, 2000. Chƣơng trình Phát triển Liên

hợp quốc (UNDP), Phát triển du lịch sinh thái cho Ba Bể/ Na Hang. Hà Nội,

2000.

3. Bộ Văn hóa – Thể thao và Du lịch. Chiến lược Marketing Du lịch Việt Nam

đến năm 2020 & kế hoạch hành động 2013 – 2015. Hà Nội, 2013.

4. Bộ Văn hóa – Thể thao và Du lịch. Quy hoạch tổng thể phát triển Du lịch

Việt Nam đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030. Hà Nội, 2010.

5. Bùi Thị Hải Yến, 2006. Quy hoạch du lịch. NXB Giáo dục.

6. Cục thống kê tỉnh Bắc Kạn, 2014. Niêm giám thống kê huyện Ba Bể năm

2014.

7. Hoàng Đỗ Vân, 2010. Du lịch mạo hiểm với sự phát triển du lịch của thị trấn

SaPa – huyện Lào Cai. Khóa luận tốt nghiệp, Đại học Văn Hóa.

8. Nguyễn Đình Hòe, Vũ Văn Hiếu, 2001. Du lịch bền vững. Nxb Đại học

Quốc Gia Hà Nội, Hà Nội.

9. Phạm Trung Lƣơng, 2007. Cơ sở khoa học để phát triển các sản phẩm du

lịch thể thao – mạo hiểm vùng núi phía Bắc, Báo cáo khoa học cấp Bộ, Hà

Nội.

10. Sở Văn hóa - Thể thao và Du lịch tỉnh Bắc Kạn. Báo cáo đánh giá hoạt động

du lịch Bắc Kạn (2005 – 2013). Định hướng phát triển du lịch trong những

năm tiếp theo.

11. Sở Văn hóa - Thể thao và Du lịch tỉnh Bắc Kạn. Cẩm nang du lịch Bắc Kạn.

12. Thái Văn Trừng, 1978. Thảm thực vật rừng Việt Nam. Nxb Khoa học Kỹ

thuật, Hà Nội.

86

13. Thủ tƣớng Chính phủ, 2001. Kế hoạch hành động đa dạng sinh học của Việt

Nam. Hà Nội, 1995.

14. Thủ tƣớng Chính phủ, 1992. Luận chứng kinh tế - kỹ thuật đầu tư xây dựng

VQG Ba Bể (giai đoạn 1). Hà Nội, 1992.

15. Thủ tƣớng Chính phủ, 2014. Phê duyệt quy hoạch hệ thống rừng đặc dụng

cả nước đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030. Hà Nội, 2014.

16. Thủ tƣớng Chính phủ, 2001. Quy chế Quản lý rừng đặc dụng, rừng phòng

hộ và rừng sản xuất là rừng tự nhiên. Hà Nội, 2011.

17. Trần Đức Thanh, 2005. Nhập môn khoa học du lịch. Nxb ĐHQG Hà Nôi, Hà

Nội.

18. Trần Thị Thúy Lan, 2005. Giáo trình tổng quan du lịch. Nxb Hà Nội.

19. Trịnh Lê Anh, 2006. Du lịch Trekking ở Việt Nam: Loại hình và phương

thức tổ chức (Nghiên cứu trường hợp ở Sa Pa – Lào Cai). Luận văn Thạc sĩ,

Đại học Quốc Gia Hà Nội.

20. Trƣơng Quang Hải, 2006. Nghiên cứu tuyến Du lịch mạo hiểm Phong Nha

– Kẻ Bàng. Đề tài NCKH cấp Bộ, Đại học Quốc gia Hà Nội.

21. Trƣơng Thị Lan Hƣơng, 2007. Du lịch mạo hiểm núi tại Lâm Đồng: Cơ sở lý

thuyết và nghiên cứu trường hợp. Đề tài nghiên cứu cấp trƣờng, Trƣờng Đại

học Đà Lạt.

22. Trƣơng Việt Trƣờng, 2010. Nghiên cứu du lịch sinh thái kết hợp với du lịch

mạo hiểm tại khu mỏ Kẽm - Chì Chợ Đồn, huyện Chợ Đồn, tỉnh Bắc Kạn.

Luận văn Thạc sĩ, Đại học Quốc Gia Hà Nội.

23. UBND tỉnh Bắc Kạn. Ban thực hiện dự án phát triển du lịch bền vững tiểu

vùng sông Mê Kông mở rộng. Báo cáo khảo sát đánh giá sản phẩm du lịch

dụa vào cộng đồng (tại huyện Ba Bể và thị xã Bắc Kạn) năm 2013.

24. UBND tỉnh Bắc Kạn. Nghị quyết số 18-NQ/TU ngày 19/4/2012, Phát triển

thương mại, dịch vụ, du lịch đến năm 2015, định hướng đến năm 2020.

87

25. UBND tỉnh Bắc Kạn, 2003. Quy chế tổ chức, quản lý và hoạt động của Vườn

Quốc gia Ba Bể. Bắc Kạn, 2003.

26. UBND tỉnh Bắc Kạn. Quyết định số 1741/QĐ-UBND ngày 23/9/2002. Quy

hoạch du lịch Vườn Quốc gia Ba Bể.

27. UBND tỉnh Bắc Kạn. Quyết định số 1872/QĐ-UBND ngày 16/01/2014. Quy

hoạch xây dựng khu du lịch Ba Bể, tỉnh Bắc Kạn đến năm 2030.

28. Ủy ban Thƣờng vụ Quốc hội. Luật Du lịch, Hà Nội, 2005.

29. Văn phòng Chính phủ, 2010. Đăng ký Vườn Quốc gia Ba Bể vào danh sách

Ramsar. Hà Nội, 2010.

30. Vƣờn quốc gia Ba Bể. Báo cáo Kết quả thực hiện nhiệm vụ năm 2014, triển

khai nhiệm vụ năm 2015.

TIẾNG ANH

31. Adventure Market Study 2013.Adventure Travel Trade Associantion and The

George Washington University (2013).

32. Euromonitor International, Travel and Tourism in France, Country Report

2013.

33. John Swarbrooke, 2003. Adventure Tourism: The new frontier, Oxford ;

Boston, MA : Butterworth-Heinemann.

34. Millington K. Locke, 2001. Occasionnal studies: Adventure travel, Travel

and Tourism Analyst, 4, 65-97.

35. Ralf Buckley, 2006. Adventure tourism, Wallingford, Oxon, UK,

Cambridge.

36. Tourism Organization, 2014. Global Report on Adventure.

37. World Travel Tourism Council. Travel & Tourism: Economic impact 2014

Thailand.

88

PHỤ LỤC

Nguồn: BQL VQG Ba Bể

Phụ lục 1: Các bản đồ của VQG Ba Bể

89

Nguồn: BQL VQG Ba Bể

90

Ảnh 1. Sơ đồ chỉ dẫn thăm quan Ba Bể

Ảnh 2. Đặc sản cá nướng

Ảnh 4. Thác Đầu Đẳng

Ảnh 3. Du khách chèo thuyền Kayay trên

sông Năng

(Nguồn: Tác giả khảo sát, 2014)

Phụ lục 2: Một số hình ảnh khảo sát tại VQG Ba Bể

91

Ảnh 6. Quầy thông tin du lịch

Ảnh 5. Đường xuống động Hua Mạ

không có người trực

Ảnh 8. Văn phòng đại diện của một Công

Ảnh 7. Rác thải bừa bãi tại đường vào động Hua

ty lữ hành DLMH tại Ba Bể

Mạ

(Nguồn: Tác giả khảo sát, 2014)

92

Ảnh 10. Các ấn phẩm quảng bá về Ba Bể

Ảnh 9. Phỏng vấn du khách

Ảnh 11. Góc nhìn từ một ngôi hà sàn tại Ba Bể

Ảnh 12. Khảo sát tại đông Puông

(Nguồn: Tác giả khảo sát, 2014)

93

Phụ lục 3

Danh sách các cơ sở lƣu trú trên địa bạn huyện Ba Bể

Liên lạc

Loại, hạng

STT

Số

Số

Tên cơ

Tên chủ cơ

Chƣa

Đã

sở

sở

phòng

giƣờng

Địa chỉ

Số điện thoại

Đã

xếp

treo

xếp

hạng

biển

cơ sở

hạng

hạng

1 KS Bƣu

Hoàng Văn

Nà Mằm,

02813894455 1 SAO

X

15

23

Điện

Nghị

Khang

Ninh

2 An

Hoàng Thị

Nà Mằm,

02813894288 NNDL

0

10

10

Thảo

Êm

Khang

Ninh

3 Trứ

Đinh Công

Nà Mằm,

0982006103 NNDL

0

05

08

Diện

Trứ

Khang

Ninh

4 Huỳnh

Nguyễn Văn

Nà Mằm,

0983025306 NNDL

0

04

10

Len

Huỳnh

Khang

Ninh

5 Đức

Triệu Đức

Pác Ngòi,

0989657710 NNDL

X

07

13

Khuyến

Khuyến

Nam

Mẫu

6 Hồng

Dƣơng Văn

Pác Ngòi,

02813894073 NNDL

X

03

07

Vịnh

Thụ

Nam

Mẫu

7 Ông

Ngôn Văn

Pác Ngòi,

02813894067 NNDL

X

03

08

Toàn

Toàn

Nam

94

Mẫu

8 Duy

Triệu Duy

Pác Ngòi,

01652022985 NNDL

X

06

15

Nam

Thơ

Thơ

Mẫu

9 Huỳnh

Giá Đình

Pác Ngòi,

02813894066 NNDL

X

06

15

Nam

Huyên

Mẫu

10 Hoàng

Hoàng Văn

Pác Ngòi,

01695420262 NNDL

X

02

08

Nam

Họp

Họp

Mẫu

11 Hoàng

Dƣơng Văn

Pác Ngòi,

01645852632 NNDL

X

06

08

Nam

Nguyên

Vĩnh

Mẫu

12 Hoa

Ngôn Thị

Pác Ngòi,

02813894065 NNDL

X

06

15

Nam

Sơn

Mẫu

13 Hoành

Dƣơng Văn

Pác Ngòi,

02813894071 NNDL

X

05

12

Nam

Tứ

Sảo

Mẫu

14 Đạt

Ma Văn Tuệ Pác Ngòi,

01668194383 NNDL

X

02

06

Nam

Diễm

Mẫu

15 Du Tƣ Đàm Ngọc

Bó Lù

0947642292 NNDL

0

04

09

Nam

Du

Mẫu

16 Minh

Nguyễn Văn

Bó Lù

0946511966 NNDL

X

03

10

Nam

Tân

Từ

Mẫu

17 Hồng

Nguyễn Văn

Bó Lù

0916512001 NNDL

X

04

10

Sơn

Đằng

Nam

95

Mẫu

18 Quỳnh

Mã Thị Viền Bó Lù

01665678714 NNDL

X

04

10

Mai

Nam

Mẫu

19 Suối

Ma Thị Tích Bó Lù

02813894049 NNDL

X

04

10

Nam

Mẫu

20 Thủy

Nguyễn

Bó Lù

02813894094 NNDL

X

10

20

Tiên

Xuân Khải

Nam

Mẫu

21 Thái

Triệu Thị

Bó Lù

02813507095 NNDL

X

04

02

Khuyên

Khuyên

Nam

Mẫu

22 Thuận

Đàm Ngọc

Bó Lù

01693468347 NNDL

X

06

10

Thơm

Thuận

Nam

Mẫu

23 Chi Hòa Nguyễn Thị

Bó Lù

0915198915 NNDL

X

07

11

Hằng

Nam

Mẫu

24 Nhật

Lý Văn Tập Cốc Tộc

01665448407 NNDL

0

05

07

Quang

Nam

Mẫu

25 Ông

Nông Văn

Bản Cám,

02812212595 NNDL

0

05

15

Hiến

Thấm

Nam

Mẫu

26 VQG

TTGDMT&

0912267559 01

X

54

107

Ba Bể

DVMT

Khang

SAO

Ninh

(Nguồn: Sở VHTT&DL Bắc Kạn năm 2014)

96

Phụ lục 4

PHIẾU ĐIỀU TRA

ĐÁNH GIÁ CỦA DU KHÁCH VỀ HOẠT ĐỘNG DU LỊCH

MẠO HIỂM TẠI VƢỜN QUỐC GIA BA BỂ

Mã số phiếu

Kính thưa quý khách: Nhằm góp phần phát triển du lịch, đặc biệt du lịch

mạo hiểm tại Vườn quốc gia Ba Bể, rất mong quý khách dành chút thời gian

giúp chúng tôi hoàn thành bảng hỏi này. Ý kiến của quý khách sẽ rất bổ ích cho

nghiên cứu của chúng tôi trong việc thúc đẩy hoạt động du lịch mạo hiểm

(DLMH) tại Vườn quốc gia (VQG) Ba Bể.

Hãy đánh dấu V vào ô thích hợp:

1. Qúy khách hiểu như thế nào về du lịch mạo hiểm?

...........................................................................................................................................................................

...........................................................................................................................................................................

2. Quý khách biết đến VQG Ba Bể qua những nguồn thông tin nào?

Truyền miệng  Internet/ TV

Hãng lữ hành

 Sách du lịch

 Lý do khác………………………….

3. Tới Ba Bể, quý khách lưu trú ở đâu?

- Khách sạn - Nhà dân (Homestay)

97

- Nhà nghỉ - Hình thức khác( lều trại)…………………

4. Quý khách đã trải nghiệm hoạt động du lịch mạo hiểm nào tại VQG Ba Bể

(có thể chọn nhiều đáp án)?

 Đi bộ mạo hiểm trong rừng  Leo núi

5. Quý khách đánh giá thế nào về tài nguyên du lịch tại VQG Ba Bể?

Khám phá hang động  Chèo thuyền vƣợt thác

Mức đánh giá

Trung Rất Chỉ tiêu Rất tốt Tốt Kém bình kém

- Địa chất, địa hình

- Hệ thống sông, suối, thác ghềnh

- Cảnh quan tự nhiên

- Khí hậu

- Các giá trị văn hóa bản địa

6. Quý khách đánh giá như thế nào về chất lượng dịch vụ DLMH tại VQG Ba

Bể?

Mức đánh giá

Chỉ tiêu Trung Rất Rất tốt Tốt Kém bình kém

- Dịch vụ hƣớng dẫn

- Dịch vụ huấn luyện

-Dịch vụ ứng cứu

- Dịch vụ bảo hiểm

- Dịch vụ khác (cung cấp thiết bị

98

DLMH…)

7. Điều gì làm Quý khách chưa hài lòng nhất khi tham gia DLMH ở VQG Ba

Bể?

..........................................................................................................................................................................

..........................................................................................................................................................................

8. Ý kiến đóng góp của quý khách để VQG Ba Bể trở thành điểm đến DLMH hấp

dẫn?

..................... .....................................................................................................................................................

..........................................................................................................................................................................

9. Quý khách có dự định thăm lại VQG Ba Bể không?

- Có - Không - Chƣa chắc chắn

10. Quý khách có dự định giới thiệu VQG Ba Bể cho bạn bè và người thân

không?

Không - Chƣa chắc chắn - Có

Các thông tin cá nhân của ngƣời trả lời:

 Nữ

Giới tính: Nam

Độ tuổi:

 26-40  Dƣới 15  15-25  41-60  Trên 60

Trình độ học vấn:

 THCS, THPT  THCN  CĐ- ĐH  Sau ĐH

Nghề nghiệp:……………………………………………………………

Xin chân thành cảm ơn những ý kiến đóng góp quý báu của Quý khách!

99

SURVEY

TOURIST’S ASSESSMENT ABOUT ADVENTURE TOURISM

IN BA BE NATIONAL PARK

No

Ladies and gentlement: To support tourism

especially adventure tourism in Ba Be National Park, we are grateful if you

can spend some of your time filling this questionaire. Your valuable opinions

will be usefulf or our research to push up adventure tourism in Ba Be

National Park.

PleasecheckVintheappropriate

1. What do you know about Adventure tourism?

...........................................................................................................................................................................

...........................................................................................................................................................................

2. How do you know about Ba Be adventure tourism?

 The recommendation of other  Internet/ TV

people

 The introduction of the tour  Guidebook

company

Other………………………………

3. Where did you stay in Ba Be?

- Hotel - Homestay

- Motel - Other……………………………..

4. Which adventure activities did you experience in Ba Be? ( You can choose

more than one option)

100

Trekking in wilde forest Moutaining

5. What is your general perception about tourism resources in Ba Be National

Caving  Kayaking on Dau Dang waterfall

Park?

Level

Very Very Categories Good Inadequate Bad good bad

- Topography

- river and waterfall

- Natuaral lanscape

- Cliamte

- Ethnic culture feature

6. What is your comment on the quality of tourism servicein Ba Be National

Park?

Level Categories Very Very Good Inadequate Bad good bad

- Guilding service

- Training service

- Rescue service

- Insurance

- Other (like selling souvenir…)

7. What is your most dissatisfied with Ba Be adventure tourism?

...................................................................................................................................................................

8. What can you suggest or advise to increase quality of tourism activities?

.....................................................................................................................................................................

101

9. If you visit Vietnam again, will you enjoy adventure tourism in Ba Be?

- Yes - No - Not yet enjoy

10. Will you recommend Ba Be adventure tourism to friends?

- Yes - No - Not yet enjoy

Personal Information of Interviewee:

Nationality:…….......................................….............................

Gender: Male  Female

Age:

 26-40  Under 15  15-25  41-60  Over 60

Educational background:

 High school  Vocational education

Job:………………………………………….

 Graduated  Post graduated

Thank you for your help!!!

102

Phụ lục 5

Kết quả phiếu điều tra ý kiến du khách tại VQG Ba Bể

Số STT Câu hỏi Nội dung đánh giá % phiếu

Truyền miệng 22 42,3

Internet , TV 7 13,5

Quý khách biết đến VQG Ba Bể Công ty lữ hành 9 17,3 1 qua những nguồn thông tin nào? Sách hƣớng dẫn du 3 5,7 lịch

Khác 11 21,2

Khách sạn 0 0

Nhà nghỉ 5 9,6 Tới Ba Bể, quý khách lƣu trú ở 2 đâu? Nhà dân (home stay) 36 69.2

Hình thức khác 11 21.2

Quý khách đã trải nghiệm loại Đi bộ xuyên rừng 34 65,4

hình du lịch mạo hiểm nào tại Khám phá hang động 10 19,2

3 VQG Ba Bể (có thể chọn nhiều Leo núi 0 0

đáp án)? Chèo thuyền kayak 25 48,1

Đánh giá của quý khách về sự Rất Tốt Trung Rất Kém hấp dẫn của VQG Ba Bể? tốt bình kém

Địa hình 61,6 38,4 0 0 0

Hệ thống sông, suối, thác ghềnh 59,7 32,7 7,6 0 0 4

Cảnh quan tự nhiên 73,1 26,9 0 0 0

Khí hậu 36,5 48,1 15,4 0 0

Các giá trị văn hóa bản địa 46,2 30,8 17,3 5,7 0

103

Rất Tốt Trung Rất Kém Đánh giá của Quý khách về hệ tốt bình kém thống cơ sở hạ tầng, cơ sở vật

chất kỹ thuật của VQG Ba Bể

5 Cơ sở lƣu trú 7,7 28,8 51,9 11,6 0

Cơ sở phục vụ dịch vụ ăn uống 0 15,4 71,2 9,6 3,8

Cơ sở hạ tẩng tại điểm tham quan 0 9,6 13,5 61,5 15,4

Hệ thống đƣờng xá 0 21,2 44,2 26,9 7,7

Đánh giá của Qúy khách về chất

lƣợng dịch vụ DLMH ở Ba Bể

Dịch vụ hƣớng dẫn 25 59,7 0 9,6 5,7

Dịch vụ huấn luyện 0 0 0 75 25 6

Dịch vụ ứng cứu 0 0 0 82,7 17,3

Dịch vụ bảo hiểm 0 9,6 69,2 21,2 0

Dịch vụ khác 0 0 30,8 55,8 13,5

Có 18 34,6 Quý khách có dự định thăm lại

9 vƣờn quốc gia này không? Không 10 19,2

Chƣa chắc chắn 24 46,2

Có 42 80,8 Quý khách có dự định giới thiệu

10 vƣờn quốc gia này cho bạn bè và Không 2 3,8

ngƣời thân không? Chƣa chắc chắn 8 15,4

Nguồn: Tác giả điều tra tổng hợp

104

Bảng tổng hợp về khách du lịch tại Ba Bể

Chỉ tiêu Kết quả

Giới tính Nam: 57,3% Nữ 42,7%

Quốc tịch Nội địa: 13,4 % Quốc tế:86,6%

- Châu Âu: 50,7 %

Pháp, Hà Lan, Đức, Thuỵ sĩ, Ba Lan,

Thụy Điển, Tây Ban Nha…

- Châu Á: 5.6 %

Hàn Quốc

- Châu Mỹ: 26,8 %

Mỹ, Canada, Chi lê...

- Châu Đại dƣơng: 16,9%

Úc, New Zeland....

- Châu Phi: 0 %

Độ tuổi Dƣới 18: 0 %. 18-25: 19,5 %. 26-40: 51,3%.

41-60: 28 % Trên 60: 1,2 %

Nghề nghiệp Sinh viên (13,9%) Nhà nghiên cứu (26,4%) Quản lý (15,7%)

Nhân viên văn phòng (32,3%) Khác (11,7%)

Trình độ học Hết cấp 3: 8,5 %, Trƣờng nghề: 15,8 %, Cao đẳng, đại học:

vấn 47,6%,

Sau đại học: 28,1 %

Nguồn: Tác giả điều tra tổng hợp

105

Phụ lục 6

BẢNG HỎI HỘ KINH DOANH DU LỊCH

Mã số phiếu

Nhóm nghiên cứu trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân Văn – Đại

học Quốc gia Hà Nội đang tiến hành khảo sát ý kiến của các hộ kinh doanh du

lịch trên địa bàn VQG Ba Bể. Kết quả của nghiên cứu này sẽ giúp định hướng

chính sách để du lịch Ba Bể - Bắc Kạn ngày càng phát triển, đáp ứng tốt hơn yêu

cầu của du khách. Rất mong nhận được những ý kiến xác thực và chân tình của

quý vị!

I. Thông tin cá nhân

-Giới tính:………………………… ……………………………………………

-Nghề nghiệp:…………………….. ……………………………………………

-Địa chỉ:…………………………… ……………………………………………

II. Thông tin nghiên cứu

Câu 1. Anh/chị hiểu gì về du lịch mạo hiểm (DLMH)?

………………………………………………………………………………………

………………………………………………………………………………………

Câu 2. Anh/chị có sẵn lòng giới thiệu những hoạt động DLMH và những nét đẹp

văn hóa của địa phƣơng với khách du lịch không?

Có Không Chƣa biết

Câu 3. Anh/chị có sẵn lòng tham gia các hoạt động DLMH với du khách không ?

Rất thích Thích Bình thƣờng

Không quan tâm Không thích Rất không thích

106

Câu 4. Theo anh/chị du khách tới đây thƣờng thích những hoạt động DLMH gì?

………………………………………………………………………………………

………………………………………………………………………………………

Câu 5. Theo anh/chị DLMH có vai trò nhƣ thế nào đối với việc phát triển du lịch ở

địa phƣơng?

Có lợi Có hại Vừa có lợi vừa có hại Không biết

Câu 6. Anh/chị có muốn loại hình du lịch mạo hiểm ở địa phƣơng mình ngày càng

phát triển không ?

Có Không

Câu 7. Anh/chị có sẵn sàng đầu tƣ cơ sở vật chất phục vụ cho DLMH (các tuyến,

các trò chơi, các hoạt động hỗ trợ du lịch khác…) không?

Có Không Chƣa biết

Câu 8. Chính quyền địa phƣơng có tổ chức tuyên truyền và phổ biến kiến thức về

du lịch mạo hiểm cho nhân dân không?

Có Không Không biết

Câu 9. Anh/chị có tham gia tập huấn về du lịch mạo hiểm lần nào không?

Chƣa lần nào 1 lần 2 lần Từ 2 lần trở

lên

Câu 10. Anh/chị có muốn đƣợc tham gia các khóa học về du lịch mạo hiểm không?

Rất muốn Muốn Bình thƣờng

Không quan tâm Không muốn Rất không muốn

Câu 11. Anh/chị muốn đƣợc tập huấn thêm về những nội dung gì?

………………………………………………………………………………………

Câu 12. Đề xuất của anh/chị cho sự phát triển hoạt động du lịch mạo hiểm ở địa

phƣơng

………………………………………………………………………………………

Trân trọng cảm ơn sự hợp tác và giúp đỡ của quý vị!

107

Phụ lục 7

Kết quả phiếu điều tra ý kiến hộ kinh doanh du lịch tại VQG Ba Bể

STT Câu hỏi Nội dung Số Tỉ lệ %

đánh giá phiếu

1 Anh/chị có sẵn lòng giới thiệu những Có 20 100

hoạt động DLMH và những nét đẹp Không 0 0 văn hóa của địa phƣơng với khách du

Chƣa biết 0 0 lịch không?

2 Anh/chị có sẵn lòng tham gia các hoạt Rất thích 2 10

động DLMH với du khách không ? Thích 11 55

Không quan 7 35

tâm

Không thích 0 0

Rất không 0 0

thích

Có lợi 60 3 Theo anh/chị DLMH có vai trò nhƣ 12

thế nào đối với việc phát triển du lịch Có hại 0

ở địa phƣơng? Vừa có lợi 3 15

vừa có hại

Không biết 5 25

4 Anh/chị có muốn loại hình du lịch Có 20 100

mạo hiểm ở địa phƣơng mình ngày 0 0 Không

càng phát triển không ?

4 20 5 Anh/chị có sẵn sàng đầu tƣ cơ sở vật Có

chất phục vụ cho DLMH (các tuyến,

108

các trò chơi, các hoạt động hỗ trợ du Không 0 0

lịch khác…) không?

Chƣa biết 16 80

6 Chính quyền địa phƣơng có tổ chức Có 0 0

tuyên truyền và phổ biến kiến thức về Không 13 65

du lịch mạo hiểm cho nhân dân Không biết 7 35 không?

7 Anh/chị có tham gia tập huấn về du Chƣa lần nào 20 100

lịch mạo hiểm lần nào không? 1 lần 0 0

2 lần 0 0

Từ 2 lần trở 0 0

lên

5 25 8 Anh/chị có muốn đƣợc tham gia các Rất muốn

khóa học về du lịch mạo hiểm không? 15 75 Muốn

0 0 Bình thƣờng

(Nguồn: Tác giả điều tra tổng hợp, 2014)

109

Phụ lục 8

Danh sách các chuyên gia đƣợc phỏng vấn

STT Họ và tên Nơi công tác Thời gian

phỏng vấn

1 TS. Nguyễn Mạnh Hà Trung tâm Nghiên cứu 09/2014

Tài nguyên và Môi

trƣờng

2 Ông Nguyễn Xuân Hải Viện Nghiên cứu Phát 10/2014

triển Du lịch

3 Bà Lý Thị Mƣời Sở VHTT&DL Bắc Kạn 10/2014

4 Ông Bùi Văn Quang Phó giám đốc VQG Ba 10/2014

Bể

5 Ông Huỳnh Bình Toàn Cán bộ phụ trách du lịch 10/2014

VQG Ba Bể

6 Ông Trần Giao Linh Giám đốc công ty 10/2014

TNHH Mr.Linh’s

Adventure

7 Ông Trần Văn Hoàn Hƣớng dẫn viên du lịch 11/2014

tại VQG Ba Bể

8 TS. Nguyễn Xuân Giới Khoa Môi trƣờng - Trái 11/2014

đất, Đại học Khoa học

Thái Nguyên

110

111