LUẬN VĂN:
Nghiên cứu một số hệ thống canh tác ở vùng
đất ven sông Hồng thuộc địa bàn Thành phố Hà nội và định hướng phát triển bền vững
Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm gần đây, cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp Thành phố Hà nội nói
chung và các huyện ngoại thành nói riêng đã có thay đổi quan trọng và chuyển dần sang
sản xuất hàng hoá. Trong những năm qua, nhiều chương trình, dự án có liên quan đến sản
xuất nông nghiệp đã được triển khai ở các huyện ngoại thành, đặc biệt các huyện có vùng
đất ven sông Hồng như chương trình 773, khuyến nông, khuyến lâm…
Vùng đất ven sông Hồng trên địa bàn thành phố Hà nội là một trong những vùng
đất có lịch sử phát triển lâu đời, là cái nôi của nền văn minh lúa nước, là vùng đồng bằng
với địa hình tương đối bằng phẳng, đất đai màu mỡ, khí hậu đa dạng rất thuận lợi cho việc
phát triển các loại cây trồng nông nghiệp nuôi sống con người.
Thực trạng các hệ thống canh tác của Vùng đất ven sông Hồng còn manh mún,
chưa hình thành các vùng sản xuất với quy mô tập trung lớn với các loại cây chiến lược.
Việc hoàn thiện hệ thống canh tác chưa được đầu tư, chú trọng đúng mức, hiệu quả kinh tế
chưa cao.
Đại bộ phận người nông dân ở vùng đất này đều sống dựa vào nông nghiệp, mà thu
nhập từ sản xuất nông nghiệp lại không cao. Do đó đời sống của nhân dân còn gặp nhiều
khó khăn. Một trong những nguyên nhân dẫn đến thu nhập thấp của bà con nông dân vùng
đất ven sông Hồng trên địa bàn thành phố Hà nội là chưa tìm ra (hoặc chưa học hỏi được)
các hệ thống canh tác cây trồng có hiệu quả kinh tế cao để áp dụng vào sản xuất.
Hệ thống nông nghiệp là một hệ thống kết hợp đan xen giữa các nhóm quy luật: quy
luật sinh học, quy luật kinh tế - xã hội. Giữa các nhóm có vai trò quyết định như nhau, vì
vậy nghiên cứu phát triển hệ thống canh tác nói riêng và hệ thống nông nghiệp nói chung
cần có sự tham gia của một nhóm cán bộ liên ngành, ở từng ngành giải quyết các tồn tại
của mình theo quan điểm tiếp cận hệ thống. Hệ thống canh tác cây trồng được coi là hợp
phần quan trọng nhất của hệ thống nông nghiệp ở các vùng sinh thái. Bố trí hệ thống cây
trồng thích hợp trong một khu vực hay một đơn vị sản xuất nông nghiệp ở mỗi vùng sinh
thái là nhằm khai thác tốt nhất, hiệu quả nhất các nguồn lực tự nhiên, kinh tế - xã hội của
các vùng sinh thái, tạo cho hệ thống một sức sản xuất cao, bền vững và bảo vệ môi trường.
Phát triển hệ thống nông nghiệp là một giải pháp tốt nhất cho việc giải quyết các
vấn đề kinh tế - xã hội, phát triển sản xuất một cách lâu dài, ổn định, phù hợp với nền nông
nghiệp nước ta.
Từ những cơ sở lý luận khoa học và thực tiễn sản xuất đang diễn ra ở vùng đất ven
sông Hồng, việc nghiên cứu hệ thống canh tác để từ đó xác định hệ thống cây trồng thích
hợp là một đòi hỏi cấp bách, có cơ sở khoa học để phát triển nông nghiệp bền vững và bảo
vệ môi trường. Do đó trên cơ sở tổng kết, đưa ra hệ thống cây trồng thích hợp cho từng
vùng sinh thái để sử dụng tốt nhất nguồn nhiệt, nguồn nước, đất đai, lao động…và bảo vệ
môi trường, tránh được tối đa những điều kiện bất lợi xảy ra là hết sức cần thiết. Từ những
nghiên cứu hệ thống canh tác và bài học được rút ra tác giả hình thành luận án mang tên:
“Nghiên cứu một số hệ thống canh tác ở vùng đất ven sông Hồng thuộc địa bàn
Thành phố Hà nội và định hướng phát triển bền vững”.
Đề tài nghiên cứu một số hệ thống canh tác có hiệu quả nhằm khuyến cáo cho bà
con nông dân vùng Đồng bằng sông Hồng nói chung và nông dân vùng ven sông Hồng
thuộc địa bàn thành phố Hà nội nói riêng nhân rộng các hệ thống canh tác có hiệu quả đó
ra địa bàn, góp phần nâng cao thu nhập, xoá đói giảm nghèo tiến tới làm giầu cho người
dân, giải quyết một phần tính bức xúc của vấn đề nêu ra ở trên .
2. ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ đóng góp cơ sở khoa học trong việc xác định hệ
thống canh tác chính trên vùng đất ven sông Hồng trên quan điểm nghiên cứu hệ thống,
quan điểm sinh thái, quan điểm về hiệu quả kinh tế xã hội và hướng tới sự phát triển bền
vững.
ý nghĩa thực tiễn của đề tài là đề xuất một số hệ thống canh tác thích hợp trên vùng
đất vừa đem lại hiệu quả kinh tế cao theo hướng sản xuất hàng hoá, vừa phù hợp với điều
kiện kinh tế - xã hội của vùng, giúp cho người sản xuất đạt hiệu quả kinh tế cao trên một
đơn vị diện tích, nâng cao đời sống cho người dân trong huyện.
Hệ thống canh tác thích hợp còn có ý nghĩa trong việc bảo vệ môi trường, sử dụng
quỹ đất hiện có một cách hợp lý, phát huy cao nhất tiềm năng và lợi thế về đất đai, khí hậu,
… trên cơ sở phù hợp với môi trường sinh thái.
Những giải pháp và đề xuất góp phần phát triển hệ thống canh tác không chỉ đúng
với vùng ven sông Hồng mà còn có ý nghĩa cho những địa phương khác có các điều kiện
tương tự.
3. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Nghiên cứu đánh giá thực trạng sản xuất, thị trường tiêu thụ, hiệu quả kinh tế và
môi trường của một số hệ thống canh tác cây ăn quả có hiệu quả hiện có trong vùng đồng
bằng sông Hồng.
Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội ảnh hưởng đến sự phát triển hệ thống canh tác
cây ăn quả vùng Đồng bằng sông Hồng.
Nghiên cứu mô tả chi tiết một số hệ thống canh tác cây ăn quả trong vùng với các
nội dung:
+ Thực trạng sản xuất
+ Đặc điểm về giống, sự sinh trưởng và phát triển
+ Tình hình chăm sóc, bón phân
+ Chất lượng sản phẩm
+ Hiệu quả kinh tế và môi trường
+ Thị trường tiêu thụ
+ Tiềm năng phát triển sản xuất
+ Định hướng sản xuất theo hướng phát triển bền vững
Nghiên cứu đề xuất một số định hướng và những giải pháp chủ yếu nhằm phát triển
các hệ thống canh tác thích hợp trên quan điểm sinh thái và phát triển bền vững nhằm tăng
hiệu quả sử dụng đất, bảo đảm an toàn lương thực, giải quyết thực phẩm, tăng các loại cây
trồng có giá trị hàng hoá cao, tăng thu nhập, nâng cao đời sống cho nông dân vùng đất ven
sông Hồng.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài tập trung vào các hệ thống canh tác cây ăn quả do hộ
nông dân thực hiện, trên cơ sở phát triển kinh tế hộ tăng thu nhập cho nông dân.
Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu là vùng đất ven sông Hồng thuộc địa bàn thành phố Hà nội.
Ch¬ng 1: Tổng quan tài liệu và cơ sở khoa học của đề tài
1.1. Cơ sở khoa học của đề tài
1.1.1. Phương pháp tiếp cận trong nghiên cứu
Khi nghiên cứu một hệ thống, điều quan tâm đầu tiên là tìm hiểu mục tiêu của hệ
thống cần đạt được là gì ? và hệ thống đang hoạt động để đạt tới mục tiêu gì.
Triết học duy vật biện chứng đã chỉ ra rằng, để nghiên cứu một hiện tượng tự nhiên
hoặc xã hội ta phải xem xét nó trong mối quan hệ với các hiện tượng khác vì mọi hiện
tượng đều có mối quan hệ hữu cơ với nhau. Mặt khác mỗi hiện tượng đều luôn luôn nằm
trong trạng thái biến đổi và phát triển mà nguồn lực và động lực chủ yếu của hiện tượng đó
nằm trong bản thân sự vật, vì vậy việc nghiên cứu một sự vật phải xem xét lý thuyết hệ
thống là nền tảng của phương pháp luận (Phạm Chí Thành, 1996) [32].
Lý thuyết hệ thống được ứng dụng ngày càng rộng rãi trong nhiều ngành khoa học
giúp cho sự hiểu biết và giải thích các mối quan hệ tương hỗ. Cơ sở lý thuyết hệ thống
được L. Vonbertanlanfy đề xướng vào đầu thế kỷ này đã được sử dụng như một cơ sở giải
quyết các vấn đề phức tạp và tổng hợp. Trong thời gian gần đây, quan điểm này rất phát
triển trong sinh học cũng như trong nông nghiệp.
Hệ thống là một tổng thể có trật tự của các yếu tố khác nhau có quan hệ và tác động
qua lại. Một hệ thống có thể được xác định như một tập hợp các đối tượng hoặc các thuộc
tính, được liên kết bằng nhiều mối tương tác.
Quan điểm hệ thống là sự khám phá đặc điểm của hệ thống đối tượng bằng cách
nghiên cứu bản chất và đặc tính của các mối tác động qua lại giữa các yếu tố (Phạm Chí
Thành, 1996) [32] .
Hệ thống là một tập hợp các phần tử có quan hệ với nhau tạo nên một chỉnh thể
thống nhất và vận động, nhờ đó xuất hiện những thuộc tính mới được gọi là “tính trồi”. Hệ
thống không phải là một phép cộng đơn giản các yếu tố, các đối tượng, chúng có tác động
qua lại lẫn nhau và có mối quan hệ ràng buộc chặt chẽ với nhau.
Ngoài những yếu tố bên trong của hệ thống, các yếu tố bên ngoài của hệ thống
không nằm trong hệ thống, nhưng có tác động tương tác với hệ thống gọi là yếu tố môi
trường. Những yếu tố môi trường tác động nên hệ thống là yếu tố “đầu vào”, còn những
yếu tố môi trường chịu sự tác động trở lại của hệ thống là các yếu tố “đầu ra”. Phép biến
đổi của hệ thống là khả năng thực tế khách quan của hệ thống trong việc biến đổi “đầu
vào” thành “đầu ra”. Trạng thái của hệ thống là khả năng kết hợp giữa các “đầu ra” và các
“đầu vào” của hệ thống ở một thời điểm nhất định. Độ đa dạng của hệ thống là mức độ
khác nhau giữa các trạng thái hoặc giữa các phần tử của hệ thống. Mục tiêu của hệ thống là
trạng thái mà hệ thống mong muốn và cần đạt tới. Hành vi của hệ thống là tập hợp các
“đầu ra” của hệ thống có thể được trên cơ sở các giải pháp thích hợp, đem lại hiệu quả cao
cho cả hệ thống. Cấu trúc của hệ thống là hình thức cấu tạo bên trong của hệ thống, bao
gồm sự sắp xếp vị trí giữa các phần tử cùng các mối quan hệ giữa chúng (Phạm Chí
Thành, 1996) [32].
1.1.2. Những yếu tố chi phối hệ thống canh tác
Lịch sử phát triển của nông nghiệp gắn liền với lịch sử hình thành, phát triển và
hoàn thiện hệ thống cây trồng cho từng vùng khí hậu nông nghiệp và thổ nhưỡng đặc thù.
Hệ thống canh tác là một trong những nội dung quan trọng của hệ thống nông
nghiệp. Bố trí hệ thống canh tác hợp lý có ý nghĩa làm tăng sản lượng sản phẩm trên một
đơn vị diện tích và bảo vệ độ phì nhiêu của đất.
Trong quá trình nghiên cứu hệ thống canh tác cần chú ý đến mối quan hệ giữa cây
trồng và khí hậu, đất đai, phương thức canh tác và quần thể sinh vật. Sự thay đổi hệ thống
cây trồng trong hệ canh tác có ý nghĩa rất lớn trong việc tăng sản lượng lương thực, thực
phẩm và nâng cao độ phì nhiêu, bảo vệ đất.
Việc phân tích hệ thống canh tác truyền thống là cơ sở cho việc chuyển đổi cơ cấu
ngành trồng trọt. Bởi vì chỉ có từ các kết quả đánh giá phân tích các đặc điểm của cây
trồng tại khu vực nghiên cứu thì mới tìm ra các hạn chế và lợi thế so sánh để đề xuất các
cơ cấu cây trồng hợp lý.
Trong các tiêu chuẩn đánh giá điều kiện tự nhiên của vùng đã có rất nhiều tác giả
đưa vào các điều kiện sinh thái để phân tích và đưa ra các hệ thống cây trồng khác nhau
cho các hệ thống canh tác.
Nghiên cứu các tài liệu liên quan về phương pháp nghiên cứu xác định hệ thống cây
trồng hợp lý cho hệ thống canh tác, các tác giả đề cập đến các yếu tố cơ bản sau đây:
- Khí hậu
- Đất đai
- Giống cây trồng
- Loại cây trồng
- Điều kiện kinh tế - xã hội
- Thị trường
- Môi trường và sự phát triển bền vững
1.1.2.1. Điều kiện khí hậu
Khi nghiên cứu hệ thống canh tác cần chú ý đến các yếu tố khí hậu vì cây trồng là
yếu tố quan trọng của hệ thống canh tác, mà cây trồng là sinh vật sống phụ thuộc vào điều
kiện tự nhiên, đặc biệt là điều kiện khí hậu. Khí hậu cung cấp năng lượng chủ yếu cho quá
trình tạo thành chất hữu cơ, tạo năng suất cây trồng. Cơ cấu cây trồng tận dụng cao nhất
điều kiện khí hậu sẽ cho tổng sản phẩm cao nhất và kinh tế nhất. Vì vậy có thể nói khí hậu
là yếu tố quan trọng nhất trong việc nghiên cứu hệ thống canh tác. Nghiên cứu hệ thống
canh tác là phải làm sao chống chịu được các hiện tượng như bão, lụt, úng, hạn…
1.1.2.2. Điều kiện về đất đai
Đất đai là một thành phần quan trọng trong hệ thống sinh thái nói chung và sinh thái
nông nghiệp nói riêng. Đất là nền tựa cho cây trồng tồn tại và sinh trưởng, trong đó mọi
hoạt động trao đổi dinh dưỡng và nước của cây trồng phần lớn được thực hiện từ đất. Mặt
khác mỗi loại cây trồng đều có đặc điểm là thích hợp với chỉ một hoặc vài loại đất có địa
hình và tính chất lý hoá nhất định, trong điều kiện khí hậu vùng không có sai khác lớn, thì
tính chất đặc điểm đất đai cùng chế độ nước có vai trò quyết định sự sai khác của hệ thống
canh tác (Hoàng Văn Đức, 1980) [12], (Đỗ Văn Hoà, 1996) [20].
Bản đồ đất Việt Nam tỷ lệ 1/ 1.000.000 đã phân biệt có 14 nhóm và 31 loại đất.
ở nước ta trước đây, vùng Đồng Bằng Sông Hồng vẫn thường trồng một năm hai vụ
lúa: Vụ lúa chiêm (từ tháng 12 đến tháng 5) và vụ lúa mùa với các giống cảm quang mạnh
(từ tháng 7 đến tháng 11) ở những chân ruộng có nước quanh năm. Với những thành tựu
của cuộc cách mạng xanh chúng ta đã thay vụ lúa chiêm (12 - 5) bằng vụ lúa xuân (2 - 6),
thay vụ lúa mùa với các giống lúa cảm quang mạnh (7 - 11) bằng vụ lúa mùa sớm với các
giống lúa phản ứng nhiệt độ (7 - 10) và đưa thêm một vụ đông với các cây như cà chua, su
hào, bắp cải, khoai tây… vào cơ cấu cây trồng (Phùng Văn Chinh, Lý Nhạc, 1987) [2].
Do đó cơ cấu cây trồng vùng Đồng Bằng Sông Hồng trong những năm 60 - 70 đã
có sự chuyển đổi, góp phần làm tăng sản lượng lương thực và sản phẩm trên một hecta đất
canh tác.
Trên đất hai vụ lúa chủ động nước đã thay hệ thống cây trồng lúa chiêm - lúa mùa
bằng hệ thống cây trồng lúa xuân - lúa mùa sớm - vụ đông.
Trên đất một vụ lúa - một vụ màu đã thay hệ thống cây trồng lúa mùa - mùa đông
xuân (ngô, khoai lang, thuốc lá, lạc…) bằng hệ thống cây trồng lúa mùa - cây vụ đông -
màu vụ xuân.
1.1.2.3. Điều kiện về giống cây trồng
Nước ta nằm trong vùng nhiệt đới do đó cây trồng đa dạng và phong phú. Các loại
cây trồng lương thực chủ yếu có lúa, ngô, khoai, sắn…Các loại cây ăn quả có chuối, cam,
quýt, vải, nhãn, xoài, dứa…Các loại rau thực phẩm có cải bắp, xu hào, cà chua…Các loại
cây công nghiệp lâu năm có cao su, chè, cà phê, điều, tiêu…
Xu thế thâm canh, tăng vụ đòi hỏi có những giống cây trồng vừa có khả năng chịu
được thâm canh để cho năng suất cao, vừa có thời gian sinh trưởng ngắn để đáp ứng cho
các cơ cấu gieo trồng đã được xác lập. Trên những vùng sinh thái có điều kiện địa hình và
đất đai khó khăn đòi hỏi các giống cây trồng phải có đặc điểm thích ứng và chống chịu với
các điều kiện đặc thù đó.
Muốn như vậy các giống cây trồng mới phải trải qua các bước khảo nghiệm cơ bản
theo từng thời vụ gieo trồng để kiểm tra, đánh giá về năng suất, tính chống chịu với sâu
bệnh và khu vực hoá để xác định tính thích hợp trong các điều kiện sinh thái khác nhau
trước khi được công nhận để sử dụng trong công thức luân canh cụ thể (Đào Trọng Hải,
1997) [18].
1.1.2.4. Loại cây trồng
Cây trồng là thành phần chủ yếu của hệ thống canh tác. Nghiên cứu hệ thống canh
tác là bố trí hệ thống cây trồng như thế nào để lợi dụng tốt nhất các điều kiện khí hậu và
đất đai. Muốn bố trí hệ thống canh tác thích hợp, chúng ta cần nắm vững yêu cầu các loại
và giống cây trồng đối với các kiểu khí hậu, đất đai và khả năng của chúng sử dụng điều
kiện ấy (Nguyễn Vy, 1982) [49].
Khác với khí hậu và đất đai là các yếu tố mà con người ít có khả năng thay đổi đối
với cây trồng, con người có thể lựa chọn và di thực chúng và với trình độ hiểu biết sinh
học hiện đại, con người có khả năng thay đổi bản chất của chúng theo hướng mà mình
mong muốn.
1.1.2.5. Điều kiện kinh tế - xã hội
Nhìn chung trình độ dân trí và tập quán sản xuất của người dân có ảnh đến việc xác
định hệ thống canh tác trong vùng. Đồng bào dân tộc thiểu số vốn trình độ dân trí thấp lại
có tập quán canh tác lạc hậu chủ yếu là tự cấp, tự túc, họ quen với hệ canh tác nương rẫy,
chọc lỗ, bỏ hạt, không chú trọng đến thâm canh cây trồng và sản xuất hàng hoá. Bởi vậy,
xác định hệ thống canh tác cho cộng đồng dân cư này phải tính tới khả năng thực tế và
trong tương lai phải trên khả năng của họ một bước, đồng thời phù hợp với tập quán sản
xuất của họ
Đối với đồng bào Kinh, việc lựa chọn hệ thống canh tác có chiều hướng thuận lợi
và đa dạng hơn vì họ đã có trình độ canh tác cao hơn, có khả năng áp dụng những tiến bộ
kỹ thuật vào sản xuất để đạt được hiệu quả kinh tế cao hơn. Hệ thống canh tác đối với
nhóm người này theo hướng thâm canh cao đòi hỏi trình độ kỹ thuật tiên tiến và không
những tự cung tự cấp đủ lương thực, thực phẩm mà còn sản xuất ra những nông sản có tính
chất hàng hoá.
Cơ sở hạ tầng cũng liên quan đến việc xác định hệ thống canh tác. Nơi có cơ sở hạ
tầng phát triển (đường giao thông, thuỷ lợi,…) thì bố trí hệ thống canh tác có tính đến việc
thuận cho việc chăm sóc, thâm canh, thu hoạch sản phẩm và vận chuyển đến cơ sở chế
biến hoặc thị trường tiêu thụ…
1.1.2.6. Điều kiện thị trường
Nhu cầu thị trường và định hướng kinh tế - xã hội trong từng thời kỳ cũng cần được
xem xét kỹ khi xác định hệ thống canh tác. Nhu cầu thị trường sẽ là một trong những yếu
tố quyết định cho hộ gia đình dự tính canh tác gì, số lượng bao nhiêu, vào thời điểm nào để
đem lại hiệu quả cao nhất về mặt kinh tế và yếu tố này trở nên quan trọng khi sản xuất
hàng hoá trong nông nghiệp phát triển. Do vậy, xác định hệ thống canh tác phải phù hợp
với quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội của từng vùng. (Đào Trọng Hải, 1997) [18].
1.1.2.7. Điều kiện môi trường
Hệ sinh thái nông nghiệp nói chung và hệ sinh thái đồng ruộng nói riêng là một
trong những hợp phần chủ yếu của toàn bộ hệ sinh thái môi trường. Việc xác định hệ thống
canh tác mục đích không những thu được hiệu quả kinh tế cao nhất, hiệu quả về mặt xã hội
mà còn phải tính đến hiệu quả về mặt môi trường.
Tác động trở lại của hệ thống canh tác đó đối với môi trường xung quanh là tích cực
hay tiêu cực để đảm bảo cho việc phát triển bền vững. Vì vậy hệ thống canh tác được xác
định phải có tác động bảo vệ môi trường ở các khía cạnh sau:
- Bảo vệ và nâng cao độ phì nhiêu của đất.
- Giảm được xói mòn đất như việc sử dụng hệ thống canh tác nông lâm kết hợp.
- Sử dụng tiết kiệm các loại phân vô cơ và thuốc trừ sâu, trừ cỏ dại…
ở các tỉnh vùng cao và miền núi, hệ thống nông nghiệp cổ truyền là hệ thống mang
nhiều tính chất địa phương, bao gồm các tập quán canh tác của các dân tộc đã sống lâu đời
ở địa phương mà điển hình nhất là hệ thống nương rẫy du canh đã bộc lộ nhiều mặt hạn
chế như khai thác cạn kiệt các nguồn tài nguyên sẵn có của đất, không trả lại độ phì nhiêu
cho đất, gây ảnh hưởng xấu tới môi trường xung quanh. Mặt khác khi sản xuất hàng hoá
trong nông nghiệp phát triển, do nhu cầu thị trường người nông dân tập trung mọi nguồn
lực để bóc lột đất, bắt đầu sản xuất ra nhiều nhất sản phẩm nông nghiệp để đáp ứng nhu
cầu thị trường, và họ không còn để ý đến bảo vệ môi trường, làm cho môi trường xung
quanh ngày càng bị suy giảm theo chiều hướng xấu đi. Do đó việc xác định hệ thống canh
tác cần quan tâm đến cả hai khía cạnh: vừa đảm bảo được lợi ích kinh tế của người sản
xuất, vừa bảo vệ được môi trường cũng như sự cân bằng của hệ sinh thái tự nhiên.
Các hệ sinh thái tự nhiên luôn có sự cân bằng về năng lượng và vật chất. Thông
thường người ta phá các quần thể tự nhiên và thay thế bằng các quần thể nhân tạo, thì sự
cần bằng vốn có của nó bị phá vỡ và phải tạo lại bằng các biện pháp kỹ thuật. Muốn đạt
được hệ sinh thái nhân tạo có hiệu quả cao cần thiết phải nghiên cứu quy luật của hệ sinh
thái tự nhiên ở cùng điều kiện.
Mặt khác con người phải nghiên cứu cấu trúc của hệ sinh thái nhân tạo cho phù
hợp, trong vòng tròn đó là giải quyết mối quan hệ giữa cây trồng với hệ sinh thái đồng
ruộng, giữa hệ sinh thái đồng ruộng với môi trường xung quanh. Hệ sinh thái đồng ruộng
là tập hợp có trật tự bên trong hay bên ngoài của các yếu tố có liên quan đến nhau (hay tác
động lẫn nhau). Thành phần của hệ sinh thái đồng ruộng là các yếu tố, đó là phần không
biến đổi của hệ sinh thái, giữa các yếu tố có mối tác động qua lại với nhau, các mối quan
hệ và tác động giữa các yếu tố bên trong mạnh hơn so với các yếu tố bên ngoài hệ sinh
thái, tạo nên trật tự của hệ sinh thái (Đào Trọng Hải, 1997) [18].
1.1.3. Các lý luận về hệ thống canh tác
Nhiều tác giả khi nghiên cứu về hệ thống canh tác đã đưa ra những ý kiến khác
nhau:
ở Mỹ một số nhà nghiên cứu cho rằng hệ thống canh tác hay hệ thống nông trại, hệ
thống nông nghiệp (Farming Systems) là sự bố trí một cách thống nhất và ổn định các
ngành nghề trong nông trại, được quản lý bởi hộ gia đình trong môi trường tự nhiên, sinh
học và kinh tế - xã hội, phù hợp với mục tiêu, mong muốn và nguồn lực của nông
hộ…[63]. Do đấy khái niệm hệ thống nông trại (Farming Systems) gần giống với khái
niệm hệ thống sản xuất (Production Systems) coi nông trại như một phối hợp của các hệ
thống trồng trọt, đồng cỏ, chăn nuôi, quản lý tài chính (Chombart de Lauwe, 1963. Dẫn
theo Phạm Chí Thành và Trần Văn Diễn …[32].
Các tác giả ở Viện lúa Quốc tế thì cho rằng hệ thống canh tác là tập hợp các đơn vị
chức năng riêng biệt của các hoạt động trồng trọt, chăn nuôi và tiếp thị. Các đơn vị đó có
mối quan hệ qua lại với nhau vì cùng dùng chung nguồn nhân lực từ môi trường. Khái
niệm này thường được dùng với những giới hạn vượt khỏi ranh giới cụ thể của từng nông
trại, để nói lên những đơn vị nông trại có hình thức tương tự. (IRRI, 1980. Dẫn theo Phạm
Chí Thành và công sự [34].
Cũng có tác giả cho rằng hệ thống canh tác là hình thức tập hợp của một tổ hợp đặc
thù các tài nguyên trong nông trại ở một môi trường nhất định, là những phương pháp
công nghệ sản xuất ra những sản phẩm nông nghiệp sơ cấp. Định nghĩa này không bao
gồm hoạt động chế biến, vốn thường vượt quá hình thức phổ biến của nông trại, thường
chỉ sản xuất ra các sản phẩm trồng trọt và chăn nuôi. Nhưng nó bao gồm những nguồn lực
của nông trại được sử dụng cho việc tiếp thị những sản phẩm đó (IRRI, 1989. Dẫn theo
Phạm Chí Thành và cộng sự [34].
Theo Nguyễn Văn Luật: Hệ thống canh tác là tổ hợp cây trồng bố trí theo không
gian và thời gian với biện pháp kỹ thuật được thực hiện nhằm đạt năng suất cây trồng cao
và nâng cao độ phì của đất đai [24].
Các cách hiểu trên của các tác giả cho chúng ta nhận thức chung nhất về khái niệm
hệ thống canh tác, đó là một hệ thống được giới hạn trong một nông trại, mà chứa đựng
trong nó là các hệ phụ: trồng trọt, chăn nuôi, chế biến, tiếp thị, quản lý kinh tế được bố trí
một cách có hệ thống và tương đối ổn định, phù hợp với mục tiêu của từng nông trại.
Theo Nguyễn Duy Tính [40] cho rằng, hệ thống trồng trọt là hệ phụ trung tâm của
hệ thống Nông nghiệp, cấu trúc của nó quyết định sự hoạt động của các hệ phụ khác như
chăn nuôi, chế biến, ngành nghề… Với khái niệm về hệ thống canh tác như đã nêu ở phần
trên thì hệ thống trồng trọt là bộ phận chủ yếu của hệ thống canh tác.
Nói đến trồng trọt nghĩa là nói đến cây trồng. Cây trồng được trồng với các mục
đích khác và ngược lại với mục đích khác nhau người ta sẽ trồng các loại cây trồng khác
nhau. Như vậy cây trồng nông nghiệp có nhiều chức năng khác nhau: có thể là cây cung
cấp lương thực, thực phẩm có thể chỉ làm chức năng bảo vệ cho con người, gia súc hoặc
cây trồng khác, hoặc cũng có thể chỉ là phục vụ giải trí, cải tạo đất… Nhìn chung cây trồng
nông nghiệp hiện nay vẫn chủ yếu phục vụ cho mục tiêu lương thực, thực phẩm trực tiếp
phục vụ cho con người, cho phát triển chăn nuôi và làm nguyên liệu cho các ngành Công
nghiệp chế biến.
Nghiên cứu hệ thống canh tác nói chung và nghiên cứu hệ thống trồng trọt nói riêng
cho đến nay vẫn được coi là rất phức tạp vì nó liên quan và có mối quan hệ chặt chẽ tới
nhiều nguồn tài nguyên (đất, khí hậu…) và các lĩnh vực khác như sâu bệnh, trình độ người
lao động, vấn đề đầu tư, tác động qua lại của hệ thống cây trồng [58]. Tuy nhiên tất cả các
vấn đề nghiên cứu trên đều nhằm mục đích sử dụng hợp lý và có hiệu quả tài nguyên đất,
tài nguyên khí hậu nhằm nâng cao năng suất cây trồng.
Tương tự như vậy cũng có nhiều cách hiểu khác nhau về hệ thống trồng trọt.
Zandstra [65]; Dufumier [16] cho rằng: Hệ thống trồng trọt (Cropping Systems) là hoạt
động sản xuất của cây trồng trong nông trại nó bao gồm tất cả các hợp phần cần thiết để
sản xuất một tổ hợp của các cây trồng nông trại và mối quan hệ của chúng với môi trường.
Các hợp phần này bao gồm cả các yếu tố tự nhiên, sinh học cần thiết cũng như kỹ thuật,
lao động và các yếu tố quản lý.
Đào Thế Tuấn [43], [45] cho rằng: Cơ cấu cây trồng là “thành phần các giống và
loài cây được bố trí theo không gian và thời gian trong một hệ sinh thái nông nghiệp, nhằm
tận dụng hợp lý nhất nguồn tự nhiên, kinh tế, xã hội của nó”. Ông cũng cho rằng bố trí cây
trồng hợp lý là biện pháp kỹ thuật tổng hợp, nhằm sắp xếp lại hoạt động của hệ sinh thái và
một cơ cấu cây trồng hợp lý, khi nó lợi dụng tốt nhất điều kiện khí hậu và né tránh thiên
tai, lợi dụng đặc tính sinh học của cây trồng, tránh sâu bệnh và cỏ dại, đảm bảo sản lượng
cao và tỷ lệ hàng hoá lớn, đảm bảo tốt chăn nuôi và ngành kinh tế hỗ trợ, sử dụng hợp lý
lao động và vật tư.
Từ các khái niệm trên cho thấy: Hệ thống trồng trọt là một thể thống nhất trong mối
quan hệ tương tác giữa các loại cây trồng được bố trí hợp lý trong không gian và thời gian,
tức là mối quan hệ giữa các loại cây trồng, giống cây trồng trong từng vụ và giữa các vụ
khác nhau trên một mảnh đất. Vì vậy đối tượng nghiên cứu của hệ thống trồng trọt là:
- Công thức luân canh và hình thức đa canh
- Cơ cấu cây trồng, giống cây trồng trong từng mùa vụ nhất định
- Kỹ thuật canh tác cho hệ thống trồng trọt đó
Tuy nhiên mỗi hệ thống trồng trọt lại có quan hệ hữu cơ với môi trường bên ngoài
gồm các điều kiện tự nhiên, điều kiện kinh tế - xã hội, trình độ canh tác, quản lý của người
lao động và như vậy với những môi trường khác nhau sẽ quyết định sự tồn tại của hệ thống
cây trồng khác nhau.
Theo Nguyễn Duy Tính [40]. Nghiên cứu hệ thống cây trồng trong một hệ thống
nông nghiệp nhằm bố trí lại hoặc chuyển đổi chúng để tăng hệ số sử dụng ruộng đất, sử
dụng có hiệu quả tiềm năng đất đai, và lợi thế so sánh của từng vùng sinh thái nông nghiệp
cũng như sử dụng có hiệu quả tiền vốn, cơ sở vật chất kỹ thuật và lao động, nhằm thu được
lợi nhuận cao trên một đơn vị diện tích đất canh tác.
Nội dung chủ yếu trong nghiên cứu phát triển hệ thống cây trồng là mở rộng diện
tích canh tác trên cơ sở khai thác những vùng sinh thái không thuận lợi bằng những hệ
thống cây trồng thích ứng với các điều kiện bất thuận (hạn hán, úng lụt…). Tăng vụ ở các
vùng thuận lợi và tương đối thuận lợi nếu xét thấy hệ số quay vòng của đất còn thấp. Thâm
canh trên những vùng sinh thái có hệ số sử dụng đất cao.
Như vậy nghiên cứu phát triển hệ thống canh tác tức là nghiên cứu để bố trí lại hoặc
chuyển đổi hệ thống cây trồng thích ứng với các điều kiện đất đai, khí hậu, nguồn nước,
lao động, tiền vốn…Cùng với quá trình chuyển đổi hệ thống cây trồng cần có những giải
pháp kinh tế - kỹ thuật và quản lý cho toàn bộ hệ thống phù hợp với mỗi vùng sinh thái
[12], [34].
1.1.4. Hình thành nền nông nghiệp phát triển bền vững
Để duy trì sự sống con người hiện nay phải giải quyết những vấn đề hết sức phức
tạp và khó khăn đó là: bùng nổ dân số, ô nhiễm môi trường, mất cân bằng sinh thái. Nhiều
nước trên thế giới đã xây dựng và phát triển nền nông nghiệp theo quan điểm nông nghiệp
bền vững (Permalculture hoặc Sustainable Agriculture).
Các nhà khoa học đã nêu lên những nguyên tắc chính trong việc xây dựng hệ thống
nông nghiệp bền vững:
- Mỗi yếu tố thực hiện nhiều chức năng
- Mỗi chức năng quan trọng được nhiều yếu tố hỗ trợ
- ưu tiên sử dụng tài nguyên sinh học
- Tái chu kỳ năng lượng tại chỗ
- Đa canh và đa dạng hoá các loài cây có lợi để tăng sản lượng và tăng mức độ tương
tác trong hệ thống
- Tìm cách sử dụng không gian và mô hình tự nhiên có lợi nhất
Năm 1993 uỷ ban thế giới về môi trường và phát triển (WCED) của Liên hợp quốc
đã đưa ra khái niệm của sự bền vững là sự đáp ứng được các nhu cầu hiện nay của con
người nhưng không làm tổn hại đến nhu cầu riêng của thế hệ tương lai.
Nhóm cố vấn nghiên cứu nông nghiệp Quốc tế (CGIAR - 1989) định nghĩa nông
nghiệp bền vững là quản lý thành công các nguồn tài nguyên đối với nông nghiệp để đảm
bảo thoả mãn các nhu cầu thay đổi của con người nhưng vẫn duy trì là tăng cường chất
lượng của môi trường (Lê Đình Thắng, 1993) [37].
Mục đích của các hệ thống canh tác là phải đạt được các yêu cầu về hiệu quả kinh
tế, sự ổn định về xã hội và sự bền vững về mặt môi trường. Hiệu quả kinh tế cao bao giờ
cũng là động lực phát triển sản xuất, nhất là trong điều kiện nền kinh tế thị trường như ở
nước ta hiện nay, đây là một trong những cơ chế tự điều khiển các hoạt động sản xuất. Một
loại cây trồng hoặc vật nuôi có hiệu quả kinh tế cao, được thị trường đòi hỏi sẽ được phát
triển rộng rãi, không cần có các khuyến cáo hoặc các chỉ thị phải phát triển như trước đây.
Tuy nhiên nếu chỉ theo hiệu quả kinh tế cao nhất mà không chú ý đến các điều kiện rằng
buộc khác như điều kiện tự nhiên và đất đai, tình hình nhân lực và vốn đầu tư, các tiến bộ
khoa học và công nghệ sản xuất thì sẽ bị thất bại hoặc gây hậu quả xấu cho môi trường thì
cũng sẽ bị loại trừ . Do đó hiệu quả kinh tế của các hệ thống nông nghiệp nói chung, hệ
thống canh tác nói riêng phải được đặt trong các điều kiện kinh tế - xã hội cụ thể. Hiệu quả
kinh tế phải gắn liền với hiệu quả về xã hội và môi trường thì sản xuất mới bền vững, đó
mới là nền nông nghiệp bền vững.
Phát triển kinh tế và sản xuất nông nghiệp bền vững có quan hệ chặt chẽ, sản xuất
nông nghiệp bền vững được coi như một phần của quá trình phát triển, hỗ trợ và tăng
cường chất lượng đời sống của nhân dân và liên quan đến toàn bộ xã hội.
Như vậy nông nghiệp bền vững là tiền đề cho sự định cư. Nếu không thiết lập được
hệ thống sản xuất nông nghiệp ổn định và vững vàng, tồn tại lâu dài, đáp ứng được các nhu
cầu của nông dân về thức ăn, ở, mặc, vật liệu xây dựng và hệ sinh thái tốt thì người nông
dân phải bỏ đi nơi khác. Điều này có ý nghĩa đặc biệt trong việc nghiên cứu xây dựng các
mô hình sản xuất nông nghiệp ở vùng cao và miền núi để có thể ổn định được đời sống cho
đồng bào dân tộc và xoá bỏ tình trạng du canh, du cư. Một trong những giải pháp cho sự
phát triển bền vững là cần quan tâm đến việc quản lý và sử dụng đất nông nghiệp lâu bền.
Việc quản lý sử dụng đất nông nghiệp lâu bền bao hàm các quy trình công nghệ, chính
sách và các hoạt động nhằm hội nhập những nguyên lý kinh tế, xã hội với các yêu cầu bảo
vệ môi trường.
1.2. Tình hình nghiên cứu trong và ngoài nước có liên quan đến đề tài
1.2.1. Tình hình nghiên cứu trên thế giới
Trên thế giới các nhà khoa học nông nghiệp đã và đang tập trung mọi nỗ lực nghiên
cứu cải tiến hoàn thiện hệ thống canh tác bằng cách đưa thêm một số loại cây trồng và hệ
thống canh tác nhằm tăng sản lượng lương thực, thực phẩm trên một đơn vị diện tích
trong một năm.
Trong lịch sử của chủ nghĩa tư bản, Anh là nước tiến hành công nghiệp hoá sớm
nhất. Khi đó người ta suy nghĩ một cách giản đơn rằng trong nền kinh tế hàng hoá, nông
nghiệp cũng phải xây dựng như công nghiệp theo hướng tập trung quy mô lớn mà quên
mất một đặc điểm cơ bản của nông nghiệp khác với công nghiệp là nó tác động vào sinh
vật (cây trồng, vật nuôi) và điều đó không phù hợp với hình thức sản xuất tập trung quy
mô lớn.
Chính C. Mác lúc đầu cũng có những suy nghĩ sai lầm như vậy, nhưng về cuối đời
cũng chính C. Mác đã phải nhận định lại: Ngay ở nước Anh với nền Công nghiệp phát
triển, hình thức sản xuất Nông nghiệp có lợi nhất không phải là các xí nghiệp nông nghiệp
với quy mô lớn mà là các trang trại gia đình không dùng lao động làm thuê.
Theo nghiên cứu của FAO, [58] cho biết quá trình biến đổi của các hệ thống nông
nghiệp được bắt đầu từ khi con người biết khai thác thiên nhiên bằng các biện pháp canh
tác và được thực hiện vào khoảng thời đại đồ đá mới. Từ đó các ngành trồng trọt, chăn
nuôi đã phát triển lan ra khắp các lục địa nhằm giải quyết nhu cầu sống cơ bản của con
người. Hệ thống nông nghiệp đốt rẫy và du mục ở vùng tiểu á có từ cách đây 7000 năm, ở
lục địa Trung Hoa và Trung Mỹ từ 3000 - 4000 năm, sau đó lan ra Địa Trung Hải và các
lục địa khác (Dufumier [16], Đào Thế Tuấn [45]. Với hình thức này con người trồng trọt
hoa màu, ngũ cốc trong 2 - 3 năm, sau đó bỏ hoá cho rừng tái sinh từ 10 - 30 năm, đất được tái tạo lại độ phì, với phương thức canh tác này đủ nuôi sống 20 - 30 người/ km2
Hệ thống nông nghiệp luân canh có cày xới bắt đầu từ khi xã hội có khả năng sản
xuất ra các phương tiện làm đất, phá vỡ các thảm cỏ, đào bới gốc rễ cây rừng (Thời kỳ đồ
sắt). Thời gian này vòng canh tác ngắn: 2 - 4 năm trồng hoa màu lương thực, sau đó bỏ hoá
để cỏ mọc 10 - 15 năm (Dufumier [16], Shaner và cộng sự [63].
Hệ thống nông nghiệp dùng sức kéo, kết hợp giữa trồng trọt và chăn nuôi, trong đó
chăn nuôi giữ vai trò cung cấp thực phẩm và sức kéo đã làm tăng năng suất lao động lên
gấp 2 - 3 lần. Với hệ thống canh tác này đất được khai thác và phục hồi độ màu mỡ trở lại
nhờ được bón phân chuồng nên năng suất cây trồng đạt khá cao (Hải Đạt, [7].
Đan Mạch thực hiện hệ thống 6 khu: củ quả - ngũ cốc xuân - cây phân xanh - ngũ
cốc đông - khoai tây - để nghỉ mùa đông (Bùi Huy Đáp, 1996), [6].
Từ những năm 60, các nhà sinh lý thực vật đã phát hiện rằng: trong tự nhiên, không
có một cây nào có khả năng sử dụng toàn thể tài nguyên thiên nhiên ở một vùng, đặc biệt ở
vùng nhiệt đới. Do vậy hiện nay trên đất đang sản xuất nông nghiệp, ánh sáng, đất đai,
nguồn nước còn chưa được sử dụng đúng mức, còn nhiều khả năng tăng vụ, phát triển sản
xuất.
ở Châu á vào cuối thập kỷ 60, các nhà nghiên cứu Viện Lúa Quốc tế (IRRI) đã nhận
thức rằng giống lúa mới thấp cây, đứng lá tiềm năng sản lượng cao chỉ có thể giải quyết
vấn đề lương thực trong một phạm vi hạn chế. Do đó từ những năm đầu của thập kỷ 70 các
nhà khoa học của các nước châu á đã đi sâu nghiên cứu toàn bộ hệ thống cây trồng trên đất
lúa theo hướng lấy lúa làm nền, tăng cường phát triển các loại cây hoa màu trồng cạn. Các
chế độ trồng xen, trồng gối, trồng nối tiếp ngày càng được chú ý nghiên cứu. Theo hướng
này ở châu á đã hình thành “Mạng lưới hệ thống canh tác châu á”, một tổ chức hợp tác
nghiên cứu giữa Viện Nghiên Cứu Lúa Quốc Tế (IRRI) và nhiều quốc gia trong vùng.
Nhìn chung các nghiên cứu hệ thống cây trồng mới rất đa dạng phong phú và tập trung giải
quyết các vấn đề sau:
- Tăng vụ ngắn ngày để thu hoạch trước mùa mưa lũ.
- Thử nghiệm tăng vụ màu bằng các cây trồng mới, xen canh, luân canh tăng vụ.
- Xác định hiệu quả kinh tế của các công thức luân canh, tìm và khắc phục các yếu tố
hạn chế để phát triển công thức đạt hiệu quả cao.
Chương trình nghiên cứu nông nghiệp phối hợp toàn ấn Độ 1960 - 1972 lấy hệ thâm
canh tăng vụ chu kỳ một năm làm hướng chiến lược phát triển sản xuất nông nghiệp đã kết
luận: “Hệ canh tác dành ưu tiên cho cây lương thực, chu kỳ một năm hai vụ ngũ cốc (hai
vụ lúa nước, hoặc một vụ lúa và một vụ lúa mì), đưa thêm vào một vụ đậu đỗ và đáp ứng
được 3 mục tiêu: khai thác tối ưu tiềm năng của đất đai, ảnh hưởng tích cực đến độ phì
nhiêu của đất trồng và đảm bảo lợi ích của người nông dân” (Hoàng Văn Đức, 1992) [12].
ở Đài Loan để nâng cao hiệu quả sử dụng đất bằng bố trí hệ thống canh tác hợp lý,
người ta đã nghiên cứu đưa ra các giống cây trồng hoa màu chịu rợp trồng xen trong mía
(mía là cây công nghiệp chiếm diện tích lớn nhất ở Đài Loan), nghiên cứu cây hoa màu
chịu hạn trồng mùa khô để đưa vào trồng sau khi thu hoạch lúa mùa (IRRI, 1982) [61].
Kết quả nghiên cứu của các nhà Lâm học trên Thế giới khẳng định ở những vùng
đất nông nghiệp nếu có xây dựng các đai rừng chắn gió thì tốc độ gió giảm từ 30 - 50%
trong giới hạn 20H và độ ẩm không khí tăng lên từ 7 - 15%, do đấy làm tăng độ ẩm đất,
điều hoà được chế độ nhiệt theo hướng có lợi cho cây trồng (Phạm Chí Thành, [33]).
Nhiều chuyên gia phát triển nông thôn chủ trương xây dựng hệ thống Nông Lâm
Ngư kết hợp ở vùng trũng nhằm nâng cao hiệu quả của hệ thống canh tác và tính ổn định
của chúng. Rất nhiều nông dân Philippin đã trồng Chuối tiêu trên bờ ruộng Lúa - Cá và
Chuối đã cho họ một nguồn thu lớn. Ngoài Chuối một số cây ăn quả bản địa cũng được
khuyến khích phát triển như Chôm Chôm, Landzon, Soursop, Mít…(International Institute
of Rural Reconstruction), [62].
ở Trung Quốc, từ những năm 1980, ở khu vực phía Nam đã thí nghiệm xây dựng
nền nông nghiệp sinh thái. ở Xiaoliang, một vùng đồi của Quảng Đông bị sa mạc hoá, xói
mòn mạnh, nhiệt độ mặt đất cao, trước đây người ta trồng bạch đàn nhưng đều không
thành công. Cuối cùng đã chọn hệ thống canh tác theo hướng đa dạng hoá hệ thống cây
trồng và trồng nhiều tầng. Theo Triệu Quốc Kỳ (1994) [22] trên đất lúa 2 vụ thuộc vùng
núi phía Nam thường được canh tác 2 hoặc 3 vụ với hệ thống cây trồng là: Lúa - Lúa mì -
khoai tây (hoặc lạc - đậu tương - lúa mì). Trên đất lúa một vụ thuộc vùng cao nguyên (gồm
tỉnh Vân Nam, Quế Châu, Tứ Xuyên, Tây Tạng), thường được canh tác với hệ thống cây
trồng là lúa luân canh với cây trồng cạn (Triệu Quốc Kỳ, 1994) [22].
ở Thái Lan trong điều kiện thiếu nước, một hệ thống canh tác lúa xuân - lúa mùa ít
mang lại hiệu quả và chi phí tiền nước quá lớn, cộng thêm sự độc canh cây lúa làm ảnh
hưởng xấu đến chế độ đất. Bằng việc chuyển dịch cây lúa xuân sang cây đậu tương giá trị
tổng sản phẩm tăng lên đáng kể, diện tích tăng gấp rưỡi, hiệu quả kinh tế tăng gấp đôi, độ
phì đất được nâng lên rõ rệt. Đã mang lại một thành công lớn trong chuyển dịch cơ cấu cây
trồng ở Thái Lan (Tejwani, V.L - Chun K. Lai Indonesia 1992) [64]
Ví dụ: Tại Chiềng Mai (Bắc Thái Lan) trong những năm 1971 - 1976 đã thí nghiệm
6 công thức hệ thống cây trồng trong canh tác như sau:
- Lúa + lúa mì + ngô
- Lúa + cà chua + lạc
- Lúa + đậu + đậu tương
- Lúa + khoai lang + bắp cải
- Lúa + cà chua + đỗ xanh
- Lúa + lạc + bắp cải (hoặc ngô non)
Kết quả điều tra ở Chiềng Mai cho thấy hệ canh tác 2 vụ lúa + 1 vụ màu hoặc lúa
cạn là phổ biến nhất. Cây màu thường là đậu tương, thuốc lá, tỏi, hành, đậu đỗ, rau xanh.
Tỷ lệ trồng 3 vụ trong năm (lúa - màu - lúa cạn) còn ít.
ở Indonexia đã nghiên cứu mối quan hệ giữa khí hậu ở các vùng sinh thái khác nhau
và hệ canh tác hiện có cho thấy như sau:
- Tại tỉnh Bago có một mùa ướt liên tục, một khoảng đứt quãng ngắn thường ở giữa
tháng 6 và tháng 8, lúa thu hoạch suốt năm, đỉnh cao thu hoạch tháng 5, 6 trong mùa ướt,
lạc thu hoạch suốt năm, một đỉnh nhỏ ở tháng 6.
- Tại Banuma có mùa khô ngắn, mùa ướt dài. Hai đỉnh thu hoạch lúa khoảng (tháng
9, 10) chứng tỏ đa số nông dân trồng hai vụ lúa trên một diện tích. Ngô thu hoạch vào đỉnh
mùa mưa, đậu tương thu hoạch vào cuối mùa khô (tháng 10) hoặc vào cuối mùa mưa
(tháng 5), lạc thu hoạch quanh năm (Nguyễn Điền - Trần Đức, 1993), [10]; (Bùi Thị Xô,
1994) [50].
ở những khu vực đất bằng, nông dân châu á đã sử dụng nhiều hệ canh tác. Những
hệ thống này gồm các hệ thống cây trồng khác nhau (lúa, rau, khoai lang, ngô, đậu…) nói
chung hệ thống cây trồng luân canh giữa chế độ cây trồng nước và chế độ cây trồng cạn,
giữa cây lương thực và cây họ đậu, hệ thống luân canh giữa không gian và thời gian đã
được nhiều nhà nghiên cứu đề cập và kết luận có hiệu quả (Hoàng Văn Đức, 1992) [13];
(Triệu Quốc Kỳ, 1994) [22].
Vấn đề hiệu quả kinh tế của các công thức luân canh trên đất lúa cũng được nhiều
nhà khoa học quan tâm, đặc biệt ở ấn Độ và Pakistang. Nghiên cứu về vấn đề này các tác
giả đã đề cập đến cơ cấu luân canh cây trồng hợp lý, phụ thuộc vào điều kiện canh tác và
giá cả nông sản hàng hoá trên thị trường. Tại vùng Dandkadi, năm 1981 có 13 công thức
luân canh khác nhau được áp dụng, năm 1982 có 18 công thức luân canh, năm 1983 có 16
công thức luân canh, trong đó phổ biến nhất là cơ cấu 2 vụ. Tại vùng Mirrapur và Tangril
có các công thức luân canh đáng chú ý là lúa - lúa hè, đảm bảo nền cho việc tăng thêm vụ
đông cho một đơn vị diện tích với các cây trồng là lúa mì, cải canh, khoai tây, ớt,
kê…Công thức luân canh này được nông dân áp dụng rộng rãi vì nó đảm bảo lương thực
quanh năm và có hiệu quả kinh tế cao (Bùi Thị Xô, 1994) [50]
Chương trình SALT của Philippines đã khảo nghiệm có kết quả với hệ thống cây
trồng và biện pháp canh tác như sau: các cây hằng năm và cây lâu năm được trồng thành
băng xen kẽ rộng từ 4 - 5m, các loại cây họ đậu cố định đạm được trồng thành 2 hàng dầy
theo đường đồng mức để tạo thành hàng rào. Khi những cây hàng rào cao 1,5 - 2m người
ta đốn, để lại 40cm gốc, cành lá dùng để rải lên băng tạo lớp che phủ và giữ ẩm, chống xói
mòn. Cây lâu năm thường là cây cà phê, cao su, cam…Điểm trình diễn từ năm 1978 trên đất có độ dốc 200, thực tế thu nhập bình quân hàng năm trên 1ha áp dụng SALT cao gấp 3
lần so với hệ thống độc canh cổ truyền. Mô hình này cũng được B. T. Kang (IITA) mang
áp dụng ở Nigiêria gọi là canh tác theo băng (Alley Cropping) (Hoàng Văn Đức, 1992)
[13]
Như vậy, ở nước ngoài, các nghiên cứu về hệ thống canh tác, hệ thống cây trồng,
các biện pháp trồng xen, trồng gối, trồng nối tiếp, thâm canh, tăng vụ được tiến hành từ rất
sớm. Việc đưa các cây ăn quả, cây họ đậu vào hệ thống canh tác được đánh giá rất cao
trong việc cải tạo, bồi dưỡng đất đai, tăng tính ổn định của hệ thống và góp phần làm tăng
hiệu quả, tăng năng suất và sản lượng của toàn bộ hệ thống canh tác. Những nghiên cứu
này đã được ứng dụng có hiệu quả trong sản xuất nông nghiệp và góp phần phát triển khoa
học hệ thống nông nghiệp, góp phần tăng năng suất cây trồng và nâng cao đời sống của
nhân dân lao động.
1.2.2. Tình hình nghiên cứu trong nước
Tình hình nghiên cứu hệ thống nông nghiệp nói chung và hệ thống canh tác nói
riêng ở nước ta đã được bắt đầu từ rất lâu.
Trong bài “ Nghiên cứu hệ thống canh tác ở miền Bắc Việt Nam” Phạm Chí Thành
đã nêu chủ trương xây dựng chế độ canh tác theo các biến sinh thái với hệ thống phân cấp
của Valenza (1982) thay thế cho cách làm hiện tại là xây dựng chế độ canh tác cho từng
thửa ruộng cụ thể và chế độ canh tác cho từng hợp tác xã.
Chia chế độ canh tác ra thành phần cứng và phần mềm. Phần cứng gồm các biện
pháp bắt buộc phải làm vì nó phục vụ cho những cái chung của cả hệ thống. Còn phần
mềm gồm các biện pháp kỹ thuật có thể thay đổi theo thị trường, theo điều kiện kinh tế,
phong tục và kỹ năng lao động của từng nông dân.
Cuộc cách mạng đầu tiên trong nông nghiệp diễn ra ở Tây âu vào cuối thế kỷ 18
đầu thế kỷ 19 đã làm thay đổi chế độ độc canh bằng chế độ luân canh với 4 khu luân
chuyển trong 4 năm giữa ngũ cốc và cỏ 3 lá. Trước đó nông dân vùng này độc canh lúa mỳ
2 năm rồi bỏ hoá 1 năm. Cuộc cách mạng về hệ thống canh tác đã làm thay đổi cơ cấu cây
trồng, đưa cây thức ăn gia súc và cây họ đậu vào công thức luân canh, nhờ đó năng suất
cây trồng tăng lên đáng kể, đất đai được bồi dưỡng cải tạo (Phùng Đăng Chinh và cộng sự,
[2]; (Phạm Bình Quyền và cộng sự, [29]. Giai đoạn của Nông nghiệp gắn với công nghiệp,
cơ giới hoá, hoá học hoá, thuỷ lợi hoá…đã tạo ra nhiều nông sản hàng hoá và cũng xuất
hiện những mặt trái của nền Nông nghiệp theo hướng Công nghiệp. Giai đoạn 3 của cuộc
cách mạng trong Nông nghiệp theo hướng trí tuệ, con người sử dụng hợp lý nguồn tài
nguyên, vừa đạt năng suất cao vừa bảo vệ được môi trường (Cao Liêm - Trần Đức Viên,
[23].
Khi tiến hành nghiên cứu ở Sóc Sơn, Phạm Chí Thành [31] đã đưa vào dạng địa
hình, chế độ mưa, hiện trạng thuỷ lợi để chia ra các nhóm biến sinh thái. Sau đó ở mỗi
nhóm biến sinh thái, dựa vào tiêu chuẩn phân vị loại đất (địa hình, độ dầy tầng đất, thành
phần cơ giới, pH, lân dễ tiêu, mùn) để chia thành các biến sinh thái. Trên từng biến sinh
thái tiến hành nghiên cứu hệ thống canh tác truyền thống, từ đó rút ra các mặt hạn chế và
đề xuất hệ thống canh tác mới cho từng biến sinh thái có kèm theo các biện pháp kỹ thuật
thích ứng.
Vào những năm đầu của thập kỷ 60, Đào Thế Tuấn cùng với các nhà nghiên cứu
của Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp Việt Nam trên cơ sở vận dụng những căn cứ cơ
sở khoa học xác định hệ thống cây trồng hợp lý và theo yêu cầu của thực tế sản xuất đòi
hỏi, đã tiến hành nhiều đề tài nghiên cứu về cơ cấu cây trồng ở vùng Châu thổ Sông Hồng
và đã đưa ra những nhận định về những yêu cầu cần đạt được của một cơ cấu cây trồng
như sau:
- Lợi dụng tốt nhất các điều kiện khí hậu và tránh được những tác hại của thiên tai.
- Lợi dụng tốt nhất các điều kiện đất đai, bảo vệ và bồi dưỡng độ màu mỡ của đất.
- Lợi dụng tốt nhất các đặc tính sinh học của cây trồng (khả năng cho năng suất cao,
phẩm chất tốt, ngắn ngày, tính thích ứng rộng, tính chống chịu bất lợi của điều kiện
ngoại cảnh).
- Tránh được tác hại của sâu bệnh, cỏ dại với việc sử dụng ít nhất các biện pháp hoá
học.
- Đảm bảo tỷ lệ sản phẩm hàng hoá cao, đảm bảo hiệu quả kinh tế cao.
- Đảm bảo hỗ trợ cho ngành sản xuất chính và phát triển chăn nuôi, tận dụng các
nguồn lợi tự nhiên (Đào Thế Tuấn, 1987) [47].
Các tác giả cũng đã đưa ra nhận xét: “Trên đất lúa 2 vụ, đưa cơ cấu vụ lúa xuân với
các giống lúa ngắn ngày đã để lại một khoảng thời gian trống giữa hai vụ lúa (từ sau thu
hoạch lúa mùa sớm và lúa mùa chính vụ đến khi cấy lúa xuân) tạo điều kiện để xây dựng
một hệ thống cây trồng có hiệu quả trên đất 2 vụ lúa”
Từ những kết quả nghiên cứu của mình, các tác giả đã đưa ra một số hệ thống cây
trồng cụ thể cho vùng Đồng Bằng Sông Hồng như sau:
- Trên đất 2 vụ lúa chủ động nước tưới:
+ Lúa Mùa - màu vụ Đông (khoai tây, khoai lang, ngô) - lúa Xuân.
+ Lúa Mùa - rau vụ Đông (cà chua, xu hào, bắp cải) - lúa Xuân.
- Trên đất 2 vụ lúa thấp ngập nước:
+ Lúa Mùa - bèo dâu - lúa Xuân
+ Lúa Mùa - bèo dâu - lúa Xuân - điền thanh (Đào Thế Tuấn, 1989) [44].
Chế độ canh tác trên đất 2 vụ lúa với các hệ thống trồng trọt như trên từng bước
được áp dụng rộng rãi ở châu thổ sông Hồng và các vùng khác trong cả nước đã tạo nên
những chuyển biến khá rõ nét về sản xuất lương thực, thực phẩm ở từng vùng trong cả
nước.
Nghiên cứu về hệ thống cây trồng trên đất canh tác chủ yếu nhờ nước trời, Bùi Huy
Đáp đã có nhận xét: hai vụ màu Đông và Xuân, lúa mùa tiếp chân, sử dụng những loại
màu Xuân có thời gian sinh trưởng dài, ngắn khác nhau, tuỳ theo sau màu sẽ trồng lúa
Mùa sớm hay lúa Mùa chính vụ. Đây là chế độ canh tác khai thác được khá triệt để tiềm
lực của các loại đất cao cấy một vụ lúa mùa nhờ nước trời. Trên chân đất chuyên trồng
màu ở các vùng đất bãi ven sông, hệ thống cây trồng có hiệu quả ngay sau nước rút, trồng
ngô thu đông (hoặc rau, đậu sớm), sau đó trồng ngô xuân (hoặc đậu tương, đậu đỗ khác vụ
xuân) (Bùi Huy Đáp, 1996) [6].
Một số tác giả cho rằng, ở nước ta có 3 loại hình luân canh tăng vụ:
- Luân canh giữa cây trồng cạn với nhau.
- Luân canh giữa cây trồng cạn với cây trồng nước.
- Luân canh giữa cây trồng nước với nhau.
ở chân đất quanh năm không ngập nước, thành phần cơ giới nhẹ, dễ thoát nước
thường luân canh cây họ đậu (đậu tương, lạc, đậu cô ve, đậu xanh…). Ngoài luân canh
tăng vụ cây lương thực, cây công nghiệp, cây thức ăn gia súc còn có những hệ thống cây
trồng luân canh giữa cây dược liệu (bạc hà, địa hoàng, bạch chỉ…) với cây lương thực
hoặc cây công nghiệp ngắn ngày (Phùng Văn Chinh, Lý Nhạc, 1987) [2]
Hệ thống canh tác là tổ hợp cây trồng bố trí theo không gian và thời gian với hệ
thống biện pháp kỹ thuật được thực hiện nhằm đạt năng suất cây trồng cao và nâng cao độ
phì của đất đai, Nguyễn Duy Tính (1995), [40]
Phạm Chí Thành (1993), [32] cho rằng để xây dựng hệ thống canh tác phải được
làm từng biến sinh thái của từng vùng và hệ thống canh tác phải được xây dựng theo quan
điểm lịch sử, theo một trật tự từ thấp lên cao, vì vậy nó là yếu tố động theo thời gian và
không gian.
Phạm Chí Thành (1994), [34] khi nghiên cứu chuyển đổi hệ thống canh tác vùng
kinh tế sinh thái và du lịch ven đường 21 tỉnh Hà Tây cho rằng: nước ta cũng như nhiều
nước đang phát triển khác đã áp dụng một chiến lược phát triển chủ yếu dựa trên thành tựu
của cuộc “cách mạng xanh”, nhằm vào một số sản phẩm nông nghiệp quan trọng nhất như
lúa nước, lúa mỳ, ngô…bằng cách tập trung đầu tư vào một số nhân tố phát triển quan
trọng nhất và cũng dễ cải tiến như năng suất cao, thuỷ lợi, phân bón hoá học và thuốc
phòng trừ dịch hại. Cách phát triển này chỉ thực hiện được ở một số vùng có điều kiện sinh
thái thuận lợi, còn ở các vùng đất “có vấn đề” như hạn, úng, mặn, phèn, cát, đất trọc…các
tiến bộ kỹ thuật này tỏ ra chưa thích ứng. Ngay với các vùng thuận lợi, năng suất đã gần
đạt tới giới hạn cao, giá cả vật tư nông nghiệp tăng lên làm cho hiệu quả đầu tư giảm, giảm
tốc độ phát triển.
Muốn đẩy nhanh sự phát triển nông nghiệp trong thời gian tới, phải tìm một số
chiến lược phát triển khác thích ứng với các điều kiện sinh thái khó khăn, không đòi hỏi
đầu tư lớn, có hiệu quả kinh tế cao.
Mâu thuẫn chủ yếu của sự phát triển về kinh tế nước ta là cần có một tốc độ phát
triển nhanh nhưng khả năng đầu tư lại hạn chế. Giải quyết vấn đề này không chỉ trông
mong vào đầu tư nước ngoài mà phải phát hiện và huy động chủ yếu các nguồn lực bên
trong hệ thống. Các nguồn lực đó là:
- Đất đai: chủ yếu không phải là phát triển theo chiều rộng (mở thêm diện tích) mà
theo chiều sâu (thâm canh, tăng vụ).
- Lao động: là nguồn lợi lớn nhất (theo kinh nghiệm của các nước Đông á) mà hiện ta
đang coi là khó khăn.
- Nguồn vốn của dân, hiện nay ta vẫn chưa huy động được nhiều do thiếu chính sách
vốn, nhiều lao động, tiết kiệm năng lượng.
Trần An Phong (1995), [26] khi nghiên cứu cơ sở khoa học của cải thiện hệ thống
cây trồng trên quan điểm sinh thái và phát triển lâu bền, cho rằng: các hệ thống sử dụng
đất và hệ thống cây trồng được chọn phải phù hợp với điều kiện sinh thái, vừa có giá trị
sản lượng, thu nhập cao, nâng cao độ phì nhiêu của đất vừa tạo nhiều việc làm cho các
nông hộ theo hướng đa dạng hoá cho các cây trồng.
Trần An Phong (1993), [27] trong nghiên cứu cơ sở khoa học sử dụng đất Đồng
Bằng Sông Cửu Long đã nhấn mạnh khả năng thâm canh tăng vụ và đa dạng hoá cây trồng
ở vùng phù sa chủ động nước, đồng thời chú ý tăng vụ và đổi mới giống ở vùng đất phèn
mặt và sản xuất chủ yếu dựa vào nước mưa.
Lê Thanh Hà (1993), [17] nghiên cứu hệ thống canh tác trên đất dốc Văn Yên - Yên
Bái cho thấy các hệ thống canh tác có hiệu quả trên đất dốc Văn Yên là: quế - rừng; sắn -
mía - rừng; cây ăn quả - mơ; gừng - rừng.
Phạm Chí Thành - Trần Đức Viên (1994), [35] nghiên cứu chuyển đổi hệ thống
canh tác vùng trũng Đồng Bằng Sông Hồng cho thấy những hệ thống canh tác mới (cây ăn
quả - nuôi cá - cấy lúa), (cá - vịt) tăng thu nhập thuần từ 2 - 5 lần so với hệ thống canh tác
cũ.
Phạm Chí Thành (1994), [34] nghiên cứu sử dụng vùng đất đồi gò tỉnh Hà Tây cho
thấy chúng ta có đủ điều kiện để kiến tạo những hệ thống canh tác có hiệu quả kinh tế, sinh
thái cao thay thế diện tích đất trống, đồi núi trọc.
Võ Tòng Xuân (1993), [52] nghiên cứu mô hình canh tác lúa - tôm ở xã Đại Thành,
huyện Phụng Hiệp - Cần Thơ cho thấy tổng lợi nhuận tăng đáng kể, tác giả cũng chỉ ra mật độ nuôi thích hợp là 1,4 con/m2.
Mai Văn Quyền (1992), [30] trong tài liệu đánh giá hiện trạng hệ thống trồng trọt
trên vùng đất xám huyện Đức Hoà - Long An chỉ ra hệ thống trồng trọt tối ưu và mối quan
hệ tương tác giữa trồng trọt và chăn nuôi ở từng môi trường sinh thái cụ thể.
Tào Quốc Tuấn (1994), [48] nghiên cứu xác định cơ cấu cây trồng hợp lý vùng phù
sa ngọt đồng bằng Sông Cửu Long, nêu lên 28 mô hình cho vùng, định hướng phát triển và
các giải pháp tổ chức trong đó có giải pháp về chính sách.
Để giải quyết tình trạng phá rừng và thoái hoá đất do canh tác nương rẫy, ở nhiều
nước đã sử dụng hệ canh tác Nông Lâm kết hợp nhằm phối hợp hai mục đích mẫu thuẫn
với nhau trong một hệ sinh thái (Roche, 1974). Nội dung của phương pháp là giao đất cho
nông dân trồng rừng và kết hợp trồng cây lương thực giữa các hàng cây còn non. Cây
lương thực được trồng là Ngô, Khoai, Lạc, Đậu…Lúc rừng đã khép tán, giao lại cho cơ
quan lâm nghiệp và lĩnh tiền thưởng. Phương pháp này áp dụng ở Nigeria có kết quả tốt. ở
các vùng rừng nhiệt đới, người ta có thể dùng các cây lâu năm như Cao su, Cà phê,
Dừa,…thay cho các cây trồng lương thực hàng năm.
Đào Thế Tuấn, [45] nghiên cứu các cây lâm nghiệp lâu năm trên đất dốc đã nhận
xét: hệ sinh thái cây lâu năm có chu trình dinh dưỡng gần giống với hệ sinh thái rừng về
mặt bảo vệ độ màu mỡ của đất và hút các chất dinh dưỡng ở tầng sâu. Mỗi năm từ hệ sinh
thái cây lâu năm bị lấy đi một lượng chất dinh dưỡng nhưng chúng được hoàn trả bằng một
lượng phân bón mà con người đưa vào. Hệ sinh thái cây lâu năm có nhược điểm đơn điệu
về thành phần loài, có thể dẫn tới giảm tính chống chịu với sâu bệnh và các tác nhân phá
hoại, sẽ được con người hỗ trợ bằng việc phòng trừ sâu bệnh và một loạt các biện pháp bổ
xung khác. Để phát triển hệ sinh thái này phải phối hợp cây trồng và cây rừng tốt nhất, kết
hợp cả trồng trọt và chăn nuôi.
Đào Châu Thu, [38]; Bùi Quang Toản, [42] khi nghiên cứu về đất dốc ở Tây Bắc đã
rút ra kết luận: có thể xây dựng được những mô hình sản xuất nông nghiệp ổn định trên đất
dốc trên cơ sở một hệ thống phân loại sử dụng đất hợp lý theo quan điểm sinh thái Nông
Lâm kết hợp.
Trần Như ý đề xuất các hệ thống canh tác trên đất dốc ở một số vùng thuộc miền
núi phía Bắc, đã đưa ra các hệ thống cây ăn quả thay thế cho cây lương thực tạo thu nhập
cao và bảo vệ được môi trường, hạn chế việc phá rừng đốt nương tràn lan, giúp dân định
canh, định cư.
Lê Thành Đường (1992), [9] nghiên cứu hiệu quả kinh tế của các loại hoa màu
trồng tại Phú Châu - An Giang đã chọn ra 2 loại cây cho lãi cao gần 4 triệu đồng/ha/vụ là
bắp và đậu trắng.
Nguyễn Ngọc Trâm (1994), [41] nghiên cứu cơ cấu cây trồng và hệ thống luân canh
cây trồng vùng đất cát ven biển Thừa Thiên - Huế, rút ra kết luận công thức: ớt - lúa cho
giá trị gia tăng cao nhất và hiệu quả chi phí đầu tư cao nhất.
Lê Hưng Quốc (1994), [28] trong nghiên cứu chuyển đổi cơ cấu cây trồng vùng gò
đồi tỉnh Hà Tây cho thấy một số hệ thống cây trồng cho hiệu quả kinh tế cao vùng gò đồi
Hà Tây:
- Trên đất đỏ vàng trồng lúa: là hệ thống canh tác 3 vụ, trong đó 2 lúa và 1 rau (hoặc
khoai tây - đậu tương) hoặc 2 màu 1 lúa (lạc Xuân - lúa Mùa - đậu tương hoặc
khoai tây).
- Trên đất phù sa được bồi (bãi bồi): công thức 2 màu (ngô Thu Đông - ngô Xuân Hè
- cũng cho hiệu quả khá cao.
- Trên đất phù sa không được bồi: công thức 3 vụ cho hiệu quả cao. Trong đó vụ
Xuân có thể trồng lúa Xuân hoặc lạc Xuân, ngô Xuân. Vụ Mùa trồng lúa Mùa và vụ
Đông trồng rau, khoai lang, đậu tương.
Đây là hệ thống cây trồng trên vùng đất phù sa có giá trị sản phẩm và có thu nhập
cao.
ở cùng một điều kiện sinh thái, chế độ luân canh 3 vụ mang lại hiệu quả kinh tế cao,
thu nhập thuần và tỷ suất lợi nhuận cao, làm tăng độ phì của đất, đặc biệt là các cây họ đậu
tham gia. Cây trồng vụ đông có vai trò quan trọng, làm tăng độ ẩm đất và làm tăng năng
suất cây trồng vụ sau.
Trần An Phong (1993), [26] khi nghiên cứu bước đầu cơ sở khoa học cải thiện hệ
thống cây trồng trên quan điểm sinh thái và phát triển lâu bền cho rằng: muốn tạo lập một
nền nông nghiệp theo quan điểm sinh thái phải nhận thức và tổ chức thực hiện có kết quả
rõ ràng việc sử dụng đất hợp lý với cải thiện hệ thống cây trồng và đa canh trong nông
nghiệp, xem đó là một bộ phận hợp thành “chiến lược sử dụng đất hợp lý” theo quan điểm
sinh thái và “phát triển lâu bền” với mục tiêu quản lý và bảo tồn tài nguyên thiên nhiên,
định hướng sự thay đổi công nghệ và tổ chức thực hiện nhằm đảm bảo việc thoả mãn nhu
cầu liên tục của con người thuộc các thế hệ hôm nay và cả mai sau.
Để đáp ứng những mục tiêu đồng thời của việc tăng các sản lượng và giảm bớt rủi
ro môi trường, việc thâm canh có thể diễn ra theo cả hai hướng không gian và thời gian,
trên cả hai hướng trên, sự thâm canh thông qua đa dạng hoá có liên quan tới lựa chọn cây
trồng, vật nuôi, đầu tư và các hoạt động quản lý mà chúng thúc đẩy các mối quan hệ sinh
thái tích cực và các quá trình sinh học trong tổng thể hệ sinh thái nông nghiệp. Hiệu quả hệ
sinh thái nông nghiệp được cải tiến đôi khi thể hiện thông qua hệ thống cây trồng hỗn hợp,
trong khi đó mọi tài nguyên bên trong được quản lý tốt để nâng cao hiệu quả sản lượng.
Tóm lại: Nhiều công trình nghiên cứu trong nước tổng hợp và chuyên đề về hệ
thống canh tác đã được tiến hành ở nhiều nơi và đã có những kết quả nhất định. Phần lớn
các tác giả nghiên cứu theo hướng chọn các hệ thống canh tác có các hệ thống cây trồng
phù hợp trên các loại đất với các loại cây trồng (lâu năm hoặc hàng năm) vừa đảm bảo có
hiệu quả kinh tế cao, hiệu quả xã hội lớn, vừa bảo vệ đất. Tuy nhiên trong những nghiên
cứu trước đây, các tác giả còn ít đề cập về những tiến bộ khoa học và kỹ thuật công nghệ
sinh học mới, do yếu tố thị trường và các hạn chế khác nên các mô hình canh tác không
mở ra diện rộng được… Đây là những vấn đề cần được đưa vào trong nghiên cứu hệ thống
canh tác nói riêng và hệ thống nông nghiệp nói chung hiện nay.
1.2.3. Đặc điểm hệ thống canh tác vùng nhiệt đới và những vấn đề cần nghiên cứu ở
vùng đất ven sông Hồng
1.2.3.1. Đặc điểm hệ thống canh tác ở vùng nhiệt đới ẩm
- Vùng nhiệt đới có tiềm năng quang hợp cao
Nguyên lý cơ bản của sản xuất Nông nghiệp là biến năng lượng ánh sáng mặt trời
thành lương thực và các sản phẩm khác. Tuy vậy tiềm năng của ánh sáng chỉ có thể phát
huy được khi có đủ nước và dinh dưỡng.
ở vùng Nhiệt đới năng lượng ánh sáng đạt được 130 - 220 Kcal/cm3/năm, trong khi ở các nước Ôn đới chỉ có 80 - 120 Kcal/cm3/năm. Nhưng những điều kiện khác ngoài ánh
sáng thì ở các nước Nhiệt đới lại không đủ: Trong mùa khô năng lượng ánh sáng nhiều
nhưng lại thiếu ẩm, ngược lại vào mùa mưa lại ít ánh sáng (Kassan - 1973), (Chang -
1968).
ở vùng Nhiệt đới có thể trồng trọt quanh năm nhưng mới chỉ sử dụng được 80%
mùa sinh trưởng. Trong khi ở Đài Loan nhờ biện pháp tăng vụ đã sử dụng được 93% mùa
sinh trưởng (Holliday - 1976). Mùa cây trồng sinh trưởng được xác định bằng chiều dài
mùa mưa. Như vậy ở vùng Nhiệt đới mùa mưa thường kéo dài hơn ở vùng Ôn đới, chính
vì vậy ở những vùng Nhiệt đới ẩm cây trồng hầu như có bộ lá xanh quanh năm. Nếu trồng
các loại cây theo chu trình C4 (Chu trình axit dicacboxylic) như Ngô, Mía, Cao lương sẽ có
khả năng đồng hoá năng lượng ánh sáng mặt trời cao hơn những cây trồng có quang hợp
theo chu trình C3 (Chu trình calvin) như Lúa, Lúa mì, Đậu tương (Holliday - 1976).
Coopor - 1970, đã đưa ra minh chứng về khả năng sản xuất chất khô của thảm thực
vật tự nhiên ở vùng Nhiệt đới ẩm là 146 tấn/ha trong khi ở vùng Ôn đới là 20 - 25
tấn/ha/năm.
Khả năng biến đổi năng lượng ánh sáng mặt trời thành chất khô của cây trồng Nhiệt
đới thường cao gấp 2 đến 3 lần cây trồng ở vùng Ôn đới. Như Mía ở Hawai có 10 - 15 tấn
đường/ha/năm, Cọ dầu ở Malaysia có từ 5 - 6 tấn dầu/ha/năm, Lúa ở ấn Độ (cấy 3 vụ được
15 tấn/ha/năm).
Theo Holliday - 1976 cho thấy: tỷ lệ biến đổi năng lượng ánh sáng mặt trời của cây
hàng năm đạt kỷ lục cao nhất với Cỏ voi ở Puerto Rico 110,6 tấn/ha chất khô và hiệu suất
sử dụng năng lượng ánh sáng mặt trời hữu hiệu là 5,3%. Hai vụ Ngô ở Uganda cho năng
suất 38,2 tấn chất khô/ha, hệ số sử dụng năng lượng ánh sáng mặt trời là 4,7%. Cao hơn,
hiệu suất sử dụng năng lượng ánh sáng mặt trời của quần thể Tảo ở Nhật với năng suất
53,1 tấn chất khô/ha và hệ số sử dụng năng lượng mặt trời là 4,3%.
- Những khó khăn về tự nhiên ở vùng Nhiệt đới
Tiềm năng to lớn của vùng Nhiệt đới không được phản ánh đầy đủ trong thực tế sản xuất .
Theo Holliday - 1976 thì canh tác thâm canh ở vùng Ôn đới đạt được hệ số sử dụng ánh
sáng là 2% của năng lượng ánh sáng, trong khi đó ở vùng Nhiệt đới không vượt quá 0,2%.
ở vùng á nhiệt đới sử dụng giống mới hệ số kinh tế đạt từ 30 - 56% trong khi đó ở
các nước Nhiệt đới chỉ đạt từ 5 - 35%. Vậy yếu tố hạn chế ở đây là gì?.
* Những khó khăn về khí hậu
Để tận dụng được năng lượng mặt trời, cây trồng cần độ ẩm đầy đủ, để đảm bảo
điều kiện này phải dựa vào nước trời hoặc tưới. ở hầu hết các nước Nhiệt đới mưa phân bố
theo mùa. Do đặc điểm của đất nhiệt đới là khả năng giữ ẩm kém vì vậy khả năng sử dụng
độ ẩm được dự trữ trong đất là rất thấp. Một đặc điểm đáng chú ý là lượng mưa và thời
gian xuất hiện mưa ít ổn định do đấy việc quyết định thời vụ trồng trọt là khó có thể đạt
được độ chính xác cao. Vào mùa mưa, lượng mưa lớn do đó rất dễ rửa trôi, xói mòn đất
đặc biệt là vùng đất dốc.
Tốc độ gió lớn ở vùng Nhiệt đới cũng là điều phải lưu ý, gió lớn làm đổ gẫy cây
trồng, làm tăng cường khô hạn, gây xói mòn. Kết quả nghiên cứu cho thấy năm nào ít gió
hại thì mùa màng đạt năng suất khá, năm nào gió hại nhiều thì dễ mất mùa.
Độ dài ngày biến đổi không nhiều, trong vòng một ngày cường độ bức xạ mặt trời
và nhiệt độ không khí thay đổi nhiều và nhanh, có lúc vượt quá mức chịu đựng của cây
trồng và vật nuôi đã làm giảm năng suất. Nhiệt độ, độ ẩm cao gây khó khăn trong việc bảo
quản nông sản.
* Những khó khăn về đất đai
Theo Williams và Josepb - 1973 thì tính thấm nước của đất khi mưa lớn đóng vai
trò quan trọng vì nước mưa hoà tan các chất dinh dưỡng ở tầng mặt và thấm xuống tầng
đất phía dưới. Vùng Nhiệt đới ẩm đất có độ phì tự nhiên thấp (thường thiếu Lân và Đạm).
Phần lớn dinh dưỡng có giá trị nằm ở vùng rễ cây dưới dạng hữu cơ. Do bị rửa trôi các
chất khoáng di chuyển xuống phía dưới đã tạo nên tầng đế cày vững chắc, ngăn cản việc
tiêu nước và sinh trưởng của rễ.
Theo Spedding - 1975 ở điều kiện Nhiệt đới ẩm hầu hết các chất hữu cơ phân giải
nhanh, ở vùng có mùa mưa và mùa khô xen kẽ, quá trình này giải phóng chất hữu cơ
nhanh vào đầu mùa mưa.
Một đặc tính chung của đất Nhiệt đới là cấu trúc của đất kém và rất khó phục hồi
dưới điều kiện thâm canh, làm tăng khả năng xói mòn do gió và do nước, đặc biệt khi
không còn thảm thực vật che phủ đất.
* Những khó khăn về sinh học
ở điều kiện Nhiệt đới số lượng loài là rất phong phú và biến động mạnh. ở nơi đất
đủ ẩm thì năng suất cây trồng cao nhưng cũng có nhiều cỏ dại, nấm, kí sinh trùng mà
những loài này là đối tượng cạnh tranh của cây trồng và gia súc. Côn trùng, bệnh hại
không chỉ làm giảm năng suất nó còn gây hại trong quá trình bảo quản nông sản.
1.2.3.2. Những vấn đề có liên quan đến canh tác ở vùng Nhiệt đới
* Chi phí cao trong việc duy trì độ phì của đất
Hầu hết nông dân vùng Nhiệt đới đều coi việc bảo vệ độ phì của đất là quan trọng
do đó hầu hết các hệ thống canh tác đều phải chú ý đến việc duy trì độ phì của đất. Vấn đề
là làm thế nào cho lớp đất canh tác đủ chất dinh dưỡng và đủ điều kiện để cây trồng hút
dinh dưỡng.
Dưới điều kiện tự nhiên Nhiệt đới chất dinh dưỡng bị mất đi do rửa trôi là phổ biến.
Chúng ta cũng thấy nông dân vùng Nhiệt đới thường lấy đi hầu hết các sản phẩm thực vật
được tạo bởi cây trồng lấy chất dinh dưỡng từ tầng đất sâu lên ra khỏi đồng ruộng, do vậy
dinh dưỡng trong đất ngày càng bị thiếu hụt. Trong nhiều trường hợp chất hữu cơ và chất
dinh dưỡng khoáng này được trả lại vào trong đất dưới dạng phân chuồng nhưng thường
không đầy đủ.
"Nông dân vùng Nhiệt đới đã thay thế hệ thống canh tác tự nhiên bằng kiểu thâm
canh theo hướng đầu tư thêm phân hữu cơ và phân vô cơ với ý định có thu nhập cao nhưng
phải duy trì được độ màu mỡ của đất" (Ruthenberg - 1977).
Trong nhiều trường hợp, nông dân đã canh tác theo kiểu "bóc lột" đất, thời kỳ đầu
giá thành sản phẩm có thể hạ do sử dụng ít năng lượng bổ sung nhưng sau đó năng suất sẽ
giảm dần theo thời gian. Canh tác theo kiểu này, năng suất cây lấy hạt phổ biến từ 500 -
1000 kg/ha, như vậy hiệu suất sử dụng năng lượng ánh sáng mặt trời thấp. ở khí hậu Ôn
đới hầu hết các hệ thống canh tác tạo ra lượng chất khô tương đương lượng chất khô do
thảm thực vật tự nhiên tạo ra (Sraydon - 1976). Trong sản xuất cổ truyền ở Nhiệt đới,
lượng chất khô tạo ra trên 1 ha không vượt quá 20% lượng chất khô do thảm thực vật tự
nhiên tạo ra. Như vậy, sự khác nhau giữa năng suất tiềm năng và năng suất thực tế ở các hệ
thống canh tác Nhiệt đới cổ truyền lớn hơn nhiều so với hệ canh tác ở nông nghiệp Ôn đới
cổ truyền. Nền nông nghiệp cân bằng thấp ít hiệu quả này nếu được bổ sung một phần
năng lượng thì chắc chắn hiệu quả sẽ rất cao. Kết quả nghiên cứu của Leach cho thấy ở
nền canh tác cổ truyền đầu tư thấp có thể tạo ra 15 - 60 đơn vị năng lượng đầu ra trên một
đơn vị năng lượng bổ sung.
Theo Elston - 1976, về mặt giá cả ở những nước mà dân còn nghèo cần lương thực
rẻ mà chọn nông nghiệp thâm canh thì đây là cách làm quá đắt về lợi nhuận kinh tế. Như
vậy là mô hình canh tác sử dụng có hiệu quả năng lượng ánh sáng mặt trời thì lại lãng phí
năng lượng bổ sung và ngược lại mô hình canh tác sử dụng có hiệu quả nguồn năng lượng
bổ sung thì lại lãng phí năng lượng ánh sáng mặt trời.
* Đương đầu với rủi ro
Canh tác ở vùng Nhiệt đới còn ở mức công nghiệp thấp, mục đích chính của sản
xuất là tự cung, tự cấp, do đó cần phải sản xuất nhiều loại sản phẩm với số lượng cần thiết.
Canh tác ở vùng Nhiệt đới người nông dân không chỉ gặp những rủi ro khi khí hậu không
ổn định mà còn chịu sự tác động của sâu bệnh trong quá trình sản xuất và cất giữ nông sản
sau khi thu hoạch.
Với kinh nghiệm trong sản xuất nông nghiệp ở vùng Nhiệt đới, người nông dân tìm
nhiều cách để hạn chế những rủi ro, đảm bảo có sản phẩm ổn định quanh năm. Vấn đề đa
dạng hoá cây trồng không chỉ dừng lại ở nền nông nghiệp tự cung, tự cấp mà còn là biện
pháp để hạn chế rủi ro, bên cạnh về đa dạng hoá cây trồng, nông dân vùng nông nghiệp
còn phải đa dạng hoá mùa vụ, có trà sớm, trà trung, trà muộn …Vấn đề trồng xen cũng là
giải pháp tạo ra sự đa dạng. Tuy năng suất không cao nhưng đảm bảo ổn định.
Như vậy, canh tác ở vùng Nhiệt đới mà loại bỏ được sự độc canh, chuyên canh có
thể tạo ra một nền sản xuất có hiệu quả.
* Những vấn đề về thời vụ
Đặc điểm của sản xuất nông nghiệp là tính thời vụ rất chặt chẽ nên lao động nông
nghiệp cũng mang tính thời vụ rất cao, có những lúc người sản xuất rất bận rộn phải lao
động với thời gian nhiều hơn bình thường trong một ngày, cường độ lao động vào những
thời điểm đó cũng rất cao nhưng cũng nhiều lúc người lao động không có việc làm (nông
nhàn). Con đường tốt nhất để sử dụng lao động hợp lý là đa dạng công việc, đầu tư cơ giới
vào những việc phải hoàn thành nhanh kịp thời vụ, có làm được việc này mới giải quyết
được việc tăng hiệu quả trong sản xuất nông nghiệp ở vùng nhiệt đới.
- Những vấn đề nghiên cứu ở vùng đất ven sông Hồng
Vùng đất ven sông Hồng là vùng đồng bằng với địa hình tương đối bằng phẳng, đất
đai mầu mỡ, khí hậu đa dạng rất thuận lợi cho trồng cây nông nghiệp. Để tạo dựng một
nền nông nghiệp phát triển ổn định, việc nghiên cứu hệ thống canh tác là một việc làm cần
thiết ở vùng đất này.
Là vùng đồng bằng với quỹ đất lớn, vấn đề tăng vụ được đặt ra để có thể tận dụng
nhiều hơn tiềm năng của tự nhiên như năng lượng ánh sáng mặt trời. Để làm được việc này
cần có sự đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất.
Đặc điểm đất canh tác ở vùng Nhiệt đới là tốc độ khoáng chất hữu cơ xẩy ra nhanh,
đặc biệt là ở đất có thành phần cơ giới nhẹ, hiện tượng rửa trôi xảy ra nhanh. Vì vậy vấn đề
bổ sung dinh dưỡng hợp lý cho cây trồng phải được đặt ra, cần giải quyết hàng loạt vấn đề
liên quan như: cơ cấu cây trồng, mùa vụ, chất lượng cây con, trình độ của người lao động,
vốn…
Việc nghiên cứu của đề tài góp phần nhỏ trong việc giải quyết vấn đề trên của vùng
đất ven sông Hồng.
Ch¬ng 2: Vật liệu, nội dung và phương pháp nghiên cứu
2.1. Địa điểm, nội dung, vật liệu nghiên cứu
- Địa điểm nghiên cứu là vùng đất ven sông Hồng thuộc địa bàn thành phố Hà Nội.
- Nội dung nghiên cứu:
1. Đánh giá điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội.
2. Phân tích thực trạng một số hệ thống canh tác cây ăn quả.
3. Nghiên cứu đặc điểm về giống, sinh trưởng và phát triển, chăm sóc, bón phân …của một
số hệ thống cây ăn quả trong vùng.
4. Nghiên cứu một số định hướng sản xuất theo hướng phát triển bền vững.
- Vật liệu nghiên cứu: các thông tin về điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội vùng nghiên
cứu. Điều tra thực tiễn một số hệ thống canh tác cây ăn quả trong vùng.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
Phân chia các hệ sinh thái nông nghiệp bằng phương pháp chồng xếp bản đồ. Bao
gồm các loại bản đồ địa hình, đất, sinh vật, khí hậu.
Dạng địa hình dựa vào bản đồ nền tỷ lệ 1/ 10.000, 1/ 25.000, 1/ 50.000 của Cục đo đạc bản
đồ Nhà nước.
Nghiên cứu khí hậu dựa vào bản đồ phân vùng khí hậu của đài khí tượng Hà nội.
Về cây trồng dựa vào số liệu điều tra trực tiếp ngoài thực địa.
Mô tả chi tiết một số hệ thống canh tác cây ăn quả áp dụng phương pháp điều tra
theo lát cắt.
Tiến hành quan sát kết hợp phỏng vấn trực tiếp người nông dân theo phương pháp
KIP (Key Informant Panel) để sử dụng trong việc mô tả điểm nghiên cứu. Thành lập các
nhóm người am hiểu về sản xuất, am hiểu về tình hình kinh tế - xã hội của địa phương để
thảo luận toạ đàm về tình hình sản xuất của mỗi gia đình, kinh nghiệm chăm sóc bón phân,
diện tích năng suất sản lượng, khả năng mở rộng diện tích… các loại cây trồng cần điều tra
nghiên cứu.
Phân tích mạnh yếu, triển vọng, rủi ro theo phương pháp SWOT ( Strength
Weakness Opportunities Threats ) để thu thập phân tích và đánh giá các thông tin do nông
dân cung cấp, nhằm tìm ra các điều kiện tự nhiên, điều kiện kinh tế xã hội, nguồn lực lao
động, tài nguyên đất đai thuận lợi thúc đẩy tăng trưởng sản xuất và do đó góp phần vào sự
phát triển tốt hơn. Ngược lại tìm ra các yếu tố bất lợi, những điều kiện không thích hợp
làm cản trở sự phát triển của sản xuất. Phân tích, tìm ra những phương hướng cần được
thực hiện nhằm tối ưu hoá các điều kiện phát triển của các phương thức canh tác, đề ra các
biện pháp thực hiện để mở rộng các phương thức canh tác tối ưu. Đồng thời lường trước
được các rủi ro, những yếu tố có khả năng tạo ra những kết quả xấu, không mong đợi hoặc
làm triệt tiêu sự phát triển của các phương thức canh tác như sâu bệnh, thiên tai lũ lụt hạn
hán...
Sử dụng các phương pháp điều tra nông thôn : PRA, RRA để điều tra bổ sung, phân
tích đánh giá hiệu quả kinh tế, thị trường.
Khảo sát đo đếm các chỉ tiêu của cây trồng tại thực địa các vườn quả.
Điều tra khảo sát thị trường và mức tiêu thụ quả của Hà nội theo phương pháp hệ
thống có chọn điểm, điều tra theo mẫu phiếu, điều tra nhanh các nông hộ, người buôn bán,
phỏng vấn kết hợp với phương pháp chuyên gia.
áp dụng đồng bộ các phương pháp về xây dựng bản đồ đất và đất thích hợp cho các
loại cây trồng cần nghiên cứu : phương pháp kế thừa, phương pháp đánh giá đất theo FAO,
khảo sát điều tra thực địa lấy mẫu bổ sung phân tích mẫu để kiểm chứng hiệu chỉnh các
thông tin về bản đồ đất, phân hạng đất thích hợp cho các loại cây trồng cần nghiên cứu
theo phương pháp của FAO.
Các phương pháp xử lý đánh giá hiệu quả kinh tế, phân tích tài chính.
Ch¬ng 3: Kết quả nghiên cứu và thảo luận
3.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của các hệ thống canh tác
3.1.1. Tài nguyên khí hậu
Hà nội có đặc điểm của khí hậu miền Bắc Việt Nam - khí hậu nhiệt đới gió mùa, có
mùa đông lạnh, ít mưa và mùa hè nóng, mưa nhiều. Khí hậu Hà nội cho phép phát triển sản
xuất một số loại cây ăn quả á nhiệt đới, nhiệt đới.
3.1.1.1. Chế độ nhiệt
Nhiệt độ không khí trung bình năm 23,40C, các tháng có nhiệt độ thấp trong năm là tháng 1, 2, 12 với nhiệt độ trung bình từ 16,6 - 17,90C. Đây cũng là các tháng có nhiệt độ tối thấp trung bình thấp nhất (từ 13,8 - 150C) và cũng là các tháng có nhiệt độ tối thấp tuyệt đối thấp nhất (từ 2,7 - 5,10C). Các tháng có nền nhiệt độ cao là tháng 5, 6, 7, 8, 9 với nhiệt độ trung bình từ 27,1 - 28,80C. Đây cũng là các tháng có nhiệt độ tối cao trung bình cao nhất trong năm (từ 30,9 - 32,80C) và cũng là các tháng có nhiệt độ tối cao tuyệt đối lớn nhất (từ 37,1 - 42,80C). Các tháng còn lại (tháng 3, 4, 10, 11) có nhiệt độ trung bình từ 19,90C - 24,60C. Như vậy nhiệt độ khác nhau rõ rệt giữa các mùa: mùa hè nền nhiệt cao,
mùa đông nhiệt độ khá thấp.
Chế độ nhiệt là một trong những yếu tố hàng đầu đối với yêu cầu ngoại cảnh của cây trồng
nói chung và cây ăn quả nói riêng. Mùa đông lạnh thuận lợi cho các cây ăn quả nhóm á
nhiệt đới (như vải, nhãn, hồng, cam quýt…) là những cây cần mùa đông lạnh để rụng lá,
ngủ nghỉ và phân hoá mầm hoa, ra hoa, kết quả. Tuy nhiên lạnh cũng không thuận lợi cho
các cây ăn quả nhóm nhiệt đới (như: chuối, dưa, hồng xiêm, ổi, na…), cái lạnh của Hà nội
tuy không đến nỗi làm chết cây nhưng ảnh hưởng lớn đến quá trình sinh trưởng của cây,
đến năng suất và phẩm chất sản phẩm.
Biến đổi tuần hoàn ngày của nhiệt độ có dạng một đỉnh cao nhất vào giữa hoặc sau
trưa, rồi giảm dần cho đến sáng thì đạt thấp nhất, sau đó lại tăng dần đến trưa. Biên độ
trung bình ngày của nhiệt độ (chênh lệch giữa nhiệt độ cao nhất và nhiệt độ thấp nhất) từ 5,6 - 7,80C (cao vào các tháng mùa hè và các tháng đầu mùa đông: tháng 5, 6, 7, 10, 11,
12). Nhìn chung biên độ nhiệt ngày càng khá lớn, thuận lợi cho việc vận chuyển, tích luỹ
vật chất quang hợp của cây ăn quả.
Bảng 3.1: Yêu cầu nhiệt độ của một số loại cây ăn quả
Nhiệt độ trung bình (0C) Nhóm cây Cây trồng Thích hợp nhất Tối cao Tối thấp
Nhiệt đới Xoài 24 - 25 35 15
Na 22 - 30 39 10
15,5 - 35 40,5 Chuối 5
Dứa 20 - 25 36 5
21 - 22 33 8 á nhiệt đới Nhãn
Vải thiều 20 - 25 29 10
Cam, quýt 22 - 29 39 12
Hồng 20 - 25 40 10
3.1.1.2. Chế độ nắng, bức xạ:
Nắng trong vùng mang tính chất chung của vùng Bắc Bộ. Số giờ nắng trung bình
năm 1640 giờ. Nắng tương đối nhiều vào mùa hè (từ tháng 5 - 10) với số giờ nắng từ 160 -
195 giờ/ tháng, nắng ít vào mùa đông và mùa xuân (từ tháng 1 - 4) với số giờ nắng 47 - 93
giờ/ tháng. Số giờ nắng trung bình năm của Hà nội khá đảm bảo về phát triển nhiều loại
cây ăn quả.
Bức xạ tổng cộng năm trung bình của Hà nội là 4227 Kcal/ m2/tháng, các tháng có
cường độ bức xạ lớn từ tháng 5 - 10 (có bức xạ tổng cộng trung bình tháng từ 4696 - 5788 Kcal/m2), các tháng có cường độ bức xạ thấp từ tháng 11 - 4 năm sau.
3.1.1.3. Chế độ mưa:
Lượng mưa trung bình năm của Hà nội là 1680 mm, lượng mưa phân bố không đều
giữa các tháng trong năm. Mưa tập trung vào mùa hè (từ tháng 5 đến tháng 10), lượng
mưa chiếm 85% với lượng mưa trung bình tháng từ 123 - 323 mm. Lượng mưa 6 tháng
mùa đông (từ tháng 11 - tháng 4) chỉ chiếm 15% lượng mưa cả năm với lượng mưa trung
bình tháng từ 18 - 81 mm.
Số ngày mưa trong năm trung bình là 142,2 ngày. Các tháng có số ngày mưa ít nhất
là tháng 10, 11, 12, 1 (từ 6,3 - 8,5 ngày/ tháng). Lượng mưa ngày cực đại: 569 mm (tháng
7), 244 - 260 mm (tháng 6, 8, 9).
Lượng mưa trung bình năm của Hà nội đáp ứng được nhu cầu nước của nhiều loại
cây ăn quả. Nhưng lượng mưa không đều giữa các mùa trong năm gây khó khăn cho sản
xuất cây ăn quả: gây úng ngập cho cây ăn quả vào mùa mưa, gây khô hạn thiếu nước vào
mùa khô. Đòi hỏi trong sản xuất cây ăn quả phải có các biện pháp thuỷ lợi tưới tiêu thích
hợp, các biện pháp canh tác hợp lý nhằm đáp ứng yêu cầu nước cho cây sinh trưởng phát
triển tốt.
3.1.1.4. Lượng bốc hơi và độ ẩm không khí:
Lượng bốc hơi trung bình năm 938 mm, các tháng 12, 1, 2 có lượng bốc hơi thường
cao hơn lượng mưa.
Độ ẩm không khí của vùng đều thích hợp cho nhiều loại cây ăn quả phát triển.
Lượng mưa và lượng bốc hơi phân bố không đều trong năm, tạo cho vùng một thời
kỳ khô hạn gay gắt, độ ẩm tầng đất mặt luôn dưới mức độ ẩm cây héo. Cần có biện pháp
giữ ẩm cho đất bằng các cây che phủ đất và các biện pháp canh tác khác.
3.1.1.5. Gió:
Trong năm thường có 2 mùa gió chính: gió mùa đông nam và gió mùa đông bắc.
Gió mùa đông nam thường bắt đầu vào tháng 2 đến tháng 8 với tần suất xuất hiện từ
34 - 58%. Gió mùa đông bắc thường xuất hiện vào các tháng 11, 12, 1, 2, 3 với tần suất
xuất hiện từ 20 - 30%. Gió mùa đông nam thường mang theo hơi nước từ biển vào, gây
nên những trận mưa rào. Gió mùa đông bắc thường lạnh và khô vào những tháng đầu mùa
đông, ẩm ướt vào các tháng cuối mùa đông - kéo theo mưa phùn. Gió lạnh, khô đã ảnh
hưởng lớn đến sinh trưởng phát triển của một số cây ăn quả nhóm nhiệt đới.
3.1.1.6. Một số yếu tố khí hậu khác:
- Bão: Trung bình hàng năm Hà nội chịu ảnh hưởng trực tiếp của khoảng 1 cơn bão.
Bão thường kéo theo gió lớn, mưa to làm đổ cây, gãy cành, rụng quả, úng ngập… gây thiệt
hại lớn cho cây ăn quả.
- Dông: Hàng năm ở Hà nội trung bình có khoảng 93,6 ngày có dông. Mùa dông bắt
đầu từ tháng 4 đến hết tháng 9, với khoảng trung bình từ 10 - 19 ngày cho mỗi tháng.
Dông thường kèm theo gió mạnh, mưa rào, ảnh hưởng đến sản xuất cây ăn quả.
- Sương mù: Số ngày có sương mù trung bình năm là 11,7 ngày.
- Mưa phùn: Số ngày có mưa phùn trung bình năm là 42,7 ngày, tập trung vào các
tháng 2, 3 với khoảng 11 - 15 ngày/ tháng.
Sương mù, mưa phùn thường gây thiếu nắng, ảnh hưởng đến quang hợp cho cây ăn
quả.
Có thể nói khí hậu Hà nội có đặc điểm của khí hậu Bắc Việt Nam - khí hậu nhiệt
đới gió mùa. Mùa đông lạnh, ít mưa, mùa hè nóng mưa nhiều, cho phép phát triển nhiều
loại cây ăn quả nhiệt đới và á nhiệt đới. Nhưng khí hậu Hà nội cũng gây nhiều khó khăn
cho sản xuất cây ăn quả như khô, lạnh thiếu nước vào mùa đông, ngập úng, đổ, gẫy, rụng
quả, hoa vào mùa hè… đòi hỏi trong sản xuất cây ăn quả phải có các biện pháp canh tác,
các giải pháp kỹ thuật nhằm hạn chế các tác hại, phát huy các mặt lợi của khí hậu thời tiết để
phát triển cây ăn quả.
3.1.2. Tài nguyên đất đai
Căn cứ vào các tài liệu đã có, xác định trên bản đồ phạm vi nghiên cứu của diện tích
điều tra, xác định đối tượng điều tra là 11 loại đất chính của Hà nội, phân bố ở các huyện
ngoại thành đặc biệt ở vùng đất ven sông Hồng. Bước đầu có những nhận xét và đánh giá
về các loại đất của Hà nội như sau:
- Cồn cát và bãi cát ven sông (C) Haplic Arenosols (ARh).
+ Diện tích 359 ha, chiếm 0,4% đất điều tra.
+ Phân bố ở ven sông hoặc giữa sông.
+ Đặc điểm: đất có thành phần cơ giới nhẹ, thoát nước tốt, phản ứng trung tính, ít chua,
h).
nghèo mùn, các chất tổng số và dễ tiêu nghèo, dung tích hấp thu trung bình.
h) Hapli Eutric fluvisols (FLe
- Đất phù sa được bồi thường xuyên (Pb
+ Diện tích 412 ha, chiếm 4,49% đất điều tra.
+ Phân bố chủ yếu ở Gia Lâm, Từ Liêm, Thanh Trì, Đông Anh.
+ Đặc điểm: Đất phù sa được bồi hình thành ở ngoài đê sông Hồng. Tuỳ theo chất lượng
phù sa bồi đắp vào các thời kỳ khác nhau mà đất có thành phần cơ giới đa dạng, thay đổi
từ thịt nhẹ đến sét nhẹ, phổ biến là thịt trung bình. Dung trọng thay đổi từ 1,15 - 1,52; tỷ
trọng 2,60 - 2,74; độ xốp 48 - 56% tầng mặt. Nghèo mùn, đạm là lân tổng số. Kali tổng số
khá, lân và kali dễ tiêu trung bình. Dung tích hấp thu và lượng cation kiềm trao đổi từ
-h).
trung bình đến khá.
- Đất phù sa được bồi của các sông khác (P) Haplidystric fluvisols (FLd
+ Diện tích 356 ha, chiếm 0,38% đất điều tra.
+ Đặc điểm: đất phù sa được bồi của các sông khác thường có thành phần cơ giới nhẹ,
phản ứng chua, nghèo mùn và các chất dinh dưỡng, dung tích hấp thu thấp, đất thoát nước
tốt.
- Đất phù sa không được bồi, không gley hoặc gley yếu của hệ thống sông Hồng
(Ph) Eutric fluvisols (FLe)
+ Diện tích 18098 ha, chiếm 19,71% đất điều tra.
+ Phân bố: huyện Từ Liêm và huyện Gia Lâm
+ Phân loại đất: loại đất này có 3 kiểu hình thái phẫu diện
++ Đất phù sa không được bồi không gley hoặc gley yếu, có phẫu diện đồng nhất.
++ Đất phù sa không được bồi, không gley hoặc gley yếu có lớp cát xen ở độ sâu 20 -
40cm.
++ Đất phù sa không được bồi, không gley hoặc gley yếu ảnh hưởng nước thải thành phố.
+ Đặc điểm: Đất phù sa không được bồi, không gley hoặc gley yếu, hình thái phẫu diện
đồng nhất, thường có thành phần cơ giới trung bình đến nặng với các đặc điểm lý, hoá học
như sau: Dung trọng từ 1,20 - 1,65 g/cm3; tỷ trọng từ 2,53 - 2,78 g/cm3; độ xốp từ 39,1 - 54,6%, đất
chặt vừa đến chặt. Phản ứng của đất từ ít chua đến kiềm yếu (pHKCL = 5,0 - 7,8). Những
mẫu đất phân tích năm 1998 cho thấy đa số đất có phản ứng chua (pHKCL < 6,0). Hàm
lượng mùn thuộc loại nghèo đến trung bình (1,41 - 2,33%). Lân tổng số trung bình (P2O5 =
0,08 - 0,11%). Kali tổng số trung bình (0,80 - 1,37%). Lân dễ tiêu khá (ở các tầng đất mặt
từ 20 - 30 mg/100g đất ), kali dễ tiêu nghèo (6 - 16 mg/100g đất). Dung tích hấp thu khá
30 - 69 mg/ 100g sét. Các nguyên tố vi lượng dễ tiêu trong đất (Zn, Mo. B, Cu) từ nghèo đến
trung bình.
Đây là loại đất có độ phì nhiêu tiềm tàng.
Đất phù sa không được bồi, không gley hoặc gley yếu, lớp cát xen ở độ sâu 20 - 40cm có
các đặc điểm chính:
- Đất có thành phần cơ giới nhẹ ở các tầng đất mặt và ở độ sâu 20 - 40cm, dung trọng thay đổi 1,24 - 1,51g/cm3. Tỷ trọng của đất thay đổi từ 2,51 - 2,57g/cm3. Độ xốp từ 41 - 50%
nghèo mùn (0,45 - 1,45%). Lân tổng số trung bình (0,09 - 0,13%); kali tổng số hơi nghèo
(0,59 - 1,09%). Lân dễ tiêu trung bình . Kali dễ tiêu nghèo (5,0 - 13,0mg/ 100g đất). Dung
tích hấp thu trung bình đến khá (38 - 42 me/100g sét).
- Đất phù sa không được bồi, không gley hoặc gley yếu ảnh hưởng nước thải thành phố có
thành phần cơ giới trung bình. Phản ứng của đất hơi chua (pHKCL = 5,1 - 6,2). Mùn và
đạm tổng số tầng đất mặn thuộc loại khá. Lân tổng số khá đến giàu (0,10 - 0,20%). Kali
tổng số khá (1,2 - 1,8%). Lân và kali dễ tiêu thuộc loại trung bình. Dung tích hấp thu trung
bình đến khá (27 - 48me/100g sét).
- Đất phù sa không được bồi, không gley hoặc gley hoặc gley yếu của các sông
khác (P) Dystric fluvisols (FLd).
+ Diện tích: 1.200 ha
+ Phân bố: Loại đất này thường nằm bên cạnh đất bạc màu hoặc đất phù sa cổ, giáp sông
Cà Lồ, sông Cầu về phía Đông và Bắc.
+ Đặc điểm: Đất có thành phần cơ giới nhẹ, tầng đất mặt là cát pha, tầng đất sâu là thịt
trung bình và nặng. Dung trọng tăng dần theo chiều sâu: 1,2 g (tầng mặt) và 1,59 (tầng đất
70 - 125cm). Tỷ trọng đất thay đổi từ 2,57 - 2,70. Phản ứng của đất rất chua pHKCL = 3,4
- 3,9). Đất nghèo mùn (0,58 - 1,46%). Đạm, lân, kali tổng số đều nghèo (tương ứng ở các
tầng đất mặt là 0,09%; 0,08% và 0,53%). Lân và kali dễ tiêu nghèo. Dung tích hấp thu thấp
(12,0 - 28,0 me/100g sét).
ib).
- Đất phù sa ít được bồi của hệ thống sông Hồng (Ph
+ Eutric fluvisols (FLe) với diện tích 2.300,8 ha, chiếm 2,51% đất điều tra.
+ Phân bố: Loại đất này trước đây vẫn được bồi thường xuyên, nhưng do sự bồi đắp liên
tục của dòng sông nên đất được cao dần.
+ Đặc điểm: Phần lớn diện tích loại đất này có thành phần cơ giới nhẹ đến trung bình. Đất tương đối chặt ở các tầng đất sâu (dung trọng 1,23 - 1,65 g/cm3; tỷ trọng 2,55 - 2,71g/cm3.
Đất ít chua (pHKCL = 5,8 - 6,5). Mùn nghèo đến trung bình (0,5 - 2,0%). Lân và kali dễ
tiêu nghèo đến trung bình. Dung tích hấp thu trung bình đến khá (25 - 46 me/100g sét)
- Đất phù sa ít được bồi các hệ thống sông khác:
+ Diện tích 181,7 ha chiếm 0,25% đất điều tra.
+ Phân bố ở các xã ven sông thuộc huyện Sóc Sơn và Đông Anh.
+ Đặc điểm: Phần lớn diện tích loại đất này có màu nâu nhạt hoặc xám nâu, thành phần cơ
giới nhẹ. Đất có dung trọng và tỷ trọng lớn hơn so với đất phù sa ít được bồi của hệ thống
sông Hồng. Độ xốp kém hơn đất phù sa ít được bồi của hệ thống sông Hồng. Phản ứng của
đất chua (pHKCL < 5,0), mùn nghèo (< 1,0%). Hàm lượng các chất tổng số và dễ tiêu đều
nghèo. Dung tích hấp thụ thấp (< 10 me/100g đất).
-g).
- Đất phù sa không được bồi gley trung bình hoặc mạnh của hệ thống sông Hồng
h). Gleyi eutric fluvisols (FLe
(Pg
+ Diện tích 8512,07 ha chiếm 9,27% đất điều tra
+ Phân bố tập trung ở Gia Lâm, Từ Liêm, Thanh Trì, Đông Anh. Loại đất này nằm ở địa
hình thấp trũng, dư thừa ẩm. Quá trình khử oxy chiếm ưu thế. Các chất như sắt, mangan bị
khử làm cho đất có màu xanh xám. Loại đất này có 2 kiểu hình thái:
++ Không có lớp cát.
++ Có lớp cát xen ở nông hoặc sâu trong phẫu diện. + Đặc điểm: Đất có thành phần cơ giới trung bình đến nặng. Dung trọng 1,20 - 1,65 g/cm3, tỷ trọng 2,55 - 2,64 g/cm3, độ xốp 37,5 - 52,9%. Phản ứng của đất ít chua (pHKCL = 4,61 -
6,50). Hàm lượng mùn trung bình (tầng mặt khoảng 2,0%). Lân tổng số trung bình (0,08 -
0,13%). Kali tổng số trung bình đến khá (1,20 - 2,28%). Lân dễ tiêu trung bình. Kali dễ
-g).
tiêu nghèo. Dung tích hấp thu trung bình (10,0 - 12,0 me/100 g đất).
- Đất phù sa gley của các sông khác (Pg) Gleyi dystric fluvisols (FLd
+ Diện tích 511,8ha chiếm 0,5% đất điều tra
+ Phân bố: Loại đất này phân bố tập trung ở các địa hình thấp, ít thoát nước ở phía Đông
và Bắc của Hà nội.
+ Đặc điểm: Đất phổ biến có màu nâu xám, thành phần cơ giới trung bình đến nặng. Dung trọng phổ biến từ 1,30 - 1,50 g/cm3. Tỷ trọng 2,38 - 2,67 g/cm3. Hàm lượng mùn các tầng
đất mặt khá (1,81 - 2,34%). Phản ứng của đất rất chua (3,8 - 4,5). Lân tổng số nghèo (0,04
- 0,06%). Kali tổng số trung bình (0,88 - 1,38%). Lân dễ tiêu nghèo. Dung tích hấp thu
thuộc loại thấp (CEC = 5,18 - 7,29 me/100g đất). Đồng và kẽm dễ tiêu trung bình,
Molibden và Bo dễ tiêu nghèo.
r) Dystri Cambic
-d).
- Đất phù sa có tầng loang lổ đỏ vàng của hệ thống sông Hồng (Ph
fluvisols (FLh
+ Diện tích 952,21 ha chiếm 1,04% đất điều tra.
+ Phân bố: tập trung ở tả ngạn sông Hồng, Từ Liêm, Gia Lâm.
+ Đặc điểm:
Đa số đất có thành phần cơ giới nhẹ đến trung bình (hàm lượng sét các tầng đất mặt dao
động từ 14 đến 33%. Sự phân dị của phẫu diện đất về thành phần cơ giới theo chiều sâu
thể hiện rõ (các tầng đất mặt đều nghèo sét hơn các tầng đất sâu). Tỷ trọng, dung trọng đất
cũng thay đổi theo xu hướng tương tự (tăng theo chiều sâu). Độ xốp đất các tầng mặt từ
trung bình đến khá 46 - 53%. ở các tầng đất sâu đất trở nên chặt hơn (độ xốp chỉ còn 30 -
35%).
Phản ứng đất rất chua (pHKCL = 3,2 - 5,1), đa số đất có pHKCl từ 3,5 - 4,0. Đất nghèo mùn
(ở tầng đất mặt từ 1,0 - 1,8%). Đạm tổng số nghèo, đa số khoảng 0,05 - 0,07%. Lân tổng
số nghèo (0,02 - 0,12%), đa số từ 0,02 - 0,05%. Kali tổng số hơi nghèo (từ 0,27 - 0,90%).
Lân và kali dễ tiêu nghèo đến hơi nghèo. P2O5 = 1 - 10 mg/100g đất. K2O = 2,5 -
20mg/100g đất. Tổng số cation từ trung bình đến thấp (Ca ++ + Mg++ < 6 me/100g đất).
Khả năng trao đổi cation từ trung bình đến thấp (14 - 41 me/100g đất).
- Đất phù sa có tầng loang lổ đỏ vàng (Pf).
+ Diện tích 248,9 ha chiếm 0,27% đất điều tra.
+ Phân bố rải rác ở Sóc Sơn
+ Đặc điểm: Đất hình thành do sự bồi đắp phù sa của các sông khác, phẫu diện có sự bất
đồng hoá rõ: Tầng đất mặt thường có màu xám nâu nhạt, cấu trúc kém, tầng loang lổ đỏ
vàng thường nằm kề với tầng gley trung bình đến mạnh.
Đất có thành phần cơ giới nhẹ, phẫu diện đất có sự phân dị rõ về thành phần cơ
giới, tầng đất mặt nghèo sét (dưới 10%), càng xuống sâu tỷ lệ sét càng tăng. Dung trọng
đất chặt (độ xốp tầng đất mặt dao động từ 36 - 47%). Phản ứng đất chua vừa đến ít chua
(pHKCL = 3,6 - 4,8). Hàm lượng mùn tầng mặt trung bình và giảm nhanh theo chiều sâu.
Đạm tổng số trung bình. Lân tổng số nghèo (lân dễ tiêu từ 3,1 - 6,4, kali dễ tiêu 2 - 8,5 mg/
100g đất). Tổng số cation kiềm trao đổi trong đất thấp (dưới 5 me/100g đất). Khả năng
trao đổi cation trong đất thấp (16 - 23 me/ 100g sét). Nhôm hydro di động thuộc loại trung
bình (tương ứng là 0,2 - 5mg/100g đất) sắt di động tương đối cao (5,4 - 10,4 mg/100g đất).
j)
- Đất phù sa úng nước mưa mùa hè (Ph
+ Diện tích 4174,58 ha chiếm 4,5% đất điều tra.
+ Phân bố: Đất nằm ở vị trí thấp, trũng, có ở Liên Hà, Vân Hà (Đông Anh) và rải rác ở
huyện Thanh Trì, Sóc Sơn.
+ Đặc điểm: Đất hình thành ở địa hình trũng lòng chảo. Mùa mưa nước đổ dồn từ trên
xuống ứ đọng lại, có nơi ngập sâu hơn 1m. Vì vậy chỉ cấy 1 vụ chiêm.
Do địa hình trũng, ứ đọng nước, được tích luỹ các sản phẩm rửa trôi từ trên xuống
trong đó có nhiều chất hữu cơ. Trong đất có nhiều axit hữu cơ và các chất độc hại cho cây
trồng như CH4, H2S, làm cho đất trở lên chua, bí và bị gley mạnh.
Đất có màu xám đen ở lớp mặt lúc ướt, khi khô bị ôxy hoá nên chuyển sang màu vàng nâu.
Tỷ lệ mùn ở lớp đất này khá (> 2%).
Một số vùng có loại đất này khi đào sâu 40 - 50 cm đã qua lớp đất bùn loãng và lớp đất sét
thó màu xanh, tiếp đến lớp xác hữu cơ đã mục có mức độ phân giải khác nhau. Lớp xác
hữu cơ này có màu nâu nhạt xen kẽ các vệt rỉ sắt nâu đậm hơn, rất cứng, đây là tầng than
bùn. Một số nơi đã khai thác tầng này làm phân bón.
Đa số đất có thành phần cơ giới nặng (thịt nặng, sét nhẹ). Dung trọng thay đổi từ 1,15 -
1,40. Tỷ trọng dao động từ 2,45 - 2,65. Tầng mặt có độ xốp cao 53 - 59%, các tầng sâu đất
chặt hơn (dung trọng từ 46 - 50%).
Phản ứng của đất rất chua (pHKCL = 3,0 - 4,0). Hàm lượng mùn khá (2,40 -
2.66%). Đạm và kali tổng số trung bình (tương ứng là 0,15% và 1,00%). Lân tổng số
nghèo (0,03 - 0,05%). Lân và kali dễ tiêu đều nghèo, đa số các tầng đất có hàm lượng ít
hơn 10mg/100g đất.
Tổng số cation kiềm trao đổi trung bình (từ 5 - 10 me/ 100g đất. Đặc biệt Mg trao
đổi trong đất rất nghèo (từ 0,4 - 3,9 me/100g đất). Khả năng trao đổi cation thấp (phần lớn nhỏ hơn 20 me/100g sét). Al3+, H+ và Fe2+ trong các tầng đất rất thấp (Al3+ < 0,5 me/100g đất;
H+ < 0,1 me/ 100g đất; Fe2+ < 5mg/ 100g đất).
Nhìn chung loại đất này còn giữ lại các đặc điểm chủ yếu của phù sa sông Hồng
với màu đất nâu tươi tầng mặt, phản ứng đất trung tính ít chua. Hàm lượng mùn trong đất
khá, tầng đất mặt 2,89%, ở các tầng đất sâu dao động từ 0,64 - 2,54%. Đạm tổng số khá,
tầng đất mặt chứa 0,25%, các tầng đất sâu dao động 0,06 - 0,24%. Kali tổng số khá (1,16 -
1,61%). Lân và kali dễ tiêu thuộc loại trung bình (lân dễ tiêu 18 - 25mg/100g đất, kali dễ
tiêu 17 - 23 mg/ 100g đất). Tổng lượng cation kiềm trao đổi trong đất khá (tầng đất mặt
12,6 me/ 100g đất, tầng đất sâu 12 - 17 me/ 100g đất).
Qua so sánh biến động một số tính chất loại đất phù sa úng nước mưa mùa hè
những năm qua cho thấy: qua quá trình thâm canh cải tạo đất và sử dụng đất hợp lý hơn,
mặc dù loại đất này phần lớn (trừ khu vực phù sa sông Hồng) vẫn rất chua, nhưng hàm
lượng một số chất dinh dưỡng khác đã thay đổi đáng kể: mùn và đạm tổng số trong đất
tăng (mùn 2,1% năm 1964 tăng lên 2,6% năm 1994), các chất dễ tiêu như lân, kali trong
đất cũng có chiều hướng tăng. Lượng nhôm di động trong đất giảm nhiều (từ 2,0 - 2,1
me/100g đất năm 1964 xuống 0,5 - 1,0 me/100g đất năm 1994).
- Đất phù sa không được bồi úng nước mùa hè (Pj)
+ Diện tích 1519,2 ha chiếm 1,65% đất điều tra.
+ Phân bố: đất phù sa úng nước mưa mùa hè các sông khác phân bố chủ yếu ở khu vực
phía Bắc và Tây Bắc Hà Nội thuộc huyện Đông Anh và Sóc Sơn.
+ Đặc điểm: Đất hình thành ở địa hình thấp, trũng. Quá trình hình thành đất phổ biến ở đây
là quá trình gley. Đất thường bị ngập úng sâu vào mùa mưa. Đất có thành phần cơ giới
nặng, cấp hạt sét tầng đất mặt dao động từ 43 - 53%. Dung trọng đất thay đổi từ 1,05 -
1,36, tỷ trọng từ 2,45 - 2,70. Độ xốp tầng đất mặt cao (53 - 58%).
Đất có phản ứng rất chua (pHKCL = 3,2 - 4,0). Hàm lượng mùn trung bình (ở tầng
mặt từ 2,39 - 2,66%). Đạm tổng số trung bình (0,15 - 0,20% ở đất mặt). Lân tổng số từ rất
nghèo đến hơi nghèo (0,02 - 0,09%), kali tổng số trung bình (0,78 - 1,18%). Các chất dễ
tiêu nghèo: Lân dễ tiêu 0,6 - 4,8 mg/100g đất, kali dễ tiêu 2,6 - 10 mg/100g đất. Tổng số cation kiềm trao đổi (Ca2+, Mg2+) trong đất thấp (< 6me/100g đất). Khả năng trao đổi cation
thấp (11 - 17 me/100g sét).
- Đất phù sa ngòi suối (PY)
+ Diện tích 176,89 ha chiếm 0,19% đất điều tra.
+ Phân bố ở phía Bắc Hà nội thuộc huyện Sóc Sơn. Loại đất này chiếm diện tích không
đáng kể, chủ yếu ở ven đồi gần suối.
+ Đặc điểm: Lớp phù sa suối mịn, mỏng, thành phần cơ giới nhẹ, rời rạc, lẫn nhiều sỏi,
cuộn tròn cạnh, chua, độ phì nhiêu thấp.
- Đất xám bạc màu trên phù sa cổ
+ Diện tích 2658,29 ha chiếm 2,89% đất điều tra.
+ Phân bố tập trung chủ yếu huyện Sóc Sơn.
+ Đặc điểm: Đất có địa hình bậc thang rộng, gợn sóng, chặt thường gặp nước ngầm ở tầng
nông. Phản ứng đất rất chua, đất nghèo các chất dinh dưỡng. Tầng đất mỏng đến trung
bình, khả năng giữ nước của đất kém, ở tầng đất sâu hơn 30 cm thường xuất hiện đá ong
hoặc kết von.
Đa số đất có thành phần cơ giới nhẹ, dung tích hấp thu thấp, chua, nghèo mùn,
nghèo các chất tổng số và dễ tiêu.
- Đất xám bạc màu gley trên phù sa cổ (Xg) Gleyic Arisols (ACg).
+ Diện tích 1511,86 ha chiếm 16,4% đất điều tra.
+ Phân bố: Đất xám bạc màu gley trên phù sa cổ của Hà nội chạy từ chân núi Tam Đảo
(Sóc Sơn) qua Đông Anh tiếp cận vùng phù sa sông Hồng.
+ Đặc điểm: Loại đất này hình thành ở địa hình phổ biến là gò đồi, bậc thềm, lượn sóng và
dốc thoải. Địa hình trên đây đã ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình hình thành đất, chế độ
nhiệt, ẩm và hệ thống canh tác trong vùng. Đất đã bị thoái hoá do nhiều nguyên nhân:
++ Do hình thành ở địa hình dốc ít nhưng sườn dốc kéo dài.
++ Do chế độ canh tác lạc hậu trước đây chủ yếu là độc canh, cấy hái, bừa chũi, ít chú
trọng bón phân, cải tạo và bảo vệ đất.
Mặc dù có sự cải thiện về độ phì nhiêu, song đây vẫn là loại "đất có vấn đề" và là
đối tượng nghiên cứu quan trọng ở nước ta.
Nhìn chung đất có tầng canh tác mỏng dưới 100cm, thường bị gley ở độ sâu hơn
30cm, tầng đất sâu rất chặt, nhiều nơi có kết von, đá ong.
Đa số đất có thành phần cơ giới nhẹ, nhất là ở huyện Sóc Sơn. Hàm lượng cấp hạt
sét các tầng đất mặt ở đây dao động từ 5 - 10%. ở Đông Anh đất có thành phần cơ giới lớp
mặt nặng hơn (từ 15 - 20%). Sự phân dị về thành phần cơ giới theo chiều sâu phẫu diện đất
phản ánh rõ quá trình rửa trôi không những theo chiều ngang mà cả theo chiều thẳng đứng.
Hàm lượng cấp hạt sét ở tầng đất sâu thường gấp 1,5 - 2,0 lần so với tầng đất mặt. Tầng
đất mặt chỉ hơi chặt (dung trọng 1,35 - 1,38, tỷ trọng 2,58 - 2,60).
Đất có phản ứng rất chua, đa số có pHKCL từ 3,1 - 4,0. Khu vực Đông Anh loại đất
này có phản ứng ít chua hơn (pHKCL = 4,0 - 5,1) do địa hình bằng hơn và ít nhiều chịu
ảnh hưởng của phù sa sông Hồng sau nhiều lần vỡ đê. Hàm lượng mùn trong đất rất nghèo,
đều ít hơn 1,0% trong tầng đất mặt. Đạm, lân, kali tổng số đều nghèo (ở các tầng đất mặt
l0,04 - 008%, 0,03 - 0,05%. Lân và kali dễ tiêu nghèo đến hơi nghèo, đa số ít hơn
10mg/100g đất. Tổng số các cation kiềm trao đổi thấp, đa số từ 1,5 - 30 me/ 100g đất.
Nhôm di động trong đất không cao, ít hơn 1,2 me/ 100g đất. Mức độ phân giải chất hữu cơ
mạnh (C/N < 8).
Sau nhiều năm thâm canh cải tạo đất xám bạc màu gley trên phù sa cổ, độ phì nhiêu
loại đất này được cải thiện. Hàm lượng mùn, đạm, lân tổng số, lân và kali dễ tiêu trong đất
tăng. Lượng nhôm và hydro di động trong đất giảm.
- Đất đỏ vàng trên đá phiến sa (Fs) Ferralic Acrisols on Shall (ACfs)
+ Diện tích 7316,34 ha chiếm 7,97% đất điều tra.
+ Phân bố tập trung ở huyện Sóc Sơn.
+ Đặc điểm: Đất hình thành ở địa hình đồi núi thấp, dốc, tầng đất mỏng, nhiều nơi bị xói
mòn trơ sỏi đá. Đất có thành phần cơ giới nhẹ (tầng đất mặt chứa có 20% sét). Tầng mặt
tơi xốp (dung trọng 0,95, tỷ trọng 2,6, độ xốp 63%. Phản ứng đất rất chua (pHKCL = 3,4 -
3,9). Hàm lượng mùn tầng đất mặt khá (4,44 - 4,85%). Các tầng đất sâu lượng mùn ít hơn
1%. Tuy nhiên tầng đất chỉ dày 25 cm. Đạm tổng số tầng đất mặt khá (0,14 - 0,28%). Lân
tổng số rất nghèo (0,04 - 0,05%), kali tổng số nghèo (0,6 - 0,9%). Lân và kali dễ tiêu đều
rất nghèo (ít hơn 8mg/ 100g đất). Hàm lượng các cation kiềm trao đổi trong đất rất nghèo
(ít hơn 2 me/ 100g đất). Khả năng trao đổi cation thấp (CEC = 14 - 22 me/100g sét). Nhiều
nhôm và sắt di động trong đất cao (tương ứng ở tầng đất mặt là 4,1 me/ 100g đất và 40 mg/
100g đất.
- Đất nâu vàng trên phù sa cổ (Fp)
+ Diện tích 1058,9 ha chiếm 1,15% đất điều tra.
+ Phân bố: Đất tập trung ở vùng đồi trung du thuộc Sóc Sơn, đó là những đồi dốc thoải hoặc lượn sóng, độ dốc trung bình 3 - 80.
+ Đặc điểm: Đất có tầng mỏng (30 - 50 cm), thành phần cơ giới nhẹ, nhiều nơi do thảm
thực vật bị tàn phá nặng đất bị xói mòn trơ sỏi đá hoặc xuất hiện kết von đá ong, kết von.
Thành phần cơ giới đất thay đổi từ cát pha đến thịt nhẹ ở tầng đất mặt và tỷ lệ cấp
hạt sét tăng dần theo chiều sâu phản ánh quá trình rửa trôi mạnh theo chiều thẳng đứng.
Tầng đất mặt tơi xốp (dung trọng 1,35, tỷ trọng 2,56, độ xốp 47,3%). Xuống sâu đất trở
nên chặt đến rất chặt (dung trọng 1,60 - 1,65, độ xốp 36 - 37%). Phản ứng của đất rất chua
(từ 3,3 - 4,1). Mùn rất nghèo (< 1,00%). Đạm, lân, kali tổng số đến nghèo (tương ứng ở
các tầng đất mặt là 0,10%; 0,07% và 0,60%). Lân và kali dễ tiêu đều rất nghèo (đa số < 5,0 mg/ 100g đất). Tổng số cation kiềm trao đổi (Ca2+, Mg2+) trong đất rất thấp (1,4 - 1,8
me/100g đất). Khả năng trao đổi thấp (16 - 20 me/ 100g sét).
- Đất thung lũng do sản phẩm dốc tụ (D)
+ Diện tích 58,36 ha chiếm 0,06% đất điều tra có 2 loại sau:
++ Đất thung lũng do sản phẩm dốc tụ không bạc màu
+ Phân bố: Đất phân bố rải rác ở Sóc Sơn, chủ yếu nằm ở các thung lũng nhỏ, hẹp.
+ Đặc điểm: Phẫu diện đất thường không đồng nhất, đất chua (pHKCL = 4,8 - 5,7). Hàm
lượng mùn trung bình (tầng mặt khoảng 2,0%). Lân tổng số nghèo (0,07 - 0,08%). Kali
tổng số hơi nghèo (0,25 - 0,65%). Các chất dễ tiêu đều nghèo (lân dễ tiêu 3,15 mg/ 100g
đất; kali dễ tiêu 4 - 8 mg/100g đất).
Tổng lượng cation trao đổi trung bình (Ca2+, Mg2+ = 10 me/ 100g đất). Khả năng
trao đổi cation trung bình (11 - 16 me/ 100g đất). Thành phần cơ giới đất phụ thuộc nhiều
vào sản phẩm dốc tụ từ trên cao đưa xuống.
++ Đất thung lũng do sản phẩm dốc tụ bạc màu
Đất thung lũng do sản phẩm dốc tụ bạc màu hình thành từ các sản phẩm có thành
phần cơ giới thô, nhẹ và ở địa hình dốc nên bị rửa trôi mạnh trở nên nghèo, chua, khô,
chặt, tầng đất thường mỏng.
Hiện tại lúa năng suất rất thấp, khoai lang đông sinh trưởng kém. Sử dụng loại đất
này cần đặc biệt quan tâm giữ ẩm, bón nhiều phân hữu cơ và bón cân đối các loại phân vô
cơ.
3.1.3. Các tiểu vùng sinh thái nông nghiệp trên địa bàn thành phố Hà Nội
Kế thừa kết quả nghiên cứu của Sở Nông Nghiệp và Phát triển Nông thôn Hà Nội,
vùng ngoại thành Hà nội được chia làm 5 tiểu vùng sinh thái nông nghiệp như sau:
- Tiểu vùng phù sa cổ trong đồng
- Tiểu vùng phù sa mới ven sông
- Tiểu vùng úng trũng
- Tiểu vùng cao trên nền đất đỏ vàng
- Tiểu vùng đất xám bạc màu
* Đặc điểm chính của các tiểu vùng sinh thái
- Tiểu vùng phù sa cổ trong đồng: chủ yếu là đất phù sa không được bồi của sông Hồng và
sông khác, địa hình khá bằng phẳng, đất đai màu mỡ. Hiện nay tiểu vùng này đang được
sử dụng để sản xuất lúa, màu, các cây trồng hằng năm khác và các cây ăn quả, điều kiện
canh tác khá thuận lợi.
- Tiểu vùng phù sa mới ven sông: chủ yếu là đất phù sa được bồi hoặc ít được bồi của sông
Hồng và sông khác, phân bố chủ yếu ven sông (ngoài đê hoặc trong đê). Đất đai màu mỡ,
nhưng bị ngập úng vào mùa mưa. Hiện nay tiểu vùng này đang được sử dụng để sản xuất
màu, cây công nghiệp ngắn ngày, và các cây ăn quả chịu úng.
- Tiểu vùng úng trũng: chủ yếu là đất phù sa úng nước, phù sa gley của sông Hồng và sông
khác. Đất thường ngập nước quanh năm. Hiện nay tiểu vùng này đang được sử dụng chủ
yếu để sản xuất 1 vụ lúa xuân (hoặc lúa xuân và 1 vụ lúa mùa bấp bênh). Các cây ăn quả
trong vùng là các cây chịu úng.
- Tiểu vùng cao trên nền đất đỏ vàng: chủ yếu là đất đỏ vàng trên đá phiến sét (Fs) và đất
đỏ vàng trên phù sa cổ (Fp) - vùng gò đồi Sóc Sơn. Đất có độ phì kém, tầng mỏng. Hiện
nay tiểu vùng này đang được sử dụng trồng cây lâm nghiệp, cây ăn quả, cây công nghiệp
lâu năm (chè) và các cây hàng năm khác. Điều kiện canh tác khó khăn (nhất là hạn thiếu
nước).
- Tiểu vùng đất xám bạc màu: chủ yếu là đất xám bạc màu (vùng Sóc Sơn, Đông Anh).
Đất có độ phì kém, địa hình khá bằng phẳng. Hiện nay tiểu vùng này đang sử dụng trồng
lúa, màu, cây công nghiệp ngắn ngày, cây ăn quả.
3.1.4. Các tiểu vùng kinh tế sinh thái vùng ngoại thành Hà nội
3.1.4.1. Xây dựng hệ thống chỉ tiêu phân hoá các tiểu vùng kinh tế - sinh thái
- Chỉ tiêu quan trọng đầu tiên là phân tiểu vùng theo các loại đất điển hình đặc trưng
cho đất của Hà nội
+ Đất phù sa cổ trong đồng
+ Đất phù sa mới ven sông
+ Đất phù sa gley úng trũng
+ Đất đỏ vàng trên địa hình cao
+ Đất xám bạc màu
- Chỉ tiêu về độ cao địa hình, tương ứng với khả năng tiêu, thoát nước: đây là chỉ
tiêu mang tính chất thực tiễn rất cao. Vì ngoài chỉ tiêu (1), đối với Hà nội mang tính đại
diện cao, tương đối đồng nhất trên địa bàn huyện thì chỉ tiêu (2), giúp cho việc xác định rõ
hơn ranh giới giữa các tiểu vùng, cho thấy tính chủ động trong sản xuất, cấp và thoát nước
cho từng khu vực.
- Chỉ tiêu về đặc điểm kinh tế, gắn với đặc điểm kinh tế - xã hội của Thủ đô Hà nội,
trong đó nổi bật là các khu dân cư, đô thị, công nghiệp lớn, sông lớn và các trục đường
giao thông quan trọng. Các nhân tố trên tác động mạnh mẽ, mang tính chất quyết định tới
xu hướng phát triển kinh tế của mỗi tiểu vùng, trên địa bàn huyện. Và chỉ tiêu (3) cho thấy
tính chất đặc thù của mỗi tiểu vùng trong từng huyện, và trên toàn Thành phố.
- Các chỉ tiêu bình quân và quy mô dân số, đất đai, đất nông nghiệp, cho thấy mức
độ lớn, nhỏ, quy mô tập trung tới mức nào của từng tiểu vùng, và giữa các tiểu vùng với
nhau.
- Một nhân tố khó định lượng bằng các chỉ tiêu cụ thể, song có giá trị quan trọng
trong việc xác định ranh giới giữa các tiểu vùng, đó là tính truyền thống trong sản xuất
nông nghiệp và sản xuất nghề của Thủ đô Hà nội. Chính nhân tố này là yếu tố quyết định để
xác định các xã vào tiểu vùng nào cho hợp lý.
Hà Nội là địa bàn không rộng, sự phân hoá các yếu tố tự nhiên theo lãnh thổ không
quá phức tạp. Những tác động về kinh tế - xã hội là hết sức quan trọng, đó là chỉ tiêu
không thể thiếu được trong việc phân chia một cách cụ thể các tiểu vùng kinh tế - sinh thái
trên địa bàn huyện.
3.1.4.2. Kết quả phân chia các tiểu vùng kinh tế - sinh thái trên địa bàn huyện
* Huyện Từ Liêm: có 3 tiểu vùng
- Tiểu vùng ven đô (phía Đông sông Nhuệ) (gọi là tiểu vùng 1) có 6 đơn vị là: Đông
Ngạc, Xuân Đỉnh, Cổ Nhuế, Trung Văn, Mỹ Đình, Thị trấn Cầu Diễn. Mật độ dân số là 2.943 người/km2 tập trung chủ yếu ở huyện Từ Liêm. Diện tích đất nông nghiệp chiếm 31% tổng quỹ đất nông nghiệp toàn huyện, bình quân đất nông nghiệp cho 1 hộ là 598m2,
cao nhất trong 3 tiểu vùng của huyện.
Tiểu vùng 1 phân bố chủ yếu trên loại đất phù sa cổ, không được bồi của sông
Hồng và đất phù sa gley của sông Hồng. Địa hình khá bằng phẳng, thoát nước tốt, còn một
số chỗ thấp ở Mỹ Đình..
Đặc điểm kinh tế - xã hội của tiểu vùng 1: Khu vực có quá trình đô thị nhanh, mất
đất cho xây dựng đô thị. Về kinh tế, ngành nghề dịch vụ rất phát triển. Về nông nghiệp có
hồng xiêm, hoa, lúa …, kinh tế hộ khu vực này có thu nhập cao nhất huyện Từ Liêm.
- Tiểu vùng phía Tây sông Nhuệ, và phía Bắc đường quốc lộ 32 (gọi là tiểu vùng 2)
có 6 đơn vị đó là: Phú Diễn, Minh Khai, Thuỵ Phương, Tây Tựu, Liên Mạc, và Thượng Cát. Mật độ dân số 1.686 người/km2. Đất nông nghiệp chiếm 33% tổng quỹ đất nông nghiệp của toàn huyện, bình quân đất nông nghiệp cho 1 hộ là 474 m2. Đây là tiểu vùng có
diện tích đất trồng cây ăn quả cao và tập trung.
Tiểu vùng 2 phân bố trên loại đất phù sa cổ sông Hồng không được bồi và đất phù
sa sông Hồng có được bồi. Địa hình phẳng, thoát nước tốt và chủ động nước tưới.
Tiểu vùng 2 là trung tâm sản xuất hàng hoá nông nghiệp của huyện Từ Liêm nói
riêng và của thành phố nói chung với các sản phẩm nổi tiếng: bưởi Diễn, cam Canh, hoa,
rau gia vị có chất lượng cao. Sản xuất nông nghiệp của tiểu vùng ổn định và phát triển.
- Tiểu vùng phía Tây sông Nhuệ, và phía Nam đường quốc lộ 32 (gọi là tiểu vùng
3), có 4 đơn vị đó là: Xuân Phương, Tây Mô, Đại Mỗ, và Mễ Trì. Mật độ dân số khá cao 2.480 người/km2. Diện tích đất nông nghiệp chiếm 35,7% tổng quỹ đất nông nghiệp toàn huyện, bình quân đất nông nghiệp cho 1 hộ thấp nhất huyện 397 m2/hộ.
Tiểu vùng 3 phân bố trên nền đất phù sa cổ không được bồi của sông Hồng, và đất
phù sa cổ gley. Địa hình bằng phẳng, thấp nhất ở Xuân Phương và Tây Mỗ.
Tiểu vùng 3 là vùng kinh tế thuần nông với lúa, lợn, cá, là vùng có tiềm năng đầu tư để tạo
ra sản phẩm có chất lượng cao. Một số làng nghề nổi tiếng như: rèn, làm bún, phở….
Trong tương lai đây là vùng có thể bị mất đất nông nghiệp cho phát triển đô thị.
Đây là tiểu vùng có kinh tế và thu nhập thấp nhất huyện Từ Liêm.
* Huyện Thanh Trì: có 4 tiểu vùng
- Tiểu vùng ven đô (gọi là tiểu vùng 1), có 4 đơn vị là: Định Công, Vĩnh Tuy, Thanh Trì và Tân Tiến. Đây là khu vực đông dân cư với mật độ dân số 3.011 người/km2.
Diện tích đất nông nghiệp thấp chiếm 8,6% tổng quỹ đất nông nghiệp toàn huyện. Bình quân đất nông nghiệp cho 1 hộ thấp nhất thành phố 256 m2/ hộ.
Tiểu vùng 1 phân bố trên nền đất phù sa cổ không được bồi của sông Hồng và đất phù sa
cổ bị gley. Địa hình bằng phẳng, có một vài chỗ thấp.
Tiểu vùng 1 là vùng phát triển đô thị chưa ổn định, thu nhập của người dân từ nhiều
ngành nghề. Sản xuất nông nghiệp có: lúa, rau, hoa cây cảnh, gia cầm, đây không phải là
tiểu vùng sản xuất nông nghiệp của huyện Thanh Trì.
- Tiểu vùng ven đường quốc lộ 1A (gọi là tiểu vùng 2), có 8 đơn vị là: Đại Kim,
Thịnh Liệt, Trần Phú, Tam Hiệp, Yên Sở, Hoàng Liệt, Tứ Hiệp và thị trấn Văn Điển. Mật độ dân số là 2.270 người/km2. Diện tích đất nông nghiệp chiếm 28% tổng quỹ đất nông
nghiệp toàn huyện. Bình quân đất nông nghiệp cho 1 hộ thuộc loại thấp của thành phố với 403 m2/1 hộ.
Tiểu vùng 2 phân bố trên 2 loại đất chính là: đất phù sa cổ không được bồi của sông
Hồng và đất phù sa cổ bị gley. Địa hình thấp dần ở các xã phía Nam tiểu vùng.
Đây là tiểu vùng có các khu vực tiêu nước thải của khu vực nội thành, môi trường
bị ô nhiễm nghiêm trọng. Kinh tế của vùng được xếp thứ 2 trong toàn huyện sau tiểu vùng
1.
- Tiểu vùng xa đô thị (gọi là tiểu vùng 3), có 9 đơn vị đó là: Hữu Hoà, Ngũ Hiệp,
Đông Mỹ, Liên Ninh, Tả Thanh Oai, Ngọc Hồi, Thanh Liệt, Đại áng và Vĩnh Quỳnh. Mật độ dân số 1997 người/km2. Diện tích đất nông nghiệp cao nhất huyện Thanh Trì, chiếm
45,1% tổng quỹ đất nông nghiệp toàn huyện. Bình quân đất nông nghiệp cho 1 hộ là 562 m2/1 hộ.
Tiểu vùng 3 phân bố trên 3 loại đất chính là: Đất phù sa cổ không được bồi, đất phù
sa cổ bị gley và đất phù sa sông Hồng úng nước. Địa hình của tiểu vùng thấp, trũng, có
diện tích lớn bị úng ngập thường xuyên.
Tiểu vùng 3 là khu vực kinh tế thuần nông, dịch vụ chưa phát triển, sản xuất nông
nghiệp với các sản phẩm chính: lúa, lợn, cá, gia cầm. Sản xuất nông nghiệp thiếu ổn định
do bị ngập trũng. Đây là vùng có kinh tế kém phát triển hơn các tiểu vùng khác trong
huyện.
- Tiểu vùng bãi ngoài đê (gọi là tiểu vùng 4), có 4 đơn vị: Yên Mỹ, Lĩnh Nam, Vạn Phúc và Duyên Hà. Mật độ dân số là 1621 người/1 km2. Diện tích đất nông nghiệp chiếm
18,3% tổng quỹ đất nông nghiệp toàn huyện. Bình quân đất nông nghiệp cho 1 hộ cao nhất của huyện Thanh Trì với 586 m2/ 1 hộ.
Do là tiểu vùng bãi ngoài đê, có 2 loại đất chính là đất phù sa mới có được bồi của
sông Hồng. Địa hình thoát nước tốt.
Kinh tế của tiểu vùng chủ yếu trồng rau, hoa màu, chăn nuôi kém phát triển, có thể
trồng nhãn trên các địa hình cao thoát nước. Một số lao động của vùng đi làm thuê và dịch
vụ. Đây là tiểu vùng có kinh tế trung bình của huyện Thanh Trì.
* Huyện Gia Lâm: có 4 tiểu vùng
- Tiểu vùng trung tâm (gọi là tiểu vùng 1), có 11 đơn vị là: Đa Tốn, Đặng Xá, Gia
Thuỵ, Trâu Quỳ, Kiêu Kỵ, Cổ Bi, Hội Xá, Việt Hưng, Dương Xá, Giang Biên và Thượng Thanh. Mật độ dân số 1444 người/km2. Diện tích đất nông nghiệp chiếm 37,6% tổng quỹ
đất nông nghiệp toàn huyện. Bình quân đất nông nghiệp cho 1 hộ cao nhất Thành phố với 864 m2/ 1 hộ.
Là tiểu vùng bằng, hơi trũng, cốt đất trung bình từ 3,5 - 4,0m. Đất chủ yếu là loại
phù sa cổ không được bồi sông Hồng và đất phù sa cổ gley.
Đây là vùng phát triển thâm canh lúa, lợn, giống cây ăn quả quan trọng của huyện
Gia Lâm, đặc biệt là khu vực Trâu Quỳ, trường Đại học Nông Nghiệp I, nơi cung cấp các
loại giống cây ăn quả cho Thành phố và các tỉnh miền Bắc.
- Tiểu vùng ven sông Hồng (gọi là tiểu vùng 2), có 9 đơn vị: Ngọc Thuỵ, Cự Khối,
Thạch Bàn, Bát Tràng, Kim Lan, Văn Đức, Bồ Đề, Long Biên và Đông Dư. Mật độ dân số 1456 người/1km2. Diện tích đất nông nghiệp chiếm 18,8% tổng quỹ đất nông nghiệp toàn huyện. Bình quân đất nông nghiệp cho 1 hộ là 571 m2/1 hộ.
Tiểu vùng 2 phân bố trên các loại đất chính: đất phù sa cổ không được bồi của sông
Hồng, đất phù sa cổ bị gley và đất phù sa sông Hồng được bồi và ít bồi. Địa hình của tiểu
vùng tương đối cao, thoát nước tốt.
Tiểu vùng có kinh tế trung bình khá, sản phẩm nông nghiệp chủ yếu là: rau, hoa
màu, cây ăn quả, lợn, nuôi bò và phát triển ngành nghề kinh tế của tiểu vùng.
- Tiểu vùng nam sông Đuống (gọi là tiểu vùng 3), có 4 đơn vị: Dương Quang, Kim Sơn, Phú Thị và Lệ Chi. Mật độ dân số là 1975 người/km2. Diện tích đất nông nghiệp
chiếm 25,8% tổng quỹ đất nông nghiệp toàn huyện. Bình quân đất nông nghiệp cho 1 hộ là 662 m2/ 1 hộ.
Tiểu vùng 3 phân bố trên các loại đất chính: Đất phù sa cổ không được bồi của sông
Hồng, đất phù sa cổ bị gley, và đất phù sa của sông khác. Địa hình tương đối cao, thoát
nước tốt.
Đây là tiểu vùng sản xuất nông nghiệp thuần tuý với các loại sản phẩm hàng hoá có
giá trị như rau, củ, hoa, lúa, ngô, cây ăn quả. Đây là tiểu vùng có thể phát triển tập trung
cây ăn quả của huyện Gia Lâm.
- Tiểu vùng Bắc sông Đuống (gọi là tiểu vùng 4), có 7 đơn vị : Yên Thường, Yên
Viên, Ninh Hiệp, Dương Hà, Đình Xuyên, Trung Màu, Phù Đổng. Mật độ dân số của tiểu vùng 3070 người/ km2, là khu vực tập trung dân cư cao nhất của huyện Gia Lâm và Thành
phố. Diện tích đất nông nghiệp chiếm tỷ lệ 18% tổng quỹ đất nông nghiệp toàn huyện. Bình quân đất nông nghiệp cho 1 hộ thuộc loại thấp của thành phố với 403 m2/ 1hộ.
Tiểu vùng 4 phân bố trên 3 loại đất chính đó là: Đất phù sa cổ không được bồi của
sông Hồng, đất phù sa cổ bị gley và đất phù sa của hệ thống sông khác.
Địa hình của tiểu vùng tương đối cao, thấp ở khu vực Ninh Hiệp, Trung Màu.
Tiểu vùng có kinh tế phát triển khá đa dạng: trồng trọt, chăn nuôi và dịch vụ với các sản
phẩm nông nghiệp có giá trị như lúa, rau, cá, bò thịt, bò sữa. Đặc biệt đây là khu vực phát
triển rau cao cấp, chăn thả bò thịt và nuôi bò sữa của huyện Gia Lâm và thành phố Hà nội.
Kinh tế của vùng đang phát triển theo hướng sản xuất hàng hoá, kinh tế của tiểu vùng ở
mức trung bình khá.
* Huyện Đông Anh: có 4 tiểu vùng
- Tiểu vùng miền Đông (gọi là tiểu vùng 1), có 6 đơn vị là: Vân Hà, Liên Hà, Dục Tú, Thuỵ Lâm, Việt Hùng, thị trấn Đông Anh. Mật độ dân số là 1855 người/1 km2. Đất
nông nghiệp chiếm 27,6% tổng quỹ đất nông nghiệp toàn huyện. Bình quân đất nông nghiệp cho 1 hộ là 398 m2/1 hộ, đây là vùng đất ít, người đông.
Tiểu vùng 1 phân bố chủ yếu trên loại đất phù sa cổ không được bồi của sông Hồng
và sông khác. Tiểu vùng có địa hình thấp, trũng, nhiều khu vực bị ngập trong mùa mưa.
Đặc điểm kinh tế của tiểu vùng là sản xuất lúa, cá, cây ăn quả có chất lượng khá
cao, tiểu thủ công nghiệp phát triển. Tiểu vùng có thu nhập kinh tế xếp loại cao của huyện
Đông Anh.
- Tiểu vùng trung tâm và phía Bắc huyện (gọi là tiểu vùng 2), có 3 đơn vị: Uy Lỗ, Cổ Loa và Xuân Nội. Mật độ dân số là 1340 người/1 km2. Đất nông nghiệp chiếm 15% tổng quỹ đất nông nghiệp toàn huyện, bình quân đất nông nghiệp cho 1 hộ là 512 m2/ 1 hộ.
Tiểu vùng 2 phân bố trên 2 loại đất chính: đất xám bạc màu và đất phù sa cổ không
được bồi. Nền địa hình cao và thoát nước tốt.
Đặc điểm kinh tế của tiểu vùng: phát triển đa dạng như du lịch, dịch vụ, nông nghiệp với
các sản phẩm chủ yếu là hoa màu, cây cảnh…Tiểu vùng đang trong quá trình phát triển.
- Tiểu vùng ven sông Hồng, sông Đuống (gọi là tiểu vùng 3), có 8 đơn vị: Vĩnh
Ngọc, Võng La, Đại Mạch, Đăng Hội, Hải Bối, Xuân Canh, Mai Lâm và Tầm Xá. Mật độ dân số 1087 người/ km2. Đây là tiểu vùng thưa dân nhất của huyện Đông Anh. Diện tích
đất nông nghiệp chiếm 27,1% tổng quỹ đất nông nghiệp toàn huyện. Bình quân đất nông nghiệp cho 1 hộ là 534 m2/ 1 hộ.
Tiểu vùng 3 phân bố chủ yếu trên đất phù sa được bồi, và ít được bồi của sông
Hồng, đất phù sa sông khác. Địa hình ngoài đê thoát nước, trong đê có một số chỗ trũng
thả cá.
Đây là vùng kinh tế thuần nông với các sản phẩm chính: sản xuất hoa màu, trồng
dâu, nuôi tằm, nuôi bò sữa và chăn thả bò thịt. Đây là khu vực có nguồn thức ăn dồi dào
cho gia súc. Kinh tế của tiểu vùng thuộc loại trung bình của huyện Đông Anh.
- Tiểu vùng miền Tây (gọi là tiểu vùng 4) có 7 đơn vị: Vân Nội, Tiêu Dược Nam Hồng, Bắc Hồng, Nguyên Khê, Kim Chung và Kim Nỗ. Mật độ dân số 1748 người/ km2.
Diện tích đất nông nghiệp chiếm 30,3% tổng quỹ đất toàn huyện. Đây là vùng bình quân đất nông nghiệp cho 1 hộ đứng thứ 2 trong huyện với 535 m2/ 1 hộ.
Tiểu vùng phân bố trên các loại đất như đất xám bạc màu và đất xám bị gley. Đất có
kết cấu nhẹ, thoát nước tốt. Đa số diện tích phân bố trên nền địa hình cao, không ngập
nước và dốc dần về phía Nam tiểu vùng.
Đặc điểm kinh tế của tiểu vùng đa dạng: sản xuất nông nghiệp, du lịch, thể thao.
Các sản phẩm nông nghiệp có ưu thế: sản xuất rau sạch, trồng hoa, cây ăn quả.
* Huyện Sóc Sơn: có 3 tiểu vùng
- Tiểu vùng ven sông (vùng thấp - gọi là tiểu vùng 1), có 4 đơn vị: Nam Sơn, Minh Trí, Bắc Sơn, Kinh Phú. Mật độ dân số 348 người/ 1km2, đây là tiểu vùng có mật độ dân
số thưa nhất huyện Sóc Sơn và thành phố Hà Nội. Diện tích đất nông nghiệp chiếm 20%
tổng quỹ đất nông nghiệp toàn huyện. Bình quân đất nông nghiệp cho 1 hộ của tiểu vùng cao nhất huyện với 703 m2/ 1 hộ.
Địa hình gò, đồi cao, thấp, chia cắt biến động mạnh, loại đất chính của tiểu vùng là
đất đỏ vàng trên đá phiến thạch sét và đất dốc tụ.
Đặc điểm kinh tế của tiểu vùng là sản xuất nông nghiệp trên đất gò đồi dốc. Thế
mạnh của tiểu vùng là trồng rừng, chè, cây ăn quả theo mô hình nông - lâm kết hợp. Vùng
có tỷ lệ vườn tạp cao, có thể bố trí trồng vải với quy mô tập trung tương đối lớn. Có thể
phát triển chăn nuôi bò, dê, ong, khai thác vật liệu xây dựng và phát triển ngành nghề.
Đây là tiểu vùng có thu nhập thấp nhất của huyện Sóc Sơn.
- Tiểu vùng giữa và đất bằng (gọi là tiểu vùng 2), có 10 đơn vị: Tâm Minh, Quang
Tiến, Tân Dân, Hiển Ninh, Phù Linh, Trung Giã, Mai Đình, Hồng Kỳ, Tiên Dược và Thị trấn Sóc Sơn. Mật độ dân số 889 người/ 1 km2. Diện tích đất nông nghiệp chiếm 37,9% tổng quỹ đất nông nghiệp toàn huyện, bình quân đất nông nghiệp cho 1 hộ là 565 m2/ 1 hộ.
Tiểu vùng được phân bố trên các loại đất như đất phù sa của sông Hồng, sông khác
có được bồi và không được bồi và đất phù sa có tầng loang lổ.
Đặc trưng về địa hình của tiểu vùng là có các khu vực đất bằng và các khu vực bậc
thang.
Đặc điểm kinh tế của vùng là có điều kiện đất đai tương đối tốt, cơ sở hạ tầng khá,
có điều kiện để thâm canh cây lương thực và cây hàng hoá như: đỗ, đậu, dưa chuột, rau
sạch… Có thể đẩy mạnh chăn nuôi lợn nạc, gà công nghiệp, bò sữa và chăn nuôi thuỷ đặc
sản. Tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ phát triển. Đây là tiểu vùng có thu nhập về kinh tế
cao nhất huyện Sóc Sơn.
Đặc điểm của vùng đất bậc thang thiếu nguồn nước tưới, tầng canh tác mỏng, bị rửa
trôi, nghèo dinh dưỡng, thích hợp với cây màu, cây công nghiệp chịu hạn và trồng cây ăn
quả các loại.
- Tiểu vùng ven sông và vùng thấp (gọi là tiểu vùng 3), có 12 đơn vị: Thanh Xuân,
Phù Lỗ, Xuân Giang, Kim Lũ, Phú Minh, Phú Cường, Đông Xuân, Việt Long, Đức Hoà, Tân Hợp, Xuân Thu và Bắc Phú. Mật độ dân số là 1164 người/ 1 km2. Diện tích đất nông
nghiệp cao nhất huyện chiếm 42,3% tổng quỹ đất nông nghiệp toàn huyện. Bình quân đất nông nghiệp cho 1 hộ là 572 m2/ 1 hộ.
Tiểu vùng phân bố trên các loại đất chính là đất phù sa được bồi, ít được bồi, và
không được bồi của các hệ thống sông và đất phù sa bị gley và úng ngập. Địa hình cao
thấp không đồng đều, nhiều diện tích thấp trũng.
Đặc điểm kinh tế của vùng thấp tập trung ven sông Cầu và hạ lưu sông Cà Lồ, có
cốt từ 3,5 - 5m. Có gần 1000 ha đất úng trũng (1 vụ) thường hay bị ngập úng ở cuối vụ
Xuân, đến giữa vụ mùa. Vùng này có thể áp dụng mô hình lúa + cá + vịt.
Đặc điểm kinh tế vùng bãi ven sông, thường bị ngập khoảng 1 tháng vào nước lũ
tiểu mãn đầu mùa và một phần vào giữa mùa lũ lớn. Thế mạnh của vùng là trồng màu:
ngô, đậu đỗ, dâu tằm, có thể bố trí ở khu vực đất cao trồng nhãn, hồng. Đây là tiểu vùng
không thể trồng cây ăn quả với quy mô lớn.
Kết luận
Kế thừa các nguồn tài liệu, thông tin đã có, bổ sung các thông tin tư liệu liên quan
đã chia vùng ngoại thành Hà nội thành 5 tiểu vùng sinh thái nông nghiệp. Mỗi tiểu vùng có
các đặc điểm đặc trưng và có các cây ăn quả chính:
- Tiểu vùng cao trên đất đỏ vàng: Bưởi các loại, vải thiều, nhãn, na dai, đu đủ.
- Tiểu vùng đất bạc màu: Bưởi các loại, vải thiều, nhãn, na dai, đu đủ.
- Tiểu vùng phù sa cổ: Cá các loại, bưởi các loại, nhãn, chuối.
- Tiểu vùng phù sa mới ven sông: Nhãn, táo, chuối, bưởi.
- Tiểu vùng úng trũng: Nhãn, hồng xiêm, bưởi.
Căn cứ vào các đặc điểm tự nhiên, kinh tế, xã hội của các xã trong từng huyện, 5
huyện ngoại thành được chia thành 18 tiểu vùng kinh tế - sinh thái làm căn cứ để định
hướng và bố trí phát triển sản xuất, phát triển trồng cây ăn quả cho các tiểu vùng sinh thái
trong từng huyện.
3.1.5. Các điều kiện về vật chất, kinh tế, kỹ thuật cho sản xuất nông nghiệp của Hà nội
3.1.5.1. Đặc điểm kinh tế bao trùm là trung tâm kinh tế, chính trị, khoa học kỹ thuật và văn
hoá của cả nước.
Theo phương án quy hoạch kinh tế, xã hội của Hà nội đến năm 2010, nhịp độ tăng
trưởng kinh tế bình quân hằng năm đạt 12 - 13% cho thời kỳ 1996 - 2000; 10 - 11% cho
thời kỳ 2001 - 2010. Với mức tăng trưởng đó, tổng giá trị GDP của kinh tế Thủ đô sẽ tăng
gấp 1,6 lần so với giai đoạn 1996 - 2000, tăng gấp 1,6 lần giai đoạn 2001 - 2005 và tăng
gấp 2,7 lần trong giai đoạn 2000 - 2010.
Bình quân GDP đầu người sẽ đạt vào các năm 2001, 2005, 2010 là 1000 - 1100
USD, 1570 - 1600 USD và 2300 USD/người/năm.
Sự tăng trưởng kinh tế nhanh như trên, là cơ sở và nền tảng quan trọng cho việc đầu
tư, phát triển kinh tế nông nghiệp, trong đó có sự phát triển hệ thống canh tác cây ăn quả
vùng đất ven sông Hồng.
Theo dự báo đến năm 2010 dân số sẽ là 3,3 triệu người, cùng với lượng khách vãng
lai có thể là 4 - 4,5 triệu người. Bình quân mức tiêu thụ quả năm 1999, qua điều tra là 55 -
65 kg/người/năm (trên 200.000 tấn/năm). Nhu cầu tiêu thụ quả có chất lượng cao cũng gia
tăng cùng với mức tiêu thụ quả. Đây là nhân tố tác động sâu sắc, là động lực chủ yếu cho
sự phát triển hệ thống canh tác vùng đất ven sông Hồng nói riêng và các huyện ngoại
thành nói chung.
3.1.5.2. Cho đến nay đã có các tiến bộ kỹ thuật và công nghệ mới được áp dụng vào sản
xuất nông nghiệp
Tuy chưa phải là công nghệ quá tiên tiến, quá hiện đại, song những gì mà chúng ta
có hiện nay, cho phép chúng ta tiến hành ngay việc đầu tư để nâng cao năng suất nông
nghiệp.
3.1.5.3. Những thuận lợi về cơ sở vật chất, kinh tế, kỹ thuật của Hà nội, chỉ có thể phát huy
có hiệu quả khi có đội ngũ lao động có tay nghề cao cùng với những cơ chế chính sách ưu
đãi thúc đẩy cho phát triển nông nghiệp
- Chính sách cho chuyển đổi cơ cấu sản xuất sang trồng cây ăn quả
- Chính sách khuyến khích người có vốn ở đô thị đầu tư về vùng nông thôn ngoại
thành.
- Chính sách vay vốn ưu đãi, vốn tín dụng.
- Chính sách đầu tư cho ứng dụng chuyển giao khoa học, kỹ thuật, đào tạo và công
tác khuyến nông.
Kết luận
Hà nội là trung tâm chính trị, văn hoá, khoa học kỹ thuật và là một trong những
trung tâm kinh tế của cả nước, có điều kiện thuận lợi cho phát triển hệ thống canh tác cây
ăn quả.
Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của Thủ đô cho phép phát triển nhiều loại cây ăn
quả có giá trị kinh tế cao, trong đó có các loại cây ăn quả đặc sản.
Hà nội nói chung và vùng đất ven sông Hồng nói riêng có lợi thế so với các vùng
khác về phát triển hệ thống canh tác cây ăn quả như thị trường tiêu thụ rộng lớn, có tiềm
lực khoa học, kỹ thuật mạnh…
Đây là nơi hội tụ đủ các yếu tố để có thể phát triển một nền nông nghiệp hàng hoá
theo hướng phát triển bền vững.
3.2. Mô tả, đánh giá hiệu quả kinh tế và môi trường của một số hệ thống canh tác
3.2.1. Hệ thống cây bưởi Diễn
3.2.1.1. Hiện trạng phân bố cây bưởi Diễn (Citrus Grandis Osbeck)
Cây bưởi là cây ăn quả có nguồn gốc từ vùng Đông Nam Châu á, thuộc họ cây có
múi (Rutaceae), được trồng ở địa bàn Hà nội từ lâu và hiện nay chúng chiếm 13,4% tổng
diện tích trồng cây ăn quả của thành phố. Đây được coi là cây ăn quả trồng có tính phổ
biến trên địa bàn các huyện ngoại thành. Có nhiều giống khác nhau như giống bưởi địa
phương (bưởi chua, ngọt…), giống bưởi trường Đại học Nông nghiệp, giống bưởi Diễn và
giống bưởi không hạt của Đài Loan mới nhập về (số lượng còn rất ít).
Kết quả điều tra khảo sát cho thấy, tổng diện tích trồng bưởi của toàn Thành phố
413,2 ha chiếm 13,4% cây ăn quả thành phố; trong đó diện tích trồng các loại bưởi khác
(bưởi địa phương, ĐHNN I, Đài Loan) chiếm 330,3 ha, tập trung ở Sóc Sơn, Đông Anh và
Gia Lâm. Giống bưởi Diễn chỉ chiếm 82,9 ha, tập trung ở huyện Từ Liêm và Đông Anh.
Về số lượng cây/hộ và cấp độ tuổi cây bưởi Diễn ở 2 xã Phú Diễn và Minh Khai như sau:
Bảng 3.2: Số lượng cây bưởi Diễn/hộ ở 2 xã Phú Diễn, Minh Khai - huyện Từ Liêm
Số lượng cây bưởi Diễn trung bình/hộ Trung Diện tích vườn (m2/hộ) bình Xã Vườn Vườn 10 - 15 - số < 5 5 - 10 > 20 15 20 cây/hộ tuổi tuổi tuổi nhà (m2) đồng (m2) tuổi tuổi
350 20 2,5 19.1 2,3 1,5 0,5 25,9 Phú Diễn
428 161 11,0 10,0 1,3 0,4 0,1 22,8 Minh Khai
389 90 6,75 14,55 1,80 0,95 0,3 24,35 Trung bình
Cây bưởi phân bố chủ yếu ở Sóc Sơn, Đông Anh và Từ Liêm và chủ yếu được
trồng ở vườn nhà của các hộ nông dân.
Năng suất quả/cây đạt trung bình 51,0 kg/cây và đạt cao ở Sóc Sơn, cây bưởi đạt
khoảng 11,9 tạ quả/ ha với mật độ khoảng 200 cây/ha. Số liệu thống kê về năng suất cho
thấy 4 huyện phía Nam của Hà nội, do sử dụng các giống mới cho năng suất trung bình, ở
Sóc Sơn do vẫn sử dụng các giống địa phương lâu năm do đó năng suất cao hơn. Kết quả
thống kê cho thấy, năng suất khá ổn định ở các vùng trồng khác nhau, không có sự chênh
lệch lớn giữa các vùng, cho thấy cây bưởi có tính thích ứng rộng, yêu cầu không khắt khe
về điều kiện trồng trọt, chăm sóc.
Số lượng quả/cây đạt trung bình là 50 - 60 quả, ở những cây có chất lượng tốt, những cây
đầu dòng, số lượng quả có thể đạt từ 130 - 150 quả/cây, năng suất đạt từ 16 - 20 tấn/ha.
Sản lượng quả bưởi, dự tính toàn thành phố đạt 2700 - 3000 tấn/năm và số lượng
này tập trung chủ yếu ở Sóc Sơn, Đông Anh và Từ Liêm.
3.2.1.2. Đặc điểm về giống, sinh trưởng, phát triển của cây bưởi Diễn
Giống bưởi Diễn sinh trưởng và phát triển tốt trên đất Từ Liêm và so với Cam Canh
thì chúng không những sinh trưởng, phát triển tốt, ra quả ổn định mà còn rất ít bị sâu bệnh
tàn phá. Đây cũng là nguyên nhân mà các chủ hộ thường lựa chọn cây bưởi để trồng ở vườn
nhà trong điều kiện đầu tư thâm canh chưa cao.
- Các thời kỳ sinh trưởng của cây bưởi Diễn
Điều tra, khảo sát ở 2 xã Phú Diễn, Minh Khai và vườn quả Công ty du lịch Từ
Liêm về các thời kỳ sinh trưởng, phát dục của các dạng hình bưởi Diễn. Qua kết quả khảo
sát cho thấy, các dạng hình của bưởi Diễn có các thời kỳ sinh trưởng không sai khác nhau
nhiều và biến động từ 3 - 5 ngày với các chỉ tiêu ra lộc cành cũng như ổn định cành, nhất
là đối với thời gian ra hoa và tàn hoa. Đặc điểm của giống bưởi Diễn cũng như các giống
bưởi khác chúng rất mẫn cảm với nhiệt độ của môi trường. Về mức độ sinh trưởng đánh
giá theo cảm quan quan sát thế sinh trưởng, độ vươn dài của cành…đây là đặc tính của các
giống bưởi Diễn hiện đang trồng.
Thời gian thu hoạch quả biến động tuỳ thuộc vào các chủ vườn, ta thấy rằng dạng 3
thường có thời gian chín sớm hơn 2 dạng hình còn lại. Cả 3 dạng hình đều có khả năng để
quả trên cây kém, nhất là vào các năm rét đậm. Bưởi Diễn thuộc nhóm bưởi nhiệt đới
(Pumelo), khả năng chịu lạnh kém, tuy nhiên dạng 1 và dạng 2 có sức chịu đựng tốt hơn
dạng 3. Để khắc phục sự rụng quả, người chủ vườn thường thu hoạch sớm để giữ cuống
quả, bảo quản 1 - 2 tuần mới bán ra thị trường vào dịp tết Nguyên Đán (xem phụ lục 1).
- Các đặc điểm sinh học chủ yếu của bưởi Diễn:
Chúng tôi đã tiến hành điều tra khảo sát tại 250 hộ gia đình trồng bưởi ở 2 xã Phú Diễn và
Minh Khai cùng với sự quan sát đo đếm tại vườn quả Công ty vườn quả du lịch Từ Liêm
về các đặc điểm ra lộc cành, ra hoa, màu sắc, kích thước lá, tán cây, số đợt ra lộc…
Từ những đặc điểm sinh vật học của các dạng bưởi Diễn cho thấy cả 3 dạng đều có
kích thước tán cây trung bình đến nhỏ, vì vậy trong thâm canh có thể trồng với mật độ dày.
Dạng 1 ra cành ngắn, đốt xít nhau nên cần phải cắt tỉa để thông thoáng bộ lá tránh rệp phá
hoại.
Cả 3 dạng đều cho ra dạng cành hoa đơn có lá là chủ yếu chiếm 66,6% tổng số cành
hoa, sau đó đến cành chùm có lá. Đây chính là điều kiện để khả năng đậu quả cao ở 2
giống này. Các giống này chịu các điều kiện bất lợi ở mức trung bình khá (xem phụ lục 2).
- Các đặc tính kinh tế của bưởi Diễn
Bưởi Diễn có đặc tính kinh tế ưu việt hơn các cây trồng khác, do đó các hộ nông dân lựa
chọn trồng bưởi nhiều hơn trong cơ cấu cây trồng trong vườn nhà mình.
Kết quả cho thấy trung bình ở cây bưởi Diễn độ tuổi 10 năm đạt 55 - 56 quả trên
cây và số lượng quả này có biến động theo các dạng hình của giống. Giống dạng 1 có số
quả nhiều và dạng 3 có số quả ít hơn. So sánh giữa 2 nơi trồng, xã Minh Khai giống bưởi
Diễn có số quả trung bình trên cây cao hơn so với Phú Diễn.
Về thành phần cơ giới của quả: các dạng hình bưởi Diễn khác nhau không nhiều và
đạt số múi, số hạt cũng như tỷ lệ phần ăn được tương đương với nhau. Trung bình của 3
dạng hình tương ứng là 13, 48, và 60,7%.
Kết quả điều tra được xử lý cho thấy, ở thời kỳ kiến thiết cơ bản giống bưởi Diễn
đạt được kích thước trung bình khá, đạt chiều cao cây 1,33m, đường kính tán 1,17m, với
số cấp cành 3,3 cấp. Trong năm trung bình có 3 đợt lộc cành mới ra. So sánh giữa các
huyện cho thấy Từ Liêm, Gia Lâm, Đông Anh, Sóc Sơn, bưởi Diễn sinh trưởng trong thời
kỳ KTCB khá hơn so với ở Thanh Trì. ở Sóc Sơn và Đông Anh số lần ra lộc trong năm có
thấp hơn so với các huyện còn lại.
ở thời kỳ kinh doanh, giống bưởi Diễn đạt được chiều cao 3 - 4m, đường kính tán từ
3,5 - 4,0m với 5 - 7 cấp cành và ra được 3 đợt lộc cành mới trong năm. Về các chỉ tiêu
hình thái cho thấy, trồng bưởi Diễn ở Thanh Trì, Từ Liêm, Gia Lâm cây sinh trưởng tán
cây rộng hơn so với trồng ở Sóc Sơn và Đông Anh. Giống bưởi Diễn trồng ở các huyện
ngoại thành Hà nội ở các thời kỳ sau không thay đổi nhiều, song số lượng quả và các chỉ
tiêu về năng suất, chất lượng quả có khác nhau và sai khác so với nguyên canh của bưởi
Diễn là Từ Liêm. Số quả/cây đạt cao ở Từ Liêm, sau đó là Thanh Trì, Đông Anh, Sóc Sơn
và cuối cùng là Gia Lâm. Trọng lượng quả bưởi Diễn trồng ở các huyện khác đều có trọng
lượng lớn hơn so với trồng ở Từ Liêm, màu sắc tép vẫn giữ được màu vàng nhưng cũng có
thay đổi (như ở Gia Lâm) và hương vị có hơi chua (như ở Sóc Sơn, Thanh Trì).
So sánh với vùng trồng nguyên canh tại Từ Liêm cho thấy giống bưởi Diễn đạt
được sức sinh trưởng ở vùng trồng khác nhau không thua kém nhiều. Cây ở thời kỳ kinh
doanh đạt được những chỉ tiêu sinh trưởng tương tự với vùng Từ Liêm, song ở những thời
kỳ vật hậu như nở hoa, chín quả sớm hơn và số quả đạt được cũng thấp hơn, nhất là trồng
ở Gia Lâm chỉ đạt 35 quả/cây. Điều tra cho thấy quả có trọng lượng lớn hơn, hương vị và
màu sắc có thay đổi so với vùng nguyên canh (xem phụ lục 3).
- Giống và cây con giống bưởi Diễn:
Bưởi Diễn, theo kết quả điều tra ở hộ, các chủ vườn đều cho thấy rằng có nguồn
gốc từ giống bưởi Đoan Hùng di thực về trồng hàng thế kỷ ở vùng này. Đây là giống được
trồng từ lâu đời và đã được chọn lọc để hình thành các đặc tính tốt như mã quả đẹp, lớn
vừa phải, vỏ trung bình, thịt quả nhiều nước, ăn dòn và chín muộn vào dịp tết Nguyên Đán
cổ truyền. Đây là những đặc tính tốt không phải giống bưởi nào cũng có, cần bảo tồn quỹ
gen và phát triển vốn gen quý này cho các vùng lân cận. Qua khảo sát chúng tôi thấy có 3
dạng hình tồn tại ở vùng trồng bưởi Diễn:
+ Dạng hình 1: Cây thấp, tán hình mâm xôi, lá nhỏ, đa số đầu lá chia thuỳ, cành ra ngắn,
đốt ngắn nên phân bố lá khá dày như là chùm lá. Quả hình cầu với đỉnh quả hơi mở rộng,
đạt trọng lượng khoảng 0,5 - 0,8 kg. Vỏ chính màu vàng đẹp, thịt quả từ màu xanh vàng
đến màu vàng nhạt, tép quả hơi nát. Cây sinh trưởng vào loại trung bình yếu, rất dễ bị
nhiễm rệp phá hoại, do đó năng suất và chất lượng kém hơn, ít được ưa chuộng.
+ Dạng hình 2: Cây đạt chiều cao trung bình, tán hình mâm xôi nhọn, lá trung bình, phiến
lá hơi cong lòng máng, đầu lá đa số chia thuỳ, bằng ở đầu lá, cành trung bình, đốt cành dài
1,1 - 1,2cm. Quả hình lê hơi tròn, mã đẹp vàng sáng, đạt trọng lượng từ 0,8 - 1,3 kg. Thịt
quả màu vàng đến vàng đậm, nước vừa phải, không dính tay, tép quả dòn, ăn ngọt đậm.
Cây sinh trưởng vào loại trung bình đến khá, bộ tán lá thoáng có khả năng cho năng suất
khá. Đây là dạng hình được trồng khá phổ biến và được nhiều người ưa thích.
+ Dạng hình 3: Cây có chiều cao khá cao (4 - 5 m), tán cây rộng hình tháp trụ. Lá to, eo lá
nhỏ tương đối so với phiến lá, đa số lá có đỉnh lá nhọn, không chia thuỳ. Cành dài, đốt
cành đạt 1,3 - 1,4 cm, phân bố lá tương đối đều. Quả hình lê, trọng lượng lớn, đạt 1,3 - 1,5
kg, màu vỏ vàng sáng, dẹp, vỏ quả dày. Thịt quả có màu trắng đến trắng vàng, ít nước,
vách múi khá dòn có vị hơi chua. Năng suất cao nhưng chất lượng quả không phù hợp với
thị trường người tiêu dùng, do vậy không được ưa chuộng.
Đặc điểm hình thái chủ yếu đặc trưng của 3 dạng hình (xem phụ lục 4)
Về giống: Hiện tại ở Phú Diễn và Minh Khai cây chiết được sử dụng khá phổ biến. Tại các
vùng trồng ở các huyện khác khi được điều tra các hộ đều trả lời sử dụng cây ghép là chủ
yếu. Vấn đề đặt ra cho các nhà khoa học là sử dụng phương thức nhân giống nào cho cây
bưởi Diễn. Do thời gian và kinh phí có hạn chúng tôi chưa có được kết quả phân tích hoá
sinh của quả ở trên các cây với phương thức nhân giống khác nhau (chiết cành và ghép) để
đánh giá chất lượng quả và chất lượng cây.
Kết quả điều tra cho thấy cây ghép ở tuổi nhỏ sinh trưởng khá khoẻ, những năm đầu mang
quả khá to, vỏ quả dày hơn. Nhiều hộ ở Phú Diễn, Minh Khai đều cho rằng cây ghép quả
không ngon như cây chiết.
Khi quan sát gốc ghép cho bưởi Diễn ở 4 loại: Bưởi đắng Thanh Hoá, bưởi chua
Phú Thọ, bưởi chua đồng bằng và chanh ơrêka. Kết quả bước đầu cho thấy, nếu ghép cây
thì nên dùng bưởi đắng Thanh Hoá.
3.2.1.3. Tình hình chăm sóc, bón phân cho cây bưởi Diễn
Điều tra tình hình chăm sóc và bón phân cho cây bưởi Diễn tại các vườn hộ gia đình
cho thấy giữa các huyện mức độ bón phân khác nhau. Những nơi như Thanh Trì, Từ Liêm
đất vườn hẹp, do đó số lượng phân bón và khả năng chăm sóc hơn so với các hộ ở huyện
Sóc Sơn, Đông Anh, Gia Lâm. Theo thống kê, lượng phân bón trung bình của thành phố
đạt mức khá về phân chuồng, phân hữu cơ; phân hoá học đạt mức độ khá cao, các hộ có sử
dụng phân kali để bón cho cây. Tuy nhiên việc bón phân không đồng đều, có hộ bón phân
đầy đủ, có hộ chỉ bón 1 - 2 loại.
Kết quả điều tra ở 2 xã Phú Diễn và Minh Khai cho thấy lượng phân bón trung bình
cho 1 cây như sau:
- Phân hữu cơ: 21 – 24 kg
- Phân Urê: 1 - 1,2 kg
- Phân lân Supe: 1 - 1,2 kg
- Phân kali sunfat: 1 - 1,2 kg
Từ số liệu điều tra cho thấy, ở những nơi trồng lớn như Sóc Sơn, Gia Lâm, Đông
Anh mức độ đầu tư phân bón cho cây thấp, bằng 50% mức trung bình thống kê toàn thành
phố. Huyện Từ Liêm, các hộ nông dân bón phân cho bưởi là đầy đủ và phổ biến nhất, có
70 - 90% số hộ áp dụng bón phân cho cây với số đợt bón, lượng bón nhiều hơn so với 4
huyện còn lại.
Về chăm sóc, qua điều tra một số thao tác kỹ thuật chủ yếu cho thấy kỹ thuật chăm
sóc xới xáo cho cây, tưới nước cho cây, phun thuốc bảo vệ thực vật, tỉa cành, quét vôi gốc
lá được áp dụng nhiều với trên 50% số hộ điều tra. Những biện pháp tỉa hoa, tỉa quả, sử
dụng các chế phẩm sinh học mới chỉ áp dụng ở số ít các hộ (15 - 28,8%) số hộ. Khi hỏi về
khó khăn trong kỹ thuật trồng bưởi, có 27,3% số hộ trả lời là khó khăn, mà khó khăn lớn
nhất là bảo vệ thực vật (như: rệp, nhện, sâu bò vẽ, bệnh greening). Trong 5 huyện điều tra,
các hộ ở huyện Từ Liêm tiến hành các biện pháp chăm sóc là phổ biến và đồng bộ hơn so
với các huyện còn lại
3.2.1.4. Chất lượng sản phẩm cây bưởi Diễn
Bưởi Diễn so sánh với bưởi cùng loại có ưu thế không chỉ thời gian chín mà cả
phẩm chất sinh hoá và thành phần cơ giới quả. Quả bưởi Diễn mặc dù khối lượng quả
nhiều hơn, ưu thế hơn về tỷ lệ phần ăn được, số hạt trong quả ít và múi quả đều hơn. Về
mặt hoá sinh, bưởi Diễn có hàm lượng vitamin C và axit hữu cơ thấp hơn bưởi Pumelo,
các thành phần khác không kém nhiều mà do đó tỷ lệ đường/axit vượt trội nhiều lần làm
cho hương vị đặc thù của quả bưởi Diễn.
Khi so sánh phẩm chất quả bưởi Diễn trồng ở địa điểm khác nhau cho thấy các địa
điểm trồng khác nhau không ảnh hưởng nhiều đến chất lượng quả cả về thành phần cơ giới
lẫn thành phần sinh hoá. Bưởi Diễn là cây trồng có tính thích ứng rộng, khoẻ và ổn định,
không yêu cầu khắt khe về điều kiện trồng trọt như cây trong họ có múi cùng loại như cam
Canh (xem phụ lục 8).
3.2.1.5. Hiệu quả kinh tế và hiệu quả môi trường của cây bưởi Diễn
- Hiệu quả kinh tế: Bưởi Diễn là loại cây trồng có sản phẩm chất lượng cao, dễ bảo
quản (bảo quản theo kỹ thuật dân gian cũng được 1 - 2 tháng sau thu hoạch) để có thể chủ
động cung ứng sản phẩm cho thị trường vào thời điểm thích hợp, có lợi cho người sản xuất,
hiệu quả sản xuất kinh doanh cao. Kết quả tính toán đầu tư và hiệu quả kinh tế được trình bày
chi tiết ở bảng sau (xem phụ lục 9).
- Hiệu quả môi trường: Bưởi Diễn là loại cây có tán cao, xanh quanh năm, vào mùa
đông khi hầu hết các loại cây ăn quả đã qua chu kỳ thu hoạch thì bưởi Diễn vẫn mang quả
trên tán cây, đây là một lợi thế để khai thác kinh doanh du lịch cảnh quan - sinh thái.
Là loại cây có phổ thích nghi rộng, dễ chiết ghép với nhiều loại cây khác trong
vườn góp phần cải tạo vườn tạp, giữ gìn cảnh quan môi trường.
3.2.2. Hệ thống cây Cam Canh
3.2.2.1. Hiện trạng phân bố cây Cam Canh
Cây cam Canh, mặc dù tên gọi là Cam, nhưng được xếp vào nhóm quýt bởi lá có eo
lá rất nhỏ, tử diệp có màu xanh, hạt tròn, vỏ quả dễ tách và là cây ưa điều kiện ẩm, chịu
lạnh không cao. Có nhiều giống khác nhau được trồng ở Việt Nam, song những giống quýt
chín muộn không nhiều và phần lớn là các giống đã được chọn lọc lâu đời, hình thành
những giống nổi tiếng như Cam Canh. Do chín muộn, quả có hương vị thơm ngon, các hộ
nông dân đều muốn trồng loại cây này. Cùng với Cam Canh, trên địa bàn còn trồng các
giống quýt Tích Giang, quýt Bố Hạ, cam bù Hương Sơn…
Kết quả điều tra cho thấy, Hà nội hiện có 82,5ha trồng Cam Canh với 34,2 ha ở thời
kỳ kiến thiết cơ bản chiếm 41,5% và 48,3 ha ở thời kỳ kinh doanh chiếm 58,5% tổng diện
tích. Số diện tích trồng phân bố ở Từ Liêm (29,6 ha), Đông Anh (20,3 ha) và Sóc Sơn
(12,9 ha), Gia Lâm (10,6 ha), thấp nhất ở Thanh Trì chỉ có 1,7 ha và ở 3 quận là 7,4 ha.
Trong cơ cấu diện tích cây ở độ tuổi kinh doanh, độ tuổi KD2 là chiếm tỷ trọng cao, độ
tuổi KD3 chỉ có 10,5ha. Diện tích ở độ tuổi kinh doanh tập trung ở Từ Liêm và Đông Anh.
Có thể xem xét số lượng cây/hộ và phân cấp tuổi cây của cam Canh ở 2 xã Phú Diễn và Minh
Khai như sau:
Bảng 3.3: Số lượng cây cam Canh trung bình
của một hộ ở 2 xã Phú Diễn, Minh Khai
Số lượng cây cam Canh trung bình/hộ Trung Diện tích vườn (m2/hộ) bình Xã Vườn Vườn 10 - 15 - số < 5 5 - 10 > 20 15 20 cây/hộ tuổi tuổi tuổi đồng (m2) tuổi tuổi nhà (m2)
20 - 0,5 - - - 0,5 350 Phú Diễn
161 13,5 5,2 0,5 0,3 0,03 19,53 428 Minh Khai
90 6,75 2,85 0,25 0,15 0,01 10,0 389 Trung bình
Trung bình của 2 xã cho thấy, cây cam Canh ở độ tuổi dưới 5 tuổi đạt 6,75 cây/hộ
chiếm 67,5% số cây cam trồng ở một hộ, các cây ở độ tuổi 5 - 10 tuổi là 2,85% cây/hộ.
Về năng suất, trung bình toàn thành phố đạt 111,3 tạ/ha, huyện Đông Anh và Từ
Liêm là 2 huyện có năng suất cao hơn các huyện còn lại.
Số quả bình quân/cây đạt từ: 170 - 180 quả, ở những cây tốt (cây đầu dòng), số quả
trên cây có thể đạt từ 220 - 280 quả/ cây, cá biệt có cây đạt 500 quả/cây.
Về phân bố diện tích trên toàn thành phố, Từ Liêm và Đông Anh là 2 vùng Cam của thành
phố. Xét trên địa bàn ở một số huyện thì cam Canh phân bố ở các xã có địa hình cao trung
bình như Mai Đình, Tiên Dược (Sóc Sơn), Trâu Quỳ, Dương Xá… trên những chân đất
vàn đến hơi cao nơi mà đảm bảo tầng dày lớp đất cũng như chế độ nước cho cây.
3.2.2.2. Đặc điểm về giống, sinh trưởng, phát triển của cây Cam Canh
- Đặc điểm sinh trưởng của cam Canh
Kết quả khảo sát và điều tra tại các thực địa ở các vườn trồng về khả năng sinh
trưởng của Cam Canh cho thấy cam Canh có thời kỳ mang quả rất dài bắt đầu từ khi ra hoa
đến thu hoạch quả và kéo dài đến tháng 11. Vì vậy mà các đợt lộc mới ra có ảnh hưởng rất
lớn đến quá trình làm quả. Giống cam đường đợt lộc hè ra ít hơn so với giống cam mật. Cả
2 dạng đều có lứa lộc xuân và lộc thu ra khá nhiều, đợt lộc đông ít.
So sánh về mức độ sinh trưởng cũng cho thấy, dạng cam mật có sức sinh trưởng
khoẻ hơn, sau thu hoạch quả, lá rụng ít hơn so với dạng cam đường. Vì tỷ lệ đậu quả, số
quả/cây ở dạng cam đường lớn, cây đã phải dồn vào nuôi quả, các cành ra lại ngắn, tập
trung ở đầu cành mẹ nên các lá ít có điều kiện ánh sáng tốt, dễ bị rụng. Điều này cho thấy
rằng trong thực tế các cây dạng cam đường thường cho quả ít ổn định và hiện tượng cây
đuối sức, xuống sức sau vụ quả nhiều (xem phụ lục 5).
- Một số đặc điểm sinh học chủ yếu của Cam Canh
Cả 2 dạng của cam Canh đều có cành hoa đơn lá chiếm tỷ trọng cao trong tổng số
cành hoa ra ở vụ Xuân, chiếm từ 65 - 75%, sau đó là cành đơn không có lá và cành chùm ít
lá. Loại cành hoa mỗi nách lá một hoa ở 2 dạng này thấp đạt 5%. Lộc xuân so với lộc thu
thường có độ dài ngắn hơn so với dạng cam mật, điều đó dẫn đến kích thước đường kính
tán cũng nhỏ hơn. ở cây 10 - 15 tuổi kích thước đường kính tán cây của 2 dạng này đạt
trung bình 3,1m; chu vi thân cách gốc 20cm đạt 29,5 cm và trên cây quan sát được 3 - 4
đợt lộc ra trong năm. ở cả 2 dạng đều quan sát thấy sâu bò vẽ, nhện và sẹo phá hoại (xem
phụ lục 6).
- Các đặc tính kinh tế của Cam Canh
Thông qua điều tra ở 250 hộ gia đình có trồng Cam Canh ở xã Phú Diễn và Minh
Khai cho thấy:
Bảng 3.4: Các yếu tố cấu thành năng suất và
năng suất của Cam Canh
D2: cam D3: cam Các thời kỳ sinh trưởng Trung bình đường mật
1. Số quả trung bình trên cây (quả/cây) 160,0 141,5 150,7
- Xã Phú Diễn 150,0 130,0 140,0
- Xã Minh Khai 170,0 153,0 161,5
2. Trọng lượng trung bình của quả (gr) 140,0 155,0 147,5
3. Năng suất quả/cây (kg/cây)-ước tính 22,4 21,9 22,1
4. Số múi/quả (múi) 11,0 10,5 10,7
5. Số hạt/quả (hạt) 6,0 7,1 6,5
6. Tỷ lệ phần ăn được (%) 85,0 75,4 80,2
Kém Khá 7. Khả năng cất giữ, bảo quản quả qua Trung bình
điều tra
Tại 2 nơi trồng khác nhau, số quả/cây cũng khác nhau và trồng ở Minh Khai cây có
nhiều quả hơn. Giống cam đường có số quả/cây cao hơn cam mật nhưng không nhiều, 150
cây/quả. Trọng lượng quả và năng suất giữa 2 dạng chênh lệch không nhiều. Tuy nhiên về
thành phần cơ giới của quả cho thấy dạng cam mật tuy có to hơn, song số hạt nhiều, vỏ dầy
nên tỷ lệ phần ăn chỉ chiếm 75,4% trọng lượng quả, thấp hơn so với giống cam đường.
Theo kết quả điều tra phỏng vấn các chủ hộ trồng cam đều cho rằng, cam mật để được lâu
hơn so với cam đường sau khi thu hái từ 5 - 7 ngày. Đối với cam đường khi thu hái cần
bán ngay, để lâu sẽ giảm cân, trong khi đó cam mật có thể kéo dài hơn.
Qua thực tế điều tra và khảo sát chúng tôi thấy, ở thời kỳ KTCB cây cam Canh có
sức sinh trưởng trung bình, ở Sóc Sơn yếu hơn so với các huyện khác do hạn hán.
Trong thời kỳ kinh doanh, cây cam Canh đạt độ cao trung bình là 2,1m, đường kính
tán 2,1m, chu vi thân 19,1 cm và 4,6 cấp cành. ở thời kỳ này cây cam Canh đã đạt các chỉ
tiêu sinh trưởng khá nhất. Các thời kỳ vật hậu của giống không sai khác nhau nhiều giữa
các huyện, Gia Lâm, Đông Anh Cam Canh có ra hoa sớm hơn một chút (số liệu điều tra từ
hộ nông dân trồng cam).
Năng suất và các yếu tố cấu thành năng suất của cam Canh biến động lớn ở các
vùng khác nhau. Năng suất ở Từ Liêm đạt cao nhất, sau đó đến Đông Anh, Thanh Trì.
Trung bình toàn thành phố đạt 176,6 quả/cây và trọng lượng quả trung bình 125gr. Về
phẩm chất sinh hoá chưa có kết quả phân tích, theo các chủ hộ cho biết chúng đều giữ
được màu đỏ, ngọt mát nhưng lại có xơ bã nhiều khi trồng ở Sóc Sơn, Đông Anh, Gia
Lâm.
- Giống và cây giống Cam Canh:
Những khảo sát về giống được tiến hành chủ yếu ở Từ Liêm tại 2 xã Phú Diễn và
Minh Khai. Hiện tại ở Từ Liêm đang trồng 3 dạng hình là: cam ngọt mật, cam ngọt đường
và cam chua. Kết quả khảo sát, điều tra cho thấy giống cam Canh được trồng có thể được
chia làm 3 dạng hình như sau:
+ Dạng 1: Tên gọi địa phương "cam chua" có đặc điểm sinh trưởng khoẻ, tán cây có dạng
hình mâm xôi, lá xanh đậm đến xanh, phản quang, đỉnh lá nhọn và dài, mép lá phẳng. Lá
có độ lớn trung bình, hình thuôn dài. Quả to, khi chín có màu vàng đỏ với các vệt nổi rõ.
Phẩm vị quả chua đến rất chua. Hiện nay giống này còn rất ít.
+ Dạng 2: Tên gọi địa phương "cam đường" có đặc điểm sinh trưởng trung bình đến yếu,
lá nhỏ đốt cành ngắn và nhiều cành trên cành mẹ. Lá thuôn tròn, đầu lá hơi tù, mép lá
phẳng hơi có răng cưa. Quả trung bình, khi chín có màu đỏ hơi thẫm. Phẩm vị ngọt, mát
thơm, vỏ quả rất mỏng. Tỷ lệ đậu quả rất lớn do vậy năng suất cao. Quả không đều và nhỏ
khi để quả quá nhiều trên cây. Tán cây dạng hình dù.
+ Dạng 3: Tên gọi địa phương "cam mật", cây sinh trưởng khá, đốt cành dài, tán cây có
dạng hình cầu hoặc hình dù rộng. Do cành dài nên tán rộng thưa. Lá to trung bình, đầu lá
nhọn nhưng ngắn hơn giống cam chua. Quả trung bình khi chín có màu đỏ sẫm, vỏ quả
dày. Phẩm vị ngọt đậm, thơm và có thể để trên cây lâu hơn 2 giống trên. Đây là giống có
khả năng cho năng suất khá, song không nhiều quả như giống cam đường.
Kết quả điều tra cho thấy (xem phụ lục 7): giống cam mật (dạng hình 3) có kích
thước tán cây lớn hơn, quả to hơn và có mầu xanh đậm, lóng cành dài, quả có màu vàng,
vỏ dày do đó tỷ lệ phần ăn được thấp hơn dạng 2 (cam đường). Các hộ điều tra cho rằng
chất lượng quả giống này ăn đậm hơn, màu tép quả cũng như vỏ quả đậm hơn. Dạng cam
đường được trồng phổ biến hơn so với dạng 1 với đặc điểm tán cây nhỏ hơn, lá có màu
xanh vàng, số lượng quả nhiều nhưng quả nhỏ, vỏ mỏng và có vị ngọt mát. Màu sắc tép
quả và vỏ quả có màu đỏ đẹp.
Về cây giống: các hộ nông dân Từ Liêm thường sử dụng phương thức chiết cành,
theo họ khi ghép, phẩm chất quả không còn như xưa nữa. Tuy nhiên ở các huyện khác cam
Canh chủ yếu là cây ghép trên gốc bưởi (C.grands) và cũng quan sát thấy hiện tượng chân
voi.
Thời vụ chiết từ tháng 9 đến tháng 12, và từ tháng 2 đến tháng 5 năm sau, đa số các
hộ thích triết cành ở vụ thứ nhất. Độ lớn cành chiết dao động từ 1,0 - 2,5cm về đường
kính. Vật liệu chiết: Đất + phân hoặc rễ bèo v.v…Sau 20 - 25 ngày cành chiết đã ra rễ, sau
2 - 2,5 tháng là cắt cành khỏi cây đem đi trồng.
3.2.2.3. Tình hình chăm sóc, bón phân cho cây Cam Canh
Kết quả điều tra cho thấy, trung bình toàn thành phố, lượng phân bón một năm cho
cam Canh: phân hữu cơ 17,2 kg/cây, có 73,9% số hộ áp dụng; phân hỗn hợp NPK là 2,8 kg
với 33,1% số hộ áp dụng; phân Ure 0,7 kg, có 40,7% số hộ áp dụng. So với yêu cầu của
cam Canh là cây đòi hỏi thâm canh cao và so với vùng trồng có kinh nghiệm ở xã Phú
Diễn, Minh Khai huyện Từ Liêm thì lượng bón này còn thấp và đạt 1/2 hoặc 2/3 lượng bón
cho cây 1 năm. Số liệu điều tra cũng cho thấy, các hộ mới chỉ chú ý bón phân chuồng và
phân lân, các phân bón dinh dưỡng khác mới chỉ có khoảng 30 - 40% số hộ áp dụng.
Tình hình phân bón ở từng huyện cho thấy, huyện Từ Liêm có lượng phân bón khá
cao và đầy đủ các dạng phân dinh dưỡng, các huyện còn lại đều bón ở mức thấp, ngay cả
phân hữu cơ (chưa đạt 20kg/cây). Huyện Sóc Sơn và Gia Lâm các hộ nông dân chưa sử
dụng phân kali để bón cho cây. Số đợt bón phân trong năm đạt ở mức 3 lần trong toàn
thành phố. ở Từ Liêm các hộ đã chia phân bón làm 6 đợt trong năm, thích hợp với việc
thâm canh cam Canh vì cây đòi hỏi dinh dưỡng trong một thời gian dài mang quả.
Về chăm sóc: các biện pháp làm khá phổ biến ở các hộ của các vùng là xới xáo gốc,
tưới nước, phun thuốc bảo vệ thực vật. Các biện pháp chăm sóc khác như tỉa hoa, quả chỉ
có ở các hộ nông dân ở Từ Liêm chiếm đến 81,8%.
Có đến 53% số hộ được hỏi có khó khăn về kỹ thuật trồng trọt và chăm sóc ngay cả
các hộ ở Từ Liêm, nơi đã có kinh nghiệm trồng cam. Các khó khăn chủ yếu là sâu bệnh và
rụng quả, đặc biệt bệnh greening đã xuất hiện và hại vườn cây ở vùng cam đặc sản của Từ
Liêm.
Thời vụ trồng cam Canh ở Hà nội chủ yếu vào vụ xuân, ở Sóc Sơn, Đông Anh
người dân trồng cả vào vụ thu.
3.2.2.4. Chất lượng sản phẩm cây cam Canh
Kết quả phân tích, đánh giá quả cam Canh Hà nội và các quả cùng loại ở các vùng
khác cho thấy, cam Canh Hà nội nhìn chung có ưu thế hơn so với quýt đường Lạng Sơn về
cả thành phần hoá sinh cũng như thành phần cơ giới của quả. Cam Canh có tỷ lệ ăn được
cao hơn, hạt ít hơn và khối lượng quả lớn hơn so với quýt đường Lạng Sơn. Về thành phần
hoá sinh, Cam Canh không thua kém gì lượng chất khô, đường tổng số, song hàm lượng
axit hữu cơ và vitamin C thấp hơn, do đó khi ăn có vị ngọt hơn và tạo nên hương vị ngọt
mát của cam Canh.
Về phẩm chất quả cam Canh trồng ở các vùng khác nhau của Hà nội, do điều kiện
thời gian, các kết quả phân tích ở nơi trồng Đông Anh, Sóc Sơn chưa có, kết quả phân tích
ở khu vực Từ Liêm cho thấy ở 2 nơi trồng là xã Minh Khai (nhà bác Nguyễn Văn Tiến) và
vườn quả Công ty du lịch Từ Liêm chất lượng quả cũng có sự khác nhau về hàm lượng
chất khô, đường tổng số cũng như khối lượng vỏ và tỷ lệ phần ăn được. Chất lượng quả
cam Canh phụ thuộc lớn vào điều kiện trồng trọt như đất đai, khả năng chăm bón…(xem
phụ lục 8).
3.2.2.5. Hiệu quả kinh tế và hiệu quả môi trường cây cam Canh
- Hiệu quả kinh tế: Cam Canh là cây ăn quả đặc sản không chỉ của Hà nội mà còn
nổi tiếng trong cả nước. So với nhiều loại cây ăn quả khác cam Canh có mức thu nhập và
thu nhập thuần lớn nhưng năng suất kém ổn định bởi rất mẫn cảm với các điều kiện môi
trường. Phát triển sản xuất cây cam Canh kết hợp với các loại cây ăn quả khác sẽ tăng hiệu
quả sản xuất trên 1 đơn vị diện tích vườn cây, tăng thu nhập cho hộ, tạo thêm công ăn việc
làm cho người lao động. Qua kết quả điều tra cho thấy 1ha cây Cam Canh bà con có tổng
thu khoảng 170 triệu đồng/năm, thu nhập khoảng 163,5 triệu đồng/năm, thu nhập thuần là
158,8 triệu đồng/năm (xem phụ lục 9).
- Hiệu quả môi trường: Mô hình trồng cam Canh thích hợp góp phần cải tạo môi
trường sinh thái theo hướng có lợi, phát triển kinh tế trang trại vườn sinh thái du lịch.
3.2.3. Hệ thống cây Hồng xiêm Xuân Đỉnh
3.2.3.1. Hiện trạng phân bố cây Hồng xiêm Xuân Đỉnh (Achras Sapota Lamk)
Hồng xiêm là cây trồng khá phổ biến ở các vườn quả của các hộ gia đình trên địa
bàn Hà nội. Là cây nhiệt đới, song hồng xiêm có tính thích ứng rộng, năng suất ổn định, ít
sâu bệnh. Giống hồng xiêm Xuân Đỉnh với hương thơm, vị đậm, ruột vàng ngà, ít hạt, thịt
quả mịn, ít xơ là giống hồng được các chủ vườn trồng nhiều hơn so với giống hồng xiêm
Thanh Hà, Hồng xoài Huế.
Toàn thành phố hiện tại có 259,7 ha trồng hồng xiêm với giống hồng xiêm Xuân
Đỉnh, trong đó có 25,6 ha ở thời kỳ KTCB (10%) và 234,1 ha ở thời kỳ KD (90%). Diện
tích trồng mới hồng xiêm Xuân Đỉnh trong những năm qua không tăng nhiều với diện tích
KD1 46,3 ha chiếm 19,8%, diện tích KD2 103,8 ha chiếm 44,3% và diện tích KD3 84 ha
chiếm 35,9%. Khó khăn trong việc thu hoạch vì khó nhận biết quả đủ độ chín để thu
hoạch. Hiện tại diện tích trồng tập trung ở huyện Từ Liêm 60,4 ha với 53,0 ha kinh doanh,
Đông Anh 64,7 ha với 59,6 ha kinh doanh, tiếp đó là Thanh Trì, Gia Lâm. Những cây có
độ tuổi cao tập trung ở Từ Liêm và một số ít ở Gia Lâm, còn các huyện khác cây hồng
xiêm ở độ tuổi KD2 chiếm ưu thế.
Về năng suất quả, trung bình toàn thành phố đạt 101,1 tạ/ha và đạt sản lượng toàn
thành phố là 2100 - 2500 tấn/năm. Các chỉ tiêu về năng suất hồng xiêm ở Hà nội thấp so
với bình quân chung (từ 15 - 25 tấn/ha).
Số lượng quả/cây, theo điều tra thống kê ở Sóc Sơn là 700 quả, ở Gia Lâm 420 quả,
ở Đông Anh 670 quả, ở Thanh Trì 900 quả, ở Từ Liêm 620 quả.
Kết quả điều tra cũng cho thấy, hồng xiêm Xuân Đỉnh đạt được kích thước tán cây
khá lớn và các vườn có độ tuổi cao, phần lớn các cành đã giao tán nhau và vì vậy năng suất
quả không đạt được tối ưu. Đây là vấn đề cần quan tâm khi tiến hành phục tráng lại giống
hồng xiêm Xuân Đỉnh.
Sự phân bố của hồng xiêm Xuân Đỉnh phổ biến ở các vườn nhà, vườn trong khu
dân cư, trồng ở vườn đồng không nhiều ngay cả ở các xã có diện tích vườn khá rộng như
Sóc Sơn, Đông Anh.
3.2.3.2. Đặc điểm về giống, sinh trưởng, phát triển của cây hồng xiêm Xuân Đỉnh
Trong thời kỳ kiến thiết cơ bản, cây hồng xiêm sinh trưởng đạt mức trung bình khá
về các chỉ tiêu chiều cao cây, đường kính tán, số cấp cành. Trung bình của thành phố, hồng
xiêm đạt chiều cao 3,6m, đường kính tán 3,1m và ra từ 2 - 3 cấp cành trong thời kỳ KTCB.
Số liệu điều tra cho thấy, ở Đông Anh cây hồng xiêm sinh trưởng tốt hơn so với các huyện
khác. ở Sóc Sơn cây hồng xiêm sinh trưởng kém hơn do đất đai ở đây thường bị khô hạn
trong mùa khô.
Trong thời kỳ kinh doanh cây đạt chiều cao trung bình 8,1m, đường kính tán 7,1m
và chu vi thân 52,4 cm. Cây hồng xiêm thời kỳ này có kích thước khá lớn vì vậy cần bố trí
khoảng cách và mật độ thích hợp. Đã quan sát thấy hiện tượng rụng hoa, quả non ở những
vườn trồng dày ở Xuân Đỉnh trong thời kỳ kinh doanh. ở 5 huyện, theo điều tra, hồng xiêm
đều ra hoa chính vào tháng 2 kéo dài đến tháng 5, ở Từ Liêm còn thấy có đợt ra hoa vào
tháng 7 - 8. Năng suất và các yếu tố cấu thành năng suất của hồng xiêm khá cao. Trung
bình năng suất quả của cây > 20 tuổi đạt 70 - 80 kg/cây, tuy nhiên thời gian thu hoạch kéo
dài 3 tháng, từ tháng 7 đến tháng 10 và như vậy số quả trên cây có thể đạt 600 - 700 quả. ở
Gia Lâm, cây hồng xiêm đạt số quả thấp hơn so với các huyện khác, quả có trọng lượng
đạt 95 gr/quả, màu sắc vỏ quả không biến động nhiều, ăn ngọt và có sắc hồng ở thịt quả.
- Giống và cây giống hồng xiêm Xuân Đỉnh
Điều tra, khảo sát tại Xuân Đỉnh, nơi trồng hồng xiêm truyền thống, cây hồng xiêm
cao tuổi nhất trong số hộ điều tra là cây của cụ Đỗ Đình Nghị, trồng từ năm 1918 có chiều
cao đến 15m, đường kính tán 13m, chu vi thân 135cm. Đây là dạng hồng xiêm có quả
thuôn dài (tên gọi địa phương là dạng trứng ngỗng) với trọng lượng quả đạt 65 - 70 gr.
Màu đỏ hồng ở thịt quả. Qua điều tra khảo sát chúng tôi còn thấy ngoài dạng trứng ngỗng,
ở Xuân Đỉnh còn có dạng quả hình tim tròn, quả có trọng lượng lớn hơn 75 - 80 gr, với lá
dài hơn. Cả hai dạng, lá xanh đậm, lá non mới ra có màu xanh nhạt, các mép lá đều lượn
sóng và quả có màu nâu, thịt quả vàng hồng đến vàng hồng đậm.
Theo bà con ở xã Xuân Đỉnh thì dạng hình tim có năng suất cao hơn 72 kg quả/cây.
Các cây trồng ở huyện Từ Liêm cũng như ở các huyện khác đều là cây giống nhân bằng
phương pháp chiết cành. Vấn đề khó khăn đối với các hộ trồng là phương pháp chiết để
nhân giống đối với hồng xiêm.
Theo giáo sư Trần Thế Tục, rễ hồng xiêm thuộc loại ăn nông, đại bộ phận tập trung
ở tầng đất 0 - 40 cm(90 - 92% khối lượng rễ). Độ canxi của rễ cách gốc khoảng 150 - 250
cm, nhưng phần lớn tập trung ở khoảng cách 0 - 100 cm (80 - 85% khối lượng rễ). Bộ rễ
hồng xiêm Thanh Hà ăn sâu và rộng hơn hồng xiêm Xuân Đỉnh. Hồng xiêm Thanh Hà có
bộ khung tán khoẻ, lá nhiều và năng suất các lứa đều hơn các giống hồng xiêm Xuân Đỉnh.
3.2.3.3. Tình hình chăm sóc, bón phân cho cây hồng xiêm Xuân Đỉnh
Số liệu điều tra khảo sát cho thấy, cây hồng xiêm ít được đầu tư chăm sóc hợp lý,
ngoại trừ vùng trồng truyền thống là Xuân Đỉnh của Từ Liêm, đầu tư chăm sóc đạt mức
khá. Trung bình của thành phố phân chuồng 20kg/gốc, NPK là 2,7 kg, đạm ure 0,9kg, lân
2,2 kg và kali 0,4 kg/cây/năm với 2 - 3 lần bón, với mức độ khoảng 50% số hộ tiến hành
bón. 20% số hộ dùng phân kali để bón.
Các chăm sóc khác, qua điều tra có 88,6% số hộ có tưới nước cho cây và khá đồng
đều ở các nơi trồng, nhưng kỹ thuật chăm sóc khác chỉ có khoảng 17 - 20% số hộ áp dụng.
Những kỹ thuật tải quả, phun các chế phẩm cho cây hầu như không áp dụng ở các hộ điều
tra. Cây hồng xiêm là cây dễ thích nghi với yêu cầu chăm sóc như hiện tại, đạt năng suất
khá và nếu được đầu tư chăm sóc hợp lý năng suất sẽ cao hơn.
Những khó khăn về kỹ thuật trồng trọt, có 62,4% số hộ trả lời có gặp khó khăn,
nhất là về khâu nhân giống hồng. Thời vụ trồng hồng ở Hà nội chủ yếu vào vụ xuân, từ
tháng 2 đến tháng 4 hàng năm.
3.2.3.4. Chất lượng sản phẩm cây hồng xiêm Xuân Đỉnh
Kết qủa điều tra cho thấy, hồng xiêm Xuân Đỉnh có phẩm chất quả ưu việt hơn
hồng xiêm Thanh Hà về cả thành phần hoá sinh cũng như thành phần cơ giới của quả, số
hạt trong quả. Nếu so sánh các địa điểm trồng khác nhau đối với hồng xiêm Xuân Đỉnh
cho thấy trồng hồng xiêm Xuân Đỉnh phẩm chất quả đều khá hơn các địa điểm trồng khác
(Đông Anh, Sóc Sơn) về thành phần hoá sinh, khối lượng quả, số hạt/ quả, tỷ lệ thịt quả
…Tuy nhiên ở địa điểm trồng Đông Anh, Sóc Sơn chất lượng quả hồng xiêm Xuân Đỉnh
so với trồng ở Xuân Đỉnh cũng không thua kém nhiều. Điều này cho thấy nếu được chăm
sóc tốt, bón phân tốt hơn thì chất lượng quả của các địa điểm trồng khác nhau cũng có thể
được cải thiện tốt hơn (xem phụ lục 8).
3.2.3.5. Hiệu quả kinh tế và hiệu quả môi trường của cây hồng xiêm Xuân Đỉnh
- Hiệu quả kinh tế: Là giống hồng xiêm có chất lượng tốt, có khả năng thích nghi
rộng, chu kỳ kinh tế kéo dài, sản phẩm dễ vận chuyển do đó giá trị kinh tế cao. So với bưởi
Diễn và cam Canh, hồng xiêm Xuân Đỉnh có thu nhập và thu nhập thuần không cao bằng
nhưng cao hơn các loại cây ăn quả khác. 1ha hồng xiêm Xuân Đỉnh bà con nông dân thu
nhập được khoảng 24,5 triệu đồng và thu nhập thuần là 21,1 triệu đồng (xem phụ lục 9).
- Hiệu quả môi trường: Hồng xiêm là cây có phổ thích nghi rộng, do đó nếu được
trồng trên các loại đất lâm nghiệp, đất trống đồi núi trọc và đất chuyên màu chuyển đổi,
vừa khai thác sản phẩm quả vừa tăng độ che phủ đất. Ngoài ra hồng xiêm được trồng kết
hợp với tập đoàn cây ăn quả khác hình thành địa bàn khai thác du lịch sinh thái.
3.2.4. Hệ thống cây hồng quả
3.2.4.1. Hiện trạng phân bố cây hồng quả
Mặc dù là cây ăn quả quý song ở địa bàn Hà nội cây Hồng quả cũng chỉ là cây mới
đưa vào trồng và mới được khuyến cáo trong vài ba năm trước đây cho vùng đất đồi và bạc
màu của 2 huyện Đông Anh và Sóc Sơn. Hồng quả là cây trồng chịu khô hạn, có nguồn
gốc từ vùng á nhiệt đới, ít sâu bệnh và năng suất quả ổn định. Những giống Hồng được
trồng ở Hà nội phần lớn là giống Hồng Thạch Thất cho vùng đồi và giống Hồng Nhân Hậu
cho vùng đất thấp có mức nước ngầm cao.
Diện tích trồng hồng quả trên địa bàn Hà nội không nhiều chiếm 14,6 ha trong đó
tập trung ở Sóc Sơn với 4,3 ha, Gia Lâm 3,7 ha, Đông Anh 2,7 ha. Trong tổng số diện tích
này thì diện tích cây cho ăn quả (KD) là 10,3 ha chiếm 72,0% diện tích.
Cây hồng quả đã được đề cập nhiều trong các chương trình phát triển cây ăn quả
của các huyện song diện tích chưa được mở rộng do có nhiều nguyên nhân dẫn đến hiệu
quả kinh tế của cây chưa cao như thời kỳ KTCB kéo dài (5 năm), cho quả ổn định song
năng suất thấp do hiện tượng rụng quả nhiều của các giống đang trồng. Vì vậy để phát triển
cây hồng cần chọn lọc được giống phù hợp.
Năng suất trung bình của cây hồng toàn thành phố đạt 20,9kg, năng suất quả ở độ
tuổi KD1 là 10,1 kg/cây, KD2 là 21,9 kg/ cây và KD3 là 31,7kg/ cây (theo kết quả điều
tra), như vậy năng suất quả/ha đạt 2,8 - 6,5 tấn/ha, năng suất này thấp hơn so với các vùng
khác (Lạng Sơn đạt khoảng 8 tấn/ha, Nghệ An 12 tấn/ha).
Đối với cây Hồng trồng ở địa bàn Hà nội là một lợi thế, nhất là đối với các giống
hồng chín, vừa là cây ăn quả, vừa là cây cảnh, có thể trồng xen nhiều loại cây. Cây hồng là
cây được chú ý trồng ở Sóc Sơn, Đông Anh.
3.2.4.2. Đặc điểm giống, sinh trưởng và phát triển cây Hồng quả
Điều tra, khảo sát sức sinh trưởng và phát triển của cây Hồng trên 3 địa bàn Sóc
Sơn, Đông Anh, Gia Lâm cho thấy, ở thời kỳ KTCB cây hồng trồng ở Hà nội đạt được các
chỉ tiêu ở mức độ khá, trung bình chiều cao đạt khoảng 1,6m, đường kính tán 1,2m với 3,3
cấp cành và trong 1 năm có 2 đợt lộc ra mới. Cây hồng là cây có tốc độ sinh trưởng chậm
và rụng lá qua các thời kỳ mùa đông. Theo quan sát của chúng tôi, điều kiện trồng ở Hà
nội, cây hồng vẫn có thời gian nghỉ đông đủ để cây phân hoá và ra hoa tốt. Trong thời kỳ
KD cần chú ý giải quyết vấn đề sự rụng quả ở thời kỳ đầu làm một số quả trên cây không
nhiều đến lúc thu hoạch. Theo khảo sát cho thấy số quả đạt được là 422,3 quả/cây.
Từ kết quả khảo sát cho thấy cần chú ý công tác giống và vùng trồng thích hợp đối
với loại cây này. Sóc Sơn có chủ trương phát triển cây Hồng lên vùng đồi, cần chú ý tuyển
chọn giống nhằm tăng tỷ lệ đậu quả.
3.2.4.3. Tình hình chăm sóc, bón phân cho cây hồng quả
Mới chỉ có khoảng 50 - 60% số hộ trồng hồng chú ý tới bón phân cho cây. Theo kết
quả điều tra thì lượng phân bón cho cây đạt trung bình: 20,0kg phân chuồng, 1,9 kg phân
hỗn hợp, 1,1kg ure, 1,3kg lân và 0,6kg kali trong 1 năm. Phân kali chỉ có khoảng 6,1% số
hộ áp dụng, 67,9% số hộ thực hiện bón lân. ở Đông Anh việc bón phân ở mức không cao,
có đến 50% số hộ bón các loại phân. ở Gia Lâm cây hồng ít được chú ý bón phân hơn,
nhất là các loại phân vô cơ. ở Sóc Sơn không sử dụng phân kali để bón. Chế độ bón phân
cho cây hồng không được chú ý nhiều, nhiều tài liệu nước ngoài đều cho rằng cây cần
nhiều lân để sinh trưởng, phát triển, phân đạm cần ở mức không nhiều, đây là vấn đề cần
quan tâm để nâng cao năng suất của cây.
Về khâu chăm sóc cho cây, các hộ đều tiến hành tưới nước chiếm tới 95% số hộ,
tiếp đó là phun thuốc BVTV, xới xáo, tỉa cành, hoa quả; các hộ được điều tra đều cho rằng
có khó khăn về kỹ thuật chăm sóc. Cây hồng là cây có đặc điểm sinh học khá phức tạp như
quá trình hoá hoa, thụ phấn …do vậy cần chú ý đến kỹ thuật chăm sóc.
3.2.4.4. Chất lượng sản phẩm cây hồng quả
Kết quả phân tích, đánh giá phẩm chất quả hồng giống Thạch Thất trồng tại nhà ông
Toàn - Phủ Lỗ - Sóc Sơn cho thấy, quả hồng trồng ở Sóc Sơn có phẩm chất quả khá tốt và
giàu dinh dưỡng (hàm lượng đường, vitamin C và A) cũng như tỷ lệ sử dụng cao. So sánh
với giống hồng chín cùng loại bán ở thị trường (hồng Đà Lạt), phẩm chất quả về mặt hoá
sinh, các chỉ tiêu thành phần cơ giới thấp hơn nhưng sự khác biệt không nhiều. Cây hồng
là cây được đánh giá cao về quả đối với thị trường cũng như người sản xuất (xem phụ lục
8).
3.2.4.5. Hiệu quả kinh tế và hiệu quả môi trường của cây Hồng quả
- Hiệu quả kinh tế: Hồng quả là loại cây có chu kỳ kinh tế dài, sản phẩm quả có chất
lượng cao, thị trường ưa sử dụng, dễ vận chuyển. Thu nhập và thu nhập thuần từ hồng quả
không cao nhưng tỷ suất lợi nhuận ở mức trung bình khá so với nhiều loại cây ăn quả
khác. Hồng quả nếu được trồng xen với các loại cây ăn quả khác sẽ cho thu nhập cao hơn.
1ha hồng quả cho bà con nông dân thu nhập khoảng 21,7 triệu đồng/năm, thu nhập thuần
khoảng 19,6 triệu đồng/năm (xem phụ lục 9)
- Hiệu quả môi trường: Hồng quả thích hợp với môi trường đất dốc, cao hạn, thiếu
nước, nhiệt độ thấp do đó góp phần phủ xanh đất trống, đồi trọc, chống xói mòn và rửa trôi
cho đất.
3.2.5. Hệ thống cây Vải thiều
3.2.5.1. Hiện trạng phân bố cây Vải thiều (Litchi sinensis L.)
Vải thiều được xếp vào nhóm cây á nhiệt đới, sinh trưởng và phát triển tốt ở những
vùng có khí hậu đặc trưng khô, hạn vào mùa đông - xuân, ấm, ẩm vào thời kỳ hè thu. ở
nước ta, vải trồng ở vùng đồng bằng (Thanh Hà - Hải Dương) và vùng đồi núi trung du
phía bắc (Lục Ngạn - Bắc Giang). Để có hiệu quả cao, năng suất ổn định thì chỉ có một số
vùng trồng là có điều kiện thích hợp để cây phân hoá ra hoa, đậu quả tốt. ở địa bàn Hà nội,
cây vải thiều cũng được quan tâm, đặc biệt là các hộ nông dân vùng đồi núi phía Bắc.
Số liệu điều tra về diện tích, năng suất, sản lượng và phân bố của cây vải có 280 ha
trồng vải, 97,2 ha ở thời kỳ kinh doanh chiếm 34,7%, còn lại là vải đang ở thời kỳ KTCB
(182,8 ha chiếm 65,3%). Diện tích trồng vải tập trung ở Sóc Sơn (203,5 ha), Đông Anh
(53,2 ha). Hiện nay vùng vải của Hà nội tập trung ở các huyện phía bắc, đây là nơi có điều
kiện khá thuận lợi về đất đai và khí hậu cho cây vải.
So với các vùng trồng vải khác, năng suất trung bình của Hà nội đạt mức trung bình
khá (40,6 kg/cây), năng suất quả vải ở các huyện không như nhau. Các huyện Gia Lâm,
Đông Anh, Thanh Trì đạt năng suất khá, Sóc Sơn năng suất còn thấp. Năng suất vải phụ
thuộc nhiều vào kỹ thuật thâm canh, đặc biệt phòng trừ sâu bệnh, chăm sóc để cây ra hoa,
đậu quả. Số liệu điều tra năng suất cũng cho thấy, bắt đầu từ độ tuổi KD2 năng suất
quả/cây ở Hà nội đạt khá và đạt cao ở độ tuổi KD3.
Toàn thành phố đạt 640 - 700 tấn quả,với lượng quả này không phải là nhiều cho thị
trường của thành phố.
3.2.5.2. Đặc điểm về giống, sinh trưởng, phát triển của cây Vải thiều
Cây vải thiều ở Hà nội có nguồn gốc từ 2 vùng Thanh Hà và Lục Ngạn. Giống từ
Lục Ngạn chịu khô hạn và thích hợp với vùng đồi núi của giống vải thiều. Các cây giống
đều là cành chiết, một số hộ có trồng cây ghép, cây ghép không khoẻ và không nhanh cho
quả như cây chiết.
Tình hình sinh trưởng và phát triển của vải thiều: ở thời kỳ KTCB có các chỉ số
trung bình: chiều cao cây 1,7m, đường kính tán 1,8m, số cấp cành 3 cấp, số đợt lộc ra
trong năm là 3 đợt. Cây vải sinh trưởng khá tốt và khá đồng đều giữa các huyện có trồng, ở
Từ Liêm có khá hơn một chút với đặc điểm về hình thái lá, thân, cành và lộc. Theo điều tra
cho thấy giống vải trồng ở Sóc Sơn, Đông Anh có nguồn gốc từ Lục Ngạn. Tuy nhiên
cũng có một số hộ có trồng lẫn giống vải chua, vải tu hú, cây mọc khoẻ nhưng chất lượng
và giá trị không cao.
ở thời kỳ kinh doanh, các chỉ số trung bình về chiều cao cây 3,5m, đường kính tán
3,8m, số cấp cành 6,1 cấp, số đợt lộc ra/năm 3 đợt, thời gian nở hoa tháng 2 và tháng 3.
Vải trồng ở Sóc Sơn có các chỉ số cao hơn so với Đông Anh về chiều cao, đường kính tán,
năng suất thấp hơn. Điều này có thể lý giải rằng do sinh trưởng mạnh nên cây vải phân hoá
và ra hoa cũng kém hơn, do đó các yếu tố cấu thành năng suất sẽ giảm sút, đồng thời các
biện pháp chăm sóc, đặc biệt là phòng trừ sâu bệnh và phun các chế phẩm sinh học ho cây
vải có ảnh hưởng rất lớn đến năng suất.
Thời gian ra hoa và quả ở các vùng của Hà nội không sai khác nhiều, tuy nhiên chất
lượng quả là khác nhau giữa các tiểu vùng sinh thái. Theo điều tra quả vải trồng ở Sóc Sơn
có hơi chua hơn so với ở Đông Anh, vấn đề này liên quan nhiều đến kỹ thuật trong đó việc
bón phân và chăm sóc là quan trọng.
3.2.5.3. Tình hình chăm sóc, bón phân cho cây Vải thiều
Qua kết quả điều tra cho thấy, các hộ nông dân đã chú ý bón phân bao gồm cả phân
chuồng và phân vô cơ như ure, kali, toàn thành phố mới chỉ có khoảng 50% số hộ tiến
hành các kỹ thuật này và cũng không đồng đều ở các nơi trồng. ở Sóc Sơn người dân chú ý
đến phân chuồng và phân hỗn hợp NPK hơn ở Đông Anh, ở Đông Anh người dân lại chú ý
tới phân vô cơ như lân, kali. Trung bình một cây, một năm đã được bón 12,7 kg phân
chuồng, 3,2 kg phân NPK, 1,7 kg ure, 1,7 kg lân và kali 2,9 kg được chia là 2 đợt bón
trong năm. Trong thực tế, việc dùng phân kali ở các hộ rất ít, chỉ có 9 - 26,7% số hộ điều
tra, đây cũng là vấn đề liên quan đến năng suất và chất lượng quả. Việc sử dụng phân kali
không hợp lý sẽ dẫn đến cây ra lộc mới rải quanh năm.
Các biện pháp kỹ thuật chăm sóc được làm khá đều và phổ biến như tỉa cành, xới
xáo gốc, phun thuốc BVTV, tưới nước cho vải, ít phổ biến hơn là các biện pháp quét vôi,
tỉa hoa, quả, phun các chế phẩm sinh học, bắt sâu bằng cơ giới. Có 21,2% số hộ ở Sóc Sơn,
55,6% số hộ ở Đông Anh trả lời có khó khăn về kỹ thuật, đặc biệt về rụng hoa, quả, sâu
bệnh, bón phân cho cây. Đây là vấn đề cần giải quyết khi thâm canh tăng năng suất vải.
3.2.5.4. Chất lượng sản phẩm cây Vải thiều
Vải thiều trồng ở Hà nội (Bắc Sơn - Sóc Sơn) về thành phần sinh hoá của quả
không thua kém vải thiều trồng ở Hải Dương, Bắc Giang mà còn có hàm lượng vitamin C
trong quả cao hơn. Nếu xem xét tỷ lệ Đ/A cho thấy tỷ lệ này của vải thiều trồng ở Hà nội ở
mức trung bình, đạt 37 so với vải thiều Thanh Hà (đạt 35) và Lục Ngạn (39), điều đó cho
thấy vài thiều ở Hà nội có hương vị khá hơn so với vải Lục Ngạn. Các chỉ tiêu như khối
lượng phần ăn được, tỷ lệ ăn được, trọng lượng quả cũng như số quả/chùm đều cao hơn so
với vải thiều Lục Ngạn, nhưng so với Thanh Hà thì thấp hơn (xem phụ lục 8).
3.2.5.5. Hiệu quả kinh tế và hiệu quả môi trường cây Vải thiều
- Hiệu quả kinh tế: Sản phẩm quả dễ chế biến, bảo quản sau thu hoạch (bằng cả
công nghệ hiện đại và công nghệ dân gian). Tập đoàn giống vải phong phú cho phép cơ
cấu các loại giống thích hợp để kéo dài vụ thu hoạch từ 30 - 45ngày/năm, là loại sản phẩm
thị trường có nhu cầu lớn. Hiệu quả sản xuất kinh doanh cao cho phép khai thác, kinh
doanh tổng hợp: sản phẩm quả, sản phẩm cây giống, du lịch sinh thái. 1ha Vải thiều cho bà
con nông dân thu nhập khoảng 34,9 triệu đồng/năm và thu nhập thuần là 32,4 triệu
đồng/năm (xem phụ lục 9).
- Hiệu quả môi trường: Vải thiều là cây trồng có tán cao, rộng, xanh quanh năm,
thích hợp với chủ trường xây dựng vành đai xanh thành phố. Cây vải thiều không những
tạo cảnh quan, mà còn góp phần điều hoà không khí cho cả một vùng rộng lớn.
3.2.6. Hệ thống cây Na dai
3.2.6.1. Hiện trạng phân bố cây Na dai (Annona Squamosa L)
Cây na dai là cây được các chủ vườn quan tâm hơn cả do quả ngọt và có hương
thơm đặc biệt, nhất là đối với các dân tộc ở Đông Nam châu á. Về đặc điểm sinh học Na
dai có thân hình nhỏ hơn các cây khác trong cùng họ được trồng để lấy quả như mãng cầu
xiêm, nê… và tính chống chịu khô hạn tốt hơn bởi chúng có khả năng rụng lá khi điều kiện
bất thuận lợi cho sinh trưởng, vì vậy na dai được trồng phổ biến ở vùng đồi, núi trung du
của miền Bắc Việt Nam. ở Hà nội cây na dai cũng được chú ý phát triển trong những năm
gần đây, tuy nhiên sự sinh trưởng và phát triển của na dai ở những vùng khác nhau là khác
nhau.
Kết quả điều tra, khảo sát cho thấy cây Na dai ở Hà nội phân bố chủ yếu ở 2 huyện
Sóc Sơn và Đông Anh. Trong tổng số 92,1 ha trồng thì 2 huyện Đông Anh và Sóc Sơn đã
chiếm 80 ha. Trong cơ cấu diện tích thì diện tích cây kinh doanh chiếm đa số, đạt 80,1 ha,
phân bố chủ yếu ở độ tuổi KD1 và KD2. Diện tích vườn na dai ở thời kỳ KTCB tập trung
ở huyện Đông Anh (9,0 ha). Thực tế qua khảo sát cây na dai ít được trồng thuần mà chúng
được trồng xen với các cây khác như vải thiều, nhãn, hồng quả hoặc trồng quanh vườn. Na
dai thường có chu kỳ kinh tế không dài do thân thường bị tổn thương làm gỗ, tán cây nhỏ
và có thời kỳ rụng lá vào mùa đông vì vậy năng suất quả/cây thường không cao. Theo kết
quả điều tra năng suất quả trung bình đạt 13,5 kg/cây và khi cây ở độ tuổi KD3 chỉ đạt
19,9 kg/cây. Đông Anh và Sóc Sơn là 2 huyện vùng đất cao của Hà nội, với điều kiện địa
hình, đất đai và khí hậu thích hợp cho chúng sinh trưởng, phát triển. Đối với các huyện
thấp như Gia Lâm, Thanh Trì năng suất quả đạt thấp, từ 7 - 10 kg/cây bình quân.
Năng suất na cụ thể cho từng huyện:
- Sóc Sơn: 48,1 tạ/ha
- Gia Lâm: 39,3 tạ/ha
- Đông Anh: 93,8 tạ/ha
- Thanh Trì: 46,6 tạ/ha
- Từ Liêm: 56,5 tạ/ha
Theo ước tính sản lượng na dai trồng ở Hà nội đạt khoảng 430 tấn quả, chủ yếu từ
Sóc Sơn (288,9 tấn) và Đông Anh (103,2 tấn). Đây là một sản lượng không nhiều đối với
thị trường tiêu thụ quả ở Hà nội.
3.2.6.2. Đặc điểm về giống, sinh trưởng, phát triển của cây Na dai
Kết quả khảo sát cho thấy ở thời kỳ KTCB, cây na dai sinh trưởng vào loại trung
bình khá, thể hiện ở chiều cao đạt 1,8m, đường kính tán 1,5m, chu vi thân 18,8m và có 3,3
cấp cành.
ở thời kỳ kinh doanh, cây na đạt kích thước trung bình chiều cao 2,9m, đường kính
tán 2,3m, chu vi gốc đạt 23,7 cm. Tuy nhiên số cấp cành ở thời kỳ kinh doanh không
nhiều, đạt 3,7 cấp, là thấp và đó cũng là nguyên nhân dẫn đến các cành mẹ cho ra cành quả
ít và năng suất của cây bị giảm đi, trung bình đạt 11,9 kg/cây. Về trọng lượng quả, theo
điều tra quả na mới đạt trọng lượng trung bình 142,8 gr. So với các vùng khác na ở Hà nội
có trọng lượng nhỏ hơn na trồng ở các vùng khác, thời gian ra hoa và chín quả không sai
khác so với các vùng trồng khác trong cả nước.
3.2.6.3. Tình hình chăm sóc, bón phân cho na dai
Kết quả điều tra cho thấy, cây na dai đã được chú ý bón phân, đặc biệt là dạng phân
lân và mức bón ở 2 huyện trồng không khác nhau, đều đạt khoảng 16,3 kg phân chuồng,
1,8 - 2,3 kg phân hỗn hợp NPK, 0,7 - 0,8 kg ure, 1,6 - 2,2 kg lân và 0,2 - 1,2 kg kali. ở các
vùng thấp, cây na chưa được chú ý chăm sóc, điều kiện đất đai không thuận lợi do đó năng
suất kém.
Cũng như các cây khác, có 12,1 - 55,9% số hộ áp dụng việc bón phân nhiều ít cho
cây na dai, số còn lại ở các hộ vẫn cho cây na là cây trồng quảng canh không chăm bón gì.
Về các khâu chăm bón, cây na mới chỉ được tưới nước, xới xáo, bắt sâu, phun thuốc
BVTV. Các biện pháp chăm sóc khác còn ít được tiến hành và đó cũng là nguyên nhân
làm giảm năng suất chung toàn thành phố.
3.2.6.4. Chất lượng sản phẩm cây Na dai
Kết quả phân tích và đánh giá phẩm chất các loại quả na dai cho thấy na dai trồng ở
Sóc Sơn có phẩm chất tốt và so với na dai Lạng Sơn thì phẩm chất quả không kém nhiều,
song tỷ lệ ăn được của quả na dai ở Hà nội thấp hơn, quả có khối lượng nhỏ hơn. ở lâm
trường Sóc Sơn na dai được trồng xen với vải và được coi là cây trồng xen trong vườn
(xem phụ lục 8).
3.2.6.5. Hiệu quả kinh tế và hiệu quả môi trường của cây Na dai
- Hiệu quả kinh tế: Sản phẩm quả tươi được thị trường ưu chuộng, là loại sản phẩm
có giá trị dinh dưỡng và giá trị kinh tế cao. Cây na dai là cây nhanh cho sản phẩm do đó
thích hợp để trồng xen trong thời kỳ kiến thiết cơ bản. 1ha Na dai cho bà con nông dân thu
nhập khoảng 44,3 triệu đồng/năm và thu nhập thuần 42,2 triệu đồng/năm (xem phụ lục 9).
- Hiệu quả môi trường: Na dai có thể trồng xen với các loại cây ăn quả khác, vừa
tăng thu nhập vừa góp phần cải tạo vườn tạp. Cây na nếu được trồng ở vùng gò đồi sẽ góp
phần chống xói mòn đất.
3.3. Đề xuất định hướng phát triển sản xuất các hệ thống canh tác đã được nghiên
cứu để nhân rộng ra địa bàn
3.3.1. Thị trường tiêu thụ sản phẩm
3.3.1.1. Hệ thống buôn bán quả tươi của Hà nội
3.3.1.1.1. Mạng lưới nhập và bán quả tươi ở Hà nội
Nguồn nhập quả tươi của Hà nội đã tiến hành điều tra 5 cụm đầu mối cửa ngõ của
Hà nội:
- Cụm đầu mối Đồng Xuân - Long Biên
- Cụm Láng - Cầu Giấy
- Cụm Thanh Xuân
- Cụm Cửa Nam
- Cụm Thanh Trì - Thường Tín
Số lượng các đại lý nhập quả cho thấy trong 5 cụm đầu mối điều tra thì cụm Đồng
Xuân - Long Biên là cụm đầu mối lớn về số lượng các đại lý, lượng nhập 1 lần trên 10 tấn
quả. Tại cụm này, chủng loại quả nhập cũng nhiều, bao gồm cả táo, cam Trung Quốc và
đặc biệt là các loại quả từ vùng Đông Bắc của miền Bắc.
Cụm thứ 2 là cụm đầu mối Thanh Trì kéo dài đến địa phận Thường Tín (Hà Tây),
có số lượng đại lý và lượng nhập quả nhiều, chủ yếu là các loại quả ở phía Nam như xoài,
chôm chôm, dưa hấu, ngoài ra còn một số quả ở phía Bắc như Hà Tây (chuối), Hoà Bình
(dưa hấu, dứa). Ba cụm đầu mối còn lại có số lượng nhập không nhiều và loại quả nhập
chủ yếu từ vùng Tây Bắc như mận, cam, dưa hấu, xoài Sơn La.
Từ mạng lưới nhập quả của Hà nội cho thấy, quả nhập vào Hà nội chủ yếu bằng
phương tiện ôtô và tập trung ở 2 cụm đầu mối phía Đông Bắc (Đồng Xuân - Long Biên) và
phía Nam (Thường Tín - Thanh Trì). Việc nhập quả bằng phương tiện đường sắt còn hạn
chế. Khi trao đổi với các đại lý ở cụm này, họ đều cho rằng không có vốn lớn, hơn nữa quả
nhập nhiều cần phải bán ngay vì quả nhanh bị hỏng, họ chỉ nhập những quả được lâu như
Thanh Long, mận…
Hệ thống bán quả tươi ở Hà nội được điều tra ở 15 trợ nội thành và 5 chợ trung tâm
của các huyện. Qua thống kê 20 chợ cho thấy, trung bình ở nội thành, một chợ có 24 điểm
(quầy) bán cố định và 31 quầy bán lưu động (bán rong) quả tươi. ở các chợ trung tâm nội
thành hoặc các khu vực đông dân số lượng quầy bán quả tươi nhiều hơn. Lượng quả bày
bán trên quầy cố định trung bình đạt 50 - 60 kg quả các loại và ở quầy lưu động là 20 - 25
kg. Một số hộ ở chợ Hàng Da, Cửa Nam có số lượng quả bán lớn hơn 100kg quả các loại.
Khi được phỏng vấn, các hộ bán quả về khó khăn khi bán quả, các hộ ở quầy cố
định cho rằng các loại quả cao cấp được bán nhiều và chạy hơn (vải, nhãn, na …), nhưng
lại có tính thời vụ, đồng thời việc bảo quản không có điều kiện do vậy quả dễ bị hỏng phải
bán với giá thấp. Đối với các hộ bán rong, chủ yếu là các cư dân ngoại thành và các tỉnh
lân cận (Hà Tây) hoặc là mang quả địa phương đi bán (đu đủ, chuối, mít…) hoặc đến các
đại lý bán buôn để đi lấy và đi bán lẻ, do vậy buôn bán có tính thời vụ theo lúc nông nhàn,
không thường xuyên.
Đối với vùng ngoại thành, số lượng các quầy bán cố định ở một chợ ít hơn so với
nội thành với 15 quầy cố định và 20 quầy bán rong. Số lượng quả bán trên quầy cố định
thường lớn, nhiều chủng loại quả hơn so với nội thành và ngược các quầy bán rong lại có
lượng quả bán trên quầy ít hơn, chủng loại quả cũng ít hơn.
3.3.1.1.2. Lượng quả nhập vào Hà nội
Lượng quả tươi nhập vào Hà nội bao gồm 2 nguồn chủ yếu: một nguồn do các
thương nhân đại lý nhập vào với khối lượng lớn sau đó phân phối cho các đại lý nhỏ; một
nguồn do người lao động ở các địa phương ngoại thành Hà nội và các vùng lân cận Hà nội
mang vào bán trực tiếp cho người tiêu dùng. Do hạn chế về thời gian và kinh phí, việc điều
tra xác định nguồn nhập và lượng nhập quả tươi vào thị trường Hà nội trong đề tài chỉ giới
hạn ở việc xác định nguồn và lượng nhập quả của các đại lý:
* Cụm đầu mối Đồng Xuân - Long Biên: qua 3 đợt điều tra có 23 đại lý nhập quả, trong đó
có 6 đại lý lớn mỗi lần nhập trên 10 tấn quả. Quả được nhập bằng đường bộ, đường sắt và
đường thuỷ bao gồm dưa hấu, mận, chuối, cam….và một phần từ các tỉnh phía Nam như
xoài, thanh long, chôm chôm, dưa hấu.
* Cụm đầu mối Láng - Cầu Giấy: có trung bình 6 đại lý qua các đợt điều tra với các đại lý
với lượng nhập 5 - 10 tấn một lần. Các đại lý nhập quả từ Sơn Tây, Việt Trì, Phú Thọ, hữu
ngạn của sông Hồng với chủng loại không nhiều như chuối, mít, dưa hấu….
* Cụm đầu mối Thanh Xuân: nhập quả từ miền Tây Bắc bao gồm Hoà Bình, Sơn La, Lai
Châu. Cụm này có 8 điểm đại lý nhập, chủ yếu là các đại lý vừa và nhỏ với lượng
nhập 5 - 10 tấn với các quả chủ yếu như mận, dưa hấu, chuối, xoài Sơn La….
* Cụm đầu mối Cửa Nam: có 3 đại lý nhập quả với quy mô nhập 5 - 7 tấn quả, nguồn
nhập chủ yếu bằng đường sắt, chủng loại quả ít và có tính chất theo mùa.
* Cụm Thanh Trì - Thường Tín: là cụm đầu mối nhập quả chủ yếu từ miền Nam bằng
đường bộ gồm xoài, chôm chôm, thanh long, dưa hấu… Có tổng số 7 đại lý với 3 đại lý
lớn có lượng nhập trên 10 tấn.
- Lượng quả nhập vào Hà nội
Điều tra lượng quả nhập ở các đại lý cho thấy, loại quả được nhập nhiều vào các đại
lý là dưa hấu, mận, chuối, xoài, vải, nhãn, chôm chôm, thanh long. Đây là những loại quả
được sản xuất nhiều ở các tỉnh và là loại quả nhiệt đới và á nhiệt đới. Các loại quả nhập
trung bình với lượng vừa là cam, na, xoài Sơn La, chanh. Các loại quả nhập ít, số lượng
không nhiều là táo, lê, đào, nho (phần lớn là các loại quả ôn đới) từ các vùng Cao Bằng,
Hà Giang hoặc từ Trung Quốc.
Lượng quả nhập ở các thời gian điều tra từ 305,6 - 566,9 tấn. Chủng loại quả cũng
khác nhau ở các đợt điều tra, chủ yếu là các loại quả nhiệt đới được trồng ở trong nước.
Có thể ước tính khoảng 1 tháng lượng quả nhập vào Hà nội là 12.504 tấn quả các loại.
- Cơ cấu loại quả nhập ở các đại lý tại 5 cụm đầu mối:
Kết quả điều tra cho thấy cơ cấu các loại quả nhập vào Hà nội như sau: Chủ yếu là
loại quả nhiệt đới được sản xuất ở trong nước chiếm 77,3% lượng quả nhập trong đó dưa
hấu có lượng nhập cao nhất (38,4%), sau đó đến xoài, chuối, dứa, các loại quả nhiệt đới
khác (na, chôm chôm, thanh long, cóc, đu đủ…), mỗi loại chiếm 1 - 2% lượng quả nhập.
Đối với các loại quả á nhiệt đới như cam, mận, vải, nhãn chủ yếu được sản xuất
trong nước, chỉ có một phần rất ít nhập từ Trung Quốc (chiếm 0,5%). Loại quả á nhiệt đới
nhập vào Hà nội nhiều là mận (11,4% lượng nhập), vải nhãn (6% lượng nhập), cam quýt
chiếm khoảng 3,2% lượng nhập trong đó cam nội địa (Hà Giang, Hoà Bình) chiếm 2,7%.
Loại quả ôn đới như đào, táo tây, lê có lượng nhập không nhiều, chỉ chiếm 0,4%
lượng nhập. Các loại quả này được sản xuất từ Trung Quốc. Tuy nhiên lê, táo, đào một
phần cũng được nhập từ Cao Bằng, Hà Giang, Lạng Sơn và Lao Cai.
3.3.1.1.3. Lượng quả tươi bán ở các quầy quả ở Hà nội
- Lượng quả tươi bán ở các quầy cố định
+ Khu vực nội thành: điều tra theo đợt ở các quầy cố định bán quả ở 5 chợ trung tâm của
khu vực nội thành cho thấy.
Đợt 1 từ tháng 4 đến tháng 5, lượng quả bán ra ít hơn và giá bán quả của từng loại quả
cũng cao hơn so với các đợt trong các tháng 6,7,8. Đợt 1 lượng quả bán ra trung bình 1
ngày là 67,5kg/quầy với loại quả bán chủ yếu là mận, dưa hấu, xoài miền Nam, cam Hà
Giang
Đợt 2 từ tháng 5 -6, lượng quả bán ra trung bình 1 ngày của 1 quầy là 104,5kg và loại quả
bán ra chủ yếu là vải, mận, dưa hấu, xoài. Giá bán cho từng loại ở đợt này không biến
động nhiều, tuy nhiên các loại quả như măng cụt, nho vẫn bán ở mức cao.
Đợt 3 từ tháng 6 - 8, lượng quả bán tăng nhiều, đạt ở mức 132,5 kg quả bán/ 1 quầy và loại
quả bán nhiều là chôm chôm, nhãn, na, dưa hấu. Đợt này lượng quả bán ra ở các điểm là
khá đều nhau, đây là đợt mà các quả ở Việt Nam thời vụ chín rộ do vậy giá bán khá phù
hợp với người tiêu dùng
Như vậy ở khu vực nội thành theo thống kê chỉ riêng ở 15 chợ chính có 360 quầy
bán quả cố định, lượng quả bán ra là 3.045kg/quầy/tháng x 360 quầy sẽ là 1.096,2 tấn quả
các loại trong 1 tháng.
+ Lượng quả bán ra ở quầy cố định khu vực ngoại thành cũng tăng dần từ đợt 1 đến đợt 3.
Loại quả bán nhiều là mận, dưa hấu, chôm chôm, cam, táo tây. Tính trung bình cho cả 3
đợt điều tra lượng quả bán ra trong 1 ngày 1 quầy đạt 77,2kg và trong 1 tháng khoảng
2.316kg quả các loại. Nếu chỉ tính cho 5 chợ trung tâm điều tra với số quầy cố định là 15
quầy thì lượng quả bán ra trong 1 tháng 34,74 tấn quả/tháng.
- Lượng quả tươi bán ở các quầy lưu động
+ Khu vực nội thành: Trong các đợt điều tra từ tháng 5 - 6 cho thấy, quầy bán rong ở 5 chợ
trung tâm nội thành có chủng loại bán là các quả bình dân như mận, dưa hấu, vải, cam Hà
Giang. Trung bình 1 quầy bán trong 1 ngày lượng quả là 16,6kg quả.
Đợt điều tra tháng 6 -8 cho thấy, lượng bán quả rong tăng nhiều và chủng loại cũng
phong phú hơn chủ yếu vẫn là loại quả bình dân và quả đang mùa thu hoạch với na, dưa
hấu, ổi, nhãn, chuối…Trung bình 1 ngày 1 quầy bán ra lượng quả 42,4kg các loại.
Như vậy ở khu vực nội thành tính trung bình cho các đợt điều tra lượng quả bán ra
của 1 quầy lưu động trong 1 ngày đạt 20 kg. Và nếu tính ở 15 chợ trung tâm có 456 quầy
lưu động thì lượng quả bán ra 273,6 tấn, trong 1 năm là 3.283 tấn quả các loại.
+ Khu vực ngoại thành: Qua các đợt điều tra cho thấy quả bán ra ở ngoại thành là loại bình
dân và có tính mùa vụ. Tính trung bình 1 quầy bán lưu động qua 3 đợt điều tra đạt ở mức
22,3 kg quả bán ra trong 1 ngày và 1 tháng 1 quầy bán được 669 kg quả các loại. Nếu lấy
trung bình 1 chợ ở ngoại thành có 19 quầy lưu động bán quả và có khoảng 10 chợ ở ngoại
thành thì lượng quả bán ra là 12,71 tấn và lượng quả bán trong 1 tháng là 1.524 tấn quả các
loại.
- Lượng quả bán ra ở Hà nội
+ Khu vực nội thành: Quầy cố định bán ra 1 tháng là: 10.692 tấn
Quầy lưu động bán ra 1 tháng là: 2.736 tấn.
+ Khu vực ngoại thành: Quầy cố định bán ra 1 tháng là: 347 tấn
Quầy lưu động bán ra 1 tháng là: 127 tấn.
Tổng lượng quả bán ra trong 1 tháng ở Hà nội sẽ là 13.902 tấn quả, 1 năm lượng quả bán
ra ở Hà nội khoảng 166.824 tấn quả các loại.
3.3.1.2. Hệ thống tiêu thụ quả ở Hà nội
3.3.1.2.1. Lượng quả tiêu thụ của người dân Hà nội (nội và ngoại thành)
- Khu vực nội thành: Điều tra 180 hộ ở các quận nội thành cho thấy: các hộ gia đình
ở Đống Đa, Hai Bà Trưng có mức tiêu thụ quả thấp hơn và cao nhất là các cư dân ở quận
Tây Hồ, Thanh Xuân. Loại quả các hộ ưa thích là vải, nhãn, dưa hấu, cam quýt. Trung
bình 1 hộ có 4,6 khẩu và mức tiêu thụ quả là 60,3 kg/1 tháng, bình quân 1 người, 1 tháng
tiêu thụ khoảng 13,1 kg. Nếu ước khoảng 2/3 dân số của Hà nội ở khu vực nội thành thì
1 tháng lượng quả tiêu thụ là 20.960 tấn.
- Khu vực ngoại thành: Kết quả điều tra mỗi huyện 3 xã, mỗi xã 10 hộ gia đình cho
thấy khu vực tiêu thụ cao là các hộ có vườn rộng, trồng nhiều cây ăn quả. Trung bình 1 hộ
có 4,5 khẩu với mức tiêu thụ 49,0 kg quả các loại và bình quân 1 người 1 tháng đạt 10,7 kg
với loại quả tiêu thụ nhiều là chuối, bưởi, dưa hấu, cam quýt. Nếu tính ở khu vực ngoại
thành có 1/3 dân số Hà nội thì lượng quả tiêu thụ 1 tháng là 9.630 tấn.
Tính toàn thành phố với số dân ước khoảng 2,5 triệu người thì 1 tháng lượng quả
tiêu thụ là 30.590 tấn.
3.3.1.2.2. Lượng quả tiêu thụ ở các nhà xưởng chế biến
Hà nội có nhà máy thực phẩm xuất khẩu Tương Mai, xưởng chế biến rau quả của
Công ty xuất nhập khẩu rau quả 1 Hà nội, hàng năm chế biến khoảng 15 - 20 ngàn tấn quả.
Các hộ gia đình tự chế biến quả ngâm khoảng 10 - 15 ngàn tấn quả. Như vậy, trong 1 năm
lượng quả tiêu dùng cho chế biến thủ công ước khoảng 25 - 30 ngàn tấn quả và như vậy 1
tháng cần trung bình 2.000 - 3.000 tấn quả các loại.
3.3.1.2.3. Lượng quả tiêu thụ trong nhà hàng, khách sạn
Điều tra tại 15 nhà hàng, khách sạn cho thấy, bình quân 1 khách sạn, nhà hàng tiêu
thụ 1 ngày 44,9 kg quả các loại. Như vậy trong 1 tháng 1 nhà hàng tiêu thụ khoảng 1.347
kg quả các loại và nếu lượng khách như hiện nay (số khách trung bình 1 khách sạn 53,3
khách và toàn Hà nội có khoảng 150 khách sạn thì mức tiêu thụ quả 1 tháng khoảng 202
tấn quả các loại và 1 năm tiêu thụ khoảng 2.424 tấn quả các loại.
3.3.1.2.4. Lượng quả tiêu thụ ở các bệnh viện
Theo thống kê Hà nội có 36 bệnh viện, điều tra ở 10 bệnh viện cho thấy, số bệnh
nhân trung bình 1 ngày của bệnh viện là 82 bệnh nhân với 36 bệnh viện thì lượng bệnh
nhân 1 ngày vào viện khoảng 2.951 bệnh nhân. Mức tiêu thụ quả bình quân 1 bệnh nhân 1
ngày là 0,3 kg, tính ra ở 36 bệnh viện lượng quả tiêu thụ 1 tháng là 779 tấn quả. Lượng quả
cho 1 năm ở các bệnh viện là 9.346 tấn quả.
Kết luận: Mạng lưới thị trường buôn bán quả tươi ở Hà nội bao gồm các đại lý nhập
quả, người buôn bán quả cố định và các hộ buôn bán nhỏ.
Hàng tháng Hà nội nhập quả qua các đại lý khoảng 12.504 tấn quả các loại có tính
chất theo mùa. Loại quả nhập nhiều là dưa hấu, mận, xoài, vải, chôm chôm từ các địa
phương. Các loại quả ngoại nhập (táo tây, nho, mận) có lượng nhập không nhiều.
Lượng quả bán ra ở Hà nội 1 tháng khoảng 16.080 tấn chủ yếu ở khu vực nội thành
với hệ thống quầy bán cố định và lưu động.
Mức quả tiêu thụ bình quân của cư dân Hà nội là 6,5 - 7 kg/ người/tháng, tức là 75 -
85 kg/người/năm. Các bệnh viện tiêu thụ 779 tấn/tháng, các nhà hàng khách sạn 202
tấn/tháng. Lượng quả tiêu thụ 1 năm ở Hà nội ước khoảng 200.000 - 212.000 tấn quả tươi.
Loại quả được tiêu dùng nhiều là cam, quýt, xoài, nhãn, vải, dưa hấu.
Việc điều tra thị trường và mức độ tiêu thụ quả là công việc khó khăn, nhưng thông
tin ban đầu cho những nhận định về tình hình tiêu thụ quả ở Hà nội.
3.3.2. Tiềm năng phát triển sản xuất
Điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội của Hà nội nói chung và vùng đất ven sông Hồng
nói riêng phong phú, đa dạng, thích hợp phát triển một số loại cây ăn quả có giá trị kinh tế.
Hà nội có tài nguyên đất đai, khí hậu, hệ thống thuỷ lợi …thích hợp cho nhiều loại
cây ăn quả phát triển.
Hà nội là Thủ đô của cả nước, là trung tâm chính trị, văn hoá, khoa học, kỹ thuật.
Hà nội có hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật và đội ngũ cán bộ khoa học lớn mạnh, lao động
có trình độ cao… tạo điều kiện thuận lợi để phát triển sản xuất cây ăn quả theo hướng sản
xuất hàng hoá, hiện đại hoá.
Phát triển sản xuất cây ăn quả ở vùng đất ven sông Hồng là phù hợp với nền sản
xuất nông nghiệp ngoại thành, vừa tăng hiệu quả sử dụng đất; vừa tạo cảnh quan môi
trường sinh thái đẹp, trong lành; vừa phát triển du lịch (du lịch sinh thái) góp phần phát
triển kinh tế - xã hội Thủ đô.
Thị trường tiêu thụ quả của Hà nội rộng lớn đòi hỏi ngày càng cao cả về số lượng,
chất lượng và chủng loại. Hiện tại sản lượng quả của Hà nội mới chỉ đáp ứng được 15 -
18% nhu cầu, việc phát triển cây ăn quả vùng đất ven sông Hồng nhằm đáp ứng một phần
nhu cầu của thị trường Hà nội. Bên cạnh đó, Hà nội là đầu mối đi các tỉnh và một số nước
có khả năng quan hệ cung cầu các loại quả với Hà nội, do đó việc phát triển sản xuất cây
ăn quả là một yêu cầu khách quan, mang lại hiệu quả nhiều mặt về kinh tế - xã hội - môi
trường cảnh quan…
3.3.3. Phân hạng đất thích hợp
3.3.3.1. Xây dựng hệ thống chỉ tiêu phân hạng đất thích hợp với cây ăn quả
Hệ thống chỉ tiêu phân hạng đất thích hợp với cây ăn quả được xây dựng trên cơ sở
nghiên cứu yêu cầu sinh thái của các nhóm cây ăn quả và đặc điểm cụ thể của các đơn vị
đất Hà nội. Trên cơ sở hệ thống các chỉ tiêu phân hạng đất đúng, bản đồ phân hạng đất
thích hợp có ý nghĩa trong việc xây dựng phương án phát triển cây ăn quả cho Hà nội.
Trên cơ sở yêu cầu sinh thái của cây ăn quả về loại đất, độ dốc, tầng dầy, thành
phần cơ giới, độ phì và mức độ ngập úng của đất để xây dựng hệ thống chỉ tiêu phân hạng
đất thích hợp với mỗi nhóm cây ăn quả. Các chỉ tiêu này, khi so sánh với các đặc điểm
tương tự của các đơn vị đất với cây ăn quả.
3.3.3.2. Kết quả phân hạng đất thích hợp với cây ăn quả của thành phố Hà nội
Tổng diện tích đất nông nghiệp toàn thành phố (1998) là 43.002,55 ha, diện tích đất
thích hợp (S1 + S2 + S3) cho cây trồng ăn quả là 35.141,4 ha (chiếm 81,72% diện tích đất
nông nghiệp).
Diện tích cấp rất thích hợp (S1) là 12.589,35 ha chiếm 29,28%. Diện tích cấp thích
hợp (S2) là 7.433,21 ha chiếm 17,28%. Cấp ít thích hợp (S3) có diện tích 15.118,84 ha
chiếm 35,16%. Trong đó có 7.861,15 ha hoàn toàn không thích hợp với cây ăn quả chiếm
18,28%.
Bảng 3.5: Tổng hợp diện tích đất thích hợp theo từng huyện
Đông Từ Thanh 5 huyện Sóc Sơn Gia Lâm Anh Liêm Trì
S1 12026,66 478,33 1339,66 4839,20 2685,81 2683,66
S2 6644,08 3013,07 1383,42 884,04 727,84 635,71
S3 15118,84 7044,35 4722,56 1594,75 494,49 1262,69
N1 7336,83 2243,89 2395,00 1830,89 219,01 648,04
Cộng 41126,41 12779,64 9840,64 9148,88 4127,15 5230,10
33789,57 10535,75 7445,64 7317,99 3908,14 4582,06 S1 + 2 + 3
% 82,16 82,44 75,66 79,99 94,69 87,61
Kết quả cho thấy diện tích đất nông nghiệp của các huyện xếp theo thứ tự nhỏ dần
như sau: Sóc Sơn (12.779,64 ha), Đông Anh (9.840,64 ha), Gia Lâm (9.148,88 ha), Thanh
Trì (4.582,06 ha) và Từ Liêm (3.908,14 ha).
Đất thích hợp trồng cây ăn quả (S1, S2, S3) lớn nhất là huyện Sóc Sơn (10.535,75
ha), tiếp theo huyện Đông Anh (7.445,64 ha), Gia Lâm (7.317,19 ha), Thanh Trì (4.582,06
ha), Từ Liêm (3.908,14 ha). Tuy nhiên, tỷ lệ đất thích hợp với cây ăn quả so với đất nông
nghiệp khác nhau nhiều ở các huyện: Gia Lâm 79,99%, Từ Liêm 94,69%, Thanh Trì
87,61%, Đông Anh 75,66% và Sóc Sơn 82,44%.
Kết quả tổng hợp diện tích đất thích hợp theo từng nhóm cây ăn quả toàn Thành
phố Hà nội như sau:
Bảng 3.6: Tổng hợp diện tích đất thích hợp theo nhóm cây
STT Cây S1 S2 S3 N1 S1 + 2 + 3
12589,35 7949,20 15292,78 7171,22 83,32 1 Nhóm cam
16143,15 4174,75 14886,37 7798,28 81,87 2 Nhóm bưởi
16165,16 4253,32 14700,92 7861,15 81,72 3 Nhóm vải
15082,48 19054,04 2870,72 5995,31 86,06 4 Nhãn
20213,22 14488,46 7064,68 1236,19 97,13 5 Hồng xiêm
15441,21 4734,62 15028,44 7798,28 81,87 6 Hồng
13274,29 7370,81 15795,36 6562,09 84,74 7 Na
17964,89 16313,70 2728,65 5995,31 86,06 8 Xoài
Táo, đu đủ 12589,35 7586,48 14965,57 7861,15 81,72 9
Kết luận
- Cây hồng xiêm là cây ăn quả có tiềm năng phát triển mạnh nhất, có tới 46889,1 ha đất
thích hợp với hồng xiêm, xoài (37.007,24 ha), vải (35.119,4 ha), nhãn (37.007,24 ha), cam
(35.831,33 ha), hồng quả (35.204,27 ha), bưởi (35.204,27 ha), na (36.440,46) ha, táo và đu
đủ (35.141,4) ha đất thích hợp.
- Đất phù sa là loại đất lý tưởng để trồng cây ăn quả, trong đó đất phù sa không được bồi
của hệ thống sông Hồng là thích hợp nhất để trồng cây ăn quả.
- Đất phù sa được bồi hàng năm, đất phù sa úng nước, đất phù sa có tầng gley nông (cách
mặt đất < 30 cm) không thích hợp với đa số cây ăn quả.
- Đất phù sa ít được bồi, đất phù sa có tầng gley sâu, đất phù sa có tầng loang lổ đỏ vàng,
đất nâu vàng phát triển trên phù sa cổ có mức độ thích hợp khác nhau với các nhóm cây ăn
quả khác nhau.
Nếu được đầu tư đúng mức (giống, vốn, kỹ thuật …) các vùng đất bạc màu, đất phù sa có
tầng loang lổ đỏ vàng, đất nâu vàng trên phù sa cổ là những vùng có tiềm năng lớn để phát
triển cây ăn quả.
- Trong tổng số 43002,55 ha đất nông nghiệp còn lại sau quy hoạch, diện tích đất rất thích
hợp với cây ăn quả là 12589,35 ha chiếm 29,28%, đất thích hợp vừa là 7433,21 ha chiếm
17,28%, đất ít thích hợp là 15118,84 ha chiếm 35,16%. Diện tích đất thích hợp với cây ăn
quả là 7861,15 ha chiếm 18,28%.
- Diện tích đất thích hợp với cây ăn quả (S1, S2, S3) của các huyện là Sóc Sơn 10535,75
ha, Gia Lâm 7317,99 ha, Đông Anh 7446,64 ha, Thanh Trì 4582,06 ha và Từ Liêm
3908,14 ha.
Trong quá trình nghiên cứu phân hạng đất thích hợp cho cây trồng, chúng tôi xin
nêu một số đề xuất sử dụng đất cho cây ăn quả:
- Vấn đề bố trí phát triển cây ăn quả trên địa bàn Hà nội, ngoài tính toán về lợi ích thông
thường, còn cần tính đến lợi ích về cảnh quan và môi trường đô thị.
- Với trình độ kỹ thuật như hiện nay: trồng cây ăn quả ở vùng trũng, đào hố trồng cây ở
vùng đồi có tầng đất mỏng, các khó khăn đều có khả năng khắc phục, nếu đầu tư thích
hợp. Vì vậy khi chọn phương án phát triển cây ăn quả Hà nội cần gắn liền với phương án
đầu tư.
- Khi tính toán hiệu quả kinh tế để chọn phương án phát triển cây ăn quả cần tính đến hiệu
quả do du lịch sinh thái mang lại.
3.3.4. Định hướng phát triển sản xuất
3.3.4.1. Cơ sở, căn cứ cho định hướng
- Căn cứ vào khả năng của thị trường tiêu thụ quả tại Hà nội và cả nước, các thông
tin, các tiến bộ khoa học, kỹ thuật và công nghệ mới đối với sản xuất cây ăn quả.
- Căn cứ vào định hướng quy hoạch tổng thể kinh tế - xã hội, quy hoạch không gian
đô thị Thủ đô Hà nội tới năm 2010 và năm 2020 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.
- Căn cứ vào phương hướng, mục tiêu, các dự báo và một số chỉ tiêu có liên quan
trực tiếp tới bố trí phát triển cây ăn quả trong báo cáo định hướng phát triển nông nghiệp
và xây dựng nông thôn của Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Hà nội.
- Căn cứ vào kết quả điều tra, nghiên cứu về thực trạng sản xuất cây ăn quả trên địa
bàn Hà nội và các nhân tố chi phối.
- Căn cứ định hướng phát triển, các chương trình phát triển đến năm 2010 của Bộ
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn..
- Căn cứ vào khả năng huy động vốn cho đầu tư phát triển của Thành phố và của
kinh tế hộ nông dân.
3.3.4.2. Lựa chọn cơ cấu các loại cây ăn quả
- Căn cứ vào các kết quả nghiên cứu về đặc điểm sinh vật học của các loại cây ăn
quả được trồng tại địa bàn Thành phố Hà nội.
- Căn cứ vào giá trị và hiệu quả kinh tế của từng loại cây trồng hiện tại và dự báo
trong tương lai.
- Căn cứ vào thị hiếu và khả năng cạnh tranh của các loại quả của Hà nội so với các
loại quả từ nơi khác đưa tới.
- Căn cứ vào điều kiện sản xuất để phát triển cây ăn quả, dự kiến sẽ được bố trí như
sau:
3.3.4.2.1. Nhóm cây ăn quả đặc sản và cây ăn quả chính
- Cây bưởi Diễn: Bố trí phát triển với quy mô chiếm 20 - 30% tổng diện tích cây ăn
quả, nhịp độ tăng nhanh bởi có nhiều lợi thế:
+ Về kinh tế: Là loại cây trồng có sản phẩm chất lượng cao, dễ bảo quản để có thể chủ
động cung ứng sản phẩm cho thị trường vào thời điểm thích hợp, có lợi cho người sản xuất
và hiệu quả kinh doanh cao.
+ Về các đặc điểm sinh vật học: Là loại cây có tán cao, xanh quanh năm, vào mùa đông
khi hầu hết các loại quả đã qua kỳ thu hoạch thì bưởi Diễn vẫn mang quả trên tán cây.
Bưởi Diễn có phổ thích nghi rộng, dễ chiết ghép, rất thuận lợi trong việc mở rộng quy mô
và địa bàn sản xuất, ít bị sâu bệnh.
- Cây cam Canh: Là loại cây đặc sản của Hà nội, mẫu quả đẹp, có giá trị kinh tế
cao, thu hoạch muộn vào dịp tết Nguyên đán.
Là loại cây trồng tương đối kén đất và đòi hỏi kỹ thuật canh tác rất cao.
Là loại cây trồng có năng suất kém ổn định bởi rất mẫn cảm với các biến động của môi
trường và rất dễ bị sâu bệnh.
- Cây hồng xiêm Xuân Đỉnh: Là giống hồng xiêm có chất lượng tốt, có khả năng
thích nghi rộng, dễ trồng, chu kỳ kinh tế dài, tán che rộng, cao, xanh quanh năm.
Vì vậy với đặc thù của nền nông nghiệp ngoại thành, căn cứ vào đặc điểm sinh lý -
sinh thái và điều kiện kinh tế, cây hồng xiêm được dự kiến bố trí với quy mô không lớn.
- Cây vải: Là cây trồng đang được nhiều địa phương quan tâm. Là loại cây trồng có
tán cao, rộng, xanh quanh năm, thích hợp với chủ trương xây dựng vành đai xanh thành
phố. Cây vải có phổ thích nghi rộng, thích hợp với nhiều tiểu vùng sinh thái của ngoại
thành Hà nội từ vùng úng trũng đến vùng cao hạn, gò đồi, đất cằn cỗi.
Sản phẩm quả tương đối dễ chế biến, bảo quản sau thu hoạch. Hiệu quả sản xuất
kinh doanh cao cho phép khai thác kinh doanh, tổng hợp: sản phẩm quả, sản phẩm cây
giống, du lịch sinh thái.
3.3.4.2.2. Nhóm cây trồng phụ
- Chuối: Là loại cây trồng phổ thông, dễ trồng, chu kỳ kinh tế ngắn, nhanh cho thu
hoạch. Diện tích trồng chuối trong tương lai hầu như không tăng nhưng hướng bố trí là cải
tạo trồng lại bằng các giống chồi mới có giá trị hàng hoá và đem lại hiệu quả sản xuất cao
hơn.
- Cây hồng quả: Là loại cây có chu kỳ kinh tế dài, tán cao nhưng rụng lá theo mùa,
thích ứng với môi trường đất dốc, cao hạn, thiếu nước, nhiệt độ thấp.
Sản phẩm quả có chất lượng cao, thị trường ưa sử dụng, dễ vận chuyển. Hiện tại quy mô
sản xuất còn rất nhỏ, thời gian tới dự kiến phát triển với nhịp độ nhanh. Địa bàn tập trung
lớn nhất là vùng đất gò đồi Sóc Sơn đất trống đồi trọc chuyển đổi.
- Na dai: Với lợi thế là cây có tán không lớn, nhanh cho sản phẩm, thích hợp để
trồng xen trong thời kỳ kiến thiết cơ bản của vải, nhãn….
3.3.4.3. Lựa chọn phương án phát triển sản xuất
3.3.4.3.1. Lựa chọn phương án
- Phương án 1
Đây là phương án lựa chọn với việc xác định các yếu tố tác động, được tính toán
thận trọng, lường trước các khả năng rủi ro có thể xảy ra. Các chỉ tiêu tính với tốc độ tăng
trưởng vừa phải, có thể chấp nhận được và đáp ứng yêu cầu phát triển của thành phố.
Cơ cấu đất mở rộng cho phát triển cây ăn quả dựa vào khả năng khai thác đất vườn
tạp, đất thổ canh, thổ cư, đất có khả năng chuyển đổi sang trồng cây ăn quả ở quy mô vừa
phải.
Phương án 1 có tham khảo các chỉ tiêu bố trí phát triển cây ăn quả của các huyện
cho giai đoạn 2001 - 2005 và 2006 - 2010.
Phương án 1 được lựa chọn dựa vào khả năng thực tế của tình hình phát triển sản
xuất cây ăn quả những năm vừa qua, có tính tới một số yếu tố tác động về thị trường, về kỹ
thuật, vốn, công nghệ…Đây là phương án có độ an toàn cao, nhưng có hạn chế là mới chỉ
đáp ứng được nhu cầu quả của Thành phố từ 20 - 25%
- Phương án 2
Đây là phương án tạo ra sự thay đổi rất lớn, có tính đột phá với chủ trương mở rộng
quy mô cho sản xuất cây ăn quả, để đạt được mục tiêu có khối lượng quả tập trung, có tỷ
trọng đáp ứng đạt 35 - 40% trong tổng nhu cầu quả cung cấp cho Thành phố. Mức bố trí
quy mô lớn hơn 1,7 - 1,8 lần so với phương án 1.
Với phương án 2, khối lượng khá lớn diện tích đất sản xuất cây hàng năm chủ yếu
là đất lúa, màu cao hạn, đất bãi và đất khác cần phải chuyển đổi sang trồng cây ăn quả.
Cần có các cơ chế, chính sách và sự chỉ đạo cụ thể của Thành phố cho việc chuyển đổi cây
hàng năm sang trồng cây ăn quả.
3.3.4.3.2. Dự kiến các chỉ tiêu bố trí
Bảng 3.7: Dự kiến quy mô - cơ cấu diện tích các loại cây ăn quả đến 2010 ngoại thành
Hà nội
Phương án 1 Phương án 2
Hạng mục Quy mô Tăng so với Quy mô Tăng so với
2010 (ha) HT (ha) 2010 (ha) HT (ha)
Tổng diện tích cây ăn quả 2824,5 10000 7024,5 5800
I. Các loại cây ăn quả chính 2036 8020 6186 3870
Tỷ lệ (%) 66,72 80,2
1. Bưởi: tổng diện tích 1275 872,6 1625 1222,6
- Trong đó: bưởi Diễn 1040 967,9 1360 1287,9
2. Cam quýt các loại 180 78,7 395 293,7
- Trong đó: cam Canh 130 54,9 287 211,9
3. Hồng xiêm Xuân Đỉnh 410 173,3 515 278,3
4. Vải 905 625 2675 2395
5. Nhãn 1100 286,4 2810 1996,4
II. Các loại cây ăn quả phụ 1755 652,2 1640 537,1
Tỷ lệ (%) 30,26 16,4
1. Chuối 735 59,3 805 129,3
2. Táo 325 50,7 355 80,7
3. Đu đủ 195 144,9 175 124,9
4. Hồng 270 257,6 155 142,4
5. Na dai 230 1399,9 150 59,9
III. Các loại cây ăn quả khác 175 136,3 340 301,3
Tỷ lệ (%) 3,02 3,4
Như vậy với phương án 1, tới năm 2010, diện tích cây ăn quả dự kiến đạt 5800 ha,
tăng ở nhóm các loại cây ăn quả chính là 2036 ha với các loại cây trồng có diện tích tăng
lớn là bưởi, vải và nhãn. Nhóm các loại cây phụ có diện tích 1755 ha, tăng nhanh diện tích
các cây hồng, na và đu đủ.
ở phương án 2, tới năm 2010, diện tích cây ăn quả đạt 10.000 ha trong đó nhóm cây
ăn quả chính 8020 ha chiếm 80,2% tổng diện tích, nhóm cây ăn quả phụ có diện tích là
1640 ha chiếm 16,4% tổng diện tích, các cây ăn quả khác 340 ha chỉ chiếm 3,4%.
Nhìn chung các loại cây ăn quả có giá trị tán rộng, xanh quanh năm, có hiệu quả về
kinh tế đều được bố trí với quy mô lớn. Trong các loại cây ăn quả thì bưởi Diễn, vải, nhãn
được đặc biệt chú ý vì đây là những cây thích hợp với điều kiện khô hạn.
3.3.4.4. Phát triển sản xuất cây ăn quả theo từng phương án
3.3.4.4.1. Phát triển sản xuất cây ăn quả theo phương án 1
* Quy mô và tiến độ mở rộng diện tích cây ăn quả đến năm 2010
- Giai đoạn 2001 - 2005
+ Nhiệm vụ: Tiếp tục hoàn thiện việc xây dựng, củng cố cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ
trực tiếp cho sản xuất cây ăn quả đặc biệt là cơ sở sản xuất cung ứng các loại giống cây
trồng cho chất lượng cao.
Xây dựng, phê duyệt và triển khai thực hiện các dự án ưu tiên, các dự án khả thi về phát
triển cây ăn quả.
Vận động và áp dụng các cơ chế, chính sách về chuyển đổi đất và chuyển đổi mục đích sử
dụng đất để xây dựng vùng trọng điểm sản xuất cây ăn quả tập trung tại các huyện.
+ Tiến độ: Tổng diện tích cây ăn quả dự kiến mở rộng trong giai đoạn này là 1043 ha
chiếm 36,93% tổng diện tích cây ăn quả trong cả thời kỳ 2000 - 2010.
- Giai đoạn 2006 - 2010
+ Nhiệm vụ: Tập trung các nguồn lực (giống, vốn, đất đai…) đẩy nhanh nhịp độ trồng mới
để hết năm 2009 hoàn thành chỉ tiêu mở rộng trồng mới 2824,5 ha và đạt quy mô sản xuất
cây ăn quả 5800 ha.
+ Tiến độ: Tổng diện tích cây ăn quả dự kiến mở rộng trong giai đoạn này là 1620 ha
chiếm 57,36% tổng diện tích cây ăn quả thời kỳ 2000 - 2010
* Quy mô và tiến độ chuyển đổi đất sản xuất cây ăn quả
Tổng quỹ đất chuyển đổi sang sản xuất cây ăn quả là 3009,2 ha trong đó:
- Đất nông nghiệp chuyển đổi sang sản xuất cây ăn quả đến 2010 là 2559,2 ha trong đó
+ Đất ruộng lúa màu chuyển đổi: 1256,8 ha.
+ Đất chuyên màu chuyển đổi: 958 ha.
- Đất sản xuất cây ăn quả thổ canh đến 2010: 2190 ha
- Đất các loại khác chuyển đổi sang cây ăn quả: 450 ha
* Dự kiến quy hoạch phát triển cây ăn quả trên địa bàn các huyện
- Huyện Thanh Trì
Tổng diện tích cây ăn quả các loại 400 ha chiếm 6,9% tổng diện tích cây ăn quả ngoại
thành Hà nội. Trong đó
Nhóm cây ăn quả chính 274 ha chiếm 68,50%
Nhóm cây ăn quả phụ 106 ha chiếm 26,50%
Nhóm cây ăn quả loại khác 20 ha chiếm 5,0%
Dự kiến quy mô cơ cấu các loại cây ăn quả huyện Thanh Trì (xem phụ lục 10)
- Huyện Từ Liêm
Tổng diện tích cây ăn quả các loại là 600 ha chiếm 10,34% diện tích cây ăn quả ngoại
thành Hà nội.
Nhóm cây ăn quả chính: 455,0 ha chiếm 75,83%
Nhóm cây ăn quả phụ: 130 ha chiếm 21,67%
Nhóm cây ăn quả khác: 15 ha chiếm 2,5%
Địa bàn trọng điểm sản xuất cây ăn quả trên của huyện Từ Liêm là tiểu vùng Tây sông
Nhuệ, Bắc Quốc lộ 32 - TV2 (440 ha) với các loại cây trồng chính là bưởi Diễn (210 ha),
nhãn (50 ha), cam Canh (33 ha).
Dự kiến quy mô cơ cấu các loại cây ăn quả Huyện Từ Liêm (xem phụ lục 11).
- Huyện Gia Lâm
Tổng diện tích cây ăn quả các loại 900 ha chiếm 15,52%
Nhóm cây ăn quả chính 570 ha chiếm 63,33%
Nhóm cây ăn quả phụ 270 ha chiếm 30,00%
Nhóm cây ăn quả khác 60 ha chiếm 6,67%
Địa bàn trọng điểm sản xuất cây ăn quả của huyện Gia Lâm là: tiểu vùng trung tâm - TV1
là 320 ha với các loại cây trồng chính là bưởi Diễn (70 ha), nhãn (50 ha). Tiểu vùng ven
sông Hồng - TV2 là 360 ha với các loại cây trồng chính là nhãn 190 ha.
Dự kiến quy mô cơ cấu các loại cây ăn quả Huyện Gia Lâm (xem phụ lục 12).
- Huyện Đông Anh
Tổng diện tích cây ăn quả các loại 1350 ha chiếm 23,27%
Nhóm cây ăn quả chính là 1040 ha chiếm 77,04%
Nhóm cây ăn quả phụ là 280 ha chiếm 20,74%
Nhóm cây ăn quả khác là 30 ha chiếm 2,22%
Địa bàn sản xuất trọng điểm cây ăn quả của Đông Anh là: Tiểu vùng miền Tây - TV4 là
440 ha với các loại cây trồng chính: bưởi Diễn (135 ha), nhãn (100 ha); Tiểu vùng miền
Đông - TV1 là 410 ha với các loại cây trồng chính: nhãn (120 ha), bưởi Diễn (105 ha).
Dự kiến quy mô cơ cấu các loại cây ăn quả Huyện Đông Anh (xem phụ lục 13).
- Huyện Sóc Sơn
Tổng diện tích cây ăn quả các loại 2550 ha chiếm 43,97%
Nhóm cây ăn quả chính: 1531 ha chiếm 60,04%
Nhóm cây ăn quả phụ: 969 ha chiếm 38,00%
Nhóm cây ăn quả khác: 50 ha chiếm 1,96%
Chi tiết bố trí các loại cây ăn quả trên địa bàn huyện được thể hiện ở bảng dưới đây
Dự kiến quy mô các loại cây ăn quả huyện Sóc Sơn (xem phụ lục 14).
3.3.4.4.2. Phát triển sản xuất cây ăn quả theo phương án 2
Phương án 2 có sự thay đổi rất lớn về bố trí sản xuất trên địa bàn 3 huyện: Sóc Sơn, Đông
Anh và Gia Lâm. Với quy mô khá lớn đất lúa - màu, chuyển sang trồng cây ăn quả.
* Dự kiến quy mô phát triển cây ăn quả
Bảng 3.8: Dự kiến quy mô phát triển cây ăn quả
Toàn Thành phố
Hạng mục 1998 2000 2005 2010 2010/1998
Tổng số 2975.5 3235 6501 10000 7024.5
1834 2005 4919 8020 6186 I. Các loại cây ăn quả chính
61,64 61,98 75,67 80,20 88,06 Tỷ lệ (%)
1. Bưởi: tổng DT 402,4 440 1025 1625 1222,6
Tr đó: Bưởi Diễn 72,1 110 805 1360 1287,9
2. Cam quýt tổng DT 101,3 108 251 395 293,7
Tr đó: cam Canh 75,1 83 184,5 285 209,9
3. Hồng xiêm: tổng DT 236,7 255 372 515 278,3
Tr đó: Hồng xiêm Xuân Đỉnh 236,7 255 372 515 278,3
4. Vải 280 343 1451 2675 239,5
5. Nhãn 813,6 859 1820 2810 1996,4
1397 1640 537,2 1102,8 1175 II. Các loại cây ăn quả phụ
Tỷ lệ (%) 7,65 37,06 36,32 21,49 16,40
6. Chuối 675,7 705 755 850 129,3
7. Táo 274,3 283 319 355 80,7
8. Đu đủ 50,1 63 118 175 124,9
9. Hồng 12,6 24 85 155 142,4
10. Na dai 90,1 100 120 150 59,9
38,7 55 185 340 301,3 III. Các loại cây ăn quả khác
1,3 1,7 2,84 3,4 4,29 Tỷ lệ (%)
Theo phương án bố trí tới năm 2005 diện tích cây ăn quả là 6501 ha và tới năm
2010 sẽ là 10.000 ha.
Nhóm cây đặc sản và cây trồng chính là 8020 ha chiếm 80,2%
Nhóm cây ăn quả phụ là 1640 ha chiếm 16,4%
Nhóm cây ăn quả khác chủ yếu đang trong thời kỳ trồng thử nghiệm là 340 ha chiếm 3,4%
* Dự kiến phân bố sử dụng đất phát triển cây ăn quả
Bảng 3.9: Dự kiến phân bố sử dụng đất phát triển cây ăn quả
Toàn Thành phố
Hạng mục 1998 2000 2005 2010 2010/1998
Tổng diện tích cây ăn quả 2976 3235 6501 10000 7025
600,8 811 3846 7260 6659 I. Đất nông nghiệp chuyển trồng
CAQ
20,19 25,07 59,16 72,6 94,8 Tỷ lệ (%)
Trong đó
- Từ đất lúa màu chuyển đổi 39,4 209 2043 4419 4380
- Từ đất chuyên màu chuyển đổi 247 250 1303 2194 1947
- Từ đất cây lâu năm (CAQ, cây 252 255 265 282 30
LN khác)
- Từ đất vườn tạp 62,4 97 235 365 302,6
2375 2374 2305 2190 -185 II. Đất vườn trong khu dân cư
79,81 73,38 35,46 21,9 -2,63 Tỷ lệ (%)
50 350 550 550 III. Đất LN và đất khác chuyển
đổi
Tỷ lệ (%) 1,55 5,38 5,50 7,83
Dự kiến phân bố sử dụng đất trồng cây ăn quả của ngoại thành Hà nội đến năm
2010 là 10000 ha, trong đó đất nông nghiệp là 7260 ha, đất vườn trong khu dân cư là 2190
ha, đất lâm nghiệp và đất khác chuyển trồng cây ăn quả là 550 ha.
* Dự kiến phương án phát triển cây ăn quả ở các tiểu vùng kinh tế - sinh thái trên địa bàn
các huyện
- Căn cứ vào mục tiêu phát triển cây ăn quả trên địa bàn toàn thành phố.
- Căn cứ vào hiện trạng sản xuất cây ăn quả, thực trạng đất đai, thực trạng về sản
xuất truyền thống và các nguồn lực có thể huy động cho phát triển sản xuất cây ăn quả
trên địa bàn huyện.
- Căn cứ vào chủ trương và định hướng phát triển kinh tế - xã hội của các huyện.
Dự kiến quy mô diện tích và địa bàn trọng điểm phát triển sản xuất cây ăn quả trên
địa bàn các huyện ngoại thành đến năm 2010 như sau:
- Huyện Thanh Trì
Tổng diện tích cây ăn quả các loại là 400 ha chiếm 4% tổng diện tích cây ăn quả
ngoại thành Hà nội
Nhóm cây ăn quả chính là 300 ha chiếm 75%
Nhóm cây ăn quả phụ 80 ha chiếm 20,0%
Nhóm cây ăn quả khác 20 ha chiếm 5%
Địa bàn trọng điểm sản xuất cây ăn quả của huyện Thanh Trì là tiểu vùng xa đô thị - TV3
(177 ha) và tiểu vùng ven QL1A - TV2 (109,5 ha) với các loại cây trồng chính là Nhãn,
Bưởi, Hồng xiêm, Tiểu vùng ngoài đê - TV4 (81 ha) với 3 loại cây trồng chính là nhãn,
hồng xiêm, bưởi.
Dự kiến quy mô cơ cấu các loại cây ăn quả huyện Thanh Trì (xem phụ lục 15).
- Huyện Từ Liêm
Tổng diện tích cây ăn quả các loại là 600 ha chiếm 6,0%
Nhóm cây ăn quả chính 475 ha chiếm 79,17%
Nhóm cây ăn quả phụ 105 ha chiếm 17,5 %
Nhóm cây ăn quả khác 20 ha chiếm 3,33%
Địa bàn trọng điểm sản xuất cây ăn quả của huyện Từ Liêm là tiểu vùng Tây sông Nhuệ,
bắc QL32 - TV2 (325 ha); Tiểu vùng Tây sông Nhuệ, Nam QL32 - TV3 (222 ha) với các
loại cây trồng chính là bưởi Diễn, cam Canh, nhãn, hồng xiêm.
Dự kiến quy mô cơ cấu các loại cây ăn quả huyện Từ Liêm (xem phụ lục 16).
- Huyện Gia Lâm
Tổng diện tích cây ăn quả các loại 1200 ha chiếm 12,0% diện tích cây ăn quả ngoại
thành Hà nội
Nhóm cây ăn quả chính là 895 ha chiếm 74,58%
Nhóm cây ăn quả phụ là 205 ha chiếm 17,08%
Nhóm cây ăn quả khác là 100 ha chiếm 8,34%
Địa bàn trọng điểm sản xuất cây ăn quả của huyện Gia Lâm là : Tiểu vùng trung tâm
(TV1); 272 ha; Tiểu vùng ven sông Hồng (TV2): 277 ha; Tiểu vùng Nam sông Đuống
(TV3): 323 ha; Tiểu vùng Bắc sông Đuống (TV4): 328 ha.
Dự kiến quy mô cơ cấu các loại cây ăn quả huyện Gia Lâm (xem phụ lục 17).
- Huyện Đông Anh
Tổng diện tích cây ăn quả các loại 3000 ha chiếm 30,0% diện tích cây ăn quả ngoại
thành Hà nội.
Nhóm cây ăn quả chính 2550 ha chiếm 85%
Nhóm cây ăn quả phụ 350 ha chiếm 11,67%
Nhóm cây ăn quả khác 100 ha chiếm 3,33%
Địa bàn sản xuất trọng điểm của huyện Đông Anh: Tiểu vùng miền Tây (TV4): 1240 ha;
Tiểu vùng ven sông Đuống, sông Hồng (TV3): 920 ha; TIểu vùng miền Đông (TV1) 525
ha; Tiểu vùng trung tâm phía Bắc (TV2) 315 ha. Các cây ăn quả chính gồm: nhãn, vải
thiều, bưởi, hồng xiêm.
Dự kiến qui mô cơ cấu các loại cây ăn quả huyện Đông Anh (xem phụ lục 18).
- Huyện Sóc Sơn
Tổng diện tích cây ăn quả các loại 4800 ha chiếm 48% diện tích cây ăn quả ngoại
thành Hà nội.
Nhóm cây ăn quả chính là 3800 ha chiếm 79,17%
Nhóm cây ăn quả phụ là 900 ha chiếm 18,75%
Nhóm cây ăn quả khác là 100 ha chiếm 2,08%
Cả 3 tiểu vùng của huyện Sóc Sơn đều sản xuất cây ăn quả với quy mô khá lớn.
Tiểu vùng 1 (TV1) 2540 ha; Tiểu vùng giữa và đất bằng (TV2) là 1620 ha; Tiểu vùng ven
sông (TV3) là 640 ha. Các cây ăn quả chính là vải thiều, nhãn, bưởi, cam quýt, hồng
xiêm..
Dự kiến quy mô cơ cấu các loại cây ăn quả huyện Sóc Sơn (xem phụ lục 19).
Kết luận:
ở phương án 1, khối lượng sản phẩm quả dự kiến đến năm 2010 đạt từ 53.000 - 55.000 tấn,
đến năm 2015 sản phẩm quả có thể đạt 75.000 - 85.000 tấn đáp ứng được 30 - 32% tổng
nhu cầu quả của Thủ đô.
ở phương án 2, khối lượng sản phẩm quả dự kiến đến năm 2010 đạt từ 70.000 - 75.000 tấn
quả các loại, đến năm 2015 sản phẩm quả có thể đạt 100.000 - 120.000 tấn quả các loại
đáp ứng được 40 - 45% nhu cầu quả của Thủ đô.
Căn cứ vào thực tế và khả năng sản xuất của vùng đất ven sông Hồng, chúng tôi thấy
phương án 1 là thích hợp hơn cả. Phương án 1 không những đáp ứng nhu cầu quả tươi của
Thủ đô mà còn góp phần trong việc giữ gìn cảnh quan, du lịch sinh thái.
Kết luận và kiến nghị
Kết luận
1. Hà nội nói riêng và vùng đất ven sông Hồng nói chung là nơi có mật độ dân đông
nhất cả nước, trong tương lai phát triển có thể đạt tới 4 - 5 triệu dân. Đó là thị trường có
sức tiêu thụ quả rất lớn và đòi hỏi chất lượng quả ngày càng cao. Điều đó tạo cơ sở quan
trọng cho việc thúc đẩy phát triển các hệ thống canh tác, đặc biệt hệ thống canh tác cây ăn
quả ngoại thành Hà nội cả về bề rộng lẫn bề sâu. Phát triển hệ thống canh tác cây ăn quả là
bước đột phá tạo ra mối quan hệ hài hòa với phát triển kinh tế xã hội của Hà nội, để khai
thác giá trị về du lịch sinh thái và nghỉ dưỡng cho nhân dân.
2. Diện tích cây ăn quả vùng đất ven sông Hồng chiếm 7,5% diện tích đất nông
nghiệp trong đó tập trung nhiều ở Sóc Sơn, Đông Anh. Năng suất của các hệ thống canh
tác cây ăn quả của vùng đạt mức trung bình khá, năng suất có liên quan đến nhiều yếu tố
tác động như sinh thái, kỹ thuật và trình độ canh tác.
3. Hai loại cây ăn quả đặc sản là cam Canh: diện tích 82,5 ha chiếm 2,7% diện tích;
bưởi Diễn 82,9ha chiếm 2,7% diện tích cây ăn quả.
4. Những nghiên cứu đánh giá về sinh trưởng phát triển các loại cây ăn quả cho
thấy: những loại cây ăn quả có giá trị kinh tế, có các chỉ số về sinh thái đạt mức trung bình
khá, khá, có cây đã trở thành đặc sản của Hà nội như Cam Canh, bưởi Diễn. Cũng như một
số cây trồng mới như: đu đủ Đài Loan, xoài giống lùn Trung Quốc, phù hợp với các điều
kiện sinh thái của vùng và nếu đáp ứng đủ các điều kiện về kỹ thuật cũng sẽ trở thành cây
đặc sản của vùng.
5. Những tiềm năng sinh thái ở vùng đất ven sông Hồng thuận lợi cho việc phát
triển hệ thống canh tác cây ăn quả:
- Tiềm năng về khí hậu cho phép sản xuất ra các loại cây ăn quả có chất lượng
cao.
- Loại đất thích hợp cho canh tác cây ăn quả (bao gồm S1, S2, S3) là 33.790 ha,
bằng 82,2% tổng diện tích đất nông nghiệp.
- Vùng đất ven sông Hồng có nguồn nước tưới phong phú và chất lượng tốt phục
vụ cho sản xuất nông nghiệp nói chung và hệ thống canh tác cây ăn quả nói riêng.
6. Để phát triển hệ thống canh tác vùng đất ven sông Hồng nói chung và Hà nội nói
riêng có hiệu quả kinh tế cao, ổn định và bền vững, đòi hỏi phải thực hiện đầy đủ và đồng
bộ các giải pháp: Đầu tư mở rộng thị trường tiêu thụ quả trong nước và xuất khẩu; áp dụng
và thực hiện rộng rãi các biện pháp kỹ thuật và công nghệ tiến tiến trong các lĩnh vực: sản
xuất, bảo quản và chế biến quả. Có các cơ chế chính sách phù hợp để thúc đẩy cho sản
xuất phát triển.
Kiến nghị
1. Thành phố và các Ngành có liên quan cần ban hành một số chính sách, cơ chế
khuyến khích phát triển sản xuất. Trước tiên tập trung vào các lĩnh vực: chuyển đổi đất
sang canh tác cây ăn quả, chuyển giao tiến bộ kỹ thuật, công nghệ, cơ chế ưu đãi về vay
vốn.
2. Cần có các đề tài, dự án tiếp tục nghiên cứu sâu hơn một số vấn đề có liên quan
như: nguồn gốc đặc điểm sinh vật học của 3 loại cây ăn quả đặc sản, nhằm bảo tồn và nhân
rộng ra sản xuất. Các kỹ năng, kỹ sảo trong sản xuất, bảo quản cũng như công nghệ tiên
tiến trong bảo quản.
3. UBND Thành phố, các Bộ, Ngành liên quan ở Trung ương và Hà nội tạo mọi
điều kiện để tiến hành quy hoạch phát triển cây ăn quả của Hà nội đến
năm 2010.
Tài liệu tham khảo
Tài liệu tiếng việt
1. Lê Thị Bích, Trần Thế Tục. Đánh giá các hệ thống cây trồng hiện đang áp dụng ở
các vùng sinh thái nông nghiệp đất phù sa sông Hồng địa hình cao, Tạp chí nông
nghiệp - CNTP số 406.
2. Phùng Văn Chinh, Lý Nhạc. Canh tác học, NXB Nông nghiệp, Hà nội, 1987.
3. Tổn Thất Chiểu - Lê Thái Bạt. Sử dụng tốt tài nguyên đất để phát triển và bảo vệ
môi trường. Tạp chí khoa học đất, số 31/1993.
4. Phạm Tiến Dũng - Một số phương pháp phân loại hộ nông dân vùng đồng bằng
sông Hồng. Kết quả nghiên cứu khoa trồng trọt 1986 - 1991, NXB Nông nghiệp
1993.
5. Đỗ ánh, Bùi Đình Dinh. Đất, phân bón và cây trồng. Tạp chí khoa học đất, NXB
NN Hà nội 2 - 1992.
6. Bùi Huy Đáp. Một số kết quả nghiên cứu đầu tiên về cơ cấu cây trồng. Tạp chí
KHKTNN số 7 - 1996.
7. Hải Đạt. Nông trại gia đình trong nông nghiệp Mỹ. Tạp chí TTLL, 1/1991 trang 41-
42.
8. Lê Thành Đường. Hiệu quả kinh tế của 6 loại màu trồng sau vụ lúa nổi tại Châu
Phú - An Giang. Tài liệu hội nghị hệ thống canh tác Việt Nam Lần thứ II năm 1991.
9. Lê Thành Đường. Nghiên cứu hiệu quả kinh tế của các loại hoa màu trồng sau lúa
nổi tại Phú Châu - An Giang, 1992.
Trần Đức. Sở hữu và cây đời. NXB Sự thật, Hà nội 1991. 10.
Nguyễn Điền, Trần Đức. Kinh tế trang trại gia đình trên thế giới và châu á. NXB 11.
Thống kê, 1993.
12. Hoàng Văn Đức. Hệ canh tác, hướng phát triển nông nghiệp. Tạp chí khoa học
nông nghiệp, 1980.
13. Hoàng Văn Đức. Hội thảo về nghiên cứu và phát triển hệ canh tác cho nông dân
trồng lúa châu á, NXB Nông nghiệp, 1992.
14. Phạm Vân Đình. Khảo sát ảnh hưởng của một số nhân tố kinh tế xã hội đến thu
nhập của các hộ nông dân trên các vùng sinh thái Thừa Thiên Huế. Tài liệu hội nghị
hệ thống canh tác Việt Nam Lần thứ II năm 1991.
15. Phạm Vân Đình. Báo cáo tổng kết đợt 1 chương trình nghiên cứu phát triển kinh tế
xã hội nông thôn. ủy ban nhân dân huyện Sóc Sơn, hà nội, tháng 6/1992.
16. Dufumier M. Phân tích những hệ thống nông nghiệp. NXB Tp Hồ Chí Minh, 1992.
17. Lê Thanh Hà. Nghiên cứu một số hệ thống canh tác hiện có trên đất dốc ở Văn Yên
- Yên Bái. Luận án PTSKHNN, trường ĐH Nông nghiệp I Hà nội, 1993.
18. Đào Trọng Hải. Nghiên cứu một số hệ thống cây trồng trên các vùng tái định cư
ven hồ Yaly huyện Sa Thầy, tỉnh Kon Tum. Luận án thạc sỹ KHNN, Hà nội, 1997.
19. Phạm Thanh Hải. Hệ thống cây trồng trên một số loại đất chính huyện Lương Sơn
tỉnh Hòa Bình. Luận án PTSKHNN, Hà nội, 1995.
20. Đỗ Văn Hòa. Xác định mô hình cơ cấu cây trồng thích hợp trên đất dốc vùng cao
miền núi phía Bắc góp phần bổ sung các giải pháp cho chương trình thay thế cây
thuốc phiện. Luận án PTSKHNN, Hà nội, 1996.
21. Kinh tế thế giới, tháng 11 + 12/1990.
22. Triệu Quốc Kỳ. Quản lý đất và nước trong hệ thống canh tác lúa nước. Tài liệu
dịch. Tạp chí KHNN số 2, Hà nội, 1994.
23. Cao Liêm, Trần Đức Viên. Sinh thái học nông nghiệp và bảo vệ môi trường. NXB
ĐH và GDCN, Hà nội, 1990.
24. Nguyễn Văn Luật. Hiệu quả kinh tế những mô hình Nông Lâm - Ngư trong vuông.
Tài liệu hội nghị Hệ thống canh tác Việt Nam Lần thứ III năm 1992.
25. Odum E.P. Cơ sở sinh thái học. NXB ĐH và GDCN, Hà Nội, 1979.
26. Trần An Phong. Kết quả bước đầu nghiên cứu cơ sở khoa học cải thiện hệ thống
cây trồng trên quan điểm sinh thái và phát triển lâu bền. Kết quả nghiên cứu khoa
học kỹ thuật. Viện Quy hoạch và TKNN, NXB Nông nghiệp, 12/1993.
27. Trần An Phong. Cơ cấu mùa vụ cây trồng đồng bằng sông Cửu Long. Báo cáo
khoa học chương trình 02A.01.02.
28. Lê Hưng Quốc. Chuyển đổi cơ cấu cây trồng vùng gò đồi tỉnh Hà Tây. Luận án
PTS khoa học nông nghiệp, 1994.
29. Phạm Bình Quyền và ctv. Hệ sinh thái vùng đồng bằng. Chương trình khoa học
cấp nhà nước 52D-02, 1990.
30. Mai Văn Quyền. Hiện trạng cây trồng trên đất xám huyện Đức Hòa - Long An. Tài
liệu hội nghị mạng lưới hệ thống canh tác Việt Nam lần thứ III năm 1992.
31. Phạm Chí Thành. Một số vấn đề về phương pháp luận trong nghiên cứu xây dựng
hệ thống canh tác ở miền Bắc Việt Nam. Kết quả nghiên cứu hệ thống canh tác lần
thứ II năm 1991.
32. Phạm Chí Thành, Trần Văn Diễn, Phạm Tiến Dũng, Trần Đức Viên. Hệ thống
nông nghiệp. NXB Nông nghiệp , 1993.
33. Phạm Chí Thành. Bài giảng Lâm học. Tài liệu nội bộ, Đại học Nông nghiệp, 1993.
34. Phạm Chí Thành. Chuyển đổi hệ thống canh tác vùng kinh tế sinh thái và du lịch
ven đường 21 tỉnh Hà Tây. Báo cáo khoa học chương trình cấp Nhà nước KX08
(1994).
35. Phạm Chí Thành, Trần Đức Viên. Chuyển đổi hệ thống canh tác vùng trũng ở đồng
bằng Bắc Bộ, NXB Nông nghiệp 1994.
36. Phạm Chí Thành, Phạm Tiến Dũng, Đào Châu Thu, Trần Đức Viên. Hệ thống nông
nghiệp (Giáo trình cao học). NXB Nông nghiệp, 1996.
37. Lê Đình Thắng và các cộng sự. Phát triển kinh tế nông hộ theo hướng sản xuất
hàng hóa. NXB Nông nghiệp, 1993.
38. Đào Châu Thu và ctv. Xây dựng mô hình nông lâm kết hợp trên vùng đất đồi Tam
Đảo - Vĩnh Phú (báo cáo khoa học), 1994.
39. Nguyễn Duy Tính. Nghiên cứu hệ thống cây trồng vùng ĐBSH. NXB Nông nghiệp,
Hà nội 1995.
40. Nguyễn Duy Tính. Nghiên cứu hệ thống cây trồng vùng Đồng Bằng Sông Hồng và
bắc Trung Bộ, NXB Nông nghiệp, Hà nội 1995.
41. Nguyễn Ngọc Trâm. Nghiên cứu cơ cấu cây trồng và hệ thống luân canh cây trồng
vùng đất cát ven biển Thừa Thiên - Huế, 1994.
42. Bùi Quang Toản. Một số vấn đề đất nương rẫy ở Tây Bắc và phương hướng sử
dụng. Luận án PTS KHNN, 1991.
Đào Thế Tuấn. Bố trí cơ cấu cây trồng hợp lý ở hợp tác xã. NXB Nông thôn 1962. 43.
Đào Thế Tuấn. Cơ sở khoa học để xác định cơ cấu cây trồng, NXB Nông nghiệp, 44.
1984.
Đào Thế Tuấn. Hệ sinh thái nông nghiệp. NXB KHKT, Hà nội 1984. 45.
Đào Thế Tuấn. Chiến lược phát triển nông nghiệp. NXB Nông nghiệp, 1986. 46.
Đào Thế Tuấn. Hệ thống nông nghiệp đồng bằng sông Hồng. UBND thành phố Hà 47.
nội 1989.
48. Tào Quốc Tuấn. Nghiên cứu xác định cơ cấu cây trồng hợp lý vùng phù sa ngọt
đồng bằng Sông Cửu Long, 1994.
Nguyễn Vy. Đất nào cây ấy. NXB KHKT, 1982. 49.
50. Bùi Thị Xô. Xác định cơ cấu cây trồng hợp lý ở ngoại thành Hà nội. Luận án
PTSKHNN, Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp Việt Nam, 1994.
51. Võ Tòng Xuân. Phương pháp nghiên cứu và phát triển hệ thống canh tác tại Việt
Nam, IRRI - Đại học Cần Thơ, 1993.
52. Võ Tòng Xuân. Nghiên cứu và phát triển hệ thống canh tác lúa tôm trên nước ngọt
Phụng Hiệp, Cần Thơ.
Tài liệu tiếng nước ngoài
53. Baker. E. F. L: Research ino intercroping aspects of farming systems in Nigeria.
Ahmadu Bello University, Zaria, Nigeria, 1974
54. Conway G.R Agricultural Ecology and Farming Systems Research. ACAAR
(Australian Council for Agricultural Research) Canbera - 1985.
55. Conway G.R - Agroecology Analysis for Research and Development. Winrock
International Institute for Agricultural Development, Bangkok, 1986.
56. Chambers, Robert. Rural Development: Putting the Last First. Longman, Harlow,
1983.
57. FAO - Farming Systems Development: Concepts, Methods, Application. Rome,
1989.
58. FAO - Institutionalization of a Farming Systems Approach to Developement.
Rome, 1992.
59. Grigg D. B - The Agricultural Systems of the World – Cambridge University Press,
1977.
60. IRRI. Symposium on Cropping systems research and development for the ASEAN
rice farmers IRRI - Los Banhos, Phillippines 1977.
61. McCraken, Jennifer; Pretty, Jules; Conay, Gordon - An Introduction to Rapid Rural
Appraisal for Agricultural Development. IIED, London, 1988.
62. International Institute of Rural Reconstruction - Farmer - Proven Integrated
Agriculture - Aquaculture: A Technology Information Kit. Silang Cavite,
Philippines, 1992.
63. Shanner W.W, Philipp P. F, Schemahl W.R - Farming Systems Research and
Development, West View Press, Boulder, Colorado, USA, 1984.
64. Tejwani, V. L - Chun K.Lai: Asia - Pacific Agroforestry Profiles. Agroforestry
systems research and development in the Asia and Pacific Region
(GCP/PAS/133/JPN), Borgor, Indonesia - 1992.
65. Zandstra H.G, Price E.C A Methodology for an farm cropping systems research
IRRI, 1981.
Phần phụ lục
Phụ lục 1: Các thời kỳ sinh trưởng và phát dục của bưởi Diễn
Chỉ tiêu khảo sát Dạng 1 Dạng 2 Dạng 3 TB
1. Thời gian ra lộc cành:
12 - - Vụ Xuân 15-20/2 15-20/2 Giữa T.2
2TB nhiều khá
- Vụ Hè 5-10/6 5-15/6 5-15/6 10/6
nhiều nhiều nhiều
- Vụ Thu 7-10/9 10-15/9 5-15/9 12/9
nhiều nhiều nhiều
- Vụ Đông 15/11 ít 15/11 ít 15/11 ít 15/11
2. Thời gian nở hoa 17-20/2 20-25/2 20-25/2 20/2
3. Thời gian hoa tàn, đậu quả 10-15/3 15-20/3 15-20/3 17/3
4. Thời gian quả bắt đầu lên mã 15- 15/11 10-15/11 15/11
20/11
5. Thời gian ra lộc, ổn định cành 20-22 22-23 20-23 21
25 - Vụ Xuân (ngày) 20-25 25 23
15-20 - Vụ Thu (ngày) 20 20 17
5. Mức độ sinh trưởng cây TB yếu Trung TB khá Trung
bình bình
7. Thời gian thu hoạch quả 25- 25/12-5/1 20-25/2 25/12
30/12
8. Khả năng để quả trên cây (điều Kém Kém Kém Kém
tra)
Phụ lục 2: Các đặc điểm sinh học chủ yếu của bưởi Diễn
Chỉ tiêu khảo sát Dạng 1 Dạng 2 Dạng 3 Trung bình
1. Chiều cao cây 10 tuổi (m) 2,8 3,3 4,1 3,4
2. Đường kính tán cây 10 tuổi 3,2 3,6 4,3 3,7
(m)
3. Kích thước của phiến lá
- Dài (cm) 7,8 8.7 9,1 8,5
- Rộng (cm) 4,5 5,8 5,4 6,0
- Dài/Rộng 1,7 1,5 1,6 1,5
4. Kích thước của eo lá:
- Dài (cm) 2,8 3,0 3,1 3,5
- Rộng (cm) 2,1 3,1 2,6 2,5
- Dài/ Rộng 1,33 0,96 1,19 1,4
5. Hình dạng của eo lá Bầu hình Hình tim Hình Bầu
tim thuẫn
6. Hình dạng đầu mút lá (đỉnh Chia thuỳ Chia thuỳ, Nhọn, -
hơi thẳng bằng lá) ngắn
7. Độ dài đốt cành trung bình 0,94 1,16 1,12 1,26
(cm)
8. Tỷ lệ các loại cành hoa/cây
(%)
63,3 73,3 - Cành đơn có lá 66,6 63,3
26,6 20,0 - Cành chùm ít lá 24,6 26,6
6,7 3,3 - Cành chùm không có lá 4,4 3,3
3,3 3,3 - Cành đơn không có lá 4,4 6,7
3 9. Số lượng đợt lộc ra trong 2 - 3 - 3 - 4
năm (đợt)
10. Sâu bệnh hại chủ yếu Vẽ bùa, Vẽ bùa, Vẽ bùa, Vẽ bùa,
nhện, rệp nhện, rệp nhện, nhện, rệp
rệp
Khá 11. Khả năng chịu úng Khá Khá Khá
12. Khả năng chịu bóng Khá Trung Trung Trung
bình bình bình
Phụ lục 3: Một số đặc tính kinh tế của bưởi Diễn
Chỉ tiêu khảo sát Dạng 1 Dạng 2 Dạng 3 Trung bình
1. Số quả/cây độ tuổi 10t 65 58 44 55,7
(quả/cây)
- Xã Phú Diễn 57 39 48,7 50
- Xã Minh Khai 60 50 63,3 80
2. Trọng lượng quả (gr) 1223 1375 1150 850
3. Số múi/ quả (múi) 13 13 13 13
4. Số hạt/quả (hạt) 47 52 48 45
5. Tỷ lệ phần ăn được (%) 61,4 57,5 60,7 63,2
6. Năng suất quả/cây 10t 70,9 60,5 64,0 55,2
(kg/cây)
7. Màu sắc vỏ quả Vàng đậm Vàng Vàng tươi Vàng
đậm
8. Màu sắc con tép quả Xanh - Vàng Trắng Vàng
vàng đậm vàng
9. Khả năng bảo quản sau thu Khá Khá Khá Khá
hoạch (Điều tra nông hộ)
Phụ lục 4: Một số đặc điểm hình thái của 3 dạng hình giống bưởi Diễn
Trung Chỉ tiêu khảo sát Dạng 1 Dạng 2 Dạng 3 bình
1. Chiều cao cây (3), cây 10t 2,8 3,3 4,1 3,4
2. Đường kính tán cây 3,2 3,6 4,3 3,7
3. Kích thước lá
- Dài lá (cm) 7,8 8,7 9,1 8,5
- Rộng lá (cm) 4,5 5,8 6,0 5,4
- Dài/Rộng 1,7 1,5 1,5 1,6
4. Đặc điểm của đỉnh lá Chia thuỳ, Chia Nhọn, ngắn -
hơi bằng thuỳ,
bằng
5. Kích thước eo lá: Dài x Rộng 2,8 x 2,1 3,0 x 3,1 3,5 x 2,5 3,1 x
(cm) 2,6
6. Hình dạng tán cây Mâm xôi Mâm xôi Mâm xôi, Mâm
xôi nhọn
1,12 1,26 7. Độ dài đốt cành (cm) 0,94 1,16
8. Màu sắc của tép quả Xanh - Vàng Trắng-vàng Vàng
vàng đậm
9. Hình dạng của quả Lê Lê tròn Tròn
Phụ lục 5: Các thời kỳ sinh trưởng của cam Canh
Các thời kỳ sinh trưởng D2: cam đường D3: cam mật Trung bình
1. Thời gian ra lộc cành của cây
- Lộc vụ xuân 5-15/2, nhiều 5-10/2, nhiều 10/2
- Lộc vụ hè 25-30/6, ít 25/6, khá 27/6
- Lộc vụ thu 15-20/9, nhiều 15-20/9, 17/9
nhiều
- Lộc vụ đông 10-15/11, ít 10/11, ít 12/11
2. Thời gian nở hoa 25/2 - 5/3 10-15/3 10/3
3. Thời kỳ tàn hoa 25/3 25/3 25/3
4. Thời gian lên mã của quả 15-20/11 15-20/11 17/11
5. Thời gian chín của quả 15-30/1 15-30/11 Cuối tháng
1
6. Mức độ sinh trưởng của cây Yếu-trung bình Trung bình Trung bình
7. Khả năng để quả trên cây Kém Khá Trung bình
8. Mức độ rụng của lá sau thu Lá rụng nhiều Lá rụng ít Tụng lá
hoạch
Phụ lục 6: Đặc điểm sinh học chủ yếu của Cam Canh
Các đặc điểm sinh học của cây Trung bình D2: Cam D3: Cam mật
đường
1. Kích thước lá
- Chiều dài (cm) 6,5 7,1 6,8
- Chiều rộng (cm) 3,0 3,1 3,0
2. Chỉ số lá D/R 2,16 2,29 2,2
3. Tỷ lệ cành hoa (%)
- Loại cành đơn có lá 65,0 75,0 70,0
- Loại cành đơn không lá 15,0 10,0 12,5
- Loại cành chùm 1 lá 1 hoa 5,0 5,0 5,0
- Loại cành chùm ít lá 15,0 10,0 12,5
- Loại cành chùm không có lá 0,0 0,0 0,0
4. Độ dài trung bình của lộc xuân 6,3 7,5 6,9
(cm)
7,9 5. Độ dài trung bình của lộc thu 7,2 8,7
(cm)
3 6. Số lượng đợt lộc ra trong năm 3 3 - 4
(đợt)
1,5 1,35 7. Độ dài đốt cành 1,2
- 8. Màu sắc lá Xanh vàng Xanh hơi đậm
3,5 3,1 9. Đường kính tán cây 10 - 15 tuổi 2,8
(m)
32 29,5 10. Chu vi gốc cây 10 - 15 tuổi (cm) 27
11. Sâu hại chủ yếu trên cây Vẽ bùa, Vẽ bùa, nhện, Vẽ bùa, nhện,
rầy nhện, rầy rầy
12. Bệnh hại chủ yếu trên cây Sẹo, chảy Sẹo, chảy gôm Sẹo, chảy gôm
gôm
Phụ lục 7: Một số đặc điểm hình thái lá, quả của 3 dạng
hình Cam Canh
Kích thước lá Đặc Số
điểm Hình Màu quả/cây Rộng Dạng của dạng sắc của (quả/cây) Tỷ lệ Dài lá lá đỉnh tán cây quả cây 10t- (D/R) (cm) (cm) 15t mút lá
Dạng 1: Cam Nhọn, Mâm Vàng 8,5 3,2 2,65 300-350 xôi đỏ chua dài
Dạng 2: Cam Tù, 6,5 3,0 2,16 Hình dù Đỏ tươi 800-1000 đường ngắn
Nhọn, Hình dù Dạng 3: Cam mật 7,1 3,1 2,29 Đỏ đậm 500-800 ngắn rộng
Phụ lục 8: Hàm lượng dinh dưỡng của
một số sản phẩm quả của Hà nội
Thành phần sinh khoáng
Vitamin Chất Đường Axit Mẫu quả Nơi lấy mẫu Khoán C khô tổng số hữu cơ g (%) (mg/100g (%) (%) (%) )
Ô.Tiến-Minh 1. Cam Canh 13,3 9,3 0,4 0,07 14,6 Khai-Từ Liêm
Ô. Thuần-Phú 2. Bưởi Diễn 9,1 6,0 0,2 0,05 29,7 Diễn-Từ Liêm
Đại học NNI 3. Bưởi 10,8 7,2 0,45 0,65 44,0 Gia Lâm Pumelo
Ô. Cường-Bắc 4. Vải thiều 18,5 15,0 0,6 0,4 16,7 Sơn-Sóc Sơn
5. Hồng Ô.Long-Xuân 11,4 15,1 13,0 0,81 0,92 xiêm Đỉnh-Từ Liêm
Ô. Thẩm-
6. Na dai T.Dược-Sóc 22,0 14,5 1,22 0,12 30,0
Sơn
Phụ lục 9: Đầu tư và hiệu quả kinh tế 1 ha của một số cây ăn quả chính ngoại thành Hà nội
Đơn vị: triệu đồng
Đầu tư T.mới Tổn Tổn Thu Tỷ S Loại cây Đầu tư hàng năm +KTCB g g nhậ suất T
T Tổng C.sóc Khấu thu nhậ p lợi
Trồn KT T..mới KD hao Tổn p thuầ nhu
g mới CB +KTC (TB/nă hàng g n ận
B m năm
170, 163, 158, 141 1 Cam Canh 17,9 15,1 33,0 10,0 1,2 11,2 0 5 8 7
2 Cam khác 5,8 11,4 17,2 7,4 28,8 23,8 21,4 289 6,7 0,7
3 Bưởi Diễn 12,4 13,3 25,7 9,6 82,5 76,3 72,9 759 8,6 1,0
4 Bưởi khác 4,5 9,2 13,7 5,7 15,2 11,5 9,5 166 5,1 0,6
Hồng 3,6 5,6 9,2 5,1 0,2 5,3 26,4 24,5 21,1 398 5 xiêm
6 Vải thiều 4,9 9,8 14,7 5,7 0,3 6,0 38,4 34,9 32,4 540
26,0 Hồng nhân 5,2 10,2 15,4 6,0 0,4 6,4 19,6 44,1 306 7 21,7 hậu
8 Na dai 7,3 13,2 20,5 8,0 1,8 9,8 52,0 44,3 42,2 430
Phụ lục 10: Dự kiến quy mô cơ cấu các loại cây ăn qủa huyện Thanh Trì
Đơn vị: ha
Toàn huyện Các tiểu vùng KT sinh thái
Các chỉ tiêu Năm 2010 1998 2000 2005 2010 2010/1998 TV1 TV2 TV3 TV4
Tổng số 207,7 217 281 400 192,3 25 60 205 110
I. Các loại cây ăn 137,5 146,0 188,0 274,0 136,5 11,0 35,0 166,0 62,0
quả chính
Tỷ lệ (%) 66,20 67,28 66,90 68,50 44,00 58,33 80,98 56,36
1. Bưởi: tổng DT 17,10 19,00 35,00 75,00 57,90 5,00 10,00 50,00 10,00
Tr đó: Bưởi Diễn 3 4,9 22 60 57,0 4 8 40 8
2. Cam quýt tổng 2,7 2,7 3,0 4,0 1,3 1,0 1,0 1,0 1,0
DT
Tr đó: cam Canh 1 1 -1,0
3. Hồng xiêm: 46,8 50 60 70 23,2 10 50 10
tổng DT
Tr đó: Hồng xiêm 46,8 50 60 70 23,2 10 50 10
Xuân Đỉnh
3,4 4,3 25 21,6 10 4 15 6 4. Vải
67,5 70 100 32,5 5 80 10 50 35 5. Nhãn
II. Các loại cây ăn 67,1 66 106 38,9 9 81 20 34 43
quả phụ
Tỷ lệ (%) 32,3 30,4 28,8 26,5 36,0 33,3 16,6 39,1
6. Chuối 48,60 51,00 61,00 81,00 32,40
7. Táo 12,4 12 16 20 7,6
3 4 5 2,5 2,5 8. Đu đủ
0,7 9. Hồng
2,9 10. Na dai
III. Các loại cây 3,1 5,0 12,0 20,0 16,9 5,0 5,0 5,0 5,0
ăn quả khác
Tỷ lệ (%) 1,49 2,30 4,27 5,00 20,00 8,33 2,44 4,55
Phụ lục 11: Dự kiến quy mô cơ cấu
các loại cây ăn quả Huyện Từ Liêm
Đơn vị: ha
Các tiểu vùng KT sinh Toàn huyện thái Các chỉ tiêu Năm 2010 1998 2000 2005 2010 2010/1998 TV1 TV2 TV3 TV4
Tổng số 349 370 468 600 251 80 440 80
I. Các loại cây ăn 214,8 229 334 455 240,2 50 340 65
quả chính
61,5 61,8 71,4 75,8 62,4 77,3 81,25 Tỷ lệ (%)
1. Bưởi: tổng DT 42,2 55 150 250 207,8 10 220 20
Tr đó: Bưởi Diễn 40,7 53,5 125 230 189,3 5 210 15
2. Cam quýt tổng DT 31,7 32 37 50 18,3 10 40
Tr đó: cam Canh 29,6 31 34 40 10,4 7 33
3. Hồng xiêm: tổng 61 65 70 60,4 9,6 40 5 25
DT
Tr đó: Hồng xiêm 60,4 61 65 70 9,6 40 25 5
Xuân Đỉnh
12,1 13 14 15 2,9 10 5 4. Vải
68,4 68 68 70 1,6 20 50 5. Nhãn
II. Các loại cây ăn 130,5 136 124 130 -0,5 25 10 95
quả phụ
37,4 36,8 26,5 21,7 31,3 21,6 12,5 Tỷ lệ (%)
23,3 30 45 70 46,7 6. Chuối
99,2 95 64 40 -59,2 7. Táo
3,5 5 8 10 6,5 8. Đu đủ
1,2 2 3 5 9. Hồng
10. Na dai 3,3 4 5 4
III. Các loại cây ăn 3,7 10 15 11,3 5 5 5 5
quả khác
1,06 135 2,14 2,50 6,25 1,14 6,25 Tỷ lệ (%)
Phụ lục 12: Dự kiến quy mô cơ cấu
các loại cây ăn quả Huyện Gia Lâm
Đơn vị: ha
Toàn huyện Các tiểu vùng KT sinh thái
Các chỉ tiêu Năm 2010 1998 2000 2005 2010 2010/1998 TV1 TV2 TV3 TV4
Tổng số 460,7 489 646 900 439,3 320 360 130 90
I. Các loại 332,4 346,6 428 570 237,6 195 250 75 50
cây ăn quả
chính
Tỷ lệ (%) 72,15 70,88 66,25 63,33 60,94 69,44 57,69 0,00
1. Bưởi: tổng 44,7 50 90 150 105,3 100 30 15 5
DT
Tr đó: Bưởi 2,1 7,4 46 100 97,9 70 20 8 2
Diễn
2. Cam quýt 13,9 14,5 17,9 20 6,1 15 5
tổng DT
Tr đó: cam 10,6 11 13 15 4,4 11 3
Canh
3. Hồng 46,3 47 55 70 23,7 15 25 25 5
xiêm: tổng
DT
Tr đó: Hồng 43,6 47 55 70 26,4 15 25 25 5
xiêm Xuân
Đỉnh
7,8 9,8 14,5 30 22,2 15 5 5 5 4. Vải
5. Nhãn 219,7 225,3 250,6 300 80,3 50 190 30 30
II. Các loại 121,8 135,4 188 270 148,2 100 90 45 35
cây ăn quả
phụ
Tỷ lệ (%) 26,44 27,69 29,10 30,00 31,25 25,00 34,62 0,00
6. Chuối 60,9 67 120 80
75 90 7. Táo 50,2 56,4
20 30 5 8. Đu đủ 4,1
6 20 4 9. Hồng 3,7
7 10 3 10. Na dai 2,9
III. Các loại 30 60 7 6,5 53,5 25 20 10 5
cây ăn quả
khác
Tỷ lệ (%) 1,41 1,43 4,64 6,67 7,81 7,81 7,69 0,00
Phụ lục 13: Dự kiến quy mô cơ cấu
các loại cây ăn quả Huyện Đông Anh
Đơn vị: ha
Toàn huyện Các tiểu vùng KT sinh thái
Các chỉ tiêu Năm 2010 1998 2000 2005 2010 2010/1998 TV1 TV2 TV3 TV4
Tổng số 842,4 866 1049 1350 507.6 410 140 360 440
I. Các loại cây ăn 678,4 691,6 825 1040 361,6 325 90 265 360
quả chính
Tỷ lệ (%) 80,53 79,86 78,65 77,04 79,27 64,29 73,61 81,82
120 1. Bưởi: tổng DT 209,9 215 285 400 190,1 20 115 145
105 Tr đó: Bưởi Diễn 21,1 26,2 162 350 328,9 10 100 135
2. Cam quýt tổng 5 24,3 24,5 25 30 5,7 10 5 10
DT
4 Tr đó: cam Canh 20,3 20,3 20,5 25 4,7 9 4 8
3. Hồng xiêm: 64,7 65 85 120 55,3 40 15 15 50
tổng DT
Tr đó: Hồng xiêm 64,7 65 85 120 55,3 40 15 15 50
Xuân Đỉnh
4. Vải 53,2 60,8 100 160 106,8 40 25 40 55
5. Nhãn 326,3 326,3 330 330 3,7 120 20 90 100
II. Các loại cây ăn 45 90 70 152,7 161,9 206 280 127,3 75
quả phụ
Tỷ lệ (%) 18,13 18,70 19,64 20,74 18,29 32,14 25,00 15,91
6. Chuối 61,3 68 70 85 23,7
7. Táo 58,9 58,9 70 85 26,1
8. Đu đủ 9,8 12 35 60 50,2
9. Hồng 2,7 3 6 15 12,3
10. Na dai 20 20 25 35 15
III. Các loại cây 18 30 11,3 12,5 18,7 10 5 5 10
ăn quả khác
Tỷ lệ (%) 1,34 1,44 1,72 2,22 2,44 3,57 1,39 2,27
Phụ lục 14: Dự kiến quy mô cơ cấu
các loại cây ăn quả huyện Sóc Sơn
Đơn vị: ha
Toàn huyện Các tiểu vùng KT sinh thái
Các chỉ tiêu Năm 2010 1998 2000 2005 2010 2010/1998 TV1 TV2 TV3 TV4
Tổng số 1115,7 1195 1736 2550 1334,3 920 1050 580
I. Các loại cây ăn 470,9 543,8 949,9 1531 1060,1 580 635 316
quả chính
Tỷ lệ (%) 42,21 45,51 54,72 60,04 63,04 60,48 54,48
55 1. Bưởi: tổng DT 88,5 100,4 230 400 311,5 160 185
40 Tr đó: Bưởi Diễn 5,2 17,1 145,1 300 294,8 110 150
2. Cam quýt tổng 41 28,7 31,6 41,4 76 47,3 10 25
DT
30 Tr đó: cam Canh 12,9 14,3 25,6 50 37,1 5 15
3. Hồng xiêm: 10 18,5 25,7 52 80 61,5 40 30
tổng DT
Tr đó: Hồng xiêm 18,5 25,7 52 80 61,5 40 30 10
Xuân Đỉnh
4. Vải 203,5 232,1 426,5 675 471,5 310 320 45
5. Nhãn 131,7 154 200 300 168,3 60 75 165
II. Các loại cây ăn 630,7 635,7 759 969 338,3 320 395 254
quả phụ
Tỷ lệ (%) 56,53 53,20 43,72 38,00 34,78 37,62 43,79
6. Chuối 481,6 464 434 399 -82,6
7. Táo 53,6 52,7 65 70 16,4
8. Đu đủ 30,2 35 60 90 59,8
9. Hồng 4,3 11 75 230 225,7
10. Na dai 61 73 125 180 119
III. Các loại cây 14,1 15,5 27,1 50 35,9 20 20 10
ăn quả khác
Tỷ lệ (%) 1,26 1,30 1,56 1,96 2,17 1,90 1,72
Phụ lục 15: Dự kiến quy mô cơ cấu các loại cây ăn quả
huyện Thanh Trì
Đơn vị: ha
Toàn huyện Các tiểu vùng KT sinh thái
Các chỉ tiêu Năm 2010 1998 2000 2005 2010 2010/1998 TV1 TV2 TV3 TV4
Tổng số 207,7 219 299 400 192,3 32,5 109,5 177 81
I. Các loại cây ăn 137,5 148 216 300 162,5 25,5 84,5 127 63
quả chính
Tỷ lệ (%) 66,2 67,58 72,24 75 78,46 77,17 71,75 77,78
1. Bưởi: tổng DT 17,1 20 57,9 10 20,16 30 45 75 15
Tr đó: Bưởi Diễn 3 5 40 60 57 8 1,5 24 12
2. Cam quýt tổng 2,7 3 4 5 2,3 2 0,5 1
DT
Tr đó: cam Canh 1 1 1,5 1
3. Hồng xiêm: 46,8 50 60 70 23,2 20 30 15 5
tổng DT
Tr đó: Hồng xiêm 46,8 50 60 70 23,2 5 20 30 15
Xuân Đỉnh
4. Vải 3,4 5 7 10 6,6 3 5 2
5. Nhãn 67,5 70 100 140 72,5 10 40 60 30
II. Các loại cây ăn 66 5 20 40 15 67,1 73 80 12,9
quả phụ
Tỷ lệ (%) 32,3 30,14 24,42 20 15,39 18,26 22,6 18,52
6. Chuối 48,6 50 55 60 1,14
7. Táo 12,4 13 14 15 2,6
8. Đu đủ 2,5 3 4 5 2,5
9. Hồng 0,7 -0,7
10. Na dai 2,9 -2,9
III. Các loại cây ăn 3,1 5 10 20 16,9 2 5 10 3
quả khác
Tỷ lệ (%) 1,49 2,28 3,34 5 6,15 4,57 5,65 3,7
Phụ lục 16: Dự kiến quy mô cơ cấu
các loại cây ăn quả huyện Từ Liêm
Đơn vị: ha
Toàn huyện Các tiểu vùng KT sinh thái
Các chỉ tiêu Năm 2010 1998 2000 2005 2010 2010/1998 TV1 TV2 TV3 TV4
Tổng số 349 367 478 600 251 53 325 222
I. Các loại cây ăn 214.8 237 351 475 260,2 35 275 165
quả chính
Tỷ lệ (%) 61.5 64,58 73,43 79,17 66,04 84,62 74,33
1. Bưởi: tổng DT 42.2 150 250 207,8 55 5 165 80
Tr đó: Bưởi Diễn 40.7 150 250 209,3 55 5 165 80
2. Cam quýt tổng 31,7 50 70 38,3 35 50 20
DT
Tr đó: cam Canh 29,6 50 70 40,4 35 50 20
3. Hồng xiêm: tổng 60,4 67 70 9,6 65 20 25 25
DT
Tr đó: Hồng xiêm 60,4 65 67 70 9,6 20 25 25
Xuân Đỉnh
12,1 13 14 15 2,9 5 10 4. Vải
68,4 69 70 70 1,6 30 30 10 5. Nhãn
II. Các loại cây ăn 40 50 15 130,5 125 117 105 -25,5
quả phụ
37,4 34,06 24,48 17,5 28,3 12,31 22,52 Tỷ lệ (%)
23,3 25 30 35 11,7 6. Chuối
99,2 95 80 60 -39,2 7. Táo
3,5 5 7 10 6,5 8. Đu đủ
1,2 -1,2 9. Hồng
3,3 -3,3 10. Na dai
III. Các loại cây ăn 3,7 5 10 20 16,3 3 10 7
quả khác
1,06 1,36 2,09 3,33 5,66 3,07 3,15 Tỷ lệ (%)
Phụ lục 17: Dự kiến quy mô cơ cấu
các loại cây ăn quả huyện Gia Lâm
Đơn vị: ha
Toàn huyện Các tiểu vùng KT sinh thái
Các chỉ tiêu Năm 2010 1998 2000 2005 2010 2010/1998 TV1 TV2 TV3 TV4
Tổng số 460,7 504 829 1200 739,3 272 277 323 328
I. Các loại cây ăn 332,4 355 607 895 562,6 192 187 258 258
quả chính
Tỷ lệ (%) 72,15 70,44 73,22 74,58 70,59 67,51 79,88 78,66
1. Bưởi: tổng DT 44,7 50 100 150 105,3 50 50 25 25
Tr đó: Bưởi Diễn 2,1 10 100 97,9 35 35 15 15 65
2. Cam quýt tổng 13,9 15 20 6,1 7 7 3 3 17
DT
Tr đó: cam Canh 10,6 11 4,4 6 5 2 2 15 13
3. Hồng xiêm: 46,3 50 28,7 20 20 15 20 75 60
tổng DT
Tr đó: Hồng xiêm 43,6 50 60 75 28,7 20 20 15 20
Xuân Đỉnh
4. Vải 7,8 10 30 50 42,2 15 10 15 10
5. Nhãn 219,7 230 400 600 380,3 100 100 200 200
II. Các loại cây ăn 121,8 139 172 205 83,2 50 60 45 50
quả phụ
Tỷ lệ (%) 26,44 27,58 20,75 17,08 18,38 21,66 13,93 15,24
6. Chuối 60,9 70 110 49,1 90
7. Táo 50,2 60 80 29,8 70
4,1 5 7 10 5,9 8. Đu đủ
3,7 4 5 5 1,3 9. Hồng
2,9 -2,9 10. Na dai
III. Các loại cây 6,5 10 50 100 93,5 30 30 20 20
ăn quả khác
Tỷ lệ (%) 1,41 1,98 6,03 8,34 11,03 10,83 6,19 6,1
Phụ lục 18: Dự kiến qui mô cơ cấu
các loại cây ăn quả huyện Đông Anh
Đơn vị: ha
Toàn huyện Các tiểu vùng KT sinh thái
Các chỉ tiêu Năm 2010 1998 2000 2005 2010 2010/1998 TV1 TV2 TV3 TV4
Tổng số 842,4 890 1885 3000 2157,6 525 315 920 1240
I. Các loại cây 678,4 700 1570 2550 1871,6 400 250 790 1110
ăn quả chính
Tỷ lệ (%) 80,53 78,65 83,29 85 76,19 79,37 85,87 89,52
1. Bưởi: tổng 209,9 215 380 550 340,1 100 50 150 250
DT
Tr đó: Bưởi 21,1 25 250 450 428,9 80 40 120 210
Diễn
2. Cam quýt 24,3 25 90 150 125,7 10 30 45 65
tổng DT
Tr đó: cam 20,3 21 60 100 79,7 5 20 30 45
Canh
3. Hồng xiêm: 64,7 65 100 150 85,3 40 20 45 45
tổng DT
Tr đó: Hồng 64,7 65 100 150 85,3 40 20 45 45
Xuân xiêm
Đỉnh
4. Vải 53,2 65 350 700 646,8 50 50 250 350
5. Nhãn 326,3 330 650 1000 673,7 200 100 300 400
II. Các loại cây 152,7 175 260 350 197,3 100 50 100 100
ăn quả phụ
Tỷ lệ (%) 18,13 19,66 13,79 11,67 19,05 15,87 10,87 8,06
6. Chuối 61,3 70 100 38,7 85
7. Táo 58,9 60 100 41,1 80
8. Đu đủ 9,8 15 50 40,2 35
9. Hồng 2,7 5 50 47,3 25
10. Na dai 20 25 50 30 35
55 III. Các loại 11,3 15 100 88,7 25 15 30 30
cây ăn quả khác
Tỷ lệ (%) 1,34 1,69 2,92 3,33 4,76 4,76 3,26 2,42
Phụ lục 19: Dự kiến quy mô cơ cấu
các loại cây ăn quả huyện Sóc Sơn
Đơn vị: ha
Toàn huyện Các tiểu vùng KT sinh thái
Các chỉ tiêu Năm 2010 1998 2000 2005 2010 2010/1998 TV1 TV2 TV3 TV4
Tổng số 1115,7 1255 3010 4800 3684,3 2540 1620 640
I. Các loại cây ăn 470,9 565 2175 3800 3329,1 2090 1290 420
quả chính
Tỷ lệ (%) 42,21 45,02 72,26 79,17 82,28 79,63 65,63
1. Bưởi: tổng DT 88,5 100 350 600 511,5 300 200 100
15 Tr đó: Bưởi Diễn 5,2 300 500 494,8 250 160 90
30 2. Cam quýt tổng 28,7 90 150 121,3 90 40 20
DT
15 60 Tr đó: cam Canh 12,9 100 87,1 60 25 15
25 85 3. Hồng xiêm: 18,5 150 131,5 50 50 50
tổng DT
Tr đó: Hồng xiêm 18,5 25 85 150 131,5 50 50 50
Xuân Đỉnh
4. Vải 203,5 250 1050 1900 1696,5 1150 700 50
5. Nhãn 131,7 160 600 1000 868,3 500 300 200
II. Các loại cây ăn 63,7 670 775 900 269,3 400 300 31,25
quả phụ
Tỷ lệ (%) 56,53 53,39 25,75 18,75 15,75 18,52
6. Chuối 481,6 490 495 500 18,4
7. Táo 53,6 55 75 100 46,4
8. Đu đủ 30,2 35 65 100 69,8
9. Hồng 4,3 15 55 100 95,7
10. Na dai 61 75 85 100 39
20 60 100 III. Các loại cây 14,1 85,9 50 30 20
ăn quả khác1,59
Tỷ lệ (%) 1,26 1,59 1,99 7,08 1,97 1,85 3,12
Tài liệu tham khảo
Tài liệu tiếng việt
1. Lê Thị Bích, Trần Thế Tục. Đánh giá các hệ thống cây trồng hiện đang áp dụng ở
các vùng sinh thái nông nghiệp đất phù sa sông Hồng địa hình cao, Tạp chí nông
nghiệp - CNTP số 406.
2. Phùng Văn Chinh, Lý Nhạc. Canh tác học, NXB Nông nghiệp, Hà nội, 1987.
3. Tổn Thất Chiểu - Lê Thái Bạt. Sử dụng tốt tài nguyên đất để phát triển và bảo vệ môi
trờng. Tạp chí khoa học đất, số 31/1993.
4. Phạm Tiến Dũng - Một số phơng pháp phân loại hộ nông dân vùng đồng bằng sông
Hồng. Kết quả nghiên cứu khoa trồng trọt 1986 - 1991, NXB Nông nghiệp 1993.
5. Đỗ ánh, Bùi Đình Dinh. Đất, phân bón và cây trồng. Tạp chí khoa học đất, NXB NN
Hà nội 2 - 1992.
6. Bùi Huy Đáp. Một số kết quả nghiên cứu đầu tiên về cơ cấu cây trồng. Tạp chí
KHKTNN số 7 - 1996.
7. Hải Đạt. Nông trại gia đình trong nông nghiệp Mỹ. Tạp chí TTLL, 1/1991 trang 41-
42.
8. Lê Thành Đờng. Hiệu quả kinh tế của 6 loại màu trồng sau vụ lúa nổi tại Châu Phú -
An Giang. Tài liệu hội nghị hệ thống canh tác Việt Nam Lần thứ II năm 1991.
9. Lê Thành Đờng. Nghiên cứu hiệu quả kinh tế của các loại hoa màu trồng sau lúa nổi
tại Phú Châu - An Giang, 1992.
10. Trần Đức. Sở hữu và cây đời. NXB Sự thật, Hà nội 1991.
11. Nguyễn Điền, Trần Đức. Kinh tế trang trại gia đình trên thế giới và châu á. NXB
Thống kê, 1993.
12. Hoàng Văn Đức. Hệ canh tác, hớng phát triển nông nghiệp. Tạp chí khoa học nông
nghiệp, 1980.
13. Hoàng Văn Đức. Hội thảo về nghiên cứu và phát triển hệ canh tác cho nông dân
trồng lúa châu á, NXB Nông nghiệp, 1992.
14. Phạm Vân Đình. Khảo sát ảnh hởng của một số nhân tố kinh tế xã hội đến thu nhập
của các hộ nông dân trên các vùng sinh thái Thừa Thiên Huế. Tài liệu hội nghị hệ
thống canh tác Việt Nam Lần thứ II năm 1991.
15. Phạm Vân Đình. Báo cáo tổng kết đợt 1 chơng trình nghiên cứu phát triển kinh tế xã
hội nông thôn. ủy ban nhân dân huyện Sóc Sơn, hà nội, tháng 6/1992.
16. Dufumier M. Phân tích những hệ thống nông nghiệp. NXB Tp Hồ Chí Minh, 1992.
17. Lê Thanh Hà. Nghiên cứu một số hệ thống canh tác hiện có trên đất dốc ở Văn Yên -
Yên Bái. Luận án PTSKHNN, trờng ĐH Nông nghiệp I Hà nội, 1993.
18. Đào Trọng Hải. Nghiên cứu một số hệ thống cây trồng trên các vùng tái định c ven
hồ Yaly huyện Sa Thầy, tỉnh Kon Tum. Luận án thạc sỹ KHNN, Hà nội, 1997.
19. Phạm Thanh Hải. Hệ thống cây trồng trên một số loại đất chính huyện Lơng Sơn
tỉnh Hòa Bình. Luận án PTSKHNN, Hà nội, 1995.
20. Đỗ Văn Hòa. Xác định mô hình cơ cấu cây trồng thích hợp trên đất dốc vùng cao
miền núi phía Bắc góp phần bổ sung các giải pháp cho chơng trình thay thế cây
thuốc phiện. Luận án PTSKHNN, Hà nội, 1996.
21. Kinh tế thế giới, tháng 11 + 12/1990.
22. Triệu Quốc Kỳ. Quản lý đất và nớc trong hệ thống canh tác lúa nớc. Tài liệu dịch.
Tạp chí KHNN số 2, Hà nội, 1994.
23. Cao Liêm, Trần Đức Viên. Sinh thái học nông nghiệp và bảo vệ môi trờng. NXB ĐH
và GDCN, Hà nội, 1990.
24. Nguyễn Văn Luật. Hiệu quả kinh tế những mô hình Nông Lâm - Ng trong vuông. Tài
liệu hội nghị Hệ thống canh tác Việt Nam Lần thứ III năm 1992.
25. Odum E.P. Cơ sở sinh thái học. NXB ĐH và GDCN, Hà Nội, 1979.
26. Trần An Phong. Kết quả bớc đầu nghiên cứu cơ sở khoa học cải thiện hệ thống cây
trồng trên quan điểm sinh thái và phát triển lâu bền. Kết quả nghiên cứu khoa học
kỹ thuật. Viện Quy hoạch và TKNN, NXB Nông nghiệp, 12/1993.
27. Trần An Phong. Cơ cấu mùa vụ cây trồng đồng bằng sông Cửu Long. Báo cáo khoa
học chơng trình 02A.01.02.
28. Lê Hng Quốc. Chuyển đổi cơ cấu cây trồng vùng gò đồi tỉnh Hà Tây. Luận án PTS
khoa học nông nghiệp, 1994.
29. Phạm Bình Quyền và ctv. Hệ sinh thái vùng đồng bằng. Chơng trình khoa học cấp
nhà nớc 52D-02, 1990.
30. Mai Văn Quyền. Hiện trạng cây trồng trên đất xám huyện Đức Hòa - Long An. Tài
liệu hội nghị mạng lới hệ thống canh tác Việt Nam lần thứ III năm 1992.
31. Phạm Chí Thành. Một số vấn đề về phơng pháp luận trong nghiên cứu xây dựng hệ
thống canh tác ở miền Bắc Việt Nam. Kết quả nghiên cứu hệ thống canh tác lần thứ
II năm 1991.
32. Phạm Chí Thành, Trần Văn Diễn, Phạm Tiến Dũng, Trần Đức Viên. Hệ thống nông
nghiệp. NXB Nông nghiệp , 1993.
33. Phạm Chí Thành. Bài giảng Lâm học. Tài liệu nội bộ, Đại học Nông nghiệp, 1993.
34. Phạm Chí Thành. Chuyển đổi hệ thống canh tác vùng kinh tế sinh thái và du lịch ven
đờng 21 tỉnh Hà Tây. Báo cáo khoa học chơng trình cấp Nhà nớc KX08 (1994).
35. Phạm Chí Thành, Trần Đức Viên. Chuyển đổi hệ thống canh tác vùng trũng ở đồng
bằng Bắc Bộ, NXB Nông nghiệp 1994.
36. Phạm Chí Thành, Phạm Tiến Dũng, Đào Châu Thu, Trần Đức Viên. Hệ thống nông
nghiệp (Giáo trình cao học). NXB Nông nghiệp, 1996.
37. Lê Đình Thắng và các cộng sự. Phát triển kinh tế nông hộ theo hớng sản xuất hàng
hóa. NXB Nông nghiệp, 1993.
38. Đào Châu Thu và ctv. Xây dựng mô hình nông lâm kết hợp trên vùng đất đồi Tam
Đảo - Vĩnh Phú (báo cáo khoa học), 1994.
39. Nguyễn Duy Tính. Nghiên cứu hệ thống cây trồng vùng ĐBSH. NXB Nông nghiệp,
Hà nội 1995.
40. Nguyễn Duy Tính. Nghiên cứu hệ thống cây trồng vùng Đồng Bằng Sông Hồng và
bắc Trung Bộ, NXB Nông nghiệp, Hà nội 1995.
41. Nguyễn Ngọc Trâm. Nghiên cứu cơ cấu cây trồng và hệ thống luân canh cây trồng
vùng đất cát ven biển Thừa Thiên - Huế, 1994.
42. Bùi Quang Toản. Một số vấn đề đất nơng rẫy ở Tây Bắc và phơng hớng sử dụng.
Luận án PTS KHNN, 1991.
43. Đào Thế Tuấn. Bố trí cơ cấu cây trồng hợp lý ở hợp tác xã. NXB Nông thôn 1962.
44. Đào Thế Tuấn. Cơ sở khoa học để xác định cơ cấu cây trồng, NXB Nông nghiệp,
1984.
45. Đào Thế Tuấn. Hệ sinh thái nông nghiệp. NXB KHKT, Hà nội 1984.
46. Đào Thế Tuấn. Chiến lợc phát triển nông nghiệp. NXB Nông nghiệp, 1986.
47. Đào Thế Tuấn. Hệ thống nông nghiệp đồng bằng sông Hồng. UBND thành phố Hà
nội 1989.
48. Tào Quốc Tuấn. Nghiên cứu xác định cơ cấu cây trồng hợp lý vùng phù sa ngọt đồng
bằng Sông Cửu Long, 1994.
49. Nguyễn Vy. Đất nào cây ấy. NXB KHKT, 1982.
50. Bùi Thị Xô. Xác định cơ cấu cây trồng hợp lý ở ngoại thành Hà nội. Luận án
PTSKHNN, Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp Việt Nam, 1994.
51. Võ Tòng Xuân. Phơng pháp nghiên cứu và phát triển hệ thống canh tác tại Việt
Nam, IRRI - Đại học Cần Thơ, 1993.
52. Võ Tòng Xuân. Nghiên cứu và phát triển hệ thống canh tác lúa tôm trên nớc ngọt
Phụng Hiệp, Cần Thơ.
Tài liệu tiếng nớc ngoài
53. Baker. E. F. L: Research ino intercroping aspects of farming systems in Nigeria.
Ahmadu Bello University, Zaria, Nigeria, 1974
54. Conway G.R Agricultural Ecology and Farming Systems Research. ACAAR
(Australian Council for Agricultural Research) Canbera - 1985.
55. Conway G.R - Agroecology Analysis for Research and Development. Winrock
International Institute for Agricultural Development, Bangkok, 1986.
56. Chambers, Robert. Rural Development: Putting the Last First. Longman, Harlow,
1983.
57. FAO - Farming Systems Development: Concepts, Methods, Application. Rome,
1989.
58. FAO - Institutionalization of a Farming Systems Approach to Developement. Rome,
1992.
59. Grigg D. B - The Agricultural Systems of the World – Cambridge University Press,
1977.
60. IRRI. Symposium on Cropping systems research and development for the ASEAN
rice farmers IRRI - Los Banhos, Phillippines 1977.
61. McCraken, Jennifer; Pretty, Jules; Conay, Gordon - An Introduction to Rapid Rural
Appraisal for Agricultural Development. IIED, London, 1988.
62. International Institute of Rural Reconstruction - Farmer - Proven Integrated
Agriculture - Aquaculture: A Technology Information Kit. Silang Cavite,
Philippines, 1992.
63. Shanner W.W, Philipp P. F, Schemahl W.R - Farming Systems Research and
Development, West View Press, Boulder, Colorado, USA, 1984.
64. Tejwani, V. L - Chun K.Lai: Asia - Pacific Agroforestry Profiles. Agroforestry
systems research and development in the Asia and Pacific Region
(GCP/PAS/133/JPN), Borgor, Indonesia - 1992.
65. Zandstra H.G, Price E.C A Methodology for an farm cropping systems research
IRRI, 1981.
Phần phụ lục
Phụ lục 1: Các thời kỳ sinh trởng và phát dục của bởi Diễn
Chỉ tiêu khảo sát Dạng 1 Dạng 2 Dạng 3 TB
1. Thời gian ra lộc cành:
12 - - Vụ Xuân 15-20/2 15-20/2 Giữa T.2
2TB nhiều khá
- Vụ Hè 5-10/6 5-15/6 5-15/6 10/6
nhiều nhiều nhiều
- Vụ Thu 7-10/9 10-15/9 5-15/9 12/9
nhiều nhiều nhiều
- Vụ Đông 15/11 ít 15/11 ít 15/11 ít 15/11
2. Thời gian nở hoa 17-20/2 20-25/2 20-25/2 20/2
3. Thời gian hoa tàn, đậu quả 10-15/3 15-20/3 15-20/3 17/3
4. Thời gian quả bắt đầu lên mã 15- 15/11 10-15/11 15/11
20/11
5. Thời gian ra lộc, ổn định cành 20-22 22-23 20-23 21
25 - Vụ Xuân (ngày) 20-25 25 23
15-20 - Vụ Thu (ngày) 20 20 17
5. Mức độ sinh trởng cây TB yếu Trung TB khá Trung
bình bình
7. Thời gian thu hoạch quả 25- 25/12-5/1 20-25/2 25/12
30/12
8. Khả năng để quả trên cây (điều Kém Kém Kém Kém
tra)
Phụ lục 2: Các đặc điểm sinh học chủ yếu của bởi Diễn
Chỉ tiêu khảo sát Dạng 1 Dạng 2 Dạng 3 Trung bình
1. Chiều cao cây 10 tuổi (m) 2,8 3,3 4,1 3,4
2. Đờng kính tán cây 10 tuổi 3,2 3,6 4,3 3,7
(m)
3. Kích thớc của phiến lá
- Dài (cm) 7,8 8.7 9,1 8,5
- Rộng (cm) 4,5 5,8 5,4 6,0
- Dài/Rộng 1,7 1,5 1,6 1,5
4. Kích thớc của eo lá:
- Dài (cm) 2,8 3,0 3,1 3,5
- Rộng (cm) 2,1 3,1 2,6 2,5
- Dài/ Rộng 1,33 0,96 1,19 1,4
5. Hình dạng của eo lá Bầu hình Hình tim Hình Bầu
tim thuẫn
6. Hình dạng đầu mút lá (đỉnh Chia thuỳ Chia thuỳ, Nhọn, -
hơi thẳng bằng lá) ngắn
7. Độ dài đốt cành trung bình 0,94 1,16 1,12 1,26
(cm)
8. Tỷ lệ các loại cành hoa/cây
(%)
63,3 73,3 - Cành đơn có lá 66,6 63,3
26,6 20,0 - Cành chùm ít lá 24,6 26,6
6,7 3,3 - Cành chùm không có lá 4,4 3,3
3,3 3,3 - Cành đơn không có lá 4,4 6,7
3 9. Số lợng đợt lộc ra trong năm 2 - 3 - 3 - 4
(đợt)
10. Sâu bệnh hại chủ yếu Vẽ bùa, Vẽ bùa, Vẽ bùa, Vẽ bùa,
nhện, rệp nhện, rệp nhện, nhện, rệp
rệp
Khá 11. Khả năng chịu úng Khá Khá Khá
12. Khả năng chịu bóng Khá Trung Trung Trung
bình bình bình
Phụ lục 3: Một số đặc tính kinh tế của bởi Diễn
Chỉ tiêu khảo sát Dạng 1 Dạng 2 Dạng 3 Trung bình
1. Số quả/cây độ tuổi 10t 65 58 44 55,7
(quả/cây)
- Xã Phú Diễn 50 57 39 48,7
- Xã Minh Khai 80 60 50 63,3
2. Trọng lợng quả (gr) 850 1223 1375 1150
3. Số múi/ quả (múi) 13 13 13 13
4. Số hạt/quả (hạt) 45 47 52 48
5. Tỷ lệ phần ăn đợc (%) 63,2 61,4 57,5 60,7
6. Năng suất quả/cây 10t 55,2 70,9 60,5 64,0
(kg/cây)
7. Màu sắc vỏ quả Vàng đậm Vàng Vàng tơi Vàng
đậm
8. Màu sắc con tép quả Xanh - Vàng Trắng Vàng
vàng đậm vàng
9. Khả năng bảo quản sau thu Khá Khá Khá Khá
hoạch (Điều tra nông hộ)
Phụ lục 4: Một số đặc điểm hình thái của 3 dạng hình giống bởi Diễn
Trung Chỉ tiêu khảo sát Dạng 1 Dạng 2 Dạng 3 bình
1. Chiều cao cây (3), cây 10t 2,8 3,3 4,1 3,4
2. Đờng kính tán cây 3,2 3,6 4,3 3,7
3. Kích thớc lá
- Dài lá (cm) 7,8 8,7 9,1 8,5
- Rộng lá (cm) 4,5 5,8 6,0 5,4
- Dài/Rộng 1,7 1,5 1,5 1,6
4. Đặc điểm của đỉnh lá Chia thuỳ, Chia Nhọn, ngắn -
hơi bằng thuỳ,
bằng
5. Kích thớc eo lá: Dài x Rộng 2,8 x 2,1 3,0 x 3,1 3,5 x 2,5 3,1 x
(cm) 2,6
6. Hình dạng tán cây Mâm xôi Mâm xôi Mâm xôi, Mâm
xôi nhọn
1,12 1,26 7. Độ dài đốt cành (cm) 0,94 1,16
8. Màu sắc của tép quả Xanh - Vàng Trắng-vàng Vàng
vàng đậm
9. Hình dạng của quả Lê Lê tròn Tròn
Phụ lục 5: Các thời kỳ sinh trởng của cam Canh
Các thời kỳ sinh trởng D2: cam đờng D3: cam mật Trung bình
1. Thời gian ra lộc cành của cây
- Lộc vụ xuân 5-15/2, nhiều 5-10/2, nhiều 10/2
- Lộc vụ hè 25-30/6, ít 25/6, khá 27/6
- Lộc vụ thu 15-20/9, nhiều 15-20/9, 17/9
nhiều
- Lộc vụ đông 10-15/11, ít 10/11, ít 12/11
2. Thời gian nở hoa 25/2 - 5/3 10-15/3 10/3
3. Thời kỳ tàn hoa 25/3 25/3 25/3
4. Thời gian lên mã của quả 15-20/11 15-20/11 17/11
5. Thời gian chín của quả 15-30/1 15-30/11 Cuối tháng
1
6. Mức độ sinh trởng của cây Yếu-trung bình Trung bình Trung bình
7. Khả năng để quả trên cây Kém Khá Trung bình
8. Mức độ rụng của lá sau thu Lá rụng nhiều Lá rụng ít Tụng lá
hoạch
Phụ lục 6: Đặc điểm sinh học chủ yếu của Cam Canh
Các đặc điểm sinh học của cây Trung bình D2: Cam đ- D3: Cam mật
ờng
1. Kích thớc lá
- Chiều dài (cm) 6,5 7,1 6,8
- Chiều rộng (cm) 3,0 3,1 3,0
2. Chỉ số lá D/R 2,16 2,29 2,2
3. Tỷ lệ cành hoa (%)
- Loại cành đơn có lá 65,0 75,0 70,0
- Loại cành đơn không lá 15,0 10,0 12,5
- Loại cành chùm 1 lá 1 hoa 5,0 5,0 5,0
- Loại cành chùm ít lá 15,0 10,0 12,5
- Loại cành chùm không có lá 0,0 0,0 0,0
4. Độ dài trung bình của lộc xuân 6,3 7,5 6,9
(cm)
7,9 5. Độ dài trung bình của lộc thu 7,2 8,7
(cm)
3 3 - 4 3 6. Số lợng đợt lộc ra trong năm (đợt)
1,2 1,5 1,35 7. Độ dài đốt cành
- 8. Màu sắc lá Xanh vàng Xanh hơi đậm
3,5 3,1 9. Đờng kính tán cây 10 - 15 tuổi 2,8
(m)
32 29,5 10. Chu vi gốc cây 10 - 15 tuổi (cm) 27
11. Sâu hại chủ yếu trên cây Vẽ bùa, Vẽ bùa, nhện, Vẽ bùa, nhện,
rầy nhện, rầy rầy
12. Bệnh hại chủ yếu trên cây Sẹo, chảy Sẹo, chảy gôm Sẹo, chảy gôm
gôm
Phụ lục 7: Một số đặc điểm hình thái lá, quả của 3 dạng
hình Cam Canh
Kích thớc lá Đặc Số
điểm Hình Màu quả/cây Rộng Dạng của dạng sắc của (quả/cây) Tỷ lệ Dài lá lá đỉnh tán cây quả cây 10t- (D/R) (cm) (cm) 15t mút lá
Dạng 1: Cam Nhọn, Mâm Vàng 8,5 3,2 2,65 300-350 xôi đỏ chua dài
Dạng 2: Cam đ- Tù, 6,5 3,0 2,16 Hình dù Đỏ tơi 800-1000 ờng ngắn
Nhọn, Hình dù Dạng 3: Cam mật 7,1 3,1 2,29 Đỏ đậm 500-800 ngắn rộng
Phụ lục 8: Hàm lợng dinh dỡng của
một số sản phẩm quả của Hà nội
Thành phần sinh khoáng
Vitamin Chất Axit Mẫu quả Nơi lấy mẫu Đờng tổng Khoán C khô hữu cơ số (%) g (%) (mg/100g (%) (%) )
Ô.Tiến-Minh 1. Cam Canh 13,3 9,3 0,4 0,07 14,6 Khai-Từ Liêm
Ô. Thuần-Phú 2. Bởi Diễn 9,1 6,0 0,2 0,05 29,7 Diễn-Từ Liêm
Đại học NNI 3. Bởi 10,8 7,2 0,45 0,65 44,0 Gia Lâm Pumelo
Ô. Cờng-Bắc 4. Vải thiều 18,5 15,0 0,6 0,4 16,7 Sơn-Sóc Sơn
5. Hồng Ô.Long-Xuân 11,4 15,1 13,0 0,81 0,92 xiêm Đỉnh-Từ Liêm
Ô. Thẩm-T.D- 6. Na dai 22,0 14,5 1,22 0,12 30,0 ợc-Sóc Sơn
Phụ lục 9: Đầu t và hiệu quả kinh tế 1 ha của một số cây ăn quả chính ngoại thành Hà nội
Đơn vị: triệu đồng
Đầu t T.mới +KTCB Đầu t hàng năm Thu Tỷ Tổn Tổn nhậ suất S Tổng C.sóc Khấu g Loại cây g p lợi T Trồn KT T..mới KD hao Tổn nhậ thu thuầ nhu T g mới CB +KTC (TB/nă hàng g p n ận B m năm
1 Cam Canh 17,9 15,1 33,0 10,0 1,2 11,2 170, 163, 158, 141
0 5 8 7
2 Cam khác 5,8 11,4 17,2 7,4 28,8 23,8 21,4 289 6,7 0,7
3 Bởi Diễn 12,4 13,3 25,7 9,6 82,5 76,3 72,9 759 8,6 1,0
4 Bởi khác 4,5 9,2 13,7 5,7 15,2 11,5 9,5 166 5,1 0,6
Hồng 3,6 5,6 9,2 5,1 0,2 5,3 26,4 24,5 21,1 398 5 xiêm
6 Vải thiều 4,9 9,8 14,7 5,7 0,3 6,0 38,4 34,9 32,4 540
26,0 Hồng nhân 5,2 10,2 15,4 6,0 0,4 6,4 19,6 44,1 306 7 21,7 hậu
8 Na dai 7,3 13,2 20,5 8,0 1,8 9,8 52,0 44,3 42,2 430
Phụ lục 10: Dự kiến quy mô cơ cấu các loại cây ăn qủa huyện Thanh Trì
Đơn vị: ha
Toàn huyện Các tiểu vùng KT sinh thái
Các chỉ tiêu Năm 2010 1998 2000 2005 2010 2010/1998 TV1 TV2 TV3 TV4
Tổng số 207,7 217 281 400 192,3 25 60 205 110
I. Các loại cây ăn 137,5 146,0 188,0 274,0 136,5 11,0 35,0 166,0 62,0
quả chính
Tỷ lệ (%) 66,20 67,28 66,90 68,50 44,00 58,33 80,98 56,36
1. Bởi: tổng DT 17,10 19,00 35,00 75,00 57,90 5,00 10,00 50,00 10,00
Tr đó: Bởi Diễn 3 4,9 22 60 57,0 4 8 40 8
2. Cam quýt tổng 2,7 2,7 3,0 4,0 1,3 1,0 1,0 1,0 1,0
DT
Tr đó: cam Canh 1 1 -1,0
3. Hồng xiêm: 46,8 50 60 70 23,2 10 50 10
tổng DT
Tr đó: Hồng xiêm 46,8 50 60 70 23,2 10 50 10
Xuân Đỉnh
3,4 4,3 25 21,6 10 4 15 6 4. Vải
67,5 70 100 32,5 5 80 10 50 35 5. Nhãn
II. Các loại cây ăn 67,1 66 106 38,9 9 81 20 34 43
quả phụ
Tỷ lệ (%) 32,3 30,4 28,8 26,5 36,0 33,3 16,6 39,1
6. Chuối 48,60 51,00 61,00 81,00 32,40
7. Táo 12,4 12 16 20 7,6
3 4 5 2,5 2,5 8. Đu đủ
0,7 9. Hồng
2,9 10. Na dai
III. Các loại cây 3,1 5,0 12,0 20,0 16,9 5,0 5,0 5,0 5,0
ăn quả khác
Tỷ lệ (%) 1,49 2,30 4,27 5,00 20,00 8,33 2,44 4,55
Phụ lục 11: Dự kiến quy mô cơ cấu
các loại cây ăn quả Huyện Từ Liêm
Đơn vị: ha
Các tiểu vùng KT sinh Toàn huyện thái Các chỉ tiêu Năm 2010 1998 2000 2005 2010 2010/1998 TV1 TV2 TV3 TV4
Tổng số 349 370 468 600 251 80 440 80
I. Các loại cây ăn 214,8 229 334 455 240,2 50 340 65
quả chính
Tỷ lệ (%) 61,5 61,8 71,4 75,8 62,4 77,3 81,25
1. Bởi: tổng DT 42,2 55 150 250 207,8 10 220 20
Tr đó: Bởi Diễn 40,7 53,5 125 230 189,3 5 210 15
2. Cam quýt tổng DT 31,7 32 37 50 18,3 10 40
Tr đó: cam Canh 29,6 34 40 31 10,4 7 33
3. Hồng xiêm: tổng 65 70 61 60,4 9,6 40 5 25
DT
Tr đó: Hồng xiêm 60,4 61 65 70 9,6 40 25 5
Xuân Đỉnh
4. Vải 12,1 13 14 15 2,9 10 5
5. Nhãn 68,4 68 68 70 1,6 20 50
II. Các loại cây ăn 130,5 136 124 130 -0,5 25 10 95
quả phụ
Tỷ lệ (%) 37,4 36,8 26,5 21,7 31,3 21,6 12,5
6. Chuối 23,3 30 45 70 46,7
7. Táo 99,2 95 64 40 -59,2
8. Đu đủ 3,5 5 8 10 6,5
3 5 1,2 2 9. Hồng
4 5 3,3 4 10. Na dai
III. Các loại cây ăn 5 3,7 10 15 11,3 5 5 5
quả khác
1,06 135 2,14 2,50 6,25 1,14 6,25 Tỷ lệ (%)
Phụ lục 12: Dự kiến quy mô cơ cấu
các loại cây ăn quả Huyện Gia Lâm
Đơn vị: ha
Toàn huyện Các tiểu vùng KT sinh thái
Các chỉ tiêu Năm 2010 1998 2000 2005 2010 2010/1998 TV1 TV2 TV3 TV4
Tổng số 460,7 489 646 900 439,3 320 360 130 90
I. Các loại 332,4 346,6 428 570 237,6 195 250 75 50
cây ăn quả
chính
Tỷ lệ (%) 72,15 70,88 66,25 63,33 60,94 69,44 57,69 0,00
1. Bởi: tổng 44,7 50 90 150 105,3 100 30 15 5
DT
Tr đó: Bởi 2,1 7,4 46 100 97,9 70 20 8 2
Diễn
2. Cam quýt 13,9 14,5 17,9 20 6,1 15 5
tổng DT
Tr đó: cam 10,6 11 13 15 4,4 11 3
Canh
3. Hồng 46,3 47 55 70 23,7 15 25 25 5
xiêm: tổng
DT
Tr đó: Hồng 43,6 47 55 70 26,4 15 25 25 5
xiêm Xuân
Đỉnh
4. Vải 7,8 9,8 14,5 30 22,2 15 5 5 5
5. Nhãn 219,7 225,3 250,6 300 80,3 50 190 30 30
II. Các loại 121,8 135,4 188 270 148,2 100 90 45 35
cây ăn quả
phụ
Tỷ lệ (%) 26,44 27,69 29,10 30,00 31,25 25,00 34,62 0,00
6. Chuối 60,9 67 120 80
75 90 7. Táo 50,2 56,4
20 30 5 8. Đu đủ 4,1
6 20 4 9. Hồng 3,7
7 10 3 10. Na dai 2,9
III. Các loại 30 60 53,5 25 20 10 5 7 6,5
cây ăn quả
khác
Tỷ lệ (%) 1,41 1,43 4,64 6,67 7,81 7,81 7,69 0,00
Phụ lục 13: Dự kiến quy mô cơ cấu
các loại cây ăn quả Huyện Đông Anh
Đơn vị: ha
Toàn huyện Các tiểu vùng KT sinh thái
Các chỉ tiêu Năm 2010 1998 2000 2005 2010 2010/1998 TV1 TV2 TV3 TV4
Tổng số 842,4 866 1049 1350 507.6 410 140 360 440
I. Các loại cây ăn 678,4 691,6 825 1040 361,6 325 90 265 360
quả chính
Tỷ lệ (%) 80,53 79,86 78,65 77,04 79,27 64,29 73,61 81,82
1. Bởi: tổng DT 209,9 215 285 400 190,1 120 20 115 145
Tr đó: Bởi Diễn 21,1 26,2 162 350 328,9 105 10 100 135
2. Cam quýt tổng 24,3 24,5 25 30 5,7 5 10 5 10
DT
Tr đó: cam Canh 20,3 20,3 20,5 25 4,7 4 9 4 8
3. Hồng xiêm: 64,7 65 85 120 55,3 40 15 15 50
tổng DT
Tr đó: Hồng xiêm 64,7 65 85 120 55,3 40 15 15 50
Xuân Đỉnh
53,2 60,8 100 160 106,8 40 25 40 55 4. Vải
326,3 326,3 330 330 3,7 120 20 90 100 5. Nhãn
II. Các loại cây ăn 152,7 161,9 206 280 127,3 75 45 90 70
quả phụ
Tỷ lệ (%) 18,13 18,70 19,64 20,74 18,29 32,14 25,00 15,91
6. Chuối 61,3 68 70 85 23,7
7. Táo 58,9 58,9 70 85 26,1
8. Đu đủ 9,8 12 35 60 50,2
9. Hồng 2,7 3 12,3 6 15
10. Na dai 20 20 15 25 35
III. Các loại cây 11,3 12,5 18,7 10 5 5 10 18 30
ăn quả khác
Tỷ lệ (%) 1,34 1,44 1,72 2,22 2,44 3,57 1,39 2,27
Phụ lục 14: Dự kiến quy mô cơ cấu
các loại cây ăn quả huyện Sóc Sơn
Đơn vị: ha
Toàn huyện Các tiểu vùng KT sinh thái
Các chỉ tiêu Năm 2010 1998 2000 2005 2010 2010/1998 TV1 TV2 TV3 TV4
Tổng số 1115,7 1195 1736 2550 1334,3 920 1050 580
I. Các loại cây ăn 470,9 543,8 949,9 1531 1060,1 580 635 316
quả chính
Tỷ lệ (%) 42,21 45,51 54,72 60,04 63,04 60,48 54,48
55 1. Bởi: tổng DT 88,5 100,4 230 400 311,5 160 185
40 Tr đó: Bởi Diễn 5,2 17,1 145,1 300 294,8 110 150
2. Cam quýt tổng 41 28,7 31,6 41,4 76 47,3 10 25
DT
30 Tr đó: cam Canh 12,9 14,3 25,6 50 37,1 5 15
3. Hồng xiêm: 10 18,5 25,7 52 80 61,5 40 30
tổng DT
Tr đó: Hồng xiêm 18,5 25,7 52 80 61,5 40 30 10
Xuân Đỉnh
4. Vải 203,5 232,1 426,5 675 471,5 310 320 45
5. Nhãn 131,7 154 200 300 168,3 60 75 165
II. Các loại cây ăn 630,7 635,7 759 969 338,3 320 395 254
quả phụ
Tỷ lệ (%) 56,53 53,20 43,72 38,00 34,78 37,62 43,79
6. Chuối 481,6 464 434 399 -82,6
7. Táo 53,6 52,7 65 70 16,4
8. Đu đủ 30,2 35 60 90 59,8
9. Hồng 4,3 11 75 230 225,7
10. Na dai 61 73 125 180 119
III. Các loại cây 14,1 15,5 27,1 50 35,9 20 20 10
ăn quả khác
Tỷ lệ (%) 1,26 1,30 1,56 1,96 2,17 1,90 1,72
Phụ lục 15: Dự kiến quy mô cơ cấu các loại cây ăn quả
huyện Thanh Trì
Đơn vị: ha
Toàn huyện Các tiểu vùng KT sinh thái
Các chỉ tiêu Năm 2010 1998 2000 2005 2010 2010/1998 TV1 TV2 TV3 TV4
Tổng số 207,7 219 299 400 192,3 32,5 109,5 177 81
I. Các loại cây ăn 137,5 148 216 300 162,5 25,5 84,5 127 63
quả chính
66,2 67,58 72,24 75 78,46 77,17 71,75 77,78 Tỷ lệ (%)
1. Bởi: tổng DT 17,1 20 57,9 10 20,16 30 45 75 15
Tr đó: Bởi Diễn 3 5 40 60 57 8 1,5 24 12
2. Cam quýt tổng 2,7 3 4 5 2,3 2 1 0,5
DT
Tr đó: cam Canh 1 1 1,5 1
3. Hồng xiêm: 46,8 50 60 70 23,2 20 30 15 5
tổng DT
Tr đó: Hồng xiêm 46,8 50 60 70 23,2 20 30 15 5
Xuân Đỉnh
3,4 5 7 10 6,6 3 5 2 4. Vải
67,5 70 100 140 72,5 40 60 30 5. Nhãn 10
II. Các loại cây ăn 66 67,1 73 80 12,9 20 40 15 5
quả phụ
Tỷ lệ (%) 32,3 30,14 24,42 20 15,39 18,26 22,6 18,52
48,6 50 55 60 1,14 6. Chuối
12,4 13 14 15 2,6 7. Táo
2,5 3 4 5 2,5 8. Đu đủ
0,7 -0,7 9. Hồng
2,9 -2,9 10. Na dai
III. Các loại cây ăn 3,1 5 10 20 16,9 2 5 10 3
quả khác
1,49 2,28 3,34 5 6,15 4,57 5,65 3,7 Tỷ lệ (%)
Phụ lục 16: Dự kiến quy mô cơ cấu
các loại cây ăn quả huyện Từ Liêm
Đơn vị: ha
Toàn huyện Các tiểu vùng KT sinh thái
Các chỉ tiêu Năm 2010 1998 2000 2005 2010 2010/1998 TV1 TV2 TV3 TV4
Tổng số 349 367 478 600 251 53 325 222
I. Các loại cây ăn 214.8 237 351 475 260,2 35 275 165
quả chính
Tỷ lệ (%) 61.5 64,58 73,43 79,17 66,04 84,62 74,33
1. Bởi: tổng DT 42.2 150 250 207,8 5 55 165 80
Tr đó: Bởi Diễn 40.7 150 250 209,3 5 55 165 80
2. Cam quýt tổng 31,7 50 70 38,3 35 50 20
DT
Tr đó: cam Canh 29,6 50 70 40,4 35 50 20
3. Hồng xiêm: tổng 60,4 67 70 9,6 20 65 25 25
DT
Tr đó: Hồng xiêm 60,4 65 67 70 9,6 20 25 25
Xuân Đỉnh
4. Vải 12,1 13 14 15 2,9 5 10
5. Nhãn 68,4 69 70 70 1,6 30 10 30
II. Các loại cây ăn 40 15 130,5 125 117 105 -25,5 50
quả phụ
Tỷ lệ (%) 37,4 34,06 24,48 17,5 28,3 12,31 22,52
6. Chuối 23,3 25 30 35 11,7
7. Táo 99,2 95 80 60 -39,2
3,5 5 7 10 6,5 8. Đu đủ
1,2 -1,2 9. Hồng
3,3 -3,3 10. Na dai
III. Các loại cây ăn 3,7 5 10 20 16,3 3 10 7
quả khác
1,06 1,36 2,09 3,33 5,66 3,07 3,15 Tỷ lệ (%)
Phụ lục 17: Dự kiến quy mô cơ cấu
các loại cây ăn quả huyện Gia Lâm
Đơn vị: ha
Toàn huyện Các tiểu vùng KT sinh thái
Các chỉ tiêu Năm 2010 1998 2000 2005 2010 2010/1998 TV1 TV2 TV3 TV4
Tổng số 460,7 504 829 1200 739,3 272 277 323 328
I. Các loại cây ăn 332,4 355 607 895 562,6 192 187 258 258
quả chính
Tỷ lệ (%) 72,15 70,44 73,22 74,58 70,59 67,51 79,88 78,66
1. Bởi: tổng DT 44,7 50 100 150 105,3 50 50 25 25
Tr đó: Bởi Diễn 2,1 10 100 97,9 35 35 15 15 65
2. Cam quýt tổng 13,9 15 20 6,1 7 7 3 3 17
DT
Tr đó: cam Canh 10,6 11 4,4 6 5 2 2 15 13
3. Hồng xiêm: 46,3 50 28,7 20 20 15 20 75 60
tổng DT
Tr đó: Hồng xiêm 43,6 50 60 75 28,7 20 20 15 20
Xuân Đỉnh
4. Vải 7,8 10 30 50 42,2 15 10 15 10
5. Nhãn 219,7 230 400 600 380,3 100 100 200 200
II. Các loại cây ăn 121,8 139 172 205 83,2 50 60 45 50
quả phụ
Tỷ lệ (%) 26,44 27,58 20,75 17,08 18,38 21,66 13,93 15,24
6. Chuối 60,9 70 110 49,1 90
7. Táo 50,2 60 80 29,8 70
4,1 5 7 10 5,9 8. Đu đủ
3,7 4 5 5 1,3 9. Hồng
2,9 -2,9 10. Na dai
III. Các loại cây 6,5 10 50 100 93,5 30 30 20 20
ăn quả khác
Tỷ lệ (%) 1,41 1,98 6,03 8,34 11,03 10,83 6,19 6,1
Phụ lục 18: Dự kiến qui mô cơ cấu
các loại cây ăn quả huyện Đông Anh
Đơn vị: ha
Toàn huyện Các tiểu vùng KT sinh thái
Các chỉ tiêu Năm 2010 1998 2000 2005 2010 2010/1998 TV1 TV2 TV3 TV4
Tổng số 842,4 890 1885 3000 2157,6 525 315 920 1240
I. Các loại cây 678,4 700 1570 2550 1871,6 400 250 790 1110
ăn quả chính
Tỷ lệ (%) 80,53 78,65 83,29 85 76,19 79,37 85,87 89,52
1. Bởi: tổng DT 209,9 215 380 550 340,1 100 150 250 50
Tr đó: Bởi Diễn 21,1 25 250 450 428,9 40 80 120 210
2. Cam quýt 24,3 25 90 150 125,7 30 10 45 65
tổng DT
Tr đó: cam 20,3 21 60 100 79,7 5 20 30 45
Canh
3. Hồng xiêm: 64,7 65 100 150 85,3 40 20 45 45
tổng DT
Tr đó: Hồng 64,7 65 100 150 85,3 40 20 45 45
xiêm Xuân
Đỉnh
53,2 65 350 700 646,8 50 50 250 350 4. Vải
5. Nhãn 326,3 330 650 1000 673,7 200 100 300 400
II. Các loại cây 152,7 175 260 350 197,3 100 50 100 100
ăn quả phụ
Tỷ lệ (%) 18,13 19,66 13,79 11,67 19,05 15,87 10,87 8,06
6. Chuối 61,3 70 85 100 38,7
7. Táo 58,9 60 80 100 41,1
8. Đu đủ 9,8 15 35 50 40,2
9. Hồng 2,7 5 25 50 47,3
10. Na dai 20 25 35 50 30
55 III. Các loại 11,3 15 100 88,7 25 15 30 30
cây ăn quả khác
Tỷ lệ (%) 1,34 1,69 2,92 3,33 4,76 4,76 3,26 2,42
Phụ lục 19: Dự kiến quy mô cơ cấu
các loại cây ăn quả huyện Sóc Sơn
Đơn vị: ha
Toàn huyện Các tiểu vùng KT sinh thái
Các chỉ tiêu Năm 2010 1998 2000 2005 2010 2010/1998 TV1 TV2 TV3 TV4
Tổng số 1115,7 1255 3010 4800 3684,3 2540 1620 640
I. Các loại cây ăn 470,9 565 2175 3800 3329,1 2090 1290 420
quả chính
Tỷ lệ (%) 42,21 45,02 72,26 79,17 82,28 79,63 65,63
1. Bởi: tổng DT 88,5 100 350 600 511,5 300 200 100
Tr đó: Bởi Diễn 5,2 300 500 494,8 250 160 15 90
2. Cam quýt tổng 28,7 90 150 121,3 90 40 30 20
DT
Tr đó: cam Canh 12,9 100 87,1 60 25 15 60 15
3. Hồng xiêm: 18,5 150 131,5 50 50 25 85 50
tổng DT
Tr đó: Hồng xiêm 18,5 25 85 150 131,5 50 50 50
Xuân Đỉnh
4. Vải 203,5 250 1050 1900 1696,5 1150 700 50
5. Nhãn 131,7 160 600 1000 868,3 500 300 200
II. Các loại cây ăn 63,7 670 775 900 269,3 400 300 31,25
quả phụ
Tỷ lệ (%) 56,53 53,39 25,75 18,75 15,75 18,52
6. Chuối 481,6 490 495 500 18,4
53,6 55 75 100 46,4 7. Táo
30,2 35 65 100 69,8 8. Đu đủ
4,3 15 55 100 95,7 9. Hồng
61 75 85 100 39 10. Na dai
20 60 100 III. Các loại cây 14,1 85,9 50 30 20
ăn quả khác1,59
Tỷ lệ (%) 1,26 1,59 1,99 7,08 1,97 1,85 3,12
Mục lục
Mở đầu ....................................................................................................................... 0
1. Tính cấp thiết của đề tài ....................................................................................... 1
2. ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài ............................................................... 2
3. Mục đích nghiên cứu của đề tài ............................................................................ 3
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ........................................................................ 3
Chương 1: Tổng quan tài liệu và cơ sở khoa học của đề tài ......................................... 4
1.1. Cơ sở khoa học của đề tài ................................................................................. 4
1.1.1. Phương pháp tiếp cận trong nghiên cứu ..................................................... 4
1.1.2. Những yếu tố chi phối hệ thống canh tác .................................................... 6
1.1.3. Các lý luận về hệ thống canh tác ...............................................................10
1.1.4. Hình thành nền nông nghiệp phát triển bền vững ......................................13
1.2. Tình hình nghiên cứu trong và ngoài nước có liên quan đến đề tài ...................14
1.2.1. Tình hình nghiên cứu trên thế giới.............................................................14
1.2.2. Tình hình nghiên cứu trong nước ..............................................................19
1.2.3. Đặc điểm hệ thống canh tác vùng nhiệt đới và những vấn đề cần nghiên cứu ở
vùng đất ven sông Hồng ......................................................................................26
Chương 2: Vật liệu, nội dung và phương pháp nghiên cứu .........................................31
2.1. Địa điểm, nội dung, vật liệu nghiên cứu ...........................................................31
2.2. Phương pháp nghiên cứu .................................................................................31
Chương 3: Kết quả nghiên cứu và thảo luận ...............................................................33
3.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của các hệ thống canh tác .........................33
3.1.1. Tài nguyên khí hậu ....................................................................................33
3.1.2. Tài nguyên đất đai .....................................................................................36
3.1.3. Các tiểu vùng sinh thái nông nghiệp trên địa bàn thành phố Hà Nội .........45
3.1.4. Các tiểu vùng kinh tế - sinh thái vùng ngoại thành Hà nội.........................46
3.1.5. Các điều kiện về vật chất, kinh tế, kỹ thuật cho sản xuất nông nghiệp của Hà
nội ......................................................................................................................53
3.2. Mô tả, đánh giá hiệu quả kinh tế và môi trường của một số hệ thống canh tác .55
3.2.1. Hệ thống cây bưởi Diễn ............................................................................55
3.2.2. Hệ thống cây Cam Canh ...........................................................................61
3.2.3. Hệ thống cây Hồng xiêm Xuân Đỉnh .........................................................67
3.2.4. Hệ thống cây hồng quả ..............................................................................70
3.2.5. Hệ thống cây Vải thiều ..............................................................................72
3.2.6. Hệ thống cây Na dai ..................................................................................74
3.3. Đề xuất định hướng phát triển sản xuất các hệ thống canh tác đã được nghiên cứu để
nhân rộng ra địa bàn ...............................................................................................76
3.3.1. Thị trường tiêu thụ sản phẩm ....................................................................76
3.3.2. Tiềm năng phát triển sản xuất ...................................................................82
3.3.3. Phân hạng đất thích hợp ...........................................................................83
3.3.4. Định hướng phát triển sản xuất .................................................................85
Kết luận và kiến nghị .................................................................................................97