LUẬN VĂN:

Nghiên cứu một số hệ thống canh tác ở vùng

đất ven sông Hồng thuộc địa bàn Thành phố Hà nội và định hướng phát triển bền vững

Mở đầu

1. Tính cấp thiết của đề tài

Trong những năm gần đây, cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp Thành phố Hà nội nói

chung và các huyện ngoại thành nói riêng đã có thay đổi quan trọng và chuyển dần sang

sản xuất hàng hoá. Trong những năm qua, nhiều chương trình, dự án có liên quan đến sản

xuất nông nghiệp đã được triển khai ở các huyện ngoại thành, đặc biệt các huyện có vùng

đất ven sông Hồng như chương trình 773, khuyến nông, khuyến lâm…

Vùng đất ven sông Hồng trên địa bàn thành phố Hà nội là một trong những vùng

đất có lịch sử phát triển lâu đời, là cái nôi của nền văn minh lúa nước, là vùng đồng bằng

với địa hình tương đối bằng phẳng, đất đai màu mỡ, khí hậu đa dạng rất thuận lợi cho việc

phát triển các loại cây trồng nông nghiệp nuôi sống con người.

Thực trạng các hệ thống canh tác của Vùng đất ven sông Hồng còn manh mún,

chưa hình thành các vùng sản xuất với quy mô tập trung lớn với các loại cây chiến lược.

Việc hoàn thiện hệ thống canh tác chưa được đầu tư, chú trọng đúng mức, hiệu quả kinh tế

chưa cao.

Đại bộ phận người nông dân ở vùng đất này đều sống dựa vào nông nghiệp, mà thu

nhập từ sản xuất nông nghiệp lại không cao. Do đó đời sống của nhân dân còn gặp nhiều

khó khăn. Một trong những nguyên nhân dẫn đến thu nhập thấp của bà con nông dân vùng

đất ven sông Hồng trên địa bàn thành phố Hà nội là chưa tìm ra (hoặc chưa học hỏi được)

các hệ thống canh tác cây trồng có hiệu quả kinh tế cao để áp dụng vào sản xuất.

Hệ thống nông nghiệp là một hệ thống kết hợp đan xen giữa các nhóm quy luật: quy

luật sinh học, quy luật kinh tế - xã hội. Giữa các nhóm có vai trò quyết định như nhau, vì

vậy nghiên cứu phát triển hệ thống canh tác nói riêng và hệ thống nông nghiệp nói chung

cần có sự tham gia của một nhóm cán bộ liên ngành, ở từng ngành giải quyết các tồn tại

của mình theo quan điểm tiếp cận hệ thống. Hệ thống canh tác cây trồng được coi là hợp

phần quan trọng nhất của hệ thống nông nghiệp ở các vùng sinh thái. Bố trí hệ thống cây

trồng thích hợp trong một khu vực hay một đơn vị sản xuất nông nghiệp ở mỗi vùng sinh

thái là nhằm khai thác tốt nhất, hiệu quả nhất các nguồn lực tự nhiên, kinh tế - xã hội của

các vùng sinh thái, tạo cho hệ thống một sức sản xuất cao, bền vững và bảo vệ môi trường.

Phát triển hệ thống nông nghiệp là một giải pháp tốt nhất cho việc giải quyết các

vấn đề kinh tế - xã hội, phát triển sản xuất một cách lâu dài, ổn định, phù hợp với nền nông

nghiệp nước ta.

Từ những cơ sở lý luận khoa học và thực tiễn sản xuất đang diễn ra ở vùng đất ven

sông Hồng, việc nghiên cứu hệ thống canh tác để từ đó xác định hệ thống cây trồng thích

hợp là một đòi hỏi cấp bách, có cơ sở khoa học để phát triển nông nghiệp bền vững và bảo

vệ môi trường. Do đó trên cơ sở tổng kết, đưa ra hệ thống cây trồng thích hợp cho từng

vùng sinh thái để sử dụng tốt nhất nguồn nhiệt, nguồn nước, đất đai, lao động…và bảo vệ

môi trường, tránh được tối đa những điều kiện bất lợi xảy ra là hết sức cần thiết. Từ những

nghiên cứu hệ thống canh tác và bài học được rút ra tác giả hình thành luận án mang tên:

“Nghiên cứu một số hệ thống canh tác ở vùng đất ven sông Hồng thuộc địa bàn

Thành phố Hà nội và định hướng phát triển bền vững”.

Đề tài nghiên cứu một số hệ thống canh tác có hiệu quả nhằm khuyến cáo cho bà

con nông dân vùng Đồng bằng sông Hồng nói chung và nông dân vùng ven sông Hồng

thuộc địa bàn thành phố Hà nội nói riêng nhân rộng các hệ thống canh tác có hiệu quả đó

ra địa bàn, góp phần nâng cao thu nhập, xoá đói giảm nghèo tiến tới làm giầu cho người

dân, giải quyết một phần tính bức xúc của vấn đề nêu ra ở trên .

2. ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài

Kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ đóng góp cơ sở khoa học trong việc xác định hệ

thống canh tác chính trên vùng đất ven sông Hồng trên quan điểm nghiên cứu hệ thống,

quan điểm sinh thái, quan điểm về hiệu quả kinh tế xã hội và hướng tới sự phát triển bền

vững.

ý nghĩa thực tiễn của đề tài là đề xuất một số hệ thống canh tác thích hợp trên vùng

đất vừa đem lại hiệu quả kinh tế cao theo hướng sản xuất hàng hoá, vừa phù hợp với điều

kiện kinh tế - xã hội của vùng, giúp cho người sản xuất đạt hiệu quả kinh tế cao trên một

đơn vị diện tích, nâng cao đời sống cho người dân trong huyện.

Hệ thống canh tác thích hợp còn có ý nghĩa trong việc bảo vệ môi trường, sử dụng

quỹ đất hiện có một cách hợp lý, phát huy cao nhất tiềm năng và lợi thế về đất đai, khí hậu,

… trên cơ sở phù hợp với môi trường sinh thái.

Những giải pháp và đề xuất góp phần phát triển hệ thống canh tác không chỉ đúng

với vùng ven sông Hồng mà còn có ý nghĩa cho những địa phương khác có các điều kiện

tương tự.

3. Mục đích nghiên cứu của đề tài

Nghiên cứu đánh giá thực trạng sản xuất, thị trường tiêu thụ, hiệu quả kinh tế và

môi trường của một số hệ thống canh tác cây ăn quả có hiệu quả hiện có trong vùng đồng

bằng sông Hồng.

Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội ảnh hưởng đến sự phát triển hệ thống canh tác

cây ăn quả vùng Đồng bằng sông Hồng.

Nghiên cứu mô tả chi tiết một số hệ thống canh tác cây ăn quả trong vùng với các

nội dung:

+ Thực trạng sản xuất

+ Đặc điểm về giống, sự sinh trưởng và phát triển

+ Tình hình chăm sóc, bón phân

+ Chất lượng sản phẩm

+ Hiệu quả kinh tế và môi trường

+ Thị trường tiêu thụ

+ Tiềm năng phát triển sản xuất

+ Định hướng sản xuất theo hướng phát triển bền vững

Nghiên cứu đề xuất một số định hướng và những giải pháp chủ yếu nhằm phát triển

các hệ thống canh tác thích hợp trên quan điểm sinh thái và phát triển bền vững nhằm tăng

hiệu quả sử dụng đất, bảo đảm an toàn lương thực, giải quyết thực phẩm, tăng các loại cây

trồng có giá trị hàng hoá cao, tăng thu nhập, nâng cao đời sống cho nông dân vùng đất ven

sông Hồng.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của đề tài tập trung vào các hệ thống canh tác cây ăn quả do hộ

nông dân thực hiện, trên cơ sở phát triển kinh tế hộ tăng thu nhập cho nông dân.

Phạm vi nghiên cứu

Phạm vi nghiên cứu là vùng đất ven sông Hồng thuộc địa bàn thành phố Hà nội.

Ch­¬ng 1: Tổng quan tài liệu và cơ sở khoa học của đề tài

1.1. Cơ sở khoa học của đề tài

1.1.1. Phương pháp tiếp cận trong nghiên cứu

Khi nghiên cứu một hệ thống, điều quan tâm đầu tiên là tìm hiểu mục tiêu của hệ

thống cần đạt được là gì ? và hệ thống đang hoạt động để đạt tới mục tiêu gì.

Triết học duy vật biện chứng đã chỉ ra rằng, để nghiên cứu một hiện tượng tự nhiên

hoặc xã hội ta phải xem xét nó trong mối quan hệ với các hiện tượng khác vì mọi hiện

tượng đều có mối quan hệ hữu cơ với nhau. Mặt khác mỗi hiện tượng đều luôn luôn nằm

trong trạng thái biến đổi và phát triển mà nguồn lực và động lực chủ yếu của hiện tượng đó

nằm trong bản thân sự vật, vì vậy việc nghiên cứu một sự vật phải xem xét lý thuyết hệ

thống là nền tảng của phương pháp luận (Phạm Chí Thành, 1996) [32].

Lý thuyết hệ thống được ứng dụng ngày càng rộng rãi trong nhiều ngành khoa học

giúp cho sự hiểu biết và giải thích các mối quan hệ tương hỗ. Cơ sở lý thuyết hệ thống

được L. Vonbertanlanfy đề xướng vào đầu thế kỷ này đã được sử dụng như một cơ sở giải

quyết các vấn đề phức tạp và tổng hợp. Trong thời gian gần đây, quan điểm này rất phát

triển trong sinh học cũng như trong nông nghiệp.

Hệ thống là một tổng thể có trật tự của các yếu tố khác nhau có quan hệ và tác động

qua lại. Một hệ thống có thể được xác định như một tập hợp các đối tượng hoặc các thuộc

tính, được liên kết bằng nhiều mối tương tác.

Quan điểm hệ thống là sự khám phá đặc điểm của hệ thống đối tượng bằng cách

nghiên cứu bản chất và đặc tính của các mối tác động qua lại giữa các yếu tố (Phạm Chí

Thành, 1996) [32] .

Hệ thống là một tập hợp các phần tử có quan hệ với nhau tạo nên một chỉnh thể

thống nhất và vận động, nhờ đó xuất hiện những thuộc tính mới được gọi là “tính trồi”. Hệ

thống không phải là một phép cộng đơn giản các yếu tố, các đối tượng, chúng có tác động

qua lại lẫn nhau và có mối quan hệ ràng buộc chặt chẽ với nhau.

Ngoài những yếu tố bên trong của hệ thống, các yếu tố bên ngoài của hệ thống

không nằm trong hệ thống, nhưng có tác động tương tác với hệ thống gọi là yếu tố môi

trường. Những yếu tố môi trường tác động nên hệ thống là yếu tố “đầu vào”, còn những

yếu tố môi trường chịu sự tác động trở lại của hệ thống là các yếu tố “đầu ra”. Phép biến

đổi của hệ thống là khả năng thực tế khách quan của hệ thống trong việc biến đổi “đầu

vào” thành “đầu ra”. Trạng thái của hệ thống là khả năng kết hợp giữa các “đầu ra” và các

“đầu vào” của hệ thống ở một thời điểm nhất định. Độ đa dạng của hệ thống là mức độ

khác nhau giữa các trạng thái hoặc giữa các phần tử của hệ thống. Mục tiêu của hệ thống là

trạng thái mà hệ thống mong muốn và cần đạt tới. Hành vi của hệ thống là tập hợp các

“đầu ra” của hệ thống có thể được trên cơ sở các giải pháp thích hợp, đem lại hiệu quả cao

cho cả hệ thống. Cấu trúc của hệ thống là hình thức cấu tạo bên trong của hệ thống, bao

gồm sự sắp xếp vị trí giữa các phần tử cùng các mối quan hệ giữa chúng (Phạm Chí

Thành, 1996) [32].

1.1.2. Những yếu tố chi phối hệ thống canh tác

Lịch sử phát triển của nông nghiệp gắn liền với lịch sử hình thành, phát triển và

hoàn thiện hệ thống cây trồng cho từng vùng khí hậu nông nghiệp và thổ nhưỡng đặc thù.

Hệ thống canh tác là một trong những nội dung quan trọng của hệ thống nông

nghiệp. Bố trí hệ thống canh tác hợp lý có ý nghĩa làm tăng sản lượng sản phẩm trên một

đơn vị diện tích và bảo vệ độ phì nhiêu của đất.

Trong quá trình nghiên cứu hệ thống canh tác cần chú ý đến mối quan hệ giữa cây

trồng và khí hậu, đất đai, phương thức canh tác và quần thể sinh vật. Sự thay đổi hệ thống

cây trồng trong hệ canh tác có ý nghĩa rất lớn trong việc tăng sản lượng lương thực, thực

phẩm và nâng cao độ phì nhiêu, bảo vệ đất.

Việc phân tích hệ thống canh tác truyền thống là cơ sở cho việc chuyển đổi cơ cấu

ngành trồng trọt. Bởi vì chỉ có từ các kết quả đánh giá phân tích các đặc điểm của cây

trồng tại khu vực nghiên cứu thì mới tìm ra các hạn chế và lợi thế so sánh để đề xuất các

cơ cấu cây trồng hợp lý.

Trong các tiêu chuẩn đánh giá điều kiện tự nhiên của vùng đã có rất nhiều tác giả

đưa vào các điều kiện sinh thái để phân tích và đưa ra các hệ thống cây trồng khác nhau

cho các hệ thống canh tác.

Nghiên cứu các tài liệu liên quan về phương pháp nghiên cứu xác định hệ thống cây

trồng hợp lý cho hệ thống canh tác, các tác giả đề cập đến các yếu tố cơ bản sau đây:

- Khí hậu

- Đất đai

- Giống cây trồng

- Loại cây trồng

- Điều kiện kinh tế - xã hội

- Thị trường

- Môi trường và sự phát triển bền vững

1.1.2.1. Điều kiện khí hậu

Khi nghiên cứu hệ thống canh tác cần chú ý đến các yếu tố khí hậu vì cây trồng là

yếu tố quan trọng của hệ thống canh tác, mà cây trồng là sinh vật sống phụ thuộc vào điều

kiện tự nhiên, đặc biệt là điều kiện khí hậu. Khí hậu cung cấp năng lượng chủ yếu cho quá

trình tạo thành chất hữu cơ, tạo năng suất cây trồng. Cơ cấu cây trồng tận dụng cao nhất

điều kiện khí hậu sẽ cho tổng sản phẩm cao nhất và kinh tế nhất. Vì vậy có thể nói khí hậu

là yếu tố quan trọng nhất trong việc nghiên cứu hệ thống canh tác. Nghiên cứu hệ thống

canh tác là phải làm sao chống chịu được các hiện tượng như bão, lụt, úng, hạn…

1.1.2.2. Điều kiện về đất đai

Đất đai là một thành phần quan trọng trong hệ thống sinh thái nói chung và sinh thái

nông nghiệp nói riêng. Đất là nền tựa cho cây trồng tồn tại và sinh trưởng, trong đó mọi

hoạt động trao đổi dinh dưỡng và nước của cây trồng phần lớn được thực hiện từ đất. Mặt

khác mỗi loại cây trồng đều có đặc điểm là thích hợp với chỉ một hoặc vài loại đất có địa

hình và tính chất lý hoá nhất định, trong điều kiện khí hậu vùng không có sai khác lớn, thì

tính chất đặc điểm đất đai cùng chế độ nước có vai trò quyết định sự sai khác của hệ thống

canh tác (Hoàng Văn Đức, 1980) [12], (Đỗ Văn Hoà, 1996) [20].

Bản đồ đất Việt Nam tỷ lệ 1/ 1.000.000 đã phân biệt có 14 nhóm và 31 loại đất.

ở nước ta trước đây, vùng Đồng Bằng Sông Hồng vẫn thường trồng một năm hai vụ

lúa: Vụ lúa chiêm (từ tháng 12 đến tháng 5) và vụ lúa mùa với các giống cảm quang mạnh

(từ tháng 7 đến tháng 11) ở những chân ruộng có nước quanh năm. Với những thành tựu

của cuộc cách mạng xanh chúng ta đã thay vụ lúa chiêm (12 - 5) bằng vụ lúa xuân (2 - 6),

thay vụ lúa mùa với các giống lúa cảm quang mạnh (7 - 11) bằng vụ lúa mùa sớm với các

giống lúa phản ứng nhiệt độ (7 - 10) và đưa thêm một vụ đông với các cây như cà chua, su

hào, bắp cải, khoai tây… vào cơ cấu cây trồng (Phùng Văn Chinh, Lý Nhạc, 1987) [2].

Do đó cơ cấu cây trồng vùng Đồng Bằng Sông Hồng trong những năm 60 - 70 đã

có sự chuyển đổi, góp phần làm tăng sản lượng lương thực và sản phẩm trên một hecta đất

canh tác.

Trên đất hai vụ lúa chủ động nước đã thay hệ thống cây trồng lúa chiêm - lúa mùa

bằng hệ thống cây trồng lúa xuân - lúa mùa sớm - vụ đông.

Trên đất một vụ lúa - một vụ màu đã thay hệ thống cây trồng lúa mùa - mùa đông

xuân (ngô, khoai lang, thuốc lá, lạc…) bằng hệ thống cây trồng lúa mùa - cây vụ đông -

màu vụ xuân.

1.1.2.3. Điều kiện về giống cây trồng

Nước ta nằm trong vùng nhiệt đới do đó cây trồng đa dạng và phong phú. Các loại

cây trồng lương thực chủ yếu có lúa, ngô, khoai, sắn…Các loại cây ăn quả có chuối, cam,

quýt, vải, nhãn, xoài, dứa…Các loại rau thực phẩm có cải bắp, xu hào, cà chua…Các loại

cây công nghiệp lâu năm có cao su, chè, cà phê, điều, tiêu…

Xu thế thâm canh, tăng vụ đòi hỏi có những giống cây trồng vừa có khả năng chịu

được thâm canh để cho năng suất cao, vừa có thời gian sinh trưởng ngắn để đáp ứng cho

các cơ cấu gieo trồng đã được xác lập. Trên những vùng sinh thái có điều kiện địa hình và

đất đai khó khăn đòi hỏi các giống cây trồng phải có đặc điểm thích ứng và chống chịu với

các điều kiện đặc thù đó.

Muốn như vậy các giống cây trồng mới phải trải qua các bước khảo nghiệm cơ bản

theo từng thời vụ gieo trồng để kiểm tra, đánh giá về năng suất, tính chống chịu với sâu

bệnh và khu vực hoá để xác định tính thích hợp trong các điều kiện sinh thái khác nhau

trước khi được công nhận để sử dụng trong công thức luân canh cụ thể (Đào Trọng Hải,

1997) [18].

1.1.2.4. Loại cây trồng

Cây trồng là thành phần chủ yếu của hệ thống canh tác. Nghiên cứu hệ thống canh

tác là bố trí hệ thống cây trồng như thế nào để lợi dụng tốt nhất các điều kiện khí hậu và

đất đai. Muốn bố trí hệ thống canh tác thích hợp, chúng ta cần nắm vững yêu cầu các loại

và giống cây trồng đối với các kiểu khí hậu, đất đai và khả năng của chúng sử dụng điều

kiện ấy (Nguyễn Vy, 1982) [49].

Khác với khí hậu và đất đai là các yếu tố mà con người ít có khả năng thay đổi đối

với cây trồng, con người có thể lựa chọn và di thực chúng và với trình độ hiểu biết sinh

học hiện đại, con người có khả năng thay đổi bản chất của chúng theo hướng mà mình

mong muốn.

1.1.2.5. Điều kiện kinh tế - xã hội

Nhìn chung trình độ dân trí và tập quán sản xuất của người dân có ảnh đến việc xác

định hệ thống canh tác trong vùng. Đồng bào dân tộc thiểu số vốn trình độ dân trí thấp lại

có tập quán canh tác lạc hậu chủ yếu là tự cấp, tự túc, họ quen với hệ canh tác nương rẫy,

chọc lỗ, bỏ hạt, không chú trọng đến thâm canh cây trồng và sản xuất hàng hoá. Bởi vậy,

xác định hệ thống canh tác cho cộng đồng dân cư này phải tính tới khả năng thực tế và

trong tương lai phải trên khả năng của họ một bước, đồng thời phù hợp với tập quán sản

xuất của họ

Đối với đồng bào Kinh, việc lựa chọn hệ thống canh tác có chiều hướng thuận lợi

và đa dạng hơn vì họ đã có trình độ canh tác cao hơn, có khả năng áp dụng những tiến bộ

kỹ thuật vào sản xuất để đạt được hiệu quả kinh tế cao hơn. Hệ thống canh tác đối với

nhóm người này theo hướng thâm canh cao đòi hỏi trình độ kỹ thuật tiên tiến và không

những tự cung tự cấp đủ lương thực, thực phẩm mà còn sản xuất ra những nông sản có tính

chất hàng hoá.

Cơ sở hạ tầng cũng liên quan đến việc xác định hệ thống canh tác. Nơi có cơ sở hạ

tầng phát triển (đường giao thông, thuỷ lợi,…) thì bố trí hệ thống canh tác có tính đến việc

thuận cho việc chăm sóc, thâm canh, thu hoạch sản phẩm và vận chuyển đến cơ sở chế

biến hoặc thị trường tiêu thụ…

1.1.2.6. Điều kiện thị trường

Nhu cầu thị trường và định hướng kinh tế - xã hội trong từng thời kỳ cũng cần được

xem xét kỹ khi xác định hệ thống canh tác. Nhu cầu thị trường sẽ là một trong những yếu

tố quyết định cho hộ gia đình dự tính canh tác gì, số lượng bao nhiêu, vào thời điểm nào để

đem lại hiệu quả cao nhất về mặt kinh tế và yếu tố này trở nên quan trọng khi sản xuất

hàng hoá trong nông nghiệp phát triển. Do vậy, xác định hệ thống canh tác phải phù hợp

với quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội của từng vùng. (Đào Trọng Hải, 1997) [18].

1.1.2.7. Điều kiện môi trường

Hệ sinh thái nông nghiệp nói chung và hệ sinh thái đồng ruộng nói riêng là một

trong những hợp phần chủ yếu của toàn bộ hệ sinh thái môi trường. Việc xác định hệ thống

canh tác mục đích không những thu được hiệu quả kinh tế cao nhất, hiệu quả về mặt xã hội

mà còn phải tính đến hiệu quả về mặt môi trường.

Tác động trở lại của hệ thống canh tác đó đối với môi trường xung quanh là tích cực

hay tiêu cực để đảm bảo cho việc phát triển bền vững. Vì vậy hệ thống canh tác được xác

định phải có tác động bảo vệ môi trường ở các khía cạnh sau:

- Bảo vệ và nâng cao độ phì nhiêu của đất.

- Giảm được xói mòn đất như việc sử dụng hệ thống canh tác nông lâm kết hợp.

- Sử dụng tiết kiệm các loại phân vô cơ và thuốc trừ sâu, trừ cỏ dại…

ở các tỉnh vùng cao và miền núi, hệ thống nông nghiệp cổ truyền là hệ thống mang

nhiều tính chất địa phương, bao gồm các tập quán canh tác của các dân tộc đã sống lâu đời

ở địa phương mà điển hình nhất là hệ thống nương rẫy du canh đã bộc lộ nhiều mặt hạn

chế như khai thác cạn kiệt các nguồn tài nguyên sẵn có của đất, không trả lại độ phì nhiêu

cho đất, gây ảnh hưởng xấu tới môi trường xung quanh. Mặt khác khi sản xuất hàng hoá

trong nông nghiệp phát triển, do nhu cầu thị trường người nông dân tập trung mọi nguồn

lực để bóc lột đất, bắt đầu sản xuất ra nhiều nhất sản phẩm nông nghiệp để đáp ứng nhu

cầu thị trường, và họ không còn để ý đến bảo vệ môi trường, làm cho môi trường xung

quanh ngày càng bị suy giảm theo chiều hướng xấu đi. Do đó việc xác định hệ thống canh

tác cần quan tâm đến cả hai khía cạnh: vừa đảm bảo được lợi ích kinh tế của người sản

xuất, vừa bảo vệ được môi trường cũng như sự cân bằng của hệ sinh thái tự nhiên.

Các hệ sinh thái tự nhiên luôn có sự cân bằng về năng lượng và vật chất. Thông

thường người ta phá các quần thể tự nhiên và thay thế bằng các quần thể nhân tạo, thì sự

cần bằng vốn có của nó bị phá vỡ và phải tạo lại bằng các biện pháp kỹ thuật. Muốn đạt

được hệ sinh thái nhân tạo có hiệu quả cao cần thiết phải nghiên cứu quy luật của hệ sinh

thái tự nhiên ở cùng điều kiện.

Mặt khác con người phải nghiên cứu cấu trúc của hệ sinh thái nhân tạo cho phù

hợp, trong vòng tròn đó là giải quyết mối quan hệ giữa cây trồng với hệ sinh thái đồng

ruộng, giữa hệ sinh thái đồng ruộng với môi trường xung quanh. Hệ sinh thái đồng ruộng

là tập hợp có trật tự bên trong hay bên ngoài của các yếu tố có liên quan đến nhau (hay tác

động lẫn nhau). Thành phần của hệ sinh thái đồng ruộng là các yếu tố, đó là phần không

biến đổi của hệ sinh thái, giữa các yếu tố có mối tác động qua lại với nhau, các mối quan

hệ và tác động giữa các yếu tố bên trong mạnh hơn so với các yếu tố bên ngoài hệ sinh

thái, tạo nên trật tự của hệ sinh thái (Đào Trọng Hải, 1997) [18].

1.1.3. Các lý luận về hệ thống canh tác

Nhiều tác giả khi nghiên cứu về hệ thống canh tác đã đưa ra những ý kiến khác

nhau:

ở Mỹ một số nhà nghiên cứu cho rằng hệ thống canh tác hay hệ thống nông trại, hệ

thống nông nghiệp (Farming Systems) là sự bố trí một cách thống nhất và ổn định các

ngành nghề trong nông trại, được quản lý bởi hộ gia đình trong môi trường tự nhiên, sinh

học và kinh tế - xã hội, phù hợp với mục tiêu, mong muốn và nguồn lực của nông

hộ…[63]. Do đấy khái niệm hệ thống nông trại (Farming Systems) gần giống với khái

niệm hệ thống sản xuất (Production Systems) coi nông trại như một phối hợp của các hệ

thống trồng trọt, đồng cỏ, chăn nuôi, quản lý tài chính (Chombart de Lauwe, 1963. Dẫn

theo Phạm Chí Thành và Trần Văn Diễn …[32].

Các tác giả ở Viện lúa Quốc tế thì cho rằng hệ thống canh tác là tập hợp các đơn vị

chức năng riêng biệt của các hoạt động trồng trọt, chăn nuôi và tiếp thị. Các đơn vị đó có

mối quan hệ qua lại với nhau vì cùng dùng chung nguồn nhân lực từ môi trường. Khái

niệm này thường được dùng với những giới hạn vượt khỏi ranh giới cụ thể của từng nông

trại, để nói lên những đơn vị nông trại có hình thức tương tự. (IRRI, 1980. Dẫn theo Phạm

Chí Thành và công sự [34].

Cũng có tác giả cho rằng hệ thống canh tác là hình thức tập hợp của một tổ hợp đặc

thù các tài nguyên trong nông trại ở một môi trường nhất định, là những phương pháp

công nghệ sản xuất ra những sản phẩm nông nghiệp sơ cấp. Định nghĩa này không bao

gồm hoạt động chế biến, vốn thường vượt quá hình thức phổ biến của nông trại, thường

chỉ sản xuất ra các sản phẩm trồng trọt và chăn nuôi. Nhưng nó bao gồm những nguồn lực

của nông trại được sử dụng cho việc tiếp thị những sản phẩm đó (IRRI, 1989. Dẫn theo

Phạm Chí Thành và cộng sự [34].

Theo Nguyễn Văn Luật: Hệ thống canh tác là tổ hợp cây trồng bố trí theo không

gian và thời gian với biện pháp kỹ thuật được thực hiện nhằm đạt năng suất cây trồng cao

và nâng cao độ phì của đất đai [24].

Các cách hiểu trên của các tác giả cho chúng ta nhận thức chung nhất về khái niệm

hệ thống canh tác, đó là một hệ thống được giới hạn trong một nông trại, mà chứa đựng

trong nó là các hệ phụ: trồng trọt, chăn nuôi, chế biến, tiếp thị, quản lý kinh tế được bố trí

một cách có hệ thống và tương đối ổn định, phù hợp với mục tiêu của từng nông trại.

Theo Nguyễn Duy Tính [40] cho rằng, hệ thống trồng trọt là hệ phụ trung tâm của

hệ thống Nông nghiệp, cấu trúc của nó quyết định sự hoạt động của các hệ phụ khác như

chăn nuôi, chế biến, ngành nghề… Với khái niệm về hệ thống canh tác như đã nêu ở phần

trên thì hệ thống trồng trọt là bộ phận chủ yếu của hệ thống canh tác.

Nói đến trồng trọt nghĩa là nói đến cây trồng. Cây trồng được trồng với các mục

đích khác và ngược lại với mục đích khác nhau người ta sẽ trồng các loại cây trồng khác

nhau. Như vậy cây trồng nông nghiệp có nhiều chức năng khác nhau: có thể là cây cung

cấp lương thực, thực phẩm có thể chỉ làm chức năng bảo vệ cho con người, gia súc hoặc

cây trồng khác, hoặc cũng có thể chỉ là phục vụ giải trí, cải tạo đất… Nhìn chung cây trồng

nông nghiệp hiện nay vẫn chủ yếu phục vụ cho mục tiêu lương thực, thực phẩm trực tiếp

phục vụ cho con người, cho phát triển chăn nuôi và làm nguyên liệu cho các ngành Công

nghiệp chế biến.

Nghiên cứu hệ thống canh tác nói chung và nghiên cứu hệ thống trồng trọt nói riêng

cho đến nay vẫn được coi là rất phức tạp vì nó liên quan và có mối quan hệ chặt chẽ tới

nhiều nguồn tài nguyên (đất, khí hậu…) và các lĩnh vực khác như sâu bệnh, trình độ người

lao động, vấn đề đầu tư, tác động qua lại của hệ thống cây trồng [58]. Tuy nhiên tất cả các

vấn đề nghiên cứu trên đều nhằm mục đích sử dụng hợp lý và có hiệu quả tài nguyên đất,

tài nguyên khí hậu nhằm nâng cao năng suất cây trồng.

Tương tự như vậy cũng có nhiều cách hiểu khác nhau về hệ thống trồng trọt.

Zandstra [65]; Dufumier [16] cho rằng: Hệ thống trồng trọt (Cropping Systems) là hoạt

động sản xuất của cây trồng trong nông trại nó bao gồm tất cả các hợp phần cần thiết để

sản xuất một tổ hợp của các cây trồng nông trại và mối quan hệ của chúng với môi trường.

Các hợp phần này bao gồm cả các yếu tố tự nhiên, sinh học cần thiết cũng như kỹ thuật,

lao động và các yếu tố quản lý.

Đào Thế Tuấn [43], [45] cho rằng: Cơ cấu cây trồng là “thành phần các giống và

loài cây được bố trí theo không gian và thời gian trong một hệ sinh thái nông nghiệp, nhằm

tận dụng hợp lý nhất nguồn tự nhiên, kinh tế, xã hội của nó”. Ông cũng cho rằng bố trí cây

trồng hợp lý là biện pháp kỹ thuật tổng hợp, nhằm sắp xếp lại hoạt động của hệ sinh thái và

một cơ cấu cây trồng hợp lý, khi nó lợi dụng tốt nhất điều kiện khí hậu và né tránh thiên

tai, lợi dụng đặc tính sinh học của cây trồng, tránh sâu bệnh và cỏ dại, đảm bảo sản lượng

cao và tỷ lệ hàng hoá lớn, đảm bảo tốt chăn nuôi và ngành kinh tế hỗ trợ, sử dụng hợp lý

lao động và vật tư.

Từ các khái niệm trên cho thấy: Hệ thống trồng trọt là một thể thống nhất trong mối

quan hệ tương tác giữa các loại cây trồng được bố trí hợp lý trong không gian và thời gian,

tức là mối quan hệ giữa các loại cây trồng, giống cây trồng trong từng vụ và giữa các vụ

khác nhau trên một mảnh đất. Vì vậy đối tượng nghiên cứu của hệ thống trồng trọt là:

- Công thức luân canh và hình thức đa canh

- Cơ cấu cây trồng, giống cây trồng trong từng mùa vụ nhất định

- Kỹ thuật canh tác cho hệ thống trồng trọt đó

Tuy nhiên mỗi hệ thống trồng trọt lại có quan hệ hữu cơ với môi trường bên ngoài

gồm các điều kiện tự nhiên, điều kiện kinh tế - xã hội, trình độ canh tác, quản lý của người

lao động và như vậy với những môi trường khác nhau sẽ quyết định sự tồn tại của hệ thống

cây trồng khác nhau.

Theo Nguyễn Duy Tính [40]. Nghiên cứu hệ thống cây trồng trong một hệ thống

nông nghiệp nhằm bố trí lại hoặc chuyển đổi chúng để tăng hệ số sử dụng ruộng đất, sử

dụng có hiệu quả tiềm năng đất đai, và lợi thế so sánh của từng vùng sinh thái nông nghiệp

cũng như sử dụng có hiệu quả tiền vốn, cơ sở vật chất kỹ thuật và lao động, nhằm thu được

lợi nhuận cao trên một đơn vị diện tích đất canh tác.

Nội dung chủ yếu trong nghiên cứu phát triển hệ thống cây trồng là mở rộng diện

tích canh tác trên cơ sở khai thác những vùng sinh thái không thuận lợi bằng những hệ

thống cây trồng thích ứng với các điều kiện bất thuận (hạn hán, úng lụt…). Tăng vụ ở các

vùng thuận lợi và tương đối thuận lợi nếu xét thấy hệ số quay vòng của đất còn thấp. Thâm

canh trên những vùng sinh thái có hệ số sử dụng đất cao.

Như vậy nghiên cứu phát triển hệ thống canh tác tức là nghiên cứu để bố trí lại hoặc

chuyển đổi hệ thống cây trồng thích ứng với các điều kiện đất đai, khí hậu, nguồn nước,

lao động, tiền vốn…Cùng với quá trình chuyển đổi hệ thống cây trồng cần có những giải

pháp kinh tế - kỹ thuật và quản lý cho toàn bộ hệ thống phù hợp với mỗi vùng sinh thái

[12], [34].

1.1.4. Hình thành nền nông nghiệp phát triển bền vững

Để duy trì sự sống con người hiện nay phải giải quyết những vấn đề hết sức phức

tạp và khó khăn đó là: bùng nổ dân số, ô nhiễm môi trường, mất cân bằng sinh thái. Nhiều

nước trên thế giới đã xây dựng và phát triển nền nông nghiệp theo quan điểm nông nghiệp

bền vững (Permalculture hoặc Sustainable Agriculture).

Các nhà khoa học đã nêu lên những nguyên tắc chính trong việc xây dựng hệ thống

nông nghiệp bền vững:

- Mỗi yếu tố thực hiện nhiều chức năng

- Mỗi chức năng quan trọng được nhiều yếu tố hỗ trợ

- ưu tiên sử dụng tài nguyên sinh học

- Tái chu kỳ năng lượng tại chỗ

- Đa canh và đa dạng hoá các loài cây có lợi để tăng sản lượng và tăng mức độ tương

tác trong hệ thống

- Tìm cách sử dụng không gian và mô hình tự nhiên có lợi nhất

Năm 1993 uỷ ban thế giới về môi trường và phát triển (WCED) của Liên hợp quốc

đã đưa ra khái niệm của sự bền vững là sự đáp ứng được các nhu cầu hiện nay của con

người nhưng không làm tổn hại đến nhu cầu riêng của thế hệ tương lai.

Nhóm cố vấn nghiên cứu nông nghiệp Quốc tế (CGIAR - 1989) định nghĩa nông

nghiệp bền vững là quản lý thành công các nguồn tài nguyên đối với nông nghiệp để đảm

bảo thoả mãn các nhu cầu thay đổi của con người nhưng vẫn duy trì là tăng cường chất

lượng của môi trường (Lê Đình Thắng, 1993) [37].

Mục đích của các hệ thống canh tác là phải đạt được các yêu cầu về hiệu quả kinh

tế, sự ổn định về xã hội và sự bền vững về mặt môi trường. Hiệu quả kinh tế cao bao giờ

cũng là động lực phát triển sản xuất, nhất là trong điều kiện nền kinh tế thị trường như ở

nước ta hiện nay, đây là một trong những cơ chế tự điều khiển các hoạt động sản xuất. Một

loại cây trồng hoặc vật nuôi có hiệu quả kinh tế cao, được thị trường đòi hỏi sẽ được phát

triển rộng rãi, không cần có các khuyến cáo hoặc các chỉ thị phải phát triển như trước đây.

Tuy nhiên nếu chỉ theo hiệu quả kinh tế cao nhất mà không chú ý đến các điều kiện rằng

buộc khác như điều kiện tự nhiên và đất đai, tình hình nhân lực và vốn đầu tư, các tiến bộ

khoa học và công nghệ sản xuất thì sẽ bị thất bại hoặc gây hậu quả xấu cho môi trường thì

cũng sẽ bị loại trừ . Do đó hiệu quả kinh tế của các hệ thống nông nghiệp nói chung, hệ

thống canh tác nói riêng phải được đặt trong các điều kiện kinh tế - xã hội cụ thể. Hiệu quả

kinh tế phải gắn liền với hiệu quả về xã hội và môi trường thì sản xuất mới bền vững, đó

mới là nền nông nghiệp bền vững.

Phát triển kinh tế và sản xuất nông nghiệp bền vững có quan hệ chặt chẽ, sản xuất

nông nghiệp bền vững được coi như một phần của quá trình phát triển, hỗ trợ và tăng

cường chất lượng đời sống của nhân dân và liên quan đến toàn bộ xã hội.

Như vậy nông nghiệp bền vững là tiền đề cho sự định cư. Nếu không thiết lập được

hệ thống sản xuất nông nghiệp ổn định và vững vàng, tồn tại lâu dài, đáp ứng được các nhu

cầu của nông dân về thức ăn, ở, mặc, vật liệu xây dựng và hệ sinh thái tốt thì người nông

dân phải bỏ đi nơi khác. Điều này có ý nghĩa đặc biệt trong việc nghiên cứu xây dựng các

mô hình sản xuất nông nghiệp ở vùng cao và miền núi để có thể ổn định được đời sống cho

đồng bào dân tộc và xoá bỏ tình trạng du canh, du cư. Một trong những giải pháp cho sự

phát triển bền vững là cần quan tâm đến việc quản lý và sử dụng đất nông nghiệp lâu bền.

Việc quản lý sử dụng đất nông nghiệp lâu bền bao hàm các quy trình công nghệ, chính

sách và các hoạt động nhằm hội nhập những nguyên lý kinh tế, xã hội với các yêu cầu bảo

vệ môi trường.

1.2. Tình hình nghiên cứu trong và ngoài nước có liên quan đến đề tài

1.2.1. Tình hình nghiên cứu trên thế giới

Trên thế giới các nhà khoa học nông nghiệp đã và đang tập trung mọi nỗ lực nghiên

cứu cải tiến hoàn thiện hệ thống canh tác bằng cách đưa thêm một số loại cây trồng và hệ

thống canh tác nhằm tăng sản lượng lương thực, thực phẩm trên một đơn vị diện tích

trong một năm.

Trong lịch sử của chủ nghĩa tư bản, Anh là nước tiến hành công nghiệp hoá sớm

nhất. Khi đó người ta suy nghĩ một cách giản đơn rằng trong nền kinh tế hàng hoá, nông

nghiệp cũng phải xây dựng như công nghiệp theo hướng tập trung quy mô lớn mà quên

mất một đặc điểm cơ bản của nông nghiệp khác với công nghiệp là nó tác động vào sinh

vật (cây trồng, vật nuôi) và điều đó không phù hợp với hình thức sản xuất tập trung quy

mô lớn.

Chính C. Mác lúc đầu cũng có những suy nghĩ sai lầm như vậy, nhưng về cuối đời

cũng chính C. Mác đã phải nhận định lại: Ngay ở nước Anh với nền Công nghiệp phát

triển, hình thức sản xuất Nông nghiệp có lợi nhất không phải là các xí nghiệp nông nghiệp

với quy mô lớn mà là các trang trại gia đình không dùng lao động làm thuê.

Theo nghiên cứu của FAO, [58] cho biết quá trình biến đổi của các hệ thống nông

nghiệp được bắt đầu từ khi con người biết khai thác thiên nhiên bằng các biện pháp canh

tác và được thực hiện vào khoảng thời đại đồ đá mới. Từ đó các ngành trồng trọt, chăn

nuôi đã phát triển lan ra khắp các lục địa nhằm giải quyết nhu cầu sống cơ bản của con

người. Hệ thống nông nghiệp đốt rẫy và du mục ở vùng tiểu á có từ cách đây 7000 năm, ở

lục địa Trung Hoa và Trung Mỹ từ 3000 - 4000 năm, sau đó lan ra Địa Trung Hải và các

lục địa khác (Dufumier [16], Đào Thế Tuấn [45]. Với hình thức này con người trồng trọt

hoa màu, ngũ cốc trong 2 - 3 năm, sau đó bỏ hoá cho rừng tái sinh từ 10 - 30 năm, đất được tái tạo lại độ phì, với phương thức canh tác này đủ nuôi sống 20 - 30 người/ km2

Hệ thống nông nghiệp luân canh có cày xới bắt đầu từ khi xã hội có khả năng sản

xuất ra các phương tiện làm đất, phá vỡ các thảm cỏ, đào bới gốc rễ cây rừng (Thời kỳ đồ

sắt). Thời gian này vòng canh tác ngắn: 2 - 4 năm trồng hoa màu lương thực, sau đó bỏ hoá

để cỏ mọc 10 - 15 năm (Dufumier [16], Shaner và cộng sự [63].

Hệ thống nông nghiệp dùng sức kéo, kết hợp giữa trồng trọt và chăn nuôi, trong đó

chăn nuôi giữ vai trò cung cấp thực phẩm và sức kéo đã làm tăng năng suất lao động lên

gấp 2 - 3 lần. Với hệ thống canh tác này đất được khai thác và phục hồi độ màu mỡ trở lại

nhờ được bón phân chuồng nên năng suất cây trồng đạt khá cao (Hải Đạt, [7].

Đan Mạch thực hiện hệ thống 6 khu: củ quả - ngũ cốc xuân - cây phân xanh - ngũ

cốc đông - khoai tây - để nghỉ mùa đông (Bùi Huy Đáp, 1996), [6].

Từ những năm 60, các nhà sinh lý thực vật đã phát hiện rằng: trong tự nhiên, không

có một cây nào có khả năng sử dụng toàn thể tài nguyên thiên nhiên ở một vùng, đặc biệt ở

vùng nhiệt đới. Do vậy hiện nay trên đất đang sản xuất nông nghiệp, ánh sáng, đất đai,

nguồn nước còn chưa được sử dụng đúng mức, còn nhiều khả năng tăng vụ, phát triển sản

xuất.

ở Châu á vào cuối thập kỷ 60, các nhà nghiên cứu Viện Lúa Quốc tế (IRRI) đã nhận

thức rằng giống lúa mới thấp cây, đứng lá tiềm năng sản lượng cao chỉ có thể giải quyết

vấn đề lương thực trong một phạm vi hạn chế. Do đó từ những năm đầu của thập kỷ 70 các

nhà khoa học của các nước châu á đã đi sâu nghiên cứu toàn bộ hệ thống cây trồng trên đất

lúa theo hướng lấy lúa làm nền, tăng cường phát triển các loại cây hoa màu trồng cạn. Các

chế độ trồng xen, trồng gối, trồng nối tiếp ngày càng được chú ý nghiên cứu. Theo hướng

này ở châu á đã hình thành “Mạng lưới hệ thống canh tác châu á”, một tổ chức hợp tác

nghiên cứu giữa Viện Nghiên Cứu Lúa Quốc Tế (IRRI) và nhiều quốc gia trong vùng.

Nhìn chung các nghiên cứu hệ thống cây trồng mới rất đa dạng phong phú và tập trung giải

quyết các vấn đề sau:

- Tăng vụ ngắn ngày để thu hoạch trước mùa mưa lũ.

- Thử nghiệm tăng vụ màu bằng các cây trồng mới, xen canh, luân canh tăng vụ.

- Xác định hiệu quả kinh tế của các công thức luân canh, tìm và khắc phục các yếu tố

hạn chế để phát triển công thức đạt hiệu quả cao.

Chương trình nghiên cứu nông nghiệp phối hợp toàn ấn Độ 1960 - 1972 lấy hệ thâm

canh tăng vụ chu kỳ một năm làm hướng chiến lược phát triển sản xuất nông nghiệp đã kết

luận: “Hệ canh tác dành ưu tiên cho cây lương thực, chu kỳ một năm hai vụ ngũ cốc (hai

vụ lúa nước, hoặc một vụ lúa và một vụ lúa mì), đưa thêm vào một vụ đậu đỗ và đáp ứng

được 3 mục tiêu: khai thác tối ưu tiềm năng của đất đai, ảnh hưởng tích cực đến độ phì

nhiêu của đất trồng và đảm bảo lợi ích của người nông dân” (Hoàng Văn Đức, 1992) [12].

ở Đài Loan để nâng cao hiệu quả sử dụng đất bằng bố trí hệ thống canh tác hợp lý,

người ta đã nghiên cứu đưa ra các giống cây trồng hoa màu chịu rợp trồng xen trong mía

(mía là cây công nghiệp chiếm diện tích lớn nhất ở Đài Loan), nghiên cứu cây hoa màu

chịu hạn trồng mùa khô để đưa vào trồng sau khi thu hoạch lúa mùa (IRRI, 1982) [61].

Kết quả nghiên cứu của các nhà Lâm học trên Thế giới khẳng định ở những vùng

đất nông nghiệp nếu có xây dựng các đai rừng chắn gió thì tốc độ gió giảm từ 30 - 50%

trong giới hạn 20H và độ ẩm không khí tăng lên từ 7 - 15%, do đấy làm tăng độ ẩm đất,

điều hoà được chế độ nhiệt theo hướng có lợi cho cây trồng (Phạm Chí Thành, [33]).

Nhiều chuyên gia phát triển nông thôn chủ trương xây dựng hệ thống Nông Lâm

Ngư kết hợp ở vùng trũng nhằm nâng cao hiệu quả của hệ thống canh tác và tính ổn định

của chúng. Rất nhiều nông dân Philippin đã trồng Chuối tiêu trên bờ ruộng Lúa - Cá và

Chuối đã cho họ một nguồn thu lớn. Ngoài Chuối một số cây ăn quả bản địa cũng được

khuyến khích phát triển như Chôm Chôm, Landzon, Soursop, Mít…(International Institute

of Rural Reconstruction), [62].

ở Trung Quốc, từ những năm 1980, ở khu vực phía Nam đã thí nghiệm xây dựng

nền nông nghiệp sinh thái. ở Xiaoliang, một vùng đồi của Quảng Đông bị sa mạc hoá, xói

mòn mạnh, nhiệt độ mặt đất cao, trước đây người ta trồng bạch đàn nhưng đều không

thành công. Cuối cùng đã chọn hệ thống canh tác theo hướng đa dạng hoá hệ thống cây

trồng và trồng nhiều tầng. Theo Triệu Quốc Kỳ (1994) [22] trên đất lúa 2 vụ thuộc vùng

núi phía Nam thường được canh tác 2 hoặc 3 vụ với hệ thống cây trồng là: Lúa - Lúa mì -

khoai tây (hoặc lạc - đậu tương - lúa mì). Trên đất lúa một vụ thuộc vùng cao nguyên (gồm

tỉnh Vân Nam, Quế Châu, Tứ Xuyên, Tây Tạng), thường được canh tác với hệ thống cây

trồng là lúa luân canh với cây trồng cạn (Triệu Quốc Kỳ, 1994) [22].

ở Thái Lan trong điều kiện thiếu nước, một hệ thống canh tác lúa xuân - lúa mùa ít

mang lại hiệu quả và chi phí tiền nước quá lớn, cộng thêm sự độc canh cây lúa làm ảnh

hưởng xấu đến chế độ đất. Bằng việc chuyển dịch cây lúa xuân sang cây đậu tương giá trị

tổng sản phẩm tăng lên đáng kể, diện tích tăng gấp rưỡi, hiệu quả kinh tế tăng gấp đôi, độ

phì đất được nâng lên rõ rệt. Đã mang lại một thành công lớn trong chuyển dịch cơ cấu cây

trồng ở Thái Lan (Tejwani, V.L - Chun K. Lai Indonesia 1992) [64]

Ví dụ: Tại Chiềng Mai (Bắc Thái Lan) trong những năm 1971 - 1976 đã thí nghiệm

6 công thức hệ thống cây trồng trong canh tác như sau:

- Lúa + lúa mì + ngô

- Lúa + cà chua + lạc

- Lúa + đậu + đậu tương

- Lúa + khoai lang + bắp cải

- Lúa + cà chua + đỗ xanh

- Lúa + lạc + bắp cải (hoặc ngô non)

Kết quả điều tra ở Chiềng Mai cho thấy hệ canh tác 2 vụ lúa + 1 vụ màu hoặc lúa

cạn là phổ biến nhất. Cây màu thường là đậu tương, thuốc lá, tỏi, hành, đậu đỗ, rau xanh.

Tỷ lệ trồng 3 vụ trong năm (lúa - màu - lúa cạn) còn ít.

ở Indonexia đã nghiên cứu mối quan hệ giữa khí hậu ở các vùng sinh thái khác nhau

và hệ canh tác hiện có cho thấy như sau:

- Tại tỉnh Bago có một mùa ướt liên tục, một khoảng đứt quãng ngắn thường ở giữa

tháng 6 và tháng 8, lúa thu hoạch suốt năm, đỉnh cao thu hoạch tháng 5, 6 trong mùa ướt,

lạc thu hoạch suốt năm, một đỉnh nhỏ ở tháng 6.

- Tại Banuma có mùa khô ngắn, mùa ướt dài. Hai đỉnh thu hoạch lúa khoảng (tháng

9, 10) chứng tỏ đa số nông dân trồng hai vụ lúa trên một diện tích. Ngô thu hoạch vào đỉnh

mùa mưa, đậu tương thu hoạch vào cuối mùa khô (tháng 10) hoặc vào cuối mùa mưa

(tháng 5), lạc thu hoạch quanh năm (Nguyễn Điền - Trần Đức, 1993), [10]; (Bùi Thị Xô,

1994) [50].

ở những khu vực đất bằng, nông dân châu á đã sử dụng nhiều hệ canh tác. Những

hệ thống này gồm các hệ thống cây trồng khác nhau (lúa, rau, khoai lang, ngô, đậu…) nói

chung hệ thống cây trồng luân canh giữa chế độ cây trồng nước và chế độ cây trồng cạn,

giữa cây lương thực và cây họ đậu, hệ thống luân canh giữa không gian và thời gian đã

được nhiều nhà nghiên cứu đề cập và kết luận có hiệu quả (Hoàng Văn Đức, 1992) [13];

(Triệu Quốc Kỳ, 1994) [22].

Vấn đề hiệu quả kinh tế của các công thức luân canh trên đất lúa cũng được nhiều

nhà khoa học quan tâm, đặc biệt ở ấn Độ và Pakistang. Nghiên cứu về vấn đề này các tác

giả đã đề cập đến cơ cấu luân canh cây trồng hợp lý, phụ thuộc vào điều kiện canh tác và

giá cả nông sản hàng hoá trên thị trường. Tại vùng Dandkadi, năm 1981 có 13 công thức

luân canh khác nhau được áp dụng, năm 1982 có 18 công thức luân canh, năm 1983 có 16

công thức luân canh, trong đó phổ biến nhất là cơ cấu 2 vụ. Tại vùng Mirrapur và Tangril

có các công thức luân canh đáng chú ý là lúa - lúa hè, đảm bảo nền cho việc tăng thêm vụ

đông cho một đơn vị diện tích với các cây trồng là lúa mì, cải canh, khoai tây, ớt,

kê…Công thức luân canh này được nông dân áp dụng rộng rãi vì nó đảm bảo lương thực

quanh năm và có hiệu quả kinh tế cao (Bùi Thị Xô, 1994) [50]

Chương trình SALT của Philippines đã khảo nghiệm có kết quả với hệ thống cây

trồng và biện pháp canh tác như sau: các cây hằng năm và cây lâu năm được trồng thành

băng xen kẽ rộng từ 4 - 5m, các loại cây họ đậu cố định đạm được trồng thành 2 hàng dầy

theo đường đồng mức để tạo thành hàng rào. Khi những cây hàng rào cao 1,5 - 2m người

ta đốn, để lại 40cm gốc, cành lá dùng để rải lên băng tạo lớp che phủ và giữ ẩm, chống xói

mòn. Cây lâu năm thường là cây cà phê, cao su, cam…Điểm trình diễn từ năm 1978 trên đất có độ dốc 200, thực tế thu nhập bình quân hàng năm trên 1ha áp dụng SALT cao gấp 3

lần so với hệ thống độc canh cổ truyền. Mô hình này cũng được B. T. Kang (IITA) mang

áp dụng ở Nigiêria gọi là canh tác theo băng (Alley Cropping) (Hoàng Văn Đức, 1992)

[13]

Như vậy, ở nước ngoài, các nghiên cứu về hệ thống canh tác, hệ thống cây trồng,

các biện pháp trồng xen, trồng gối, trồng nối tiếp, thâm canh, tăng vụ được tiến hành từ rất

sớm. Việc đưa các cây ăn quả, cây họ đậu vào hệ thống canh tác được đánh giá rất cao

trong việc cải tạo, bồi dưỡng đất đai, tăng tính ổn định của hệ thống và góp phần làm tăng

hiệu quả, tăng năng suất và sản lượng của toàn bộ hệ thống canh tác. Những nghiên cứu

này đã được ứng dụng có hiệu quả trong sản xuất nông nghiệp và góp phần phát triển khoa

học hệ thống nông nghiệp, góp phần tăng năng suất cây trồng và nâng cao đời sống của

nhân dân lao động.

1.2.2. Tình hình nghiên cứu trong nước

Tình hình nghiên cứu hệ thống nông nghiệp nói chung và hệ thống canh tác nói

riêng ở nước ta đã được bắt đầu từ rất lâu.

Trong bài “ Nghiên cứu hệ thống canh tác ở miền Bắc Việt Nam” Phạm Chí Thành

đã nêu chủ trương xây dựng chế độ canh tác theo các biến sinh thái với hệ thống phân cấp

của Valenza (1982) thay thế cho cách làm hiện tại là xây dựng chế độ canh tác cho từng

thửa ruộng cụ thể và chế độ canh tác cho từng hợp tác xã.

Chia chế độ canh tác ra thành phần cứng và phần mềm. Phần cứng gồm các biện

pháp bắt buộc phải làm vì nó phục vụ cho những cái chung của cả hệ thống. Còn phần

mềm gồm các biện pháp kỹ thuật có thể thay đổi theo thị trường, theo điều kiện kinh tế,

phong tục và kỹ năng lao động của từng nông dân.

Cuộc cách mạng đầu tiên trong nông nghiệp diễn ra ở Tây âu vào cuối thế kỷ 18

đầu thế kỷ 19 đã làm thay đổi chế độ độc canh bằng chế độ luân canh với 4 khu luân

chuyển trong 4 năm giữa ngũ cốc và cỏ 3 lá. Trước đó nông dân vùng này độc canh lúa mỳ

2 năm rồi bỏ hoá 1 năm. Cuộc cách mạng về hệ thống canh tác đã làm thay đổi cơ cấu cây

trồng, đưa cây thức ăn gia súc và cây họ đậu vào công thức luân canh, nhờ đó năng suất

cây trồng tăng lên đáng kể, đất đai được bồi dưỡng cải tạo (Phùng Đăng Chinh và cộng sự,

[2]; (Phạm Bình Quyền và cộng sự, [29]. Giai đoạn của Nông nghiệp gắn với công nghiệp,

cơ giới hoá, hoá học hoá, thuỷ lợi hoá…đã tạo ra nhiều nông sản hàng hoá và cũng xuất

hiện những mặt trái của nền Nông nghiệp theo hướng Công nghiệp. Giai đoạn 3 của cuộc

cách mạng trong Nông nghiệp theo hướng trí tuệ, con người sử dụng hợp lý nguồn tài

nguyên, vừa đạt năng suất cao vừa bảo vệ được môi trường (Cao Liêm - Trần Đức Viên,

[23].

Khi tiến hành nghiên cứu ở Sóc Sơn, Phạm Chí Thành [31] đã đưa vào dạng địa

hình, chế độ mưa, hiện trạng thuỷ lợi để chia ra các nhóm biến sinh thái. Sau đó ở mỗi

nhóm biến sinh thái, dựa vào tiêu chuẩn phân vị loại đất (địa hình, độ dầy tầng đất, thành

phần cơ giới, pH, lân dễ tiêu, mùn) để chia thành các biến sinh thái. Trên từng biến sinh

thái tiến hành nghiên cứu hệ thống canh tác truyền thống, từ đó rút ra các mặt hạn chế và

đề xuất hệ thống canh tác mới cho từng biến sinh thái có kèm theo các biện pháp kỹ thuật

thích ứng.

Vào những năm đầu của thập kỷ 60, Đào Thế Tuấn cùng với các nhà nghiên cứu

của Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp Việt Nam trên cơ sở vận dụng những căn cứ cơ

sở khoa học xác định hệ thống cây trồng hợp lý và theo yêu cầu của thực tế sản xuất đòi

hỏi, đã tiến hành nhiều đề tài nghiên cứu về cơ cấu cây trồng ở vùng Châu thổ Sông Hồng

và đã đưa ra những nhận định về những yêu cầu cần đạt được của một cơ cấu cây trồng

như sau:

- Lợi dụng tốt nhất các điều kiện khí hậu và tránh được những tác hại của thiên tai.

- Lợi dụng tốt nhất các điều kiện đất đai, bảo vệ và bồi dưỡng độ màu mỡ của đất.

- Lợi dụng tốt nhất các đặc tính sinh học của cây trồng (khả năng cho năng suất cao,

phẩm chất tốt, ngắn ngày, tính thích ứng rộng, tính chống chịu bất lợi của điều kiện

ngoại cảnh).

- Tránh được tác hại của sâu bệnh, cỏ dại với việc sử dụng ít nhất các biện pháp hoá

học.

- Đảm bảo tỷ lệ sản phẩm hàng hoá cao, đảm bảo hiệu quả kinh tế cao.

- Đảm bảo hỗ trợ cho ngành sản xuất chính và phát triển chăn nuôi, tận dụng các

nguồn lợi tự nhiên (Đào Thế Tuấn, 1987) [47].

Các tác giả cũng đã đưa ra nhận xét: “Trên đất lúa 2 vụ, đưa cơ cấu vụ lúa xuân với

các giống lúa ngắn ngày đã để lại một khoảng thời gian trống giữa hai vụ lúa (từ sau thu

hoạch lúa mùa sớm và lúa mùa chính vụ đến khi cấy lúa xuân) tạo điều kiện để xây dựng

một hệ thống cây trồng có hiệu quả trên đất 2 vụ lúa”

Từ những kết quả nghiên cứu của mình, các tác giả đã đưa ra một số hệ thống cây

trồng cụ thể cho vùng Đồng Bằng Sông Hồng như sau:

- Trên đất 2 vụ lúa chủ động nước tưới:

+ Lúa Mùa - màu vụ Đông (khoai tây, khoai lang, ngô) - lúa Xuân.

+ Lúa Mùa - rau vụ Đông (cà chua, xu hào, bắp cải) - lúa Xuân.

- Trên đất 2 vụ lúa thấp ngập nước:

+ Lúa Mùa - bèo dâu - lúa Xuân

+ Lúa Mùa - bèo dâu - lúa Xuân - điền thanh (Đào Thế Tuấn, 1989) [44].

Chế độ canh tác trên đất 2 vụ lúa với các hệ thống trồng trọt như trên từng bước

được áp dụng rộng rãi ở châu thổ sông Hồng và các vùng khác trong cả nước đã tạo nên

những chuyển biến khá rõ nét về sản xuất lương thực, thực phẩm ở từng vùng trong cả

nước.

Nghiên cứu về hệ thống cây trồng trên đất canh tác chủ yếu nhờ nước trời, Bùi Huy

Đáp đã có nhận xét: hai vụ màu Đông và Xuân, lúa mùa tiếp chân, sử dụng những loại

màu Xuân có thời gian sinh trưởng dài, ngắn khác nhau, tuỳ theo sau màu sẽ trồng lúa

Mùa sớm hay lúa Mùa chính vụ. Đây là chế độ canh tác khai thác được khá triệt để tiềm

lực của các loại đất cao cấy một vụ lúa mùa nhờ nước trời. Trên chân đất chuyên trồng

màu ở các vùng đất bãi ven sông, hệ thống cây trồng có hiệu quả ngay sau nước rút, trồng

ngô thu đông (hoặc rau, đậu sớm), sau đó trồng ngô xuân (hoặc đậu tương, đậu đỗ khác vụ

xuân) (Bùi Huy Đáp, 1996) [6].

Một số tác giả cho rằng, ở nước ta có 3 loại hình luân canh tăng vụ:

- Luân canh giữa cây trồng cạn với nhau.

- Luân canh giữa cây trồng cạn với cây trồng nước.

- Luân canh giữa cây trồng nước với nhau.

ở chân đất quanh năm không ngập nước, thành phần cơ giới nhẹ, dễ thoát nước

thường luân canh cây họ đậu (đậu tương, lạc, đậu cô ve, đậu xanh…). Ngoài luân canh

tăng vụ cây lương thực, cây công nghiệp, cây thức ăn gia súc còn có những hệ thống cây

trồng luân canh giữa cây dược liệu (bạc hà, địa hoàng, bạch chỉ…) với cây lương thực

hoặc cây công nghiệp ngắn ngày (Phùng Văn Chinh, Lý Nhạc, 1987) [2]

Hệ thống canh tác là tổ hợp cây trồng bố trí theo không gian và thời gian với hệ

thống biện pháp kỹ thuật được thực hiện nhằm đạt năng suất cây trồng cao và nâng cao độ

phì của đất đai, Nguyễn Duy Tính (1995), [40]

Phạm Chí Thành (1993), [32] cho rằng để xây dựng hệ thống canh tác phải được

làm từng biến sinh thái của từng vùng và hệ thống canh tác phải được xây dựng theo quan

điểm lịch sử, theo một trật tự từ thấp lên cao, vì vậy nó là yếu tố động theo thời gian và

không gian.

Phạm Chí Thành (1994), [34] khi nghiên cứu chuyển đổi hệ thống canh tác vùng

kinh tế sinh thái và du lịch ven đường 21 tỉnh Hà Tây cho rằng: nước ta cũng như nhiều

nước đang phát triển khác đã áp dụng một chiến lược phát triển chủ yếu dựa trên thành tựu

của cuộc “cách mạng xanh”, nhằm vào một số sản phẩm nông nghiệp quan trọng nhất như

lúa nước, lúa mỳ, ngô…bằng cách tập trung đầu tư vào một số nhân tố phát triển quan

trọng nhất và cũng dễ cải tiến như năng suất cao, thuỷ lợi, phân bón hoá học và thuốc

phòng trừ dịch hại. Cách phát triển này chỉ thực hiện được ở một số vùng có điều kiện sinh

thái thuận lợi, còn ở các vùng đất “có vấn đề” như hạn, úng, mặn, phèn, cát, đất trọc…các

tiến bộ kỹ thuật này tỏ ra chưa thích ứng. Ngay với các vùng thuận lợi, năng suất đã gần

đạt tới giới hạn cao, giá cả vật tư nông nghiệp tăng lên làm cho hiệu quả đầu tư giảm, giảm

tốc độ phát triển.

Muốn đẩy nhanh sự phát triển nông nghiệp trong thời gian tới, phải tìm một số

chiến lược phát triển khác thích ứng với các điều kiện sinh thái khó khăn, không đòi hỏi

đầu tư lớn, có hiệu quả kinh tế cao.

Mâu thuẫn chủ yếu của sự phát triển về kinh tế nước ta là cần có một tốc độ phát

triển nhanh nhưng khả năng đầu tư lại hạn chế. Giải quyết vấn đề này không chỉ trông

mong vào đầu tư nước ngoài mà phải phát hiện và huy động chủ yếu các nguồn lực bên

trong hệ thống. Các nguồn lực đó là:

- Đất đai: chủ yếu không phải là phát triển theo chiều rộng (mở thêm diện tích) mà

theo chiều sâu (thâm canh, tăng vụ).

- Lao động: là nguồn lợi lớn nhất (theo kinh nghiệm của các nước Đông á) mà hiện ta

đang coi là khó khăn.

- Nguồn vốn của dân, hiện nay ta vẫn chưa huy động được nhiều do thiếu chính sách

vốn, nhiều lao động, tiết kiệm năng lượng.

Trần An Phong (1995), [26] khi nghiên cứu cơ sở khoa học của cải thiện hệ thống

cây trồng trên quan điểm sinh thái và phát triển lâu bền, cho rằng: các hệ thống sử dụng

đất và hệ thống cây trồng được chọn phải phù hợp với điều kiện sinh thái, vừa có giá trị

sản lượng, thu nhập cao, nâng cao độ phì nhiêu của đất vừa tạo nhiều việc làm cho các

nông hộ theo hướng đa dạng hoá cho các cây trồng.

Trần An Phong (1993), [27] trong nghiên cứu cơ sở khoa học sử dụng đất Đồng

Bằng Sông Cửu Long đã nhấn mạnh khả năng thâm canh tăng vụ và đa dạng hoá cây trồng

ở vùng phù sa chủ động nước, đồng thời chú ý tăng vụ và đổi mới giống ở vùng đất phèn

mặt và sản xuất chủ yếu dựa vào nước mưa.

Lê Thanh Hà (1993), [17] nghiên cứu hệ thống canh tác trên đất dốc Văn Yên - Yên

Bái cho thấy các hệ thống canh tác có hiệu quả trên đất dốc Văn Yên là: quế - rừng; sắn -

mía - rừng; cây ăn quả - mơ; gừng - rừng.

Phạm Chí Thành - Trần Đức Viên (1994), [35] nghiên cứu chuyển đổi hệ thống

canh tác vùng trũng Đồng Bằng Sông Hồng cho thấy những hệ thống canh tác mới (cây ăn

quả - nuôi cá - cấy lúa), (cá - vịt) tăng thu nhập thuần từ 2 - 5 lần so với hệ thống canh tác

cũ.

Phạm Chí Thành (1994), [34] nghiên cứu sử dụng vùng đất đồi gò tỉnh Hà Tây cho

thấy chúng ta có đủ điều kiện để kiến tạo những hệ thống canh tác có hiệu quả kinh tế, sinh

thái cao thay thế diện tích đất trống, đồi núi trọc.

Võ Tòng Xuân (1993), [52] nghiên cứu mô hình canh tác lúa - tôm ở xã Đại Thành,

huyện Phụng Hiệp - Cần Thơ cho thấy tổng lợi nhuận tăng đáng kể, tác giả cũng chỉ ra mật độ nuôi thích hợp là 1,4 con/m2.

Mai Văn Quyền (1992), [30] trong tài liệu đánh giá hiện trạng hệ thống trồng trọt

trên vùng đất xám huyện Đức Hoà - Long An chỉ ra hệ thống trồng trọt tối ưu và mối quan

hệ tương tác giữa trồng trọt và chăn nuôi ở từng môi trường sinh thái cụ thể.

Tào Quốc Tuấn (1994), [48] nghiên cứu xác định cơ cấu cây trồng hợp lý vùng phù

sa ngọt đồng bằng Sông Cửu Long, nêu lên 28 mô hình cho vùng, định hướng phát triển và

các giải pháp tổ chức trong đó có giải pháp về chính sách.

Để giải quyết tình trạng phá rừng và thoái hoá đất do canh tác nương rẫy, ở nhiều

nước đã sử dụng hệ canh tác Nông Lâm kết hợp nhằm phối hợp hai mục đích mẫu thuẫn

với nhau trong một hệ sinh thái (Roche, 1974). Nội dung của phương pháp là giao đất cho

nông dân trồng rừng và kết hợp trồng cây lương thực giữa các hàng cây còn non. Cây

lương thực được trồng là Ngô, Khoai, Lạc, Đậu…Lúc rừng đã khép tán, giao lại cho cơ

quan lâm nghiệp và lĩnh tiền thưởng. Phương pháp này áp dụng ở Nigeria có kết quả tốt. ở

các vùng rừng nhiệt đới, người ta có thể dùng các cây lâu năm như Cao su, Cà phê,

Dừa,…thay cho các cây trồng lương thực hàng năm.

Đào Thế Tuấn, [45] nghiên cứu các cây lâm nghiệp lâu năm trên đất dốc đã nhận

xét: hệ sinh thái cây lâu năm có chu trình dinh dưỡng gần giống với hệ sinh thái rừng về

mặt bảo vệ độ màu mỡ của đất và hút các chất dinh dưỡng ở tầng sâu. Mỗi năm từ hệ sinh

thái cây lâu năm bị lấy đi một lượng chất dinh dưỡng nhưng chúng được hoàn trả bằng một

lượng phân bón mà con người đưa vào. Hệ sinh thái cây lâu năm có nhược điểm đơn điệu

về thành phần loài, có thể dẫn tới giảm tính chống chịu với sâu bệnh và các tác nhân phá

hoại, sẽ được con người hỗ trợ bằng việc phòng trừ sâu bệnh và một loạt các biện pháp bổ

xung khác. Để phát triển hệ sinh thái này phải phối hợp cây trồng và cây rừng tốt nhất, kết

hợp cả trồng trọt và chăn nuôi.

Đào Châu Thu, [38]; Bùi Quang Toản, [42] khi nghiên cứu về đất dốc ở Tây Bắc đã

rút ra kết luận: có thể xây dựng được những mô hình sản xuất nông nghiệp ổn định trên đất

dốc trên cơ sở một hệ thống phân loại sử dụng đất hợp lý theo quan điểm sinh thái Nông

Lâm kết hợp.

Trần Như ý đề xuất các hệ thống canh tác trên đất dốc ở một số vùng thuộc miền

núi phía Bắc, đã đưa ra các hệ thống cây ăn quả thay thế cho cây lương thực tạo thu nhập

cao và bảo vệ được môi trường, hạn chế việc phá rừng đốt nương tràn lan, giúp dân định

canh, định cư.

Lê Thành Đường (1992), [9] nghiên cứu hiệu quả kinh tế của các loại hoa màu

trồng tại Phú Châu - An Giang đã chọn ra 2 loại cây cho lãi cao gần 4 triệu đồng/ha/vụ là

bắp và đậu trắng.

Nguyễn Ngọc Trâm (1994), [41] nghiên cứu cơ cấu cây trồng và hệ thống luân canh

cây trồng vùng đất cát ven biển Thừa Thiên - Huế, rút ra kết luận công thức: ớt - lúa cho

giá trị gia tăng cao nhất và hiệu quả chi phí đầu tư cao nhất.

Lê Hưng Quốc (1994), [28] trong nghiên cứu chuyển đổi cơ cấu cây trồng vùng gò

đồi tỉnh Hà Tây cho thấy một số hệ thống cây trồng cho hiệu quả kinh tế cao vùng gò đồi

Hà Tây:

- Trên đất đỏ vàng trồng lúa: là hệ thống canh tác 3 vụ, trong đó 2 lúa và 1 rau (hoặc

khoai tây - đậu tương) hoặc 2 màu 1 lúa (lạc Xuân - lúa Mùa - đậu tương hoặc

khoai tây).

- Trên đất phù sa được bồi (bãi bồi): công thức 2 màu (ngô Thu Đông - ngô Xuân Hè

- cũng cho hiệu quả khá cao.

- Trên đất phù sa không được bồi: công thức 3 vụ cho hiệu quả cao. Trong đó vụ

Xuân có thể trồng lúa Xuân hoặc lạc Xuân, ngô Xuân. Vụ Mùa trồng lúa Mùa và vụ

Đông trồng rau, khoai lang, đậu tương.

Đây là hệ thống cây trồng trên vùng đất phù sa có giá trị sản phẩm và có thu nhập

cao.

ở cùng một điều kiện sinh thái, chế độ luân canh 3 vụ mang lại hiệu quả kinh tế cao,

thu nhập thuần và tỷ suất lợi nhuận cao, làm tăng độ phì của đất, đặc biệt là các cây họ đậu

tham gia. Cây trồng vụ đông có vai trò quan trọng, làm tăng độ ẩm đất và làm tăng năng

suất cây trồng vụ sau.

Trần An Phong (1993), [26] khi nghiên cứu bước đầu cơ sở khoa học cải thiện hệ

thống cây trồng trên quan điểm sinh thái và phát triển lâu bền cho rằng: muốn tạo lập một

nền nông nghiệp theo quan điểm sinh thái phải nhận thức và tổ chức thực hiện có kết quả

rõ ràng việc sử dụng đất hợp lý với cải thiện hệ thống cây trồng và đa canh trong nông

nghiệp, xem đó là một bộ phận hợp thành “chiến lược sử dụng đất hợp lý” theo quan điểm

sinh thái và “phát triển lâu bền” với mục tiêu quản lý và bảo tồn tài nguyên thiên nhiên,

định hướng sự thay đổi công nghệ và tổ chức thực hiện nhằm đảm bảo việc thoả mãn nhu

cầu liên tục của con người thuộc các thế hệ hôm nay và cả mai sau.

Để đáp ứng những mục tiêu đồng thời của việc tăng các sản lượng và giảm bớt rủi

ro môi trường, việc thâm canh có thể diễn ra theo cả hai hướng không gian và thời gian,

trên cả hai hướng trên, sự thâm canh thông qua đa dạng hoá có liên quan tới lựa chọn cây

trồng, vật nuôi, đầu tư và các hoạt động quản lý mà chúng thúc đẩy các mối quan hệ sinh

thái tích cực và các quá trình sinh học trong tổng thể hệ sinh thái nông nghiệp. Hiệu quả hệ

sinh thái nông nghiệp được cải tiến đôi khi thể hiện thông qua hệ thống cây trồng hỗn hợp,

trong khi đó mọi tài nguyên bên trong được quản lý tốt để nâng cao hiệu quả sản lượng.

Tóm lại: Nhiều công trình nghiên cứu trong nước tổng hợp và chuyên đề về hệ

thống canh tác đã được tiến hành ở nhiều nơi và đã có những kết quả nhất định. Phần lớn

các tác giả nghiên cứu theo hướng chọn các hệ thống canh tác có các hệ thống cây trồng

phù hợp trên các loại đất với các loại cây trồng (lâu năm hoặc hàng năm) vừa đảm bảo có

hiệu quả kinh tế cao, hiệu quả xã hội lớn, vừa bảo vệ đất. Tuy nhiên trong những nghiên

cứu trước đây, các tác giả còn ít đề cập về những tiến bộ khoa học và kỹ thuật công nghệ

sinh học mới, do yếu tố thị trường và các hạn chế khác nên các mô hình canh tác không

mở ra diện rộng được… Đây là những vấn đề cần được đưa vào trong nghiên cứu hệ thống

canh tác nói riêng và hệ thống nông nghiệp nói chung hiện nay.

1.2.3. Đặc điểm hệ thống canh tác vùng nhiệt đới và những vấn đề cần nghiên cứu ở

vùng đất ven sông Hồng

1.2.3.1. Đặc điểm hệ thống canh tác ở vùng nhiệt đới ẩm

- Vùng nhiệt đới có tiềm năng quang hợp cao

Nguyên lý cơ bản của sản xuất Nông nghiệp là biến năng lượng ánh sáng mặt trời

thành lương thực và các sản phẩm khác. Tuy vậy tiềm năng của ánh sáng chỉ có thể phát

huy được khi có đủ nước và dinh dưỡng.

ở vùng Nhiệt đới năng lượng ánh sáng đạt được 130 - 220 Kcal/cm3/năm, trong khi ở các nước Ôn đới chỉ có 80 - 120 Kcal/cm3/năm. Nhưng những điều kiện khác ngoài ánh

sáng thì ở các nước Nhiệt đới lại không đủ: Trong mùa khô năng lượng ánh sáng nhiều

nhưng lại thiếu ẩm, ngược lại vào mùa mưa lại ít ánh sáng (Kassan - 1973), (Chang -

1968).

ở vùng Nhiệt đới có thể trồng trọt quanh năm nhưng mới chỉ sử dụng được 80%

mùa sinh trưởng. Trong khi ở Đài Loan nhờ biện pháp tăng vụ đã sử dụng được 93% mùa

sinh trưởng (Holliday - 1976). Mùa cây trồng sinh trưởng được xác định bằng chiều dài

mùa mưa. Như vậy ở vùng Nhiệt đới mùa mưa thường kéo dài hơn ở vùng Ôn đới, chính

vì vậy ở những vùng Nhiệt đới ẩm cây trồng hầu như có bộ lá xanh quanh năm. Nếu trồng

các loại cây theo chu trình C4 (Chu trình axit dicacboxylic) như Ngô, Mía, Cao lương sẽ có

khả năng đồng hoá năng lượng ánh sáng mặt trời cao hơn những cây trồng có quang hợp

theo chu trình C3 (Chu trình calvin) như Lúa, Lúa mì, Đậu tương (Holliday - 1976).

Coopor - 1970, đã đưa ra minh chứng về khả năng sản xuất chất khô của thảm thực

vật tự nhiên ở vùng Nhiệt đới ẩm là 146 tấn/ha trong khi ở vùng Ôn đới là 20 - 25

tấn/ha/năm.

Khả năng biến đổi năng lượng ánh sáng mặt trời thành chất khô của cây trồng Nhiệt

đới thường cao gấp 2 đến 3 lần cây trồng ở vùng Ôn đới. Như Mía ở Hawai có 10 - 15 tấn

đường/ha/năm, Cọ dầu ở Malaysia có từ 5 - 6 tấn dầu/ha/năm, Lúa ở ấn Độ (cấy 3 vụ được

15 tấn/ha/năm).

Theo Holliday - 1976 cho thấy: tỷ lệ biến đổi năng lượng ánh sáng mặt trời của cây

hàng năm đạt kỷ lục cao nhất với Cỏ voi ở Puerto Rico 110,6 tấn/ha chất khô và hiệu suất

sử dụng năng lượng ánh sáng mặt trời hữu hiệu là 5,3%. Hai vụ Ngô ở Uganda cho năng

suất 38,2 tấn chất khô/ha, hệ số sử dụng năng lượng ánh sáng mặt trời là 4,7%. Cao hơn,

hiệu suất sử dụng năng lượng ánh sáng mặt trời của quần thể Tảo ở Nhật với năng suất

53,1 tấn chất khô/ha và hệ số sử dụng năng lượng mặt trời là 4,3%.

- Những khó khăn về tự nhiên ở vùng Nhiệt đới

Tiềm năng to lớn của vùng Nhiệt đới không được phản ánh đầy đủ trong thực tế sản xuất .

Theo Holliday - 1976 thì canh tác thâm canh ở vùng Ôn đới đạt được hệ số sử dụng ánh

sáng là 2% của năng lượng ánh sáng, trong khi đó ở vùng Nhiệt đới không vượt quá 0,2%.

ở vùng á nhiệt đới sử dụng giống mới hệ số kinh tế đạt từ 30 - 56% trong khi đó ở

các nước Nhiệt đới chỉ đạt từ 5 - 35%. Vậy yếu tố hạn chế ở đây là gì?.

* Những khó khăn về khí hậu

Để tận dụng được năng lượng mặt trời, cây trồng cần độ ẩm đầy đủ, để đảm bảo

điều kiện này phải dựa vào nước trời hoặc tưới. ở hầu hết các nước Nhiệt đới mưa phân bố

theo mùa. Do đặc điểm của đất nhiệt đới là khả năng giữ ẩm kém vì vậy khả năng sử dụng

độ ẩm được dự trữ trong đất là rất thấp. Một đặc điểm đáng chú ý là lượng mưa và thời

gian xuất hiện mưa ít ổn định do đấy việc quyết định thời vụ trồng trọt là khó có thể đạt

được độ chính xác cao. Vào mùa mưa, lượng mưa lớn do đó rất dễ rửa trôi, xói mòn đất

đặc biệt là vùng đất dốc.

Tốc độ gió lớn ở vùng Nhiệt đới cũng là điều phải lưu ý, gió lớn làm đổ gẫy cây

trồng, làm tăng cường khô hạn, gây xói mòn. Kết quả nghiên cứu cho thấy năm nào ít gió

hại thì mùa màng đạt năng suất khá, năm nào gió hại nhiều thì dễ mất mùa.

Độ dài ngày biến đổi không nhiều, trong vòng một ngày cường độ bức xạ mặt trời

và nhiệt độ không khí thay đổi nhiều và nhanh, có lúc vượt quá mức chịu đựng của cây

trồng và vật nuôi đã làm giảm năng suất. Nhiệt độ, độ ẩm cao gây khó khăn trong việc bảo

quản nông sản.

* Những khó khăn về đất đai

Theo Williams và Josepb - 1973 thì tính thấm nước của đất khi mưa lớn đóng vai

trò quan trọng vì nước mưa hoà tan các chất dinh dưỡng ở tầng mặt và thấm xuống tầng

đất phía dưới. Vùng Nhiệt đới ẩm đất có độ phì tự nhiên thấp (thường thiếu Lân và Đạm).

Phần lớn dinh dưỡng có giá trị nằm ở vùng rễ cây dưới dạng hữu cơ. Do bị rửa trôi các

chất khoáng di chuyển xuống phía dưới đã tạo nên tầng đế cày vững chắc, ngăn cản việc

tiêu nước và sinh trưởng của rễ.

Theo Spedding - 1975 ở điều kiện Nhiệt đới ẩm hầu hết các chất hữu cơ phân giải

nhanh, ở vùng có mùa mưa và mùa khô xen kẽ, quá trình này giải phóng chất hữu cơ

nhanh vào đầu mùa mưa.

Một đặc tính chung của đất Nhiệt đới là cấu trúc của đất kém và rất khó phục hồi

dưới điều kiện thâm canh, làm tăng khả năng xói mòn do gió và do nước, đặc biệt khi

không còn thảm thực vật che phủ đất.

* Những khó khăn về sinh học

ở điều kiện Nhiệt đới số lượng loài là rất phong phú và biến động mạnh. ở nơi đất

đủ ẩm thì năng suất cây trồng cao nhưng cũng có nhiều cỏ dại, nấm, kí sinh trùng mà

những loài này là đối tượng cạnh tranh của cây trồng và gia súc. Côn trùng, bệnh hại

không chỉ làm giảm năng suất nó còn gây hại trong quá trình bảo quản nông sản.

1.2.3.2. Những vấn đề có liên quan đến canh tác ở vùng Nhiệt đới

* Chi phí cao trong việc duy trì độ phì của đất

Hầu hết nông dân vùng Nhiệt đới đều coi việc bảo vệ độ phì của đất là quan trọng

do đó hầu hết các hệ thống canh tác đều phải chú ý đến việc duy trì độ phì của đất. Vấn đề

là làm thế nào cho lớp đất canh tác đủ chất dinh dưỡng và đủ điều kiện để cây trồng hút

dinh dưỡng.

Dưới điều kiện tự nhiên Nhiệt đới chất dinh dưỡng bị mất đi do rửa trôi là phổ biến.

Chúng ta cũng thấy nông dân vùng Nhiệt đới thường lấy đi hầu hết các sản phẩm thực vật

được tạo bởi cây trồng lấy chất dinh dưỡng từ tầng đất sâu lên ra khỏi đồng ruộng, do vậy

dinh dưỡng trong đất ngày càng bị thiếu hụt. Trong nhiều trường hợp chất hữu cơ và chất

dinh dưỡng khoáng này được trả lại vào trong đất dưới dạng phân chuồng nhưng thường

không đầy đủ.

"Nông dân vùng Nhiệt đới đã thay thế hệ thống canh tác tự nhiên bằng kiểu thâm

canh theo hướng đầu tư thêm phân hữu cơ và phân vô cơ với ý định có thu nhập cao nhưng

phải duy trì được độ màu mỡ của đất" (Ruthenberg - 1977).

Trong nhiều trường hợp, nông dân đã canh tác theo kiểu "bóc lột" đất, thời kỳ đầu

giá thành sản phẩm có thể hạ do sử dụng ít năng lượng bổ sung nhưng sau đó năng suất sẽ

giảm dần theo thời gian. Canh tác theo kiểu này, năng suất cây lấy hạt phổ biến từ 500 -

1000 kg/ha, như vậy hiệu suất sử dụng năng lượng ánh sáng mặt trời thấp. ở khí hậu Ôn

đới hầu hết các hệ thống canh tác tạo ra lượng chất khô tương đương lượng chất khô do

thảm thực vật tự nhiên tạo ra (Sraydon - 1976). Trong sản xuất cổ truyền ở Nhiệt đới,

lượng chất khô tạo ra trên 1 ha không vượt quá 20% lượng chất khô do thảm thực vật tự

nhiên tạo ra. Như vậy, sự khác nhau giữa năng suất tiềm năng và năng suất thực tế ở các hệ

thống canh tác Nhiệt đới cổ truyền lớn hơn nhiều so với hệ canh tác ở nông nghiệp Ôn đới

cổ truyền. Nền nông nghiệp cân bằng thấp ít hiệu quả này nếu được bổ sung một phần

năng lượng thì chắc chắn hiệu quả sẽ rất cao. Kết quả nghiên cứu của Leach cho thấy ở

nền canh tác cổ truyền đầu tư thấp có thể tạo ra 15 - 60 đơn vị năng lượng đầu ra trên một

đơn vị năng lượng bổ sung.

Theo Elston - 1976, về mặt giá cả ở những nước mà dân còn nghèo cần lương thực

rẻ mà chọn nông nghiệp thâm canh thì đây là cách làm quá đắt về lợi nhuận kinh tế. Như

vậy là mô hình canh tác sử dụng có hiệu quả năng lượng ánh sáng mặt trời thì lại lãng phí

năng lượng bổ sung và ngược lại mô hình canh tác sử dụng có hiệu quả nguồn năng lượng

bổ sung thì lại lãng phí năng lượng ánh sáng mặt trời.

* Đương đầu với rủi ro

Canh tác ở vùng Nhiệt đới còn ở mức công nghiệp thấp, mục đích chính của sản

xuất là tự cung, tự cấp, do đó cần phải sản xuất nhiều loại sản phẩm với số lượng cần thiết.

Canh tác ở vùng Nhiệt đới người nông dân không chỉ gặp những rủi ro khi khí hậu không

ổn định mà còn chịu sự tác động của sâu bệnh trong quá trình sản xuất và cất giữ nông sản

sau khi thu hoạch.

Với kinh nghiệm trong sản xuất nông nghiệp ở vùng Nhiệt đới, người nông dân tìm

nhiều cách để hạn chế những rủi ro, đảm bảo có sản phẩm ổn định quanh năm. Vấn đề đa

dạng hoá cây trồng không chỉ dừng lại ở nền nông nghiệp tự cung, tự cấp mà còn là biện

pháp để hạn chế rủi ro, bên cạnh về đa dạng hoá cây trồng, nông dân vùng nông nghiệp

còn phải đa dạng hoá mùa vụ, có trà sớm, trà trung, trà muộn …Vấn đề trồng xen cũng là

giải pháp tạo ra sự đa dạng. Tuy năng suất không cao nhưng đảm bảo ổn định.

Như vậy, canh tác ở vùng Nhiệt đới mà loại bỏ được sự độc canh, chuyên canh có

thể tạo ra một nền sản xuất có hiệu quả.

* Những vấn đề về thời vụ

Đặc điểm của sản xuất nông nghiệp là tính thời vụ rất chặt chẽ nên lao động nông

nghiệp cũng mang tính thời vụ rất cao, có những lúc người sản xuất rất bận rộn phải lao

động với thời gian nhiều hơn bình thường trong một ngày, cường độ lao động vào những

thời điểm đó cũng rất cao nhưng cũng nhiều lúc người lao động không có việc làm (nông

nhàn). Con đường tốt nhất để sử dụng lao động hợp lý là đa dạng công việc, đầu tư cơ giới

vào những việc phải hoàn thành nhanh kịp thời vụ, có làm được việc này mới giải quyết

được việc tăng hiệu quả trong sản xuất nông nghiệp ở vùng nhiệt đới.

- Những vấn đề nghiên cứu ở vùng đất ven sông Hồng

Vùng đất ven sông Hồng là vùng đồng bằng với địa hình tương đối bằng phẳng, đất

đai mầu mỡ, khí hậu đa dạng rất thuận lợi cho trồng cây nông nghiệp. Để tạo dựng một

nền nông nghiệp phát triển ổn định, việc nghiên cứu hệ thống canh tác là một việc làm cần

thiết ở vùng đất này.

Là vùng đồng bằng với quỹ đất lớn, vấn đề tăng vụ được đặt ra để có thể tận dụng

nhiều hơn tiềm năng của tự nhiên như năng lượng ánh sáng mặt trời. Để làm được việc này

cần có sự đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất.

Đặc điểm đất canh tác ở vùng Nhiệt đới là tốc độ khoáng chất hữu cơ xẩy ra nhanh,

đặc biệt là ở đất có thành phần cơ giới nhẹ, hiện tượng rửa trôi xảy ra nhanh. Vì vậy vấn đề

bổ sung dinh dưỡng hợp lý cho cây trồng phải được đặt ra, cần giải quyết hàng loạt vấn đề

liên quan như: cơ cấu cây trồng, mùa vụ, chất lượng cây con, trình độ của người lao động,

vốn…

Việc nghiên cứu của đề tài góp phần nhỏ trong việc giải quyết vấn đề trên của vùng

đất ven sông Hồng.

Ch­¬ng 2: Vật liệu, nội dung và phương pháp nghiên cứu

2.1. Địa điểm, nội dung, vật liệu nghiên cứu

- Địa điểm nghiên cứu là vùng đất ven sông Hồng thuộc địa bàn thành phố Hà Nội.

- Nội dung nghiên cứu:

1. Đánh giá điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội.

2. Phân tích thực trạng một số hệ thống canh tác cây ăn quả.

3. Nghiên cứu đặc điểm về giống, sinh trưởng và phát triển, chăm sóc, bón phân …của một

số hệ thống cây ăn quả trong vùng.

4. Nghiên cứu một số định hướng sản xuất theo hướng phát triển bền vững.

- Vật liệu nghiên cứu: các thông tin về điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội vùng nghiên

cứu. Điều tra thực tiễn một số hệ thống canh tác cây ăn quả trong vùng.

2.2. Phương pháp nghiên cứu

Phân chia các hệ sinh thái nông nghiệp bằng phương pháp chồng xếp bản đồ. Bao

gồm các loại bản đồ địa hình, đất, sinh vật, khí hậu.

Dạng địa hình dựa vào bản đồ nền tỷ lệ 1/ 10.000, 1/ 25.000, 1/ 50.000 của Cục đo đạc bản

đồ Nhà nước.

Nghiên cứu khí hậu dựa vào bản đồ phân vùng khí hậu của đài khí tượng Hà nội.

Về cây trồng dựa vào số liệu điều tra trực tiếp ngoài thực địa.

Mô tả chi tiết một số hệ thống canh tác cây ăn quả áp dụng phương pháp điều tra

theo lát cắt.

Tiến hành quan sát kết hợp phỏng vấn trực tiếp người nông dân theo phương pháp

KIP (Key Informant Panel) để sử dụng trong việc mô tả điểm nghiên cứu. Thành lập các

nhóm người am hiểu về sản xuất, am hiểu về tình hình kinh tế - xã hội của địa phương để

thảo luận toạ đàm về tình hình sản xuất của mỗi gia đình, kinh nghiệm chăm sóc bón phân,

diện tích năng suất sản lượng, khả năng mở rộng diện tích… các loại cây trồng cần điều tra

nghiên cứu.

Phân tích mạnh yếu, triển vọng, rủi ro theo phương pháp SWOT ( Strength

Weakness Opportunities Threats ) để thu thập phân tích và đánh giá các thông tin do nông

dân cung cấp, nhằm tìm ra các điều kiện tự nhiên, điều kiện kinh tế xã hội, nguồn lực lao

động, tài nguyên đất đai thuận lợi thúc đẩy tăng trưởng sản xuất và do đó góp phần vào sự

phát triển tốt hơn. Ngược lại tìm ra các yếu tố bất lợi, những điều kiện không thích hợp

làm cản trở sự phát triển của sản xuất. Phân tích, tìm ra những phương hướng cần được

thực hiện nhằm tối ưu hoá các điều kiện phát triển của các phương thức canh tác, đề ra các

biện pháp thực hiện để mở rộng các phương thức canh tác tối ưu. Đồng thời lường trước

được các rủi ro, những yếu tố có khả năng tạo ra những kết quả xấu, không mong đợi hoặc

làm triệt tiêu sự phát triển của các phương thức canh tác như sâu bệnh, thiên tai lũ lụt hạn

hán...

Sử dụng các phương pháp điều tra nông thôn : PRA, RRA để điều tra bổ sung, phân

tích đánh giá hiệu quả kinh tế, thị trường.

Khảo sát đo đếm các chỉ tiêu của cây trồng tại thực địa các vườn quả.

Điều tra khảo sát thị trường và mức tiêu thụ quả của Hà nội theo phương pháp hệ

thống có chọn điểm, điều tra theo mẫu phiếu, điều tra nhanh các nông hộ, người buôn bán,

phỏng vấn kết hợp với phương pháp chuyên gia.

áp dụng đồng bộ các phương pháp về xây dựng bản đồ đất và đất thích hợp cho các

loại cây trồng cần nghiên cứu : phương pháp kế thừa, phương pháp đánh giá đất theo FAO,

khảo sát điều tra thực địa lấy mẫu bổ sung phân tích mẫu để kiểm chứng hiệu chỉnh các

thông tin về bản đồ đất, phân hạng đất thích hợp cho các loại cây trồng cần nghiên cứu

theo phương pháp của FAO.

Các phương pháp xử lý đánh giá hiệu quả kinh tế, phân tích tài chính.

Ch­¬ng 3: Kết quả nghiên cứu và thảo luận

3.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của các hệ thống canh tác

3.1.1. Tài nguyên khí hậu

Hà nội có đặc điểm của khí hậu miền Bắc Việt Nam - khí hậu nhiệt đới gió mùa, có

mùa đông lạnh, ít mưa và mùa hè nóng, mưa nhiều. Khí hậu Hà nội cho phép phát triển sản

xuất một số loại cây ăn quả á nhiệt đới, nhiệt đới.

3.1.1.1. Chế độ nhiệt

Nhiệt độ không khí trung bình năm 23,40C, các tháng có nhiệt độ thấp trong năm là tháng 1, 2, 12 với nhiệt độ trung bình từ 16,6 - 17,90C. Đây cũng là các tháng có nhiệt độ tối thấp trung bình thấp nhất (từ 13,8 - 150C) và cũng là các tháng có nhiệt độ tối thấp tuyệt đối thấp nhất (từ 2,7 - 5,10C). Các tháng có nền nhiệt độ cao là tháng 5, 6, 7, 8, 9 với nhiệt độ trung bình từ 27,1 - 28,80C. Đây cũng là các tháng có nhiệt độ tối cao trung bình cao nhất trong năm (từ 30,9 - 32,80C) và cũng là các tháng có nhiệt độ tối cao tuyệt đối lớn nhất (từ 37,1 - 42,80C). Các tháng còn lại (tháng 3, 4, 10, 11) có nhiệt độ trung bình từ 19,90C - 24,60C. Như vậy nhiệt độ khác nhau rõ rệt giữa các mùa: mùa hè nền nhiệt cao,

mùa đông nhiệt độ khá thấp.

Chế độ nhiệt là một trong những yếu tố hàng đầu đối với yêu cầu ngoại cảnh của cây trồng

nói chung và cây ăn quả nói riêng. Mùa đông lạnh thuận lợi cho các cây ăn quả nhóm á

nhiệt đới (như vải, nhãn, hồng, cam quýt…) là những cây cần mùa đông lạnh để rụng lá,

ngủ nghỉ và phân hoá mầm hoa, ra hoa, kết quả. Tuy nhiên lạnh cũng không thuận lợi cho

các cây ăn quả nhóm nhiệt đới (như: chuối, dưa, hồng xiêm, ổi, na…), cái lạnh của Hà nội

tuy không đến nỗi làm chết cây nhưng ảnh hưởng lớn đến quá trình sinh trưởng của cây,

đến năng suất và phẩm chất sản phẩm.

Biến đổi tuần hoàn ngày của nhiệt độ có dạng một đỉnh cao nhất vào giữa hoặc sau

trưa, rồi giảm dần cho đến sáng thì đạt thấp nhất, sau đó lại tăng dần đến trưa. Biên độ

trung bình ngày của nhiệt độ (chênh lệch giữa nhiệt độ cao nhất và nhiệt độ thấp nhất) từ 5,6 - 7,80C (cao vào các tháng mùa hè và các tháng đầu mùa đông: tháng 5, 6, 7, 10, 11,

12). Nhìn chung biên độ nhiệt ngày càng khá lớn, thuận lợi cho việc vận chuyển, tích luỹ

vật chất quang hợp của cây ăn quả.

Bảng 3.1: Yêu cầu nhiệt độ của một số loại cây ăn quả

Nhiệt độ trung bình (0C) Nhóm cây Cây trồng Thích hợp nhất Tối cao Tối thấp

Nhiệt đới Xoài 24 - 25 35 15

Na 22 - 30 39 10

15,5 - 35 40,5 Chuối 5

Dứa 20 - 25 36 5

21 - 22 33 8 á nhiệt đới Nhãn

Vải thiều 20 - 25 29 10

Cam, quýt 22 - 29 39 12

Hồng 20 - 25 40 10

3.1.1.2. Chế độ nắng, bức xạ:

Nắng trong vùng mang tính chất chung của vùng Bắc Bộ. Số giờ nắng trung bình

năm 1640 giờ. Nắng tương đối nhiều vào mùa hè (từ tháng 5 - 10) với số giờ nắng từ 160 -

195 giờ/ tháng, nắng ít vào mùa đông và mùa xuân (từ tháng 1 - 4) với số giờ nắng 47 - 93

giờ/ tháng. Số giờ nắng trung bình năm của Hà nội khá đảm bảo về phát triển nhiều loại

cây ăn quả.

Bức xạ tổng cộng năm trung bình của Hà nội là 4227 Kcal/ m2/tháng, các tháng có

cường độ bức xạ lớn từ tháng 5 - 10 (có bức xạ tổng cộng trung bình tháng từ 4696 - 5788 Kcal/m2), các tháng có cường độ bức xạ thấp từ tháng 11 - 4 năm sau.

3.1.1.3. Chế độ mưa:

Lượng mưa trung bình năm của Hà nội là 1680 mm, lượng mưa phân bố không đều

giữa các tháng trong năm. Mưa tập trung vào mùa hè (từ tháng 5 đến tháng 10), lượng

mưa chiếm 85% với lượng mưa trung bình tháng từ 123 - 323 mm. Lượng mưa 6 tháng

mùa đông (từ tháng 11 - tháng 4) chỉ chiếm 15% lượng mưa cả năm với lượng mưa trung

bình tháng từ 18 - 81 mm.

Số ngày mưa trong năm trung bình là 142,2 ngày. Các tháng có số ngày mưa ít nhất

là tháng 10, 11, 12, 1 (từ 6,3 - 8,5 ngày/ tháng). Lượng mưa ngày cực đại: 569 mm (tháng

7), 244 - 260 mm (tháng 6, 8, 9).

Lượng mưa trung bình năm của Hà nội đáp ứng được nhu cầu nước của nhiều loại

cây ăn quả. Nhưng lượng mưa không đều giữa các mùa trong năm gây khó khăn cho sản

xuất cây ăn quả: gây úng ngập cho cây ăn quả vào mùa mưa, gây khô hạn thiếu nước vào

mùa khô. Đòi hỏi trong sản xuất cây ăn quả phải có các biện pháp thuỷ lợi tưới tiêu thích

hợp, các biện pháp canh tác hợp lý nhằm đáp ứng yêu cầu nước cho cây sinh trưởng phát

triển tốt.

3.1.1.4. Lượng bốc hơi và độ ẩm không khí:

Lượng bốc hơi trung bình năm 938 mm, các tháng 12, 1, 2 có lượng bốc hơi thường

cao hơn lượng mưa.

Độ ẩm không khí của vùng đều thích hợp cho nhiều loại cây ăn quả phát triển.

Lượng mưa và lượng bốc hơi phân bố không đều trong năm, tạo cho vùng một thời

kỳ khô hạn gay gắt, độ ẩm tầng đất mặt luôn dưới mức độ ẩm cây héo. Cần có biện pháp

giữ ẩm cho đất bằng các cây che phủ đất và các biện pháp canh tác khác.

3.1.1.5. Gió:

Trong năm thường có 2 mùa gió chính: gió mùa đông nam và gió mùa đông bắc.

Gió mùa đông nam thường bắt đầu vào tháng 2 đến tháng 8 với tần suất xuất hiện từ

34 - 58%. Gió mùa đông bắc thường xuất hiện vào các tháng 11, 12, 1, 2, 3 với tần suất

xuất hiện từ 20 - 30%. Gió mùa đông nam thường mang theo hơi nước từ biển vào, gây

nên những trận mưa rào. Gió mùa đông bắc thường lạnh và khô vào những tháng đầu mùa

đông, ẩm ướt vào các tháng cuối mùa đông - kéo theo mưa phùn. Gió lạnh, khô đã ảnh

hưởng lớn đến sinh trưởng phát triển của một số cây ăn quả nhóm nhiệt đới.

3.1.1.6. Một số yếu tố khí hậu khác:

- Bão: Trung bình hàng năm Hà nội chịu ảnh hưởng trực tiếp của khoảng 1 cơn bão.

Bão thường kéo theo gió lớn, mưa to làm đổ cây, gãy cành, rụng quả, úng ngập… gây thiệt

hại lớn cho cây ăn quả.

- Dông: Hàng năm ở Hà nội trung bình có khoảng 93,6 ngày có dông. Mùa dông bắt

đầu từ tháng 4 đến hết tháng 9, với khoảng trung bình từ 10 - 19 ngày cho mỗi tháng.

Dông thường kèm theo gió mạnh, mưa rào, ảnh hưởng đến sản xuất cây ăn quả.

- Sương mù: Số ngày có sương mù trung bình năm là 11,7 ngày.

- Mưa phùn: Số ngày có mưa phùn trung bình năm là 42,7 ngày, tập trung vào các

tháng 2, 3 với khoảng 11 - 15 ngày/ tháng.

Sương mù, mưa phùn thường gây thiếu nắng, ảnh hưởng đến quang hợp cho cây ăn

quả.

Có thể nói khí hậu Hà nội có đặc điểm của khí hậu Bắc Việt Nam - khí hậu nhiệt

đới gió mùa. Mùa đông lạnh, ít mưa, mùa hè nóng mưa nhiều, cho phép phát triển nhiều

loại cây ăn quả nhiệt đới và á nhiệt đới. Nhưng khí hậu Hà nội cũng gây nhiều khó khăn

cho sản xuất cây ăn quả như khô, lạnh thiếu nước vào mùa đông, ngập úng, đổ, gẫy, rụng

quả, hoa vào mùa hè… đòi hỏi trong sản xuất cây ăn quả phải có các biện pháp canh tác,

các giải pháp kỹ thuật nhằm hạn chế các tác hại, phát huy các mặt lợi của khí hậu thời tiết để

phát triển cây ăn quả.

3.1.2. Tài nguyên đất đai

Căn cứ vào các tài liệu đã có, xác định trên bản đồ phạm vi nghiên cứu của diện tích

điều tra, xác định đối tượng điều tra là 11 loại đất chính của Hà nội, phân bố ở các huyện

ngoại thành đặc biệt ở vùng đất ven sông Hồng. Bước đầu có những nhận xét và đánh giá

về các loại đất của Hà nội như sau:

- Cồn cát và bãi cát ven sông (C) Haplic Arenosols (ARh).

+ Diện tích 359 ha, chiếm 0,4% đất điều tra.

+ Phân bố ở ven sông hoặc giữa sông.

+ Đặc điểm: đất có thành phần cơ giới nhẹ, thoát nước tốt, phản ứng trung tính, ít chua,

h).

nghèo mùn, các chất tổng số và dễ tiêu nghèo, dung tích hấp thu trung bình.

h) Hapli Eutric fluvisols (FLe

- Đất phù sa được bồi thường xuyên (Pb

+ Diện tích 412 ha, chiếm 4,49% đất điều tra.

+ Phân bố chủ yếu ở Gia Lâm, Từ Liêm, Thanh Trì, Đông Anh.

+ Đặc điểm: Đất phù sa được bồi hình thành ở ngoài đê sông Hồng. Tuỳ theo chất lượng

phù sa bồi đắp vào các thời kỳ khác nhau mà đất có thành phần cơ giới đa dạng, thay đổi

từ thịt nhẹ đến sét nhẹ, phổ biến là thịt trung bình. Dung trọng thay đổi từ 1,15 - 1,52; tỷ

trọng 2,60 - 2,74; độ xốp 48 - 56% tầng mặt. Nghèo mùn, đạm là lân tổng số. Kali tổng số

khá, lân và kali dễ tiêu trung bình. Dung tích hấp thu và lượng cation kiềm trao đổi từ

-h).

trung bình đến khá.

- Đất phù sa được bồi của các sông khác (P) Haplidystric fluvisols (FLd

+ Diện tích 356 ha, chiếm 0,38% đất điều tra.

+ Đặc điểm: đất phù sa được bồi của các sông khác thường có thành phần cơ giới nhẹ,

phản ứng chua, nghèo mùn và các chất dinh dưỡng, dung tích hấp thu thấp, đất thoát nước

tốt.

- Đất phù sa không được bồi, không gley hoặc gley yếu của hệ thống sông Hồng

(Ph) Eutric fluvisols (FLe)

+ Diện tích 18098 ha, chiếm 19,71% đất điều tra.

+ Phân bố: huyện Từ Liêm và huyện Gia Lâm

+ Phân loại đất: loại đất này có 3 kiểu hình thái phẫu diện

++ Đất phù sa không được bồi không gley hoặc gley yếu, có phẫu diện đồng nhất.

++ Đất phù sa không được bồi, không gley hoặc gley yếu có lớp cát xen ở độ sâu 20 -

40cm.

++ Đất phù sa không được bồi, không gley hoặc gley yếu ảnh hưởng nước thải thành phố.

+ Đặc điểm: Đất phù sa không được bồi, không gley hoặc gley yếu, hình thái phẫu diện

đồng nhất, thường có thành phần cơ giới trung bình đến nặng với các đặc điểm lý, hoá học

như sau: Dung trọng từ 1,20 - 1,65 g/cm3; tỷ trọng từ 2,53 - 2,78 g/cm3; độ xốp từ 39,1 - 54,6%, đất

chặt vừa đến chặt. Phản ứng của đất từ ít chua đến kiềm yếu (pHKCL = 5,0 - 7,8). Những

mẫu đất phân tích năm 1998 cho thấy đa số đất có phản ứng chua (pHKCL < 6,0). Hàm

lượng mùn thuộc loại nghèo đến trung bình (1,41 - 2,33%). Lân tổng số trung bình (P2O5 =

0,08 - 0,11%). Kali tổng số trung bình (0,80 - 1,37%). Lân dễ tiêu khá (ở các tầng đất mặt

từ 20 - 30 mg/100g đất ), kali dễ tiêu nghèo (6 - 16 mg/100g đất). Dung tích hấp thu khá

30 - 69 mg/ 100g sét. Các nguyên tố vi lượng dễ tiêu trong đất (Zn, Mo. B, Cu) từ nghèo đến

trung bình.

Đây là loại đất có độ phì nhiêu tiềm tàng.

Đất phù sa không được bồi, không gley hoặc gley yếu, lớp cát xen ở độ sâu 20 - 40cm có

các đặc điểm chính:

- Đất có thành phần cơ giới nhẹ ở các tầng đất mặt và ở độ sâu 20 - 40cm, dung trọng thay đổi 1,24 - 1,51g/cm3. Tỷ trọng của đất thay đổi từ 2,51 - 2,57g/cm3. Độ xốp từ 41 - 50%

nghèo mùn (0,45 - 1,45%). Lân tổng số trung bình (0,09 - 0,13%); kali tổng số hơi nghèo

(0,59 - 1,09%). Lân dễ tiêu trung bình . Kali dễ tiêu nghèo (5,0 - 13,0mg/ 100g đất). Dung

tích hấp thu trung bình đến khá (38 - 42 me/100g sét).

- Đất phù sa không được bồi, không gley hoặc gley yếu ảnh hưởng nước thải thành phố có

thành phần cơ giới trung bình. Phản ứng của đất hơi chua (pHKCL = 5,1 - 6,2). Mùn và

đạm tổng số tầng đất mặn thuộc loại khá. Lân tổng số khá đến giàu (0,10 - 0,20%). Kali

tổng số khá (1,2 - 1,8%). Lân và kali dễ tiêu thuộc loại trung bình. Dung tích hấp thu trung

bình đến khá (27 - 48me/100g sét).

- Đất phù sa không được bồi, không gley hoặc gley hoặc gley yếu của các sông

khác (P) Dystric fluvisols (FLd).

+ Diện tích: 1.200 ha

+ Phân bố: Loại đất này thường nằm bên cạnh đất bạc màu hoặc đất phù sa cổ, giáp sông

Cà Lồ, sông Cầu về phía Đông và Bắc.

+ Đặc điểm: Đất có thành phần cơ giới nhẹ, tầng đất mặt là cát pha, tầng đất sâu là thịt

trung bình và nặng. Dung trọng tăng dần theo chiều sâu: 1,2 g (tầng mặt) và 1,59 (tầng đất

70 - 125cm). Tỷ trọng đất thay đổi từ 2,57 - 2,70. Phản ứng của đất rất chua pHKCL = 3,4

- 3,9). Đất nghèo mùn (0,58 - 1,46%). Đạm, lân, kali tổng số đều nghèo (tương ứng ở các

tầng đất mặt là 0,09%; 0,08% và 0,53%). Lân và kali dễ tiêu nghèo. Dung tích hấp thu thấp

(12,0 - 28,0 me/100g sét).

ib).

- Đất phù sa ít được bồi của hệ thống sông Hồng (Ph

+ Eutric fluvisols (FLe) với diện tích 2.300,8 ha, chiếm 2,51% đất điều tra.

+ Phân bố: Loại đất này trước đây vẫn được bồi thường xuyên, nhưng do sự bồi đắp liên

tục của dòng sông nên đất được cao dần.

+ Đặc điểm: Phần lớn diện tích loại đất này có thành phần cơ giới nhẹ đến trung bình. Đất tương đối chặt ở các tầng đất sâu (dung trọng 1,23 - 1,65 g/cm3; tỷ trọng 2,55 - 2,71g/cm3.

Đất ít chua (pHKCL = 5,8 - 6,5). Mùn nghèo đến trung bình (0,5 - 2,0%). Lân và kali dễ

tiêu nghèo đến trung bình. Dung tích hấp thu trung bình đến khá (25 - 46 me/100g sét)

- Đất phù sa ít được bồi các hệ thống sông khác:

+ Diện tích 181,7 ha chiếm 0,25% đất điều tra.

+ Phân bố ở các xã ven sông thuộc huyện Sóc Sơn và Đông Anh.

+ Đặc điểm: Phần lớn diện tích loại đất này có màu nâu nhạt hoặc xám nâu, thành phần cơ

giới nhẹ. Đất có dung trọng và tỷ trọng lớn hơn so với đất phù sa ít được bồi của hệ thống

sông Hồng. Độ xốp kém hơn đất phù sa ít được bồi của hệ thống sông Hồng. Phản ứng của

đất chua (pHKCL < 5,0), mùn nghèo (< 1,0%). Hàm lượng các chất tổng số và dễ tiêu đều

nghèo. Dung tích hấp thụ thấp (< 10 me/100g đất).

-g).

- Đất phù sa không được bồi gley trung bình hoặc mạnh của hệ thống sông Hồng

h). Gleyi eutric fluvisols (FLe

(Pg

+ Diện tích 8512,07 ha chiếm 9,27% đất điều tra

+ Phân bố tập trung ở Gia Lâm, Từ Liêm, Thanh Trì, Đông Anh. Loại đất này nằm ở địa

hình thấp trũng, dư thừa ẩm. Quá trình khử oxy chiếm ưu thế. Các chất như sắt, mangan bị

khử làm cho đất có màu xanh xám. Loại đất này có 2 kiểu hình thái:

++ Không có lớp cát.

++ Có lớp cát xen ở nông hoặc sâu trong phẫu diện. + Đặc điểm: Đất có thành phần cơ giới trung bình đến nặng. Dung trọng 1,20 - 1,65 g/cm3, tỷ trọng 2,55 - 2,64 g/cm3, độ xốp 37,5 - 52,9%. Phản ứng của đất ít chua (pHKCL = 4,61 -

6,50). Hàm lượng mùn trung bình (tầng mặt khoảng 2,0%). Lân tổng số trung bình (0,08 -

0,13%). Kali tổng số trung bình đến khá (1,20 - 2,28%). Lân dễ tiêu trung bình. Kali dễ

-g).

tiêu nghèo. Dung tích hấp thu trung bình (10,0 - 12,0 me/100 g đất).

- Đất phù sa gley của các sông khác (Pg) Gleyi dystric fluvisols (FLd

+ Diện tích 511,8ha chiếm 0,5% đất điều tra

+ Phân bố: Loại đất này phân bố tập trung ở các địa hình thấp, ít thoát nước ở phía Đông

và Bắc của Hà nội.

+ Đặc điểm: Đất phổ biến có màu nâu xám, thành phần cơ giới trung bình đến nặng. Dung trọng phổ biến từ 1,30 - 1,50 g/cm3. Tỷ trọng 2,38 - 2,67 g/cm3. Hàm lượng mùn các tầng

đất mặt khá (1,81 - 2,34%). Phản ứng của đất rất chua (3,8 - 4,5). Lân tổng số nghèo (0,04

- 0,06%). Kali tổng số trung bình (0,88 - 1,38%). Lân dễ tiêu nghèo. Dung tích hấp thu

thuộc loại thấp (CEC = 5,18 - 7,29 me/100g đất). Đồng và kẽm dễ tiêu trung bình,

Molibden và Bo dễ tiêu nghèo.

r) Dystri Cambic

-d).

- Đất phù sa có tầng loang lổ đỏ vàng của hệ thống sông Hồng (Ph

fluvisols (FLh

+ Diện tích 952,21 ha chiếm 1,04% đất điều tra.

+ Phân bố: tập trung ở tả ngạn sông Hồng, Từ Liêm, Gia Lâm.

+ Đặc điểm:

Đa số đất có thành phần cơ giới nhẹ đến trung bình (hàm lượng sét các tầng đất mặt dao

động từ 14 đến 33%. Sự phân dị của phẫu diện đất về thành phần cơ giới theo chiều sâu

thể hiện rõ (các tầng đất mặt đều nghèo sét hơn các tầng đất sâu). Tỷ trọng, dung trọng đất

cũng thay đổi theo xu hướng tương tự (tăng theo chiều sâu). Độ xốp đất các tầng mặt từ

trung bình đến khá 46 - 53%. ở các tầng đất sâu đất trở nên chặt hơn (độ xốp chỉ còn 30 -

35%).

Phản ứng đất rất chua (pHKCL = 3,2 - 5,1), đa số đất có pHKCl từ 3,5 - 4,0. Đất nghèo mùn

(ở tầng đất mặt từ 1,0 - 1,8%). Đạm tổng số nghèo, đa số khoảng 0,05 - 0,07%. Lân tổng

số nghèo (0,02 - 0,12%), đa số từ 0,02 - 0,05%. Kali tổng số hơi nghèo (từ 0,27 - 0,90%).

Lân và kali dễ tiêu nghèo đến hơi nghèo. P2O5 = 1 - 10 mg/100g đất. K2O = 2,5 -

20mg/100g đất. Tổng số cation từ trung bình đến thấp (Ca ++ + Mg++ < 6 me/100g đất).

Khả năng trao đổi cation từ trung bình đến thấp (14 - 41 me/100g đất).

- Đất phù sa có tầng loang lổ đỏ vàng (Pf).

+ Diện tích 248,9 ha chiếm 0,27% đất điều tra.

+ Phân bố rải rác ở Sóc Sơn

+ Đặc điểm: Đất hình thành do sự bồi đắp phù sa của các sông khác, phẫu diện có sự bất

đồng hoá rõ: Tầng đất mặt thường có màu xám nâu nhạt, cấu trúc kém, tầng loang lổ đỏ

vàng thường nằm kề với tầng gley trung bình đến mạnh.

Đất có thành phần cơ giới nhẹ, phẫu diện đất có sự phân dị rõ về thành phần cơ

giới, tầng đất mặt nghèo sét (dưới 10%), càng xuống sâu tỷ lệ sét càng tăng. Dung trọng

đất chặt (độ xốp tầng đất mặt dao động từ 36 - 47%). Phản ứng đất chua vừa đến ít chua

(pHKCL = 3,6 - 4,8). Hàm lượng mùn tầng mặt trung bình và giảm nhanh theo chiều sâu.

Đạm tổng số trung bình. Lân tổng số nghèo (lân dễ tiêu từ 3,1 - 6,4, kali dễ tiêu 2 - 8,5 mg/

100g đất). Tổng số cation kiềm trao đổi trong đất thấp (dưới 5 me/100g đất). Khả năng

trao đổi cation trong đất thấp (16 - 23 me/ 100g sét). Nhôm hydro di động thuộc loại trung

bình (tương ứng là 0,2 - 5mg/100g đất) sắt di động tương đối cao (5,4 - 10,4 mg/100g đất).

j)

- Đất phù sa úng nước mưa mùa hè (Ph

+ Diện tích 4174,58 ha chiếm 4,5% đất điều tra.

+ Phân bố: Đất nằm ở vị trí thấp, trũng, có ở Liên Hà, Vân Hà (Đông Anh) và rải rác ở

huyện Thanh Trì, Sóc Sơn.

+ Đặc điểm: Đất hình thành ở địa hình trũng lòng chảo. Mùa mưa nước đổ dồn từ trên

xuống ứ đọng lại, có nơi ngập sâu hơn 1m. Vì vậy chỉ cấy 1 vụ chiêm.

Do địa hình trũng, ứ đọng nước, được tích luỹ các sản phẩm rửa trôi từ trên xuống

trong đó có nhiều chất hữu cơ. Trong đất có nhiều axit hữu cơ và các chất độc hại cho cây

trồng như CH4, H2S, làm cho đất trở lên chua, bí và bị gley mạnh.

Đất có màu xám đen ở lớp mặt lúc ướt, khi khô bị ôxy hoá nên chuyển sang màu vàng nâu.

Tỷ lệ mùn ở lớp đất này khá (> 2%).

Một số vùng có loại đất này khi đào sâu 40 - 50 cm đã qua lớp đất bùn loãng và lớp đất sét

thó màu xanh, tiếp đến lớp xác hữu cơ đã mục có mức độ phân giải khác nhau. Lớp xác

hữu cơ này có màu nâu nhạt xen kẽ các vệt rỉ sắt nâu đậm hơn, rất cứng, đây là tầng than

bùn. Một số nơi đã khai thác tầng này làm phân bón.

Đa số đất có thành phần cơ giới nặng (thịt nặng, sét nhẹ). Dung trọng thay đổi từ 1,15 -

1,40. Tỷ trọng dao động từ 2,45 - 2,65. Tầng mặt có độ xốp cao 53 - 59%, các tầng sâu đất

chặt hơn (dung trọng từ 46 - 50%).

Phản ứng của đất rất chua (pHKCL = 3,0 - 4,0). Hàm lượng mùn khá (2,40 -

2.66%). Đạm và kali tổng số trung bình (tương ứng là 0,15% và 1,00%). Lân tổng số

nghèo (0,03 - 0,05%). Lân và kali dễ tiêu đều nghèo, đa số các tầng đất có hàm lượng ít

hơn 10mg/100g đất.

Tổng số cation kiềm trao đổi trung bình (từ 5 - 10 me/ 100g đất. Đặc biệt Mg trao

đổi trong đất rất nghèo (từ 0,4 - 3,9 me/100g đất). Khả năng trao đổi cation thấp (phần lớn nhỏ hơn 20 me/100g sét). Al3+, H+ và Fe2+ trong các tầng đất rất thấp (Al3+ < 0,5 me/100g đất;

H+ < 0,1 me/ 100g đất; Fe2+ < 5mg/ 100g đất).

Nhìn chung loại đất này còn giữ lại các đặc điểm chủ yếu của phù sa sông Hồng

với màu đất nâu tươi tầng mặt, phản ứng đất trung tính ít chua. Hàm lượng mùn trong đất

khá, tầng đất mặt 2,89%, ở các tầng đất sâu dao động từ 0,64 - 2,54%. Đạm tổng số khá,

tầng đất mặt chứa 0,25%, các tầng đất sâu dao động 0,06 - 0,24%. Kali tổng số khá (1,16 -

1,61%). Lân và kali dễ tiêu thuộc loại trung bình (lân dễ tiêu 18 - 25mg/100g đất, kali dễ

tiêu 17 - 23 mg/ 100g đất). Tổng lượng cation kiềm trao đổi trong đất khá (tầng đất mặt

12,6 me/ 100g đất, tầng đất sâu 12 - 17 me/ 100g đất).

Qua so sánh biến động một số tính chất loại đất phù sa úng nước mưa mùa hè

những năm qua cho thấy: qua quá trình thâm canh cải tạo đất và sử dụng đất hợp lý hơn,

mặc dù loại đất này phần lớn (trừ khu vực phù sa sông Hồng) vẫn rất chua, nhưng hàm

lượng một số chất dinh dưỡng khác đã thay đổi đáng kể: mùn và đạm tổng số trong đất

tăng (mùn 2,1% năm 1964 tăng lên 2,6% năm 1994), các chất dễ tiêu như lân, kali trong

đất cũng có chiều hướng tăng. Lượng nhôm di động trong đất giảm nhiều (từ 2,0 - 2,1

me/100g đất năm 1964 xuống 0,5 - 1,0 me/100g đất năm 1994).

- Đất phù sa không được bồi úng nước mùa hè (Pj)

+ Diện tích 1519,2 ha chiếm 1,65% đất điều tra.

+ Phân bố: đất phù sa úng nước mưa mùa hè các sông khác phân bố chủ yếu ở khu vực

phía Bắc và Tây Bắc Hà Nội thuộc huyện Đông Anh và Sóc Sơn.

+ Đặc điểm: Đất hình thành ở địa hình thấp, trũng. Quá trình hình thành đất phổ biến ở đây

là quá trình gley. Đất thường bị ngập úng sâu vào mùa mưa. Đất có thành phần cơ giới

nặng, cấp hạt sét tầng đất mặt dao động từ 43 - 53%. Dung trọng đất thay đổi từ 1,05 -

1,36, tỷ trọng từ 2,45 - 2,70. Độ xốp tầng đất mặt cao (53 - 58%).

Đất có phản ứng rất chua (pHKCL = 3,2 - 4,0). Hàm lượng mùn trung bình (ở tầng

mặt từ 2,39 - 2,66%). Đạm tổng số trung bình (0,15 - 0,20% ở đất mặt). Lân tổng số từ rất

nghèo đến hơi nghèo (0,02 - 0,09%), kali tổng số trung bình (0,78 - 1,18%). Các chất dễ

tiêu nghèo: Lân dễ tiêu 0,6 - 4,8 mg/100g đất, kali dễ tiêu 2,6 - 10 mg/100g đất. Tổng số cation kiềm trao đổi (Ca2+, Mg2+) trong đất thấp (< 6me/100g đất). Khả năng trao đổi cation

thấp (11 - 17 me/100g sét).

- Đất phù sa ngòi suối (PY)

+ Diện tích 176,89 ha chiếm 0,19% đất điều tra.

+ Phân bố ở phía Bắc Hà nội thuộc huyện Sóc Sơn. Loại đất này chiếm diện tích không

đáng kể, chủ yếu ở ven đồi gần suối.

+ Đặc điểm: Lớp phù sa suối mịn, mỏng, thành phần cơ giới nhẹ, rời rạc, lẫn nhiều sỏi,

cuộn tròn cạnh, chua, độ phì nhiêu thấp.

- Đất xám bạc màu trên phù sa cổ

+ Diện tích 2658,29 ha chiếm 2,89% đất điều tra.

+ Phân bố tập trung chủ yếu huyện Sóc Sơn.

+ Đặc điểm: Đất có địa hình bậc thang rộng, gợn sóng, chặt thường gặp nước ngầm ở tầng

nông. Phản ứng đất rất chua, đất nghèo các chất dinh dưỡng. Tầng đất mỏng đến trung

bình, khả năng giữ nước của đất kém, ở tầng đất sâu hơn 30 cm thường xuất hiện đá ong

hoặc kết von.

Đa số đất có thành phần cơ giới nhẹ, dung tích hấp thu thấp, chua, nghèo mùn,

nghèo các chất tổng số và dễ tiêu.

- Đất xám bạc màu gley trên phù sa cổ (Xg) Gleyic Arisols (ACg).

+ Diện tích 1511,86 ha chiếm 16,4% đất điều tra.

+ Phân bố: Đất xám bạc màu gley trên phù sa cổ của Hà nội chạy từ chân núi Tam Đảo

(Sóc Sơn) qua Đông Anh tiếp cận vùng phù sa sông Hồng.

+ Đặc điểm: Loại đất này hình thành ở địa hình phổ biến là gò đồi, bậc thềm, lượn sóng và

dốc thoải. Địa hình trên đây đã ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình hình thành đất, chế độ

nhiệt, ẩm và hệ thống canh tác trong vùng. Đất đã bị thoái hoá do nhiều nguyên nhân:

++ Do hình thành ở địa hình dốc ít nhưng sườn dốc kéo dài.

++ Do chế độ canh tác lạc hậu trước đây chủ yếu là độc canh, cấy hái, bừa chũi, ít chú

trọng bón phân, cải tạo và bảo vệ đất.

Mặc dù có sự cải thiện về độ phì nhiêu, song đây vẫn là loại "đất có vấn đề" và là

đối tượng nghiên cứu quan trọng ở nước ta.

Nhìn chung đất có tầng canh tác mỏng dưới 100cm, thường bị gley ở độ sâu hơn

30cm, tầng đất sâu rất chặt, nhiều nơi có kết von, đá ong.

Đa số đất có thành phần cơ giới nhẹ, nhất là ở huyện Sóc Sơn. Hàm lượng cấp hạt

sét các tầng đất mặt ở đây dao động từ 5 - 10%. ở Đông Anh đất có thành phần cơ giới lớp

mặt nặng hơn (từ 15 - 20%). Sự phân dị về thành phần cơ giới theo chiều sâu phẫu diện đất

phản ánh rõ quá trình rửa trôi không những theo chiều ngang mà cả theo chiều thẳng đứng.

Hàm lượng cấp hạt sét ở tầng đất sâu thường gấp 1,5 - 2,0 lần so với tầng đất mặt. Tầng

đất mặt chỉ hơi chặt (dung trọng 1,35 - 1,38, tỷ trọng 2,58 - 2,60).

Đất có phản ứng rất chua, đa số có pHKCL từ 3,1 - 4,0. Khu vực Đông Anh loại đất

này có phản ứng ít chua hơn (pHKCL = 4,0 - 5,1) do địa hình bằng hơn và ít nhiều chịu

ảnh hưởng của phù sa sông Hồng sau nhiều lần vỡ đê. Hàm lượng mùn trong đất rất nghèo,

đều ít hơn 1,0% trong tầng đất mặt. Đạm, lân, kali tổng số đều nghèo (ở các tầng đất mặt

l0,04 - 008%, 0,03 - 0,05%. Lân và kali dễ tiêu nghèo đến hơi nghèo, đa số ít hơn

10mg/100g đất. Tổng số các cation kiềm trao đổi thấp, đa số từ 1,5 - 30 me/ 100g đất.

Nhôm di động trong đất không cao, ít hơn 1,2 me/ 100g đất. Mức độ phân giải chất hữu cơ

mạnh (C/N < 8).

Sau nhiều năm thâm canh cải tạo đất xám bạc màu gley trên phù sa cổ, độ phì nhiêu

loại đất này được cải thiện. Hàm lượng mùn, đạm, lân tổng số, lân và kali dễ tiêu trong đất

tăng. Lượng nhôm và hydro di động trong đất giảm.

- Đất đỏ vàng trên đá phiến sa (Fs) Ferralic Acrisols on Shall (ACfs)

+ Diện tích 7316,34 ha chiếm 7,97% đất điều tra.

+ Phân bố tập trung ở huyện Sóc Sơn.

+ Đặc điểm: Đất hình thành ở địa hình đồi núi thấp, dốc, tầng đất mỏng, nhiều nơi bị xói

mòn trơ sỏi đá. Đất có thành phần cơ giới nhẹ (tầng đất mặt chứa có 20% sét). Tầng mặt

tơi xốp (dung trọng 0,95, tỷ trọng 2,6, độ xốp 63%. Phản ứng đất rất chua (pHKCL = 3,4 -

3,9). Hàm lượng mùn tầng đất mặt khá (4,44 - 4,85%). Các tầng đất sâu lượng mùn ít hơn

1%. Tuy nhiên tầng đất chỉ dày 25 cm. Đạm tổng số tầng đất mặt khá (0,14 - 0,28%). Lân

tổng số rất nghèo (0,04 - 0,05%), kali tổng số nghèo (0,6 - 0,9%). Lân và kali dễ tiêu đều

rất nghèo (ít hơn 8mg/ 100g đất). Hàm lượng các cation kiềm trao đổi trong đất rất nghèo

(ít hơn 2 me/ 100g đất). Khả năng trao đổi cation thấp (CEC = 14 - 22 me/100g sét). Nhiều

nhôm và sắt di động trong đất cao (tương ứng ở tầng đất mặt là 4,1 me/ 100g đất và 40 mg/

100g đất.

- Đất nâu vàng trên phù sa cổ (Fp)

+ Diện tích 1058,9 ha chiếm 1,15% đất điều tra.

+ Phân bố: Đất tập trung ở vùng đồi trung du thuộc Sóc Sơn, đó là những đồi dốc thoải hoặc lượn sóng, độ dốc trung bình 3 - 80.

+ Đặc điểm: Đất có tầng mỏng (30 - 50 cm), thành phần cơ giới nhẹ, nhiều nơi do thảm

thực vật bị tàn phá nặng đất bị xói mòn trơ sỏi đá hoặc xuất hiện kết von đá ong, kết von.

Thành phần cơ giới đất thay đổi từ cát pha đến thịt nhẹ ở tầng đất mặt và tỷ lệ cấp

hạt sét tăng dần theo chiều sâu phản ánh quá trình rửa trôi mạnh theo chiều thẳng đứng.

Tầng đất mặt tơi xốp (dung trọng 1,35, tỷ trọng 2,56, độ xốp 47,3%). Xuống sâu đất trở

nên chặt đến rất chặt (dung trọng 1,60 - 1,65, độ xốp 36 - 37%). Phản ứng của đất rất chua

(từ 3,3 - 4,1). Mùn rất nghèo (< 1,00%). Đạm, lân, kali tổng số đến nghèo (tương ứng ở

các tầng đất mặt là 0,10%; 0,07% và 0,60%). Lân và kali dễ tiêu đều rất nghèo (đa số < 5,0 mg/ 100g đất). Tổng số cation kiềm trao đổi (Ca2+, Mg2+) trong đất rất thấp (1,4 - 1,8

me/100g đất). Khả năng trao đổi thấp (16 - 20 me/ 100g sét).

- Đất thung lũng do sản phẩm dốc tụ (D)

+ Diện tích 58,36 ha chiếm 0,06% đất điều tra có 2 loại sau:

++ Đất thung lũng do sản phẩm dốc tụ không bạc màu

+ Phân bố: Đất phân bố rải rác ở Sóc Sơn, chủ yếu nằm ở các thung lũng nhỏ, hẹp.

+ Đặc điểm: Phẫu diện đất thường không đồng nhất, đất chua (pHKCL = 4,8 - 5,7). Hàm

lượng mùn trung bình (tầng mặt khoảng 2,0%). Lân tổng số nghèo (0,07 - 0,08%). Kali

tổng số hơi nghèo (0,25 - 0,65%). Các chất dễ tiêu đều nghèo (lân dễ tiêu 3,15 mg/ 100g

đất; kali dễ tiêu 4 - 8 mg/100g đất).

Tổng lượng cation trao đổi trung bình (Ca2+, Mg2+ = 10 me/ 100g đất). Khả năng

trao đổi cation trung bình (11 - 16 me/ 100g đất). Thành phần cơ giới đất phụ thuộc nhiều

vào sản phẩm dốc tụ từ trên cao đưa xuống.

++ Đất thung lũng do sản phẩm dốc tụ bạc màu

Đất thung lũng do sản phẩm dốc tụ bạc màu hình thành từ các sản phẩm có thành

phần cơ giới thô, nhẹ và ở địa hình dốc nên bị rửa trôi mạnh trở nên nghèo, chua, khô,

chặt, tầng đất thường mỏng.

Hiện tại lúa năng suất rất thấp, khoai lang đông sinh trưởng kém. Sử dụng loại đất

này cần đặc biệt quan tâm giữ ẩm, bón nhiều phân hữu cơ và bón cân đối các loại phân vô

cơ.

3.1.3. Các tiểu vùng sinh thái nông nghiệp trên địa bàn thành phố Hà Nội

Kế thừa kết quả nghiên cứu của Sở Nông Nghiệp và Phát triển Nông thôn Hà Nội,

vùng ngoại thành Hà nội được chia làm 5 tiểu vùng sinh thái nông nghiệp như sau:

- Tiểu vùng phù sa cổ trong đồng

- Tiểu vùng phù sa mới ven sông

- Tiểu vùng úng trũng

- Tiểu vùng cao trên nền đất đỏ vàng

- Tiểu vùng đất xám bạc màu

* Đặc điểm chính của các tiểu vùng sinh thái

- Tiểu vùng phù sa cổ trong đồng: chủ yếu là đất phù sa không được bồi của sông Hồng và

sông khác, địa hình khá bằng phẳng, đất đai màu mỡ. Hiện nay tiểu vùng này đang được

sử dụng để sản xuất lúa, màu, các cây trồng hằng năm khác và các cây ăn quả, điều kiện

canh tác khá thuận lợi.

- Tiểu vùng phù sa mới ven sông: chủ yếu là đất phù sa được bồi hoặc ít được bồi của sông

Hồng và sông khác, phân bố chủ yếu ven sông (ngoài đê hoặc trong đê). Đất đai màu mỡ,

nhưng bị ngập úng vào mùa mưa. Hiện nay tiểu vùng này đang được sử dụng để sản xuất

màu, cây công nghiệp ngắn ngày, và các cây ăn quả chịu úng.

- Tiểu vùng úng trũng: chủ yếu là đất phù sa úng nước, phù sa gley của sông Hồng và sông

khác. Đất thường ngập nước quanh năm. Hiện nay tiểu vùng này đang được sử dụng chủ

yếu để sản xuất 1 vụ lúa xuân (hoặc lúa xuân và 1 vụ lúa mùa bấp bênh). Các cây ăn quả

trong vùng là các cây chịu úng.

- Tiểu vùng cao trên nền đất đỏ vàng: chủ yếu là đất đỏ vàng trên đá phiến sét (Fs) và đất

đỏ vàng trên phù sa cổ (Fp) - vùng gò đồi Sóc Sơn. Đất có độ phì kém, tầng mỏng. Hiện

nay tiểu vùng này đang được sử dụng trồng cây lâm nghiệp, cây ăn quả, cây công nghiệp

lâu năm (chè) và các cây hàng năm khác. Điều kiện canh tác khó khăn (nhất là hạn thiếu

nước).

- Tiểu vùng đất xám bạc màu: chủ yếu là đất xám bạc màu (vùng Sóc Sơn, Đông Anh).

Đất có độ phì kém, địa hình khá bằng phẳng. Hiện nay tiểu vùng này đang sử dụng trồng

lúa, màu, cây công nghiệp ngắn ngày, cây ăn quả.

3.1.4. Các tiểu vùng kinh tế ­ sinh thái vùng ngoại thành Hà nội

3.1.4.1. Xây dựng hệ thống chỉ tiêu phân hoá các tiểu vùng kinh tế - sinh thái

- Chỉ tiêu quan trọng đầu tiên là phân tiểu vùng theo các loại đất điển hình đặc trưng

cho đất của Hà nội

+ Đất phù sa cổ trong đồng

+ Đất phù sa mới ven sông

+ Đất phù sa gley úng trũng

+ Đất đỏ vàng trên địa hình cao

+ Đất xám bạc màu

- Chỉ tiêu về độ cao địa hình, tương ứng với khả năng tiêu, thoát nước: đây là chỉ

tiêu mang tính chất thực tiễn rất cao. Vì ngoài chỉ tiêu (1), đối với Hà nội mang tính đại

diện cao, tương đối đồng nhất trên địa bàn huyện thì chỉ tiêu (2), giúp cho việc xác định rõ

hơn ranh giới giữa các tiểu vùng, cho thấy tính chủ động trong sản xuất, cấp và thoát nước

cho từng khu vực.

- Chỉ tiêu về đặc điểm kinh tế, gắn với đặc điểm kinh tế - xã hội của Thủ đô Hà nội,

trong đó nổi bật là các khu dân cư, đô thị, công nghiệp lớn, sông lớn và các trục đường

giao thông quan trọng. Các nhân tố trên tác động mạnh mẽ, mang tính chất quyết định tới

xu hướng phát triển kinh tế của mỗi tiểu vùng, trên địa bàn huyện. Và chỉ tiêu (3) cho thấy

tính chất đặc thù của mỗi tiểu vùng trong từng huyện, và trên toàn Thành phố.

- Các chỉ tiêu bình quân và quy mô dân số, đất đai, đất nông nghiệp, cho thấy mức

độ lớn, nhỏ, quy mô tập trung tới mức nào của từng tiểu vùng, và giữa các tiểu vùng với

nhau.

- Một nhân tố khó định lượng bằng các chỉ tiêu cụ thể, song có giá trị quan trọng

trong việc xác định ranh giới giữa các tiểu vùng, đó là tính truyền thống trong sản xuất

nông nghiệp và sản xuất nghề của Thủ đô Hà nội. Chính nhân tố này là yếu tố quyết định để

xác định các xã vào tiểu vùng nào cho hợp lý.

Hà Nội là địa bàn không rộng, sự phân hoá các yếu tố tự nhiên theo lãnh thổ không

quá phức tạp. Những tác động về kinh tế - xã hội là hết sức quan trọng, đó là chỉ tiêu

không thể thiếu được trong việc phân chia một cách cụ thể các tiểu vùng kinh tế - sinh thái

trên địa bàn huyện.

3.1.4.2. Kết quả phân chia các tiểu vùng kinh tế - sinh thái trên địa bàn huyện

* Huyện Từ Liêm: có 3 tiểu vùng

- Tiểu vùng ven đô (phía Đông sông Nhuệ) (gọi là tiểu vùng 1) có 6 đơn vị là: Đông

Ngạc, Xuân Đỉnh, Cổ Nhuế, Trung Văn, Mỹ Đình, Thị trấn Cầu Diễn. Mật độ dân số là 2.943 người/km2 tập trung chủ yếu ở huyện Từ Liêm. Diện tích đất nông nghiệp chiếm 31% tổng quỹ đất nông nghiệp toàn huyện, bình quân đất nông nghiệp cho 1 hộ là 598m2,

cao nhất trong 3 tiểu vùng của huyện.

Tiểu vùng 1 phân bố chủ yếu trên loại đất phù sa cổ, không được bồi của sông

Hồng và đất phù sa gley của sông Hồng. Địa hình khá bằng phẳng, thoát nước tốt, còn một

số chỗ thấp ở Mỹ Đình..

Đặc điểm kinh tế - xã hội của tiểu vùng 1: Khu vực có quá trình đô thị nhanh, mất

đất cho xây dựng đô thị. Về kinh tế, ngành nghề dịch vụ rất phát triển. Về nông nghiệp có

hồng xiêm, hoa, lúa …, kinh tế hộ khu vực này có thu nhập cao nhất huyện Từ Liêm.

- Tiểu vùng phía Tây sông Nhuệ, và phía Bắc đường quốc lộ 32 (gọi là tiểu vùng 2)

có 6 đơn vị đó là: Phú Diễn, Minh Khai, Thuỵ Phương, Tây Tựu, Liên Mạc, và Thượng Cát. Mật độ dân số 1.686 người/km2. Đất nông nghiệp chiếm 33% tổng quỹ đất nông nghiệp của toàn huyện, bình quân đất nông nghiệp cho 1 hộ là 474 m2. Đây là tiểu vùng có

diện tích đất trồng cây ăn quả cao và tập trung.

Tiểu vùng 2 phân bố trên loại đất phù sa cổ sông Hồng không được bồi và đất phù

sa sông Hồng có được bồi. Địa hình phẳng, thoát nước tốt và chủ động nước tưới.

Tiểu vùng 2 là trung tâm sản xuất hàng hoá nông nghiệp của huyện Từ Liêm nói

riêng và của thành phố nói chung với các sản phẩm nổi tiếng: bưởi Diễn, cam Canh, hoa,

rau gia vị có chất lượng cao. Sản xuất nông nghiệp của tiểu vùng ổn định và phát triển.

- Tiểu vùng phía Tây sông Nhuệ, và phía Nam đường quốc lộ 32 (gọi là tiểu vùng

3), có 4 đơn vị đó là: Xuân Phương, Tây Mô, Đại Mỗ, và Mễ Trì. Mật độ dân số khá cao 2.480 người/km2. Diện tích đất nông nghiệp chiếm 35,7% tổng quỹ đất nông nghiệp toàn huyện, bình quân đất nông nghiệp cho 1 hộ thấp nhất huyện 397 m2/hộ.

Tiểu vùng 3 phân bố trên nền đất phù sa cổ không được bồi của sông Hồng, và đất

phù sa cổ gley. Địa hình bằng phẳng, thấp nhất ở Xuân Phương và Tây Mỗ.

Tiểu vùng 3 là vùng kinh tế thuần nông với lúa, lợn, cá, là vùng có tiềm năng đầu tư để tạo

ra sản phẩm có chất lượng cao. Một số làng nghề nổi tiếng như: rèn, làm bún, phở….

Trong tương lai đây là vùng có thể bị mất đất nông nghiệp cho phát triển đô thị.

Đây là tiểu vùng có kinh tế và thu nhập thấp nhất huyện Từ Liêm.

* Huyện Thanh Trì: có 4 tiểu vùng

- Tiểu vùng ven đô (gọi là tiểu vùng 1), có 4 đơn vị là: Định Công, Vĩnh Tuy, Thanh Trì và Tân Tiến. Đây là khu vực đông dân cư với mật độ dân số 3.011 người/km2.

Diện tích đất nông nghiệp thấp chiếm 8,6% tổng quỹ đất nông nghiệp toàn huyện. Bình quân đất nông nghiệp cho 1 hộ thấp nhất thành phố 256 m2/ hộ.

Tiểu vùng 1 phân bố trên nền đất phù sa cổ không được bồi của sông Hồng và đất phù sa

cổ bị gley. Địa hình bằng phẳng, có một vài chỗ thấp.

Tiểu vùng 1 là vùng phát triển đô thị chưa ổn định, thu nhập của người dân từ nhiều

ngành nghề. Sản xuất nông nghiệp có: lúa, rau, hoa cây cảnh, gia cầm, đây không phải là

tiểu vùng sản xuất nông nghiệp của huyện Thanh Trì.

- Tiểu vùng ven đường quốc lộ 1A (gọi là tiểu vùng 2), có 8 đơn vị là: Đại Kim,

Thịnh Liệt, Trần Phú, Tam Hiệp, Yên Sở, Hoàng Liệt, Tứ Hiệp và thị trấn Văn Điển. Mật độ dân số là 2.270 người/km2. Diện tích đất nông nghiệp chiếm 28% tổng quỹ đất nông

nghiệp toàn huyện. Bình quân đất nông nghiệp cho 1 hộ thuộc loại thấp của thành phố với 403 m2/1 hộ.

Tiểu vùng 2 phân bố trên 2 loại đất chính là: đất phù sa cổ không được bồi của sông

Hồng và đất phù sa cổ bị gley. Địa hình thấp dần ở các xã phía Nam tiểu vùng.

Đây là tiểu vùng có các khu vực tiêu nước thải của khu vực nội thành, môi trường

bị ô nhiễm nghiêm trọng. Kinh tế của vùng được xếp thứ 2 trong toàn huyện sau tiểu vùng

1.

- Tiểu vùng xa đô thị (gọi là tiểu vùng 3), có 9 đơn vị đó là: Hữu Hoà, Ngũ Hiệp,

Đông Mỹ, Liên Ninh, Tả Thanh Oai, Ngọc Hồi, Thanh Liệt, Đại áng và Vĩnh Quỳnh. Mật độ dân số 1997 người/km2. Diện tích đất nông nghiệp cao nhất huyện Thanh Trì, chiếm

45,1% tổng quỹ đất nông nghiệp toàn huyện. Bình quân đất nông nghiệp cho 1 hộ là 562 m2/1 hộ.

Tiểu vùng 3 phân bố trên 3 loại đất chính là: Đất phù sa cổ không được bồi, đất phù

sa cổ bị gley và đất phù sa sông Hồng úng nước. Địa hình của tiểu vùng thấp, trũng, có

diện tích lớn bị úng ngập thường xuyên.

Tiểu vùng 3 là khu vực kinh tế thuần nông, dịch vụ chưa phát triển, sản xuất nông

nghiệp với các sản phẩm chính: lúa, lợn, cá, gia cầm. Sản xuất nông nghiệp thiếu ổn định

do bị ngập trũng. Đây là vùng có kinh tế kém phát triển hơn các tiểu vùng khác trong

huyện.

- Tiểu vùng bãi ngoài đê (gọi là tiểu vùng 4), có 4 đơn vị: Yên Mỹ, Lĩnh Nam, Vạn Phúc và Duyên Hà. Mật độ dân số là 1621 người/1 km2. Diện tích đất nông nghiệp chiếm

18,3% tổng quỹ đất nông nghiệp toàn huyện. Bình quân đất nông nghiệp cho 1 hộ cao nhất của huyện Thanh Trì với 586 m2/ 1 hộ.

Do là tiểu vùng bãi ngoài đê, có 2 loại đất chính là đất phù sa mới có được bồi của

sông Hồng. Địa hình thoát nước tốt.

Kinh tế của tiểu vùng chủ yếu trồng rau, hoa màu, chăn nuôi kém phát triển, có thể

trồng nhãn trên các địa hình cao thoát nước. Một số lao động của vùng đi làm thuê và dịch

vụ. Đây là tiểu vùng có kinh tế trung bình của huyện Thanh Trì.

* Huyện Gia Lâm: có 4 tiểu vùng

- Tiểu vùng trung tâm (gọi là tiểu vùng 1), có 11 đơn vị là: Đa Tốn, Đặng Xá, Gia

Thuỵ, Trâu Quỳ, Kiêu Kỵ, Cổ Bi, Hội Xá, Việt Hưng, Dương Xá, Giang Biên và Thượng Thanh. Mật độ dân số 1444 người/km2. Diện tích đất nông nghiệp chiếm 37,6% tổng quỹ

đất nông nghiệp toàn huyện. Bình quân đất nông nghiệp cho 1 hộ cao nhất Thành phố với 864 m2/ 1 hộ.

Là tiểu vùng bằng, hơi trũng, cốt đất trung bình từ 3,5 - 4,0m. Đất chủ yếu là loại

phù sa cổ không được bồi sông Hồng và đất phù sa cổ gley.

Đây là vùng phát triển thâm canh lúa, lợn, giống cây ăn quả quan trọng của huyện

Gia Lâm, đặc biệt là khu vực Trâu Quỳ, trường Đại học Nông Nghiệp I, nơi cung cấp các

loại giống cây ăn quả cho Thành phố và các tỉnh miền Bắc.

- Tiểu vùng ven sông Hồng (gọi là tiểu vùng 2), có 9 đơn vị: Ngọc Thuỵ, Cự Khối,

Thạch Bàn, Bát Tràng, Kim Lan, Văn Đức, Bồ Đề, Long Biên và Đông Dư. Mật độ dân số 1456 người/1km2. Diện tích đất nông nghiệp chiếm 18,8% tổng quỹ đất nông nghiệp toàn huyện. Bình quân đất nông nghiệp cho 1 hộ là 571 m2/1 hộ.

Tiểu vùng 2 phân bố trên các loại đất chính: đất phù sa cổ không được bồi của sông

Hồng, đất phù sa cổ bị gley và đất phù sa sông Hồng được bồi và ít bồi. Địa hình của tiểu

vùng tương đối cao, thoát nước tốt.

Tiểu vùng có kinh tế trung bình khá, sản phẩm nông nghiệp chủ yếu là: rau, hoa

màu, cây ăn quả, lợn, nuôi bò và phát triển ngành nghề kinh tế của tiểu vùng.

- Tiểu vùng nam sông Đuống (gọi là tiểu vùng 3), có 4 đơn vị: Dương Quang, Kim Sơn, Phú Thị và Lệ Chi. Mật độ dân số là 1975 người/km2. Diện tích đất nông nghiệp

chiếm 25,8% tổng quỹ đất nông nghiệp toàn huyện. Bình quân đất nông nghiệp cho 1 hộ là 662 m2/ 1 hộ.

Tiểu vùng 3 phân bố trên các loại đất chính: Đất phù sa cổ không được bồi của sông

Hồng, đất phù sa cổ bị gley, và đất phù sa của sông khác. Địa hình tương đối cao, thoát

nước tốt.

Đây là tiểu vùng sản xuất nông nghiệp thuần tuý với các loại sản phẩm hàng hoá có

giá trị như rau, củ, hoa, lúa, ngô, cây ăn quả. Đây là tiểu vùng có thể phát triển tập trung

cây ăn quả của huyện Gia Lâm.

- Tiểu vùng Bắc sông Đuống (gọi là tiểu vùng 4), có 7 đơn vị : Yên Thường, Yên

Viên, Ninh Hiệp, Dương Hà, Đình Xuyên, Trung Màu, Phù Đổng. Mật độ dân số của tiểu vùng 3070 người/ km2, là khu vực tập trung dân cư cao nhất của huyện Gia Lâm và Thành

phố. Diện tích đất nông nghiệp chiếm tỷ lệ 18% tổng quỹ đất nông nghiệp toàn huyện. Bình quân đất nông nghiệp cho 1 hộ thuộc loại thấp của thành phố với 403 m2/ 1hộ.

Tiểu vùng 4 phân bố trên 3 loại đất chính đó là: Đất phù sa cổ không được bồi của

sông Hồng, đất phù sa cổ bị gley và đất phù sa của hệ thống sông khác.

Địa hình của tiểu vùng tương đối cao, thấp ở khu vực Ninh Hiệp, Trung Màu.

Tiểu vùng có kinh tế phát triển khá đa dạng: trồng trọt, chăn nuôi và dịch vụ với các sản

phẩm nông nghiệp có giá trị như lúa, rau, cá, bò thịt, bò sữa. Đặc biệt đây là khu vực phát

triển rau cao cấp, chăn thả bò thịt và nuôi bò sữa của huyện Gia Lâm và thành phố Hà nội.

Kinh tế của vùng đang phát triển theo hướng sản xuất hàng hoá, kinh tế của tiểu vùng ở

mức trung bình khá.

* Huyện Đông Anh: có 4 tiểu vùng

- Tiểu vùng miền Đông (gọi là tiểu vùng 1), có 6 đơn vị là: Vân Hà, Liên Hà, Dục Tú, Thuỵ Lâm, Việt Hùng, thị trấn Đông Anh. Mật độ dân số là 1855 người/1 km2. Đất

nông nghiệp chiếm 27,6% tổng quỹ đất nông nghiệp toàn huyện. Bình quân đất nông nghiệp cho 1 hộ là 398 m2/1 hộ, đây là vùng đất ít, người đông.

Tiểu vùng 1 phân bố chủ yếu trên loại đất phù sa cổ không được bồi của sông Hồng

và sông khác. Tiểu vùng có địa hình thấp, trũng, nhiều khu vực bị ngập trong mùa mưa.

Đặc điểm kinh tế của tiểu vùng là sản xuất lúa, cá, cây ăn quả có chất lượng khá

cao, tiểu thủ công nghiệp phát triển. Tiểu vùng có thu nhập kinh tế xếp loại cao của huyện

Đông Anh.

- Tiểu vùng trung tâm và phía Bắc huyện (gọi là tiểu vùng 2), có 3 đơn vị: Uy Lỗ, Cổ Loa và Xuân Nội. Mật độ dân số là 1340 người/1 km2. Đất nông nghiệp chiếm 15% tổng quỹ đất nông nghiệp toàn huyện, bình quân đất nông nghiệp cho 1 hộ là 512 m2/ 1 hộ.

Tiểu vùng 2 phân bố trên 2 loại đất chính: đất xám bạc màu và đất phù sa cổ không

được bồi. Nền địa hình cao và thoát nước tốt.

Đặc điểm kinh tế của tiểu vùng: phát triển đa dạng như du lịch, dịch vụ, nông nghiệp với

các sản phẩm chủ yếu là hoa màu, cây cảnh…Tiểu vùng đang trong quá trình phát triển.

- Tiểu vùng ven sông Hồng, sông Đuống (gọi là tiểu vùng 3), có 8 đơn vị: Vĩnh

Ngọc, Võng La, Đại Mạch, Đăng Hội, Hải Bối, Xuân Canh, Mai Lâm và Tầm Xá. Mật độ dân số 1087 người/ km2. Đây là tiểu vùng thưa dân nhất của huyện Đông Anh. Diện tích

đất nông nghiệp chiếm 27,1% tổng quỹ đất nông nghiệp toàn huyện. Bình quân đất nông nghiệp cho 1 hộ là 534 m2/ 1 hộ.

Tiểu vùng 3 phân bố chủ yếu trên đất phù sa được bồi, và ít được bồi của sông

Hồng, đất phù sa sông khác. Địa hình ngoài đê thoát nước, trong đê có một số chỗ trũng

thả cá.

Đây là vùng kinh tế thuần nông với các sản phẩm chính: sản xuất hoa màu, trồng

dâu, nuôi tằm, nuôi bò sữa và chăn thả bò thịt. Đây là khu vực có nguồn thức ăn dồi dào

cho gia súc. Kinh tế của tiểu vùng thuộc loại trung bình của huyện Đông Anh.

- Tiểu vùng miền Tây (gọi là tiểu vùng 4) có 7 đơn vị: Vân Nội, Tiêu Dược Nam Hồng, Bắc Hồng, Nguyên Khê, Kim Chung và Kim Nỗ. Mật độ dân số 1748 người/ km2.

Diện tích đất nông nghiệp chiếm 30,3% tổng quỹ đất toàn huyện. Đây là vùng bình quân đất nông nghiệp cho 1 hộ đứng thứ 2 trong huyện với 535 m2/ 1 hộ.

Tiểu vùng phân bố trên các loại đất như đất xám bạc màu và đất xám bị gley. Đất có

kết cấu nhẹ, thoát nước tốt. Đa số diện tích phân bố trên nền địa hình cao, không ngập

nước và dốc dần về phía Nam tiểu vùng.

Đặc điểm kinh tế của tiểu vùng đa dạng: sản xuất nông nghiệp, du lịch, thể thao.

Các sản phẩm nông nghiệp có ưu thế: sản xuất rau sạch, trồng hoa, cây ăn quả.

* Huyện Sóc Sơn: có 3 tiểu vùng

- Tiểu vùng ven sông (vùng thấp - gọi là tiểu vùng 1), có 4 đơn vị: Nam Sơn, Minh Trí, Bắc Sơn, Kinh Phú. Mật độ dân số 348 người/ 1km2, đây là tiểu vùng có mật độ dân

số thưa nhất huyện Sóc Sơn và thành phố Hà Nội. Diện tích đất nông nghiệp chiếm 20%

tổng quỹ đất nông nghiệp toàn huyện. Bình quân đất nông nghiệp cho 1 hộ của tiểu vùng cao nhất huyện với 703 m2/ 1 hộ.

Địa hình gò, đồi cao, thấp, chia cắt biến động mạnh, loại đất chính của tiểu vùng là

đất đỏ vàng trên đá phiến thạch sét và đất dốc tụ.

Đặc điểm kinh tế của tiểu vùng là sản xuất nông nghiệp trên đất gò đồi dốc. Thế

mạnh của tiểu vùng là trồng rừng, chè, cây ăn quả theo mô hình nông - lâm kết hợp. Vùng

có tỷ lệ vườn tạp cao, có thể bố trí trồng vải với quy mô tập trung tương đối lớn. Có thể

phát triển chăn nuôi bò, dê, ong, khai thác vật liệu xây dựng và phát triển ngành nghề.

Đây là tiểu vùng có thu nhập thấp nhất của huyện Sóc Sơn.

- Tiểu vùng giữa và đất bằng (gọi là tiểu vùng 2), có 10 đơn vị: Tâm Minh, Quang

Tiến, Tân Dân, Hiển Ninh, Phù Linh, Trung Giã, Mai Đình, Hồng Kỳ, Tiên Dược và Thị trấn Sóc Sơn. Mật độ dân số 889 người/ 1 km2. Diện tích đất nông nghiệp chiếm 37,9% tổng quỹ đất nông nghiệp toàn huyện, bình quân đất nông nghiệp cho 1 hộ là 565 m2/ 1 hộ.

Tiểu vùng được phân bố trên các loại đất như đất phù sa của sông Hồng, sông khác

có được bồi và không được bồi và đất phù sa có tầng loang lổ.

Đặc trưng về địa hình của tiểu vùng là có các khu vực đất bằng và các khu vực bậc

thang.

Đặc điểm kinh tế của vùng là có điều kiện đất đai tương đối tốt, cơ sở hạ tầng khá,

có điều kiện để thâm canh cây lương thực và cây hàng hoá như: đỗ, đậu, dưa chuột, rau

sạch… Có thể đẩy mạnh chăn nuôi lợn nạc, gà công nghiệp, bò sữa và chăn nuôi thuỷ đặc

sản. Tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ phát triển. Đây là tiểu vùng có thu nhập về kinh tế

cao nhất huyện Sóc Sơn.

Đặc điểm của vùng đất bậc thang thiếu nguồn nước tưới, tầng canh tác mỏng, bị rửa

trôi, nghèo dinh dưỡng, thích hợp với cây màu, cây công nghiệp chịu hạn và trồng cây ăn

quả các loại.

- Tiểu vùng ven sông và vùng thấp (gọi là tiểu vùng 3), có 12 đơn vị: Thanh Xuân,

Phù Lỗ, Xuân Giang, Kim Lũ, Phú Minh, Phú Cường, Đông Xuân, Việt Long, Đức Hoà, Tân Hợp, Xuân Thu và Bắc Phú. Mật độ dân số là 1164 người/ 1 km2. Diện tích đất nông

nghiệp cao nhất huyện chiếm 42,3% tổng quỹ đất nông nghiệp toàn huyện. Bình quân đất nông nghiệp cho 1 hộ là 572 m2/ 1 hộ.

Tiểu vùng phân bố trên các loại đất chính là đất phù sa được bồi, ít được bồi, và

không được bồi của các hệ thống sông và đất phù sa bị gley và úng ngập. Địa hình cao

thấp không đồng đều, nhiều diện tích thấp trũng.

Đặc điểm kinh tế của vùng thấp tập trung ven sông Cầu và hạ lưu sông Cà Lồ, có

cốt từ 3,5 - 5m. Có gần 1000 ha đất úng trũng (1 vụ) thường hay bị ngập úng ở cuối vụ

Xuân, đến giữa vụ mùa. Vùng này có thể áp dụng mô hình lúa + cá + vịt.

Đặc điểm kinh tế vùng bãi ven sông, thường bị ngập khoảng 1 tháng vào nước lũ

tiểu mãn đầu mùa và một phần vào giữa mùa lũ lớn. Thế mạnh của vùng là trồng màu:

ngô, đậu đỗ, dâu tằm, có thể bố trí ở khu vực đất cao trồng nhãn, hồng. Đây là tiểu vùng

không thể trồng cây ăn quả với quy mô lớn.

Kết luận

Kế thừa các nguồn tài liệu, thông tin đã có, bổ sung các thông tin tư liệu liên quan

đã chia vùng ngoại thành Hà nội thành 5 tiểu vùng sinh thái nông nghiệp. Mỗi tiểu vùng có

các đặc điểm đặc trưng và có các cây ăn quả chính:

- Tiểu vùng cao trên đất đỏ vàng: Bưởi các loại, vải thiều, nhãn, na dai, đu đủ.

- Tiểu vùng đất bạc màu: Bưởi các loại, vải thiều, nhãn, na dai, đu đủ.

- Tiểu vùng phù sa cổ: Cá các loại, bưởi các loại, nhãn, chuối.

- Tiểu vùng phù sa mới ven sông: Nhãn, táo, chuối, bưởi.

- Tiểu vùng úng trũng: Nhãn, hồng xiêm, bưởi.

Căn cứ vào các đặc điểm tự nhiên, kinh tế, xã hội của các xã trong từng huyện, 5

huyện ngoại thành được chia thành 18 tiểu vùng kinh tế - sinh thái làm căn cứ để định

hướng và bố trí phát triển sản xuất, phát triển trồng cây ăn quả cho các tiểu vùng sinh thái

trong từng huyện.

3.1.5. Các điều kiện về vật chất, kinh tế, kỹ thuật cho sản xuất nông nghiệp của Hà nội

3.1.5.1. Đặc điểm kinh tế bao trùm là trung tâm kinh tế, chính trị, khoa học kỹ thuật và văn

hoá của cả nước.

Theo phương án quy hoạch kinh tế, xã hội của Hà nội đến năm 2010, nhịp độ tăng

trưởng kinh tế bình quân hằng năm đạt 12 - 13% cho thời kỳ 1996 - 2000; 10 - 11% cho

thời kỳ 2001 - 2010. Với mức tăng trưởng đó, tổng giá trị GDP của kinh tế Thủ đô sẽ tăng

gấp 1,6 lần so với giai đoạn 1996 - 2000, tăng gấp 1,6 lần giai đoạn 2001 - 2005 và tăng

gấp 2,7 lần trong giai đoạn 2000 - 2010.

Bình quân GDP đầu người sẽ đạt vào các năm 2001, 2005, 2010 là 1000 - 1100

USD, 1570 - 1600 USD và 2300 USD/người/năm.

Sự tăng trưởng kinh tế nhanh như trên, là cơ sở và nền tảng quan trọng cho việc đầu

tư, phát triển kinh tế nông nghiệp, trong đó có sự phát triển hệ thống canh tác cây ăn quả

vùng đất ven sông Hồng.

Theo dự báo đến năm 2010 dân số sẽ là 3,3 triệu người, cùng với lượng khách vãng

lai có thể là 4 - 4,5 triệu người. Bình quân mức tiêu thụ quả năm 1999, qua điều tra là 55 -

65 kg/người/năm (trên 200.000 tấn/năm). Nhu cầu tiêu thụ quả có chất lượng cao cũng gia

tăng cùng với mức tiêu thụ quả. Đây là nhân tố tác động sâu sắc, là động lực chủ yếu cho

sự phát triển hệ thống canh tác vùng đất ven sông Hồng nói riêng và các huyện ngoại

thành nói chung.

3.1.5.2. Cho đến nay đã có các tiến bộ kỹ thuật và công nghệ mới được áp dụng vào sản

xuất nông nghiệp

Tuy chưa phải là công nghệ quá tiên tiến, quá hiện đại, song những gì mà chúng ta

có hiện nay, cho phép chúng ta tiến hành ngay việc đầu tư để nâng cao năng suất nông

nghiệp.

3.1.5.3. Những thuận lợi về cơ sở vật chất, kinh tế, kỹ thuật của Hà nội, chỉ có thể phát huy

có hiệu quả khi có đội ngũ lao động có tay nghề cao cùng với những cơ chế chính sách ưu

đãi thúc đẩy cho phát triển nông nghiệp

- Chính sách cho chuyển đổi cơ cấu sản xuất sang trồng cây ăn quả

- Chính sách khuyến khích người có vốn ở đô thị đầu tư về vùng nông thôn ngoại

thành.

- Chính sách vay vốn ưu đãi, vốn tín dụng.

- Chính sách đầu tư cho ứng dụng chuyển giao khoa học, kỹ thuật, đào tạo và công

tác khuyến nông.

Kết luận

Hà nội là trung tâm chính trị, văn hoá, khoa học kỹ thuật và là một trong những

trung tâm kinh tế của cả nước, có điều kiện thuận lợi cho phát triển hệ thống canh tác cây

ăn quả.

Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của Thủ đô cho phép phát triển nhiều loại cây ăn

quả có giá trị kinh tế cao, trong đó có các loại cây ăn quả đặc sản.

Hà nội nói chung và vùng đất ven sông Hồng nói riêng có lợi thế so với các vùng

khác về phát triển hệ thống canh tác cây ăn quả như thị trường tiêu thụ rộng lớn, có tiềm

lực khoa học, kỹ thuật mạnh…

Đây là nơi hội tụ đủ các yếu tố để có thể phát triển một nền nông nghiệp hàng hoá

theo hướng phát triển bền vững.

3.2. Mô tả, đánh giá hiệu quả kinh tế và môi trường của một số hệ thống canh tác

3.2.1. Hệ thống cây bưởi Diễn

3.2.1.1. Hiện trạng phân bố cây bưởi Diễn (Citrus Grandis Osbeck)

Cây bưởi là cây ăn quả có nguồn gốc từ vùng Đông Nam Châu á, thuộc họ cây có

múi (Rutaceae), được trồng ở địa bàn Hà nội từ lâu và hiện nay chúng chiếm 13,4% tổng

diện tích trồng cây ăn quả của thành phố. Đây được coi là cây ăn quả trồng có tính phổ

biến trên địa bàn các huyện ngoại thành. Có nhiều giống khác nhau như giống bưởi địa

phương (bưởi chua, ngọt…), giống bưởi trường Đại học Nông nghiệp, giống bưởi Diễn và

giống bưởi không hạt của Đài Loan mới nhập về (số lượng còn rất ít).

Kết quả điều tra khảo sát cho thấy, tổng diện tích trồng bưởi của toàn Thành phố

413,2 ha chiếm 13,4% cây ăn quả thành phố; trong đó diện tích trồng các loại bưởi khác

(bưởi địa phương, ĐHNN I, Đài Loan) chiếm 330,3 ha, tập trung ở Sóc Sơn, Đông Anh và

Gia Lâm. Giống bưởi Diễn chỉ chiếm 82,9 ha, tập trung ở huyện Từ Liêm và Đông Anh.

Về số lượng cây/hộ và cấp độ tuổi cây bưởi Diễn ở 2 xã Phú Diễn và Minh Khai như sau:

Bảng 3.2: Số lượng cây bưởi Diễn/hộ ở 2 xã Phú Diễn, Minh Khai - huyện Từ Liêm

Số lượng cây bưởi Diễn trung bình/hộ Trung Diện tích vườn (m2/hộ) bình Xã Vườn Vườn 10 - 15 - số < 5 5 - 10 > 20 15 20 cây/hộ tuổi tuổi tuổi nhà (m2) đồng (m2) tuổi tuổi

350 20 2,5 19.1 2,3 1,5 0,5 25,9 Phú Diễn

428 161 11,0 10,0 1,3 0,4 0,1 22,8 Minh Khai

389 90 6,75 14,55 1,80 0,95 0,3 24,35 Trung bình

Cây bưởi phân bố chủ yếu ở Sóc Sơn, Đông Anh và Từ Liêm và chủ yếu được

trồng ở vườn nhà của các hộ nông dân.

Năng suất quả/cây đạt trung bình 51,0 kg/cây và đạt cao ở Sóc Sơn, cây bưởi đạt

khoảng 11,9 tạ quả/ ha với mật độ khoảng 200 cây/ha. Số liệu thống kê về năng suất cho

thấy 4 huyện phía Nam của Hà nội, do sử dụng các giống mới cho năng suất trung bình, ở

Sóc Sơn do vẫn sử dụng các giống địa phương lâu năm do đó năng suất cao hơn. Kết quả

thống kê cho thấy, năng suất khá ổn định ở các vùng trồng khác nhau, không có sự chênh

lệch lớn giữa các vùng, cho thấy cây bưởi có tính thích ứng rộng, yêu cầu không khắt khe

về điều kiện trồng trọt, chăm sóc.

Số lượng quả/cây đạt trung bình là 50 - 60 quả, ở những cây có chất lượng tốt, những cây

đầu dòng, số lượng quả có thể đạt từ 130 - 150 quả/cây, năng suất đạt từ 16 - 20 tấn/ha.

Sản lượng quả bưởi, dự tính toàn thành phố đạt 2700 - 3000 tấn/năm và số lượng

này tập trung chủ yếu ở Sóc Sơn, Đông Anh và Từ Liêm.

3.2.1.2. Đặc điểm về giống, sinh trưởng, phát triển của cây bưởi Diễn

Giống bưởi Diễn sinh trưởng và phát triển tốt trên đất Từ Liêm và so với Cam Canh

thì chúng không những sinh trưởng, phát triển tốt, ra quả ổn định mà còn rất ít bị sâu bệnh

tàn phá. Đây cũng là nguyên nhân mà các chủ hộ thường lựa chọn cây bưởi để trồng ở vườn

nhà trong điều kiện đầu tư thâm canh chưa cao.

- Các thời kỳ sinh trưởng của cây bưởi Diễn

Điều tra, khảo sát ở 2 xã Phú Diễn, Minh Khai và vườn quả Công ty du lịch Từ

Liêm về các thời kỳ sinh trưởng, phát dục của các dạng hình bưởi Diễn. Qua kết quả khảo

sát cho thấy, các dạng hình của bưởi Diễn có các thời kỳ sinh trưởng không sai khác nhau

nhiều và biến động từ 3 - 5 ngày với các chỉ tiêu ra lộc cành cũng như ổn định cành, nhất

là đối với thời gian ra hoa và tàn hoa. Đặc điểm của giống bưởi Diễn cũng như các giống

bưởi khác chúng rất mẫn cảm với nhiệt độ của môi trường. Về mức độ sinh trưởng đánh

giá theo cảm quan quan sát thế sinh trưởng, độ vươn dài của cành…đây là đặc tính của các

giống bưởi Diễn hiện đang trồng.

Thời gian thu hoạch quả biến động tuỳ thuộc vào các chủ vườn, ta thấy rằng dạng 3

thường có thời gian chín sớm hơn 2 dạng hình còn lại. Cả 3 dạng hình đều có khả năng để

quả trên cây kém, nhất là vào các năm rét đậm. Bưởi Diễn thuộc nhóm bưởi nhiệt đới

(Pumelo), khả năng chịu lạnh kém, tuy nhiên dạng 1 và dạng 2 có sức chịu đựng tốt hơn

dạng 3. Để khắc phục sự rụng quả, người chủ vườn thường thu hoạch sớm để giữ cuống

quả, bảo quản 1 - 2 tuần mới bán ra thị trường vào dịp tết Nguyên Đán (xem phụ lục 1).

- Các đặc điểm sinh học chủ yếu của bưởi Diễn:

Chúng tôi đã tiến hành điều tra khảo sát tại 250 hộ gia đình trồng bưởi ở 2 xã Phú Diễn và

Minh Khai cùng với sự quan sát đo đếm tại vườn quả Công ty vườn quả du lịch Từ Liêm

về các đặc điểm ra lộc cành, ra hoa, màu sắc, kích thước lá, tán cây, số đợt ra lộc…

Từ những đặc điểm sinh vật học của các dạng bưởi Diễn cho thấy cả 3 dạng đều có

kích thước tán cây trung bình đến nhỏ, vì vậy trong thâm canh có thể trồng với mật độ dày.

Dạng 1 ra cành ngắn, đốt xít nhau nên cần phải cắt tỉa để thông thoáng bộ lá tránh rệp phá

hoại.

Cả 3 dạng đều cho ra dạng cành hoa đơn có lá là chủ yếu chiếm 66,6% tổng số cành

hoa, sau đó đến cành chùm có lá. Đây chính là điều kiện để khả năng đậu quả cao ở 2

giống này. Các giống này chịu các điều kiện bất lợi ở mức trung bình khá (xem phụ lục 2).

- Các đặc tính kinh tế của bưởi Diễn

Bưởi Diễn có đặc tính kinh tế ưu việt hơn các cây trồng khác, do đó các hộ nông dân lựa

chọn trồng bưởi nhiều hơn trong cơ cấu cây trồng trong vườn nhà mình.

Kết quả cho thấy trung bình ở cây bưởi Diễn độ tuổi 10 năm đạt 55 - 56 quả trên

cây và số lượng quả này có biến động theo các dạng hình của giống. Giống dạng 1 có số

quả nhiều và dạng 3 có số quả ít hơn. So sánh giữa 2 nơi trồng, xã Minh Khai giống bưởi

Diễn có số quả trung bình trên cây cao hơn so với Phú Diễn.

Về thành phần cơ giới của quả: các dạng hình bưởi Diễn khác nhau không nhiều và

đạt số múi, số hạt cũng như tỷ lệ phần ăn được tương đương với nhau. Trung bình của 3

dạng hình tương ứng là 13, 48, và 60,7%.

Kết quả điều tra được xử lý cho thấy, ở thời kỳ kiến thiết cơ bản giống bưởi Diễn

đạt được kích thước trung bình khá, đạt chiều cao cây 1,33m, đường kính tán 1,17m, với

số cấp cành 3,3 cấp. Trong năm trung bình có 3 đợt lộc cành mới ra. So sánh giữa các

huyện cho thấy Từ Liêm, Gia Lâm, Đông Anh, Sóc Sơn, bưởi Diễn sinh trưởng trong thời

kỳ KTCB khá hơn so với ở Thanh Trì. ở Sóc Sơn và Đông Anh số lần ra lộc trong năm có

thấp hơn so với các huyện còn lại.

ở thời kỳ kinh doanh, giống bưởi Diễn đạt được chiều cao 3 - 4m, đường kính tán từ

3,5 - 4,0m với 5 - 7 cấp cành và ra được 3 đợt lộc cành mới trong năm. Về các chỉ tiêu

hình thái cho thấy, trồng bưởi Diễn ở Thanh Trì, Từ Liêm, Gia Lâm cây sinh trưởng tán

cây rộng hơn so với trồng ở Sóc Sơn và Đông Anh. Giống bưởi Diễn trồng ở các huyện

ngoại thành Hà nội ở các thời kỳ sau không thay đổi nhiều, song số lượng quả và các chỉ

tiêu về năng suất, chất lượng quả có khác nhau và sai khác so với nguyên canh của bưởi

Diễn là Từ Liêm. Số quả/cây đạt cao ở Từ Liêm, sau đó là Thanh Trì, Đông Anh, Sóc Sơn

và cuối cùng là Gia Lâm. Trọng lượng quả bưởi Diễn trồng ở các huyện khác đều có trọng

lượng lớn hơn so với trồng ở Từ Liêm, màu sắc tép vẫn giữ được màu vàng nhưng cũng có

thay đổi (như ở Gia Lâm) và hương vị có hơi chua (như ở Sóc Sơn, Thanh Trì).

So sánh với vùng trồng nguyên canh tại Từ Liêm cho thấy giống bưởi Diễn đạt

được sức sinh trưởng ở vùng trồng khác nhau không thua kém nhiều. Cây ở thời kỳ kinh

doanh đạt được những chỉ tiêu sinh trưởng tương tự với vùng Từ Liêm, song ở những thời

kỳ vật hậu như nở hoa, chín quả sớm hơn và số quả đạt được cũng thấp hơn, nhất là trồng

ở Gia Lâm chỉ đạt 35 quả/cây. Điều tra cho thấy quả có trọng lượng lớn hơn, hương vị và

màu sắc có thay đổi so với vùng nguyên canh (xem phụ lục 3).

- Giống và cây con giống bưởi Diễn:

Bưởi Diễn, theo kết quả điều tra ở hộ, các chủ vườn đều cho thấy rằng có nguồn

gốc từ giống bưởi Đoan Hùng di thực về trồng hàng thế kỷ ở vùng này. Đây là giống được

trồng từ lâu đời và đã được chọn lọc để hình thành các đặc tính tốt như mã quả đẹp, lớn

vừa phải, vỏ trung bình, thịt quả nhiều nước, ăn dòn và chín muộn vào dịp tết Nguyên Đán

cổ truyền. Đây là những đặc tính tốt không phải giống bưởi nào cũng có, cần bảo tồn quỹ

gen và phát triển vốn gen quý này cho các vùng lân cận. Qua khảo sát chúng tôi thấy có 3

dạng hình tồn tại ở vùng trồng bưởi Diễn:

+ Dạng hình 1: Cây thấp, tán hình mâm xôi, lá nhỏ, đa số đầu lá chia thuỳ, cành ra ngắn,

đốt ngắn nên phân bố lá khá dày như là chùm lá. Quả hình cầu với đỉnh quả hơi mở rộng,

đạt trọng lượng khoảng 0,5 - 0,8 kg. Vỏ chính màu vàng đẹp, thịt quả từ màu xanh vàng

đến màu vàng nhạt, tép quả hơi nát. Cây sinh trưởng vào loại trung bình yếu, rất dễ bị

nhiễm rệp phá hoại, do đó năng suất và chất lượng kém hơn, ít được ưa chuộng.

+ Dạng hình 2: Cây đạt chiều cao trung bình, tán hình mâm xôi nhọn, lá trung bình, phiến

lá hơi cong lòng máng, đầu lá đa số chia thuỳ, bằng ở đầu lá, cành trung bình, đốt cành dài

1,1 - 1,2cm. Quả hình lê hơi tròn, mã đẹp vàng sáng, đạt trọng lượng từ 0,8 - 1,3 kg. Thịt

quả màu vàng đến vàng đậm, nước vừa phải, không dính tay, tép quả dòn, ăn ngọt đậm.

Cây sinh trưởng vào loại trung bình đến khá, bộ tán lá thoáng có khả năng cho năng suất

khá. Đây là dạng hình được trồng khá phổ biến và được nhiều người ưa thích.

+ Dạng hình 3: Cây có chiều cao khá cao (4 - 5 m), tán cây rộng hình tháp trụ. Lá to, eo lá

nhỏ tương đối so với phiến lá, đa số lá có đỉnh lá nhọn, không chia thuỳ. Cành dài, đốt

cành đạt 1,3 - 1,4 cm, phân bố lá tương đối đều. Quả hình lê, trọng lượng lớn, đạt 1,3 - 1,5

kg, màu vỏ vàng sáng, dẹp, vỏ quả dày. Thịt quả có màu trắng đến trắng vàng, ít nước,

vách múi khá dòn có vị hơi chua. Năng suất cao nhưng chất lượng quả không phù hợp với

thị trường người tiêu dùng, do vậy không được ưa chuộng.

Đặc điểm hình thái chủ yếu đặc trưng của 3 dạng hình (xem phụ lục 4)

Về giống: Hiện tại ở Phú Diễn và Minh Khai cây chiết được sử dụng khá phổ biến. Tại các

vùng trồng ở các huyện khác khi được điều tra các hộ đều trả lời sử dụng cây ghép là chủ

yếu. Vấn đề đặt ra cho các nhà khoa học là sử dụng phương thức nhân giống nào cho cây

bưởi Diễn. Do thời gian và kinh phí có hạn chúng tôi chưa có được kết quả phân tích hoá

sinh của quả ở trên các cây với phương thức nhân giống khác nhau (chiết cành và ghép) để

đánh giá chất lượng quả và chất lượng cây.

Kết quả điều tra cho thấy cây ghép ở tuổi nhỏ sinh trưởng khá khoẻ, những năm đầu mang

quả khá to, vỏ quả dày hơn. Nhiều hộ ở Phú Diễn, Minh Khai đều cho rằng cây ghép quả

không ngon như cây chiết.

Khi quan sát gốc ghép cho bưởi Diễn ở 4 loại: Bưởi đắng Thanh Hoá, bưởi chua

Phú Thọ, bưởi chua đồng bằng và chanh ơrêka. Kết quả bước đầu cho thấy, nếu ghép cây

thì nên dùng bưởi đắng Thanh Hoá.

3.2.1.3. Tình hình chăm sóc, bón phân cho cây bưởi Diễn

Điều tra tình hình chăm sóc và bón phân cho cây bưởi Diễn tại các vườn hộ gia đình

cho thấy giữa các huyện mức độ bón phân khác nhau. Những nơi như Thanh Trì, Từ Liêm

đất vườn hẹp, do đó số lượng phân bón và khả năng chăm sóc hơn so với các hộ ở huyện

Sóc Sơn, Đông Anh, Gia Lâm. Theo thống kê, lượng phân bón trung bình của thành phố

đạt mức khá về phân chuồng, phân hữu cơ; phân hoá học đạt mức độ khá cao, các hộ có sử

dụng phân kali để bón cho cây. Tuy nhiên việc bón phân không đồng đều, có hộ bón phân

đầy đủ, có hộ chỉ bón 1 - 2 loại.

Kết quả điều tra ở 2 xã Phú Diễn và Minh Khai cho thấy lượng phân bón trung bình

cho 1 cây như sau:

- Phân hữu cơ: 21 – 24 kg

- Phân Urê: 1 - 1,2 kg

- Phân lân Supe: 1 - 1,2 kg

- Phân kali sunfat: 1 - 1,2 kg

Từ số liệu điều tra cho thấy, ở những nơi trồng lớn như Sóc Sơn, Gia Lâm, Đông

Anh mức độ đầu tư phân bón cho cây thấp, bằng 50% mức trung bình thống kê toàn thành

phố. Huyện Từ Liêm, các hộ nông dân bón phân cho bưởi là đầy đủ và phổ biến nhất, có

70 - 90% số hộ áp dụng bón phân cho cây với số đợt bón, lượng bón nhiều hơn so với 4

huyện còn lại.

Về chăm sóc, qua điều tra một số thao tác kỹ thuật chủ yếu cho thấy kỹ thuật chăm

sóc xới xáo cho cây, tưới nước cho cây, phun thuốc bảo vệ thực vật, tỉa cành, quét vôi gốc

lá được áp dụng nhiều với trên 50% số hộ điều tra. Những biện pháp tỉa hoa, tỉa quả, sử

dụng các chế phẩm sinh học mới chỉ áp dụng ở số ít các hộ (15 - 28,8%) số hộ. Khi hỏi về

khó khăn trong kỹ thuật trồng bưởi, có 27,3% số hộ trả lời là khó khăn, mà khó khăn lớn

nhất là bảo vệ thực vật (như: rệp, nhện, sâu bò vẽ, bệnh greening). Trong 5 huyện điều tra,

các hộ ở huyện Từ Liêm tiến hành các biện pháp chăm sóc là phổ biến và đồng bộ hơn so

với các huyện còn lại

3.2.1.4. Chất lượng sản phẩm cây bưởi Diễn

Bưởi Diễn so sánh với bưởi cùng loại có ưu thế không chỉ thời gian chín mà cả

phẩm chất sinh hoá và thành phần cơ giới quả. Quả bưởi Diễn mặc dù khối lượng quả

nhiều hơn, ưu thế hơn về tỷ lệ phần ăn được, số hạt trong quả ít và múi quả đều hơn. Về

mặt hoá sinh, bưởi Diễn có hàm lượng vitamin C và axit hữu cơ thấp hơn bưởi Pumelo,

các thành phần khác không kém nhiều mà do đó tỷ lệ đường/axit vượt trội nhiều lần làm

cho hương vị đặc thù của quả bưởi Diễn.

Khi so sánh phẩm chất quả bưởi Diễn trồng ở địa điểm khác nhau cho thấy các địa

điểm trồng khác nhau không ảnh hưởng nhiều đến chất lượng quả cả về thành phần cơ giới

lẫn thành phần sinh hoá. Bưởi Diễn là cây trồng có tính thích ứng rộng, khoẻ và ổn định,

không yêu cầu khắt khe về điều kiện trồng trọt như cây trong họ có múi cùng loại như cam

Canh (xem phụ lục 8).

3.2.1.5. Hiệu quả kinh tế và hiệu quả môi trường của cây bưởi Diễn

- Hiệu quả kinh tế: Bưởi Diễn là loại cây trồng có sản phẩm chất lượng cao, dễ bảo

quản (bảo quản theo kỹ thuật dân gian cũng được 1 - 2 tháng sau thu hoạch) để có thể chủ

động cung ứng sản phẩm cho thị trường vào thời điểm thích hợp, có lợi cho người sản xuất,

hiệu quả sản xuất kinh doanh cao. Kết quả tính toán đầu tư và hiệu quả kinh tế được trình bày

chi tiết ở bảng sau (xem phụ lục 9).

- Hiệu quả môi trường: Bưởi Diễn là loại cây có tán cao, xanh quanh năm, vào mùa

đông khi hầu hết các loại cây ăn quả đã qua chu kỳ thu hoạch thì bưởi Diễn vẫn mang quả

trên tán cây, đây là một lợi thế để khai thác kinh doanh du lịch cảnh quan - sinh thái.

Là loại cây có phổ thích nghi rộng, dễ chiết ghép với nhiều loại cây khác trong

vườn góp phần cải tạo vườn tạp, giữ gìn cảnh quan môi trường.

3.2.2. Hệ thống cây Cam Canh

3.2.2.1. Hiện trạng phân bố cây Cam Canh

Cây cam Canh, mặc dù tên gọi là Cam, nhưng được xếp vào nhóm quýt bởi lá có eo

lá rất nhỏ, tử diệp có màu xanh, hạt tròn, vỏ quả dễ tách và là cây ưa điều kiện ẩm, chịu

lạnh không cao. Có nhiều giống khác nhau được trồng ở Việt Nam, song những giống quýt

chín muộn không nhiều và phần lớn là các giống đã được chọn lọc lâu đời, hình thành

những giống nổi tiếng như Cam Canh. Do chín muộn, quả có hương vị thơm ngon, các hộ

nông dân đều muốn trồng loại cây này. Cùng với Cam Canh, trên địa bàn còn trồng các

giống quýt Tích Giang, quýt Bố Hạ, cam bù Hương Sơn…

Kết quả điều tra cho thấy, Hà nội hiện có 82,5ha trồng Cam Canh với 34,2 ha ở thời

kỳ kiến thiết cơ bản chiếm 41,5% và 48,3 ha ở thời kỳ kinh doanh chiếm 58,5% tổng diện

tích. Số diện tích trồng phân bố ở Từ Liêm (29,6 ha), Đông Anh (20,3 ha) và Sóc Sơn

(12,9 ha), Gia Lâm (10,6 ha), thấp nhất ở Thanh Trì chỉ có 1,7 ha và ở 3 quận là 7,4 ha.

Trong cơ cấu diện tích cây ở độ tuổi kinh doanh, độ tuổi KD2 là chiếm tỷ trọng cao, độ

tuổi KD3 chỉ có 10,5ha. Diện tích ở độ tuổi kinh doanh tập trung ở Từ Liêm và Đông Anh.

Có thể xem xét số lượng cây/hộ và phân cấp tuổi cây của cam Canh ở 2 xã Phú Diễn và Minh

Khai như sau:

Bảng 3.3: Số lượng cây cam Canh trung bình

của một hộ ở 2 xã Phú Diễn, Minh Khai

Số lượng cây cam Canh trung bình/hộ Trung Diện tích vườn (m2/hộ) bình Xã Vườn Vườn 10 - 15 - số < 5 5 - 10 > 20 15 20 cây/hộ tuổi tuổi tuổi đồng (m2) tuổi tuổi nhà (m2)

20 - 0,5 - - - 0,5 350 Phú Diễn

161 13,5 5,2 0,5 0,3 0,03 19,53 428 Minh Khai

90 6,75 2,85 0,25 0,15 0,01 10,0 389 Trung bình

Trung bình của 2 xã cho thấy, cây cam Canh ở độ tuổi dưới 5 tuổi đạt 6,75 cây/hộ

chiếm 67,5% số cây cam trồng ở một hộ, các cây ở độ tuổi 5 - 10 tuổi là 2,85% cây/hộ.

Về năng suất, trung bình toàn thành phố đạt 111,3 tạ/ha, huyện Đông Anh và Từ

Liêm là 2 huyện có năng suất cao hơn các huyện còn lại.

Số quả bình quân/cây đạt từ: 170 - 180 quả, ở những cây tốt (cây đầu dòng), số quả

trên cây có thể đạt từ 220 - 280 quả/ cây, cá biệt có cây đạt 500 quả/cây.

Về phân bố diện tích trên toàn thành phố, Từ Liêm và Đông Anh là 2 vùng Cam của thành

phố. Xét trên địa bàn ở một số huyện thì cam Canh phân bố ở các xã có địa hình cao trung

bình như Mai Đình, Tiên Dược (Sóc Sơn), Trâu Quỳ, Dương Xá… trên những chân đất

vàn đến hơi cao nơi mà đảm bảo tầng dày lớp đất cũng như chế độ nước cho cây.

3.2.2.2. Đặc điểm về giống, sinh trưởng, phát triển của cây Cam Canh

- Đặc điểm sinh trưởng của cam Canh

Kết quả khảo sát và điều tra tại các thực địa ở các vườn trồng về khả năng sinh

trưởng của Cam Canh cho thấy cam Canh có thời kỳ mang quả rất dài bắt đầu từ khi ra hoa

đến thu hoạch quả và kéo dài đến tháng 11. Vì vậy mà các đợt lộc mới ra có ảnh hưởng rất

lớn đến quá trình làm quả. Giống cam đường đợt lộc hè ra ít hơn so với giống cam mật. Cả

2 dạng đều có lứa lộc xuân và lộc thu ra khá nhiều, đợt lộc đông ít.

So sánh về mức độ sinh trưởng cũng cho thấy, dạng cam mật có sức sinh trưởng

khoẻ hơn, sau thu hoạch quả, lá rụng ít hơn so với dạng cam đường. Vì tỷ lệ đậu quả, số

quả/cây ở dạng cam đường lớn, cây đã phải dồn vào nuôi quả, các cành ra lại ngắn, tập

trung ở đầu cành mẹ nên các lá ít có điều kiện ánh sáng tốt, dễ bị rụng. Điều này cho thấy

rằng trong thực tế các cây dạng cam đường thường cho quả ít ổn định và hiện tượng cây

đuối sức, xuống sức sau vụ quả nhiều (xem phụ lục 5).

- Một số đặc điểm sinh học chủ yếu của Cam Canh

Cả 2 dạng của cam Canh đều có cành hoa đơn lá chiếm tỷ trọng cao trong tổng số

cành hoa ra ở vụ Xuân, chiếm từ 65 - 75%, sau đó là cành đơn không có lá và cành chùm ít

lá. Loại cành hoa mỗi nách lá một hoa ở 2 dạng này thấp đạt 5%. Lộc xuân so với lộc thu

thường có độ dài ngắn hơn so với dạng cam mật, điều đó dẫn đến kích thước đường kính

tán cũng nhỏ hơn. ở cây 10 - 15 tuổi kích thước đường kính tán cây của 2 dạng này đạt

trung bình 3,1m; chu vi thân cách gốc 20cm đạt 29,5 cm và trên cây quan sát được 3 - 4

đợt lộc ra trong năm. ở cả 2 dạng đều quan sát thấy sâu bò vẽ, nhện và sẹo phá hoại (xem

phụ lục 6).

- Các đặc tính kinh tế của Cam Canh

Thông qua điều tra ở 250 hộ gia đình có trồng Cam Canh ở xã Phú Diễn và Minh

Khai cho thấy:

Bảng 3.4: Các yếu tố cấu thành năng suất và

năng suất của Cam Canh

D2: cam D3: cam Các thời kỳ sinh trưởng Trung bình đường mật

1. Số quả trung bình trên cây (quả/cây) 160,0 141,5 150,7

- Xã Phú Diễn 150,0 130,0 140,0

- Xã Minh Khai 170,0 153,0 161,5

2. Trọng lượng trung bình của quả (gr) 140,0 155,0 147,5

3. Năng suất quả/cây (kg/cây)-ước tính 22,4 21,9 22,1

4. Số múi/quả (múi) 11,0 10,5 10,7

5. Số hạt/quả (hạt) 6,0 7,1 6,5

6. Tỷ lệ phần ăn được (%) 85,0 75,4 80,2

Kém Khá 7. Khả năng cất giữ, bảo quản quả qua Trung bình

điều tra

Tại 2 nơi trồng khác nhau, số quả/cây cũng khác nhau và trồng ở Minh Khai cây có

nhiều quả hơn. Giống cam đường có số quả/cây cao hơn cam mật nhưng không nhiều, 150

cây/quả. Trọng lượng quả và năng suất giữa 2 dạng chênh lệch không nhiều. Tuy nhiên về

thành phần cơ giới của quả cho thấy dạng cam mật tuy có to hơn, song số hạt nhiều, vỏ dầy

nên tỷ lệ phần ăn chỉ chiếm 75,4% trọng lượng quả, thấp hơn so với giống cam đường.

Theo kết quả điều tra phỏng vấn các chủ hộ trồng cam đều cho rằng, cam mật để được lâu

hơn so với cam đường sau khi thu hái từ 5 - 7 ngày. Đối với cam đường khi thu hái cần

bán ngay, để lâu sẽ giảm cân, trong khi đó cam mật có thể kéo dài hơn.

Qua thực tế điều tra và khảo sát chúng tôi thấy, ở thời kỳ KTCB cây cam Canh có

sức sinh trưởng trung bình, ở Sóc Sơn yếu hơn so với các huyện khác do hạn hán.

Trong thời kỳ kinh doanh, cây cam Canh đạt độ cao trung bình là 2,1m, đường kính

tán 2,1m, chu vi thân 19,1 cm và 4,6 cấp cành. ở thời kỳ này cây cam Canh đã đạt các chỉ

tiêu sinh trưởng khá nhất. Các thời kỳ vật hậu của giống không sai khác nhau nhiều giữa

các huyện, Gia Lâm, Đông Anh Cam Canh có ra hoa sớm hơn một chút (số liệu điều tra từ

hộ nông dân trồng cam).

Năng suất và các yếu tố cấu thành năng suất của cam Canh biến động lớn ở các

vùng khác nhau. Năng suất ở Từ Liêm đạt cao nhất, sau đó đến Đông Anh, Thanh Trì.

Trung bình toàn thành phố đạt 176,6 quả/cây và trọng lượng quả trung bình 125gr. Về

phẩm chất sinh hoá chưa có kết quả phân tích, theo các chủ hộ cho biết chúng đều giữ

được màu đỏ, ngọt mát nhưng lại có xơ bã nhiều khi trồng ở Sóc Sơn, Đông Anh, Gia

Lâm.

- Giống và cây giống Cam Canh:

Những khảo sát về giống được tiến hành chủ yếu ở Từ Liêm tại 2 xã Phú Diễn và

Minh Khai. Hiện tại ở Từ Liêm đang trồng 3 dạng hình là: cam ngọt mật, cam ngọt đường

và cam chua. Kết quả khảo sát, điều tra cho thấy giống cam Canh được trồng có thể được

chia làm 3 dạng hình như sau:

+ Dạng 1: Tên gọi địa phương "cam chua" có đặc điểm sinh trưởng khoẻ, tán cây có dạng

hình mâm xôi, lá xanh đậm đến xanh, phản quang, đỉnh lá nhọn và dài, mép lá phẳng. Lá

có độ lớn trung bình, hình thuôn dài. Quả to, khi chín có màu vàng đỏ với các vệt nổi rõ.

Phẩm vị quả chua đến rất chua. Hiện nay giống này còn rất ít.

+ Dạng 2: Tên gọi địa phương "cam đường" có đặc điểm sinh trưởng trung bình đến yếu,

lá nhỏ đốt cành ngắn và nhiều cành trên cành mẹ. Lá thuôn tròn, đầu lá hơi tù, mép lá

phẳng hơi có răng cưa. Quả trung bình, khi chín có màu đỏ hơi thẫm. Phẩm vị ngọt, mát

thơm, vỏ quả rất mỏng. Tỷ lệ đậu quả rất lớn do vậy năng suất cao. Quả không đều và nhỏ

khi để quả quá nhiều trên cây. Tán cây dạng hình dù.

+ Dạng 3: Tên gọi địa phương "cam mật", cây sinh trưởng khá, đốt cành dài, tán cây có

dạng hình cầu hoặc hình dù rộng. Do cành dài nên tán rộng thưa. Lá to trung bình, đầu lá

nhọn nhưng ngắn hơn giống cam chua. Quả trung bình khi chín có màu đỏ sẫm, vỏ quả

dày. Phẩm vị ngọt đậm, thơm và có thể để trên cây lâu hơn 2 giống trên. Đây là giống có

khả năng cho năng suất khá, song không nhiều quả như giống cam đường.

Kết quả điều tra cho thấy (xem phụ lục 7): giống cam mật (dạng hình 3) có kích

thước tán cây lớn hơn, quả to hơn và có mầu xanh đậm, lóng cành dài, quả có màu vàng,

vỏ dày do đó tỷ lệ phần ăn được thấp hơn dạng 2 (cam đường). Các hộ điều tra cho rằng

chất lượng quả giống này ăn đậm hơn, màu tép quả cũng như vỏ quả đậm hơn. Dạng cam

đường được trồng phổ biến hơn so với dạng 1 với đặc điểm tán cây nhỏ hơn, lá có màu

xanh vàng, số lượng quả nhiều nhưng quả nhỏ, vỏ mỏng và có vị ngọt mát. Màu sắc tép

quả và vỏ quả có màu đỏ đẹp.

Về cây giống: các hộ nông dân Từ Liêm thường sử dụng phương thức chiết cành,

theo họ khi ghép, phẩm chất quả không còn như xưa nữa. Tuy nhiên ở các huyện khác cam

Canh chủ yếu là cây ghép trên gốc bưởi (C.grands) và cũng quan sát thấy hiện tượng chân

voi.

Thời vụ chiết từ tháng 9 đến tháng 12, và từ tháng 2 đến tháng 5 năm sau, đa số các

hộ thích triết cành ở vụ thứ nhất. Độ lớn cành chiết dao động từ 1,0 - 2,5cm về đường

kính. Vật liệu chiết: Đất + phân hoặc rễ bèo v.v…Sau 20 - 25 ngày cành chiết đã ra rễ, sau

2 - 2,5 tháng là cắt cành khỏi cây đem đi trồng.

3.2.2.3. Tình hình chăm sóc, bón phân cho cây Cam Canh

Kết quả điều tra cho thấy, trung bình toàn thành phố, lượng phân bón một năm cho

cam Canh: phân hữu cơ 17,2 kg/cây, có 73,9% số hộ áp dụng; phân hỗn hợp NPK là 2,8 kg

với 33,1% số hộ áp dụng; phân Ure 0,7 kg, có 40,7% số hộ áp dụng. So với yêu cầu của

cam Canh là cây đòi hỏi thâm canh cao và so với vùng trồng có kinh nghiệm ở xã Phú

Diễn, Minh Khai huyện Từ Liêm thì lượng bón này còn thấp và đạt 1/2 hoặc 2/3 lượng bón

cho cây 1 năm. Số liệu điều tra cũng cho thấy, các hộ mới chỉ chú ý bón phân chuồng và

phân lân, các phân bón dinh dưỡng khác mới chỉ có khoảng 30 - 40% số hộ áp dụng.

Tình hình phân bón ở từng huyện cho thấy, huyện Từ Liêm có lượng phân bón khá

cao và đầy đủ các dạng phân dinh dưỡng, các huyện còn lại đều bón ở mức thấp, ngay cả

phân hữu cơ (chưa đạt 20kg/cây). Huyện Sóc Sơn và Gia Lâm các hộ nông dân chưa sử

dụng phân kali để bón cho cây. Số đợt bón phân trong năm đạt ở mức 3 lần trong toàn

thành phố. ở Từ Liêm các hộ đã chia phân bón làm 6 đợt trong năm, thích hợp với việc

thâm canh cam Canh vì cây đòi hỏi dinh dưỡng trong một thời gian dài mang quả.

Về chăm sóc: các biện pháp làm khá phổ biến ở các hộ của các vùng là xới xáo gốc,

tưới nước, phun thuốc bảo vệ thực vật. Các biện pháp chăm sóc khác như tỉa hoa, quả chỉ

có ở các hộ nông dân ở Từ Liêm chiếm đến 81,8%.

Có đến 53% số hộ được hỏi có khó khăn về kỹ thuật trồng trọt và chăm sóc ngay cả

các hộ ở Từ Liêm, nơi đã có kinh nghiệm trồng cam. Các khó khăn chủ yếu là sâu bệnh và

rụng quả, đặc biệt bệnh greening đã xuất hiện và hại vườn cây ở vùng cam đặc sản của Từ

Liêm.

Thời vụ trồng cam Canh ở Hà nội chủ yếu vào vụ xuân, ở Sóc Sơn, Đông Anh

người dân trồng cả vào vụ thu.

3.2.2.4. Chất lượng sản phẩm cây cam Canh

Kết quả phân tích, đánh giá quả cam Canh Hà nội và các quả cùng loại ở các vùng

khác cho thấy, cam Canh Hà nội nhìn chung có ưu thế hơn so với quýt đường Lạng Sơn về

cả thành phần hoá sinh cũng như thành phần cơ giới của quả. Cam Canh có tỷ lệ ăn được

cao hơn, hạt ít hơn và khối lượng quả lớn hơn so với quýt đường Lạng Sơn. Về thành phần

hoá sinh, Cam Canh không thua kém gì lượng chất khô, đường tổng số, song hàm lượng

axit hữu cơ và vitamin C thấp hơn, do đó khi ăn có vị ngọt hơn và tạo nên hương vị ngọt

mát của cam Canh.

Về phẩm chất quả cam Canh trồng ở các vùng khác nhau của Hà nội, do điều kiện

thời gian, các kết quả phân tích ở nơi trồng Đông Anh, Sóc Sơn chưa có, kết quả phân tích

ở khu vực Từ Liêm cho thấy ở 2 nơi trồng là xã Minh Khai (nhà bác Nguyễn Văn Tiến) và

vườn quả Công ty du lịch Từ Liêm chất lượng quả cũng có sự khác nhau về hàm lượng

chất khô, đường tổng số cũng như khối lượng vỏ và tỷ lệ phần ăn được. Chất lượng quả

cam Canh phụ thuộc lớn vào điều kiện trồng trọt như đất đai, khả năng chăm bón…(xem

phụ lục 8).

3.2.2.5. Hiệu quả kinh tế và hiệu quả môi trường cây cam Canh

- Hiệu quả kinh tế: Cam Canh là cây ăn quả đặc sản không chỉ của Hà nội mà còn

nổi tiếng trong cả nước. So với nhiều loại cây ăn quả khác cam Canh có mức thu nhập và

thu nhập thuần lớn nhưng năng suất kém ổn định bởi rất mẫn cảm với các điều kiện môi

trường. Phát triển sản xuất cây cam Canh kết hợp với các loại cây ăn quả khác sẽ tăng hiệu

quả sản xuất trên 1 đơn vị diện tích vườn cây, tăng thu nhập cho hộ, tạo thêm công ăn việc

làm cho người lao động. Qua kết quả điều tra cho thấy 1ha cây Cam Canh bà con có tổng

thu khoảng 170 triệu đồng/năm, thu nhập khoảng 163,5 triệu đồng/năm, thu nhập thuần là

158,8 triệu đồng/năm (xem phụ lục 9).

- Hiệu quả môi trường: Mô hình trồng cam Canh thích hợp góp phần cải tạo môi

trường sinh thái theo hướng có lợi, phát triển kinh tế trang trại vườn sinh thái du lịch.

3.2.3. Hệ thống cây Hồng xiêm Xuân Đỉnh

3.2.3.1. Hiện trạng phân bố cây Hồng xiêm Xuân Đỉnh (Achras Sapota Lamk)

Hồng xiêm là cây trồng khá phổ biến ở các vườn quả của các hộ gia đình trên địa

bàn Hà nội. Là cây nhiệt đới, song hồng xiêm có tính thích ứng rộng, năng suất ổn định, ít

sâu bệnh. Giống hồng xiêm Xuân Đỉnh với hương thơm, vị đậm, ruột vàng ngà, ít hạt, thịt

quả mịn, ít xơ là giống hồng được các chủ vườn trồng nhiều hơn so với giống hồng xiêm

Thanh Hà, Hồng xoài Huế.

Toàn thành phố hiện tại có 259,7 ha trồng hồng xiêm với giống hồng xiêm Xuân

Đỉnh, trong đó có 25,6 ha ở thời kỳ KTCB (10%) và 234,1 ha ở thời kỳ KD (90%). Diện

tích trồng mới hồng xiêm Xuân Đỉnh trong những năm qua không tăng nhiều với diện tích

KD1 46,3 ha chiếm 19,8%, diện tích KD2 103,8 ha chiếm 44,3% và diện tích KD3 84 ha

chiếm 35,9%. Khó khăn trong việc thu hoạch vì khó nhận biết quả đủ độ chín để thu

hoạch. Hiện tại diện tích trồng tập trung ở huyện Từ Liêm 60,4 ha với 53,0 ha kinh doanh,

Đông Anh 64,7 ha với 59,6 ha kinh doanh, tiếp đó là Thanh Trì, Gia Lâm. Những cây có

độ tuổi cao tập trung ở Từ Liêm và một số ít ở Gia Lâm, còn các huyện khác cây hồng

xiêm ở độ tuổi KD2 chiếm ưu thế.

Về năng suất quả, trung bình toàn thành phố đạt 101,1 tạ/ha và đạt sản lượng toàn

thành phố là 2100 - 2500 tấn/năm. Các chỉ tiêu về năng suất hồng xiêm ở Hà nội thấp so

với bình quân chung (từ 15 - 25 tấn/ha).

Số lượng quả/cây, theo điều tra thống kê ở Sóc Sơn là 700 quả, ở Gia Lâm 420 quả,

ở Đông Anh 670 quả, ở Thanh Trì 900 quả, ở Từ Liêm 620 quả.

Kết quả điều tra cũng cho thấy, hồng xiêm Xuân Đỉnh đạt được kích thước tán cây

khá lớn và các vườn có độ tuổi cao, phần lớn các cành đã giao tán nhau và vì vậy năng suất

quả không đạt được tối ưu. Đây là vấn đề cần quan tâm khi tiến hành phục tráng lại giống

hồng xiêm Xuân Đỉnh.

Sự phân bố của hồng xiêm Xuân Đỉnh phổ biến ở các vườn nhà, vườn trong khu

dân cư, trồng ở vườn đồng không nhiều ngay cả ở các xã có diện tích vườn khá rộng như

Sóc Sơn, Đông Anh.

3.2.3.2. Đặc điểm về giống, sinh trưởng, phát triển của cây hồng xiêm Xuân Đỉnh

Trong thời kỳ kiến thiết cơ bản, cây hồng xiêm sinh trưởng đạt mức trung bình khá

về các chỉ tiêu chiều cao cây, đường kính tán, số cấp cành. Trung bình của thành phố, hồng

xiêm đạt chiều cao 3,6m, đường kính tán 3,1m và ra từ 2 - 3 cấp cành trong thời kỳ KTCB.

Số liệu điều tra cho thấy, ở Đông Anh cây hồng xiêm sinh trưởng tốt hơn so với các huyện

khác. ở Sóc Sơn cây hồng xiêm sinh trưởng kém hơn do đất đai ở đây thường bị khô hạn

trong mùa khô.

Trong thời kỳ kinh doanh cây đạt chiều cao trung bình 8,1m, đường kính tán 7,1m

và chu vi thân 52,4 cm. Cây hồng xiêm thời kỳ này có kích thước khá lớn vì vậy cần bố trí

khoảng cách và mật độ thích hợp. Đã quan sát thấy hiện tượng rụng hoa, quả non ở những

vườn trồng dày ở Xuân Đỉnh trong thời kỳ kinh doanh. ở 5 huyện, theo điều tra, hồng xiêm

đều ra hoa chính vào tháng 2 kéo dài đến tháng 5, ở Từ Liêm còn thấy có đợt ra hoa vào

tháng 7 - 8. Năng suất và các yếu tố cấu thành năng suất của hồng xiêm khá cao. Trung

bình năng suất quả của cây > 20 tuổi đạt 70 - 80 kg/cây, tuy nhiên thời gian thu hoạch kéo

dài 3 tháng, từ tháng 7 đến tháng 10 và như vậy số quả trên cây có thể đạt 600 - 700 quả. ở

Gia Lâm, cây hồng xiêm đạt số quả thấp hơn so với các huyện khác, quả có trọng lượng

đạt 95 gr/quả, màu sắc vỏ quả không biến động nhiều, ăn ngọt và có sắc hồng ở thịt quả.

- Giống và cây giống hồng xiêm Xuân Đỉnh

Điều tra, khảo sát tại Xuân Đỉnh, nơi trồng hồng xiêm truyền thống, cây hồng xiêm

cao tuổi nhất trong số hộ điều tra là cây của cụ Đỗ Đình Nghị, trồng từ năm 1918 có chiều

cao đến 15m, đường kính tán 13m, chu vi thân 135cm. Đây là dạng hồng xiêm có quả

thuôn dài (tên gọi địa phương là dạng trứng ngỗng) với trọng lượng quả đạt 65 - 70 gr.

Màu đỏ hồng ở thịt quả. Qua điều tra khảo sát chúng tôi còn thấy ngoài dạng trứng ngỗng,

ở Xuân Đỉnh còn có dạng quả hình tim tròn, quả có trọng lượng lớn hơn 75 - 80 gr, với lá

dài hơn. Cả hai dạng, lá xanh đậm, lá non mới ra có màu xanh nhạt, các mép lá đều lượn

sóng và quả có màu nâu, thịt quả vàng hồng đến vàng hồng đậm.

Theo bà con ở xã Xuân Đỉnh thì dạng hình tim có năng suất cao hơn 72 kg quả/cây.

Các cây trồng ở huyện Từ Liêm cũng như ở các huyện khác đều là cây giống nhân bằng

phương pháp chiết cành. Vấn đề khó khăn đối với các hộ trồng là phương pháp chiết để

nhân giống đối với hồng xiêm.

Theo giáo sư Trần Thế Tục, rễ hồng xiêm thuộc loại ăn nông, đại bộ phận tập trung

ở tầng đất 0 - 40 cm(90 - 92% khối lượng rễ). Độ canxi của rễ cách gốc khoảng 150 - 250

cm, nhưng phần lớn tập trung ở khoảng cách 0 - 100 cm (80 - 85% khối lượng rễ). Bộ rễ

hồng xiêm Thanh Hà ăn sâu và rộng hơn hồng xiêm Xuân Đỉnh. Hồng xiêm Thanh Hà có

bộ khung tán khoẻ, lá nhiều và năng suất các lứa đều hơn các giống hồng xiêm Xuân Đỉnh.

3.2.3.3. Tình hình chăm sóc, bón phân cho cây hồng xiêm Xuân Đỉnh

Số liệu điều tra khảo sát cho thấy, cây hồng xiêm ít được đầu tư chăm sóc hợp lý,

ngoại trừ vùng trồng truyền thống là Xuân Đỉnh của Từ Liêm, đầu tư chăm sóc đạt mức

khá. Trung bình của thành phố phân chuồng 20kg/gốc, NPK là 2,7 kg, đạm ure 0,9kg, lân

2,2 kg và kali 0,4 kg/cây/năm với 2 - 3 lần bón, với mức độ khoảng 50% số hộ tiến hành

bón. 20% số hộ dùng phân kali để bón.

Các chăm sóc khác, qua điều tra có 88,6% số hộ có tưới nước cho cây và khá đồng

đều ở các nơi trồng, nhưng kỹ thuật chăm sóc khác chỉ có khoảng 17 - 20% số hộ áp dụng.

Những kỹ thuật tải quả, phun các chế phẩm cho cây hầu như không áp dụng ở các hộ điều

tra. Cây hồng xiêm là cây dễ thích nghi với yêu cầu chăm sóc như hiện tại, đạt năng suất

khá và nếu được đầu tư chăm sóc hợp lý năng suất sẽ cao hơn.

Những khó khăn về kỹ thuật trồng trọt, có 62,4% số hộ trả lời có gặp khó khăn,

nhất là về khâu nhân giống hồng. Thời vụ trồng hồng ở Hà nội chủ yếu vào vụ xuân, từ

tháng 2 đến tháng 4 hàng năm.

3.2.3.4. Chất lượng sản phẩm cây hồng xiêm Xuân Đỉnh

Kết qủa điều tra cho thấy, hồng xiêm Xuân Đỉnh có phẩm chất quả ưu việt hơn

hồng xiêm Thanh Hà về cả thành phần hoá sinh cũng như thành phần cơ giới của quả, số

hạt trong quả. Nếu so sánh các địa điểm trồng khác nhau đối với hồng xiêm Xuân Đỉnh

cho thấy trồng hồng xiêm Xuân Đỉnh phẩm chất quả đều khá hơn các địa điểm trồng khác

(Đông Anh, Sóc Sơn) về thành phần hoá sinh, khối lượng quả, số hạt/ quả, tỷ lệ thịt quả

…Tuy nhiên ở địa điểm trồng Đông Anh, Sóc Sơn chất lượng quả hồng xiêm Xuân Đỉnh

so với trồng ở Xuân Đỉnh cũng không thua kém nhiều. Điều này cho thấy nếu được chăm

sóc tốt, bón phân tốt hơn thì chất lượng quả của các địa điểm trồng khác nhau cũng có thể

được cải thiện tốt hơn (xem phụ lục 8).

3.2.3.5. Hiệu quả kinh tế và hiệu quả môi trường của cây hồng xiêm Xuân Đỉnh

- Hiệu quả kinh tế: Là giống hồng xiêm có chất lượng tốt, có khả năng thích nghi

rộng, chu kỳ kinh tế kéo dài, sản phẩm dễ vận chuyển do đó giá trị kinh tế cao. So với bưởi

Diễn và cam Canh, hồng xiêm Xuân Đỉnh có thu nhập và thu nhập thuần không cao bằng

nhưng cao hơn các loại cây ăn quả khác. 1ha hồng xiêm Xuân Đỉnh bà con nông dân thu

nhập được khoảng 24,5 triệu đồng và thu nhập thuần là 21,1 triệu đồng (xem phụ lục 9).

- Hiệu quả môi trường: Hồng xiêm là cây có phổ thích nghi rộng, do đó nếu được

trồng trên các loại đất lâm nghiệp, đất trống đồi núi trọc và đất chuyên màu chuyển đổi,

vừa khai thác sản phẩm quả vừa tăng độ che phủ đất. Ngoài ra hồng xiêm được trồng kết

hợp với tập đoàn cây ăn quả khác hình thành địa bàn khai thác du lịch sinh thái.

3.2.4. Hệ thống cây hồng quả

3.2.4.1. Hiện trạng phân bố cây hồng quả

Mặc dù là cây ăn quả quý song ở địa bàn Hà nội cây Hồng quả cũng chỉ là cây mới

đưa vào trồng và mới được khuyến cáo trong vài ba năm trước đây cho vùng đất đồi và bạc

màu của 2 huyện Đông Anh và Sóc Sơn. Hồng quả là cây trồng chịu khô hạn, có nguồn

gốc từ vùng á nhiệt đới, ít sâu bệnh và năng suất quả ổn định. Những giống Hồng được

trồng ở Hà nội phần lớn là giống Hồng Thạch Thất cho vùng đồi và giống Hồng Nhân Hậu

cho vùng đất thấp có mức nước ngầm cao.

Diện tích trồng hồng quả trên địa bàn Hà nội không nhiều chiếm 14,6 ha trong đó

tập trung ở Sóc Sơn với 4,3 ha, Gia Lâm 3,7 ha, Đông Anh 2,7 ha. Trong tổng số diện tích

này thì diện tích cây cho ăn quả (KD) là 10,3 ha chiếm 72,0% diện tích.

Cây hồng quả đã được đề cập nhiều trong các chương trình phát triển cây ăn quả

của các huyện song diện tích chưa được mở rộng do có nhiều nguyên nhân dẫn đến hiệu

quả kinh tế của cây chưa cao như thời kỳ KTCB kéo dài (5 năm), cho quả ổn định song

năng suất thấp do hiện tượng rụng quả nhiều của các giống đang trồng. Vì vậy để phát triển

cây hồng cần chọn lọc được giống phù hợp.

Năng suất trung bình của cây hồng toàn thành phố đạt 20,9kg, năng suất quả ở độ

tuổi KD1 là 10,1 kg/cây, KD2 là 21,9 kg/ cây và KD3 là 31,7kg/ cây (theo kết quả điều

tra), như vậy năng suất quả/ha đạt 2,8 - 6,5 tấn/ha, năng suất này thấp hơn so với các vùng

khác (Lạng Sơn đạt khoảng 8 tấn/ha, Nghệ An 12 tấn/ha).

Đối với cây Hồng trồng ở địa bàn Hà nội là một lợi thế, nhất là đối với các giống

hồng chín, vừa là cây ăn quả, vừa là cây cảnh, có thể trồng xen nhiều loại cây. Cây hồng là

cây được chú ý trồng ở Sóc Sơn, Đông Anh.

3.2.4.2. Đặc điểm giống, sinh trưởng và phát triển cây Hồng quả

Điều tra, khảo sát sức sinh trưởng và phát triển của cây Hồng trên 3 địa bàn Sóc

Sơn, Đông Anh, Gia Lâm cho thấy, ở thời kỳ KTCB cây hồng trồng ở Hà nội đạt được các

chỉ tiêu ở mức độ khá, trung bình chiều cao đạt khoảng 1,6m, đường kính tán 1,2m với 3,3

cấp cành và trong 1 năm có 2 đợt lộc ra mới. Cây hồng là cây có tốc độ sinh trưởng chậm

và rụng lá qua các thời kỳ mùa đông. Theo quan sát của chúng tôi, điều kiện trồng ở Hà

nội, cây hồng vẫn có thời gian nghỉ đông đủ để cây phân hoá và ra hoa tốt. Trong thời kỳ

KD cần chú ý giải quyết vấn đề sự rụng quả ở thời kỳ đầu làm một số quả trên cây không

nhiều đến lúc thu hoạch. Theo khảo sát cho thấy số quả đạt được là 422,3 quả/cây.

Từ kết quả khảo sát cho thấy cần chú ý công tác giống và vùng trồng thích hợp đối

với loại cây này. Sóc Sơn có chủ trương phát triển cây Hồng lên vùng đồi, cần chú ý tuyển

chọn giống nhằm tăng tỷ lệ đậu quả.

3.2.4.3. Tình hình chăm sóc, bón phân cho cây hồng quả

Mới chỉ có khoảng 50 - 60% số hộ trồng hồng chú ý tới bón phân cho cây. Theo kết

quả điều tra thì lượng phân bón cho cây đạt trung bình: 20,0kg phân chuồng, 1,9 kg phân

hỗn hợp, 1,1kg ure, 1,3kg lân và 0,6kg kali trong 1 năm. Phân kali chỉ có khoảng 6,1% số

hộ áp dụng, 67,9% số hộ thực hiện bón lân. ở Đông Anh việc bón phân ở mức không cao,

có đến 50% số hộ bón các loại phân. ở Gia Lâm cây hồng ít được chú ý bón phân hơn,

nhất là các loại phân vô cơ. ở Sóc Sơn không sử dụng phân kali để bón. Chế độ bón phân

cho cây hồng không được chú ý nhiều, nhiều tài liệu nước ngoài đều cho rằng cây cần

nhiều lân để sinh trưởng, phát triển, phân đạm cần ở mức không nhiều, đây là vấn đề cần

quan tâm để nâng cao năng suất của cây.

Về khâu chăm sóc cho cây, các hộ đều tiến hành tưới nước chiếm tới 95% số hộ,

tiếp đó là phun thuốc BVTV, xới xáo, tỉa cành, hoa quả; các hộ được điều tra đều cho rằng

có khó khăn về kỹ thuật chăm sóc. Cây hồng là cây có đặc điểm sinh học khá phức tạp như

quá trình hoá hoa, thụ phấn …do vậy cần chú ý đến kỹ thuật chăm sóc.

3.2.4.4. Chất lượng sản phẩm cây hồng quả

Kết quả phân tích, đánh giá phẩm chất quả hồng giống Thạch Thất trồng tại nhà ông

Toàn - Phủ Lỗ - Sóc Sơn cho thấy, quả hồng trồng ở Sóc Sơn có phẩm chất quả khá tốt và

giàu dinh dưỡng (hàm lượng đường, vitamin C và A) cũng như tỷ lệ sử dụng cao. So sánh

với giống hồng chín cùng loại bán ở thị trường (hồng Đà Lạt), phẩm chất quả về mặt hoá

sinh, các chỉ tiêu thành phần cơ giới thấp hơn nhưng sự khác biệt không nhiều. Cây hồng

là cây được đánh giá cao về quả đối với thị trường cũng như người sản xuất (xem phụ lục

8).

3.2.4.5. Hiệu quả kinh tế và hiệu quả môi trường của cây Hồng quả

- Hiệu quả kinh tế: Hồng quả là loại cây có chu kỳ kinh tế dài, sản phẩm quả có chất

lượng cao, thị trường ưa sử dụng, dễ vận chuyển. Thu nhập và thu nhập thuần từ hồng quả

không cao nhưng tỷ suất lợi nhuận ở mức trung bình khá so với nhiều loại cây ăn quả

khác. Hồng quả nếu được trồng xen với các loại cây ăn quả khác sẽ cho thu nhập cao hơn.

1ha hồng quả cho bà con nông dân thu nhập khoảng 21,7 triệu đồng/năm, thu nhập thuần

khoảng 19,6 triệu đồng/năm (xem phụ lục 9)

- Hiệu quả môi trường: Hồng quả thích hợp với môi trường đất dốc, cao hạn, thiếu

nước, nhiệt độ thấp do đó góp phần phủ xanh đất trống, đồi trọc, chống xói mòn và rửa trôi

cho đất.

3.2.5. Hệ thống cây Vải thiều

3.2.5.1. Hiện trạng phân bố cây Vải thiều (Litchi sinensis L.)

Vải thiều được xếp vào nhóm cây á nhiệt đới, sinh trưởng và phát triển tốt ở những

vùng có khí hậu đặc trưng khô, hạn vào mùa đông - xuân, ấm, ẩm vào thời kỳ hè thu. ở

nước ta, vải trồng ở vùng đồng bằng (Thanh Hà - Hải Dương) và vùng đồi núi trung du

phía bắc (Lục Ngạn - Bắc Giang). Để có hiệu quả cao, năng suất ổn định thì chỉ có một số

vùng trồng là có điều kiện thích hợp để cây phân hoá ra hoa, đậu quả tốt. ở địa bàn Hà nội,

cây vải thiều cũng được quan tâm, đặc biệt là các hộ nông dân vùng đồi núi phía Bắc.

Số liệu điều tra về diện tích, năng suất, sản lượng và phân bố của cây vải có 280 ha

trồng vải, 97,2 ha ở thời kỳ kinh doanh chiếm 34,7%, còn lại là vải đang ở thời kỳ KTCB

(182,8 ha chiếm 65,3%). Diện tích trồng vải tập trung ở Sóc Sơn (203,5 ha), Đông Anh

(53,2 ha). Hiện nay vùng vải của Hà nội tập trung ở các huyện phía bắc, đây là nơi có điều

kiện khá thuận lợi về đất đai và khí hậu cho cây vải.

So với các vùng trồng vải khác, năng suất trung bình của Hà nội đạt mức trung bình

khá (40,6 kg/cây), năng suất quả vải ở các huyện không như nhau. Các huyện Gia Lâm,

Đông Anh, Thanh Trì đạt năng suất khá, Sóc Sơn năng suất còn thấp. Năng suất vải phụ

thuộc nhiều vào kỹ thuật thâm canh, đặc biệt phòng trừ sâu bệnh, chăm sóc để cây ra hoa,

đậu quả. Số liệu điều tra năng suất cũng cho thấy, bắt đầu từ độ tuổi KD2 năng suất

quả/cây ở Hà nội đạt khá và đạt cao ở độ tuổi KD3.

Toàn thành phố đạt 640 - 700 tấn quả,với lượng quả này không phải là nhiều cho thị

trường của thành phố.

3.2.5.2. Đặc điểm về giống, sinh trưởng, phát triển của cây Vải thiều

Cây vải thiều ở Hà nội có nguồn gốc từ 2 vùng Thanh Hà và Lục Ngạn. Giống từ

Lục Ngạn chịu khô hạn và thích hợp với vùng đồi núi của giống vải thiều. Các cây giống

đều là cành chiết, một số hộ có trồng cây ghép, cây ghép không khoẻ và không nhanh cho

quả như cây chiết.

Tình hình sinh trưởng và phát triển của vải thiều: ở thời kỳ KTCB có các chỉ số

trung bình: chiều cao cây 1,7m, đường kính tán 1,8m, số cấp cành 3 cấp, số đợt lộc ra

trong năm là 3 đợt. Cây vải sinh trưởng khá tốt và khá đồng đều giữa các huyện có trồng, ở

Từ Liêm có khá hơn một chút với đặc điểm về hình thái lá, thân, cành và lộc. Theo điều tra

cho thấy giống vải trồng ở Sóc Sơn, Đông Anh có nguồn gốc từ Lục Ngạn. Tuy nhiên

cũng có một số hộ có trồng lẫn giống vải chua, vải tu hú, cây mọc khoẻ nhưng chất lượng

và giá trị không cao.

ở thời kỳ kinh doanh, các chỉ số trung bình về chiều cao cây 3,5m, đường kính tán

3,8m, số cấp cành 6,1 cấp, số đợt lộc ra/năm 3 đợt, thời gian nở hoa tháng 2 và tháng 3.

Vải trồng ở Sóc Sơn có các chỉ số cao hơn so với Đông Anh về chiều cao, đường kính tán,

năng suất thấp hơn. Điều này có thể lý giải rằng do sinh trưởng mạnh nên cây vải phân hoá

và ra hoa cũng kém hơn, do đó các yếu tố cấu thành năng suất sẽ giảm sút, đồng thời các

biện pháp chăm sóc, đặc biệt là phòng trừ sâu bệnh và phun các chế phẩm sinh học ho cây

vải có ảnh hưởng rất lớn đến năng suất.

Thời gian ra hoa và quả ở các vùng của Hà nội không sai khác nhiều, tuy nhiên chất

lượng quả là khác nhau giữa các tiểu vùng sinh thái. Theo điều tra quả vải trồng ở Sóc Sơn

có hơi chua hơn so với ở Đông Anh, vấn đề này liên quan nhiều đến kỹ thuật trong đó việc

bón phân và chăm sóc là quan trọng.

3.2.5.3. Tình hình chăm sóc, bón phân cho cây Vải thiều

Qua kết quả điều tra cho thấy, các hộ nông dân đã chú ý bón phân bao gồm cả phân

chuồng và phân vô cơ như ure, kali, toàn thành phố mới chỉ có khoảng 50% số hộ tiến

hành các kỹ thuật này và cũng không đồng đều ở các nơi trồng. ở Sóc Sơn người dân chú ý

đến phân chuồng và phân hỗn hợp NPK hơn ở Đông Anh, ở Đông Anh người dân lại chú ý

tới phân vô cơ như lân, kali. Trung bình một cây, một năm đã được bón 12,7 kg phân

chuồng, 3,2 kg phân NPK, 1,7 kg ure, 1,7 kg lân và kali 2,9 kg được chia là 2 đợt bón

trong năm. Trong thực tế, việc dùng phân kali ở các hộ rất ít, chỉ có 9 - 26,7% số hộ điều

tra, đây cũng là vấn đề liên quan đến năng suất và chất lượng quả. Việc sử dụng phân kali

không hợp lý sẽ dẫn đến cây ra lộc mới rải quanh năm.

Các biện pháp kỹ thuật chăm sóc được làm khá đều và phổ biến như tỉa cành, xới

xáo gốc, phun thuốc BVTV, tưới nước cho vải, ít phổ biến hơn là các biện pháp quét vôi,

tỉa hoa, quả, phun các chế phẩm sinh học, bắt sâu bằng cơ giới. Có 21,2% số hộ ở Sóc Sơn,

55,6% số hộ ở Đông Anh trả lời có khó khăn về kỹ thuật, đặc biệt về rụng hoa, quả, sâu

bệnh, bón phân cho cây. Đây là vấn đề cần giải quyết khi thâm canh tăng năng suất vải.

3.2.5.4. Chất lượng sản phẩm cây Vải thiều

Vải thiều trồng ở Hà nội (Bắc Sơn - Sóc Sơn) về thành phần sinh hoá của quả

không thua kém vải thiều trồng ở Hải Dương, Bắc Giang mà còn có hàm lượng vitamin C

trong quả cao hơn. Nếu xem xét tỷ lệ Đ/A cho thấy tỷ lệ này của vải thiều trồng ở Hà nội ở

mức trung bình, đạt 37 so với vải thiều Thanh Hà (đạt 35) và Lục Ngạn (39), điều đó cho

thấy vài thiều ở Hà nội có hương vị khá hơn so với vải Lục Ngạn. Các chỉ tiêu như khối

lượng phần ăn được, tỷ lệ ăn được, trọng lượng quả cũng như số quả/chùm đều cao hơn so

với vải thiều Lục Ngạn, nhưng so với Thanh Hà thì thấp hơn (xem phụ lục 8).

3.2.5.5. Hiệu quả kinh tế và hiệu quả môi trường cây Vải thiều

- Hiệu quả kinh tế: Sản phẩm quả dễ chế biến, bảo quản sau thu hoạch (bằng cả

công nghệ hiện đại và công nghệ dân gian). Tập đoàn giống vải phong phú cho phép cơ

cấu các loại giống thích hợp để kéo dài vụ thu hoạch từ 30 - 45ngày/năm, là loại sản phẩm

thị trường có nhu cầu lớn. Hiệu quả sản xuất kinh doanh cao cho phép khai thác, kinh

doanh tổng hợp: sản phẩm quả, sản phẩm cây giống, du lịch sinh thái. 1ha Vải thiều cho bà

con nông dân thu nhập khoảng 34,9 triệu đồng/năm và thu nhập thuần là 32,4 triệu

đồng/năm (xem phụ lục 9).

- Hiệu quả môi trường: Vải thiều là cây trồng có tán cao, rộng, xanh quanh năm,

thích hợp với chủ trường xây dựng vành đai xanh thành phố. Cây vải thiều không những

tạo cảnh quan, mà còn góp phần điều hoà không khí cho cả một vùng rộng lớn.

3.2.6. Hệ thống cây Na dai

3.2.6.1. Hiện trạng phân bố cây Na dai (Annona Squamosa L)

Cây na dai là cây được các chủ vườn quan tâm hơn cả do quả ngọt và có hương

thơm đặc biệt, nhất là đối với các dân tộc ở Đông Nam châu á. Về đặc điểm sinh học Na

dai có thân hình nhỏ hơn các cây khác trong cùng họ được trồng để lấy quả như mãng cầu

xiêm, nê… và tính chống chịu khô hạn tốt hơn bởi chúng có khả năng rụng lá khi điều kiện

bất thuận lợi cho sinh trưởng, vì vậy na dai được trồng phổ biến ở vùng đồi, núi trung du

của miền Bắc Việt Nam. ở Hà nội cây na dai cũng được chú ý phát triển trong những năm

gần đây, tuy nhiên sự sinh trưởng và phát triển của na dai ở những vùng khác nhau là khác

nhau.

Kết quả điều tra, khảo sát cho thấy cây Na dai ở Hà nội phân bố chủ yếu ở 2 huyện

Sóc Sơn và Đông Anh. Trong tổng số 92,1 ha trồng thì 2 huyện Đông Anh và Sóc Sơn đã

chiếm 80 ha. Trong cơ cấu diện tích thì diện tích cây kinh doanh chiếm đa số, đạt 80,1 ha,

phân bố chủ yếu ở độ tuổi KD1 và KD2. Diện tích vườn na dai ở thời kỳ KTCB tập trung

ở huyện Đông Anh (9,0 ha). Thực tế qua khảo sát cây na dai ít được trồng thuần mà chúng

được trồng xen với các cây khác như vải thiều, nhãn, hồng quả hoặc trồng quanh vườn. Na

dai thường có chu kỳ kinh tế không dài do thân thường bị tổn thương làm gỗ, tán cây nhỏ

và có thời kỳ rụng lá vào mùa đông vì vậy năng suất quả/cây thường không cao. Theo kết

quả điều tra năng suất quả trung bình đạt 13,5 kg/cây và khi cây ở độ tuổi KD3 chỉ đạt

19,9 kg/cây. Đông Anh và Sóc Sơn là 2 huyện vùng đất cao của Hà nội, với điều kiện địa

hình, đất đai và khí hậu thích hợp cho chúng sinh trưởng, phát triển. Đối với các huyện

thấp như Gia Lâm, Thanh Trì năng suất quả đạt thấp, từ 7 - 10 kg/cây bình quân.

Năng suất na cụ thể cho từng huyện:

- Sóc Sơn: 48,1 tạ/ha

- Gia Lâm: 39,3 tạ/ha

- Đông Anh: 93,8 tạ/ha

- Thanh Trì: 46,6 tạ/ha

- Từ Liêm: 56,5 tạ/ha

Theo ước tính sản lượng na dai trồng ở Hà nội đạt khoảng 430 tấn quả, chủ yếu từ

Sóc Sơn (288,9 tấn) và Đông Anh (103,2 tấn). Đây là một sản lượng không nhiều đối với

thị trường tiêu thụ quả ở Hà nội.

3.2.6.2. Đặc điểm về giống, sinh trưởng, phát triển của cây Na dai

Kết quả khảo sát cho thấy ở thời kỳ KTCB, cây na dai sinh trưởng vào loại trung

bình khá, thể hiện ở chiều cao đạt 1,8m, đường kính tán 1,5m, chu vi thân 18,8m và có 3,3

cấp cành.

ở thời kỳ kinh doanh, cây na đạt kích thước trung bình chiều cao 2,9m, đường kính

tán 2,3m, chu vi gốc đạt 23,7 cm. Tuy nhiên số cấp cành ở thời kỳ kinh doanh không

nhiều, đạt 3,7 cấp, là thấp và đó cũng là nguyên nhân dẫn đến các cành mẹ cho ra cành quả

ít và năng suất của cây bị giảm đi, trung bình đạt 11,9 kg/cây. Về trọng lượng quả, theo

điều tra quả na mới đạt trọng lượng trung bình 142,8 gr. So với các vùng khác na ở Hà nội

có trọng lượng nhỏ hơn na trồng ở các vùng khác, thời gian ra hoa và chín quả không sai

khác so với các vùng trồng khác trong cả nước.

3.2.6.3. Tình hình chăm sóc, bón phân cho na dai

Kết quả điều tra cho thấy, cây na dai đã được chú ý bón phân, đặc biệt là dạng phân

lân và mức bón ở 2 huyện trồng không khác nhau, đều đạt khoảng 16,3 kg phân chuồng,

1,8 - 2,3 kg phân hỗn hợp NPK, 0,7 - 0,8 kg ure, 1,6 - 2,2 kg lân và 0,2 - 1,2 kg kali. ở các

vùng thấp, cây na chưa được chú ý chăm sóc, điều kiện đất đai không thuận lợi do đó năng

suất kém.

Cũng như các cây khác, có 12,1 - 55,9% số hộ áp dụng việc bón phân nhiều ít cho

cây na dai, số còn lại ở các hộ vẫn cho cây na là cây trồng quảng canh không chăm bón gì.

Về các khâu chăm bón, cây na mới chỉ được tưới nước, xới xáo, bắt sâu, phun thuốc

BVTV. Các biện pháp chăm sóc khác còn ít được tiến hành và đó cũng là nguyên nhân

làm giảm năng suất chung toàn thành phố.

3.2.6.4. Chất lượng sản phẩm cây Na dai

Kết quả phân tích và đánh giá phẩm chất các loại quả na dai cho thấy na dai trồng ở

Sóc Sơn có phẩm chất tốt và so với na dai Lạng Sơn thì phẩm chất quả không kém nhiều,

song tỷ lệ ăn được của quả na dai ở Hà nội thấp hơn, quả có khối lượng nhỏ hơn. ở lâm

trường Sóc Sơn na dai được trồng xen với vải và được coi là cây trồng xen trong vườn

(xem phụ lục 8).

3.2.6.5. Hiệu quả kinh tế và hiệu quả môi trường của cây Na dai

- Hiệu quả kinh tế: Sản phẩm quả tươi được thị trường ưu chuộng, là loại sản phẩm

có giá trị dinh dưỡng và giá trị kinh tế cao. Cây na dai là cây nhanh cho sản phẩm do đó

thích hợp để trồng xen trong thời kỳ kiến thiết cơ bản. 1ha Na dai cho bà con nông dân thu

nhập khoảng 44,3 triệu đồng/năm và thu nhập thuần 42,2 triệu đồng/năm (xem phụ lục 9).

- Hiệu quả môi trường: Na dai có thể trồng xen với các loại cây ăn quả khác, vừa

tăng thu nhập vừa góp phần cải tạo vườn tạp. Cây na nếu được trồng ở vùng gò đồi sẽ góp

phần chống xói mòn đất.

3.3. Đề xuất định hướng phát triển sản xuất các hệ thống canh tác đã được nghiên

cứu để nhân rộng ra địa bàn

3.3.1. Thị trường tiêu thụ sản phẩm

3.3.1.1. Hệ thống buôn bán quả tươi của Hà nội

3.3.1.1.1. Mạng lưới nhập và bán quả tươi ở Hà nội

Nguồn nhập quả tươi của Hà nội đã tiến hành điều tra 5 cụm đầu mối cửa ngõ của

Hà nội:

- Cụm đầu mối Đồng Xuân - Long Biên

- Cụm Láng - Cầu Giấy

- Cụm Thanh Xuân

- Cụm Cửa Nam

- Cụm Thanh Trì - Thường Tín

Số lượng các đại lý nhập quả cho thấy trong 5 cụm đầu mối điều tra thì cụm Đồng

Xuân - Long Biên là cụm đầu mối lớn về số lượng các đại lý, lượng nhập 1 lần trên 10 tấn

quả. Tại cụm này, chủng loại quả nhập cũng nhiều, bao gồm cả táo, cam Trung Quốc và

đặc biệt là các loại quả từ vùng Đông Bắc của miền Bắc.

Cụm thứ 2 là cụm đầu mối Thanh Trì kéo dài đến địa phận Thường Tín (Hà Tây),

có số lượng đại lý và lượng nhập quả nhiều, chủ yếu là các loại quả ở phía Nam như xoài,

chôm chôm, dưa hấu, ngoài ra còn một số quả ở phía Bắc như Hà Tây (chuối), Hoà Bình

(dưa hấu, dứa). Ba cụm đầu mối còn lại có số lượng nhập không nhiều và loại quả nhập

chủ yếu từ vùng Tây Bắc như mận, cam, dưa hấu, xoài Sơn La.

Từ mạng lưới nhập quả của Hà nội cho thấy, quả nhập vào Hà nội chủ yếu bằng

phương tiện ôtô và tập trung ở 2 cụm đầu mối phía Đông Bắc (Đồng Xuân - Long Biên) và

phía Nam (Thường Tín - Thanh Trì). Việc nhập quả bằng phương tiện đường sắt còn hạn

chế. Khi trao đổi với các đại lý ở cụm này, họ đều cho rằng không có vốn lớn, hơn nữa quả

nhập nhiều cần phải bán ngay vì quả nhanh bị hỏng, họ chỉ nhập những quả được lâu như

Thanh Long, mận…

Hệ thống bán quả tươi ở Hà nội được điều tra ở 15 trợ nội thành và 5 chợ trung tâm

của các huyện. Qua thống kê 20 chợ cho thấy, trung bình ở nội thành, một chợ có 24 điểm

(quầy) bán cố định và 31 quầy bán lưu động (bán rong) quả tươi. ở các chợ trung tâm nội

thành hoặc các khu vực đông dân số lượng quầy bán quả tươi nhiều hơn. Lượng quả bày

bán trên quầy cố định trung bình đạt 50 - 60 kg quả các loại và ở quầy lưu động là 20 - 25

kg. Một số hộ ở chợ Hàng Da, Cửa Nam có số lượng quả bán lớn hơn 100kg quả các loại.

Khi được phỏng vấn, các hộ bán quả về khó khăn khi bán quả, các hộ ở quầy cố

định cho rằng các loại quả cao cấp được bán nhiều và chạy hơn (vải, nhãn, na …), nhưng

lại có tính thời vụ, đồng thời việc bảo quản không có điều kiện do vậy quả dễ bị hỏng phải

bán với giá thấp. Đối với các hộ bán rong, chủ yếu là các cư dân ngoại thành và các tỉnh

lân cận (Hà Tây) hoặc là mang quả địa phương đi bán (đu đủ, chuối, mít…) hoặc đến các

đại lý bán buôn để đi lấy và đi bán lẻ, do vậy buôn bán có tính thời vụ theo lúc nông nhàn,

không thường xuyên.

Đối với vùng ngoại thành, số lượng các quầy bán cố định ở một chợ ít hơn so với

nội thành với 15 quầy cố định và 20 quầy bán rong. Số lượng quả bán trên quầy cố định

thường lớn, nhiều chủng loại quả hơn so với nội thành và ngược các quầy bán rong lại có

lượng quả bán trên quầy ít hơn, chủng loại quả cũng ít hơn.

3.3.1.1.2. Lượng quả nhập vào Hà nội

Lượng quả tươi nhập vào Hà nội bao gồm 2 nguồn chủ yếu: một nguồn do các

thương nhân đại lý nhập vào với khối lượng lớn sau đó phân phối cho các đại lý nhỏ; một

nguồn do người lao động ở các địa phương ngoại thành Hà nội và các vùng lân cận Hà nội

mang vào bán trực tiếp cho người tiêu dùng. Do hạn chế về thời gian và kinh phí, việc điều

tra xác định nguồn nhập và lượng nhập quả tươi vào thị trường Hà nội trong đề tài chỉ giới

hạn ở việc xác định nguồn và lượng nhập quả của các đại lý:

* Cụm đầu mối Đồng Xuân - Long Biên: qua 3 đợt điều tra có 23 đại lý nhập quả, trong đó

có 6 đại lý lớn mỗi lần nhập trên 10 tấn quả. Quả được nhập bằng đường bộ, đường sắt và

đường thuỷ bao gồm dưa hấu, mận, chuối, cam….và một phần từ các tỉnh phía Nam như

xoài, thanh long, chôm chôm, dưa hấu.

* Cụm đầu mối Láng - Cầu Giấy: có trung bình 6 đại lý qua các đợt điều tra với các đại lý

với lượng nhập 5 - 10 tấn một lần. Các đại lý nhập quả từ Sơn Tây, Việt Trì, Phú Thọ, hữu

ngạn của sông Hồng với chủng loại không nhiều như chuối, mít, dưa hấu….

* Cụm đầu mối Thanh Xuân: nhập quả từ miền Tây Bắc bao gồm Hoà Bình, Sơn La, Lai

Châu. Cụm này có 8 điểm đại lý nhập, chủ yếu là các đại lý vừa và nhỏ với lượng

nhập 5 - 10 tấn với các quả chủ yếu như mận, dưa hấu, chuối, xoài Sơn La….

* Cụm đầu mối Cửa Nam: có 3 đại lý nhập quả với quy mô nhập 5 - 7 tấn quả, nguồn

nhập chủ yếu bằng đường sắt, chủng loại quả ít và có tính chất theo mùa.

* Cụm Thanh Trì - Thường Tín: là cụm đầu mối nhập quả chủ yếu từ miền Nam bằng

đường bộ gồm xoài, chôm chôm, thanh long, dưa hấu… Có tổng số 7 đại lý với 3 đại lý

lớn có lượng nhập trên 10 tấn.

- Lượng quả nhập vào Hà nội

Điều tra lượng quả nhập ở các đại lý cho thấy, loại quả được nhập nhiều vào các đại

lý là dưa hấu, mận, chuối, xoài, vải, nhãn, chôm chôm, thanh long. Đây là những loại quả

được sản xuất nhiều ở các tỉnh và là loại quả nhiệt đới và á nhiệt đới. Các loại quả nhập

trung bình với lượng vừa là cam, na, xoài Sơn La, chanh. Các loại quả nhập ít, số lượng

không nhiều là táo, lê, đào, nho (phần lớn là các loại quả ôn đới) từ các vùng Cao Bằng,

Hà Giang hoặc từ Trung Quốc.

Lượng quả nhập ở các thời gian điều tra từ 305,6 - 566,9 tấn. Chủng loại quả cũng

khác nhau ở các đợt điều tra, chủ yếu là các loại quả nhiệt đới được trồng ở trong nước.

Có thể ước tính khoảng 1 tháng lượng quả nhập vào Hà nội là 12.504 tấn quả các loại.

- Cơ cấu loại quả nhập ở các đại lý tại 5 cụm đầu mối:

Kết quả điều tra cho thấy cơ cấu các loại quả nhập vào Hà nội như sau: Chủ yếu là

loại quả nhiệt đới được sản xuất ở trong nước chiếm 77,3% lượng quả nhập trong đó dưa

hấu có lượng nhập cao nhất (38,4%), sau đó đến xoài, chuối, dứa, các loại quả nhiệt đới

khác (na, chôm chôm, thanh long, cóc, đu đủ…), mỗi loại chiếm 1 - 2% lượng quả nhập.

Đối với các loại quả á nhiệt đới như cam, mận, vải, nhãn chủ yếu được sản xuất

trong nước, chỉ có một phần rất ít nhập từ Trung Quốc (chiếm 0,5%). Loại quả á nhiệt đới

nhập vào Hà nội nhiều là mận (11,4% lượng nhập), vải nhãn (6% lượng nhập), cam quýt

chiếm khoảng 3,2% lượng nhập trong đó cam nội địa (Hà Giang, Hoà Bình) chiếm 2,7%.

Loại quả ôn đới như đào, táo tây, lê có lượng nhập không nhiều, chỉ chiếm 0,4%

lượng nhập. Các loại quả này được sản xuất từ Trung Quốc. Tuy nhiên lê, táo, đào một

phần cũng được nhập từ Cao Bằng, Hà Giang, Lạng Sơn và Lao Cai.

3.3.1.1.3. Lượng quả tươi bán ở các quầy quả ở Hà nội

- Lượng quả tươi bán ở các quầy cố định

+ Khu vực nội thành: điều tra theo đợt ở các quầy cố định bán quả ở 5 chợ trung tâm của

khu vực nội thành cho thấy.

Đợt 1 từ tháng 4 đến tháng 5, lượng quả bán ra ít hơn và giá bán quả của từng loại quả

cũng cao hơn so với các đợt trong các tháng 6,7,8. Đợt 1 lượng quả bán ra trung bình 1

ngày là 67,5kg/quầy với loại quả bán chủ yếu là mận, dưa hấu, xoài miền Nam, cam Hà

Giang

Đợt 2 từ tháng 5 -6, lượng quả bán ra trung bình 1 ngày của 1 quầy là 104,5kg và loại quả

bán ra chủ yếu là vải, mận, dưa hấu, xoài. Giá bán cho từng loại ở đợt này không biến

động nhiều, tuy nhiên các loại quả như măng cụt, nho vẫn bán ở mức cao.

Đợt 3 từ tháng 6 - 8, lượng quả bán tăng nhiều, đạt ở mức 132,5 kg quả bán/ 1 quầy và loại

quả bán nhiều là chôm chôm, nhãn, na, dưa hấu. Đợt này lượng quả bán ra ở các điểm là

khá đều nhau, đây là đợt mà các quả ở Việt Nam thời vụ chín rộ do vậy giá bán khá phù

hợp với người tiêu dùng

Như vậy ở khu vực nội thành theo thống kê chỉ riêng ở 15 chợ chính có 360 quầy

bán quả cố định, lượng quả bán ra là 3.045kg/quầy/tháng x 360 quầy sẽ là 1.096,2 tấn quả

các loại trong 1 tháng.

+ Lượng quả bán ra ở quầy cố định khu vực ngoại thành cũng tăng dần từ đợt 1 đến đợt 3.

Loại quả bán nhiều là mận, dưa hấu, chôm chôm, cam, táo tây. Tính trung bình cho cả 3

đợt điều tra lượng quả bán ra trong 1 ngày 1 quầy đạt 77,2kg và trong 1 tháng khoảng

2.316kg quả các loại. Nếu chỉ tính cho 5 chợ trung tâm điều tra với số quầy cố định là 15

quầy thì lượng quả bán ra trong 1 tháng 34,74 tấn quả/tháng.

- Lượng quả tươi bán ở các quầy lưu động

+ Khu vực nội thành: Trong các đợt điều tra từ tháng 5 - 6 cho thấy, quầy bán rong ở 5 chợ

trung tâm nội thành có chủng loại bán là các quả bình dân như mận, dưa hấu, vải, cam Hà

Giang. Trung bình 1 quầy bán trong 1 ngày lượng quả là 16,6kg quả.

Đợt điều tra tháng 6 -8 cho thấy, lượng bán quả rong tăng nhiều và chủng loại cũng

phong phú hơn chủ yếu vẫn là loại quả bình dân và quả đang mùa thu hoạch với na, dưa

hấu, ổi, nhãn, chuối…Trung bình 1 ngày 1 quầy bán ra lượng quả 42,4kg các loại.

Như vậy ở khu vực nội thành tính trung bình cho các đợt điều tra lượng quả bán ra

của 1 quầy lưu động trong 1 ngày đạt 20 kg. Và nếu tính ở 15 chợ trung tâm có 456 quầy

lưu động thì lượng quả bán ra 273,6 tấn, trong 1 năm là 3.283 tấn quả các loại.

+ Khu vực ngoại thành: Qua các đợt điều tra cho thấy quả bán ra ở ngoại thành là loại bình

dân và có tính mùa vụ. Tính trung bình 1 quầy bán lưu động qua 3 đợt điều tra đạt ở mức

22,3 kg quả bán ra trong 1 ngày và 1 tháng 1 quầy bán được 669 kg quả các loại. Nếu lấy

trung bình 1 chợ ở ngoại thành có 19 quầy lưu động bán quả và có khoảng 10 chợ ở ngoại

thành thì lượng quả bán ra là 12,71 tấn và lượng quả bán trong 1 tháng là 1.524 tấn quả các

loại.

- Lượng quả bán ra ở Hà nội

+ Khu vực nội thành: Quầy cố định bán ra 1 tháng là: 10.692 tấn

Quầy lưu động bán ra 1 tháng là: 2.736 tấn.

+ Khu vực ngoại thành: Quầy cố định bán ra 1 tháng là: 347 tấn

Quầy lưu động bán ra 1 tháng là: 127 tấn.

Tổng lượng quả bán ra trong 1 tháng ở Hà nội sẽ là 13.902 tấn quả, 1 năm lượng quả bán

ra ở Hà nội khoảng 166.824 tấn quả các loại.

3.3.1.2. Hệ thống tiêu thụ quả ở Hà nội

3.3.1.2.1. Lượng quả tiêu thụ của người dân Hà nội (nội và ngoại thành)

- Khu vực nội thành: Điều tra 180 hộ ở các quận nội thành cho thấy: các hộ gia đình

ở Đống Đa, Hai Bà Trưng có mức tiêu thụ quả thấp hơn và cao nhất là các cư dân ở quận

Tây Hồ, Thanh Xuân. Loại quả các hộ ưa thích là vải, nhãn, dưa hấu, cam quýt. Trung

bình 1 hộ có 4,6 khẩu và mức tiêu thụ quả là 60,3 kg/1 tháng, bình quân 1 người, 1 tháng

tiêu thụ khoảng 13,1 kg. Nếu ước khoảng 2/3 dân số của Hà nội ở khu vực nội thành thì

1 tháng lượng quả tiêu thụ là 20.960 tấn.

- Khu vực ngoại thành: Kết quả điều tra mỗi huyện 3 xã, mỗi xã 10 hộ gia đình cho

thấy khu vực tiêu thụ cao là các hộ có vườn rộng, trồng nhiều cây ăn quả. Trung bình 1 hộ

có 4,5 khẩu với mức tiêu thụ 49,0 kg quả các loại và bình quân 1 người 1 tháng đạt 10,7 kg

với loại quả tiêu thụ nhiều là chuối, bưởi, dưa hấu, cam quýt. Nếu tính ở khu vực ngoại

thành có 1/3 dân số Hà nội thì lượng quả tiêu thụ 1 tháng là 9.630 tấn.

Tính toàn thành phố với số dân ước khoảng 2,5 triệu người thì 1 tháng lượng quả

tiêu thụ là 30.590 tấn.

3.3.1.2.2. Lượng quả tiêu thụ ở các nhà xưởng chế biến

Hà nội có nhà máy thực phẩm xuất khẩu Tương Mai, xưởng chế biến rau quả của

Công ty xuất nhập khẩu rau quả 1 Hà nội, hàng năm chế biến khoảng 15 - 20 ngàn tấn quả.

Các hộ gia đình tự chế biến quả ngâm khoảng 10 - 15 ngàn tấn quả. Như vậy, trong 1 năm

lượng quả tiêu dùng cho chế biến thủ công ước khoảng 25 - 30 ngàn tấn quả và như vậy 1

tháng cần trung bình 2.000 - 3.000 tấn quả các loại.

3.3.1.2.3. Lượng quả tiêu thụ trong nhà hàng, khách sạn

Điều tra tại 15 nhà hàng, khách sạn cho thấy, bình quân 1 khách sạn, nhà hàng tiêu

thụ 1 ngày 44,9 kg quả các loại. Như vậy trong 1 tháng 1 nhà hàng tiêu thụ khoảng 1.347

kg quả các loại và nếu lượng khách như hiện nay (số khách trung bình 1 khách sạn 53,3

khách và toàn Hà nội có khoảng 150 khách sạn thì mức tiêu thụ quả 1 tháng khoảng 202

tấn quả các loại và 1 năm tiêu thụ khoảng 2.424 tấn quả các loại.

3.3.1.2.4. Lượng quả tiêu thụ ở các bệnh viện

Theo thống kê Hà nội có 36 bệnh viện, điều tra ở 10 bệnh viện cho thấy, số bệnh

nhân trung bình 1 ngày của bệnh viện là 82 bệnh nhân với 36 bệnh viện thì lượng bệnh

nhân 1 ngày vào viện khoảng 2.951 bệnh nhân. Mức tiêu thụ quả bình quân 1 bệnh nhân 1

ngày là 0,3 kg, tính ra ở 36 bệnh viện lượng quả tiêu thụ 1 tháng là 779 tấn quả. Lượng quả

cho 1 năm ở các bệnh viện là 9.346 tấn quả.

Kết luận: Mạng lưới thị trường buôn bán quả tươi ở Hà nội bao gồm các đại lý nhập

quả, người buôn bán quả cố định và các hộ buôn bán nhỏ.

Hàng tháng Hà nội nhập quả qua các đại lý khoảng 12.504 tấn quả các loại có tính

chất theo mùa. Loại quả nhập nhiều là dưa hấu, mận, xoài, vải, chôm chôm từ các địa

phương. Các loại quả ngoại nhập (táo tây, nho, mận) có lượng nhập không nhiều.

Lượng quả bán ra ở Hà nội 1 tháng khoảng 16.080 tấn chủ yếu ở khu vực nội thành

với hệ thống quầy bán cố định và lưu động.

Mức quả tiêu thụ bình quân của cư dân Hà nội là 6,5 - 7 kg/ người/tháng, tức là 75 -

85 kg/người/năm. Các bệnh viện tiêu thụ 779 tấn/tháng, các nhà hàng khách sạn 202

tấn/tháng. Lượng quả tiêu thụ 1 năm ở Hà nội ước khoảng 200.000 - 212.000 tấn quả tươi.

Loại quả được tiêu dùng nhiều là cam, quýt, xoài, nhãn, vải, dưa hấu.

Việc điều tra thị trường và mức độ tiêu thụ quả là công việc khó khăn, nhưng thông

tin ban đầu cho những nhận định về tình hình tiêu thụ quả ở Hà nội.

3.3.2. Tiềm năng phát triển sản xuất

Điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội của Hà nội nói chung và vùng đất ven sông Hồng

nói riêng phong phú, đa dạng, thích hợp phát triển một số loại cây ăn quả có giá trị kinh tế.

Hà nội có tài nguyên đất đai, khí hậu, hệ thống thuỷ lợi …thích hợp cho nhiều loại

cây ăn quả phát triển.

Hà nội là Thủ đô của cả nước, là trung tâm chính trị, văn hoá, khoa học, kỹ thuật.

Hà nội có hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật và đội ngũ cán bộ khoa học lớn mạnh, lao động

có trình độ cao… tạo điều kiện thuận lợi để phát triển sản xuất cây ăn quả theo hướng sản

xuất hàng hoá, hiện đại hoá.

Phát triển sản xuất cây ăn quả ở vùng đất ven sông Hồng là phù hợp với nền sản

xuất nông nghiệp ngoại thành, vừa tăng hiệu quả sử dụng đất; vừa tạo cảnh quan môi

trường sinh thái đẹp, trong lành; vừa phát triển du lịch (du lịch sinh thái) góp phần phát

triển kinh tế - xã hội Thủ đô.

Thị trường tiêu thụ quả của Hà nội rộng lớn đòi hỏi ngày càng cao cả về số lượng,

chất lượng và chủng loại. Hiện tại sản lượng quả của Hà nội mới chỉ đáp ứng được 15 -

18% nhu cầu, việc phát triển cây ăn quả vùng đất ven sông Hồng nhằm đáp ứng một phần

nhu cầu của thị trường Hà nội. Bên cạnh đó, Hà nội là đầu mối đi các tỉnh và một số nước

có khả năng quan hệ cung cầu các loại quả với Hà nội, do đó việc phát triển sản xuất cây

ăn quả là một yêu cầu khách quan, mang lại hiệu quả nhiều mặt về kinh tế - xã hội - môi

trường cảnh quan…

3.3.3. Phân hạng đất thích hợp

3.3.3.1. Xây dựng hệ thống chỉ tiêu phân hạng đất thích hợp với cây ăn quả

Hệ thống chỉ tiêu phân hạng đất thích hợp với cây ăn quả được xây dựng trên cơ sở

nghiên cứu yêu cầu sinh thái của các nhóm cây ăn quả và đặc điểm cụ thể của các đơn vị

đất Hà nội. Trên cơ sở hệ thống các chỉ tiêu phân hạng đất đúng, bản đồ phân hạng đất

thích hợp có ý nghĩa trong việc xây dựng phương án phát triển cây ăn quả cho Hà nội.

Trên cơ sở yêu cầu sinh thái của cây ăn quả về loại đất, độ dốc, tầng dầy, thành

phần cơ giới, độ phì và mức độ ngập úng của đất để xây dựng hệ thống chỉ tiêu phân hạng

đất thích hợp với mỗi nhóm cây ăn quả. Các chỉ tiêu này, khi so sánh với các đặc điểm

tương tự của các đơn vị đất với cây ăn quả.

3.3.3.2. Kết quả phân hạng đất thích hợp với cây ăn quả của thành phố Hà nội

Tổng diện tích đất nông nghiệp toàn thành phố (1998) là 43.002,55 ha, diện tích đất

thích hợp (S1 + S2 + S3) cho cây trồng ăn quả là 35.141,4 ha (chiếm 81,72% diện tích đất

nông nghiệp).

Diện tích cấp rất thích hợp (S1) là 12.589,35 ha chiếm 29,28%. Diện tích cấp thích

hợp (S2) là 7.433,21 ha chiếm 17,28%. Cấp ít thích hợp (S3) có diện tích 15.118,84 ha

chiếm 35,16%. Trong đó có 7.861,15 ha hoàn toàn không thích hợp với cây ăn quả chiếm

18,28%.

Bảng 3.5: Tổng hợp diện tích đất thích hợp theo từng huyện

Đông Từ Thanh 5 huyện Sóc Sơn Gia Lâm Anh Liêm Trì

S1 12026,66 478,33 1339,66 4839,20 2685,81 2683,66

S2 6644,08 3013,07 1383,42 884,04 727,84 635,71

S3 15118,84 7044,35 4722,56 1594,75 494,49 1262,69

N1 7336,83 2243,89 2395,00 1830,89 219,01 648,04

Cộng 41126,41 12779,64 9840,64 9148,88 4127,15 5230,10

33789,57 10535,75 7445,64 7317,99 3908,14 4582,06 S1 + 2 + 3

% 82,16 82,44 75,66 79,99 94,69 87,61

Kết quả cho thấy diện tích đất nông nghiệp của các huyện xếp theo thứ tự nhỏ dần

như sau: Sóc Sơn (12.779,64 ha), Đông Anh (9.840,64 ha), Gia Lâm (9.148,88 ha), Thanh

Trì (4.582,06 ha) và Từ Liêm (3.908,14 ha).

Đất thích hợp trồng cây ăn quả (S1, S2, S3) lớn nhất là huyện Sóc Sơn (10.535,75

ha), tiếp theo huyện Đông Anh (7.445,64 ha), Gia Lâm (7.317,19 ha), Thanh Trì (4.582,06

ha), Từ Liêm (3.908,14 ha). Tuy nhiên, tỷ lệ đất thích hợp với cây ăn quả so với đất nông

nghiệp khác nhau nhiều ở các huyện: Gia Lâm 79,99%, Từ Liêm 94,69%, Thanh Trì

87,61%, Đông Anh 75,66% và Sóc Sơn 82,44%.

Kết quả tổng hợp diện tích đất thích hợp theo từng nhóm cây ăn quả toàn Thành

phố Hà nội như sau:

Bảng 3.6: Tổng hợp diện tích đất thích hợp theo nhóm cây

STT Cây S1 S2 S3 N1 S1 + 2 + 3

12589,35 7949,20 15292,78 7171,22 83,32 1 Nhóm cam

16143,15 4174,75 14886,37 7798,28 81,87 2 Nhóm bưởi

16165,16 4253,32 14700,92 7861,15 81,72 3 Nhóm vải

15082,48 19054,04 2870,72 5995,31 86,06 4 Nhãn

20213,22 14488,46 7064,68 1236,19 97,13 5 Hồng xiêm

15441,21 4734,62 15028,44 7798,28 81,87 6 Hồng

13274,29 7370,81 15795,36 6562,09 84,74 7 Na

17964,89 16313,70 2728,65 5995,31 86,06 8 Xoài

Táo, đu đủ 12589,35 7586,48 14965,57 7861,15 81,72 9

Kết luận

- Cây hồng xiêm là cây ăn quả có tiềm năng phát triển mạnh nhất, có tới 46889,1 ha đất

thích hợp với hồng xiêm, xoài (37.007,24 ha), vải (35.119,4 ha), nhãn (37.007,24 ha), cam

(35.831,33 ha), hồng quả (35.204,27 ha), bưởi (35.204,27 ha), na (36.440,46) ha, táo và đu

đủ (35.141,4) ha đất thích hợp.

- Đất phù sa là loại đất lý tưởng để trồng cây ăn quả, trong đó đất phù sa không được bồi

của hệ thống sông Hồng là thích hợp nhất để trồng cây ăn quả.

- Đất phù sa được bồi hàng năm, đất phù sa úng nước, đất phù sa có tầng gley nông (cách

mặt đất < 30 cm) không thích hợp với đa số cây ăn quả.

- Đất phù sa ít được bồi, đất phù sa có tầng gley sâu, đất phù sa có tầng loang lổ đỏ vàng,

đất nâu vàng phát triển trên phù sa cổ có mức độ thích hợp khác nhau với các nhóm cây ăn

quả khác nhau.

Nếu được đầu tư đúng mức (giống, vốn, kỹ thuật …) các vùng đất bạc màu, đất phù sa có

tầng loang lổ đỏ vàng, đất nâu vàng trên phù sa cổ là những vùng có tiềm năng lớn để phát

triển cây ăn quả.

- Trong tổng số 43002,55 ha đất nông nghiệp còn lại sau quy hoạch, diện tích đất rất thích

hợp với cây ăn quả là 12589,35 ha chiếm 29,28%, đất thích hợp vừa là 7433,21 ha chiếm

17,28%, đất ít thích hợp là 15118,84 ha chiếm 35,16%. Diện tích đất thích hợp với cây ăn

quả là 7861,15 ha chiếm 18,28%.

- Diện tích đất thích hợp với cây ăn quả (S1, S2, S3) của các huyện là Sóc Sơn 10535,75

ha, Gia Lâm 7317,99 ha, Đông Anh 7446,64 ha, Thanh Trì 4582,06 ha và Từ Liêm

3908,14 ha.

Trong quá trình nghiên cứu phân hạng đất thích hợp cho cây trồng, chúng tôi xin

nêu một số đề xuất sử dụng đất cho cây ăn quả:

- Vấn đề bố trí phát triển cây ăn quả trên địa bàn Hà nội, ngoài tính toán về lợi ích thông

thường, còn cần tính đến lợi ích về cảnh quan và môi trường đô thị.

- Với trình độ kỹ thuật như hiện nay: trồng cây ăn quả ở vùng trũng, đào hố trồng cây ở

vùng đồi có tầng đất mỏng, các khó khăn đều có khả năng khắc phục, nếu đầu tư thích

hợp. Vì vậy khi chọn phương án phát triển cây ăn quả Hà nội cần gắn liền với phương án

đầu tư.

- Khi tính toán hiệu quả kinh tế để chọn phương án phát triển cây ăn quả cần tính đến hiệu

quả do du lịch sinh thái mang lại.

3.3.4. Định hướng phát triển sản xuất

3.3.4.1. Cơ sở, căn cứ cho định hướng

- Căn cứ vào khả năng của thị trường tiêu thụ quả tại Hà nội và cả nước, các thông

tin, các tiến bộ khoa học, kỹ thuật và công nghệ mới đối với sản xuất cây ăn quả.

- Căn cứ vào định hướng quy hoạch tổng thể kinh tế - xã hội, quy hoạch không gian

đô thị Thủ đô Hà nội tới năm 2010 và năm 2020 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.

- Căn cứ vào phương hướng, mục tiêu, các dự báo và một số chỉ tiêu có liên quan

trực tiếp tới bố trí phát triển cây ăn quả trong báo cáo định hướng phát triển nông nghiệp

và xây dựng nông thôn của Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Hà nội.

- Căn cứ vào kết quả điều tra, nghiên cứu về thực trạng sản xuất cây ăn quả trên địa

bàn Hà nội và các nhân tố chi phối.

- Căn cứ định hướng phát triển, các chương trình phát triển đến năm 2010 của Bộ

Nông nghiệp và Phát triển nông thôn..

- Căn cứ vào khả năng huy động vốn cho đầu tư phát triển của Thành phố và của

kinh tế hộ nông dân.

3.3.4.2. Lựa chọn cơ cấu các loại cây ăn quả

- Căn cứ vào các kết quả nghiên cứu về đặc điểm sinh vật học của các loại cây ăn

quả được trồng tại địa bàn Thành phố Hà nội.

- Căn cứ vào giá trị và hiệu quả kinh tế của từng loại cây trồng hiện tại và dự báo

trong tương lai.

- Căn cứ vào thị hiếu và khả năng cạnh tranh của các loại quả của Hà nội so với các

loại quả từ nơi khác đưa tới.

- Căn cứ vào điều kiện sản xuất để phát triển cây ăn quả, dự kiến sẽ được bố trí như

sau:

3.3.4.2.1. Nhóm cây ăn quả đặc sản và cây ăn quả chính

- Cây bưởi Diễn: Bố trí phát triển với quy mô chiếm 20 - 30% tổng diện tích cây ăn

quả, nhịp độ tăng nhanh bởi có nhiều lợi thế:

+ Về kinh tế: Là loại cây trồng có sản phẩm chất lượng cao, dễ bảo quản để có thể chủ

động cung ứng sản phẩm cho thị trường vào thời điểm thích hợp, có lợi cho người sản xuất

và hiệu quả kinh doanh cao.

+ Về các đặc điểm sinh vật học: Là loại cây có tán cao, xanh quanh năm, vào mùa đông

khi hầu hết các loại quả đã qua kỳ thu hoạch thì bưởi Diễn vẫn mang quả trên tán cây.

Bưởi Diễn có phổ thích nghi rộng, dễ chiết ghép, rất thuận lợi trong việc mở rộng quy mô

và địa bàn sản xuất, ít bị sâu bệnh.

- Cây cam Canh: Là loại cây đặc sản của Hà nội, mẫu quả đẹp, có giá trị kinh tế

cao, thu hoạch muộn vào dịp tết Nguyên đán.

Là loại cây trồng tương đối kén đất và đòi hỏi kỹ thuật canh tác rất cao.

Là loại cây trồng có năng suất kém ổn định bởi rất mẫn cảm với các biến động của môi

trường và rất dễ bị sâu bệnh.

- Cây hồng xiêm Xuân Đỉnh: Là giống hồng xiêm có chất lượng tốt, có khả năng

thích nghi rộng, dễ trồng, chu kỳ kinh tế dài, tán che rộng, cao, xanh quanh năm.

Vì vậy với đặc thù của nền nông nghiệp ngoại thành, căn cứ vào đặc điểm sinh lý -

sinh thái và điều kiện kinh tế, cây hồng xiêm được dự kiến bố trí với quy mô không lớn.

- Cây vải: Là cây trồng đang được nhiều địa phương quan tâm. Là loại cây trồng có

tán cao, rộng, xanh quanh năm, thích hợp với chủ trương xây dựng vành đai xanh thành

phố. Cây vải có phổ thích nghi rộng, thích hợp với nhiều tiểu vùng sinh thái của ngoại

thành Hà nội từ vùng úng trũng đến vùng cao hạn, gò đồi, đất cằn cỗi.

Sản phẩm quả tương đối dễ chế biến, bảo quản sau thu hoạch. Hiệu quả sản xuất

kinh doanh cao cho phép khai thác kinh doanh, tổng hợp: sản phẩm quả, sản phẩm cây

giống, du lịch sinh thái.

3.3.4.2.2. Nhóm cây trồng phụ

- Chuối: Là loại cây trồng phổ thông, dễ trồng, chu kỳ kinh tế ngắn, nhanh cho thu

hoạch. Diện tích trồng chuối trong tương lai hầu như không tăng nhưng hướng bố trí là cải

tạo trồng lại bằng các giống chồi mới có giá trị hàng hoá và đem lại hiệu quả sản xuất cao

hơn.

- Cây hồng quả: Là loại cây có chu kỳ kinh tế dài, tán cao nhưng rụng lá theo mùa,

thích ứng với môi trường đất dốc, cao hạn, thiếu nước, nhiệt độ thấp.

Sản phẩm quả có chất lượng cao, thị trường ưa sử dụng, dễ vận chuyển. Hiện tại quy mô

sản xuất còn rất nhỏ, thời gian tới dự kiến phát triển với nhịp độ nhanh. Địa bàn tập trung

lớn nhất là vùng đất gò đồi Sóc Sơn đất trống đồi trọc chuyển đổi.

- Na dai: Với lợi thế là cây có tán không lớn, nhanh cho sản phẩm, thích hợp để

trồng xen trong thời kỳ kiến thiết cơ bản của vải, nhãn….

3.3.4.3. Lựa chọn phương án phát triển sản xuất

3.3.4.3.1. Lựa chọn phương án

- Phương án 1

Đây là phương án lựa chọn với việc xác định các yếu tố tác động, được tính toán

thận trọng, lường trước các khả năng rủi ro có thể xảy ra. Các chỉ tiêu tính với tốc độ tăng

trưởng vừa phải, có thể chấp nhận được và đáp ứng yêu cầu phát triển của thành phố.

Cơ cấu đất mở rộng cho phát triển cây ăn quả dựa vào khả năng khai thác đất vườn

tạp, đất thổ canh, thổ cư, đất có khả năng chuyển đổi sang trồng cây ăn quả ở quy mô vừa

phải.

Phương án 1 có tham khảo các chỉ tiêu bố trí phát triển cây ăn quả của các huyện

cho giai đoạn 2001 - 2005 và 2006 - 2010.

Phương án 1 được lựa chọn dựa vào khả năng thực tế của tình hình phát triển sản

xuất cây ăn quả những năm vừa qua, có tính tới một số yếu tố tác động về thị trường, về kỹ

thuật, vốn, công nghệ…Đây là phương án có độ an toàn cao, nhưng có hạn chế là mới chỉ

đáp ứng được nhu cầu quả của Thành phố từ 20 - 25%

- Phương án 2

Đây là phương án tạo ra sự thay đổi rất lớn, có tính đột phá với chủ trương mở rộng

quy mô cho sản xuất cây ăn quả, để đạt được mục tiêu có khối lượng quả tập trung, có tỷ

trọng đáp ứng đạt 35 - 40% trong tổng nhu cầu quả cung cấp cho Thành phố. Mức bố trí

quy mô lớn hơn 1,7 - 1,8 lần so với phương án 1.

Với phương án 2, khối lượng khá lớn diện tích đất sản xuất cây hàng năm chủ yếu

là đất lúa, màu cao hạn, đất bãi và đất khác cần phải chuyển đổi sang trồng cây ăn quả.

Cần có các cơ chế, chính sách và sự chỉ đạo cụ thể của Thành phố cho việc chuyển đổi cây

hàng năm sang trồng cây ăn quả.

3.3.4.3.2. Dự kiến các chỉ tiêu bố trí

Bảng 3.7: Dự kiến quy mô - cơ cấu diện tích các loại cây ăn quả đến 2010 ngoại thành

Hà nội

Phương án 1 Phương án 2

Hạng mục Quy mô Tăng so với Quy mô Tăng so với

2010 (ha) HT (ha) 2010 (ha) HT (ha)

Tổng diện tích cây ăn quả 2824,5 10000 7024,5 5800

I. Các loại cây ăn quả chính 2036 8020 6186 3870

Tỷ lệ (%) 66,72 80,2

1. Bưởi: tổng diện tích 1275 872,6 1625 1222,6

- Trong đó: bưởi Diễn 1040 967,9 1360 1287,9

2. Cam quýt các loại 180 78,7 395 293,7

- Trong đó: cam Canh 130 54,9 287 211,9

3. Hồng xiêm Xuân Đỉnh 410 173,3 515 278,3

4. Vải 905 625 2675 2395

5. Nhãn 1100 286,4 2810 1996,4

II. Các loại cây ăn quả phụ 1755 652,2 1640 537,1

Tỷ lệ (%) 30,26 16,4

1. Chuối 735 59,3 805 129,3

2. Táo 325 50,7 355 80,7

3. Đu đủ 195 144,9 175 124,9

4. Hồng 270 257,6 155 142,4

5. Na dai 230 1399,9 150 59,9

III. Các loại cây ăn quả khác 175 136,3 340 301,3

Tỷ lệ (%) 3,02 3,4

Như vậy với phương án 1, tới năm 2010, diện tích cây ăn quả dự kiến đạt 5800 ha,

tăng ở nhóm các loại cây ăn quả chính là 2036 ha với các loại cây trồng có diện tích tăng

lớn là bưởi, vải và nhãn. Nhóm các loại cây phụ có diện tích 1755 ha, tăng nhanh diện tích

các cây hồng, na và đu đủ.

ở phương án 2, tới năm 2010, diện tích cây ăn quả đạt 10.000 ha trong đó nhóm cây

ăn quả chính 8020 ha chiếm 80,2% tổng diện tích, nhóm cây ăn quả phụ có diện tích là

1640 ha chiếm 16,4% tổng diện tích, các cây ăn quả khác 340 ha chỉ chiếm 3,4%.

Nhìn chung các loại cây ăn quả có giá trị tán rộng, xanh quanh năm, có hiệu quả về

kinh tế đều được bố trí với quy mô lớn. Trong các loại cây ăn quả thì bưởi Diễn, vải, nhãn

được đặc biệt chú ý vì đây là những cây thích hợp với điều kiện khô hạn.

3.3.4.4. Phát triển sản xuất cây ăn quả theo từng phương án

3.3.4.4.1. Phát triển sản xuất cây ăn quả theo phương án 1

* Quy mô và tiến độ mở rộng diện tích cây ăn quả đến năm 2010

- Giai đoạn 2001 - 2005

+ Nhiệm vụ: Tiếp tục hoàn thiện việc xây dựng, củng cố cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ

trực tiếp cho sản xuất cây ăn quả đặc biệt là cơ sở sản xuất cung ứng các loại giống cây

trồng cho chất lượng cao.

Xây dựng, phê duyệt và triển khai thực hiện các dự án ưu tiên, các dự án khả thi về phát

triển cây ăn quả.

Vận động và áp dụng các cơ chế, chính sách về chuyển đổi đất và chuyển đổi mục đích sử

dụng đất để xây dựng vùng trọng điểm sản xuất cây ăn quả tập trung tại các huyện.

+ Tiến độ: Tổng diện tích cây ăn quả dự kiến mở rộng trong giai đoạn này là 1043 ha

chiếm 36,93% tổng diện tích cây ăn quả trong cả thời kỳ 2000 - 2010.

- Giai đoạn 2006 - 2010

+ Nhiệm vụ: Tập trung các nguồn lực (giống, vốn, đất đai…) đẩy nhanh nhịp độ trồng mới

để hết năm 2009 hoàn thành chỉ tiêu mở rộng trồng mới 2824,5 ha và đạt quy mô sản xuất

cây ăn quả 5800 ha.

+ Tiến độ: Tổng diện tích cây ăn quả dự kiến mở rộng trong giai đoạn này là 1620 ha

chiếm 57,36% tổng diện tích cây ăn quả thời kỳ 2000 - 2010

* Quy mô và tiến độ chuyển đổi đất sản xuất cây ăn quả

Tổng quỹ đất chuyển đổi sang sản xuất cây ăn quả là 3009,2 ha trong đó:

- Đất nông nghiệp chuyển đổi sang sản xuất cây ăn quả đến 2010 là 2559,2 ha trong đó

+ Đất ruộng lúa màu chuyển đổi: 1256,8 ha.

+ Đất chuyên màu chuyển đổi: 958 ha.

- Đất sản xuất cây ăn quả thổ canh đến 2010: 2190 ha

- Đất các loại khác chuyển đổi sang cây ăn quả: 450 ha

* Dự kiến quy hoạch phát triển cây ăn quả trên địa bàn các huyện

- Huyện Thanh Trì

Tổng diện tích cây ăn quả các loại 400 ha chiếm 6,9% tổng diện tích cây ăn quả ngoại

thành Hà nội. Trong đó

Nhóm cây ăn quả chính 274 ha chiếm 68,50%

Nhóm cây ăn quả phụ 106 ha chiếm 26,50%

Nhóm cây ăn quả loại khác 20 ha chiếm 5,0%

Dự kiến quy mô cơ cấu các loại cây ăn quả huyện Thanh Trì (xem phụ lục 10)

- Huyện Từ Liêm

Tổng diện tích cây ăn quả các loại là 600 ha chiếm 10,34% diện tích cây ăn quả ngoại

thành Hà nội.

Nhóm cây ăn quả chính: 455,0 ha chiếm 75,83%

Nhóm cây ăn quả phụ: 130 ha chiếm 21,67%

Nhóm cây ăn quả khác: 15 ha chiếm 2,5%

Địa bàn trọng điểm sản xuất cây ăn quả trên của huyện Từ Liêm là tiểu vùng Tây sông

Nhuệ, Bắc Quốc lộ 32 - TV2 (440 ha) với các loại cây trồng chính là bưởi Diễn (210 ha),

nhãn (50 ha), cam Canh (33 ha).

Dự kiến quy mô cơ cấu các loại cây ăn quả Huyện Từ Liêm (xem phụ lục 11).

- Huyện Gia Lâm

Tổng diện tích cây ăn quả các loại 900 ha chiếm 15,52%

Nhóm cây ăn quả chính 570 ha chiếm 63,33%

Nhóm cây ăn quả phụ 270 ha chiếm 30,00%

Nhóm cây ăn quả khác 60 ha chiếm 6,67%

Địa bàn trọng điểm sản xuất cây ăn quả của huyện Gia Lâm là: tiểu vùng trung tâm - TV1

là 320 ha với các loại cây trồng chính là bưởi Diễn (70 ha), nhãn (50 ha). Tiểu vùng ven

sông Hồng - TV2 là 360 ha với các loại cây trồng chính là nhãn 190 ha.

Dự kiến quy mô cơ cấu các loại cây ăn quả Huyện Gia Lâm (xem phụ lục 12).

- Huyện Đông Anh

Tổng diện tích cây ăn quả các loại 1350 ha chiếm 23,27%

Nhóm cây ăn quả chính là 1040 ha chiếm 77,04%

Nhóm cây ăn quả phụ là 280 ha chiếm 20,74%

Nhóm cây ăn quả khác là 30 ha chiếm 2,22%

Địa bàn sản xuất trọng điểm cây ăn quả của Đông Anh là: Tiểu vùng miền Tây - TV4 là

440 ha với các loại cây trồng chính: bưởi Diễn (135 ha), nhãn (100 ha); Tiểu vùng miền

Đông - TV1 là 410 ha với các loại cây trồng chính: nhãn (120 ha), bưởi Diễn (105 ha).

Dự kiến quy mô cơ cấu các loại cây ăn quả Huyện Đông Anh (xem phụ lục 13).

- Huyện Sóc Sơn

Tổng diện tích cây ăn quả các loại 2550 ha chiếm 43,97%

Nhóm cây ăn quả chính: 1531 ha chiếm 60,04%

Nhóm cây ăn quả phụ: 969 ha chiếm 38,00%

Nhóm cây ăn quả khác: 50 ha chiếm 1,96%

Chi tiết bố trí các loại cây ăn quả trên địa bàn huyện được thể hiện ở bảng dưới đây

Dự kiến quy mô các loại cây ăn quả huyện Sóc Sơn (xem phụ lục 14).

3.3.4.4.2. Phát triển sản xuất cây ăn quả theo phương án 2

Phương án 2 có sự thay đổi rất lớn về bố trí sản xuất trên địa bàn 3 huyện: Sóc Sơn, Đông

Anh và Gia Lâm. Với quy mô khá lớn đất lúa - màu, chuyển sang trồng cây ăn quả.

* Dự kiến quy mô phát triển cây ăn quả

Bảng 3.8: Dự kiến quy mô phát triển cây ăn quả

Toàn Thành phố

Hạng mục 1998 2000 2005 2010 2010/1998

Tổng số 2975.5 3235 6501 10000 7024.5

1834 2005 4919 8020 6186 I. Các loại cây ăn quả chính

61,64 61,98 75,67 80,20 88,06 Tỷ lệ (%)

1. Bưởi: tổng DT 402,4 440 1025 1625 1222,6

Tr đó: Bưởi Diễn 72,1 110 805 1360 1287,9

2. Cam quýt tổng DT 101,3 108 251 395 293,7

Tr đó: cam Canh 75,1 83 184,5 285 209,9

3. Hồng xiêm: tổng DT 236,7 255 372 515 278,3

Tr đó: Hồng xiêm Xuân Đỉnh 236,7 255 372 515 278,3

4. Vải 280 343 1451 2675 239,5

5. Nhãn 813,6 859 1820 2810 1996,4

1397 1640 537,2 1102,8 1175 II. Các loại cây ăn quả phụ

Tỷ lệ (%) 7,65 37,06 36,32 21,49 16,40

6. Chuối 675,7 705 755 850 129,3

7. Táo 274,3 283 319 355 80,7

8. Đu đủ 50,1 63 118 175 124,9

9. Hồng 12,6 24 85 155 142,4

10. Na dai 90,1 100 120 150 59,9

38,7 55 185 340 301,3 III. Các loại cây ăn quả khác

1,3 1,7 2,84 3,4 4,29 Tỷ lệ (%)

Theo phương án bố trí tới năm 2005 diện tích cây ăn quả là 6501 ha và tới năm

2010 sẽ là 10.000 ha.

Nhóm cây đặc sản và cây trồng chính là 8020 ha chiếm 80,2%

Nhóm cây ăn quả phụ là 1640 ha chiếm 16,4%

Nhóm cây ăn quả khác chủ yếu đang trong thời kỳ trồng thử nghiệm là 340 ha chiếm 3,4%

* Dự kiến phân bố sử dụng đất phát triển cây ăn quả

Bảng 3.9: Dự kiến phân bố sử dụng đất phát triển cây ăn quả

Toàn Thành phố

Hạng mục 1998 2000 2005 2010 2010/1998

Tổng diện tích cây ăn quả 2976 3235 6501 10000 7025

600,8 811 3846 7260 6659 I. Đất nông nghiệp chuyển trồng

CAQ

20,19 25,07 59,16 72,6 94,8 Tỷ lệ (%)

Trong đó

- Từ đất lúa màu chuyển đổi 39,4 209 2043 4419 4380

- Từ đất chuyên màu chuyển đổi 247 250 1303 2194 1947

- Từ đất cây lâu năm (CAQ, cây 252 255 265 282 30

LN khác)

- Từ đất vườn tạp 62,4 97 235 365 302,6

2375 2374 2305 2190 -185 II. Đất vườn trong khu dân cư

79,81 73,38 35,46 21,9 -2,63 Tỷ lệ (%)

50 350 550 550 III. Đất LN và đất khác chuyển

đổi

Tỷ lệ (%) 1,55 5,38 5,50 7,83

Dự kiến phân bố sử dụng đất trồng cây ăn quả của ngoại thành Hà nội đến năm

2010 là 10000 ha, trong đó đất nông nghiệp là 7260 ha, đất vườn trong khu dân cư là 2190

ha, đất lâm nghiệp và đất khác chuyển trồng cây ăn quả là 550 ha.

* Dự kiến phương án phát triển cây ăn quả ở các tiểu vùng kinh tế - sinh thái trên địa bàn

các huyện

- Căn cứ vào mục tiêu phát triển cây ăn quả trên địa bàn toàn thành phố.

- Căn cứ vào hiện trạng sản xuất cây ăn quả, thực trạng đất đai, thực trạng về sản

xuất truyền thống và các nguồn lực có thể huy động cho phát triển sản xuất cây ăn quả

trên địa bàn huyện.

- Căn cứ vào chủ trương và định hướng phát triển kinh tế - xã hội của các huyện.

Dự kiến quy mô diện tích và địa bàn trọng điểm phát triển sản xuất cây ăn quả trên

địa bàn các huyện ngoại thành đến năm 2010 như sau:

- Huyện Thanh Trì

Tổng diện tích cây ăn quả các loại là 400 ha chiếm 4% tổng diện tích cây ăn quả

ngoại thành Hà nội

Nhóm cây ăn quả chính là 300 ha chiếm 75%

Nhóm cây ăn quả phụ 80 ha chiếm 20,0%

Nhóm cây ăn quả khác 20 ha chiếm 5%

Địa bàn trọng điểm sản xuất cây ăn quả của huyện Thanh Trì là tiểu vùng xa đô thị - TV3

(177 ha) và tiểu vùng ven QL1A - TV2 (109,5 ha) với các loại cây trồng chính là Nhãn,

Bưởi, Hồng xiêm, Tiểu vùng ngoài đê - TV4 (81 ha) với 3 loại cây trồng chính là nhãn,

hồng xiêm, bưởi.

Dự kiến quy mô cơ cấu các loại cây ăn quả huyện Thanh Trì (xem phụ lục 15).

- Huyện Từ Liêm

Tổng diện tích cây ăn quả các loại là 600 ha chiếm 6,0%

Nhóm cây ăn quả chính 475 ha chiếm 79,17%

Nhóm cây ăn quả phụ 105 ha chiếm 17,5 %

Nhóm cây ăn quả khác 20 ha chiếm 3,33%

Địa bàn trọng điểm sản xuất cây ăn quả của huyện Từ Liêm là tiểu vùng Tây sông Nhuệ,

bắc QL32 - TV2 (325 ha); Tiểu vùng Tây sông Nhuệ, Nam QL32 - TV3 (222 ha) với các

loại cây trồng chính là bưởi Diễn, cam Canh, nhãn, hồng xiêm.

Dự kiến quy mô cơ cấu các loại cây ăn quả huyện Từ Liêm (xem phụ lục 16).

- Huyện Gia Lâm

Tổng diện tích cây ăn quả các loại 1200 ha chiếm 12,0% diện tích cây ăn quả ngoại

thành Hà nội

Nhóm cây ăn quả chính là 895 ha chiếm 74,58%

Nhóm cây ăn quả phụ là 205 ha chiếm 17,08%

Nhóm cây ăn quả khác là 100 ha chiếm 8,34%

Địa bàn trọng điểm sản xuất cây ăn quả của huyện Gia Lâm là : Tiểu vùng trung tâm

(TV1); 272 ha; Tiểu vùng ven sông Hồng (TV2): 277 ha; Tiểu vùng Nam sông Đuống

(TV3): 323 ha; Tiểu vùng Bắc sông Đuống (TV4): 328 ha.

Dự kiến quy mô cơ cấu các loại cây ăn quả huyện Gia Lâm (xem phụ lục 17).

- Huyện Đông Anh

Tổng diện tích cây ăn quả các loại 3000 ha chiếm 30,0% diện tích cây ăn quả ngoại

thành Hà nội.

Nhóm cây ăn quả chính 2550 ha chiếm 85%

Nhóm cây ăn quả phụ 350 ha chiếm 11,67%

Nhóm cây ăn quả khác 100 ha chiếm 3,33%

Địa bàn sản xuất trọng điểm của huyện Đông Anh: Tiểu vùng miền Tây (TV4): 1240 ha;

Tiểu vùng ven sông Đuống, sông Hồng (TV3): 920 ha; TIểu vùng miền Đông (TV1) 525

ha; Tiểu vùng trung tâm phía Bắc (TV2) 315 ha. Các cây ăn quả chính gồm: nhãn, vải

thiều, bưởi, hồng xiêm.

Dự kiến qui mô cơ cấu các loại cây ăn quả huyện Đông Anh (xem phụ lục 18).

- Huyện Sóc Sơn

Tổng diện tích cây ăn quả các loại 4800 ha chiếm 48% diện tích cây ăn quả ngoại

thành Hà nội.

Nhóm cây ăn quả chính là 3800 ha chiếm 79,17%

Nhóm cây ăn quả phụ là 900 ha chiếm 18,75%

Nhóm cây ăn quả khác là 100 ha chiếm 2,08%

Cả 3 tiểu vùng của huyện Sóc Sơn đều sản xuất cây ăn quả với quy mô khá lớn.

Tiểu vùng 1 (TV1) 2540 ha; Tiểu vùng giữa và đất bằng (TV2) là 1620 ha; Tiểu vùng ven

sông (TV3) là 640 ha. Các cây ăn quả chính là vải thiều, nhãn, bưởi, cam quýt, hồng

xiêm..

Dự kiến quy mô cơ cấu các loại cây ăn quả huyện Sóc Sơn (xem phụ lục 19).

Kết luận:

ở phương án 1, khối lượng sản phẩm quả dự kiến đến năm 2010 đạt từ 53.000 - 55.000 tấn,

đến năm 2015 sản phẩm quả có thể đạt 75.000 - 85.000 tấn đáp ứng được 30 - 32% tổng

nhu cầu quả của Thủ đô.

ở phương án 2, khối lượng sản phẩm quả dự kiến đến năm 2010 đạt từ 70.000 - 75.000 tấn

quả các loại, đến năm 2015 sản phẩm quả có thể đạt 100.000 - 120.000 tấn quả các loại

đáp ứng được 40 - 45% nhu cầu quả của Thủ đô.

Căn cứ vào thực tế và khả năng sản xuất của vùng đất ven sông Hồng, chúng tôi thấy

phương án 1 là thích hợp hơn cả. Phương án 1 không những đáp ứng nhu cầu quả tươi của

Thủ đô mà còn góp phần trong việc giữ gìn cảnh quan, du lịch sinh thái.

Kết luận và kiến nghị

Kết luận

1. Hà nội nói riêng và vùng đất ven sông Hồng nói chung là nơi có mật độ dân đông

nhất cả nước, trong tương lai phát triển có thể đạt tới 4 - 5 triệu dân. Đó là thị trường có

sức tiêu thụ quả rất lớn và đòi hỏi chất lượng quả ngày càng cao. Điều đó tạo cơ sở quan

trọng cho việc thúc đẩy phát triển các hệ thống canh tác, đặc biệt hệ thống canh tác cây ăn

quả ngoại thành Hà nội cả về bề rộng lẫn bề sâu. Phát triển hệ thống canh tác cây ăn quả là

bước đột phá tạo ra mối quan hệ hài hòa với phát triển kinh tế xã hội của Hà nội, để khai

thác giá trị về du lịch sinh thái và nghỉ dưỡng cho nhân dân.

2. Diện tích cây ăn quả vùng đất ven sông Hồng chiếm 7,5% diện tích đất nông

nghiệp trong đó tập trung nhiều ở Sóc Sơn, Đông Anh. Năng suất của các hệ thống canh

tác cây ăn quả của vùng đạt mức trung bình khá, năng suất có liên quan đến nhiều yếu tố

tác động như sinh thái, kỹ thuật và trình độ canh tác.

3. Hai loại cây ăn quả đặc sản là cam Canh: diện tích 82,5 ha chiếm 2,7% diện tích;

bưởi Diễn 82,9ha chiếm 2,7% diện tích cây ăn quả.

4. Những nghiên cứu đánh giá về sinh trưởng phát triển các loại cây ăn quả cho

thấy: những loại cây ăn quả có giá trị kinh tế, có các chỉ số về sinh thái đạt mức trung bình

khá, khá, có cây đã trở thành đặc sản của Hà nội như Cam Canh, bưởi Diễn. Cũng như một

số cây trồng mới như: đu đủ Đài Loan, xoài giống lùn Trung Quốc, phù hợp với các điều

kiện sinh thái của vùng và nếu đáp ứng đủ các điều kiện về kỹ thuật cũng sẽ trở thành cây

đặc sản của vùng.

5. Những tiềm năng sinh thái ở vùng đất ven sông Hồng thuận lợi cho việc phát

triển hệ thống canh tác cây ăn quả:

- Tiềm năng về khí hậu cho phép sản xuất ra các loại cây ăn quả có chất lượng

cao.

- Loại đất thích hợp cho canh tác cây ăn quả (bao gồm S1, S2, S3) là 33.790 ha,

bằng 82,2% tổng diện tích đất nông nghiệp.

- Vùng đất ven sông Hồng có nguồn nước tưới phong phú và chất lượng tốt phục

vụ cho sản xuất nông nghiệp nói chung và hệ thống canh tác cây ăn quả nói riêng.

6. Để phát triển hệ thống canh tác vùng đất ven sông Hồng nói chung và Hà nội nói

riêng có hiệu quả kinh tế cao, ổn định và bền vững, đòi hỏi phải thực hiện đầy đủ và đồng

bộ các giải pháp: Đầu tư mở rộng thị trường tiêu thụ quả trong nước và xuất khẩu; áp dụng

và thực hiện rộng rãi các biện pháp kỹ thuật và công nghệ tiến tiến trong các lĩnh vực: sản

xuất, bảo quản và chế biến quả. Có các cơ chế chính sách phù hợp để thúc đẩy cho sản

xuất phát triển.

Kiến nghị

1. Thành phố và các Ngành có liên quan cần ban hành một số chính sách, cơ chế

khuyến khích phát triển sản xuất. Trước tiên tập trung vào các lĩnh vực: chuyển đổi đất

sang canh tác cây ăn quả, chuyển giao tiến bộ kỹ thuật, công nghệ, cơ chế ưu đãi về vay

vốn.

2. Cần có các đề tài, dự án tiếp tục nghiên cứu sâu hơn một số vấn đề có liên quan

như: nguồn gốc đặc điểm sinh vật học của 3 loại cây ăn quả đặc sản, nhằm bảo tồn và nhân

rộng ra sản xuất. Các kỹ năng, kỹ sảo trong sản xuất, bảo quản cũng như công nghệ tiên

tiến trong bảo quản.

3. UBND Thành phố, các Bộ, Ngành liên quan ở Trung ương và Hà nội tạo mọi

điều kiện để tiến hành quy hoạch phát triển cây ăn quả của Hà nội đến

năm 2010.

Tài liệu tham khảo

Tài liệu tiếng việt

1. Lê Thị Bích, Trần Thế Tục. Đánh giá các hệ thống cây trồng hiện đang áp dụng ở

các vùng sinh thái nông nghiệp đất phù sa sông Hồng địa hình cao, Tạp chí nông

nghiệp - CNTP số 406.

2. Phùng Văn Chinh, Lý Nhạc. Canh tác học, NXB Nông nghiệp, Hà nội, 1987.

3. Tổn Thất Chiểu - Lê Thái Bạt. Sử dụng tốt tài nguyên đất để phát triển và bảo vệ

môi trường. Tạp chí khoa học đất, số 31/1993.

4. Phạm Tiến Dũng - Một số phương pháp phân loại hộ nông dân vùng đồng bằng

sông Hồng. Kết quả nghiên cứu khoa trồng trọt 1986 - 1991, NXB Nông nghiệp

1993.

5. Đỗ ánh, Bùi Đình Dinh. Đất, phân bón và cây trồng. Tạp chí khoa học đất, NXB

NN Hà nội 2 - 1992.

6. Bùi Huy Đáp. Một số kết quả nghiên cứu đầu tiên về cơ cấu cây trồng. Tạp chí

KHKTNN số 7 - 1996.

7. Hải Đạt. Nông trại gia đình trong nông nghiệp Mỹ. Tạp chí TTLL, 1/1991 trang 41-

42.

8. Lê Thành Đường. Hiệu quả kinh tế của 6 loại màu trồng sau vụ lúa nổi tại Châu

Phú - An Giang. Tài liệu hội nghị hệ thống canh tác Việt Nam Lần thứ II năm 1991.

9. Lê Thành Đường. Nghiên cứu hiệu quả kinh tế của các loại hoa màu trồng sau lúa

nổi tại Phú Châu - An Giang, 1992.

Trần Đức. Sở hữu và cây đời. NXB Sự thật, Hà nội 1991. 10.

Nguyễn Điền, Trần Đức. Kinh tế trang trại gia đình trên thế giới và châu á. NXB 11.

Thống kê, 1993.

12. Hoàng Văn Đức. Hệ canh tác, hướng phát triển nông nghiệp. Tạp chí khoa học

nông nghiệp, 1980.

13. Hoàng Văn Đức. Hội thảo về nghiên cứu và phát triển hệ canh tác cho nông dân

trồng lúa châu á, NXB Nông nghiệp, 1992.

14. Phạm Vân Đình. Khảo sát ảnh hưởng của một số nhân tố kinh tế xã hội đến thu

nhập của các hộ nông dân trên các vùng sinh thái Thừa Thiên Huế. Tài liệu hội nghị

hệ thống canh tác Việt Nam Lần thứ II năm 1991.

15. Phạm Vân Đình. Báo cáo tổng kết đợt 1 chương trình nghiên cứu phát triển kinh tế

xã hội nông thôn. ủy ban nhân dân huyện Sóc Sơn, hà nội, tháng 6/1992.

16. Dufumier M. Phân tích những hệ thống nông nghiệp. NXB Tp Hồ Chí Minh, 1992.

17. Lê Thanh Hà. Nghiên cứu một số hệ thống canh tác hiện có trên đất dốc ở Văn Yên

- Yên Bái. Luận án PTSKHNN, trường ĐH Nông nghiệp I Hà nội, 1993.

18. Đào Trọng Hải. Nghiên cứu một số hệ thống cây trồng trên các vùng tái định cư

ven hồ Yaly huyện Sa Thầy, tỉnh Kon Tum. Luận án thạc sỹ KHNN, Hà nội, 1997.

19. Phạm Thanh Hải. Hệ thống cây trồng trên một số loại đất chính huyện Lương Sơn

tỉnh Hòa Bình. Luận án PTSKHNN, Hà nội, 1995.

20. Đỗ Văn Hòa. Xác định mô hình cơ cấu cây trồng thích hợp trên đất dốc vùng cao

miền núi phía Bắc góp phần bổ sung các giải pháp cho chương trình thay thế cây

thuốc phiện. Luận án PTSKHNN, Hà nội, 1996.

21. Kinh tế thế giới, tháng 11 + 12/1990.

22. Triệu Quốc Kỳ. Quản lý đất và nước trong hệ thống canh tác lúa nước. Tài liệu

dịch. Tạp chí KHNN số 2, Hà nội, 1994.

23. Cao Liêm, Trần Đức Viên. Sinh thái học nông nghiệp và bảo vệ môi trường. NXB

ĐH và GDCN, Hà nội, 1990.

24. Nguyễn Văn Luật. Hiệu quả kinh tế những mô hình Nông Lâm - Ngư trong vuông.

Tài liệu hội nghị Hệ thống canh tác Việt Nam Lần thứ III năm 1992.

25. Odum E.P. Cơ sở sinh thái học. NXB ĐH và GDCN, Hà Nội, 1979.

26. Trần An Phong. Kết quả bước đầu nghiên cứu cơ sở khoa học cải thiện hệ thống

cây trồng trên quan điểm sinh thái và phát triển lâu bền. Kết quả nghiên cứu khoa

học kỹ thuật. Viện Quy hoạch và TKNN, NXB Nông nghiệp, 12/1993.

27. Trần An Phong. Cơ cấu mùa vụ cây trồng đồng bằng sông Cửu Long. Báo cáo

khoa học chương trình 02A.01.02.

28. Lê Hưng Quốc. Chuyển đổi cơ cấu cây trồng vùng gò đồi tỉnh Hà Tây. Luận án

PTS khoa học nông nghiệp, 1994.

29. Phạm Bình Quyền và ctv. Hệ sinh thái vùng đồng bằng. Chương trình khoa học

cấp nhà nước 52D-02, 1990.

30. Mai Văn Quyền. Hiện trạng cây trồng trên đất xám huyện Đức Hòa - Long An. Tài

liệu hội nghị mạng lưới hệ thống canh tác Việt Nam lần thứ III năm 1992.

31. Phạm Chí Thành. Một số vấn đề về phương pháp luận trong nghiên cứu xây dựng

hệ thống canh tác ở miền Bắc Việt Nam. Kết quả nghiên cứu hệ thống canh tác lần

thứ II năm 1991.

32. Phạm Chí Thành, Trần Văn Diễn, Phạm Tiến Dũng, Trần Đức Viên. Hệ thống

nông nghiệp. NXB Nông nghiệp , 1993.

33. Phạm Chí Thành. Bài giảng Lâm học. Tài liệu nội bộ, Đại học Nông nghiệp, 1993.

34. Phạm Chí Thành. Chuyển đổi hệ thống canh tác vùng kinh tế sinh thái và du lịch

ven đường 21 tỉnh Hà Tây. Báo cáo khoa học chương trình cấp Nhà nước KX08

(1994).

35. Phạm Chí Thành, Trần Đức Viên. Chuyển đổi hệ thống canh tác vùng trũng ở đồng

bằng Bắc Bộ, NXB Nông nghiệp 1994.

36. Phạm Chí Thành, Phạm Tiến Dũng, Đào Châu Thu, Trần Đức Viên. Hệ thống nông

nghiệp (Giáo trình cao học). NXB Nông nghiệp, 1996.

37. Lê Đình Thắng và các cộng sự. Phát triển kinh tế nông hộ theo hướng sản xuất

hàng hóa. NXB Nông nghiệp, 1993.

38. Đào Châu Thu và ctv. Xây dựng mô hình nông lâm kết hợp trên vùng đất đồi Tam

Đảo - Vĩnh Phú (báo cáo khoa học), 1994.

39. Nguyễn Duy Tính. Nghiên cứu hệ thống cây trồng vùng ĐBSH. NXB Nông nghiệp,

Hà nội 1995.

40. Nguyễn Duy Tính. Nghiên cứu hệ thống cây trồng vùng Đồng Bằng Sông Hồng và

bắc Trung Bộ, NXB Nông nghiệp, Hà nội 1995.

41. Nguyễn Ngọc Trâm. Nghiên cứu cơ cấu cây trồng và hệ thống luân canh cây trồng

vùng đất cát ven biển Thừa Thiên - Huế, 1994.

42. Bùi Quang Toản. Một số vấn đề đất nương rẫy ở Tây Bắc và phương hướng sử

dụng. Luận án PTS KHNN, 1991.

Đào Thế Tuấn. Bố trí cơ cấu cây trồng hợp lý ở hợp tác xã. NXB Nông thôn 1962. 43.

Đào Thế Tuấn. Cơ sở khoa học để xác định cơ cấu cây trồng, NXB Nông nghiệp, 44.

1984.

Đào Thế Tuấn. Hệ sinh thái nông nghiệp. NXB KHKT, Hà nội 1984. 45.

Đào Thế Tuấn. Chiến lược phát triển nông nghiệp. NXB Nông nghiệp, 1986. 46.

Đào Thế Tuấn. Hệ thống nông nghiệp đồng bằng sông Hồng. UBND thành phố Hà 47.

nội 1989.

48. Tào Quốc Tuấn. Nghiên cứu xác định cơ cấu cây trồng hợp lý vùng phù sa ngọt

đồng bằng Sông Cửu Long, 1994.

Nguyễn Vy. Đất nào cây ấy. NXB KHKT, 1982. 49.

50. Bùi Thị Xô. Xác định cơ cấu cây trồng hợp lý ở ngoại thành Hà nội. Luận án

PTSKHNN, Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp Việt Nam, 1994.

51. Võ Tòng Xuân. Phương pháp nghiên cứu và phát triển hệ thống canh tác tại Việt

Nam, IRRI - Đại học Cần Thơ, 1993.

52. Võ Tòng Xuân. Nghiên cứu và phát triển hệ thống canh tác lúa tôm trên nước ngọt

Phụng Hiệp, Cần Thơ.

Tài liệu tiếng nước ngoài

53. Baker. E. F. L: Research ino intercroping aspects of farming systems in Nigeria.

Ahmadu Bello University, Zaria, Nigeria, 1974

54. Conway G.R Agricultural Ecology and Farming Systems Research. ACAAR

(Australian Council for Agricultural Research) Canbera - 1985.

55. Conway G.R - Agroecology Analysis for Research and Development. Winrock

International Institute for Agricultural Development, Bangkok, 1986.

56. Chambers, Robert. Rural Development: Putting the Last First. Longman, Harlow,

1983.

57. FAO - Farming Systems Development: Concepts, Methods, Application. Rome,

1989.

58. FAO - Institutionalization of a Farming Systems Approach to Developement.

Rome, 1992.

59. Grigg D. B - The Agricultural Systems of the World – Cambridge University Press,

1977.

60. IRRI. Symposium on Cropping systems research and development for the ASEAN

rice farmers IRRI - Los Banhos, Phillippines 1977.

61. McCraken, Jennifer; Pretty, Jules; Conay, Gordon - An Introduction to Rapid Rural

Appraisal for Agricultural Development. IIED, London, 1988.

62. International Institute of Rural Reconstruction - Farmer - Proven Integrated

Agriculture - Aquaculture: A Technology Information Kit. Silang Cavite,

Philippines, 1992.

63. Shanner W.W, Philipp P. F, Schemahl W.R - Farming Systems Research and

Development, West View Press, Boulder, Colorado, USA, 1984.

64. Tejwani, V. L - Chun K.Lai: Asia - Pacific Agroforestry Profiles. Agroforestry

systems research and development in the Asia and Pacific Region

(GCP/PAS/133/JPN), Borgor, Indonesia - 1992.

65. Zandstra H.G, Price E.C A Methodology for an farm cropping systems research

IRRI, 1981.

Phần phụ lục

Phụ lục 1: Các thời kỳ sinh trưởng và phát dục của bưởi Diễn

Chỉ tiêu khảo sát Dạng 1 Dạng 2 Dạng 3 TB

1. Thời gian ra lộc cành:

12 - - Vụ Xuân 15-20/2 15-20/2 Giữa T.2

2TB nhiều khá

- Vụ Hè 5-10/6 5-15/6 5-15/6 10/6

nhiều nhiều nhiều

- Vụ Thu 7-10/9 10-15/9 5-15/9 12/9

nhiều nhiều nhiều

- Vụ Đông 15/11 ít 15/11 ít 15/11 ít 15/11

2. Thời gian nở hoa 17-20/2 20-25/2 20-25/2 20/2

3. Thời gian hoa tàn, đậu quả 10-15/3 15-20/3 15-20/3 17/3

4. Thời gian quả bắt đầu lên mã 15- 15/11 10-15/11 15/11

20/11

5. Thời gian ra lộc, ổn định cành 20-22 22-23 20-23 21

25 - Vụ Xuân (ngày) 20-25 25 23

15-20 - Vụ Thu (ngày) 20 20 17

5. Mức độ sinh trưởng cây TB yếu Trung TB khá Trung

bình bình

7. Thời gian thu hoạch quả 25- 25/12-5/1 20-25/2 25/12

30/12

8. Khả năng để quả trên cây (điều Kém Kém Kém Kém

tra)

Phụ lục 2: Các đặc điểm sinh học chủ yếu của bưởi Diễn

Chỉ tiêu khảo sát Dạng 1 Dạng 2 Dạng 3 Trung bình

1. Chiều cao cây 10 tuổi (m) 2,8 3,3 4,1 3,4

2. Đường kính tán cây 10 tuổi 3,2 3,6 4,3 3,7

(m)

3. Kích thước của phiến lá

- Dài (cm) 7,8 8.7 9,1 8,5

- Rộng (cm) 4,5 5,8 5,4 6,0

- Dài/Rộng 1,7 1,5 1,6 1,5

4. Kích thước của eo lá:

- Dài (cm) 2,8 3,0 3,1 3,5

- Rộng (cm) 2,1 3,1 2,6 2,5

- Dài/ Rộng 1,33 0,96 1,19 1,4

5. Hình dạng của eo lá Bầu hình Hình tim Hình Bầu

tim thuẫn

6. Hình dạng đầu mút lá (đỉnh Chia thuỳ Chia thuỳ, Nhọn, -

hơi thẳng bằng lá) ngắn

7. Độ dài đốt cành trung bình 0,94 1,16 1,12 1,26

(cm)

8. Tỷ lệ các loại cành hoa/cây

(%)

63,3 73,3 - Cành đơn có lá 66,6 63,3

26,6 20,0 - Cành chùm ít lá 24,6 26,6

6,7 3,3 - Cành chùm không có lá 4,4 3,3

3,3 3,3 - Cành đơn không có lá 4,4 6,7

3 9. Số lượng đợt lộc ra trong 2 - 3 - 3 - 4

năm (đợt)

10. Sâu bệnh hại chủ yếu Vẽ bùa, Vẽ bùa, Vẽ bùa, Vẽ bùa,

nhện, rệp nhện, rệp nhện, nhện, rệp

rệp

Khá 11. Khả năng chịu úng Khá Khá Khá

12. Khả năng chịu bóng Khá Trung Trung Trung

bình bình bình

Phụ lục 3: Một số đặc tính kinh tế của bưởi Diễn

Chỉ tiêu khảo sát Dạng 1 Dạng 2 Dạng 3 Trung bình

1. Số quả/cây độ tuổi 10t 65 58 44 55,7

(quả/cây)

- Xã Phú Diễn 57 39 48,7 50

- Xã Minh Khai 60 50 63,3 80

2. Trọng lượng quả (gr) 1223 1375 1150 850

3. Số múi/ quả (múi) 13 13 13 13

4. Số hạt/quả (hạt) 47 52 48 45

5. Tỷ lệ phần ăn được (%) 61,4 57,5 60,7 63,2

6. Năng suất quả/cây 10t 70,9 60,5 64,0 55,2

(kg/cây)

7. Màu sắc vỏ quả Vàng đậm Vàng Vàng tươi Vàng

đậm

8. Màu sắc con tép quả Xanh - Vàng Trắng Vàng

vàng đậm vàng

9. Khả năng bảo quản sau thu Khá Khá Khá Khá

hoạch (Điều tra nông hộ)

Phụ lục 4: Một số đặc điểm hình thái của 3 dạng hình giống bưởi Diễn

Trung Chỉ tiêu khảo sát Dạng 1 Dạng 2 Dạng 3 bình

1. Chiều cao cây (3), cây 10t 2,8 3,3 4,1 3,4

2. Đường kính tán cây 3,2 3,6 4,3 3,7

3. Kích thước lá

- Dài lá (cm) 7,8 8,7 9,1 8,5

- Rộng lá (cm) 4,5 5,8 6,0 5,4

- Dài/Rộng 1,7 1,5 1,5 1,6

4. Đặc điểm của đỉnh lá Chia thuỳ, Chia Nhọn, ngắn -

hơi bằng thuỳ,

bằng

5. Kích thước eo lá: Dài x Rộng 2,8 x 2,1 3,0 x 3,1 3,5 x 2,5 3,1 x

(cm) 2,6

6. Hình dạng tán cây Mâm xôi Mâm xôi Mâm xôi, Mâm

xôi nhọn

1,12 1,26 7. Độ dài đốt cành (cm) 0,94 1,16

8. Màu sắc của tép quả Xanh - Vàng Trắng-vàng Vàng

vàng đậm

9. Hình dạng của quả Lê Lê tròn Tròn

Phụ lục 5: Các thời kỳ sinh trưởng của cam Canh

Các thời kỳ sinh trưởng D2: cam đường D3: cam mật Trung bình

1. Thời gian ra lộc cành của cây

- Lộc vụ xuân 5-15/2, nhiều 5-10/2, nhiều 10/2

- Lộc vụ hè 25-30/6, ít 25/6, khá 27/6

- Lộc vụ thu 15-20/9, nhiều 15-20/9, 17/9

nhiều

- Lộc vụ đông 10-15/11, ít 10/11, ít 12/11

2. Thời gian nở hoa 25/2 - 5/3 10-15/3 10/3

3. Thời kỳ tàn hoa 25/3 25/3 25/3

4. Thời gian lên mã của quả 15-20/11 15-20/11 17/11

5. Thời gian chín của quả 15-30/1 15-30/11 Cuối tháng

1

6. Mức độ sinh trưởng của cây Yếu-trung bình Trung bình Trung bình

7. Khả năng để quả trên cây Kém Khá Trung bình

8. Mức độ rụng của lá sau thu Lá rụng nhiều Lá rụng ít Tụng lá

hoạch

Phụ lục 6: Đặc điểm sinh học chủ yếu của Cam Canh

Các đặc điểm sinh học của cây Trung bình D2: Cam D3: Cam mật

đường

1. Kích thước lá

- Chiều dài (cm) 6,5 7,1 6,8

- Chiều rộng (cm) 3,0 3,1 3,0

2. Chỉ số lá D/R 2,16 2,29 2,2

3. Tỷ lệ cành hoa (%)

- Loại cành đơn có lá 65,0 75,0 70,0

- Loại cành đơn không lá 15,0 10,0 12,5

- Loại cành chùm 1 lá 1 hoa 5,0 5,0 5,0

- Loại cành chùm ít lá 15,0 10,0 12,5

- Loại cành chùm không có lá 0,0 0,0 0,0

4. Độ dài trung bình của lộc xuân 6,3 7,5 6,9

(cm)

7,9 5. Độ dài trung bình của lộc thu 7,2 8,7

(cm)

3 6. Số lượng đợt lộc ra trong năm 3 3 - 4

(đợt)

1,5 1,35 7. Độ dài đốt cành 1,2

- 8. Màu sắc lá Xanh vàng Xanh hơi đậm

3,5 3,1 9. Đường kính tán cây 10 - 15 tuổi 2,8

(m)

32 29,5 10. Chu vi gốc cây 10 - 15 tuổi (cm) 27

11. Sâu hại chủ yếu trên cây Vẽ bùa, Vẽ bùa, nhện, Vẽ bùa, nhện,

rầy nhện, rầy rầy

12. Bệnh hại chủ yếu trên cây Sẹo, chảy Sẹo, chảy gôm Sẹo, chảy gôm

gôm

Phụ lục 7: Một số đặc điểm hình thái lá, quả của 3 dạng

hình Cam Canh

Kích thước lá Đặc Số

điểm Hình Màu quả/cây Rộng Dạng của dạng sắc của (quả/cây) Tỷ lệ Dài lá lá đỉnh tán cây quả cây 10t- (D/R) (cm) (cm) 15t mút lá

Dạng 1: Cam Nhọn, Mâm Vàng 8,5 3,2 2,65 300-350 xôi đỏ chua dài

Dạng 2: Cam Tù, 6,5 3,0 2,16 Hình dù Đỏ tươi 800-1000 đường ngắn

Nhọn, Hình dù Dạng 3: Cam mật 7,1 3,1 2,29 Đỏ đậm 500-800 ngắn rộng

Phụ lục 8: Hàm lượng dinh dưỡng của

một số sản phẩm quả của Hà nội

Thành phần sinh khoáng

Vitamin Chất Đường Axit Mẫu quả Nơi lấy mẫu Khoán C khô tổng số hữu cơ g (%) (mg/100g (%) (%) (%) )

Ô.Tiến-Minh 1. Cam Canh 13,3 9,3 0,4 0,07 14,6 Khai-Từ Liêm

Ô. Thuần-Phú 2. Bưởi Diễn 9,1 6,0 0,2 0,05 29,7 Diễn-Từ Liêm

Đại học NNI 3. Bưởi 10,8 7,2 0,45 0,65 44,0 Gia Lâm Pumelo

Ô. Cường-Bắc 4. Vải thiều 18,5 15,0 0,6 0,4 16,7 Sơn-Sóc Sơn

5. Hồng Ô.Long-Xuân 11,4 15,1 13,0 0,81 0,92 xiêm Đỉnh-Từ Liêm

Ô. Thẩm-

6. Na dai T.Dược-Sóc 22,0 14,5 1,22 0,12 30,0

Sơn

Phụ lục 9: Đầu tư và hiệu quả kinh tế 1 ha của một số cây ăn quả chính ngoại thành Hà nội

Đơn vị: triệu đồng

Đầu tư T.mới Tổn Tổn Thu Tỷ S Loại cây Đầu tư hàng năm +KTCB g g nhậ suất T

T Tổng C.sóc Khấu thu nhậ p lợi

Trồn KT T..mới KD hao Tổn p thuầ nhu

g mới CB +KTC (TB/nă hàng g n ận

B m năm

170, 163, 158, 141 1 Cam Canh 17,9 15,1 33,0 10,0 1,2 11,2 0 5 8 7

2 Cam khác 5,8 11,4 17,2 7,4 28,8 23,8 21,4 289 6,7 0,7

3 Bưởi Diễn 12,4 13,3 25,7 9,6 82,5 76,3 72,9 759 8,6 1,0

4 Bưởi khác 4,5 9,2 13,7 5,7 15,2 11,5 9,5 166 5,1 0,6

Hồng 3,6 5,6 9,2 5,1 0,2 5,3 26,4 24,5 21,1 398 5 xiêm

6 Vải thiều 4,9 9,8 14,7 5,7 0,3 6,0 38,4 34,9 32,4 540

26,0 Hồng nhân 5,2 10,2 15,4 6,0 0,4 6,4 19,6 44,1 306 7 21,7 hậu

8 Na dai 7,3 13,2 20,5 8,0 1,8 9,8 52,0 44,3 42,2 430

Phụ lục 10: Dự kiến quy mô cơ cấu các loại cây ăn qủa huyện Thanh Trì

Đơn vị: ha

Toàn huyện Các tiểu vùng KT sinh thái

Các chỉ tiêu Năm 2010 1998 2000 2005 2010 2010/1998 TV1 TV2 TV3 TV4

Tổng số 207,7 217 281 400 192,3 25 60 205 110

I. Các loại cây ăn 137,5 146,0 188,0 274,0 136,5 11,0 35,0 166,0 62,0

quả chính

Tỷ lệ (%) 66,20 67,28 66,90 68,50 44,00 58,33 80,98 56,36

1. Bưởi: tổng DT 17,10 19,00 35,00 75,00 57,90 5,00 10,00 50,00 10,00

Tr đó: Bưởi Diễn 3 4,9 22 60 57,0 4 8 40 8

2. Cam quýt tổng 2,7 2,7 3,0 4,0 1,3 1,0 1,0 1,0 1,0

DT

Tr đó: cam Canh 1 1 -1,0

3. Hồng xiêm: 46,8 50 60 70 23,2 10 50 10

tổng DT

Tr đó: Hồng xiêm 46,8 50 60 70 23,2 10 50 10

Xuân Đỉnh

3,4 4,3 25 21,6 10 4 15 6 4. Vải

67,5 70 100 32,5 5 80 10 50 35 5. Nhãn

II. Các loại cây ăn 67,1 66 106 38,9 9 81 20 34 43

quả phụ

Tỷ lệ (%) 32,3 30,4 28,8 26,5 36,0 33,3 16,6 39,1

6. Chuối 48,60 51,00 61,00 81,00 32,40

7. Táo 12,4 12 16 20 7,6

3 4 5 2,5 2,5 8. Đu đủ

0,7 9. Hồng

2,9 10. Na dai

III. Các loại cây 3,1 5,0 12,0 20,0 16,9 5,0 5,0 5,0 5,0

ăn quả khác

Tỷ lệ (%) 1,49 2,30 4,27 5,00 20,00 8,33 2,44 4,55

Phụ lục 11: Dự kiến quy mô cơ cấu

các loại cây ăn quả Huyện Từ Liêm

Đơn vị: ha

Các tiểu vùng KT sinh Toàn huyện thái Các chỉ tiêu Năm 2010 1998 2000 2005 2010 2010/1998 TV1 TV2 TV3 TV4

Tổng số 349 370 468 600 251 80 440 80

I. Các loại cây ăn 214,8 229 334 455 240,2 50 340 65

quả chính

61,5 61,8 71,4 75,8 62,4 77,3 81,25 Tỷ lệ (%)

1. Bưởi: tổng DT 42,2 55 150 250 207,8 10 220 20

Tr đó: Bưởi Diễn 40,7 53,5 125 230 189,3 5 210 15

2. Cam quýt tổng DT 31,7 32 37 50 18,3 10 40

Tr đó: cam Canh 29,6 31 34 40 10,4 7 33

3. Hồng xiêm: tổng 61 65 70 60,4 9,6 40 5 25

DT

Tr đó: Hồng xiêm 60,4 61 65 70 9,6 40 25 5

Xuân Đỉnh

12,1 13 14 15 2,9 10 5 4. Vải

68,4 68 68 70 1,6 20 50 5. Nhãn

II. Các loại cây ăn 130,5 136 124 130 -0,5 25 10 95

quả phụ

37,4 36,8 26,5 21,7 31,3 21,6 12,5 Tỷ lệ (%)

23,3 30 45 70 46,7 6. Chuối

99,2 95 64 40 -59,2 7. Táo

3,5 5 8 10 6,5 8. Đu đủ

1,2 2 3 5 9. Hồng

10. Na dai 3,3 4 5 4

III. Các loại cây ăn 3,7 10 15 11,3 5 5 5 5

quả khác

1,06 135 2,14 2,50 6,25 1,14 6,25 Tỷ lệ (%)

Phụ lục 12: Dự kiến quy mô cơ cấu

các loại cây ăn quả Huyện Gia Lâm

Đơn vị: ha

Toàn huyện Các tiểu vùng KT sinh thái

Các chỉ tiêu Năm 2010 1998 2000 2005 2010 2010/1998 TV1 TV2 TV3 TV4

Tổng số 460,7 489 646 900 439,3 320 360 130 90

I. Các loại 332,4 346,6 428 570 237,6 195 250 75 50

cây ăn quả

chính

Tỷ lệ (%) 72,15 70,88 66,25 63,33 60,94 69,44 57,69 0,00

1. Bưởi: tổng 44,7 50 90 150 105,3 100 30 15 5

DT

Tr đó: Bưởi 2,1 7,4 46 100 97,9 70 20 8 2

Diễn

2. Cam quýt 13,9 14,5 17,9 20 6,1 15 5

tổng DT

Tr đó: cam 10,6 11 13 15 4,4 11 3

Canh

3. Hồng 46,3 47 55 70 23,7 15 25 25 5

xiêm: tổng

DT

Tr đó: Hồng 43,6 47 55 70 26,4 15 25 25 5

xiêm Xuân

Đỉnh

7,8 9,8 14,5 30 22,2 15 5 5 5 4. Vải

5. Nhãn 219,7 225,3 250,6 300 80,3 50 190 30 30

II. Các loại 121,8 135,4 188 270 148,2 100 90 45 35

cây ăn quả

phụ

Tỷ lệ (%) 26,44 27,69 29,10 30,00 31,25 25,00 34,62 0,00

6. Chuối 60,9 67 120 80

75 90 7. Táo 50,2 56,4

20 30 5 8. Đu đủ 4,1

6 20 4 9. Hồng 3,7

7 10 3 10. Na dai 2,9

III. Các loại 30 60 7 6,5 53,5 25 20 10 5

cây ăn quả

khác

Tỷ lệ (%) 1,41 1,43 4,64 6,67 7,81 7,81 7,69 0,00

Phụ lục 13: Dự kiến quy mô cơ cấu

các loại cây ăn quả Huyện Đông Anh

Đơn vị: ha

Toàn huyện Các tiểu vùng KT sinh thái

Các chỉ tiêu Năm 2010 1998 2000 2005 2010 2010/1998 TV1 TV2 TV3 TV4

Tổng số 842,4 866 1049 1350 507.6 410 140 360 440

I. Các loại cây ăn 678,4 691,6 825 1040 361,6 325 90 265 360

quả chính

Tỷ lệ (%) 80,53 79,86 78,65 77,04 79,27 64,29 73,61 81,82

120 1. Bưởi: tổng DT 209,9 215 285 400 190,1 20 115 145

105 Tr đó: Bưởi Diễn 21,1 26,2 162 350 328,9 10 100 135

2. Cam quýt tổng 5 24,3 24,5 25 30 5,7 10 5 10

DT

4 Tr đó: cam Canh 20,3 20,3 20,5 25 4,7 9 4 8

3. Hồng xiêm: 64,7 65 85 120 55,3 40 15 15 50

tổng DT

Tr đó: Hồng xiêm 64,7 65 85 120 55,3 40 15 15 50

Xuân Đỉnh

4. Vải 53,2 60,8 100 160 106,8 40 25 40 55

5. Nhãn 326,3 326,3 330 330 3,7 120 20 90 100

II. Các loại cây ăn 45 90 70 152,7 161,9 206 280 127,3 75

quả phụ

Tỷ lệ (%) 18,13 18,70 19,64 20,74 18,29 32,14 25,00 15,91

6. Chuối 61,3 68 70 85 23,7

7. Táo 58,9 58,9 70 85 26,1

8. Đu đủ 9,8 12 35 60 50,2

9. Hồng 2,7 3 6 15 12,3

10. Na dai 20 20 25 35 15

III. Các loại cây 18 30 11,3 12,5 18,7 10 5 5 10

ăn quả khác

Tỷ lệ (%) 1,34 1,44 1,72 2,22 2,44 3,57 1,39 2,27

Phụ lục 14: Dự kiến quy mô cơ cấu

các loại cây ăn quả huyện Sóc Sơn

Đơn vị: ha

Toàn huyện Các tiểu vùng KT sinh thái

Các chỉ tiêu Năm 2010 1998 2000 2005 2010 2010/1998 TV1 TV2 TV3 TV4

Tổng số 1115,7 1195 1736 2550 1334,3 920 1050 580

I. Các loại cây ăn 470,9 543,8 949,9 1531 1060,1 580 635 316

quả chính

Tỷ lệ (%) 42,21 45,51 54,72 60,04 63,04 60,48 54,48

55 1. Bưởi: tổng DT 88,5 100,4 230 400 311,5 160 185

40 Tr đó: Bưởi Diễn 5,2 17,1 145,1 300 294,8 110 150

2. Cam quýt tổng 41 28,7 31,6 41,4 76 47,3 10 25

DT

30 Tr đó: cam Canh 12,9 14,3 25,6 50 37,1 5 15

3. Hồng xiêm: 10 18,5 25,7 52 80 61,5 40 30

tổng DT

Tr đó: Hồng xiêm 18,5 25,7 52 80 61,5 40 30 10

Xuân Đỉnh

4. Vải 203,5 232,1 426,5 675 471,5 310 320 45

5. Nhãn 131,7 154 200 300 168,3 60 75 165

II. Các loại cây ăn 630,7 635,7 759 969 338,3 320 395 254

quả phụ

Tỷ lệ (%) 56,53 53,20 43,72 38,00 34,78 37,62 43,79

6. Chuối 481,6 464 434 399 -82,6

7. Táo 53,6 52,7 65 70 16,4

8. Đu đủ 30,2 35 60 90 59,8

9. Hồng 4,3 11 75 230 225,7

10. Na dai 61 73 125 180 119

III. Các loại cây 14,1 15,5 27,1 50 35,9 20 20 10

ăn quả khác

Tỷ lệ (%) 1,26 1,30 1,56 1,96 2,17 1,90 1,72

Phụ lục 15: Dự kiến quy mô cơ cấu các loại cây ăn quả

huyện Thanh Trì

Đơn vị: ha

Toàn huyện Các tiểu vùng KT sinh thái

Các chỉ tiêu Năm 2010 1998 2000 2005 2010 2010/1998 TV1 TV2 TV3 TV4

Tổng số 207,7 219 299 400 192,3 32,5 109,5 177 81

I. Các loại cây ăn 137,5 148 216 300 162,5 25,5 84,5 127 63

quả chính

Tỷ lệ (%) 66,2 67,58 72,24 75 78,46 77,17 71,75 77,78

1. Bưởi: tổng DT 17,1 20 57,9 10 20,16 30 45 75 15

Tr đó: Bưởi Diễn 3 5 40 60 57 8 1,5 24 12

2. Cam quýt tổng 2,7 3 4 5 2,3 2 0,5 1

DT

Tr đó: cam Canh 1 1 1,5 1

3. Hồng xiêm: 46,8 50 60 70 23,2 20 30 15 5

tổng DT

Tr đó: Hồng xiêm 46,8 50 60 70 23,2 5 20 30 15

Xuân Đỉnh

4. Vải 3,4 5 7 10 6,6 3 5 2

5. Nhãn 67,5 70 100 140 72,5 10 40 60 30

II. Các loại cây ăn 66 5 20 40 15 67,1 73 80 12,9

quả phụ

Tỷ lệ (%) 32,3 30,14 24,42 20 15,39 18,26 22,6 18,52

6. Chuối 48,6 50 55 60 1,14

7. Táo 12,4 13 14 15 2,6

8. Đu đủ 2,5 3 4 5 2,5

9. Hồng 0,7 -0,7

10. Na dai 2,9 -2,9

III. Các loại cây ăn 3,1 5 10 20 16,9 2 5 10 3

quả khác

Tỷ lệ (%) 1,49 2,28 3,34 5 6,15 4,57 5,65 3,7

Phụ lục 16: Dự kiến quy mô cơ cấu

các loại cây ăn quả huyện Từ Liêm

Đơn vị: ha

Toàn huyện Các tiểu vùng KT sinh thái

Các chỉ tiêu Năm 2010 1998 2000 2005 2010 2010/1998 TV1 TV2 TV3 TV4

Tổng số 349 367 478 600 251 53 325 222

I. Các loại cây ăn 214.8 237 351 475 260,2 35 275 165

quả chính

Tỷ lệ (%) 61.5 64,58 73,43 79,17 66,04 84,62 74,33

1. Bưởi: tổng DT 42.2 150 250 207,8 55 5 165 80

Tr đó: Bưởi Diễn 40.7 150 250 209,3 55 5 165 80

2. Cam quýt tổng 31,7 50 70 38,3 35 50 20

DT

Tr đó: cam Canh 29,6 50 70 40,4 35 50 20

3. Hồng xiêm: tổng 60,4 67 70 9,6 65 20 25 25

DT

Tr đó: Hồng xiêm 60,4 65 67 70 9,6 20 25 25

Xuân Đỉnh

12,1 13 14 15 2,9 5 10 4. Vải

68,4 69 70 70 1,6 30 30 10 5. Nhãn

II. Các loại cây ăn 40 50 15 130,5 125 117 105 -25,5

quả phụ

37,4 34,06 24,48 17,5 28,3 12,31 22,52 Tỷ lệ (%)

23,3 25 30 35 11,7 6. Chuối

99,2 95 80 60 -39,2 7. Táo

3,5 5 7 10 6,5 8. Đu đủ

1,2 -1,2 9. Hồng

3,3 -3,3 10. Na dai

III. Các loại cây ăn 3,7 5 10 20 16,3 3 10 7

quả khác

1,06 1,36 2,09 3,33 5,66 3,07 3,15 Tỷ lệ (%)

Phụ lục 17: Dự kiến quy mô cơ cấu

các loại cây ăn quả huyện Gia Lâm

Đơn vị: ha

Toàn huyện Các tiểu vùng KT sinh thái

Các chỉ tiêu Năm 2010 1998 2000 2005 2010 2010/1998 TV1 TV2 TV3 TV4

Tổng số 460,7 504 829 1200 739,3 272 277 323 328

I. Các loại cây ăn 332,4 355 607 895 562,6 192 187 258 258

quả chính

Tỷ lệ (%) 72,15 70,44 73,22 74,58 70,59 67,51 79,88 78,66

1. Bưởi: tổng DT 44,7 50 100 150 105,3 50 50 25 25

Tr đó: Bưởi Diễn 2,1 10 100 97,9 35 35 15 15 65

2. Cam quýt tổng 13,9 15 20 6,1 7 7 3 3 17

DT

Tr đó: cam Canh 10,6 11 4,4 6 5 2 2 15 13

3. Hồng xiêm: 46,3 50 28,7 20 20 15 20 75 60

tổng DT

Tr đó: Hồng xiêm 43,6 50 60 75 28,7 20 20 15 20

Xuân Đỉnh

4. Vải 7,8 10 30 50 42,2 15 10 15 10

5. Nhãn 219,7 230 400 600 380,3 100 100 200 200

II. Các loại cây ăn 121,8 139 172 205 83,2 50 60 45 50

quả phụ

Tỷ lệ (%) 26,44 27,58 20,75 17,08 18,38 21,66 13,93 15,24

6. Chuối 60,9 70 110 49,1 90

7. Táo 50,2 60 80 29,8 70

4,1 5 7 10 5,9 8. Đu đủ

3,7 4 5 5 1,3 9. Hồng

2,9 -2,9 10. Na dai

III. Các loại cây 6,5 10 50 100 93,5 30 30 20 20

ăn quả khác

Tỷ lệ (%) 1,41 1,98 6,03 8,34 11,03 10,83 6,19 6,1

Phụ lục 18: Dự kiến qui mô cơ cấu

các loại cây ăn quả huyện Đông Anh

Đơn vị: ha

Toàn huyện Các tiểu vùng KT sinh thái

Các chỉ tiêu Năm 2010 1998 2000 2005 2010 2010/1998 TV1 TV2 TV3 TV4

Tổng số 842,4 890 1885 3000 2157,6 525 315 920 1240

I. Các loại cây 678,4 700 1570 2550 1871,6 400 250 790 1110

ăn quả chính

Tỷ lệ (%) 80,53 78,65 83,29 85 76,19 79,37 85,87 89,52

1. Bưởi: tổng 209,9 215 380 550 340,1 100 50 150 250

DT

Tr đó: Bưởi 21,1 25 250 450 428,9 80 40 120 210

Diễn

2. Cam quýt 24,3 25 90 150 125,7 10 30 45 65

tổng DT

Tr đó: cam 20,3 21 60 100 79,7 5 20 30 45

Canh

3. Hồng xiêm: 64,7 65 100 150 85,3 40 20 45 45

tổng DT

Tr đó: Hồng 64,7 65 100 150 85,3 40 20 45 45

Xuân xiêm

Đỉnh

4. Vải 53,2 65 350 700 646,8 50 50 250 350

5. Nhãn 326,3 330 650 1000 673,7 200 100 300 400

II. Các loại cây 152,7 175 260 350 197,3 100 50 100 100

ăn quả phụ

Tỷ lệ (%) 18,13 19,66 13,79 11,67 19,05 15,87 10,87 8,06

6. Chuối 61,3 70 100 38,7 85

7. Táo 58,9 60 100 41,1 80

8. Đu đủ 9,8 15 50 40,2 35

9. Hồng 2,7 5 50 47,3 25

10. Na dai 20 25 50 30 35

55 III. Các loại 11,3 15 100 88,7 25 15 30 30

cây ăn quả khác

Tỷ lệ (%) 1,34 1,69 2,92 3,33 4,76 4,76 3,26 2,42

Phụ lục 19: Dự kiến quy mô cơ cấu

các loại cây ăn quả huyện Sóc Sơn

Đơn vị: ha

Toàn huyện Các tiểu vùng KT sinh thái

Các chỉ tiêu Năm 2010 1998 2000 2005 2010 2010/1998 TV1 TV2 TV3 TV4

Tổng số 1115,7 1255 3010 4800 3684,3 2540 1620 640

I. Các loại cây ăn 470,9 565 2175 3800 3329,1 2090 1290 420

quả chính

Tỷ lệ (%) 42,21 45,02 72,26 79,17 82,28 79,63 65,63

1. Bưởi: tổng DT 88,5 100 350 600 511,5 300 200 100

15 Tr đó: Bưởi Diễn 5,2 300 500 494,8 250 160 90

30 2. Cam quýt tổng 28,7 90 150 121,3 90 40 20

DT

15 60 Tr đó: cam Canh 12,9 100 87,1 60 25 15

25 85 3. Hồng xiêm: 18,5 150 131,5 50 50 50

tổng DT

Tr đó: Hồng xiêm 18,5 25 85 150 131,5 50 50 50

Xuân Đỉnh

4. Vải 203,5 250 1050 1900 1696,5 1150 700 50

5. Nhãn 131,7 160 600 1000 868,3 500 300 200

II. Các loại cây ăn 63,7 670 775 900 269,3 400 300 31,25

quả phụ

Tỷ lệ (%) 56,53 53,39 25,75 18,75 15,75 18,52

6. Chuối 481,6 490 495 500 18,4

7. Táo 53,6 55 75 100 46,4

8. Đu đủ 30,2 35 65 100 69,8

9. Hồng 4,3 15 55 100 95,7

10. Na dai 61 75 85 100 39

20 60 100 III. Các loại cây 14,1 85,9 50 30 20

ăn quả khác1,59

Tỷ lệ (%) 1,26 1,59 1,99 7,08 1,97 1,85 3,12

Tài liệu tham khảo

Tài liệu tiếng việt

1. Lê Thị Bích, Trần Thế Tục. Đánh giá các hệ thống cây trồng hiện đang áp dụng ở

các vùng sinh thái nông nghiệp đất phù sa sông Hồng địa hình cao, Tạp chí nông

nghiệp - CNTP số 406.

2. Phùng Văn Chinh, Lý Nhạc. Canh tác học, NXB Nông nghiệp, Hà nội, 1987.

3. Tổn Thất Chiểu - Lê Thái Bạt. Sử dụng tốt tài nguyên đất để phát triển và bảo vệ môi

trờng. Tạp chí khoa học đất, số 31/1993.

4. Phạm Tiến Dũng - Một số phơng pháp phân loại hộ nông dân vùng đồng bằng sông

Hồng. Kết quả nghiên cứu khoa trồng trọt 1986 - 1991, NXB Nông nghiệp 1993.

5. Đỗ ánh, Bùi Đình Dinh. Đất, phân bón và cây trồng. Tạp chí khoa học đất, NXB NN

Hà nội 2 - 1992.

6. Bùi Huy Đáp. Một số kết quả nghiên cứu đầu tiên về cơ cấu cây trồng. Tạp chí

KHKTNN số 7 - 1996.

7. Hải Đạt. Nông trại gia đình trong nông nghiệp Mỹ. Tạp chí TTLL, 1/1991 trang 41-

42.

8. Lê Thành Đờng. Hiệu quả kinh tế của 6 loại màu trồng sau vụ lúa nổi tại Châu Phú -

An Giang. Tài liệu hội nghị hệ thống canh tác Việt Nam Lần thứ II năm 1991.

9. Lê Thành Đờng. Nghiên cứu hiệu quả kinh tế của các loại hoa màu trồng sau lúa nổi

tại Phú Châu - An Giang, 1992.

10. Trần Đức. Sở hữu và cây đời. NXB Sự thật, Hà nội 1991.

11. Nguyễn Điền, Trần Đức. Kinh tế trang trại gia đình trên thế giới và châu á. NXB

Thống kê, 1993.

12. Hoàng Văn Đức. Hệ canh tác, hớng phát triển nông nghiệp. Tạp chí khoa học nông

nghiệp, 1980.

13. Hoàng Văn Đức. Hội thảo về nghiên cứu và phát triển hệ canh tác cho nông dân

trồng lúa châu á, NXB Nông nghiệp, 1992.

14. Phạm Vân Đình. Khảo sát ảnh hởng của một số nhân tố kinh tế xã hội đến thu nhập

của các hộ nông dân trên các vùng sinh thái Thừa Thiên Huế. Tài liệu hội nghị hệ

thống canh tác Việt Nam Lần thứ II năm 1991.

15. Phạm Vân Đình. Báo cáo tổng kết đợt 1 chơng trình nghiên cứu phát triển kinh tế xã

hội nông thôn. ủy ban nhân dân huyện Sóc Sơn, hà nội, tháng 6/1992.

16. Dufumier M. Phân tích những hệ thống nông nghiệp. NXB Tp Hồ Chí Minh, 1992.

17. Lê Thanh Hà. Nghiên cứu một số hệ thống canh tác hiện có trên đất dốc ở Văn Yên -

Yên Bái. Luận án PTSKHNN, trờng ĐH Nông nghiệp I Hà nội, 1993.

18. Đào Trọng Hải. Nghiên cứu một số hệ thống cây trồng trên các vùng tái định c ven

hồ Yaly huyện Sa Thầy, tỉnh Kon Tum. Luận án thạc sỹ KHNN, Hà nội, 1997.

19. Phạm Thanh Hải. Hệ thống cây trồng trên một số loại đất chính huyện Lơng Sơn

tỉnh Hòa Bình. Luận án PTSKHNN, Hà nội, 1995.

20. Đỗ Văn Hòa. Xác định mô hình cơ cấu cây trồng thích hợp trên đất dốc vùng cao

miền núi phía Bắc góp phần bổ sung các giải pháp cho chơng trình thay thế cây

thuốc phiện. Luận án PTSKHNN, Hà nội, 1996.

21. Kinh tế thế giới, tháng 11 + 12/1990.

22. Triệu Quốc Kỳ. Quản lý đất và nớc trong hệ thống canh tác lúa nớc. Tài liệu dịch.

Tạp chí KHNN số 2, Hà nội, 1994.

23. Cao Liêm, Trần Đức Viên. Sinh thái học nông nghiệp và bảo vệ môi trờng. NXB ĐH

và GDCN, Hà nội, 1990.

24. Nguyễn Văn Luật. Hiệu quả kinh tế những mô hình Nông Lâm - Ng trong vuông. Tài

liệu hội nghị Hệ thống canh tác Việt Nam Lần thứ III năm 1992.

25. Odum E.P. Cơ sở sinh thái học. NXB ĐH và GDCN, Hà Nội, 1979.

26. Trần An Phong. Kết quả bớc đầu nghiên cứu cơ sở khoa học cải thiện hệ thống cây

trồng trên quan điểm sinh thái và phát triển lâu bền. Kết quả nghiên cứu khoa học

kỹ thuật. Viện Quy hoạch và TKNN, NXB Nông nghiệp, 12/1993.

27. Trần An Phong. Cơ cấu mùa vụ cây trồng đồng bằng sông Cửu Long. Báo cáo khoa

học chơng trình 02A.01.02.

28. Lê Hng Quốc. Chuyển đổi cơ cấu cây trồng vùng gò đồi tỉnh Hà Tây. Luận án PTS

khoa học nông nghiệp, 1994.

29. Phạm Bình Quyền và ctv. Hệ sinh thái vùng đồng bằng. Chơng trình khoa học cấp

nhà nớc 52D-02, 1990.

30. Mai Văn Quyền. Hiện trạng cây trồng trên đất xám huyện Đức Hòa - Long An. Tài

liệu hội nghị mạng lới hệ thống canh tác Việt Nam lần thứ III năm 1992.

31. Phạm Chí Thành. Một số vấn đề về phơng pháp luận trong nghiên cứu xây dựng hệ

thống canh tác ở miền Bắc Việt Nam. Kết quả nghiên cứu hệ thống canh tác lần thứ

II năm 1991.

32. Phạm Chí Thành, Trần Văn Diễn, Phạm Tiến Dũng, Trần Đức Viên. Hệ thống nông

nghiệp. NXB Nông nghiệp , 1993.

33. Phạm Chí Thành. Bài giảng Lâm học. Tài liệu nội bộ, Đại học Nông nghiệp, 1993.

34. Phạm Chí Thành. Chuyển đổi hệ thống canh tác vùng kinh tế sinh thái và du lịch ven

đờng 21 tỉnh Hà Tây. Báo cáo khoa học chơng trình cấp Nhà nớc KX08 (1994).

35. Phạm Chí Thành, Trần Đức Viên. Chuyển đổi hệ thống canh tác vùng trũng ở đồng

bằng Bắc Bộ, NXB Nông nghiệp 1994.

36. Phạm Chí Thành, Phạm Tiến Dũng, Đào Châu Thu, Trần Đức Viên. Hệ thống nông

nghiệp (Giáo trình cao học). NXB Nông nghiệp, 1996.

37. Lê Đình Thắng và các cộng sự. Phát triển kinh tế nông hộ theo hớng sản xuất hàng

hóa. NXB Nông nghiệp, 1993.

38. Đào Châu Thu và ctv. Xây dựng mô hình nông lâm kết hợp trên vùng đất đồi Tam

Đảo - Vĩnh Phú (báo cáo khoa học), 1994.

39. Nguyễn Duy Tính. Nghiên cứu hệ thống cây trồng vùng ĐBSH. NXB Nông nghiệp,

Hà nội 1995.

40. Nguyễn Duy Tính. Nghiên cứu hệ thống cây trồng vùng Đồng Bằng Sông Hồng và

bắc Trung Bộ, NXB Nông nghiệp, Hà nội 1995.

41. Nguyễn Ngọc Trâm. Nghiên cứu cơ cấu cây trồng và hệ thống luân canh cây trồng

vùng đất cát ven biển Thừa Thiên - Huế, 1994.

42. Bùi Quang Toản. Một số vấn đề đất nơng rẫy ở Tây Bắc và phơng hớng sử dụng.

Luận án PTS KHNN, 1991.

43. Đào Thế Tuấn. Bố trí cơ cấu cây trồng hợp lý ở hợp tác xã. NXB Nông thôn 1962.

44. Đào Thế Tuấn. Cơ sở khoa học để xác định cơ cấu cây trồng, NXB Nông nghiệp,

1984.

45. Đào Thế Tuấn. Hệ sinh thái nông nghiệp. NXB KHKT, Hà nội 1984.

46. Đào Thế Tuấn. Chiến lợc phát triển nông nghiệp. NXB Nông nghiệp, 1986.

47. Đào Thế Tuấn. Hệ thống nông nghiệp đồng bằng sông Hồng. UBND thành phố Hà

nội 1989.

48. Tào Quốc Tuấn. Nghiên cứu xác định cơ cấu cây trồng hợp lý vùng phù sa ngọt đồng

bằng Sông Cửu Long, 1994.

49. Nguyễn Vy. Đất nào cây ấy. NXB KHKT, 1982.

50. Bùi Thị Xô. Xác định cơ cấu cây trồng hợp lý ở ngoại thành Hà nội. Luận án

PTSKHNN, Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp Việt Nam, 1994.

51. Võ Tòng Xuân. Phơng pháp nghiên cứu và phát triển hệ thống canh tác tại Việt

Nam, IRRI - Đại học Cần Thơ, 1993.

52. Võ Tòng Xuân. Nghiên cứu và phát triển hệ thống canh tác lúa tôm trên nớc ngọt

Phụng Hiệp, Cần Thơ.

Tài liệu tiếng nớc ngoài

53. Baker. E. F. L: Research ino intercroping aspects of farming systems in Nigeria.

Ahmadu Bello University, Zaria, Nigeria, 1974

54. Conway G.R Agricultural Ecology and Farming Systems Research. ACAAR

(Australian Council for Agricultural Research) Canbera - 1985.

55. Conway G.R - Agroecology Analysis for Research and Development. Winrock

International Institute for Agricultural Development, Bangkok, 1986.

56. Chambers, Robert. Rural Development: Putting the Last First. Longman, Harlow,

1983.

57. FAO - Farming Systems Development: Concepts, Methods, Application. Rome,

1989.

58. FAO - Institutionalization of a Farming Systems Approach to Developement. Rome,

1992.

59. Grigg D. B - The Agricultural Systems of the World – Cambridge University Press,

1977.

60. IRRI. Symposium on Cropping systems research and development for the ASEAN

rice farmers IRRI - Los Banhos, Phillippines 1977.

61. McCraken, Jennifer; Pretty, Jules; Conay, Gordon - An Introduction to Rapid Rural

Appraisal for Agricultural Development. IIED, London, 1988.

62. International Institute of Rural Reconstruction - Farmer - Proven Integrated

Agriculture - Aquaculture: A Technology Information Kit. Silang Cavite,

Philippines, 1992.

63. Shanner W.W, Philipp P. F, Schemahl W.R - Farming Systems Research and

Development, West View Press, Boulder, Colorado, USA, 1984.

64. Tejwani, V. L - Chun K.Lai: Asia - Pacific Agroforestry Profiles. Agroforestry

systems research and development in the Asia and Pacific Region

(GCP/PAS/133/JPN), Borgor, Indonesia - 1992.

65. Zandstra H.G, Price E.C A Methodology for an farm cropping systems research

IRRI, 1981.

Phần phụ lục

Phụ lục 1: Các thời kỳ sinh trởng và phát dục của bởi Diễn

Chỉ tiêu khảo sát Dạng 1 Dạng 2 Dạng 3 TB

1. Thời gian ra lộc cành:

12 - - Vụ Xuân 15-20/2 15-20/2 Giữa T.2

2TB nhiều khá

- Vụ Hè 5-10/6 5-15/6 5-15/6 10/6

nhiều nhiều nhiều

- Vụ Thu 7-10/9 10-15/9 5-15/9 12/9

nhiều nhiều nhiều

- Vụ Đông 15/11 ít 15/11 ít 15/11 ít 15/11

2. Thời gian nở hoa 17-20/2 20-25/2 20-25/2 20/2

3. Thời gian hoa tàn, đậu quả 10-15/3 15-20/3 15-20/3 17/3

4. Thời gian quả bắt đầu lên mã 15- 15/11 10-15/11 15/11

20/11

5. Thời gian ra lộc, ổn định cành 20-22 22-23 20-23 21

25 - Vụ Xuân (ngày) 20-25 25 23

15-20 - Vụ Thu (ngày) 20 20 17

5. Mức độ sinh trởng cây TB yếu Trung TB khá Trung

bình bình

7. Thời gian thu hoạch quả 25- 25/12-5/1 20-25/2 25/12

30/12

8. Khả năng để quả trên cây (điều Kém Kém Kém Kém

tra)

Phụ lục 2: Các đặc điểm sinh học chủ yếu của bởi Diễn

Chỉ tiêu khảo sát Dạng 1 Dạng 2 Dạng 3 Trung bình

1. Chiều cao cây 10 tuổi (m) 2,8 3,3 4,1 3,4

2. Đờng kính tán cây 10 tuổi 3,2 3,6 4,3 3,7

(m)

3. Kích thớc của phiến lá

- Dài (cm) 7,8 8.7 9,1 8,5

- Rộng (cm) 4,5 5,8 5,4 6,0

- Dài/Rộng 1,7 1,5 1,6 1,5

4. Kích thớc của eo lá:

- Dài (cm) 2,8 3,0 3,1 3,5

- Rộng (cm) 2,1 3,1 2,6 2,5

- Dài/ Rộng 1,33 0,96 1,19 1,4

5. Hình dạng của eo lá Bầu hình Hình tim Hình Bầu

tim thuẫn

6. Hình dạng đầu mút lá (đỉnh Chia thuỳ Chia thuỳ, Nhọn, -

hơi thẳng bằng lá) ngắn

7. Độ dài đốt cành trung bình 0,94 1,16 1,12 1,26

(cm)

8. Tỷ lệ các loại cành hoa/cây

(%)

63,3 73,3 - Cành đơn có lá 66,6 63,3

26,6 20,0 - Cành chùm ít lá 24,6 26,6

6,7 3,3 - Cành chùm không có lá 4,4 3,3

3,3 3,3 - Cành đơn không có lá 4,4 6,7

3 9. Số lợng đợt lộc ra trong năm 2 - 3 - 3 - 4

(đợt)

10. Sâu bệnh hại chủ yếu Vẽ bùa, Vẽ bùa, Vẽ bùa, Vẽ bùa,

nhện, rệp nhện, rệp nhện, nhện, rệp

rệp

Khá 11. Khả năng chịu úng Khá Khá Khá

12. Khả năng chịu bóng Khá Trung Trung Trung

bình bình bình

Phụ lục 3: Một số đặc tính kinh tế của bởi Diễn

Chỉ tiêu khảo sát Dạng 1 Dạng 2 Dạng 3 Trung bình

1. Số quả/cây độ tuổi 10t 65 58 44 55,7

(quả/cây)

- Xã Phú Diễn 50 57 39 48,7

- Xã Minh Khai 80 60 50 63,3

2. Trọng lợng quả (gr) 850 1223 1375 1150

3. Số múi/ quả (múi) 13 13 13 13

4. Số hạt/quả (hạt) 45 47 52 48

5. Tỷ lệ phần ăn đợc (%) 63,2 61,4 57,5 60,7

6. Năng suất quả/cây 10t 55,2 70,9 60,5 64,0

(kg/cây)

7. Màu sắc vỏ quả Vàng đậm Vàng Vàng tơi Vàng

đậm

8. Màu sắc con tép quả Xanh - Vàng Trắng Vàng

vàng đậm vàng

9. Khả năng bảo quản sau thu Khá Khá Khá Khá

hoạch (Điều tra nông hộ)

Phụ lục 4: Một số đặc điểm hình thái của 3 dạng hình giống bởi Diễn

Trung Chỉ tiêu khảo sát Dạng 1 Dạng 2 Dạng 3 bình

1. Chiều cao cây (3), cây 10t 2,8 3,3 4,1 3,4

2. Đờng kính tán cây 3,2 3,6 4,3 3,7

3. Kích thớc lá

- Dài lá (cm) 7,8 8,7 9,1 8,5

- Rộng lá (cm) 4,5 5,8 6,0 5,4

- Dài/Rộng 1,7 1,5 1,5 1,6

4. Đặc điểm của đỉnh lá Chia thuỳ, Chia Nhọn, ngắn -

hơi bằng thuỳ,

bằng

5. Kích thớc eo lá: Dài x Rộng 2,8 x 2,1 3,0 x 3,1 3,5 x 2,5 3,1 x

(cm) 2,6

6. Hình dạng tán cây Mâm xôi Mâm xôi Mâm xôi, Mâm

xôi nhọn

1,12 1,26 7. Độ dài đốt cành (cm) 0,94 1,16

8. Màu sắc của tép quả Xanh - Vàng Trắng-vàng Vàng

vàng đậm

9. Hình dạng của quả Lê Lê tròn Tròn

Phụ lục 5: Các thời kỳ sinh trởng của cam Canh

Các thời kỳ sinh trởng D2: cam đờng D3: cam mật Trung bình

1. Thời gian ra lộc cành của cây

- Lộc vụ xuân 5-15/2, nhiều 5-10/2, nhiều 10/2

- Lộc vụ hè 25-30/6, ít 25/6, khá 27/6

- Lộc vụ thu 15-20/9, nhiều 15-20/9, 17/9

nhiều

- Lộc vụ đông 10-15/11, ít 10/11, ít 12/11

2. Thời gian nở hoa 25/2 - 5/3 10-15/3 10/3

3. Thời kỳ tàn hoa 25/3 25/3 25/3

4. Thời gian lên mã của quả 15-20/11 15-20/11 17/11

5. Thời gian chín của quả 15-30/1 15-30/11 Cuối tháng

1

6. Mức độ sinh trởng của cây Yếu-trung bình Trung bình Trung bình

7. Khả năng để quả trên cây Kém Khá Trung bình

8. Mức độ rụng của lá sau thu Lá rụng nhiều Lá rụng ít Tụng lá

hoạch

Phụ lục 6: Đặc điểm sinh học chủ yếu của Cam Canh

Các đặc điểm sinh học của cây Trung bình D2: Cam đ- D3: Cam mật

ờng

1. Kích thớc lá

- Chiều dài (cm) 6,5 7,1 6,8

- Chiều rộng (cm) 3,0 3,1 3,0

2. Chỉ số lá D/R 2,16 2,29 2,2

3. Tỷ lệ cành hoa (%)

- Loại cành đơn có lá 65,0 75,0 70,0

- Loại cành đơn không lá 15,0 10,0 12,5

- Loại cành chùm 1 lá 1 hoa 5,0 5,0 5,0

- Loại cành chùm ít lá 15,0 10,0 12,5

- Loại cành chùm không có lá 0,0 0,0 0,0

4. Độ dài trung bình của lộc xuân 6,3 7,5 6,9

(cm)

7,9 5. Độ dài trung bình của lộc thu 7,2 8,7

(cm)

3 3 - 4 3 6. Số lợng đợt lộc ra trong năm (đợt)

1,2 1,5 1,35 7. Độ dài đốt cành

- 8. Màu sắc lá Xanh vàng Xanh hơi đậm

3,5 3,1 9. Đờng kính tán cây 10 - 15 tuổi 2,8

(m)

32 29,5 10. Chu vi gốc cây 10 - 15 tuổi (cm) 27

11. Sâu hại chủ yếu trên cây Vẽ bùa, Vẽ bùa, nhện, Vẽ bùa, nhện,

rầy nhện, rầy rầy

12. Bệnh hại chủ yếu trên cây Sẹo, chảy Sẹo, chảy gôm Sẹo, chảy gôm

gôm

Phụ lục 7: Một số đặc điểm hình thái lá, quả của 3 dạng

hình Cam Canh

Kích thớc lá Đặc Số

điểm Hình Màu quả/cây Rộng Dạng của dạng sắc của (quả/cây) Tỷ lệ Dài lá lá đỉnh tán cây quả cây 10t- (D/R) (cm) (cm) 15t mút lá

Dạng 1: Cam Nhọn, Mâm Vàng 8,5 3,2 2,65 300-350 xôi đỏ chua dài

Dạng 2: Cam đ- Tù, 6,5 3,0 2,16 Hình dù Đỏ tơi 800-1000 ờng ngắn

Nhọn, Hình dù Dạng 3: Cam mật 7,1 3,1 2,29 Đỏ đậm 500-800 ngắn rộng

Phụ lục 8: Hàm lợng dinh dỡng của

một số sản phẩm quả của Hà nội

Thành phần sinh khoáng

Vitamin Chất Axit Mẫu quả Nơi lấy mẫu Đờng tổng Khoán C khô hữu cơ số (%) g (%) (mg/100g (%) (%) )

Ô.Tiến-Minh 1. Cam Canh 13,3 9,3 0,4 0,07 14,6 Khai-Từ Liêm

Ô. Thuần-Phú 2. Bởi Diễn 9,1 6,0 0,2 0,05 29,7 Diễn-Từ Liêm

Đại học NNI 3. Bởi 10,8 7,2 0,45 0,65 44,0 Gia Lâm Pumelo

Ô. Cờng-Bắc 4. Vải thiều 18,5 15,0 0,6 0,4 16,7 Sơn-Sóc Sơn

5. Hồng Ô.Long-Xuân 11,4 15,1 13,0 0,81 0,92 xiêm Đỉnh-Từ Liêm

Ô. Thẩm-T.D- 6. Na dai 22,0 14,5 1,22 0,12 30,0 ợc-Sóc Sơn

Phụ lục 9: Đầu t và hiệu quả kinh tế 1 ha của một số cây ăn quả chính ngoại thành Hà nội

Đơn vị: triệu đồng

Đầu t T.mới +KTCB Đầu t hàng năm Thu Tỷ Tổn Tổn nhậ suất S Tổng C.sóc Khấu g Loại cây g p lợi T Trồn KT T..mới KD hao Tổn nhậ thu thuầ nhu T g mới CB +KTC (TB/nă hàng g p n ận B m năm

1 Cam Canh 17,9 15,1 33,0 10,0 1,2 11,2 170, 163, 158, 141

0 5 8 7

2 Cam khác 5,8 11,4 17,2 7,4 28,8 23,8 21,4 289 6,7 0,7

3 Bởi Diễn 12,4 13,3 25,7 9,6 82,5 76,3 72,9 759 8,6 1,0

4 Bởi khác 4,5 9,2 13,7 5,7 15,2 11,5 9,5 166 5,1 0,6

Hồng 3,6 5,6 9,2 5,1 0,2 5,3 26,4 24,5 21,1 398 5 xiêm

6 Vải thiều 4,9 9,8 14,7 5,7 0,3 6,0 38,4 34,9 32,4 540

26,0 Hồng nhân 5,2 10,2 15,4 6,0 0,4 6,4 19,6 44,1 306 7 21,7 hậu

8 Na dai 7,3 13,2 20,5 8,0 1,8 9,8 52,0 44,3 42,2 430

Phụ lục 10: Dự kiến quy mô cơ cấu các loại cây ăn qủa huyện Thanh Trì

Đơn vị: ha

Toàn huyện Các tiểu vùng KT sinh thái

Các chỉ tiêu Năm 2010 1998 2000 2005 2010 2010/1998 TV1 TV2 TV3 TV4

Tổng số 207,7 217 281 400 192,3 25 60 205 110

I. Các loại cây ăn 137,5 146,0 188,0 274,0 136,5 11,0 35,0 166,0 62,0

quả chính

Tỷ lệ (%) 66,20 67,28 66,90 68,50 44,00 58,33 80,98 56,36

1. Bởi: tổng DT 17,10 19,00 35,00 75,00 57,90 5,00 10,00 50,00 10,00

Tr đó: Bởi Diễn 3 4,9 22 60 57,0 4 8 40 8

2. Cam quýt tổng 2,7 2,7 3,0 4,0 1,3 1,0 1,0 1,0 1,0

DT

Tr đó: cam Canh 1 1 -1,0

3. Hồng xiêm: 46,8 50 60 70 23,2 10 50 10

tổng DT

Tr đó: Hồng xiêm 46,8 50 60 70 23,2 10 50 10

Xuân Đỉnh

3,4 4,3 25 21,6 10 4 15 6 4. Vải

67,5 70 100 32,5 5 80 10 50 35 5. Nhãn

II. Các loại cây ăn 67,1 66 106 38,9 9 81 20 34 43

quả phụ

Tỷ lệ (%) 32,3 30,4 28,8 26,5 36,0 33,3 16,6 39,1

6. Chuối 48,60 51,00 61,00 81,00 32,40

7. Táo 12,4 12 16 20 7,6

3 4 5 2,5 2,5 8. Đu đủ

0,7 9. Hồng

2,9 10. Na dai

III. Các loại cây 3,1 5,0 12,0 20,0 16,9 5,0 5,0 5,0 5,0

ăn quả khác

Tỷ lệ (%) 1,49 2,30 4,27 5,00 20,00 8,33 2,44 4,55

Phụ lục 11: Dự kiến quy mô cơ cấu

các loại cây ăn quả Huyện Từ Liêm

Đơn vị: ha

Các tiểu vùng KT sinh Toàn huyện thái Các chỉ tiêu Năm 2010 1998 2000 2005 2010 2010/1998 TV1 TV2 TV3 TV4

Tổng số 349 370 468 600 251 80 440 80

I. Các loại cây ăn 214,8 229 334 455 240,2 50 340 65

quả chính

Tỷ lệ (%) 61,5 61,8 71,4 75,8 62,4 77,3 81,25

1. Bởi: tổng DT 42,2 55 150 250 207,8 10 220 20

Tr đó: Bởi Diễn 40,7 53,5 125 230 189,3 5 210 15

2. Cam quýt tổng DT 31,7 32 37 50 18,3 10 40

Tr đó: cam Canh 29,6 34 40 31 10,4 7 33

3. Hồng xiêm: tổng 65 70 61 60,4 9,6 40 5 25

DT

Tr đó: Hồng xiêm 60,4 61 65 70 9,6 40 25 5

Xuân Đỉnh

4. Vải 12,1 13 14 15 2,9 10 5

5. Nhãn 68,4 68 68 70 1,6 20 50

II. Các loại cây ăn 130,5 136 124 130 -0,5 25 10 95

quả phụ

Tỷ lệ (%) 37,4 36,8 26,5 21,7 31,3 21,6 12,5

6. Chuối 23,3 30 45 70 46,7

7. Táo 99,2 95 64 40 -59,2

8. Đu đủ 3,5 5 8 10 6,5

3 5 1,2 2 9. Hồng

4 5 3,3 4 10. Na dai

III. Các loại cây ăn 5 3,7 10 15 11,3 5 5 5

quả khác

1,06 135 2,14 2,50 6,25 1,14 6,25 Tỷ lệ (%)

Phụ lục 12: Dự kiến quy mô cơ cấu

các loại cây ăn quả Huyện Gia Lâm

Đơn vị: ha

Toàn huyện Các tiểu vùng KT sinh thái

Các chỉ tiêu Năm 2010 1998 2000 2005 2010 2010/1998 TV1 TV2 TV3 TV4

Tổng số 460,7 489 646 900 439,3 320 360 130 90

I. Các loại 332,4 346,6 428 570 237,6 195 250 75 50

cây ăn quả

chính

Tỷ lệ (%) 72,15 70,88 66,25 63,33 60,94 69,44 57,69 0,00

1. Bởi: tổng 44,7 50 90 150 105,3 100 30 15 5

DT

Tr đó: Bởi 2,1 7,4 46 100 97,9 70 20 8 2

Diễn

2. Cam quýt 13,9 14,5 17,9 20 6,1 15 5

tổng DT

Tr đó: cam 10,6 11 13 15 4,4 11 3

Canh

3. Hồng 46,3 47 55 70 23,7 15 25 25 5

xiêm: tổng

DT

Tr đó: Hồng 43,6 47 55 70 26,4 15 25 25 5

xiêm Xuân

Đỉnh

4. Vải 7,8 9,8 14,5 30 22,2 15 5 5 5

5. Nhãn 219,7 225,3 250,6 300 80,3 50 190 30 30

II. Các loại 121,8 135,4 188 270 148,2 100 90 45 35

cây ăn quả

phụ

Tỷ lệ (%) 26,44 27,69 29,10 30,00 31,25 25,00 34,62 0,00

6. Chuối 60,9 67 120 80

75 90 7. Táo 50,2 56,4

20 30 5 8. Đu đủ 4,1

6 20 4 9. Hồng 3,7

7 10 3 10. Na dai 2,9

III. Các loại 30 60 53,5 25 20 10 5 7 6,5

cây ăn quả

khác

Tỷ lệ (%) 1,41 1,43 4,64 6,67 7,81 7,81 7,69 0,00

Phụ lục 13: Dự kiến quy mô cơ cấu

các loại cây ăn quả Huyện Đông Anh

Đơn vị: ha

Toàn huyện Các tiểu vùng KT sinh thái

Các chỉ tiêu Năm 2010 1998 2000 2005 2010 2010/1998 TV1 TV2 TV3 TV4

Tổng số 842,4 866 1049 1350 507.6 410 140 360 440

I. Các loại cây ăn 678,4 691,6 825 1040 361,6 325 90 265 360

quả chính

Tỷ lệ (%) 80,53 79,86 78,65 77,04 79,27 64,29 73,61 81,82

1. Bởi: tổng DT 209,9 215 285 400 190,1 120 20 115 145

Tr đó: Bởi Diễn 21,1 26,2 162 350 328,9 105 10 100 135

2. Cam quýt tổng 24,3 24,5 25 30 5,7 5 10 5 10

DT

Tr đó: cam Canh 20,3 20,3 20,5 25 4,7 4 9 4 8

3. Hồng xiêm: 64,7 65 85 120 55,3 40 15 15 50

tổng DT

Tr đó: Hồng xiêm 64,7 65 85 120 55,3 40 15 15 50

Xuân Đỉnh

53,2 60,8 100 160 106,8 40 25 40 55 4. Vải

326,3 326,3 330 330 3,7 120 20 90 100 5. Nhãn

II. Các loại cây ăn 152,7 161,9 206 280 127,3 75 45 90 70

quả phụ

Tỷ lệ (%) 18,13 18,70 19,64 20,74 18,29 32,14 25,00 15,91

6. Chuối 61,3 68 70 85 23,7

7. Táo 58,9 58,9 70 85 26,1

8. Đu đủ 9,8 12 35 60 50,2

9. Hồng 2,7 3 12,3 6 15

10. Na dai 20 20 15 25 35

III. Các loại cây 11,3 12,5 18,7 10 5 5 10 18 30

ăn quả khác

Tỷ lệ (%) 1,34 1,44 1,72 2,22 2,44 3,57 1,39 2,27

Phụ lục 14: Dự kiến quy mô cơ cấu

các loại cây ăn quả huyện Sóc Sơn

Đơn vị: ha

Toàn huyện Các tiểu vùng KT sinh thái

Các chỉ tiêu Năm 2010 1998 2000 2005 2010 2010/1998 TV1 TV2 TV3 TV4

Tổng số 1115,7 1195 1736 2550 1334,3 920 1050 580

I. Các loại cây ăn 470,9 543,8 949,9 1531 1060,1 580 635 316

quả chính

Tỷ lệ (%) 42,21 45,51 54,72 60,04 63,04 60,48 54,48

55 1. Bởi: tổng DT 88,5 100,4 230 400 311,5 160 185

40 Tr đó: Bởi Diễn 5,2 17,1 145,1 300 294,8 110 150

2. Cam quýt tổng 41 28,7 31,6 41,4 76 47,3 10 25

DT

30 Tr đó: cam Canh 12,9 14,3 25,6 50 37,1 5 15

3. Hồng xiêm: 10 18,5 25,7 52 80 61,5 40 30

tổng DT

Tr đó: Hồng xiêm 18,5 25,7 52 80 61,5 40 30 10

Xuân Đỉnh

4. Vải 203,5 232,1 426,5 675 471,5 310 320 45

5. Nhãn 131,7 154 200 300 168,3 60 75 165

II. Các loại cây ăn 630,7 635,7 759 969 338,3 320 395 254

quả phụ

Tỷ lệ (%) 56,53 53,20 43,72 38,00 34,78 37,62 43,79

6. Chuối 481,6 464 434 399 -82,6

7. Táo 53,6 52,7 65 70 16,4

8. Đu đủ 30,2 35 60 90 59,8

9. Hồng 4,3 11 75 230 225,7

10. Na dai 61 73 125 180 119

III. Các loại cây 14,1 15,5 27,1 50 35,9 20 20 10

ăn quả khác

Tỷ lệ (%) 1,26 1,30 1,56 1,96 2,17 1,90 1,72

Phụ lục 15: Dự kiến quy mô cơ cấu các loại cây ăn quả

huyện Thanh Trì

Đơn vị: ha

Toàn huyện Các tiểu vùng KT sinh thái

Các chỉ tiêu Năm 2010 1998 2000 2005 2010 2010/1998 TV1 TV2 TV3 TV4

Tổng số 207,7 219 299 400 192,3 32,5 109,5 177 81

I. Các loại cây ăn 137,5 148 216 300 162,5 25,5 84,5 127 63

quả chính

66,2 67,58 72,24 75 78,46 77,17 71,75 77,78 Tỷ lệ (%)

1. Bởi: tổng DT 17,1 20 57,9 10 20,16 30 45 75 15

Tr đó: Bởi Diễn 3 5 40 60 57 8 1,5 24 12

2. Cam quýt tổng 2,7 3 4 5 2,3 2 1 0,5

DT

Tr đó: cam Canh 1 1 1,5 1

3. Hồng xiêm: 46,8 50 60 70 23,2 20 30 15 5

tổng DT

Tr đó: Hồng xiêm 46,8 50 60 70 23,2 20 30 15 5

Xuân Đỉnh

3,4 5 7 10 6,6 3 5 2 4. Vải

67,5 70 100 140 72,5 40 60 30 5. Nhãn 10

II. Các loại cây ăn 66 67,1 73 80 12,9 20 40 15 5

quả phụ

Tỷ lệ (%) 32,3 30,14 24,42 20 15,39 18,26 22,6 18,52

48,6 50 55 60 1,14 6. Chuối

12,4 13 14 15 2,6 7. Táo

2,5 3 4 5 2,5 8. Đu đủ

0,7 -0,7 9. Hồng

2,9 -2,9 10. Na dai

III. Các loại cây ăn 3,1 5 10 20 16,9 2 5 10 3

quả khác

1,49 2,28 3,34 5 6,15 4,57 5,65 3,7 Tỷ lệ (%)

Phụ lục 16: Dự kiến quy mô cơ cấu

các loại cây ăn quả huyện Từ Liêm

Đơn vị: ha

Toàn huyện Các tiểu vùng KT sinh thái

Các chỉ tiêu Năm 2010 1998 2000 2005 2010 2010/1998 TV1 TV2 TV3 TV4

Tổng số 349 367 478 600 251 53 325 222

I. Các loại cây ăn 214.8 237 351 475 260,2 35 275 165

quả chính

Tỷ lệ (%) 61.5 64,58 73,43 79,17 66,04 84,62 74,33

1. Bởi: tổng DT 42.2 150 250 207,8 5 55 165 80

Tr đó: Bởi Diễn 40.7 150 250 209,3 5 55 165 80

2. Cam quýt tổng 31,7 50 70 38,3 35 50 20

DT

Tr đó: cam Canh 29,6 50 70 40,4 35 50 20

3. Hồng xiêm: tổng 60,4 67 70 9,6 20 65 25 25

DT

Tr đó: Hồng xiêm 60,4 65 67 70 9,6 20 25 25

Xuân Đỉnh

4. Vải 12,1 13 14 15 2,9 5 10

5. Nhãn 68,4 69 70 70 1,6 30 10 30

II. Các loại cây ăn 40 15 130,5 125 117 105 -25,5 50

quả phụ

Tỷ lệ (%) 37,4 34,06 24,48 17,5 28,3 12,31 22,52

6. Chuối 23,3 25 30 35 11,7

7. Táo 99,2 95 80 60 -39,2

3,5 5 7 10 6,5 8. Đu đủ

1,2 -1,2 9. Hồng

3,3 -3,3 10. Na dai

III. Các loại cây ăn 3,7 5 10 20 16,3 3 10 7

quả khác

1,06 1,36 2,09 3,33 5,66 3,07 3,15 Tỷ lệ (%)

Phụ lục 17: Dự kiến quy mô cơ cấu

các loại cây ăn quả huyện Gia Lâm

Đơn vị: ha

Toàn huyện Các tiểu vùng KT sinh thái

Các chỉ tiêu Năm 2010 1998 2000 2005 2010 2010/1998 TV1 TV2 TV3 TV4

Tổng số 460,7 504 829 1200 739,3 272 277 323 328

I. Các loại cây ăn 332,4 355 607 895 562,6 192 187 258 258

quả chính

Tỷ lệ (%) 72,15 70,44 73,22 74,58 70,59 67,51 79,88 78,66

1. Bởi: tổng DT 44,7 50 100 150 105,3 50 50 25 25

Tr đó: Bởi Diễn 2,1 10 100 97,9 35 35 15 15 65

2. Cam quýt tổng 13,9 15 20 6,1 7 7 3 3 17

DT

Tr đó: cam Canh 10,6 11 4,4 6 5 2 2 15 13

3. Hồng xiêm: 46,3 50 28,7 20 20 15 20 75 60

tổng DT

Tr đó: Hồng xiêm 43,6 50 60 75 28,7 20 20 15 20

Xuân Đỉnh

4. Vải 7,8 10 30 50 42,2 15 10 15 10

5. Nhãn 219,7 230 400 600 380,3 100 100 200 200

II. Các loại cây ăn 121,8 139 172 205 83,2 50 60 45 50

quả phụ

Tỷ lệ (%) 26,44 27,58 20,75 17,08 18,38 21,66 13,93 15,24

6. Chuối 60,9 70 110 49,1 90

7. Táo 50,2 60 80 29,8 70

4,1 5 7 10 5,9 8. Đu đủ

3,7 4 5 5 1,3 9. Hồng

2,9 -2,9 10. Na dai

III. Các loại cây 6,5 10 50 100 93,5 30 30 20 20

ăn quả khác

Tỷ lệ (%) 1,41 1,98 6,03 8,34 11,03 10,83 6,19 6,1

Phụ lục 18: Dự kiến qui mô cơ cấu

các loại cây ăn quả huyện Đông Anh

Đơn vị: ha

Toàn huyện Các tiểu vùng KT sinh thái

Các chỉ tiêu Năm 2010 1998 2000 2005 2010 2010/1998 TV1 TV2 TV3 TV4

Tổng số 842,4 890 1885 3000 2157,6 525 315 920 1240

I. Các loại cây 678,4 700 1570 2550 1871,6 400 250 790 1110

ăn quả chính

Tỷ lệ (%) 80,53 78,65 83,29 85 76,19 79,37 85,87 89,52

1. Bởi: tổng DT 209,9 215 380 550 340,1 100 150 250 50

Tr đó: Bởi Diễn 21,1 25 250 450 428,9 40 80 120 210

2. Cam quýt 24,3 25 90 150 125,7 30 10 45 65

tổng DT

Tr đó: cam 20,3 21 60 100 79,7 5 20 30 45

Canh

3. Hồng xiêm: 64,7 65 100 150 85,3 40 20 45 45

tổng DT

Tr đó: Hồng 64,7 65 100 150 85,3 40 20 45 45

xiêm Xuân

Đỉnh

53,2 65 350 700 646,8 50 50 250 350 4. Vải

5. Nhãn 326,3 330 650 1000 673,7 200 100 300 400

II. Các loại cây 152,7 175 260 350 197,3 100 50 100 100

ăn quả phụ

Tỷ lệ (%) 18,13 19,66 13,79 11,67 19,05 15,87 10,87 8,06

6. Chuối 61,3 70 85 100 38,7

7. Táo 58,9 60 80 100 41,1

8. Đu đủ 9,8 15 35 50 40,2

9. Hồng 2,7 5 25 50 47,3

10. Na dai 20 25 35 50 30

55 III. Các loại 11,3 15 100 88,7 25 15 30 30

cây ăn quả khác

Tỷ lệ (%) 1,34 1,69 2,92 3,33 4,76 4,76 3,26 2,42

Phụ lục 19: Dự kiến quy mô cơ cấu

các loại cây ăn quả huyện Sóc Sơn

Đơn vị: ha

Toàn huyện Các tiểu vùng KT sinh thái

Các chỉ tiêu Năm 2010 1998 2000 2005 2010 2010/1998 TV1 TV2 TV3 TV4

Tổng số 1115,7 1255 3010 4800 3684,3 2540 1620 640

I. Các loại cây ăn 470,9 565 2175 3800 3329,1 2090 1290 420

quả chính

Tỷ lệ (%) 42,21 45,02 72,26 79,17 82,28 79,63 65,63

1. Bởi: tổng DT 88,5 100 350 600 511,5 300 200 100

Tr đó: Bởi Diễn 5,2 300 500 494,8 250 160 15 90

2. Cam quýt tổng 28,7 90 150 121,3 90 40 30 20

DT

Tr đó: cam Canh 12,9 100 87,1 60 25 15 60 15

3. Hồng xiêm: 18,5 150 131,5 50 50 25 85 50

tổng DT

Tr đó: Hồng xiêm 18,5 25 85 150 131,5 50 50 50

Xuân Đỉnh

4. Vải 203,5 250 1050 1900 1696,5 1150 700 50

5. Nhãn 131,7 160 600 1000 868,3 500 300 200

II. Các loại cây ăn 63,7 670 775 900 269,3 400 300 31,25

quả phụ

Tỷ lệ (%) 56,53 53,39 25,75 18,75 15,75 18,52

6. Chuối 481,6 490 495 500 18,4

53,6 55 75 100 46,4 7. Táo

30,2 35 65 100 69,8 8. Đu đủ

4,3 15 55 100 95,7 9. Hồng

61 75 85 100 39 10. Na dai

20 60 100 III. Các loại cây 14,1 85,9 50 30 20

ăn quả khác1,59

Tỷ lệ (%) 1,26 1,59 1,99 7,08 1,97 1,85 3,12

Mục lục

Mở đầu ....................................................................................................................... 0

1. Tính cấp thiết của đề tài ....................................................................................... 1

2. ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài ............................................................... 2

3. Mục đích nghiên cứu của đề tài ............................................................................ 3

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ........................................................................ 3

Chương 1: Tổng quan tài liệu và cơ sở khoa học của đề tài ......................................... 4

1.1. Cơ sở khoa học của đề tài ................................................................................. 4

1.1.1. Phương pháp tiếp cận trong nghiên cứu ..................................................... 4

1.1.2. Những yếu tố chi phối hệ thống canh tác .................................................... 6

1.1.3. Các lý luận về hệ thống canh tác ...............................................................10

1.1.4. Hình thành nền nông nghiệp phát triển bền vững ......................................13

1.2. Tình hình nghiên cứu trong và ngoài nước có liên quan đến đề tài ...................14

1.2.1. Tình hình nghiên cứu trên thế giới.............................................................14

1.2.2. Tình hình nghiên cứu trong nước ..............................................................19

1.2.3. Đặc điểm hệ thống canh tác vùng nhiệt đới và những vấn đề cần nghiên cứu ở

vùng đất ven sông Hồng ......................................................................................26

Chương 2: Vật liệu, nội dung và phương pháp nghiên cứu .........................................31

2.1. Địa điểm, nội dung, vật liệu nghiên cứu ...........................................................31

2.2. Phương pháp nghiên cứu .................................................................................31

Chương 3: Kết quả nghiên cứu và thảo luận ...............................................................33

3.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của các hệ thống canh tác .........................33

3.1.1. Tài nguyên khí hậu ....................................................................................33

3.1.2. Tài nguyên đất đai .....................................................................................36

3.1.3. Các tiểu vùng sinh thái nông nghiệp trên địa bàn thành phố Hà Nội .........45

3.1.4. Các tiểu vùng kinh tế - sinh thái vùng ngoại thành Hà nội.........................46

3.1.5. Các điều kiện về vật chất, kinh tế, kỹ thuật cho sản xuất nông nghiệp của Hà

nội ......................................................................................................................53

3.2. Mô tả, đánh giá hiệu quả kinh tế và môi trường của một số hệ thống canh tác .55

3.2.1. Hệ thống cây bưởi Diễn ............................................................................55

3.2.2. Hệ thống cây Cam Canh ...........................................................................61

3.2.3. Hệ thống cây Hồng xiêm Xuân Đỉnh .........................................................67

3.2.4. Hệ thống cây hồng quả ..............................................................................70

3.2.5. Hệ thống cây Vải thiều ..............................................................................72

3.2.6. Hệ thống cây Na dai ..................................................................................74

3.3. Đề xuất định hướng phát triển sản xuất các hệ thống canh tác đã được nghiên cứu để

nhân rộng ra địa bàn ...............................................................................................76

3.3.1. Thị trường tiêu thụ sản phẩm ....................................................................76

3.3.2. Tiềm năng phát triển sản xuất ...................................................................82

3.3.3. Phân hạng đất thích hợp ...........................................................................83

3.3.4. Định hướng phát triển sản xuất .................................................................85

Kết luận và kiến nghị .................................................................................................97