intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Nghiên cứu hiệu quả sử dụng bộ kít elisa định lượng nọc rắn hổ mang Naja atra trên lâm sàng

Chia sẻ: Ni Ni | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:6

53
lượt xem
1
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục tiêu nghiên cứu của bài viết nhằm đánh giá khả năng định lượng nọc rắn Hổ mang (Naja atra) của bộ xét nghiệm ELISA định lượng nọc rắn trong mẫu bệnh phẩm lâm sàng. Đối tượng và phương pháp: 36 bệnh nhân (BN) (32 nam, 4 nữ) được chẩn đoán bị rắn Hổ mang cắn, độ tuổi trung bình 46, thời gian nhập viện chủ yếu trong 24 giờ đầu sau khi bị rắn cắn.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Nghiên cứu hiệu quả sử dụng bộ kít elisa định lượng nọc rắn hổ mang Naja atra trên lâm sàng

T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 8-2017<br /> <br /> NGHIÊN CỨU HIỆU QUẢ SỬ DỤNG BỘ KÍT ELISA ĐỊNH LƯỢNG<br /> NỌC RẮN HỔ MANG Naja atra TRÊN LÂM SÀNG<br /> Hà Thị Hải*; Nguyễn Ngọc Tuấn**<br /> Đỗ Khắc Đại**; Nguyễn Đặng Dũng**<br /> TÓM TẮT<br /> Mục tiêu: nghiên cứu này đánh giá khả năng định lượng nọc rắn Hổ mang (Naja atra) của bộ<br /> xét nghiệm ELISA định lượng nọc rắn trong mẫu bệnh phẩm lâm sàng. Đối tượng và phương<br /> pháp: 36 bệnh nhân (BN) (32 nam, 4 nữ) được chẩn đoán bị rắn Hổ mang cắn, độ tuổi trung<br /> bình 46, thời gian nhập viện chủ yếu trong 24 giờ đầu sau khi bị rắn cắn. Kết quả: nồng độ nọc<br /> rắn định lượng được trong huyết thanh BN dao động từ 2,8 - 159,1 ng/ml; 26/36 mẫu (72%) cho<br /> kết quả nồng độ nọc rắn < 50 ng/ml; có mối liên quan giữa nồng độ nọc rắn với số liều huyết<br /> 2<br /> thanh kháng nọc rắn (HTKNR) dùng điều trị (R = 0,51; p < 0,001), mối liên quan này chặt chẽ<br /> hơn khi phân tích nhóm BN nhập viện trong 6 giờ đầu kể từ khi bị rắn cắn (R2 = 0,72; p <<br /> 0,001). Kết luận: bộ kít cho phép xác định nồng độ nọc rắn Hổ mang trong mẫu huyết thanh BN<br /> bị rắn Hổ mang cắn. Việc xác định nồng độ nọc rắn đặc biệt có giá trị khi thực hiện xét nghiệm<br /> ở BN bị rắn độc cắn nhập viện trong 6 giờ đầu.<br /> * Từ khóa: Nọc rắn; Naja atra; Định lượng.<br /> <br /> Evaluation of the Effect of Quantitative ELISA Test Kit for Naja<br /> atra Venom on Clinical<br /> Summary<br /> Objectives: To evaluate the testing capability of the quantitative ELISA test kit we had<br /> developed on clinical samples taken from Naja atra snake-bite patients. Subjects and methods:<br /> Involved 36 patients (32 males, 4 females) diagnosed to be bitten by Naja atra snake and<br /> hospitalized mainly within 24 hours from the snake-bite. Results: Concentrations of Naja atra<br /> venom in 36 serum samples ranged between 2.8 - 159.1 ng/mL; 26/36 (72%) samples had<br /> venom concentration below 50 ng/mL; there was a statistically significant relationship between<br /> venom concentration and number of antivenom units used for treatment (R2 = 0.51, p < 0.001)<br /> and this relationship was stronger in patients hospitalized within 6 hours from snake-bite<br /> (R2 = 0.72, p < 0.001). Conclusion: The test kit allows the quantitative of N. atra venom<br /> concentrations in serum samples of patients diagnosed to be bitten by cobra snake.<br /> Determination of snake venom concentration is valuable, especially when performing tests in<br /> patients hospitalized within 6 hours from snake-bite...<br /> * Keywords: Venom; Naja atra; Quantitative.<br /> * Trường Đại học Y Dược Thái Bình<br /> ** Học viện Quân y<br /> Người phản hồi (Corresponding): Nguyễn Ngọc Tuấn (nguyenngoctuanmd@gmail.com)<br /> Ngày nhận bài: 17/07/2017; Ngày phản biện đánh giá bài báo: 07/09/2017<br /> Ngày bài báo được đăng: 18/09/2017<br /> <br /> 59<br /> <br /> T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 8-2017<br /> ĐẶT VẤN ĐỀ<br /> Rắn độc cắn là một cấp cứu nội khoa,<br /> bệnh cảnh lâm sàng có thể nhẹ, chỉ là tổn<br /> thương mô tại chỗ, nhưng cũng có thể rất<br /> nặng, đe dọa các chức năng sống, gây<br /> nguy hiểm đến tính mạng của BN, đòi hỏi<br /> phải có biện pháp cấp cứu kịp thời. Theo<br /> Tổ chức Y tế Thế giới, thuốc điều trị hiệu<br /> quả nhất cho BN bị nhiễm độc nọc rắn là<br /> HTKNR. Hiện nay, tại Việt Nam và nhiều<br /> nước trên thế giới, HTKNR được sử dụng<br /> cho BN rắn độc cắn có nguồn gốc từ<br /> ngựa; việc sử dụng HTKNR có thể kích<br /> thích đáp ứng miễn dịch của cơ thể BN<br /> chống lại protein khác loài, gây ra một số<br /> bệnh lý quá mẫn, do đó HTKNR cần<br /> được chỉ định điều trị một cách phù hợp.<br /> Một trong những căn cứ có tính khoa học<br /> để chỉ định liều sử dụng HTKNR cho BN<br /> là kết quả định lượng nọc rắn trong mẫu<br /> huyết thanh của BN bị rắn cắn. Trong<br /> nghiên cứu trước đây, chúng tôi đã phát<br /> triển một bộ kít xét nghiệm ELISA định<br /> lượng nọc rắn Hổ mang (Naja atra) [3].<br /> Chúng tôi tiếp tục thực hiện nghiên cứu<br /> này nhằm: Đánh giá hiệu quả sử dụng<br /> trên lâm sàng của bộ kít xét nghiệm trên<br /> các mẫu bệnh phẩm từ BN bị rắn Hổ<br /> mang cắn.<br /> <br /> 2. Vật liệu nghiên cứu.<br /> - Bộ kít ELISA định lượng nọc rắn Hổ<br /> mang do Bộ môn Miễn dịch, Học viện<br /> Quân y chế tạo.<br /> - Máy đo mật độ quang DTX 880<br /> (Hãng Beckman Coulter).<br /> - Pippet các loại, máy Vortex, tủ ấm…<br /> - Một số hoá chất, vật tư tiêu hao khác<br /> dùng cho nghiên cứu đều đạt tiêu chuẩn<br /> phân tích và do chính hãng sản xuất cung<br /> cấp.<br /> 3. Phương pháp nghiên cứu.<br /> - Nghiên cứu tiến cứu, mô tả cắt ngang.<br /> * Các bước tiến hành nghiên cứu:<br /> - Thu thập: thông tin BN, mẫu huyết<br /> thanh từ BN trước khi được điều trị nhiễm<br /> độc do rắn Hổ mang cắn.<br /> - Thực hiện phản ứng ELISA với bộ kít<br /> đã xây dựng [3], định lượng nọc rắn trong<br /> các mẫu huyết thanh đã thu thập được.<br /> - Xử lý số liệu theo các phương pháp<br /> thống kê y sinh học.<br /> * Nguyên lý kỹ thuật ELISA định lượng:<br /> <br /> ĐỐI TƯỢNG, VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG<br /> PHÁP NGHIÊN CỨU<br /> 1. Đối tượng nghiên cứu.<br /> 36 BN được chẩn đoán do rắn Hổ<br /> mang cắn, nhập viện tại Trung tâm Chống<br /> độc, Bệnh viện Bạch Mai từ tháng 4 đến<br /> 10 - 2014.<br /> 60<br /> <br /> Hình 1: Nguyên lý của kỹ thuật ELISA<br /> sandwich.<br /> <br /> T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 8-2017<br /> Phương pháp dựa trên nguyên lý của<br /> kỹ thuật ELISA sandwich, trong đó kháng<br /> thể thứ nhất (KT1) là IgG ngựa đặc hiệu<br /> với nọc rắn Hổ mang, được gắn cố định<br /> trên bề mặt giếng phản ứng (pha rắn solid phase); kháng thể thứ hai (KT2) là<br /> IgG thỏ đặc hiệu với kháng nguyên nọc<br /> rắn Naja atra; kháng thể thứ ba (KT3) là<br /> IgG cừu kháng IgG thỏ, được gắn enzym<br /> horse-radish peoxidase (HRP). Mật độ<br /> quang học (OD) của các giếng ELISA tỷ<br /> lệ thuận với lượng kháng nguyên nọc rắn<br /> có trong giếng. Xây dựng đường chuẩn<br /> (đường cong tương quan giữa giá trị OD<br /> và nồng độ nọc rắn chuẩn) dựa trên giá trị<br /> OD trung bình của các giếng phản ứng<br /> với nọc rắn chuẩn; từ đường chuẩn đã<br /> xây dựng, tính toán nồng độ nọc rắn có<br /> trong mẫu huyết thanh dựa trên giá trị OD<br /> trung bình của giếng phản ứng với mẫu<br /> huyết thanh.<br /> KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ<br /> BÀN LUẬN<br /> 1. Đặc điểm đối tượng nghiên cứu .<br /> <br /> Biểu đồ 1: Phân bố tuổi, giới của nhóm<br /> BN nghiên cứu (n = 36).<br /> Độ tuổi trung bình 46, thấp nhất 9 tuổi,<br /> cao nhất 89 tuổi, 3/4 số BN có độ tuổi<br /> < 52. Đa số BN là nam giới (32 BN =<br /> 89%), chỉ có 4 BN nữ (11%). Kết quả này<br /> phù hợp với nghiên cứu của các tác giả:<br /> Nguyễn Kim Sơn (2008) thông báo 84,2%<br /> BN bị rắn hổ cắn là nam giới [5], Đỗ Khắc<br /> Đại (2013) báo cáo 68,8% là nam giới<br /> trong tổng số 122 BN bị rắn cắn điều trị<br /> tại Bệnh viện Chợ Rẫy [2]. Kết quả này<br /> cũng phù với nghiên cứu của Dong Zong<br /> Hung và CS (2003) trên 31 BN: 68% BN<br /> bị rắn Hổ mang cắn là nam [6].<br /> <br /> Biểu đồ 2: Phân bố nghề nghiệp của<br /> nhóm BN nghiên cứu (n = 36).<br /> 61<br /> <br /> T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 8-2017<br /> Phần lớn BN bị rắn Hổ mang cắn làm<br /> ruộng (25 BN = 70%). Đây là những<br /> người phải thường xuyên tiếp xúc với môi<br /> trường hoạt động và sinh sống của rắn và<br /> vào thời điểm ban đêm khi rắn đi săn mồi.<br /> Ngoài ra, 11% là những người làm nghề<br /> nuôi bắt rắn và 6% là học sinh. Có thể<br /> thấy, đối tượng bị rắn cắn thường là lao<br /> động chính, nếu bị rắn cắn thì chính họ sẽ<br /> trở thành gánh nặng về kinh tế đối với gia<br /> đình họ.<br /> <br /> nhân) thường nhập viện sớm trong<br /> những giờ đầu [5]. Thời gian nằm viện<br /> của nhóm BN nghiên cứu từ 3 - 4 ngày,<br /> ngắn hơn đáng kể so với nhóm BN bị rắn<br /> Cạp nia hay một số loài rắn độc khác cắn;<br /> lý do chính của việc rút ngắn thời gian<br /> nằm viện là những BN này được điều trị<br /> bằng HTKNR đặc hiệu (trong khi tại cùng<br /> thời điểm này, HTKNR đặc hiệu cho các<br /> loài rắn khác không có sẵn cho điều trị)<br /> [5]. Có thể thấy, việc sử dụng HTKNR kịp<br /> thời đã giúp hạn chế di chứng cũng như<br /> thời gian nằm viện của BN bị rắn độc cắn.<br /> 2. Kết quả định lượng nọc rắn trên<br /> các mẫu bệnh phẩm lâm sàng.<br /> <br /> Biểu đồ 3: Phân bố thời gian nhập viện<br /> sau khi bị rắn cắn (n = 36).<br /> Thời gian nhập viện ảnh hưởng rất lớn<br /> đến việc điều trị và tiến triển của BN.<br /> Trong nghiên cứu của chúng tôi, BN chủ<br /> yếu nhập viện trong 24 giờ đầu, trong đó<br /> số BN đến viện trước 6 giờ chiếm 3/4.<br /> Kết quả này phù hợp với nghiên cứu của<br /> Dong Zong Hung (2003) [6], Ngô Ngọc<br /> Quang Minh [4]. Rắn độc cắn là một trong<br /> những tai nạn có tỷ lệ tử vong cao, các<br /> triệu chứng tại chỗ và toàn thân xuất hiện<br /> sớm, điều này giải thích vì sao BN (nạn<br /> 62<br /> <br /> Biểu đồ 4: Phân bố nồng độ nọc rắn của<br /> BN lúc vào viện (n = 36).<br /> Nồng độ nọc rắn của BN lúc mới vào<br /> viện được định lượng bằng bộ xét nghiệm<br /> ELISA dao động từ 2,8 - 159,1 ng/ml. Kết<br /> quả của chúng tôi có độ dao động thấp<br /> hơn so với nghiên cứu của Dong Zong<br /> Hung và CS (2003) định lượng 27 mẫu<br /> huyết thanh BN bị rắn Hổ mang cắn có<br /> <br /> T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 8-2017<br /> giá trị dao động khá lớn (0 - 1.270 ng/ml)<br /> [6]. Sự khác biệt này có thể là do số mẫu<br /> trong các nghiên cứu còn thấp nên chưa<br /> đủ để mang tính đại diện, nhiều trường<br /> hợp vào viện muộn nên kết quả định<br /> lượng có thể không tương xứng với triệu<br /> chứng lâm sàng. Tuy nhiên, với nồng độ<br /> nọc rắn định lượng được hầu hết < 50 ng/ml<br /> (26 BN = 72%), kết quả của chúng tôi<br /> tương đối phù hợp với nghiên cứu của<br /> Andrew Churchman (2010) [7], George E.<br /> Allen (2012) [8].<br /> <br /> Biểu đồ 5: Tương quan giữa nồng độ nọc<br /> rắn lúc vào viện và số liều huyết thanh<br /> điều trị (n = 27).<br /> Có mối liên hệ giữa nồng độ nọc rắn<br /> trong huyết thanh định lượng được khi<br /> BN nhập viện và số liều HTKNR (lọ)<br /> (r = 0,76). Phương trình mô tả sự liên<br /> quan giữa hai biến trên là: y = 0,20*x +<br /> 9,59 với y: số liều huyết thanh kháng nọc<br /> sử dụng (lọ); x: nồng độ nọc rắn trong<br /> huyết thanh lúc vào viện (ng/ml), phương<br /> trình này có ý nghĩa thống kê (p < 0,001).<br /> Hệ số xác định bội R2 = 0,51 càng khẳng<br /> định mối liên quan giữa hai biến kể trên.<br /> <br /> Biểu đồ 6: Tương quan giữa nồng độ nọc<br /> rắn lúc vào viện và số liều huyết thanh<br /> điều trị của nhóm BN nhập viện trong<br /> 6 giờ đầu (n = 15).<br /> Trên nhóm BN nhập viện trong 6 giờ<br /> đầu, mối liên quan giữa hai biến (số liều<br /> HTKNR và nồng độ nọc rắn lúc vào viện)<br /> càng chặt chẽ hơn (r = 0,81); phương<br /> trình thiết lập được: y = 0,21*x + 5,49 với<br /> y: số liều HTKNR sử dụng (lọ); x: nồng độ<br /> nọc rắn trong huyết thanh lúc nhập viện<br /> (ng/ml), phương trình này có ý nghĩa<br /> thống kê (p < 0,001) và hệ số xác định bội<br /> R2 = 0,72. Kết quả này gợi ý, nồng độ nọc<br /> rắn trong mẫu huyết thanh của BN trong<br /> những giờ đầu (khi nọc rắn còn trong<br /> huyết thanh của BN rắn độc cắn chưa<br /> phân tán hoàn toàn đến các mô đích)<br /> phản ánh tương đối chính xác mức độ<br /> nhiễm độc nọc rắn của BN. Trong điều<br /> kiện thực hành lâm sàng điều trị BN<br /> nhiễm độc nọc rắn do bị rắn cắn, một<br /> trong những khó khăn của bác sỹ lâm<br /> sàng là chỉ định khi nào cần sử dụng<br /> HTKNR, nếu sử dụng, liều HTKNR là bao<br /> nhiêu để có thể đủ trung hòa nọc rắn mà<br /> không lãng phí HTKNR do sử dụng quá<br /> liều. Kết quả nghiên cứu cho thấy nồng<br /> độ nọc rắn trong huyết thanh có thể là<br /> một tiêu chí khách quan giúp bác sỹ lâm<br /> sàng chỉ định liều HTKNR phù hợp.<br /> 63<br /> <br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2