ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM
NGUYỄN THỊ VANG
NGHIÊN CỨU MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM DỊCH TỄ, BỆNH LÝ LÂM SÀNG BỆNH SÁN LÁ GAN LỚN Ở TRÂU, BÒ TẠI TỈNH HÀ GIANG VÀ BIỆN PHÁP PHÒNG TRỊ
NGÀNH: THÚ Y MÃ SỐ: 8.64.01.01
LUẬN VĂN THẠC SĨ THÚ Y
Người hướng dẫn khoa học : TS. Trần Đức Hạnh
TS. Phan Thị Hồng Phúc
Thái Nguyên, năm 2018
i
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của tôi. Dưới sự hướng
dẫn của TS. Phan Thị Hồng Phúc và TS. Trần Đức Hạnh. Số liệu và kết
quả nghiên cứu trong luận văn là hoàn toàn trung thực, khách quan và chưa
từng được sử dụng để bảo vệ một học vị nào.
Tôi xin cam đoan các trích dẫn trong luận văn đều đã được chỉ rõ nguồn
gốc và mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện luận văn này đều được cảm ơn.
Thái Nguyên, tháng 08 năm 2018
Tác giả
Nguyễn Thị Vang
ii
LỜI CẢM ƠN
Sau hơn hai năm học tập và nghiên cứu tại trường và địa phương, đến
nay tôi đã hoàn thành bản luận văn này. Qua đây tôi xin bày tỏ lòng biết ơn
chân thành và sâu sắc tới Ban Giám hiệu Trường Đại học Nông Lâm Thái
Nguyên, Ban Chủ nhiệm Khoa Chăn nuôi thú y, các thầy cô giáo đã tận tình
dìu dắt tôi trong suốt thời gian học tập và nghiên cứu tại Trường.
Đặc biệt, tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới thầy cô giáo: TS.
Phan Thị Hồng Phúc & TS. Trần Đức Hạnh, những người đã trực tiếp
hướng dẫn và giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn này.
Tôi xin chân thành cảm ơn tập thể lãnh đạo và nhân viên Chi cục thú y
tỉnh Hà Giang.
- Bộ môn Bệnh động vật, Khoa Chăn nuôi Thú y - Trường Đại học Nông
Lâm Thái Nguyên.
- Bệnh viện đa khoa Trung ương Thái Nguyên
- Phòng thí nghiệm, trường Cao đẳng nghề Hà Giang
- Trung Tâm kỹ thuật giống gia súc Phó Bảng, chi Nhánh xã Phong
Quang, huyện Vị Xuyên, tỉnh Hà Giang.
- Lãnh đạo chính quyền và nhân dân các xã nơi tôi thực hiện nghiên cứu
đề tài luận văn, đã tạo điều kiện giúp đỡ tôi trong thời gian tôi thực hiện
nghiên cứu tại địa phương.
Cuối cùng tôi xin bày tỏ lòng biết ơn tới gia đình, bạn bè, đồng nghiệp
đã động viên và giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu.
Hà Giang, tháng 10 năm 2018
Học viên
iii
Nguyễn Thị Vang
DANH MỤC CÁC CỤM TỪ VIẾT TẮT
cs : Cộng sự
F. : Fasciola
GOT : Glutamat- Oxaloacetat- transaminaza.
GPT : Glutamat- Pyruvat- Transaminaza.
Hb : Hemoglobin
HST : Huyết sắc tố
L : Lymnaea
n : Số lượng
NXB : Nhà xuất bản
pp : Page
SLG : Sán lá gan
tr : Trang
TT : Thể trọng
iv
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
1. Tính cấp thiết của đề tài ................................................................................ 1
2. Mục tiêu nghiên cứu ...................................................................................... 2
3. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài ...................................................... 2
CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN TÀI LIỆU ............................................................ 3
1.1. Cơ sở khoa học của đề tài .......................................................................... 3
1.1.1. Vị trí của sán lá Fasciola trong hệ thống phân loại động vật học ........... 3
1.1.2. Đặc điểm hình thái của sán lá Fasciola ................................................... 3
1.1.3. Vòng đời của sán lá Fasciola ................................................................. 4
1.2. Đặc điểm của bệnh do sán lá Fasciola gây ra ở trâu, bò ............................ 7
1.2.2. Đặc điểm dịch tễ bệnh sán lá Fasciola ở trâu bò ..................................... 9
1.2.3. Triệu chứng bệnh sán lá gan ở trâu bò .................................................. 13
1.2.4. Bệnh tích của trâu, bò mắc bệnh sán lá gan .......................................... 14
1.2.5. Chẩn đoán bệnh sán lá Fasciola ở trâu bò ............................................. 14
1.2.6. Phòng và trị bệnh sán lá Fasciola ở trâu bò .......................................... 15
1.3. Tình hình nghiên cứu trong và ngoài nước .............................................. 17
1.3.1. Tình hình nghiên cứu trong nước .......................................................... 17
1.3.2. Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài ...................................................... 19
CHƯƠNG 2 ĐỐI TƯỢNG, VẬT LIỆU, NỘI DUNG ................................... 21
VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ............................................................ 21
2.1. Đối tượng, địa điểm, thời gian nghiên cứu .............................................. 21
2.1.1. Đối tượng nghiên cứu............................................................................ 21
2.1.2. Địa điểm nghiên cứu ............................................................................. 21
2.1.3. Thời gian nghiên cứu ............................................................................ 21
2.2. Vật liệu nghiên cứu .................................................................................. 21
v
2.2.1. Mẫu nghiên cứu ..................................................................................... 21
2.2.2. Dụng cụ và hoá chất .............................................................................. 22
2.3. Nội dung nghiên cứu ................................................................................ 22
2.3.1. Xác định loài sán lá gan ký sinh ở trâu, bò một số huyện tỉnh
Hà Giang ......................................................................................................... 22
2.3.2. Đặc điểm dịch tễ bệnh sán lá gan trâu, bò ............................................ 22
2.3.3. Đặc điểm bệnh lý lâm sàng ................................................................... 22
2.3.4. Hiệu lực tẩy sán lá gan của một số loại thuốc ....................................... 23
2.3.5. Đề xuất một số biện pháp phòng bệnh sán lá gan cho trâu bò ở tỉnh
Hà Giang ......................................................................................................... 23
2.4. Phương pháp nghiên cứu .......................................................................... 23
2.4.1. Phương pháp xác định loài sán lá gan ký sinh ở trâu, bò ở một số
huyện thuộc tỉnh Hà Giang ............................................................................. 23
2.4.2. Phương pháp nghiên cứu một số đặc điểm dịch tễ bệnh sán lá gan trâu,
bò ở một số thuộc huyện, tỉnh Hà Giang ....................................................... 23
CHƯƠNG 3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN .................................................. 28
3.1 Kết quả xác định loài sán lá gan ký sinh ở trâu, bò tại 3 huyện của tỉnh
Hà Giang ......................................................................................................... 28
3.1.1. Kết quả mổ khám trâu, bò và thu thập sán lá gan ................................. 28
3.1.2. Kết quả xác định loài sán lá gan ký sinh ở trâu, bò .............................. 29
3.2. Nghiên cứu đặc điểm dịch tễ bệnh sán lá gan trâu, bò ở ba huyện của tỉnh
Hà Giang ........................................................................................................ 30
3.2.1. Tỷ lệ và cường độ nhiễm sán lá gan ở trâu, bò tại các địa phương ...... 30
3.2.3. Tỷ lệ và cường độ nhiễm sán lá gan ở trâu, bò theo tính biệt ............... 35
3.2.4. Tỷ lệ và cường độ nhiễm sán lá gan ở trâu, bò theo tuổi ...................... 37
3.2.5. Tỷ lệ và cường độ nhiễm sán lá gan trâu, bò theo phương thức
chăn nuôi ......................................................................................................... 39
3.3. Nghiên cứu đặc điểm bệnh lý, lâm sàng .................................................. 42
vi
3.3.1. Xác định triệu chứng lâm sàng của trâu, bò nhiễm sán lá gan ............. 42
3.3.2. Bệnh tích đại thể của gan trâu, bò nhiễm sán lá gan ............................. 46
3.3.3. Bệnh tích vi thể của gan trâu, bò mắc bệnh sán lá gan ......................... 48
3.3.4. Số lượng hồng cầu, bạch cầu và hàm lượng huyết sắc tố của trâu, bò
mắc bệnh sán lá gan ........................................................................................ 52
3.4. Nghiên cứu hiệu lực tẩy sán lá gan của một số loại thuốc ....................... 54
3.4.1. Hiệu lực của thuốc tẩy sán lá gan cho trâu, bò ..................................... 54
3.4.2. Độ an toàn của thuốc tẩy sán lá gan trâu bò ......................................... 56
3.5. Đề xuất biện pháp phòng chống bệnh sán lá gan cho trâu, bò ở tỉnh
Hà Giang ......................................................................................................... 60
KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ ............................................................................. 62
1. Kết luận ....................................................................................................... 62
1.1. Nghiên cứu đặc điểm dịch tễ bệnh sán lá gan trâu, bò ở 3 huyện của tỉnh
Hà Giang: ........................................................................................................ 62
2. Đề nghị ........................................................................................................ 63
TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................................. 64
vii
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 3.1. Kết quả mổ khám trâu, bò và thu thập sán lá gan .......................... 28
Bảng 3.2. Kết quả xác định loài sán lá gan ký sinh ở trâu, bò ........................ 30
Bảng 3.3. Tỷ lệ và cường độ nhiễm sán lá gan ở trâu, bò tại các địa phương 31
Bảng 3.4. Tỷ lệ và cường độ nhiễm sán lá gan ở trâu, bò theo mùa vụ .......... 34
Bảng 3.5. Tỷ lệ và cường độ nhiễm sán lá gan trâu, bò theo tính biệt ........... 35
Bảng 3.6. Tỷ lệ và cường độ nhiễm sán lá gan trâu, bò theo tuổi .................. 38
Bảng 3.7. Tỷ lệ và cường độ nhiễm sán lá gan trâu, bò theo phương thức
chăn nuôi ......................................................................................................... 40
Bảng 3.8. Một số biểu hiện triệu chứng của trâu, bò bị nhiễm sán lá gan ...... 44
Bảng 3.9. Bệnh tích đại thể gan bò bị sán lá gan ký sinh ............................... 46
Bảng 3.10. Tỷ lệ và đặc điểm tiêu bản gan trâu, bò mắc bệnh sán lá gan có
bệnh tích vi thể ................................................................................................ 49
Bảng 3.11. Số lượng hồng cầu, bạch cầu và hàm lượng huyết sắc tố, men gan
của trâu, bò bình thường và trâu, bò nhiễm sán lá gan ................................... 52
Bảng 3.12. Hiệu lực của thuốc tẩy sán lá gan cho trâu, bò ............................. 55
Bảng 3.13. Một số chỉ tiêu sinh lý của trâu, bò trước và sau khi dùng thuốc
1 giờ ................................................................................................................. 57
viii
DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ VÀ ĐỒ THỊ
Biểu đồ 3.1. Tỷ lệ nhiễm sán lá gan ở trâu, bò tại các địa phương ..................... 32
Đồ thị 3.2. Tỷ lệ nhiễm sán lá gan ở trâu, bò theo mùa vụ ............................. 34
Biều đồ 3.3.Tỷ lệ nhiễm sán lá gan trâu, bò theo tính biệt ............................. 37
Biểu đồ 3.4. Tỷ lệ nhiễm sán lá gan trâu, bò theo tuổi ................................... 39
Biểu đồ 3.5. Tỷ lệ nhiễm sán lá gan trâu, bò theo phương thức chăn nuôi .... 41
ix
DANH MỤC CÁC HÌNH ẢNH
Hình 3.1. Gan bị sung huyết, xuất huyết ......................................................... 50
Hình 3.2. Tế bào gan bị thoái hóa, bị tổn thương, mô liên kết lan rộng ............... 51
Hình 3.3. Tổ chức gan bị xung huyết, tổ chức xơ phát triển mạnh, lan tỏa tạo
các vách xơ, có sự thâm nhiễm của bạch cầu ................................................. 51
Hình 3.4. Tổ chức gan bị xâm nhiễm tế bào viêm .......................................... 51
x
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Bệnh sán lá gan ở trâu, bò (Fasciolosis) do hai loài sán lá Fasciola
hepatica và Fasciola gigantica gây ra, được coi là bệnh ký sinh trùng phổ
biến và gây thiệt hại lớn về kinh tế cho ngành chăn nuôi trâu, bò trên toàn thế
giới nói chung và Việt Nam nói riêng.
Sán lá gan ký sinh gây nhiều tác hại đến sức sinh trưởng, sinh sản ở trâu,
bò; mỗi sán ký sinh ở ống dẫn mật lấy 0,2ml máu mỗi ngày làm tổn thương
thành ống dẫn mật, xơ gan, thiếu máu…tiết độc tố gây trúng độc, viêm nhiễm
tăng sinh ở nhu mô gan…
Nguy hiểm hơn bệnh sán lá gan ở trâu, bò còn truyền lây sang người gây
viêm gan, xơ gan thậm chí biến chứng ung thư gan ở người.
Hà Giang là một tỉnh miền núi, đất trồng cỏ rộng thuận lợi cho ngành
chăn nuôi trâu, bò. Là một trong những ngành nghề trọng điểm của tỉnh trong
những năm gần đây vì vậy chăn nuôi trâu, bò được đánh giá có tiềm năng rất
phát triển.
Ngày 10 tháng 12 năm 2015, Nghị quyết 209 của Hội đồng nhân dân
tỉnh Hà Giang khóa XVI kỳ họp thứ 16, về việc ban hành chính sách khuyến
khích phát triển sản xuất nông nghiệp hàng hóa trên địa bàn tỉnh Hà Giang,
trong đó có nghề chăn nuôi trâu, bò là trọng tâm. Tuy nhiên, các bệnh ký sinh
trùng trên trâu, bò chưa được người chăn nuôi quan tâm đúng mức do trình
độ và kinh nghiệm của người chăn nuôi còn hạn chế, một số bà con chăn nuôi
không nói được tiếng kinh nên chưa tiếp cận được khoa học cũng như kỹ
thuật chăn nuôi trâu, bò. Đặc biệt bà con chăn nuôi chưa phân biệt cụ thể về
tẩy sán lá gan với tẩy giun nên việc phòng trị bệnh sán lá gan cho trâu, bò tại
tỉnh Hà Giang còn nhiều bất cập. Trong những năm qua, việc nghiên cứu về
bệnh sán lá gan trên đàn trâu, bò ở tỉnh Hà Giang còn chưa được thực hiện
2
một cách đầy đủ, vì vậy việc phòng trừ bệnh sán lá gan trên trâu, bò ở tỉnh Hà
Giang cũng chưa được chú ý.
Để góp phần phòng chống bệnh sán lá gan lớn cho đàn trâu, bò ở Hà
Giang, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Nghiên cứu một số đặc điểm
dịch tễ, bệnh lý lâm sàng bệnh sán lá gan lớn ở trâu, bò tại tỉnh Hà Giang
và biện pháp phòng trị ”.
2. Mục tiêu nghiên cứu
- Xác định loài sán lá gan ký sinh trên trâu, bò ở một số huyện thuộc
tỉnh Hà Giang.
- Xác định một số đặc điểm dịch tễ bệnh sán lá gan lớn ở trâu, bò tại một
số huyện thuộc tỉnh Hà Giang.
- Xác định đặc điểm bệnh lý, lâm sàng bệnh sán lá gan lớn ở trâu, bò tại
tỉnh Hà Giang.
- Nghiên cứu biện pháp điều trị bệnh sán lá gan trâu, bò.
- Đề xuất biện pháp phòng, trị bệnh do sán lá gan lớn gây ra ở trâu, bò.
3. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Kết quả nghiên cứu là những thông tin có giá trị khoa học và thực tiễn,
làm cơ sở để ứng dụng cho người chăn nuôi trâu, bò thực hiện các biện pháp
phòng và trị sán Fasciola ở trâu, bò, nhằm đảm bảo sức khỏe đàn trâu, bò,
góp phần phát triển chăn nuôi, từ đó góp phần phát triển kinh tế - xã hội của
các địa phương ở tỉnh Hà Giang.
3
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Cơ sở khoa học của đề tài
1.1.1. Vị trí của sán lá Fasciola trong hệ thống phân loại động vật học
Theo Nguyễn Thị Lê và cs (1996) [19], sán lá gan ký sinh và gây bệnh
cho gia súc nhai lại được xếp trong hệ thống phân loại động vật như sau:
Ngành Plathelminthes Schneider, 1873
Phân ngành Platodes Leuckart, 1954
Lớp Trematoda Rudolphhi, 1808
Phân lớp Prosostomadidea Skrjabin và Guschanskaja, 1962
Bộ Fasciolata Skrjabin et Schulz, 1937
Phân bộ Fasciolata Skrjabin et Schulz, 1937
Họ Fasciolidae Railliet, 1895
Phân họ Fasciolinae Stiles et Hassall, 1898
Giống Fasciola Linnaeus (Linnaeus, 1758)
Loài Fasciola hepatica (Linnaeus,1758)
Loài Fasciola gigantica (Cobbold, 1885)
1.1.2. Đặc điểm hình thái của sán lá Fasciola
Cũng như nhiều loài sán lá khác, sán lá gan lưỡng tính, có thể thụ tinh
chéo hoặc tự thụ tinh. Sán lá có giác miệng và giác bụng, giác bụng không nối
với cơ quan tiêu hoá. Sán lá không có hệ hô hấp, tuần hoàn và cơ quan thị
giác (ở giai đoạn mao ấu có dấu vết sắc tố mắt). Hệ sinh dục rất phát triển với
cả bộ phận sinh dục đực và cái trong cùng một sán lá. Tử cung sán lá chứa
đầy trứng.
Có thể phân biệt hai loài sán lá gan thuộc giống Fasciola như sau:
- F.gigantica (Linnaeus, 1758): có chiều dài thân gấp 3 lần chiều rộng,
"vai" không có hoặc nhìn không rõ rệt, nhánh ruột chia toả ra nhiều nhánh ngang.
4
Phạm Văn Khuê và cs (1996) [9] mô tả F.gigantica như sau: sán hình lá,
có chiều dài 25 - 75mm, rộng 3 - 12mm, u lồi hình nón của đầu là phần tiếp
theo của thân, vì vậy nó không có "vai" như loài khác của giống Fasciola. Hai
rìa bên thân sán lá song song với nhau, đầu cuối của thân tù. Giác bụng tròn
lồi ra. Ruột, tuyến noãn hoàng, buồng trứng và tinh hoàn đều phân nhánh.
Trứng hình bầu dục, phôi bào phân bố đều và màu vàng nâu. Kích thước
trứng 0,125 - 0,170 x 0,06 - 0,10mm. Giác bụng có đường kính từ 1,491-
1,785 mm và giác miệng có dường kính từ 1,092 – 1,555mm.
- F.hepatica (Linnaeus, 1758): trái với loài trên, loài này thân rộng, đầu lồi
và nhô ra phía trước làm cho sán lá có "vai", nhánh ruột chia ít nhánh ngang hơn.
F.hepatica dài 18 - 51mm, rộng 4 - 13mm, phần trước thân nhô ra, tạo
cho sán lá có vai bè ra hai bên. Hai rìa bên thân sán lá không song song với
nhau mà phình ra ở chỗ vai rồi thót lại ở đoạn cuối thân. Những ống dẫn
tuyến noãn hoàng chạy ngang, chia vùng giữa của sán lá thành phần trước và
phần sau thân. Phần sau thân có tinh hoàn và bộ phận sinh dục đực. Tinh hoàn
phân nhiều nhánh xếp phía sau thân. Tử cung ở phần giữa thân trước tạo nên
một mạng lưới rối như tơ vò. Buồng trứng phân nhánh nằm ở sau tử cung.
Trứng của sán F.hepatica có hình thái, màu sắc tương tự trứng của loài
F.gigantica, kích thước 0,13 - 0,145 x 0,07 - 0,09mm.
1.1.3. Vòng đời của sán lá Fasciola
Chu kỳ sinh học của sán lá Fasciola đã được Leukart (1882) nghiên cứu
ở Đức và Thomas (1882) nghiên cứu ở Anh.
Fasciola trưởng thành ký sinh trong ống dẫn mật của trâu, bò, dê. Sau
khi thụ tinh mỗi sán lá đẻ hàng chục vạn trứng. Những trứng này cùng dịch
mật vào ruột, sau đó theo phân ra ngoài. Nếu gặp điều kiện thuận lợi: được
nước mưa cuốn trôi xuống các vũng nước, hồ, ao, suối, ruộng nước…, nhiệt
độ 15 - 30oC, pH = 5 - 7,7, có ánh sáng thích hợp… sau 10 - 25 ngày trứng nở
thành Miracidium bơi tự do trong nước. Nếu thiếu ánh sáng Miracidium
5
không có khả năng thoát vỏ nhưng vẫn tồn tại đến 8 tháng trong vỏ.
Miracidium có hình tam giác, xung quanh thân có lông và di chuyển được
trong nước. Khi gặp vật chủ trung gian thích hợp (ốc Lymnaea), Miracidium
xâm nhập cơ thể ốc và phát triển thành bào ấu (Sporocyst). Những
Miracidium không gặp vật chủ trung gian thì rụng lông, rữa dần và chết.
Bào ấu (Sporocyst) hình túi, màu sán lá, được bao bọc bởi lớp màng
mỏng, các tế bào ngọn lửa hoạt động hình thành hầu, ống ruột và các đám
phôi. Trong 1 ốc có thể có 1 - 2 ấu trùng. Khoảng 3 - 7 ngày, bào ấu sinh sản
vô tính cho ra nhiều Redia (lôi ấu). Một bào ấu sinh ra 5 - 15 lôi ấu.
Redia hình suốt chỉ, ít hoạt động, có miệng, hầu, ruột, hình túi đơn gian.
Có hai hệ: Redia thế hệ I và Redia thế hệ II cùng phát triển trong ốc - vật chủ
trung gian. Ở nhiệt độ 16oc hoặc thấp hơn, lôi ấu chỉ sinh sản Redia I và dừng
phát triển, ở nhiệt độ phù hợp (20 - 30oc), sau 29 - 35 ngày, lôi ấu biến thành
vĩ ấu (Cercaria). Một Redia có thể sinh ra 12 - 20 Cercaria.
Cercaria (vĩ ấu) là ấu trùng ở pha sống tự do của sán lá gan, có cấu tạo
thân hình tròn lệch, đuôi dài hơn thân giúp vĩ ấu vận chuyển được dễ dàng
trong nước. Cấu tạo của vĩ ấu gồm giác miệng, giác bụng, hầu, thực quản và
ruột phân thành hai nhánh.
Theo Grigoryan G. A. (1958)[40], trong cơ thể Cercaria có những dạng
Glycogen cung cấp năng lượng cho hoạt động sống của ấu trùng, đặc biệt là
cho sự vận động không ngừng của đuôi. Đuôi là cơ quan vận động của vĩ ấu.
Theo một số tác giả, đuôi làm nhiệm vụ thay đổi vị trí của ấu trùng trong môi
trường nước. Lora R. Ballweber, M. S., D. V. M. (2015)[43] cho biết, nhờ sự
hoạt động tích cực của đuôi mà vĩ ấu tiếp cận để bám vào các cây thuỷ sinh,
tạo thành kén (Adolescaria).
Từ khi Miracidium chui vào ốc đến khi phát triển thành Cercaria cần
khoảng 50 - 80 ngày. Sau khi thành thục, Cercaria thoát khỏi vỏ ốc, ra môi
trường ngoài, bơi tự do trong nước, có kích thước 0,28 - 0,30mm chiều dài và
6
0,23mm chiều rộng. Sau vài giờ bơi trong nước, Cercaria rụng đuôi, tiết chất
nhầy xung quanh thân, chất nhầy gặp không khí khô rất nhanh. Lúc này
Cercaria đã biến thành Adolescaria.
Adolescaria hình khối tròn, bên trong chứa phôi hoạt động. Phôi có giác
miệng, giác bụng, ruột phân nhánh và túi bài tiết, Adolescaria thường ở trong
nước hoặc bám vào cây cỏ thuỷ sinh. Nếu trâu, bò, nuốt phải Adolescaria vào
đến dạ dày và ruột, lớp vỏ ngoài bị phân huỷ, ấu trùng được giải phóng và di
chuyển đến ống mật bằng 3 con đường:
- Một số ấu trùng dùng tuyến xuyên chui qua niêm mạc ruột, vào tĩnh
mạch ruột qua tĩnh mạch cửa vào gan, xuyên qua nhu mô vào ống mật.
- Một số ấu trùng khác cũng dùng tuyến xuyên chui qua thành ruột vào
xoang bụng đến gan, xuyên qua vỏ gan vào ống mật.
- Một số ấu trùng từ tá tràng ngược dòng dịch mật để lên ống dẫn mật.
Sau khi vào ống dẫn mật, ấu trùng ký sinh ở đó và phát triển thành sán lá
gan trưởng thành. Theo Skerman (1966), thời gian hoàn thành vòng đời là 92
- 117 ngày. Fasciola trưởng thành có thể ký sinh trong ống dẫn mật của trâu
bò 3 - 5 năm, có khi tới 11 năm.
Theo Phan Địch Lân (1985) [16], nước ta đã nghiên cứu thành công
vòng đời của sán lá gan. Trong điều kiện nhiệt độ thích hợp (28 - 30oC), có ốc
vật chủ trung gian (Lymnae swinhoei và Lymnae viridis), có vật chủ cuối cùng
(trâu, bò, dê, cừu) thì vòng đời của sán lá gan ở nước ta được xác định với các
mức thời gian sau:
- Ở ngoài thiên nhiên: trứng sán lá gan nở thành mao ấu (Miracidium)
trong khoảng 14 - 16 ngày.
- Ở trong ốc vật chủ trung gian: mao ấu (Miracidium) phát triển thành lôi
ấu (Redia) cần 8 - 21 ngày. Lôi ấu (Redia) phát triển thành vĩ ấu (Cercaria)
non cần 7 - 14 ngày, thành vĩ ấu trưởng thành cần 13 - 14 ngày.
7
- Ở ngoài ốc vật chủ trung gian: vĩ ấu phát triển thành kén (Adolescaria)
sau 2 giờ.
- Ở trâu, bò: khi trâu bò, bê nghé nuốt phải Adolescaria, sau 79 - 88 ngày
trong ống dẫn mật của trâu bò đã có sán lá gan trưởng thành đẻ trứng theo
phân ra ngoài.
Điều kiện nhiệt độ và ẩm độ của nước ta rất thuận lợi cho sự nhiễm và
gây bệnh sán lá gan (kể cả gây nhiễm và nhiễm tự nhiên). Ở những vùng có
mầm bệnh tồn tại, trung bình 3 tháng sán lá gan lại hoàn thành vòng đời trong
cơ thể trâu, bò, nghĩa là trâu cứ 3 tháng lại tạo ra một đời sán lá mới. Trong
khi trâu bò đã có sán lá gan ký sinh, tiếp tục nhiễm thêm mầm bệnh mới, gây
tình trạng bội nhiễm sán lá gan, vì vậy cường độ nhiễm tăng lên theo tuổi
trâu, bò.
MT nước
As, to, pH Phân Mao ấu Trứng Fasciola (ống dẫn mật)
Bào ấu
Ốc nước ngọt
Lôi ấu
Rời KCTG
Trâu, bò nuốt phải nang ấu
Nang ấu Vĩ ấu
(Lơ lửng trong nước hoặc bám vào cỏ thuỷ sinh)
Tóm tắt sơ đồ vòng đời của sán lá Fasciola
1.2. Đặc điểm của bệnh do sán lá Fasciola gây ra ở trâu, bò
Trâu bò bị bệnh sán lá gan thể hiện những biến đổi cơ bản ở gan và ống
mật do tác động của Fasciola gây ra.
8
1.2.1. Cơ chế sinh bệnh của bệnh sán lá Fasciola
Theo Nguyễn Thị Kim Lan và cs (2008) [12], sán lá gan gây bệnh ở vật
chủ bằng các tác động cơ học, tác động của độc tố, sự chiếm đoạt dinh dưỡng
và tác động mang trùng. Khi trâu bò mới nhiễm bệnh, sán lá non di hành
trong cơ thể làm tổn thương ở ruột, thành mạch máu, nhu mô gan. Một số ấu
trùng có thể theo máu di chuyển "lạc chỗ" đến phổi, lách, cơ hoành, tuyến
tuỵ,...gây tổn thương và xuất huyết nặng hoặc nhẹ. Sán lá non xuyên qua các
nhu mô gan, làm tổ chức gan bị phá hoại, tạo ra những đường di hành đầy
máu và mảnh tổ chức gan bị phá huỷ. Gan bị viêm từ nhẹ đến nặng tùy theo
số lượng ấu trùng nhiễm vào cơ thể. Trâu bò bị thiếu máu do xuất huyết, có
thể chết do mất máu.
Tác động cơ giới của sán lá còn tiếp tục khi sán lá đã vào ống dẫn mật,
tiếp tục tăng lên về kích thước và phát triển thành sán lá trưởng thành. Sán lá
trưởng thành thường xuyên kích thích niêm mạc ống mật bằng các gai cutin
trên cơ thể, gây viêm ống mật. Số lượng sán lá nhiều có thể làm tắc ống mật,
mật ứ lại không xuống ruột được sẽ tràn vào máu, gây hiện tượng hoàng đản.
Trong quá trình ký sinh, sán lá thường xuyên tiết độc tố. Độc tố tác động
vào thành ống mật và mô gan, gây biến đổi đại thể và vi thể, làm tăng quá
trình viêm. Đồng thời, độc tố của sán lá còn hấp thu vào máu, gây hiện tượng
trúng độc toàn thân, gây huỷ hoại máu, làm biến chất protein trong máu, làm
albumin giảm, globulin tăng. Độc tố của sán lá còn làm tăng nhiệt độ cơ thể,
tăng bạch cầu (đặc biệt là bạch cầu ái toan). Độc tố của sán lá còn tác động
vào thần kinh, làm cho con vật có triệu chứng thần kinh (run rẩy, đi xiêu
vẹo,…). Độc tố của sán lá gan tác động vào thành mạch máu, làm tăng tính
thẩm thấu của thành mạch, gây hiện tượng thuỷ thũng, làm cho máu đặc lại.
Cũng do tác động của độc tố nên giữa những tiểu thuỳ gan có hiện tượng
thấm nhiễm huyết thanh và tế bào, hình thành nên các mô liên kết mới dọc
theo các vách ngăn của tiểu thuỳ gan và quanh ống mật, vì vậy những ống
9
mật này cũng dày lên. Quá trình viêm kéo dài làm cho các tế bào yêu cầu tăng
sinh, thay thế những tế bào nhu mô gan, gây hiện tượng xơ gan và teo gan.
Khi trâu bò nhiễm sán lá gan nặng, hiện tượng xơ gan chiếm diện tích lớn của
gan, làm cho chức năng của gan bị phá huỷ. Từ đó dẫn đến hàng loạt rối loạn
khác như: rối loạn cơ năng dạ dày - ruột, thiếu máu, suy nhược, gầy dần, cổ
chướng, xoang phúc mạc tích nước.
Một tác động quan trọng của Fasciola khi ký sinh ở vật chủ là chiếm
đoạt dinh dưỡng. Dinh dưỡng của sán lá gan là máu trâu bò mà nó ký sinh.
Bằng phương pháp phóng xạ, người ta đã thấy mỗi sán lá ký sinh ở ống dẫn
mật lấy 0,2ml máu mỗi ngày. Như vậy, nếu trâu bò nhiễm ít sán lá thì vai trò
chiếm đoạt dinh dưỡng không rõ, nhưng nếu mỗi trâu bò có hàng trăm, hàng
nghìn sán lá ký sinh thì lượng máu mất đi rất nhiều.
Ngoài các tác động gây bệnh trên, trong khi di hành, sán lá non còn mang
theo các loại vi trùng từ bên ngoài vào máu, gan và những cơ quan khác, gây
những bọc mủ hoặc gây bệnh truyền nhiễm ghép với bệnh sán lá gan.
Tất cả những tác động kể trên của sán lá Fasciola làm cho sức đề kháng
của cơ thể trâu, bò giảm sút nghiêm trọng, dễ mắc các bệnh khác, hoặc làm
cho các bệnh đang có trong cơ thể trâu bò nặng thêm lên.
1.2.2. Đặc điểm dịch tễ bệnh sán lá Fasciola ở trâu bò
Bệnh sán lá gan phổ biến ở khắp các châu lục và nhiều nước trên thế
giới. Ở Việt Nam, bệnh thấy ở khắp các tỉnh thành trong cả nước.
Theo Phan Địch Lân (1980) [15], mổ khám 1.043 trâu ở Thái Nguyên, số
trâu nhiễm sán lá gan là 57%, trong đó có nhiều gan phải huỷ bỏ do số lượng
sán lá quá nhiều. Kết quả điều tra ở huyện Bình Lục - Nam Hà, tỷ lệ nhiễm
sán lá gan ở trâu là 51,2-57,5%.
Đoàn Văn Phúc (1980) [ 23] đã kiểm tra 64 bò tại trại bò sữa Hà Nội,
thấy tỷ lệ nhiễm sán lá Fasciola là 73,43%. Tác giả cho biết, bệnh sán lá gan
đã ảnh hưởng rõ rệt đến sức khoẻ và sản lượng sữa của đàn bò.
10
Kết quả kiểm tra trâu, bò ở một số địa phương xung quanh Hà Nội, Bắc
Giang, Thái Nguyên, Hoà Bình, tỷ lệ nhiễm sán lá gan là 44,53%. Trong đó,
trâu nhiễm 33,92%, bò nhiễm 54,21% (Lương Tố Thu và Bùi Khánh Linh,
1996 [29]).
Tỷ lệ và cường độ nhiễm sán lá gan ở gia súc nhai lại phụ thuộc vào
những yếu tố sau:
- Yếu tố thời tiết, khí hậu và mùa vụ:
Thời tiết, khí hậu của một vùng, một khu vực có liên quan trực tiếp đến
sự tồn tại và phát triển của ốc - vật chủ trung gian của sán lá gan. Điều kiện
ẩm ướt, mưa nhiều tạo ra môi trường nước, giúp ốc nước ngọt sống và sinh
sản thuận lợi.
Trịnh Văn Thịnh (1978) [28], Phạm Văn Khuê và Phan Lục (1996)[9],
Nguyễn Thị Kim Lan và cs (1999)[11] … cho biết, trâu bò nhiễm sán lá gan
thường tăng lên vào mùa vật chủ trung gian phát triển. Những năm mưa, tỷ lệ
nhiễm sán lá gan tăng lên so với những năm nắng ráo và khô hạn. Mùa vụ gắn
liền với sự thay đổi thời tiết khí hậu. Mùa hè thu, số gia súc bị nhiễm sán lá gan
tăng cao hơn các mùa khác trong năm. Cuối mùa thu và mùa đông bệnh thường
phát ra.
- Yếu tố vùng và địa hình
Vùng và địa hình là hai khái niệm khác nhau, song có liên quan chặt chẽ
với nhau. Các vùng khác nhau có địa hình không giống nhau. Địa hình là yếu
tố quan trọng quyết định sự khác nhau giữa các vùng.
Các vùng khác nhau trên thế giới nói chung và ở Việt Nam nói riêng đều
thuộc bốn loại địa hình: ven biểu, đồng bằng, trung du và miền núi.
Hầu hết các nhà ký sinh trùng học thống nhất rằng, gia súc nhai lại ở
vùng đồng bằng nhiễm sán lá gan nhiều nhất, tỷ lệ và cường độ nhiễm giảm
dần đối với đàn gia súc nhai lại ở vùng ven biển, vùng trung du và vùng núi.
Về nguyên nhân dẫn đến quy luật này, Trịnh Văn Thịnh, 1978[28]; Phạm Văn
11
Khuê và Phan Lục, 1996[9] cho biết, vùng đồng bằng có nhiều hồ, ao, kênh,
rạch, có điều kiện cho ốc - vật chủ trung gian sống và sinh sản. Các kiểu địa
hình khác thì vấn đề này hạn chế hơn so với đồng bằng.
Phan Địch Lân (1985) [16] đã điều tra 7.359 trâu, bò ở 26 tỉnh miền Bắc
Việt Nam, kết quả thấy: trâu bò ở vùng đồng bằng nhiễm sán lá gan cao nhất,
sau đó đến vùng trung du, vùng ven biển và miền núi (bình quân tỷ lệ nhiễm
sán lá ở các vùng điều tra như sau: vùng đồng bằng từ 19,6% đến 61,3%,
vùng trung du từ 16,4% đến 50,2%, vùng ven biển từ 13,7% đến 39,6%, vùng
núi từ 14,7% đến 44,0%).
- Yếu tố loài và tuổi vật chủ cuối cùng
Ở nước ta, theo Phạm Văn Khuê và Phan Lục (1996) [9], loài gia súc
nhiễm sán lá Fasciola nhiều nhất là trâu (79,6%), bò ít hơn (36%), dê ít nhất
(20%). Sở dĩ trâu nhiễm sán lá gan nhiều là do đặc tính ưa nước của chúng
(thích ăn gần chỗ có nước, đằm tắm trong nước và uống nước ở vũng, ao,
kênh rạch), trong khi bò và dê ít ưa nước hơn.
Về mối liên quan giữa tỷ lệ, cường độ nhiễm sán lá gan và tuổi vật chủ,
các tác giả đều thống nhất rằng, tuổi trâu bò càng cao thì tỷ lệ và cường độ
nhiễm càng tăng lên. Một điều dễ nhận thấy là, trâu bò tuổi càng tăng lên
(thời gian sống càng dài) thì sự tiếp súc với môi trường ngoại cảnh càng
nhiều, cơ hội gặp và nuốt phải nang ấu (Adolescaria) càng cao. Mặt khác, sán
lá Fasciola trưởng thành có thời gian ký sinh ở trâu bò nhai lại tương đối dài
(3 - 5 năm, thậm chí tới 11 năm). Đó chính là cơ sở khoa học giải thích cho
quy luật nhiễm theo tuổi vật chủ của sán lá Fasciola spp.
Phan Địch Lân (1985) [16], cho biết, trâu dưới 3 năm tuổi chỉ nhiễm sán
lá gan 17,2 - 22,0%; trâu 3 - 5 năm tuổi nhiễm sán lá gan 31,2% -40,2%, trâu
5 - 8 năm tuổi nhiễm 42,4% - 57,5%, trâu trên 8 năm tuổi nhiễm 56,8 -
66,3%, trâu ở độ tuổi phế canh (loại thải) khi mổ khám thấy tỷ lệ nhiễm cao
12
tới 84,6% (những trâu này bị bệnh rất nặng, gan phải huỷ bỏ toàn bộ do có
quá nhiều sán lá ký sinh).
- Vật chủ trung gian của Fasciola spp.
Sự phân bố các loài ốc - vật chủ trung gian của sán lá gan phụ thuộc vào
các vùng địa lý khác nhau. Theo Phạm Văn Khuê và Phan Lục (1996), vật
chủ trung gian của sán lá Fasciola là các loài ốc nước ngọt Lymnaea: L.
auricularia, L. swinhoei, L.viridis, Agalba truncatula, Radix ovata.
Phan Địch Lân và cs (1985) [16] đã nghiên cứu đặc điểm sinh học của ốc
- vật chủ trung gian của F.gigantica ở miền Bắc Việt Nam. Tác giả cho biết,
vật chủ trung gian của sán lá Fasciola là hai loài ốc nước ngọt thuộc giống
Lymnae với tên gọi là ốc vành tai (L.swinhoei) và ốc chanh (L.viridis). Loài
swinhoei có vỏ mỏng, dễ vỡ, không có nắp miệng, kích thước 20mm, vòng
xoắn cuối cùng rất lớn, chiếm gần hết phần thân, vỏ loe ra như vành tai. Loài
L. viridis cũng có vỏ mỏng, không có nắp miệng, kích thước 10mm, vỏ dễ vỡ,
có 4 - 5 vòng xoắn cuối cùng lớn.
Ốc L.viridis thường sống ở những nơi nước xâm xấp, đẻ trứng thành ổ 7
- 10 trứng sau 7 ngày nở thành ốc con, ốc L.swinhoei thường sống trôi nổi ở
cống rãnh, ao, hồ, đẻ trứng quanh năm, mỗi ổ có 60 - 150 trứng. Trong điều
kiện nhiệt độ ở nước ta, ốc đẻ quanh năm và quanh năm có ốc con được nở ra.
Theo Nguyễn Trọng Kim (1997) [10], giữa tỷ lệ nhiễm ấu trùng sán lá
gan của ốc - vật chủ trung gian với tỷ lệ nhiễm sán lá gan của trâu, bò có mối
tương quan thuận, nghĩa là nếu tỷ lệ nhiễm ấu trùng sán lá gan ở ốc nước ngọt
cao thì tỷ lệ nhiễm sán lá gan của trâu, bò ở khu vực đó cũng cao.
- Sức đề kháng của trứng và ấu trùng sán lá gan:
Trứng sán lá gan được thải theo phân trâu bò ra môi trường ngoại
cảnh. Trứng sán lá rất nhậy cảm với điều kiện khô hạn và tác động trực tiếp
của ánh sáng mặt trời. Ở trong phân khô, phôi ngừng phát triển, trứng bị
chết sau 8 - 9 ngày.
13
Trong điều kiện khô hạn, vỏ trứng bị nhăn nheo, biến đổi hình dạng,
Miracidium bị chết trong vỏ trứng sau 1 - 1,5 ngày. Ở môi trường ẩm ướt,
trứng có khả năng sống khá lâu (trong phân hơi ẩm, trứng tồn tại đến 8 tháng).
Dưới ánh nắng chiếu trực tiếp, trứng chết nhanh. Phôi bị chết sau 2 ngày ở
nhiệt độ thấp (-5oC -15oC). Nhiệt độ 10 - 20oC trứng ngừng phát triển.
Nhiệt độ 40 - 50oC, phôi chết sau vài phút (Phạm Văn Khuê và cs, 1996 ).
Khi phát triển đến giai đoạn nang ấu (Adolescaria), sức đề kháng của
chúng tăng lên rõ rệt. Adolescaria có khả năng tồn tại ở nhiệt độ -4oC 6oC,
ở điều kiện nhiệt độ bình thường, những Adolescaria có trong cỏ khô bị ẩm và
trong môi trường nước có thể tồn tại đến trên 5 tháng (Kaufmann, 1996).
1.2.3. Triệu chứng bệnh sán lá gan ở trâu bò
Triệu chứng lâm sàng là biểu hiện ra bên ngoài bởi các tác động gây
bệnh của sán lá Fasciola. Triệu chứng ở trâu, bò biểu hiện nặng hay nhẹ phụ
thuộc vào cường độ nhiễm sán lá gan, tình trạng sức khoẻ và tuổi trâu bò, tình
trạng chăm sóc quản lý,….
- Thể cấp tính thường gặp ở trâu, bò 1,5 - 2 năm tuổi (Phạm Văn Khuê
và Phan Lục, 1996)[9], trong giai đoạn sán lá non di hành hoặc khi nuôi
dưỡng, chăm sóc kém.
Trâu bò biểu hiện: ăn uống sút kém, suy nhược, chướng bụng, ỉa chảy,
miệng hôi, sốt, gan sưng to và đau, thiếu máu, vàng da, đôi khi có triệu chứng
thần kinh (lảo đảo, xiêu vẹo). Trâu bò có thể chết do xuất huyết nặng, trúng
độc và suy nhược cơ thể.
Thể mãn tính thấy phổ biến ở trâu, bò trưởng thành, khi trâu bò được
nuôi dưỡng tốt và sán lá ở giai đoạn trưởng thành, ký sinh trong ống dẫn mật
với số lượng ít. Thể mãn tính thường xuất hiện sau thể cấp tính 1 - 2 tháng.
Nhìn chung, khi trâu bò bị bệnh sán lá gan kéo dài, nếu không được điều
trị kịp thời thì trâu bò thường chết trong tình trạng thiếu máu, ỉa chảy và suy kiệt.
14
1.2.4. Bệnh tích của trâu, bò mắc bệnh sán lá gan
Tuỳ theo mức độ nhiễm sán lá mà bệnh tích có sự khác nhau.
Đối với trâu bò nhiễm sán lá nặng, bệnh tích thấy rõ là viêm gan cấp
tính, gan sưng to, màu nâu sẫm, xung huyết. Trên mặt gan có thể thấy những
đường di hành của sán lá non tạo thành những vệt đỏ thẫm, dài 2 - 4mm,
trong có sán lá non với số lượng nhiều. Lớp thanh mạc xuất huyết nhẹ, đôi khi
có tơ huyết. Khi nhiễm nặng thấy viêm phúc mạc, gan xuất huyết nhiều, niêm
mạc mắt nhợt nhạt.
Ở những trâu bò nhiễm sán lá gan đã lâu, gan viêm mãn tính, những chỗ
mô gan bị phá huỷ tạo thành sẹo mầu vàng xám. Gan xơ cứng, niêm mạc ống
dẫn mật dầy, có hiện tượng canxi hoá mặt trong thành ống. Lòng ống dẫn mật
giãn rộng, chứa đầy dịch màu nâu và sán lá Fasciola. Khi ống mật bị canxi
hoá nhiều, sán lá ở chỗ đó thường bị chết hoặc chuyển đến chỗ ít biến đổi hơn.
Nghiên cứu bệnh sán lá gan ở trâu bò, Phan Địch Lân (1985) [16] cho
biết: khi mổ khám trâu bò bị bệnh sán lá gan thấy có bệnh tích đặc biệt là gan
to hơn nhiều so với bình thường (gấp 2 - 3 lần). Gan màu đỏ sẫm, biểu hiện
xung huyết. Dưới vỏ gan thấy ứ nước, trên mặt gan còn giữ lại những đường
ngoằn nghèo do sán lá di hành. Tổ chức liên kết phát triển tạo nên những sẹo
đặc biệt. Trong gan còn thấy những sán lá non không đến được ống dẫn mật,
đóng kén to bằng hạt đậu và chết trong kén. Cắt tổ chức gan thấy lạo xạo do
biến chất thoái hoá. Do tăng sinh tổ chức liên kết nên gan cứng và xơ gan.
Trường hợp viêm phúc mạc xoang bụng chứa nhiều nước (cổ chướng).
1.2.5. Chẩn đoán bệnh sán lá Fasciola ở trâu bò
Việc chẩn đoán có thể tiến hành trên trâu bò còn sống hoặc đã chết, tuỳ
điều kiện thực tế mà áp dụng biện pháp phù hợp.
- Đối với trâu bò còn sống
Để chẩn đoán bệnh do sán lá Fasciola gây ra, thường áp dụng các biện
pháp như: chẩn đoán lâm sàng, kết hợp đặc điểm dịch tễ học, xét nghiệm phân
con vật nghi bệnh và chẩn đoán miễn dịch học.
Triệu chứng lâm sàng của bệnh sán lá gan thường thấy nhất là: kiệt sức,
thiếu máu, ỉa chảy, suy nhược, rụng lông, phù thũng ở ngực, ức,… Tuy nhiên,
15
các biểu hiện trên không chỉ thấy ở bệnh do Fasciola gây nên. Vì vậy, triệu
chứng lâm sàng không phải là căn cứ duy nhất để kết luận bệnh.
Những dẫn liệu dịch tễ học của bệnh cần xem xét là: yếu tố mùa vụ,
vùng và tuổi trâu bò bệnh. Song, những dẫn liệu này chỉ là những thông tin
cần xem xét trong các chẩn đoán chứ không phải là sở cứ quan trọng nhất trong
chẩn đoán.
Việc xét nghiệm phân tìm trứng sán lá Fasciola là biện pháp quyết định
trong chẩn đoán. Thường dùng phương pháp gạn rửa nhiều lần. Theo Phạm
Văn Khuê và Phan Lục (1996) [9], phương pháp này phổ biến nhưng chưa
phát hiện được tất cả mọi gia súc nhiễm sán lá Fasciola, nhất là ở những trâu
bò nhiễm ít hoặc ở giai đoạn sán lá còn non. Khi xét nghiệm phân, cần phân
biệt trứng Fasciola với trứng Paramphistomum ký sinh ở dạ cỏ (phân biệt về
màu sắc, hình dạng, tế bào noãn hoàng và kích thước).
Phương pháp miễn dịch học để phát hiện trâu bò nhiễm Fasciola đã được sử
dụng là: dùng kháng nguyên tiêm nội bì, căn cứ vào phản ứng ở nơi tiêm để
kết luận. Các phương pháp khác như: phương pháp miễn dịch men ELISA,
phương pháp miễn dịch huỳnh quang… Tuy nhiên, do khó khăn về phương
tiện và việc chế kháng nguyên chuẩn nên các phương pháp này còn ít được
dùng trong bệnh ký sinh trùng nói chung và bệnh sán lá gan nói riêng.- Đối
với trâu bò chết
Khi trâu bò chết, mổ khám tìm sán lá Fasciola ở giai đoạn ấu trùng và trưởng
thành trong ống dẫn mật, gan, xoang bụng… Phương pháp này chính xác hơn
cả, vì tìm thấy cả sán lá non ở giai đoạn di hành.
1.2.6. Phòng và trị bệnh sán lá Fasciola ở trâu bò
1.2.6.1. Điều trị bệnh
Hiện nay, có thể tẩy sán lá gan cho trâu bò nhai lại bằng một trong các
loại thuốc sau:
16
- Thuốc dertil: dertil là thuốc có tác dụng đặc hiệu với sán lá gan
Fasciola. Tên khác: menichlofolan, bayer ME 3625, bayer 9015A, bilevon M,
handerti…dertil được bào chế thành viên to, màu xanh lá cây đậm. Viên dertil
"O" có chứa 100mg hoạt chất, viên dertil "B" chứa 300mg hoạt chất
Dertil có tác dụng diệt sán lá gan trưởng thành ở gia súc nhai lại, với liều
cao còn diệt được cả sán lá non đang di hành trong nhu mô gan. Thuốc chỉ
cần dùng một lần, không cần điều trị lặp lại. Được chỉ định điều trị bệnh sán
lá gan cấp tính và mãn tính cho trâu bò.
Liều lượng: Bò: 5 - 6 mg/kgTT; Trâu: 8 - 9mg/kgTT
Cho từng cá thể uống thuốc, hoặc gói thuốc vào lá chuối non, đưa sâu
vào miệng cho con vật nuốt.
- Thuốc Fasciolid (tên khác: Fasciolidum)
Thuốc được bào chế dưới dạng dung dịch màu vàng nâu, chứa 25% hoạt
chất Nitroxynil. Fasciolid có tác dụng tẩy sán lá gan Fasciola dạng trưởng
thành, được chỉ định tẩy sán lá gan cho trâu bò.
Liều lượng: 0,04ml/kgTT (1ml/25kgTT, tương đương 1mg hoạt
chất/kgTT). Tiêm dưới da. Để tẩy sán lá gan, nên dùng thuốc 2 - 3 lần, cách
nhau 25 - 30 ngày.
Ngoài các thuốc albendazole, bithionl, closantel,… cũng có tác dụng tẩy
sán lá Fasciola ở trâu bò.
Loại thuốc trên còn dùng để phòng định kỳ hàng năm cho trâu bò, thuốc
sử dụng an toàn, có hiệu quả phòng trị bệnh cao.
1.2.6.2. Phòng bệnh sán lá gan Fasciola
Cơ sở khoa học đề ra quy trình phòng ngừa tổng hợp bệnh sán lá gan cho
trâu bò là: phải nắm được cụ thể chu kỳ sinh học của sán lá Fasciola, sinh học
của ốc - vật chủ trung gian và tình hình dịch tễ của bệnh.
Theo Phạm Văn Khuê và cs (1996)[9] , hàng năm nên tẩy sán cho toàn
đàn ít nhất 2 lần, lần đầu vào mùa xuân (trước mùa vật chủ trung gian phát
17
triển), lần thứ hai vào cuối mùa thu nhằm diệt những sán đã nhiễm trong vụ
Xuân - Hè, ngăn ngừa bệnh phát ra ở mùa đông. Trên những đồng cỏ có căn
bệnh tiềm tàng, có thể tiến hành chăn dắt luân phiên giữa súc vật mẫn cảm
(trâu, bò, dê, cừu) với những súc vật ít khả năng cảm nhiễm (ngựa).
- Ủ phân theo phương pháp sinh học, lợi dụng quá trình lên men sinh
nhiệt các chất hữu cơ trong phân của hệ vi sinh vật để tiêu diệt trứng sán lá
gan trong phân súc vật nhai lại. Biện pháp này có hiệu quả và đơn giản nhất
để phòng bệnh do sán Fasciola gây ra.
- Xử lý các cơ quan có sán ký sinh: Nếu gan nhiễm nhiều sán phải huỷ
bỏ (chôn, rắc vôi bột, đốt) hoặc không huỷ bỏ mà để lại chế biến chín làm
thức ăn gia súc.
- Diệt vật chủ trung gian của sán lá Fasciola: Tháo cạn nước, làm khô
những đồng cỏ, bãi chăn lầy lội, ẩm ướt. Dùng một số chất hoá học có khả
năng diệt ốc (vôi bột, sulfat đồng...), đẩy mạnh chăn nuôi thuỷ cầm (vịt, ngan,
ngỗng) và cá trắm đen.
- Tăng cường vệ sinh thức ăn, nước uống. Không chăn thả súc vật nhai
lại ở những bãi chăn lầy lội, ẩm thấp. Nếu khó khăn về bãi chăn thả thì chỉ
chăn ở bãi chăn lầy lội, ẩm ướt 1,5 - 2 tháng, rồi phải chuyển sang chăn ở bãi
khác. Nếu lấy cỏ ở những chỗ ẩm ướt thì phải cắt cao hơn mặt nước để tránh
Adolescaria, sau đó phơi khô, bảo quản trong 6 tháng rồi cho gia súc ăn.
Nguồn nước uống phải sạch, không có vật chủ trung gian và Adolescaria.
- Không nhập súc vật nhai lại từ vùng có bệnh, khi chưa kiểm tra và điều
trị triệt để.
1.3. Tình hình nghiên cứu trong và ngoài nước
1.3.1. Tình hình nghiên cứu trong nước
Trước đây, ở nước ta có nhiều cuộc điều tra về tỷ lệ nhiễm sán lá gan.
Phan Địch Lân, 1980[15] tổng kết tình hình nhiễm sán lá gan ở trâu bò cho
18
thấy tỷ lệ nhiễm tăng theo lứa tuổi và tăng dần từ miền biển đến miền núi,
trung du và đồng bằng; tỷ lệ nhiễm dao động từ 13,7 - 61,3%.
Nguyễn Trọng Kim và Phạm Ngọc Vĩnh, 1997 [10] cho biết, tỷ lệ nhiễm
sán lá gan ở trâu bò ở Hà Bắc (cũ) là 49,95%; ở Nghệ An từ 25,27 - 32,65%;
tỷ lệ nhiễm sán lá gan chung ở miền Bắc Việt Nam là 43,56%.
Theo Lương Tố Thu 2000 [30] bò ở khu vực Hà Nội bị nhiễm với tỷ lệ
42,3 - 73,3%, ở trâu là 32,3 - 76,8%.
Kết quả điều tra của Hồ Thị Thuận và Nguyễn Ngọc Phương (1987)[31], ở
các tỉnh miền Nam cho thấy, tỷ lệ trâu, bò nhiễm sán lá gan từ 1,4 - 36,2%.
Kết quả điều tra của Nguyễn Hữu Hưng (2011)[8] cho thấy, tỷ lệ nhiễm
sán lá gan ở bò tại 3 tỉnh ở Đồng bằng sông Cửu Long là 51,91%.
Phan Thế Việt và cs (1977) [33] cho thấy, tỷ lệ nhiễm sán lá gan trâu, bò
ở miền biển thấp 4,17%, còn ở đồng bằng cao hơn tới 44,5%.
Đoàn Văn Phúc và cs (1995)[24] thông báo trâu, bò ở khu vực Hà Nội
nhiễm sán lá gan với tỷ lệ 33,9%.
Đỗ Đức Ngái và cs 2006 [21] thông báo tỷ lệ nhiễm sán lá gan ở Đăklăk
từ 34,2-62,6%, tỷ lệ nhiễm sán lá gan ở trâu, bò xung quanh Hà Nội là 28%
(ở bò từ 3 - 24 tháng tuổi) và 39% (ở trâu, bò trưởng thành).
Theo Phan Địch Lân (1985)[16], ốc L. viridis phân bố rộng ở tất cả các
vùng, ở vùng núi chiếm 75% trong số 2 loài ốc Lymnaea thu được, còn ở
vùng trung du chiếm 66,5%, ven biển chiếm 51,5% và vùng đồng bằng là
42,0%. Còn L.swinhoei phân bố hẹp hơn, tập trung chủ yếu ở đồng bằng và
ven biển, còn ở vùng núi và trung du ít hơn, đặc biệt ở miền núi rất ít, có
nhiều nơi không có, vùng đồng bằng chiếm 58%. Trứng ốc có thể nở được
quanh năm với tỷ lệ rất cao, từ 89,1 - 100% và thời gian nở rất nhanh, mùa hè
cần 5,5 ngày, mùa đông xuân là 8,5 ngày.
Kết quả điều tra trong nhiều năm của Nguyễn Thị Kim Thành và cs
(1996)[26] ở Cổ Nhuế, Hà Nội cũng cho kết quả tương tự, tỷ lệ nhiễm ấu
19
trùng sán lá gan ở 2 loài ốc chỉ từ 0,7 - 3,0%.
Phan Thế Việt và cs (1977)[33] cho biết Tác giả đã không tìm thấy ấu
trùng sán lá gan trong hơn 1.000 ốc Lymneae ở tỉnh Hà Tây (cũ).
Theo Đỗ Đức Ngái và cs (2006)[21], tỷ lệ nhiễm ấu trùng Fasiola của ốc
L. swinhoei ở ĐăkLăk là 0,45%;
Kết quả điều tra của Hoàng Văn Hiền và cs (2011)[5], cho thấy, chỉ
0,06% và 1% ốc L. viridis ở Đông Anh, Phú Xuyên (Hà Nội) bị nhiễm ấu
trùng sán lá gan.
1.3.2. Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài
Trong tổng kết về bệnh sán lá gan, Kendall (1954) [41] kết luận rằng, F.
gigantica phổ biến trên toàn thế giới và ký chủ trung gian của chúng là các
loài ốc không dễ dàng phân biệt về mặt hình thái hoặc sinh thái. Trong nghiên
cứu phòng thí nghiệm, Boray (1985) [38] gây nhiễm thành công F. gigantica
ở ốc L. stagnalis mới nở.
Một câu hỏi đặt ra là liệu có 2 loài F. hepatica và F. gigantica không?
Đa số các nhà phân loại học mô tả dựa trên quan niệm về loài theo Linnaeus
và duy trì cho đến ngày nay. Thậm chí, việc sử dụng các phương pháp và kỹ
thuật mới có giá trị phân loại Fasciola (Mas-Coma và cs., 2005)[44].
Như vậy, phân loại sán lá Fasciola chủ yếu dựa trên hình thái sán trưởng
thành, kích thước trứng, vật chủ chính, vật chủ trung gian và phân bố địa lý.
Về hình thái sán trưởng thành, các chỉ số tương quan và sự khác biệt về tỷ lệ
chiều dài/chiều rộng (BL/BW) có thể giúp phân biệt 2 loài F. hepatica và F.
gigantica (Periago và cs, 2006).
Kiziewicz B. (2013) [42] đã kiểm tra 178 con bò rừng Bizon ở vườn
quốc gia Bialowieza, Ba Lan, thấy có 63 con bị nhiễm sán lá F. hepatica
(chiếm 35,3%), trong đó bò trưởng thành bị nhiễm với tỷ lệ cao nhất (61,9%)
và bê nhiễm với tỷ lệ 20,63%.
Ali Khanjari và cs. (2014) [36] đã mổ khám 2.391 con cừu và dê tại các
20
lò mổ ở khu vực Amol, miền Bắc Iran để xác định tỷ lệ nhiễm sán lá gan
Fasciola spp..
Kết quả cho thấy dê, cừu ở đó bị nhiễm sán lá gan với tỷ lệ 6,6%, trong
đó tỷ lệ nhiễm trong mùa Xuân là cao nhất (8,3%), sau đó đến mùa Thu
(8,1%), mùa Đông (5,9%) và thấp nhất là vào mùa Hè (4%). Tác giả cũng cho
biết, không có sự khác nhau rõ rệt về tỷ lệ nhiễm giữa cừu đực và cừu cái,
giữa dê đực và dê cái.
Olsen A. và cs. (2015) [45] đã điều tra tỷ lệ nhiễm sán lá gan ở bò qua
giết mổ khoảng 1,5 triệu con trong 3 năm (Từ năm 2011 - 2013). Tỷ lệ bò
nhiễm sán lá gan gia tăng hàng năm (năm 2011 là 25,6%; năm 2012 là 28,4%
và năm 2013 là 29,3%). Các tác giả cho biết, tỷ lệ bò nhiễm sán lá gan có liên
quan chặt chẽ với các dòng suối, đầm lầy có trên đồng cỏ.
Theo Elliott T. P. và cs. (2015) [39], sán lá gan (Fasciola hepatica) là
một loài ký sinh trùng phổ biến ở gia súc chăn thả tại khu vực phía đông nước
Úc. Sán lá gan ký sinh làm giảm đáng kể năng suất thịt và sữa của gia súc tại
quốc gia này.
Bless P. J. và cs. (2015) [37] đã kiểm tra phân của 191 gia súc tại tỉnh
Kandal, Campuchia thấy có 18,3% số mẫu dương tính với Fasciola spp.
21
CHƯƠNG 2
ĐỐI TƯỢNG, VẬT LIỆU, NỘI DUNG
VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng, địa điểm, thời gian nghiên cứu
2.1.1. Đối tượng nghiên cứu
- Trâu, bò các lứa tuổi tại một số huyện tỉnh Hà Giang.
- Bệnh sán lá gan lớn ở trâu, bò.
2.1.2. Địa điểm nghiên cứu
* Địa điểm nghiên cứu:
Đề tài được triển khai trên 3 huyện thị: Quản Bạ, Bắc Mê, Vị Xuyên,
thuộc tỉnh Hà Giang.
* Địa điểm thực hiện các nghiên cứu của đề tài:
- Bộ môn Bệnh động vật, khoa Chăn nuôi Thú y - Trường Đại học Nông
Lâm Thái Nguyên.
- Bệnh xá Thú y, trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên.
- Bệnh viện đa khoa Trung ương Thái Nguyên
- Phòng thí nghiệm, trường Cao đẳng nghề Hà Giang
- Trung Tâm kỹ thuật giống gia súc Phó Bảng, chi nhánh xã Phong
Quang, huyện Vị Xuyên, tỉnh Hà Giang.
2.1.3. Thời gian nghiên cứu
- Từ tháng 7 năm 2017 đến tháng 7 năm 2018.
2.2. Vật liệu nghiên cứu
2.2.1. Mẫu nghiên cứu
- Bộ gan, mật trâu, bò (tìm sán lá gan lớn trưởng thành).
- Mẫu phân tươi trâu, bò (xác định tỷ lệ và cường độ nhiễm sán lá gan
lớn).
- Mẫu sán lá gan thu thập từ trâu, bò mổ khám
22
- Mẫu phân thu thập từ trâu, bò mổ khám.
- Trứng sán lá gan thu thập từ phân trâu, bò bệnh.
- Thuốc điều trị bệnh sán lá gan lớn
2.2.2. Dụng cụ và hoá chất
- Kính hiển vi quang học, kính lúp, máy ly tâm.
- Buồng đếm Mc. Master.
- Máy Eppendorf Mastercycler, ABI 3100 Avant Genetic Analyzer.
- Bộ đồ mổ gia súc.
- Lọ đựng tiêu bản. - Cồn 70o, dung dịch nước muối sinh lý.
- Chậu thủy tinh khay nhựa, khay men.
- Hóa chất.
- Dụng cụ xét nghiệm mẫu: cốc thuỷ tinh, hộp lồng, lam kính, la men,
lưới lọc phân và các dụng cụ thí nghiệm khác.
2.3. Nội dung nghiên cứu
2.3.1. Xác định loài sán lá gan ký sinh ở trâu, bò một số huyện tỉnh Hà Giang - Làm tiêu bản cố định sán lá gan trên phiến kính: Đặt sán lá gan trâu, bò lên phiến kính dùng chỉ cố định hai phiến kính ép sán lá gan lại rồi thả vào bình đựng cồn 70o để mang đi quan sát. 2.3.2. Đặc điểm dịch tễ bệnh sán lá gan trâu, bò
* Tình hình nhiễm sán lá gan ở trâu và bò
- Tỷ lệ và cường độ nhiễm sán lá gan ở các địa phương
- Tỷ lệ và cường độ nhiễm sán lá gan theo tuổi trâu, bò
- Tỷ lệ và cường độ nhiễm sán lá gan theo mùa vụ
- Tỷ lệ và cường độ nhiễm sán lá gan theo tính biệt trâu, bò
- Tỷ lệ và cường độ nhiễm sán lá gan theo địa hình
2.3.3. Đặc điểm bệnh lý lâm sàng
- Xác định triệu chứng lâm sàng của trâu, bò nhiễm sán lá gan
- Bệnh tích đại thể của gan trâu, bò nhiễm sán lá gan
- Bệnh tích vi thể của gan trâu, bò mắc bệnh sán lá gan
23
- Số lượng hồng cầu, bạch cầu và hàm lượng huyết sắc tố, chỉ tiêu men
gan của trâu, bò mắc bệnh sán lá gan
2.3.4. Hiệu lực tẩy sán lá gan của một số loại thuốc
- Hiệu lực của thuốc tẩy sán lá gan cho trâu, bò.
- Độ an toàn của thuốc tẩy sán lá gan cho trâu, bò.
2.3.5. Đề xuất một số biện pháp phòng bệnh sán lá gan cho trâu bò ở tỉnh
Hà Giang
2.4. Phương pháp nghiên cứu
2.4.1. Phương pháp xác định loài sán lá gan ký sinh ở trâu, bò ở một số
huyện thuộc tỉnh Hà Giang
- Mổ khám, thu thập sán lá gan ở ống dẫn mật trâu, bò. Định danh loài
sán lá gan theo khóa định loại của Nguyễn Thị Lê (1996) [19], căn cứ vào
hình thái, kích thước và cấu tạo của các loài để xác định tại viện Sinh thái và
Tài nguyên sinh vật Hà Nội.
- Làm tiêu bản cố định sán lá gan trên phiến kính: Đặt sán lá gan trâu, bò
lên phiến kính dùng chỉ cố định hai phiến kính ép sán lá gan lại rồi thả vào
bình đựng cồn 70o để mang đi quan sát.
2.4.2. Phương pháp nghiên cứu một số đặc điểm dịch tễ bệnh sán lá gan
trâu, bò ở một số thuộc huyện, tỉnh Hà Giang
2.4.2.1. Quy định những yếu tố cần xác định liên quan đến tình hình nhiễm
sán lá gan trâu, bò
* Tuổi trâu: Phân theo 4 mức tuổi
+ Dưới 1 năm tuổi – 2 năm tuổi
+ Trên 2 năm – 5 năm tuổi
+ Trên 5 năm – 8 năm tuổi
+ Trên 8 năm tuổi
* Tuổi bò: Phân theo 4 mức tuổi
+ Dưới 1 năm tuổi – 2 năm tuổi
+ Trên 2 năm – 5 năm tuổi
24
+ Trên 5 năm – 8 năm tuổi
+ Trên 8 năm tuổi
* Mùa: Mùa trong năm được theo dõi gồm 4 mùa
- Xuân: Tháng 2 - tháng 4;
- Hè: Tháng 5 - tháng 7;
- Thu: Tháng 8 - tháng 10;
- Đông: Tháng 11 - tháng 1 năm sau.
2.4.2.2. Phương pháp bố trí thu thập mẫu
- Bố trí thu thập mẫu theo phương pháp lấy mẫu chùm nhiều bậc. Chọn
3 huyện trong tỉnh, mỗi huyện chọn 5 xã để lấy mẫu.
Mẫu được thu thập ngẫu nhiên tại các nông hộ, trang trại chăn nuôi trâu,
bò tại 3 huyện ở tỉnh Hà Giang.
- Các loại mẫu được xét nghiệm ngay trong ngày hoặc sau khi bảo quản
theo quy trình bảo quản mẫu trong nghiên cứu ký sinh trùng học.
2.4.2.3. Phương pháp xác định tỷ lệ và cường độ nhiễm sán lá gan
* Phương pháp thu thập mẫu phân:
- Thu nhập mẫu phân ngẫu nhiên ở trâu bò nuôi nông hộ, trại tập thể và
gia đình. Lấy phân trực tiếp từ trực tràng con vật hoặc lấy mẫu phân lúc sáng
sớm mới thải ra. Để riêng mỗi mẫu vào một túi nilon nhỏ và mỗi túi đều có
nhãn ghi: loại gia súc (trâu, bò), địa điểm, tuổi, trạng thái phân, thời gian lấy
mẫu và các biểu hiện lâm sàng của trâu, bò. Ngoài ra căn cứ vào những yếu tố
cần xác định có liên quan đến đặc điểm dịch tễ để lấy mẫu cho tương đối
đồng đều về các yếu tố khác.
* Phương pháp xác định tỷ lệ nhiễm sán lá gan:
Xác định bằng phương pháp lắng cặn Benedek (1943): cho từng mẫu phân
vào cốc thủy tinh, thêm 5 – 10 lần nước, khuấy tan, lọc qua lưới lọc bỏ cặn bã
thô. Nước lọc được để yên 15 – 20 phút cho lắng xuống, gạn nước trên đi, lại
cho nước vào, rửa đi rửa lại nhiều lần cho đến khi nước trong suốt, cho cặn vào
25
phiến kính, soi kính hiển vi để tìm trứng sán lá gan. Những mẫu phân tìm thấy
trứng sán lá gan được xác định là có nhiễm, ngược lại là không nhiễm.
* Phương pháp xác định cường độ nhiễm sán lá gan:
Xác định cường độ nhiễm sán lá gan bằng phương pháp đếm trứng Mc.
Master (đếm số trứng/gam phân trên buồng đếm Mc.Master theo tài liệu của
Jorgen Hansen và cs, 1994)
Lấy 4g phân cho vào cốc thủy tinh, sau đó cho thêm 56ml nước, khuấy
đều cho tan phân. Lọc qua lưới thép vào một cốc khác và khuấy đều gạn rửa
sa lắng. Dùng pipet hút 1ml dung dịch phân cho vào 2 ngăn của buồng đếm
Master. (mỗi buồng đếm có dung tích 0,5ml). Để yên khoảng 5 phút rồi kiểm
tra dưới kính hiển vi (độ phóng đại 10 x 10): đếm số trứng của 2 ngăn của
buồng đếm x 60/4= tổng số trứng có trong 1gam phân):
Số trứng/1gram phân = (Tổng số trứng ở hai buồng đếm *60)/4
Cường độ nhiễm sán lá gan được quy định như sau:
+ Cường độ nhiễm nhẹ: 200 trứng/ g phân
+ Cường độ nhiễm trung bình: > 200 – 500 trứng/ g phân
+ Cường độ nhiễm nặng: > 500 trứng/ g phân
* Phương pháp xét nghiệm mẫu:
Xét nghiệm mẫu bằng phương pháp lắng cặn để phát hiện trứng sán lá gan.
* Phương pháp xác định triệu chứng lâm sàng chủ yếu của trâu, bò
nhiễm sán lá gan
- Trong quá trình xét nghiệm, đã phát hiện được những trâu, bò nhiễm
sán lá gan. Chọn ra những trâu, bò chỉ nhiễm sán lá gan, không nhiễm bất kỳ
loại giun sán và mắc bệnh truyền nhiễm nào khác, theo dõi các biểu hiện lâm
sàng chính của những trâu, bò này. Sử dụng phương pháp đo thân nhiệt bằng
nhiệt kế 430C, quan sát thể trạng, lông, da; quan sát màu sắc các niêm mạc;
26
theo dõi màu sắc, trạng thái và mùi phân, số lần đi ỉa trong ngày; tình trạng ăn
uống, vận động của trâu bò.
- Bệnh tích đại thể: Mổ khám trâu, bò mắc bệnh sán lá gan, quan sát
bằng mắt thường và kính lúp các phần của túi mật, ống dẫn mật, gan. Chụp
ảnh vùng có bệnh tích điển hình.
- Bệnh tích vi thể: Để nghiên cứu bệnh tích vi thể, chúng tôi lấy mẫu
bệnh phẩm là gan, túi mật, cố định trong dung dịch formol 10%. Tiêu bản vi
thể được làm theo quy trình tẩm đúc Parafin, nhuộm Hematoxillin - Eosin
(H.E) tại Bệnh viện Đa khoa Thái Nguyên.
* Phương pháp kiểm tra chỉ tiêu huyết học
- Chỉ tiêu huyết học: Lấy mẫu máu trâu, bò. Mỗi mẫu máu được đưa vào
1 ống nghiệm (3ml/ống) có chất chống đông máu. Trên mỗi ống được ghi đầy
đủ thời gian lấy mẫu, hộ nuôi bò, tính biệt, tuổi, địa điểm.... Mẫu máu được
bảo quản trong hộp bảo ôn và được xét nghiệm ngay trong ngày. Số lượng
hồng cầu, bạch cầu, men gan được xác định bằng máy xét nghiệm máu tại
bệnh viện đa khoa Thái Nguyên.
* Phương pháp xác định hiệu lực tẩy của thuốc và đánh giá độ an toàn
của thuốc điều trị sán lá gan trâu, bò
Sau khi xét nghiệm phân, phát hiện được những trâu, bò bị nhiễm sán lá
gan, dùng 3 loại thuốc để tẩy sán lá gan cho trâu, bò. Đánh giá hiệu lực tẩy
của thuốc bằng phương pháp xét nghiệm lại phân trâu, bò tìm trứng sán lá và
đếm số lượng trứng sán/gam phân. Từ đó đánh giá hiệu lực của thuốc có tốt
hay không? Từ đó đề xuất quy trình phòng chống bệnh sán lá gan cho bò có
hiệu quả và phù hợp, có tính khả thi khi áp dụng ở tỉnh Hà Giang.
Theo dõi một số chỉ tiêu sinh lý (nhịp thở, thân nhiệt, nhu động dạ cỏ...)
trước và sau dùng thuốc để xác định độ an toàn của thuốc.
2.5. Phương pháp xử lý số liệu
27
Số liệu thu được được xử lý bằng phương pháp thống kê sinh học của
Nguyễn Văn Thiện, 2008 [27], trên phần mềm Excel 2010.
28
CHƯƠNG 3
KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1 Kết quả xác định loài sán lá gan ký sinh ở trâu, bò tại 3 huyện của
tỉnh Hà Giang
3.1.1. Kết quả mổ khám trâu, bò và thu thập sán lá gan
Để xác định loài sán lá gan ký sinh ở trâu, bò tại ba huyện Quản Bạ, Bắc Mê
và Vị Xuyên, chúng tôi đã mổ khám 450 trâu và 300 bò, thu thập sán lá gan ở ống
dẫn mật trâu, bò. Kết quả mổ khám thu thập mẫu được thể hiện ở bảng 3.1.
Bảng 3.1. Kết quả mổ khám trâu, bò và thu thập sán lá gan
Cường độ
Số trâu, bò Số trâu, Tỷ lệ nhiễm Địa phương Loại mổ khám bò nhiễm nhiễm (Số sán lá (huyện) gs (con) (con) (%) gan/trâu)
min ÷ max
Trâu 150 79 52,67 6-79 Quản Bạ Bò 100 39 39,00 3-39
Trâu 150 83 55,33 4-83 Bắc Mê Bò 100 40 40,00 3-40
Trâu 150 87 56,67 7-87 Vị Xuyên Bò 100 41 41,00 5-41
Trâu 450 249 55,33 4-87 Tính chung Bò 300 120 40,00 3-41
Kết quả bảng 3.1 cho thấy: Mổ khám 450 trâu và 300 bò ở ba huyện tỷ lệ
nhiễm sán lá gan ở trâu là 55,33%, cường độ nhiễm tính chung là 4 - 87
sán/trâu, tỷ lệ nhiễm ở bò là 40% với số lượng 3 - 41 sán/bò.
29
Trong ba huyện Vị Xuyên là huyện có tỷ lệ nhiễm sán lá gan qua mổ
khám ở trâu là cao nhất (56,67%) sau đó đến hai huyện Bắc Mê và Quản Bạ.
Về tỷ lệ nhiễm sán lá gan ở bò qua mổ khám, Quản Bạ là huyện có tỷ lệ
nhiễm thấp nhất (39%), tiếp theo là huyện Bắc Mê (40%), Vị Xuyên (41%).
Như vậy, có thể thấy tỷ lệ nhiễm sán lá gan trên trâu, bò của ba huyện là
khá cao. Trâu, bò mổ khám đều nằm trong lứa tuổi từ 2 - 8 năm tuổi.
Kết quả về tỷ lệ nhiễm sán gan ở trâu, bò mổ khám của chúng tôi thấp
hơn so với mổ khám trâu của Võ Thị Hải Lê [20] tại Nghệ An (67,76%), đối
với bò, tỷ lệ nhiễm của bò mổ khám ở ba huyện nghiên cứu cũng thấp hơn so
với kết quả của Nguyễn Văn Diên và cs (2006) [2] tại Đắk Lắk (58,63%), kết
quả của Nguyễn Hữu Hưng và cs (2009) [7] tại Đồng Tháp (64,08), kết quả
của Phạm Diệu Thùy và cs (2014)[32] tại Tuyên Quang (64,67%).
Nguyễn Thị Kim Lan (1999) [11] cho biết, đàn dê nuôi tại các tỉnh Thái
Nguyên, Bắc Kạn, Tuyên Quang và Cao Bằng bị nhiễm sán lá gan với tỷ lệ
7,35% - 15,51%. Như vậy, tỷ lệ nhiễm sán lá gan trên trâu, bò cao hơn nhiều
so với tỷ lệ nhiễm trên dê. Điều này phù hợp với nhận xét của Trịnh Văn
Thịnh và Đỗ Dương Thái (1978) [28], Phạm Văn Khuê và Phan Lục (1996)
[9] về khả năng thụ cảm với sán lá gan của các loại động vật, trong ba loài súc
vật trâu, bò và dê thì trâu, cảm thụ nhất sau đó bò và cảm thụ ít nhất ở dê.
3.1.2. Kết quả xác định loài sán lá gan ký sinh ở trâu, bò
Qua tìm hiểu các tài liệu liên quan đến sán lá gan chúng tôi thấy các tài
liệu đều đề cập đến tại Việt Nam có hai loài sán lá gan lớn là F. hepatica và
F. gigantica. Tài liệu của Lê Thanh Hòa và Nguyễn Văn Đề (2007) [6] cho
biết, ở Việt Nam có 2 loài sán lá gan lớn là F. hepatica và F. gigantica. Vì
vậy chúng tôi đã thu thập mẫu và gửi về viện Sinh thái và Tài nguyên sinh vật
để xác định loài.
Bằng phương pháp định loài qua hình thái, cấu tạo của sán lá Fasiola
spp. Theo khóa định loài của Nguyễn Thị Lê và cs. (1996) [19] và kết quả
30
định loài của viện Sinh thái và Tài nguyên sinh vật, kết quả xác định loài sán
lá gan ký sinh ở trâu, bò của các Huyện Quản Bạ, Bắc Mê, Vị Xuyên được thể
hiện qua bảng 3.2.
Bảng 3.2. Kết quả xác định loài sán lá gan ký sinh ở trâu, bò
Kết quả định loài
Địa phương Số sán định Loài Loài
(huyện) loài (con) Fasiola gigantica Fasiola hepatica
Số con Tỷ lệ (%) Số con Tỷ lệ (%)
Quản Bạ 261 261 100 0 0
Bắc Mê 355 355 100 0 0
Vị Xuyên 438 438 100 0 0
Tính chung 1.054 1.054 100 0 0
Bảng 3.2 cho thấy, trong 1.054 sán lá được định loài cả 100% thuộc loài
F. gigantica, không có loài nào thuộc F. hepatica.
Số sán này có đặc điểm đặc trưng của loài F. gigantica như không có
"vai", hai bên rìa thân song song với nhau, đầu cuối của thân hơi tù.
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi tương đương với kết quả định loài sán
lá gan của Nguyễn Quốc Doanh và Lê Thanh Hòa (2006) [4] trên bò tại Nghệ
An và Cao Bằng; kết quả của Đỗ Ngọc Ánh và cs. (2011) [1] trên trâu, bò tại
Quảng Nam; kết quả nghiên cứu của Phạm Diệu Thùy và cs (2014) [32], trên trâu,
bò tại Thái Nguyên, Bắc Kạn và Tuyên Quang, kết quả nghiên cứu của Hà Huỳnh
Hồng Vũ và cs (2015) [34], trên bò tại tỉnh Đồng Tháp.
3.2. Nghiên cứu đặc điểm dịch tễ bệnh sán lá gan trâu, bò ở ba huyện của
tỉnh Hà Giang
3.2.1. Tỷ lệ và cường độ nhiễm sán lá gan ở trâu, bò tại các địa phương
Chúng tôi đã tiến hành thu thập mẫu phân của trâu, bò nuôi tại các huyện
Quản Bạ, Bắc Mê và Vị Xuyên để đánh giá tình hình nhiễm sán lá F.
gigantica bằng phương pháp lắng cặn Benedek (1943). Kết quả và tỷ lệ cường
31
độ nhiễm sán lá F. gigantica trên trâu, bò của ba huyện được thể hiện trong
bảng 3.3.
Bảng 3.3. Tỷ lệ và cường độ nhiễm sán lá gan ở trâu, bò
tại các địa phương
Số Cường độ nhiễm Số trâu, (trứng/g phân) Địa trâu, Tỷ lệ Loại bò >200 - 500 ≥200 ≥ 500 phương bò nhiễm gia súc kiểm (huyện) nhiễm (%) tra n % n % n % (con) (con)
Trâu 499 263 52.71 144 54.75 85 32.32 34 12.93 Quản
Bạ Bò 376 161 42.82 84 52.17 52 32.30 25 15.53
Trâu Bắc 476 242 50.84 131 54.13 82 33.88 29 11.98
Mê Bò 269 118 43.87 65 55.08 40 33.90 13 11.02
Trâu Vị 491 268 54.58 145 54.10 81 30.22 42 15.67
Xuyên Bò 303 137 45.21 74 54.01 44 32.12 19 13.87
Trâu 1466 773 52.73 420 54.33 248 32.08 105 13.58 Tính
chung Bò 948 416 43.88 223 53.61 136 32.69 57 13.70
Qua bảng 3.3 cho thấy:
Tỷ lệ nhiễm sán lá gan ở trâu: có 52,73% số trâu ở các địa điểm nghiên
cứu nhiễm sán lá gan, biến động từ 50,84 – 54,58%. Trong đó, trâu tại huyện
Vị Xuyên nhiễm với tỷ lệ cao nhất (54,58%), sau đó đến trâu tại huyện Quản
Bạ (52,71%) và huyện Bắc Mê (50,84%) là thấp nhất. Cường độ nhiễm sán lá
gan ở trâu với cường độ nhiễm nhẹ (≤ 200 trứng/g phân) là cao nhất (54,75%)
sau đó đến cường độ nhiễm trung bình (>200 – 500 trứng/g phân) (33,88%)
và thấp nhất là cường độ nhiễm nặng (≥500 trứng/g phân) (15,67%).
Tỷ lệ nhiễm sán lá gan ở bò: Bò ở các địa điểm nghiên cứu nhiễm sán lá
gan với tỷ lệ 43,88%, biến động từ 42,82 – 45,21% (thấp hơn so với trâu).
32
Trong đó, bò tại huyện Vị Xuyên nhiễm với tỷ lệ cao nhất (45,21%); sau đó
đến bò ở huyện Bắc Mê (43,86%), thấp nhất là bò ở huyện Quản Bạ
(42,81%). Cường độ nhiễm sán lá gan ở bò với cường độ nhiễm nhẹ (≤200
trứng/g phân) là cao nhất (55,08%) sau đó đến cường độ nhiễm trung bình
(>200 – 500 trứng/g phân) (33,89%) và thấp nhất là cường độ nhiễm nặng
(≥500 trứng/g phân) (15,53%).
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi tương đương với kết quả nghiên cứu
của Phạm Văn Khuê và cs (1996) [9], loài gia súc nhiễm sán lá Fasciola
nhiều nhất là trâu (79,6%), bò ít hơn (36%), dê ít nhất (20%). Sở dĩ trâu
nhiễm sán lá gan nhiều là do đặc tính ưa nước của chúng (thích ăn gần chỗ có
nước, đằm tắm trong nước và uống nước ở vũng, ao, kênh rạch), trong khi bò
và dê ít ưa nước hơn.
Kết quả về tỷ lệ nhiễm sán lá gan ở ba huyện của tỉnh Hà Giang còn
được thể hiện rõ hơn qua biểu đổ 3.1.
Biểu đồ 3.1. Tỷ lệ nhiễm sán lá gan ở trâu, bò tại các địa phương
33
Tỷ lệ nhiễm sán lá gan Fasciola khác nhau giữa các huyện và phụ thuộc
vào nhiều yếu tố như: Điều kiện chăn nuôi, tình trạng vệ sinh thú y, thời tiết
khí hậu, địa hình… trong đó yếu tố địa hình đóng vai trò quan trọng.
Chúng tôi nhận thấy: Hà Giang là một tỉnh đang phát triển về chăn nuôi,
song đối với chăn nuôi trâu, bò thì chưa có qui mô lớn. Với diện tích đồi núi
rộng lớn, khí hậu nhiệt đới nên Hà Giang cũng rất thuận lợi cho phát triển
chăn nuôi đại gia súc. Tuy nhiên hiện nay việc chăn nuôi chủ yếu còn mang
tính nhỏ lẻ, hộ gia đình… chủ yếu là thả rông và bán chăn thả, nguồn thức ăn
xanh vẫn phụ thuộc vào tự nhiên là chính. Đồng bào các dân tộc, nhất là đồng
bào ở vùng sâu, vùng xa, tập quán chăn nuôi còn lạc hậu, xây dựng hệ thống
chuồng trại còn sơ sài, chưa đảm bảo vệ sinh thú y. Mặt khác, điều kiện khí
hậu nhiệt đới, địa hình đồi núi xen kẽ những chỗ trũng có chứa nước ngọt là
những điều kiện thuận lợi cho sự lưu hành của ấu trùng sán lá gan và bệnh sán
lá gan phát triển, qui hoạch vùng chăn nuôi, các cơ sở giết mổ tập trung chưa
được dứt diểm, gây tác hại lớn cho đàn bò của tỉnh Hà Giang.
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi phù hợp với nhận xét của Trịnh Văn
Thịnh và Đỗ Dương Thái (1978)[28], Phan Địch Lân và cs (2002)[17],
Nguyễn Thị Kim Lan và cs (1999)[11], (2008)[12], (2011)[13], Phạm Văn
Khuê và Phan Lục (1996)[9], Nguyễn Hữu Hưng (2011)[8]. Các tác giả đều
thống nhất rằng: Điều kiện địa hình liên quan chặt chẽ với tình hình nhiễm
sán lá gan, nơi nào có nhiều sông suối, có điều kiện thuận lợi cho ốc ký chủ
trung gian phát triển thì nơi đó có tỷ lệ nhiễm cao, cường độ nhiễm nặng.
Điều này đồng nghĩa với tỷ lệ nhiễm sán lá gan ở bò tại các địa phương
khác nhau phụ thuộc rất nhiều vào yếu tố địa hình.
3.2.2. Tỷ lệ và cường độ nhiễm sán lá gan ở trâu, bò theo mùa
Thời tiết, khí hậu của một vùng, một khu vực có liên quan trực tiếp đến
sự tồn tại và phát triển của ốc - vật chủ trung gian của sán lá gan. Điều kiện
ẩm ướt, mưa nhiều tạo ra môi trường nước, giúp ốc nước ngọt sống và sinh
sản thuận lợi.
34
Để công tác phòng và trị bệnh sán lá gan cho đàn trâu, bò mang lại hiệu
quả cao, chúng tôi tiến hành theo dõi tỷ lệ nhiễm theo mùa và kết quả được
thể hiện ở bảng dưới đây:
Bảng 3.4. Tỷ lệ và cường độ nhiễm sán lá gan ở trâu, bò theo mùa vụ
≥ 500
Cường độ nhiễm (trứng/ g phân) >200 - 500
≤ 200
Mùa
Loại gia súc
Tỷ lệ nhiễm (%)
n
%
n
%
n
%
Số trâu, bò kiểm tra (con) 296
Số trâu, bò nhiễ m (con) 147
Trâu
49.66
71
48.30
55
37.41
21
14.29
Xuân
Bò
195
78
40.00
42
53.85
27
34.62
9
11.54
Trâu
598
342
96
28.07
45
13.16
57.19
201
58.77
Hè
Bò
289
148
60.14
39
26.35
20
13.51
51.21
89
Trâu
178
91
51.12
49
53.85
31
34.07
11
12.09
Thu
Bò
203
84
41.38
47
55.95
28
33.33
9
10.71
Trâu
394
193
48.98
99
51.30
66
34.20
28
14.51
Đông
Bò
261
106
40.61
45
42.45
42
39.62
19
17.92
773
52.73
54.33
13.58
Trâu 1466
420
248
32.08 105
Tính
416
43.88
53.61
32.69
13.70
chung
Bò
948
223
136
57
Đồ thị 3.2. Tỷ lệ nhiễm sán lá gan ở trâu, bò theo mùa vụ
35
Qua bảng 4.3 và đồ thị 3.2. cho thấy: tỷ lệ nhiễm sán lá gan ở trâu dao
động từ 48,98% - 57,19%, cao nhất vào mùa hè chiếm 57,19%, sau đó đến
mùa thu (51,12%) và thấp nhất vào mùa đông (48,98%). Tỷ lệ nhiễm sán lá
gan ở bò cũng cao nhất vào mùa hè (51,21%) nhưng thấp nhất vào mùa xuân
(40,00%).
Kết quả nghiên cứu của Phạm Diệu Thùy và cs (2014) [32] cho biết, tỷ
lệ nhiễm sán lá gan của trâu, bò tại 3 tỉnh phía Bắc Việt Nam Thái Nguyên,
Bắc Kan và Tuyên Quang, đối với trâu vào mùa hè 57,36%, mùa thu 50,16%
cao hơn mùa xuân 40,00% và mùa đông 38,17%; đối với trâu là: vào mùa hè
42,74%, mùa thu 38,87% cao hơn mùa xuân 28,82% và mùa đông 27,15%,
phù hợp với kết quả nghiên cứu của chúng tôi.
Nguồn gieo rắc bệnh chủ yếu là trâu, bò, dê, cừu,…và những dã thú
mang Fasciola. Trứng sán lá gan theo phân của trâu bò ra ngoài tự nhiên.
Hàng năm mỗi sán lá gan đẻ ra hàng chục vạn trứng. Vì vậy, mỗi trâu bò
mang sán lá hàng năm thải khối lượng trứng khá lớn ra đồng cỏ và các bãi
chăn thả. Những đồng cỏ ẩm thấp lầy lội là những nơi cần thiết để mầm bệnh
phát triển và xâm nhập vào trâu bò, đồng thời thuận lợi cho trứng nở thành
Miracidium và thuận lợi cho vật chủ trung gian tồn tại và phát triển.
Theo Nguyễn Thị Kim Lan và cs (1999) [11], trâu bò nhiễm sán lá gan
thường tăng lên vào mùa vật chủ trung gian phát triển. Những năm mưa
nhiều, tỷ lệ nhiễm sán lá gan tăng lên so với những năm nắng ráo và khô hạn.
Mùa vụ gắn liền với sự thay đổi thời tiết khí hậu. Mùa hè số gia súc bị nhiễm
sán lá gan tăng cao hơn các mùa khác trong năm. Cuối mùa thu và mùa đông
bệnh thường phát ra.
3.2.3. Tỷ lệ và cường độ nhiễm sán lá gan ở trâu, bò theo tính biệt
Để tìm hiểu ảnh hưởng của tính biệt đến tỷ lệ và cường độ nhiễm sán lá
gan ở trâu, bò. Chúng tôi đã tiến hành nghiên cứu, kết quả được trình bày qua
bảng 3.5.
36
Bảng 3.5. Tỷ lệ và cường độ nhiễm sán lá gan trâu, bò theo tính biệt
Cường độ nhiễm (trứng/g phân) Số Số
trâu, trâu, ≤200 > 200 – 500 ≥ 500 Tỷ lệ Loại Tính bò bò nhiễm gia biệt kiểm nhiễ (%) súc n % n % n % tra m
(con) (con)
Đực 548 277 50.55 143 51.62 85 30.69 49 17.69 Trâu Cái 918 511 55.66 286 55.97 157 30.72 68 13.31
Đực 420 166 39.52 95 57.23 54 32.53 17 10.24 Bò Cái 528 233 44.13 127 54.51 71 30.47 35 15.02
14.90 53.72 31.38 66 Đực 968 443 45.76 238 139 Tính
chung 55.51 30.65 13.84 Cái 1.446 744 51.45 413 228 103
Qua bảng 3.5 cho thấy: tỷ lệ nhiễm sán lá gan ở trâu, bò cái cao hơn trâu,
bò đực cụ thể:
Tiến hành kiểm tra 968 trâu, bò đực có 433 con nhiễm sán lá gan chiếm
45,76%. Trong tổng số 1.446 trâu, bò cái được kiểm tra có 744 con nhiễm sán
lá gan chiếm 51,45%.
Về cường độ nhiễm: Trâu, bò cái có tỷ lệ nhiễm nhẹ và và trung bình
là chủ yếu. Ở mức độ nhiễm nặng trâu, bò đực lại có tỷ lệ nhiễm cao hơn so
với trâu, bò cái.
Đối với trâu, bò cái: ngoài việc cày kéo và lao tác như trâu, bò cái thì
còn phải đảm nhận thêm chức năng sinh sản và nuôi con. Thời gian này
chúng phải huy động năng lượng và chất dinh dưỡng để đảm bảo cho việc
nuôi con. Do đó, nếu công tác chăm sóc không cẩn thận, nuôi dưỡng không
đầy đủ, điều kiện thời tiết khí hậu không thuận lợi... sẽ làm cho trâu, bò cái
suy nhược cơ thể, thiếu chất, giảm sức đề kháng tạo cơ hội để mầm bệnh xâm
37
nhập, phát triển và gây bệnh. Mặt khác, có thể do trâu, bò cái có đặc điểm
sinh lý riêng, sức chống chịu với ngoại cảnh kém hơn sơ với trâu, bò đực.
Kết quả về tỷ lệ nhiễm sán lá gan trâu, bò theo tính biệt được thể hiện rõ
hơn qua biểu đồ 3.3.
Biều đồ 3.3.Tỷ lệ nhiễm sán lá gan trâu, bò theo tính biệt
Từ kết quả trên cho thấy, người chăn nuôi cần chú ý tăng cường chăm
sóc nuôi dưỡng, cung cấp đầy đủ chất dinh dưỡng cho trâu, bò cái đang mang
thai hoặc nuôi con, đặc biệt phải tẩy giun sán định kỳ cho trâu, bò để hạn chế
tỷ lệ nhiễm giun sán nói chung và sán lá gan lớn nói riêng nhằm giảm thiệt hại
do bệnh gây ra.
3.2.4. Tỷ lệ và cường độ nhiễm sán lá gan ở trâu, bò theo tuổi
Theo Nguyễn Thị Kim Lan (2012) [14], tuổi của gia súc là một trong
những yếu tố ảnh hưởng đến tính cảm thụ đối với bệnh ký sinh trùng. Vì vậy,
tỷ lệ nhiễm theo tuổi là một chỉ tiêu xác định gia súc lứa tuổi nào nhiễm sán lá
gan nhiều nhất, để từ đó có kế hoạch phòng trị bệnh thích hợp.
38
Bảng 3.6. Tỷ lệ và cường độ nhiễm sán lá gan trâu, bò theo tuổi
Cường độ nhiễm (trứng/g phân) >200 – 500
≤ 200
≥ 500
Tuổi
Loại gia súc
Tỷ lệ nhiễm (%)
n
%
n
%
n
%
Số trâu, bò kiểm tra (con)
< 1 – 2 247
Số trâu, bò nhiễm (con) 106
42.91
62.26
25
23.58
15
14.15
66
>2 – 5
711
349
49.09
60.17
107
30.66
32
9.17
210
Trâu
>5 – 8
365
230
63.01
47.39
72
31.30
49
21.30
109
> 8
143
103
72.03
42.72
38
36.89
21
20.39
44
< 1 – 2 237 412 >2 – 5
75 182
31.65 44.17
52.00 64.84
22 47
29.33 25.82
14 17
18.67 9.34
39 118
Bò
>5 – 8
201
89
44.28
47.19
34
38.20
13
14.61
42
> 8
98
53
54.08
43.40
22
41.51
8
15.09
23
181
37.40
58.01
25.97
16.02
47
29
105
531
47.28
61.77
29.00
9.23
154
49
328
Tính chung
319
56.36
47.34
33.23
19.44
< 1 – 2 484 >2 – 5 1123 >5 – 8 566
106
62
151
156
64.73
42.95
38.46
18.59
> 8
241
60
29
67
39
Biểu đồ 3.4. Tỷ lệ nhiễm sán lá gan trâu, bò theo tuổi
Qua bảng 3.6 và biểu đồ 3.4 cho thấy: tỷ lệ nhiễm sán lá gan tăng dần
theo tuổi trâu, bò. Trâu, bò dưới 2 năm tuổi nhiễm sán lá gan với tỷ lệ thấp
nhất 37,39%; sau đó tăng dần đến 47,28% ở trâu, bò 2 - 5 năm tuổi; tỷ lệ
nhiễm sán lá gan cao nhất ở trâu, bò trên 8 năm tuổi chiếm 64,73%.
Về cường độ nhiễm: Trâu, bò <5 tuổi có tỷ lệ nhiễm nhẹ và và trung
bình là chủ yếu. Ở mức độ nhiễm nặng trâu, bò >5 tuổi có tỷ lệ nhiễm cao hơn
so với trâu, bò <5 tuổi.
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi phù hợp với kết quả nghiên cứu của
Nguyễn Hữu Hưng (2009) [7]; Hoàng Văn Hiền và cs (2011) [5]; tác giả cho
rằng: tỷ lệ nhiễm Fasiola tăng dần theo lứa tuổi bò, thấp nhất ở lứa tuổi dưới
1 năm tuổi (30,43%), nhiễm cao nhất ở bò 2 năm tuổi (62,81%).
Theo Phan Địch Lân (2004) [18] trâu dưới 3 năm tuổi nhiễm sán lá gan
17,2% - 22,0%; trâu 3 - 5 năm tuổi nhiễm sán lá gan 31,2% - 40,2%, trâu 5 - 8
năm tuổi nhiễm 42,4% - 57,5%, trâu trên 8 năm tuổi nhiễm 56,8 - 66,3%, trâu
ở độ tuổi phế canh (loại thải) khi mổ khám thấy tỷ lệ nhiễm cao tới 84,6%
(những trâu này bị bệnh rất nặng, gan phải huỷ bỏ toàn bộ do có quá nhiều
sán lá ký sinh).
Như vậy, tỷ lệ nhiễm sán lá gan tăng tỷ lệ thuận với lứa tuổi của trâu, bò.
Nguyên nhân dẫn đến quy luật nhiễm này là do tuổi trâu, bò càng cao thì con
vật càng có nhiều thời gian tiếp xúc với môi trường sống có mầm bệnh, gia
súc cứ nhiễm dần dần dẫn đến bội nhiễm.
3.2.5. Tỷ lệ và cường độ nhiễm sán lá gan trâu, bò theo phương thức chăn nuôi
Phương thức chăn nuôi và tập quán canh tác của người dân ảnh hưởng
lớn tỷ lệ nhiễm sán lá gan lớn ở trâu bò. Chúng tôi đã tiến hành điều tra, theo
dõi các hộ chăn nuôi trâu, bò tại các địa phương nghiên cứu. Kết quả thu được
được thể hiện qua bảng 3.7.
40
Bảng 3.7. Tỷ lệ và cường độ nhiễm sán lá gan trâu, bò theo phương thức
chăn nuôi
Cường độ nhiễm (trứng/g phân) ≥ 500 > 200 – 500 ≤ 200
Loại gia súc Số trâu, bò kiểm tra (con) Tỷ lệ nhiễm (%) n % n % n % Phương thức chăn nuôi Số trâu, bò nhiễm (con)
298 98 32.89 52 53.06 30 30.61 16 16.33
Trâu 597 325 54.44 176 54.15 103 31.69 46 14.15
571 365 63.92 201 55.07 109 29.86 55 15.07
201 31 15.42 18 58.06 9 29.03 4 12.9
Bò 335 155 46.27 89 57.42 51 32.90 15 9.677
412 213 51.70 115 53.99 65 30.52 33 15.49
129 25.85 54.26 30.23 15.5 499 70 39 20
Nuôi nhốt Bán chăn thả Chăn thả tự do Nuôi nhốt Bán chăn thả Chăn thả tự do Nuôi nhốt Bán
480 32.08 12.71 chăn thả 932 51.50 265 55.21 154 61 Tính chung
578 30.10 15.22 Chăn thả tự do 983 58.80 316 54.67 174 88
41
Biểu đồ 3.5. Tỷ lệ nhiễm sán lá gan trâu, bò theo phương thức chăn nuôi
Kết quả bảng 3.7 và biểu đồ 3.5 cho thấy trong chăn nuôi trâu, bò ở 3
huyện Bắc Mê, Quản Bạ, Vị Xuyên chủ yếu là nuôi bán chăn thả và chăn thả,
tỷ lệ nhiễm và cường độ nhiễm sán lá gan ở trâu, bò theo hình thức chăn
nuôi khác nhau cũng khác nhau. Ở hình thức nuôi nhốt ( chủ yếu là bò <= 2
năm tuổi, hoặc mới mua về để vỗ béo bán thịt....) tỷ lệ nhiễm thấp nhất là
25,85%, sau đó đến hình thức bán chăn thả tỷ lệ nhiễm là 51,50%. Cao nhất là
hình thức chăn thả tự do tỷ lệ nhiễm là 58,79%.
Về phương thức chăn thả tự do: Điều tra khi lấy mẫu phân, chúng tôi
nhận thấy số các hộ chăn nuôi áp dụng biện pháp chăn thả tự do chủ yếu tập
trung vào huyện có đồng bào dân tộc, vùng sâu vùng xa, địa bàn trải rộng như
xã Yên Cường (huyện Bắc Mê), xã Cao Mã Pờ (huyện Quản Bạ), xã Kim
Linh, Phú Linh, Linh Hồ (huyện Vị Xuyên).
Kết quả trên tương đồng với kết quả nghiên cứu của Dương Thị Thanh
Thủy (2015) [25] trâu, bò được nuôi theo phương thức chăn thả tự do chiếm
59,48%, bán chăn thả 37,78% và nuôi nhốt 6,52%; nghiên cứu của Hà Huỳnh
42
Hồng Vũ (2016) [35], thì bò nuôi theo phương thức bán chăn thả (19,18%),
cao hơn nuôi nhốt (8,86%).
Như vậy, phương thức chăn nuôi trâu, bò có ảnh hưởng rõ rệt đến tỷ lệ
nhiễm sán lá gan ở trâu, bò. Phương thức chăn nuôi hoàn toàn phụ thuộc vào
tự nhiên có tỷ lệ nhiễm cao hơn phương thức nuôi bán chăn thả có bổ sung
thức ăn sở dĩ trâu, bò nuôi hoàn toàn dựa vào tự nhiên nhiễm sán Fasciola
nhiều và nặng hơn trâu, bò nuôi theo phương thức bán chăn thả có bổ sung
thêm thức ăn là do: trong quá trình sống, trâu, bò có điều kiện tiếp xúc với ấu
trùng có sức gây bệnh nhiều hơn, nên dễ nuốt chúng cùng thức ăn, nước uống,
vì vậy tỷ lệ nhiễm cao hơn và cường nhiễm độ nặng hơn.
Như vậy, để cung cấp đủ thức ăn cho trâu, bò, người chăn nuôi cần bổ
sung thêm thức ăn tại chuồng, đặc biệt vào mùa khô (khi nguồn thức ăn xanh
khan hiếm), đồng thời không nuôi thả trâu, bò hoàn toàn ở trên rừng, cần có
chuồng và có thời gian nuôi nhốt trong chuồng. Đó là một trong những biện
pháp giúp quản lý, chăm sóc sức khoẻ cho đàn bò tốt hơn, góp phần hạn chế
bệnh sán lá gan ở trâu, bò.
Nguyễn Thị Kim Lan và cs 2008 [12] cho biết: để hạn chế sự phát tán
trứng và ấu trùng sán lá cần phải thu gom phân và ủ phân theo phương pháp
sinh học, lợi dụng quá trình lên men sinh nhiệt các chất hữu cơ trong phân của
hệ vi sinh vật để tiêu diệt trứng sán lá trong phân bò.
3.3. Nghiên cứu đặc điểm bệnh lý, lâm sàng
3.3.1. Xác định triệu chứng lâm sàng của trâu, bò nhiễm sán lá gan
Triệu chứng lâm sàng là biểu hiện ra bên ngoài bởi các tác động gây
bệnh của sán lá gan. Triệu chứng bệnh sán lá gan ở bò biểu hiện ở mức độ
khác nhau tùy theo trạng thái con vật và số lượng nhiễm sán là nhiều hay ít,
tuổi súc vật, mùa vụ và tình hình quản lý, chăm sóc.
Thể cấp tính: Ít xảy ra, thường gặp ở giai đoạn sán non di hành trong cơ
thể. Ở gia súc được nuôi tốt và nhiễm nhẹ, triệu chứng cấp tính có thể không
43
nhận thấy, nhưng chế độ chăm sóc thiếu thốn về chất và lượng đặc biệt là
thiếu vitamin, canxi sẽ làm tăng thể cấp tính của bệnh. Con vật có biểu hiện
kém ăn, suy nhược, ỉa chảy, chướng bụng, miệng hôi, vàng da, đôi khi có
triệu chứng thần kinh, kiệt sức. Con vật có thể chết do xuất huyết nặng, trúng
độc, suy nhược toàn thân và ghép với bệnh khác.
Thể mãn tính: Phổ biến ở bò trưởng thành, được nuôi dưỡng tốt và sau
đó ở giai đoạn trưởng thành, ký sinh trong ống mật với số lượng ít. Triệu
chứng thể mãn tính xuất hiện sau thể cấp tính từ nửa tháng đến 2 tháng. Con
vật có biểu hiện suy nhược, ăn ít, chóng mặt, niêm mạc nhợt nhạt, lông mốc
xù xì, dễ nhổ nhất là vùng dọc hai bên sườn và dọc xương ức. Thủy thũng ở
mi mắt, yếm, ngực. Con vật nhai lại yếu, khát nước, ỉa chảy xen kẽ táo bón,
gầy dần. Khi khám thấy gan to và đau. Đôi khi có triệu chứng thần kinh như
quay cuồng. Nếu bệnh không được chữa, con vật thường bị chết do kiệt sức.
Việc nghiên cứu triệu chứng lâm sàng gây ra bởi sán lá gan sẽ có tính
thực tiễn cao, nhằm cung cấp những kiến thức thực tế về tác hại của bệnh sán
lá gan cho các hộ chăn nuôi bò cũng như các nhà chuyên môn từ đó có thể
nhận thức đúng tầm quan trọng để việc chẩn đoán, điều trị và phòng bệnh sán
lá gan cho gia súc nhai lại được quan tâm hơn.
Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi tiến hành theo dõi, quan sát và
ghi chép những biểu hiện triệu chứng lâm sàng rồi tiến hành lấy mẫu phân
xét nghiệm.
Chúng tôi tiến hành theo dõi 250 trâu, 250 bò có cường độ nhiễm sán lá
gan từ >200 trứng/g phân trở lên nhằm đánh giá được các biểu hiện lâm sàng
đặc trưng của bệnh, kết quả thu được được trình bày ở bảng dưới đây:
44
Bảng 3.8. Một số biểu hiện triệu chứng của trâu, bò bị nhiễm sán lá gan
Tỷ lệ các biểu hiện lâm sàng Số
trâu, Số bò có Loại trâu, biểu Tỷ lệ gia bò Số Tỷ lệ hiện (%) Biểu hiện lâm sàng súc nhiễm con (%) lâm (con) sàng
(con)
Gầy rạc, ốm yếu, suy nhược, ỉa 105 100 chảy xen kẽ táo bón.
Phân nát hoặc lỏng mùi thối
khắm, phân dính quanh hậu môn 80 76,19
và chân sau. Trâu 250 105 42,40
Lông xù, rụng lông da mốc 68 64,76
Hốc mắt sâu, có nhử, niêm mạc 65 61,90 nhợt nhạt
Ăn ít nhai lại yếu 60 57,14
Gầy rạc, ốm yếu, suy nhược, ỉa 95 100 chảy xen kẽ táo bón.
Phân nát hoặc lỏng mùi thối
khắm, phân dính quanh hậu môn 65 68,42
và chân sau. Bò 250 95 38,40
Lông xù, rụng lông da mốc 75 78,94
Hốc mắt sâu, có nhử, niêm mạc 56 58,94 nhợt nhạt
Ăn ít nhai lại yếu 55 57,89
45
Qua bảng 3.8 cho thấy, trong tổng số 250 trâu bị nhiễm sán lá gan thì có
105 con có biểu hiện lâm sàng chiếm 42,4%. Trong tổng số 250 bò nhiễm sán
lá gan có 95 con có biểu hiện lâm sàng, chiếm 38,4%, trong đó 100% có biểu
hiện gầy rạc, ốm yếu, suy nhược, ỉa chảy xen kẽ táo bón.
Như vậy, triệu chứng chính của trâu, bò bị mắc bệnh sán lá gan theo dõi
được tại các các điểm nghiên cứu ở Hà Giang là: gầy rạc, suy nhược, phân nát
hoặc lỏng mùi thối khắm, phân dính quanh hậu môn và chân, ỉa chảy xen kẽ
táo bón, niêm mạc nhợt nhạt, ăn ít, nhai lại yếu.
Trâu, bò mắc các triệu chứng như vậy, nguyên nhân là do sán ký sinh
kéo dài, hút dinh dưỡng đã đồng hóa của vật chủ, hút máu gây thiếu máu làm
trâu, bò gầy còm, suy nhược. Do thể trạng gầy nên hốc mắt trũng sâu. Sán lá
gan làm tổn thương chức năng gan, ký sinh trong ống mật, ảnh hưởng chức
năng tiết mật cho tiêu hóa gây rối loạn tiêu hóa dẫn đến các triệu chứng ỉa
chảy xen kẽ táo bón.
Theo Daves (1958) gia súc bị suy nhược và thiếu máu là do độc tố của
F.gigantica, độc tố của sán lá còn tác động gây hiện tượng protein trong huyết
thanh biến chất lượng albumin giảm và globulin tăng. Davtjan (1962) cho
biết, quá trình dị ứng của cơ thể trâu bò và kết quả tác động của các kháng
nguyên sinh ra từ sán lá với kháng thể xuất hiện trong tổ chức gan, và các chất
sinh ra từ tổ chức khác bị huỷ hoại. Quá trình dị ứng dẫn đến những rối loạn
đầu tiên, biểu hiện bằng hiện tượng suy dinh dưỡng, thiếu vitamin A, bằng sự
tăng quá nhiều bạch cầu ái toan trong cơ thể.
Kết quả nghiên cứu này cũng tương đồng với kết quả nghiên cứu của
Phan Địch Lân (2004) [18] đã theo dõi 37 trâu bị bệnh sán lá gan nặng, thấy
các triệu chứng thường lặp đi lặp lại như: gầy rạc, suy nhược cơ thể (37/37);
phân nhão không thành khuôn, có lúc ỉa lỏng (32/37); niêm mạc mắt nhợt
nhạt, thiếu máu kéo dài (27/37); lông xù, da mốc, lông dễ rụng (26/37); phân
46
đen, thối khắm (22/37); mắt sâu có dử (18/37); bụng ỏng, ỉa chảy kéo dài
(13/37); thuỷ thũng ở nách, hai chân trước, gan to (11/37); thuỷ thũng ở ngực,
ức liên tục (9/37).
Nhìn chung, khi trâu, bò bị bệnh sán lá gan kéo dài, nếu không được điều
trị kịp thời thì trâu, bò thường chết trong tình trạng thiếu máu, ỉa chảy và suy kiệt.
3.3.2. Bệnh tích đại thể của gan trâu, bò nhiễm sán lá gan
Qua theo dõi mổ khám 25 trâu, bò tại hai cơ sở giết mổ, chúng tôi phát
hiện ra những biến đổi bệnh lý ở gan, ống dẫn mật, túi mật do sán lá gan gây
ra, kết quả được trình bày ở bảng 3.9
Bảng 3.9. Bệnh tích đại thể gan bò bị sán lá gan ký sinh
Số trâu, bò có Số sán/
bệnh tích đại Số trâu, trâu, bò có
thể Loại bò bệnh tích Những bệnh tích đại thể
gia súc nhiễm đại thể chủ yếu Số Tỷ lệ (con) (min con (%) ÷max) (con)
Trâu 25 11 44,00 34 - 102 - Gan sưng, sung huyết, màu
sắc không đồng nhất, có nhiều
vệt màu đỏ thẫm do sán non
di hành.
- Ống dẫn mật nổi lên như
dây chằng ở mặt dưới gan Bò 25 9 36,00 27 - 98 - Túi mật bị viêm.
- Thành ống dẫn mật dày, xù xì.
- Lòng ống dẫn mật giãn
rộng, chứa nhiều sán và dịch
màu nâu.
47
Qua bảng 3.9 cho thấy, tiến hành mổ khám 25 trâu, 25 bò nhiễm bệnh có
11 trâu (44%) và 9 bò (36%) có bệnh tích đại thể điển hình ở gan, túi mật, ống
dẫn mật. Số sán dao động từ 27 – 102 sán/trâu, bò có bệnh tích đại thể.
Quan sát trên trâu, bò thấy bệnh tích đại thể điển hình là: Gan sưng, xơ
cứng, sung huyết, màu sắc không đồng nhất, có nhiều vệt màu đỏ thẫm do sán
non di hành. Ống dẫn mật nổi lên như dây chằng ở mặt dưới gan, thành ống
dẫn mật dày, xù xì, lòng ống dẫn mật giãn rộng, chứa nhiều sán và dịch màu
nâu, túi mật bị viêm.
Như vậy, có thể kết luận đối với trâu, bò bị sán lá gan ký sinh theo dõi
được tại 05 lò mổ ở điểm nghiên cứu biểu hiện bệnh tích đại thể đặc trưng là:
Thành ống dẫn mật dày lên và có dịch viêm; Trên bề mặt gan xuất hiện các
vết xuất huyết, ứ huyết tại các thùy gan, gan sung mầu nâu sẫm; Có một số
vùng gan bị hoại tử, xơ cứng; bên cạnh những bệnh tích trên thì gan xơ là một
bệnh tích nổi bật.
Nguyên nhân dẫn tới điều này, chúng tôi cho rằng:
- Niêm mạc ống dẫn mật tổn thương, dày lên, tế bào gan thoái hóa, thâm
nhiễm các loại bạch cầu, tăng sinh tế bào biểu mô ống mật. Lý do là khi sán cư
trú trong ống dẫn mật, có tác động cơ học (giác miệng bám sát niêm mạc ống
dẫn mật, thường xuyên kích thích niêm mạc ống dẫn mật bằng gai cuticun trên
cơ thể) làm viêm ống mật từ đó gây tăng sinh làm niêm mạc dày lên.
- Trong gan thấy xuất huyết, hiện tượng xuất huyết là do sán đục thủng
niêm mạc, gây chảy máu. Vì thế mà quan sát được các tế bào hồng cầu tràn ra
ngoài lòng mạch.
Phan Địch Lân (1985)[16] cho biết, khi mổ khám trâu bò bị bệnh sán lá
gan thấy có bệnh tích đặc biệt là gan to hơn nhiều so với bình thường (gấp 2 -
3 lần). Gan màu đỏ sẫm, biểu hiện xung huyết. Dưới vỏ gan thấy ứ nước, trên
mặt gan còn giữ lại những đường ngoằn nghèo do sán lá di hành. Tổ chức liên
kết phát triển tạo nên những sẹo đặc biệt. Trong gan còn thấy những sán lá
48
non không đến được ống dẫn mật, đóng kén to bằng hạt đậu và chết trong
kén. Cắt tổ chức gan thấy lạo xạo do biến chất thoái hoá. Do tăng sinh tổ chức
liên kết nên gan cứng và xơ gan. Trường hợp viêm phúc mạc xoang bụng
chứa nhiều nước (cổ chướng).
Theo Nguyễn Hữu Hưng (2011) [8] qua khảo sát thể trạng và mổ khám
trên những bò nhiễm sán nhận thấy có sự tương quan như sau: Bò bị nhiễm sán
ở cuờng độ thấp nhận thấy thể trạng bò vẫn bình thuờng, gan bình thuờng, một
số con có túi mật bị teo lại và có một vài con sán ký sinh trong ống dẫn mật.Bò
bị nhiễm sán với cường độ trung bình nhận thấy thể trạng của bò hơi gầy, bệnh
tích biểu hiện trên gan như gan viêm và xơ, ống dẫn mật tăng sinh. Bò bị nhiễm
sán lá gan với cuờng độ cao nhận thấy thể trạng của bò rất gầy, bệnh tích trên
gan biểu hiện rất rõ: gan sưng to, tích đầy nước, túi mật sưng to, thành ống dẫn
mật dày lên và tích tụ canxi, có rất nhiều sán ký sinh trong ống dẫn mật. Bề mặt
gan xuất hiện các vết xuất huyết màu đỏ hay tím bầm. Gan bị ứ huyết tại 1, 2
thùy hay toàn bộ gan. Gan có màu vàng, một số vùng trên gan bị hoại tử có
màu trắng xám hay nâu. Gan có những nốt mủ màu vàng hay trắng ngà nỗi
cộm trên bề mặt. Gan nhiễm mỡ và mềm bên cạnh những bệnh tích trên thì gan
xơ là một bệnh tích nổi bật.
Như vậy, bệnh tích đại thể mà chúng tôi quan sát được ở trâu, bò nhiễm
sán lá gan tại 05 lò mổ tại Hà Giang cũng có những biểu hiện đặc trưng như
nghiên cứu của các tác giả nêu trên.
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi về bệnh tích đại thể của trâu, bò bị
bệnh sán lá gan tương đồng với mô tả của Phạm Văn Khuê và cs (1996)[9] và
Phan Địch Lân (2004) [18]
3.3.3. Bệnh tích vi thể ở gan trâu, bò mắc bệnh sán lá gan
Khi mổ khám lấy mẫu gan kiểm tra, gan của bò bị sán lá gan ký sinh thấy
nhu mô gan mất màu, mép đôi khi tròn. Niêm mạc ống dẫn mật dày lên do
nhu mô liên kết tăng sinh. Thành ống dẫn mật có hiện tượng canxi hóa, toàn
hệ thống ống dẫn như những dây xơ cứng và ngoằn nghoèo trên mặt gan. Tiết
diện của ống dẫn rộng, chứa đầy dịch màu nâu và Fasciola, đôi khi chứa mủ
lẫn máu. Khi canxi hóa nhiều ở ống mật, sán dây thường bị chết hoặc chuyển
49
vào những nơi ít biến đổi. Kiểm tra trên kính hiển vi thấy liên bào ống mật bị
thoái hóa, niêm mạc tăng sinh thành những u, trong u có bạch cầu, nguyên
bào, lâm ba cầu, bạch cầu ái toan, các thực bào chứa đầy sắc tố mật và máu.
Những lớp sâu hơn của ống mật cũng viêm tăng sinh vì quá trình này lan tới
tổ chức giữa thùy gan và lớp thanh mạc quanh gan. Tổ chức liên kết giữa thùy
gan tăng sinh rõ rệt và lan vào các thùy khác làm tan biến tổ chức gan. Bệnh
do Fasciola spp. thường gây viêm mạn tính ống mật và viêm kẽ gan. Khi
nhiễm sán nhẹ, bệnh tích ở ống dẫn mật và bề mặt gan không thấy rõ. Khi
nhiễm sán nặng bò có máu loãng, bị thấm ướt huyết thanh và nhão.
Để kiểm tra các bệnh tích vi thể ở gan của bò sán lá gan ký sinh chúng
tôi thu thập 15 mẫu gan và túi mật bò bị sán lá gan tại 05 lò mổ tại Hà Giang,
kết quả xác định bệnh tích vi thể trong số tiêu bản nghiên cứu được trình bày
tại bảng 3.10.
Bảng 3.10. Tỷ lệ và đặc điểm tiêu bản gan trâu, bò mắc bệnh sán lá gan
có bệnh tích vi thể
Những bệnh tích vi thể chủ yếu
Tỷ lệ (%)
Loại gia súc
Số tiêu bản nghiên cứu
Số tiêu bản có bệnh tích vi thể
13
15
86,67
Trâu
73,33
15
11
Bò
- Nhu mô gan ứ huyết, xuất huyết. Một số vùng trên nhu mô gan bị hoại tử. Trong nhu mô gan xuất hiện các tổ chức xơ. - Có nhiều tế bào viêm và tế bào xơ xung quanh ống dẫn mật. - Liên bào ống mật thoái hóa, tế bào niêm mạc tăng sinh. - Có sán non bên trong tổ chức gan; Tế bào gan bị tổn thương; Mô liên kết lan rộng; Qua bảng 3.10 cho thấy, có 13 tiêu bản trên tổng số 15 tiêu bản gan trâu
có bệnh tích vi thể chiếm 86,67% và có 11 trên tổng số 15 tiêu bản gan bò có
bệnh tích vi thể chiếm 73,33%.
Từ đó, chúng tôi thấy rằng: khi sán lá gan tác động vào trâu, bò thường
gây ra bệnh tích vi thể, làm cho trâu, bò giảm sinh trưởng và phát triển, sức
50
chống đỡ bệnh tật kém nên dễ mắc một số bệnh truyền nhiễm. Vì vậy, sự thiệt
hại do bệnh sán lá gan gây ra là rất lớn cần được quan tâm.
Qua kết quả kiểm tra bệnh tích vi thể của gan trâu,bò bị nhiễm sán lá gan
điều cho thấy: Tổ chức vi thể gan nhiễm sán cho thấy có sán non bên trong tổ
chức gan; Tế bào gan bị tổn thương; mô liên kết lan rộng; nhu mô gan xuất
huyết, ứ huyết, một số vùng trên nhu mô gan bị hoại tử; trong nhu mô gan xuất
hiện các tổ chức xơ.
Theo Phạm Văn Khuê và Phan Lục, (1996) [9], khi quan sát biến đổi vi
thể dưới kính hiển vi thấy, nhu mô gan mất màu, liên bào ống mật thoái hoá,
niêm mạc tăng sinh thành những u, trong u chứa nhiều bạch cầu, lâm ba cầu,
bạch cầu ái toan, đại thực bào chứa đầy sắc tố mật và máu. Quá trình viêm
tăng sinh lan xuống lớp sâu hơn của ống mật, tổ chức liên kết tăng sinh, lan
vào các thuỳ gan làm tan biến tổ chức gan.
Như vậy, kết quả nghiên cứu các bệnh tích vi thể trên gan trâu, bò bị
bệnh sán lá gan lớn tại Hà Giang cho kết quả tương tự như các nghiên cứu của
các tác giả.
Những biến đổi thấy rõ là:
Hình 3.1. Gan bị sung huyết, xuất huyết
51
Hình 3.2. Tế bào gan bị thoái hóa, bị tổn thương, mô liên kết lan rộng
Hình 3.3. Tổ chức gan bị sung huyết, tổ chức xơ phát triển mạnh, lan tỏa
tạo các vách xơ, có sự thâm nhiễm của bạch cầu
Hình 3.4. Tổ chức gan bị xâm nhiễm tế bào viêm
52
3.3.4. Số lượng hồng cầu, bạch cầu và hàm lượng huyết sắc tố của trâu, bò
mắc bệnh sán lá gan
Máu có vai trò rất quan trọng trong mỗi cơ thể sống việc nghiên cứu sự
thay đổi các thành phần trong máu sẽ là căn cứ cho việc đánh giá tình trạng
sức khỏe của cơ thể và có ý nghĩa chẩn đoán bệnh.
Để đánh giá sự biến động các thành phần máu của bò nhiễm sán lá
gan lớn tại Hà Giang, chúng tôi tiến hành lấy 10 mẫu máu của 10 con
trâu, bò bị nhiễm sán lá gan, đồng thời cũng lấy 10 mẫu máu của 10 con
trâu, bò khỏe mạnh, không nhiễm sán lá gan để xét nghiệm và so sánh một
số chỉ tiêu sinh lý máu giữa trâu, bò bị bệnh sán lá gan và trâu, bò khỏe
mạnh không bị nhiễm sán lá gan. Mẫu máu sau khi lấy được chuyển về
phòng xét nghiệm bệnh viện Đa khoa trung ương Thái Nguyên để tiến
hành xét nghiệm bằng máy xét nghiệm máu. Kết quả xử lý thống kê thu được
thể hiện ở bảng 3.11
Bảng 3.11. Số lượng hồng cầu, bạch cầu và hàm lượng huyết sắc tố, men
gan của trâu, bò bình thường và trâu, bò nhiễm sán lá gan
Tình trạng cơ thể
Chỉ số máu Nhiễm sán lá gan (10 con) Bình thường (10 con) Loại gia súc
6,27±0,15 4,11±,011
10,89±0,16 14,50±0,21 Trâu
7,30±0,24 63,08±0,86 28,78±0,30 5,16± 0,13 76,05±1,01 39,25±1,12
6,09±0,17 4,75±0,23
9,20±0,16 11,66±0,22 Bò
Số lượng hồng cầu (triệu/mm3 máu) Số lượng bạch cầu (nghìn/mm3 máu) Hàm lượng HST (g%) GOT(U/L)ast/got GPT(U/L)alt/gpt Số lượng hồng cầu (triệu/mm3 máu) Số lượng bạch cầu (nghìn/mm3 máu) Hàm lượng HST (g%) GOT(U/L)ast/got GPT(U/L)alt/gpt 11,19±0,16 62,07±0,85 29,67±0,35 4,12±0,21 71,05±1,05 37,55±1,14
53
Qua bảng 3.11 cho thấy:
Đối với trâu bị nhiễm sán lá gan: số lượng hồng cầu giảm từ 6,27 triệu/
mm3 máu ở trâu không bị nhiễm bệnh xuống còn 4,11 triệu/mm3 máu ở trâu
bị nhiễm bệnh; số lượng bạch cầu tăng rõ rệt từ 10,89 nghìn/ mm3 máu lên
14,5 nghìn/mm3 máu; hàm lượng huyết sắc tố giảm từ 7,3 g% xuống còn 5,16
g% .
Một số xét nghiệm đánh giá chức năng gan của trâu cho thấy: Chỉ số
GOT (Glutamat- Oxaloacetat- Transaminaza) tăng từ 63,08 U/L đến 76,05
U/L, chỉ số GPT (Glutamat- Pyruvat- Transaminaza) tăng cao từ 28,78 U/L
đến 39,25 U/L. Điều này chứng tỏ rằng sán lá ký sinh làm tổn thương rất lớn
đến các tế bào gan làm cho các chỉ số GOT, GPT tăng cao.
Đối với bò bị nhiễm sán lá gan cũng vậy: số lượng hồng cầu giảm từ
6,09 triệu/ mm3 máu ở bò không bị nhiễm bệnh xuống còn 4,75 triệu/mm3
máu ở bò bị nhiễm bệnh; số lượng bạch cầu tăng từ 9,2 nghìn/ mm3 máu lên
11,66 nghìn/mm3 máu; hàm lượng huyết sắc tố giảm rõ rệt từ 11,19 g% xuống
còn 4,14 g% . Chỉ số GOT (Glutamat- Oxaloacetat- Transaminaza) tăng mạnh
từ 62,07 U/L đến 71,05 U/L, chỉ số GPT (Glutamat- Pyruvat- Transaminaza)
tăng cao từ 29,67 U/L đến 37,55 U/L.
Trong quá trình ký sinh, sán lá thường xuyên tiết độc tố. Độc tố tác
động vào thành ống dẫn mật và mô gan, gây biến đổi đại thể và vi thể, làm tăng
quá trình viêm. Đồng thời, độc tố của sán lá còn hấp thu vào máu, gây hiện
tượng trúng độc toàn thân, gây huỷ hoại máu, làm biến chất protein trong máu,
làm Albumin giảm, Globulin tăng. Độc tố của sán lá còn làm tăng nhiệt độ cơ
thể, tăng bạch cầu (đặc biệt là bạch cầu ái toan). Độc tố của sán lá còn tác động
vào thần kinh, làm cho con vật có triệu chứng thần kinh (run rẩy, đi xiêu
vẹo,…). Độc tố của sán lá gan tác động vào thành mạch máu, làm tăng tính
thẩm thấu của thành mạch, gây hiện tượng thuỷ thũng, làm cho máu đặc lại.
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi phù hợp với kết quả nghiên cứu của
Nguyễn Thị Kim Thành và cs (1996)[26], khi nghiên cứu một số chỉ tiêu
54
sinh lý máu của trâu bị bệnh sán lá gan, kết quả thấy: số lượng hồng cầu giảm,
hàm lượng huyết sắc tố giảm, số lượng bạch cầu tăng, công thức bạch cầu
thay đổi nghiêng về bạch cầu ái toan.
Phan Địch Lân (1985)[16], khi theo dõi 37 trâu bị bệnh sán lá gan nặng,
thấy các triệu chứng thường lặp đi lặp lại như: gầy rạc, suy nhược cơ thể,
phân nhão không thành khuôn, có lúc ỉa lỏng, niêm mạc mắt nhợt nhạt, thiếu
máu kéo dài.
Từ kết quả ở bảng 3.11, chúng tôi nhận xét khi trâu, bò nhiễm sán lá
Fasciola nặng thì các chỉ số máu thay đổi rõ rệt so với trâu, bò khoẻ. Điều này
chứng tỏ tác động gây bệnh của sán lá Fasciola đối với trâu, bò, đó là gây ra
tình trạng thiếu máu và tiêu chảy. Kết quả này phù hợp với kết quả nghiên
cứu của Phan Địch Lân, (1985)[16] và Nguyễn Thị Kim Lan và cs 1999[11].
Theo Ino P.S. v à Usha B.V, 1965 ( trích từ Phạm Ngọc Thạch, 1998 )
hoạt độ của men GOT bao giờ cũng cao hơn GPT từ 1,5 – 2 lần. Như vậy, kết
quả nghiên cứu của chúng tôi ở trên là hoàn toàn phù hợp. Theo Hoàng
Quang và cs ( 2003): khi cơ thể có quá trình bệnh lý, đặc biệt là tế bào gan bị
tổn thương sẽ giải phóng ra GOT và GPT làm cho hàm lượng 2 men này
trong máu tăng cao. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi tương đương với các
nhận xét này.
3.4. Nghiên cứu hiệu lực tẩy sán lá gan của một số loại thuốc
3.4.1. Hiệu lực của thuốc tẩy sán lá gan cho trâu, bò
Sau khi điều tra tình hình nhiễm sán lá gan ở trâu, bò ở ba huyện trên địa
bàn tỉnh Hà Giang, chúng tôi thấy tỷ lệ và cường độ nhiễm sán lá gan của bò
nuôi ở hộ gia đình tại địa điểm nghiên cứu là khá cao. Theo Phạm Văn Khuê và
Phan Lục (1996) [9], khi gia súc bị nhiễm sán, sán sẽ phá hủy tổ chức gan gây
viêm gan, xơ gan, chúng tiết độc tố làm biến đổi thành ống mật và mô gan, tiết
độc tố gây trúng độc toàn thân. Bệnh khiến cho trâu, bò, bò chậm tăng trưởng,
sút cân, giảm sản lượng sữa, giảm chất lượng thịt và khả năng sinh sản, dễ nhiễm
kế phát các bệnh truyền nhiễm khác.
Theo Nguyễn Văn Diên (2014) [3], lựa chọn thuốc điều trị bệnh ký sinh
trùng phù hợp và có tác dụng tốt phải dựa trên các tiêu chuẩn: đạt hiệu quả
55
cao, an toàn, giá thành phù hợp. Đồng thời cũng dựa vào đặc điểm dịch tễ học
của bệnh ký sinh trùng và xem xét tính kháng thuốc của ký sinh trùng.
Nhằm chọn lựa được những thuốc có hiệu lực tẩy sán lá gan cao để sử
dụng trong việc phòng chống bệnh hiệu quả, chúng tôi đã tiến hành nghiên
cứu xác định hiệu lực tẩy của 3 loại thuốc Albendazol (han - DertilB),
Fasciolid, và Nitroxynil( Navet-xinil25%).
Để đánh giá hiệu lực của 3 loại thuốc trên, sau khi dùng thuốc, chúng tôi
định kỳ kiểm tra phân từ những con trâu, bò thử nghiệm sau 15 ngày, dựa vào
mức độ sạch sán của trâu, bò thí nghiệm trước và sau khi dùng thuốc
Kết quả được trình bày qua bảng 3.12.
Bảng 3.12. Hiệu lực của thuốc tẩy sán lá gan cho trâu, bò
Hiệu lực tẩy
Trước tẩy
Sau tẩy 15 ngày
Số
Thuốc sử
Loại
trâu,
Hiệu
Cường độ
Số
Số
Cường độ
dụng/ liều
gia
bò
lực
trâu
trâu
(
)
lượng
súc
sạch
tẩy
(
)
bò
bò
(Trứng/g
trứng
(%)
(Trứng/g phân)
(con)
(con)
phân)
(con)
Albendazol
Trâu
19,50 ± 0,88
30
30
0
30
100
(han-
Bò
30
19,40 ± 0,10
30
0
30
100
DertilB),
Trâu
30
30
0
30
100
19,88 ± 0,12
Fasciolid
Bò
30
19,96 ± 0,70
30
0
30
100
Nitroxynil
Trâu
30
18,99 ± 0,78
30
0
30
100
( Navet-
Bò
30
19,20 ± 0,82
30
0
30
100
xinil25%).
Qua bảng trên cho thấy: 100% trâu bò sạch trứng sau 15 ngày tẩy sán lá
gan bằng 3 loại thuốc: Albendazol, Fasiolid và Nitroxynil( Navet-xinil25%),
hiệu lực tẩy đạt 100%.
56
Lô trâu, bò sử dụng thuốc tẩy Albendazole, cho trâu, bò với liều lượng
6mg/kgTT bằng phương pháp cho uống. Trước khi sử dụng thuốc số lượng
trứng trung bình/1 gam phân là 19,50 ± 0,88 trứng/1 gam phân. Sau kiểm tra,
xét nghiệm phân, cho thấy hiệu quả tẩy trừ của thuốc Albendazole như sau:
Sau khi tẩy 15 ngày, kiểm tra lại phân xác định thì cường độ nhiễm sán lá gan
giảm rõ rệt còn 0 trứng/1 gam phân, hiệu lực tẩy trừ đạt 100%.
Lô trâu, bò sử dụng thuốc tẩy Nitroxynil, cho bò với liều lượng
0,04ml/kgTT bằng phương pháp tiêm dưới da. Trước khi sử dụng thuốc số
lượng trứng trung bình/1 gam phân là 18,99 ± 0,78 trứng/1 gam phân. Sau
khi kiểm tra, xét nghiệm phân, cho thấy hiệu quả tẩy trừ của thuốc Nitroxinil
như sau: Sau khi tẩy 15 ngày, kiểm tra lại phân xác định thì cường độ nhiễm
sán lá gan giảm rõ rệt còn 0 trứng/1 gam phân, hiệu lực tẩy trừ đạt 100%.
Đối với lô sử dụng Fasiolid tẩy cho trâu, bò sau 15 ngày như sau: Trước
khi dung thuốc tẩy số lượng trứng trung bình/1 gam phân là 19,88± 0,12. Sau
khi tẩy 15 ngày, kiểm tra lại phân, hiệu lực tẩy trừ đạt 100%.
Kết quả trên cho thấy hiệu lực tẩy sán của cả 3 loại thuốc đều tốt, vì
vậy có thể sử dụng một trong 3 loại thuốc trên để tẩy sán lá gan cho trâu, bò
đều cho hiệu quả cao.
3.4.2. Độ an toàn của thuốc tẩy sán lá gan trâu bò
Để đánh giá mức độ an toàn của 3 loại thuốc tẩy trên, chúng tôi tiến hành
kiểm tra các chỉ tiêu lâm sàng như: thân nhiệt, nhịp tim, nhịp thở, nhu động dạ
cỏ. Các chỉ tiêu lâm sàng được xác định trong hoàn cảnh gia súc không bị tác
động mạnh. Các chỉ tiêu được kiểm tra bằng dụng cụ chuyên dùng là ống
nghe, nhiệt kế và kiểm tra bằng mắt. Kết quả được trình bày ở bảng dưới đây:
57
Bảng 3.13. Một số chỉ tiêu sinh lý của trâu, bò trước và sau khi dùng thuốc 1 giờ
Trước khi dùng thuốc
Sau khi dùng thuốc 1 giờ
Số
Nhu
Nhu
Loại
lượng
Thân
Thân
động dạ
Nhịp thở
Mạch đập
động dạ
Nhịp thở
Mạch đập
gia
Thuốc sử dụng
trâu,
nhiệt
nhiệt
cỏ
(
)
(
)
cỏ
(
)
(
)
súc
bò
(
)
(
)
(
)
lần/ phút
lần/phút
(
)
lần / phút
lần/phút
(con)
0C
0C
lần/
lần/5phút
5phút
8,5±
38,31 ±
25,02 ±
46,70 ±
38,67 ±
25,60 ±
49,24±
9,10±
Albendazol(Albendazol)
30
1,40
0,19
1,00
0,39
0,34
0,79
2,20
1,23
Trâu
Fasciolid(Nitroxynil)
30
38,65±0,21 25,41±0,43 47,59±0,96 9,8±1,03 38,88±0,67 26,04±1.12 48,35±1,32 9,5±0,87
Nitroxynil
30
38,92±0,11 24,65±0,33 47,72±1,05 8,8±0,97 39,01±1,21 24,89±0,51 50,02±0,57 8,9±1,06
( Navet-xinil25%).
Albendazol(Albendazol)
38,16±0,47 24,69±0,78 45,99±0,69 7,5±1,35 38,11±0,38 24,73±0,37 46,52±1,24 8,2±1,47
30
Fasciolid(Nitroxynil)
38,56±0,89 25,01±0,35 47,25±1,08 9,2±1,14 38,72±1,03 25,28±0,62 48,96±0,86
9,0±1,1
30
Bò
Nitroxynil
30
38,23±1,32 24,88±0,27 46,43±1,37
9,5±1,5
38,19±1,09 24,98±0,33 47,62±1,07
9,6±1,3
( Navet-xinil25%).
58
Kiểm tra độ an toàn của thuốc đối với trâu thu được kết quả như sau:
Thuốc Albendazol:
Thân nhiệt trước khi tẩy là 38,31 ± 0,190C, Sau khi tẩy là 38,67 ± 0,340C
(tăng 0,360C).
Mạch đập trước khi tẩy là 46,7 ± 0,39 lần/ phút. Sau khi tẩy là 49,24 ±
2,2 lần/ phút (tăng 2,54 lần/ phút).
Nhịp thở trước khi tẩy là 25,02 ± 1,0 lần/ phút. Sau khi tẩy là 25,6 ± 0,79
lần/ phút (tăng 0,58 lần/5 phút).
Nhu động dạ cỏ trước khi tẩy là 8,5±1,4 lần/5 phút, sau khi tẩy là
9,1±1,23 lần/ phút (tăng 0,6 lần/ phút).
Thuốc Fasciolid:
Thân nhiệt trước khi tẩy là 38,65 ± 0,210C, Sau khi tẩy là 38,88 ± 0,670C
(tăng 0,230C).
Mạch đập trước khi tẩy là 47,59 ± 0,96 lần/ phút. Sau khi tẩy là 48,35 ±
1,32 lần/ phút (tăng 0,76 lần/ phút).
Nhịp thở trước khi tẩy là 25,41 ± 0,43 lần/ phút. Sau khi tẩy là 26,04 ±
1,12 lần/ phút (tăng 0,63 lần/ phút).
Nhu động dạ cỏ trước khi tẩy là 9,8±1,03 lần/5 phút, sau khi tẩy là
9,5±0,87 lần/ phút (giảm 0,3 lần/ 5 phút).
Thuốc Nitroxynil( Navet-xinil25%).:
Thân nhiệt trước khi tẩy là 38,92 ± 0,110C, Sau khi tẩy là 39,01 ± 1,210C
(tăng 0,090C).
Mạch đập trước khi tẩy là 47,72 ± 1,05 lần/ phút. Sau khi tẩy là 50,02 ±
0,57 lần/ phút (tăng 2,3 lần/ phút).
Nhịp thở trước khi tẩy là 24,65 ± 0,33 lần/ phút. Sau khi tẩy là 24,89 ±
0,51 lần/ phút (tăng 0,24 lần/ phút).
Nhu động dạ cỏ trước khi tẩy là 8,8±0,97 lần/5 phút, sau khi tẩy là
8,9±1,06 lần/ phút (tăng 0,1 lần/5 phút).
59
Kiểm tra độ an toàn của thuốc đối với bò thu được kết quả như sau:
Thuốc Albendazol:
Thân nhiệt trước khi tẩy là 38,16 ± 0,470C, Sau khi tẩy là 38,11 ± 0,380C
(giảm 0,050C).
Mạch đập trước khi tẩy là 45,99 ± 0,69 lần/ phút. Sau khi tẩy là 46,52 ±
1,24 lần/ phút (tăng 0,53 lần/ phút).
Nhịp thở trước khi tẩy là 24,69 ± 0,78 lần/ phút. Sau khi tẩy là 24,73 ±
0,37 lần/ phút (tăng 0,04 lần/ phút)
Nhu động dạ cỏ trước khi tẩy là 7,5±1,35 lần/5 phút, sau khi tẩy là
8,2±1,47 lần/ phút (tăng 0,7 lần/5 phút).
Thuốc Fasciolid:
Thân nhiệt trước khi tẩy là 38,56 ± 0,890C, Sau khi tẩy là 38,72 ± 1,030C
(giảm 0,160C).
Mạch đập trước khi tẩy là 47,25 ± 1,08 lần/ phút. Sau khi tẩy là 48,96 ±
0,86 lần/ phút (tăng 1,71 lần/ phút).
Nhịp thở trước khi tẩy là 25,01 ± 0,35 lần/ phút. Sau khi tẩy là 25,28 ±
0,62 lần/ phút (tăng 0,27 lần/ phút).
Nhu động dạ cỏ trước khi tẩy là 9,2±1,14 lần/5 phút, sau khi tẩy là
9,0±1,1 lần/ phút (giảm 0,2 lần/5 phút).
Thuốc Nitroxynil( Navet-xinil25%).:
Thân nhiệt trước khi tẩy là 38,23 ± 1,320C, Sau khi tẩy là 38,19±1,090C
(tăng 0,040C).
Mạch đập trước khi tẩy là 46,43 ± 1,37 lần/ phút. Sau khi tẩy là 47,62 ±
1,07 lần/ phút (tăng 1,19 lần/ phút).
Nhịp thở trước khi tẩy là 24,88 ± 0,27 lần/ phút. Sau khi tẩy là 24,98 ±
0,33 lần/ phút (tăng 0,1 lần/ phút).
Nhu động dạ cỏ trước khi tẩy là 9,5±1,5 lần/5 phút, sau khi tẩy là
9,6±1,3 lần/ phút (tăng 0,1 lần/5 phút).
60
Qua bảng trên cho thấy: dùng 3 loại thuốc Albendazol, Fasciolid,
Nitroxynil( Navet-xinil25%), để tẩy sán lá gan cho trâu, bò là rất an toàn và
đạt hiệu quả cao. Các chỉ tiêu sinh lý có thay đổi đôi chút nhưng vẫn ở trong
phạm vi cho phép, không làm thay đổi sức sản xuất cũng như sức khỏe con vật.
3.5. Đề xuất biện pháp phòng chống bệnh sán lá gan cho trâu, bò ở tỉnh
Hà Giang
Để góp phần giảm thấp những thiệt hại trong chăn nuôi do các bệnh ký
sinh trùng gây nên, từ kết quả nghiên cứu của đề tài, chúng tôi đề xuất những
biện pháp tổng hợp phòng chống bệnh sán lá gan như sau:
- Định kỳ tẩy sán: Là biện pháp phòng trừ hiệu quả và kinh tế hơn cả.
Định kỳ tẩy sán cho gia súc bằng thuốc tẩy còn hiệu lực khá cao và thông dụng
trên thị trường tỉnh Hà Giang mà chúng tôi đã thử nghiệm nêu trên, 1 năm 2
lần vào tháng 3 - 4 trước mùa mưa ốc ký chủ trung gian phát triển và tháng 9 -
10 để diệt sán đã nhiễm trong mùa mưa.
- Vệ sinh thức ăn nước uống: Đảm bảo vệ sinh chuồng trại, quét dọn
hàng ngày, hạn chế hoặc tốt nhất là không chăn thả gia súc ở các bãi chăn ẩm
thấp, ngập nước, khi cắt cỏ cho bò ăn phải cắt cao hơn mặt nước để tránh cắt
phải cỏ có nhiễm Adolescaria. Nước uống phải là nguồn nước sạch không có
ký chủ trung gian và nước không nhiễm nang kén Adolescaria.
- Tăng cường chăm sóc, nuôi dưỡng. Để nâng cao sức khỏe của đàn bò,
cần chú ý khâu quản lý, chăm sóc và nuôi dưỡng tốt. Đối với trâu, bò các lứa
tuổi (đặc biệt trâu, bò sinh sản trong thời kỳ mang thai và nuôi con) chú ý
đảm bảo khẩu phần ăn đủ cả về số lượng và chất lượng. Ngoài chăn dắt tự
nhiên, cần trồng cỏ cho trâu, bò ăn thêm. Nếu có điều kiện, nên bổ sung thêm
thức ăn tinh. Có kế hoạch dự trữ và cung cấp đủ thức ăn trong mùa khô, nhằm
nâng cao sức đề kháng của trâu, bò, hạn chế sự cảm nhiễm sán lá.
- Xây dựng hố ủ phân trong khu vực chuồng nuôi nhằm tiêu diệt và hạn
chế trứng sán lá phát tán ra môi trường,.
61
- Diệt ký chủ trung gian, vật chủ dự trữ, định kỳ tháo nước, làm khô đồng
cỏ, bãi chăn thả. Nuôi vịt, thả cá để diệt ốc ký chủ trung gian (ốc Lymnaea
swinhoei và Lymnaea viridis), dùng vôi bột, các thuốc diệt côn trùng phun
vào cây thủy sinh và trên cạn.
- Thực hiện chế độ kiểm soát giết mổ, kết hợp với các ngành chức năng
kiểm soát chặt chẽ tại các lò mổ, các điểm giết mổ các con mang ấu trùng sán,
các phủ tạng nhiễm sán để xử lý.
62
KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ
1. Kết luận
1.1. Nghiên cứu đặc điểm dịch tễ bệnh sán lá gan trâu, bò ở 3 huyện của
tỉnh Hà Giang
* Mổ khám 450 trâu và 300 bò ở ba huyện tỷ lệ nhiễm sán lá gan ở trâu
là 55,33%, cường độ nhiễm tính chung là 4 - 87 sán/trâu, tỷ lệ nhiễm ở bò là
40% với số lượng 3- 41 sán/bò.
100% số mẫu đem đi định loài đều là loài Fasiola gigantica.
Kết quả xét nghiệm 2.414 mẫu phân trâu, bò ở 3 địa điểm khác
nhau thì 733 mẫu phân trâu có trứng sán lá gan và 428 mẫu phân bò có
trứng sán lá. Trong đó cường độ nhiễm ≤ 200 trứng / g phân ở trâu là cao
nhất 54,75%, ở huyện Quản Bạ. Thấp nhất là tỷ lệ và cường độ nhiễm
>500 trứng/g phân là 10,66%.
Trâu, bò nuôi tại Hà Giang vào mùa hè tỷ lệ nhiễm cao nhất
57,19% và thấp nhất vào xuân 40,00%.
Trâu, bò nuôi tại Hà Giang có tỷ lệ nhiễm và cường độ nhiễm tăng
dần theo độ tuổi, biến động từ 37,39- 64,73%.
Trâu, bò đực và trâu, bò cái nuôi tại Hà Giang có tỷ lệ và cường độ
nhiễm sán lá gan khác biệt không đáng kể, ở con đực tỷ lệ nhiễm 45,76%,
ở con cái 51,45%.
Với 3 phương thức chăn nuôi, trong đó chăn nuôi trâu, bò với hình
thức chăn thả tự do có tỷ lệ nhiễm sán lá gan cao nhất (58,79%), thấp nhất
là nuôi nhốt( 25,85%.)
Kết quả kiểm tra trâu, bò bị nhiễm sán lá gan có triệu chứng lâm
sàng cho thấy: Gầy rạc ốm yếu, suy nhược, ỉa chảy xen kẽ táo bón, phân
nát hoặc lỏng mùi thối khắm, phân dính quanh hậu môn và chân sau,lông
63
xù, rụng lông, da mốc, hốc mắt sâu, có nhử, niêm mạc nhợt nhạt, ăn ít,
nhai lại yếu.
Kết quả kiểm tra xét nghiệm cận lâm sàng trâu, bò bị nhiễm sán lá
gan cho thấy:
Số lượng hồng cầu, bạch cầu, huyết sắc tố, men gan có sự thay đổi
rõ rệt giữa con khỏe và con bị bệnh sán lá gan.
Bệnh tích đại thể: Gan sưng, xơ cứng, sung huyết, màu sắc không
đồng nhất, có nhiều vệt màu đỏ thẫm do sán non di hành.
Bệnh tích vi thể: Tỷ lệ tiêu bản trên trâu có bệnh tích vi thể là
86,67%, tỷ lệ tiêu bản trên bò có bệnh tích vi thể là 73,33%. Nhu mô gan ứ
huyết, xuất huyết, một số vùng trên nhu mô gan bị hoại tử, trong nhu mô gan
xuất hiện các tổ chức xơ, có nhiều tế bào viêm và tế bào xơ xung quanh ống dẫn
mật. Liên bào ống mật thoái hóa, tế bào niêm mạc tăng sinh, tế bào gan bị tổn
thương, mô liên kết lan rộng.
Hiệu lực thuốc tẩy sán lá gan sau 15 ngày: Cả 3 loại thuốc tẩy trên
thị trường Hà Giang đều tẩy an toàn và có hiệu lực tẩy cao:100%.
Các chỉ tiêu lâm sàng như: thân nhiệt, nhịp tim, nhịp thở,nhu động dạ
cỏ của trâu, bò trước và sau khi tẩy sán có sự thay đổi không đáng kể, không
làm ảnh hưởng đến sức sản xuất cũng như sức khỏe con vật
2. Đề nghị
Đối với người chăn nuôi và các cơ sở chăn nuôi trâu bò: Áp dụng đồng
bộ các biện pháp phòng trừ bệnh sán lá gan cho trâu, bò. Đẩy mạnh công tác
phòng bệnh bằng cách vệ sinh chuồng trại, bãi chăn thả, tiêu diệt trứng và ký
chủ trung gian của sán lá gan ngoài ngoại cảnh nhằm cắt đứt vòng đời của sán
lá gan và giảm thiệt hại do bệnh gây ra.
Đối với các cơ quan thú y: Tổ chức các lớp tập huấn về bệnh sán lá gan
cho các hộ chăn nuôi trâu, bò, dê. Tổ chức thực hiện tốt các biện pháp phòng
trị bệnh sán lá gan tại các địa phương.
64
TÀI LIỆU THAM KHẢO
I. Tài liệu tiếng việt
1. Đỗ Ngọc Ánh, Nguyễn Duy Bắc, Nguyễn Khắc Lực, Nguyễn Thị Vân, Lê
Trần Anh (2011), “ Xác định loài và tỷ lệ nhiễm sán lá gan ở trâu, bò
tại huyện Đại Lộc- Quảng Nam”, Công trình khoa học báo cáo tại Hội
nghị ký sinh trùng lần thứ 38, Nxb Y học, tr.151-156.
2. Nguyễn Văn Diên, Phan Lục, Phạm Sỹ Lăng (2006), “Một số nhận xét về
giun sán ký sinh đường tiêu hóa của bò tại một số địa điểm ở Đắc Lắk
“, Tạp chí khoa học kỹ thuật thú y, tập XIII, số 1, tr. 54-59.
3. Nguyễn Văn Diên (2014), bệnh ký sinh trùng thú y, tập 1, Nxb Đại học Cần
Thơ, 2014
4. Nguyễn Quốc Doanh, Lê Thanh Hòa (2006), “ Một số đặc điểm hình thái
và phân tử của sán lá gan (Fasiola spp) ở bò của tỉnh Nghệ An và Cao
Bằng”, Tạp chí Khoa học Kỹ thuật thú y, 3(5), tr.59-67.
5. Hoàng Văn Hiền, Phạm Ngọc Doanh, Nguyễn Văn Đức, Phạm Văn Lực,
Đặng Thị Cẩm Thạch (2011), “Tình hình nhiễm sán lá gan trâu, bò ở
Việt Nam”, Tạp chí Khoa học Kỹ thuật thú y, tập XVIII, số 1, tr. 80-83.
6. Lê Thanh Hòa, Nguyễn Văn Đề (2007), “Xác định lai ngoại loài giữa F.
gigantica và F.hepatica trong quẩn thể sán lá lớn ở Việt Nam trên cơ sở
sinh học phân tử”, Tạp chí Y học TP. Hố Chí Minh, số 2, tr. 89-97.
7. Nguyễn Hữu Hưng (2009), “ Điều tra tình hình nhiễm sán lá gan trên bò tại
một số địa phương tỉnh Đồng Tháp”, Tạp chí Khoa học Kỹ thuật Thú y,
tập XVI, số 6, tr.51-55.
8. Nguyễn Hữu Hưng (2011), “ Tình hình nhiễm sán lá gan ở bò tại một số
tỉnh đồng bằng sông Cửu Long và thử hiệu quả tẩy trừ”, Tạp chí khoa
học kỹ thuật thú y, tập XVI, số 6, tr. 51-55.
9. Phạm Văn Khuê, Phan Lục (1996), Ký sinh trùng thú y, Nxb Nông nghiệp
65
Hà Nội, tr.53-62.
10. Nguyễn Trọng Kim, Phạm Ngọc Vĩnh (1997), “Kết quả điều tra tình hình
nhiễm sán lá gan trâu, bò ven biển Nghệ An và biện pháp phòng trừ”,
Kết quả nghiên cứu khoa học, Viện Khoa học Kỹ thuật nông nghiệp
Việt Nam quyển 5, tr. 400-402.
11. Nguyễn Thị Kim Lan, Phan Địch Lân, Nguyễn Khánh Quắc, Nguyễn
Văn Quang (1999), “Phát hiện bệnh tiêu hóa ở dê và dùng thuốc điều
trị”, Tạp chí Khoa học và Công nghệ, Đại học Thái Nguyên, 1(9), tr.42-48.
12. Nguyễn Thị Kim Lan, Nguyễn Thị Lê, Phạm Sỹ Lăng, Nguyễn Văn
Quang (2008), Ký sinh trùng học thú y, (Giáo trình dùng cho bậc cao
học), Nxb nông nghiệp Hà Nội, tr. 123-144.
13. Nguyễn Thị Kim Lan (2011), “ Những bệnh phổ biến ở gia cầm, lợn và
loài nhai lạiViệt Nam”, Nxb nông nghiệp Hà Nội, tr.189- 309.
14. Nguyễn Thị Kim Lan (2012), Giáo trình ký sinh trùng thú y, Nxb nông
nghiệp Hà Nội, tr. 62-67.
15. Phan Địch Lân (1980), Bệnh sán lá gan trâu do Fasiola gigantica ở phía
Bắc Việt Nam, Luận án PTS khoa học nông nghiệp.
16. Phan Địch Lân (1985), “Những nghiên cứu về sán lá gan và bệnh sán lá
gan trên trâu bò ở nước ta”. Tạp chí khoa học thú y ( số 6).
17. Phan Địch Lân, Nguyễn Thị Kim Lan, Nguyễn Văn Quang (2002), Bệnh
ký sinh trùng ở đàn dê Việt Nam, Nxb nông nghiệp, Hà Nội, tr. 31-42.
18. Phan Địch Lân (2004), bệnh ngã nước trâu, bò, Nxb Nông nghiệp, Hà
Nội, tr. 5-55.
19. Nguyễn Thị Lê, Hà Duy Ngọ, Nguyễn Thị Minh, Đặng Tất Thế, Đỗ Đức
Ngái, Phạm Ngọc Doanh, Nguyễn Kim Linh, Nguyễn Thị Công
(1996)” Kết quả nghiên cứu tình hình nhiễm sán lá gan và biện pháp
phòng chống ở đàn bò sữa Ba Vì- Hà Tây”, Tạp chí khoa học kỹ thuật
thú y, tập III, số 3, tr. 76-80.
66
20. Võ Thị Hải Lê (2010), “ Tình hình nhiễm sán lá gan lớn của trâu, bò tại
một số địa điểm thuộc tỉnh Nghệ An”, Tạp chí Khoa học Kỹ thuật thú y,
tập XVII, số 5, tr.30-33.
21. Đỗ Đức Ngái, Phạm Văn Lực, Nguyễn Văn Đức, Phạm Ngọc Doanh,
Nguyễn Văn Hà, Nguyễn Thị Minh, 2006. Tập quán chăn nuôi và tình
hình nhiễm bệnh sán lá gan trâu, bò ở tỉnh Đắc Lắc. Khoa học kỹ thuật
thú y, 3(5), tr.68-72.
22. Nguyễn Thị Ngân, Phan Thị Hồng Phúc, Nguyễn Quang Tính (2016),
Giáo trình Chẩn đoán bệnh gia súc, gia cầm, nhà xuất bản Nông
nghiệp Hà Nội.
23. Đoàn Văn Phúc, Nguyễn Thị Hiền Thảo, Vũ Thị Thận (1980), “ Dùng
Dertil B tẩy sán lá gan cho trâu Việt nam”, Kết quả nghiên cứu khoa
học kỹ thuật thú y(1968-1978), Nhà xuất bản nông nghiệp, Hà Nội.
24. Đoàn Văn Phúc, Vương Đức Chất, Dương Thanh Hà (1995), “Kết quả
điều tra nhiễm sán lá gan trâu, bò khu vực Hà Nội và ứng dụng điều
trị”, Công nghiệp& Nông nghiệp thực phẩm, Tạp chí khoa học công
nghệ và QLKT, Hà Nội, 1/1995, tr.36-37.
25. Dương Thị Thanh Thủy (2015), “ Một số đặc điểm dịch tễ bệnh sán lá
gan ở bò(Fasiolosis) tại tỉnh Đồng Nai và biện pháp phòng trị”, Luận
văn thạc sỹ thú y, trường đại học Tây Nguyên, tr.41-43.
26. Nguyễn Kim Thành, Phan Địch Lân, Trương Xuân Dung, Trần Thị Lợi
(1996), “ Một số chỉ tiêu sinh lý máu của trâu, bò mắc bệnh sán gan “,
Tạp chí khoa học Kỹ thuật thú y, tập 3, số 1, tr. 82-86.
27. Nguyễn Văn Thiện ( 2008), Phương pháp nghiên cứu trong chăn nuôi,
Nxb nông nghiệp, Hà Nội.
28. Trịnh Văn Thịnh, Đỗ Dương Thái (1978), Công trình nghiên cứu ký sinh
trùng ở Việt Nam, Tập 2: Giun sán ở động vật, Nxb Khoa học và kỹ
thuật, Hà Nội.
67
29. Lương Tố Thu, Bùi Khánh Linh (1996), “ Tình hình nhiễm sán lá gan
(Fasiola) và kết quả thử nghiệm Fasinex tẩy sán lá gan cho trâu, bò”,
Tạp chí Khoa học Kỹ thuật thú y, tập 3, số 1, tr. 74-81..
30. Lương Tố Thu (2000), tình hình bệnh sán lá gan( Fasiolosis) trên trâu,
bò, kết quả thử nghiệm của một số loại thuốc mới và các công thức
phối hợp thuốc để điều trị bệnh. Kết quả nghiên cứu khoa học thú y
1996-2000, tr. 338-346.
31. Hồ Thị Thuận, Nguyễn Ngọc Phương( 1987), “Kết quả điều tra bệnh sán
lá gan trâu, bò và biện pháp phòng trừ”, Tạp chí khoa học kỹ thuật nông
nghiệp, số 2, tr. 85-88.
32. Phạm Diệu Thùy (2014), Nghiên cứu đặc điểm dịch tễ bệnh sán lá gan
trâu, bò( Fasiolosis) ở tỉnh Thái Nguyên, Bắc Cạn, Tuyên Quang và
biện pháp phòng trị(2010-2013), Luận án tiến sĩ thú y, Đại học Thái
Nguyên, tr. 78-82.
33. Phan Thế Việt, Nguyễn Thị Kỳ, Nguyễn Thị Lê (1997), Giun sán ký sinh
ở động vật Việt Nam, Nxb Khoa học và kỹ thuật, Hà Nội, tr.153-168.
34. Hà Huỳnh Hồng Vũ, Nguyễn Hồ Báo Trân, Nguyễn Hữu Hưng (2015).
Đặc điểm hình thái và phân tử sán lá gan lớn ký sinh ở bò tại tỉnh Đồng
Tháp. Tạp chí khoa học kỹ thuật Thú y, tập 6, số 27: tr. 63-69
35. Hà Huỳnh Hồng Vũ, Nguyễn Hồ Báo Trân, Nguyễn Hữu Hưng (2016).
Tình trạng nhiễm sán lá gan trên bò tại một số tỉnh Đồng bằng sông
Cửu Long và thử hiệu quả tẩy trừ Tạp chí khoa học Trường Đại Học
Cần Thơ, tập 2,: tr. 17-22
II. Tài liệu tiếng nước ngoài
36. Ali Khanjari, Alireza Bahonar, Sepideh Fallah, Mahboube Bagheri, Abbas
Alizadeh, Marjan fallah, Zahra Khanjari (2014), “Prevalence of
Fasciolosis and dicrocoeliosis in slaughtered sheep and goats in Amol
68
Abattoir, Mazandaran, northern Iran”, Asian Pacific Journal of
Tropical Disease, pp. 120 – 124
37. Bless P. J., Schar F., Khieu V., Kramme S., Muth S., Marti H., Odermatt
P.(2015), “High prevalence of large trematode eggs in schoolchildren in
Cambodia”, Acta Trop, 141, pg. 295 – 302
38. Boray J. C. (1985), Flukes of domestic animals. In: Gaafar, S.M.,
Howard, W.E. and Marsh, R.E. (eds) Parasites, Pests and Predators.
Elsevier, Amsterdam, Oxford, New York, Tokyo, pp. 179 - 218.
39. Elliott T. P., Kelley J. M., Rawlin G., Spithill T. W. (2015), “High
prevalence of fasciolosis and evaluation of drug efficacy against
Fasciola hepatica in dairy cattle in the Maffra and Bairnsdale districts
of Gippsland, Victoria, Australia”, Vet Parasitol, 209(1-2), pg. 117 -
124.
40. Grigoryan G. A. (1958), “Experimental study of Fasciola gigantica
infestation in sheep”, Trudy Armyansk Inst Zhivotnovod Veterinariya 3,
pp. 155 - 168.
41. Kendall S.B. (1954), Fascioliasis in Pakistan. Annals of Tropical Medicine
and Parasitology 48, pp. 307 - 313.
42. Kiziewicz B. (2013), “Natural infection with Fasciola hepatica
(Linnaeus, 1758) in the European bison (Bison bonasus) in
Bialowieza National Park, Poland”, Parasitological Institute of SAS,
Kosice, Helminthologia, pp. 167 - 171.
43. Lora R. Ballweber, M. S., D. V. M. (2015), Strongyloides sp in Pigs:
GastrointestinalParasitesof Pigs:...http://www.merckvetmanual.com/...pa
rasites_of_pigs/strongyloides_sp_in_pigs.html.
44. Mas - Coma S., Bargues M. D., Valero M. A. (2005), “Fascioliasis and
other plant - borne trematode zoonosis”, International Journal for
Parasitology 35: pp. 1255 - 1278.
69
45. Olsen A., Frankena K., B0dker R., Toft N., Thamsborg S. M., Enemark
H. L., Halasa T. (2015), “Prevalence, risk factors and spatial analysis of
liver fluke infections in Danish cattle herds”, Parasit Vectors, pg. 8 – 160.
MỘT SỐ HÌNH ẢNH CỦA ĐỀ TÀI
Hình 1. Thu thập mẫu phân bò tại Hình 2. Thu thập mẫu phân trâu
huyện Bắc Mê tại huyện Bắc Mê
Hình 3. Thu thập mẫu phân bò tại Hình 4. Thu thập mẫu phân trâu
huyện Quản Bạ tại huyện Quản Bạ
Hình 5. Thu thập mẫu phân bò tại Hình 6. Thu thập mẫu phân trâu tại
huyện Vị Xuyên huyện Vị Xuyên
Hình 7. Kiểm tra mẫu phân trâu, Hình 8. Tìm trứng sán lá gan trâu
bò để tìm trứng bò bằng kính hiển vi
Hình 9. Thu thập sán lá gan trâu( Hình 10. Thu thập sán lá gan bò
Fasiola gigantica) ( Fasiola gigantica )
Hình 11. Lò mổ trâu, bò
Hình 12. Sán lá gan trâu Hình 13. Gan trâu nhiễm sán lá
gan
Hình 14. Chăn thả trâu trên Hình 15. Chăn thả bò bên
đồng ruộng sông suối
Hình 16. Chuồng bò Hình 17. Chuồng trâu
Hình 19. Sán lá gan ký sinh trong Hình.18. Thành ống dẫn mật dày, xù
ống dẫn mật xì