1
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NÔNG NGHIỆP&PTNT
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP
***********
LÊ VĂN GỌI
NGHIÊN CỨU SINH KẾ CỦA NGƢỜI DÂN ĐỊA PHƢƠNG CÓ
PHỤ THUỘC VÀO RỪNG TẠI XÃ MÃ ĐÀ THUỘC KHU
BẢO TỒN THIÊN NHIÊN VÀ DI TÍCH VĨNH CỬU,
TỈNH ĐỒNG NAI
Ngành:
Lâm học
Mã số :
60.62.60
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP
Đồng Nai, tháng 4/ 2009
2
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP
LÊ VĂN GỌI
NGHIÊN CỨU SINH KẾ CỦA NGƢỜI DÂN ĐỊA PHƢƠNG
CÓ PHỤ THUỘC VÀO RỪNG TẠI XÃ MÃ ĐÀ THUỘC KHU
BẢO TỒN THIÊN NHIÊN VÀ DI TÍCH VĨNH CỬU,
TỈNH ĐỒNG NAI
Chuyên ngành Lâm học
Mã số 60.62.60
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP
Người hướng dẫn khoa học: TS. ĐINH ĐỨC THUẬN
ĐỒNG NAI, 4.2009
i
CẢM TẠ
Với những kết quả thu được sau hơn 2 năm học tập sau đại học tại Trường
Đại học Lâm nghiệp và Trường Đại học Nông lâm TP. Hồ Chí Minh, trước hết
tôi xin cảm ơn:
- Các Thầy Cô Trường Đại học Lâm nghiệp và Thầy Cô của Khoa Lâm
nghiệp, Trường Đại học Nông Lâm TP. Hồ Chí Minh, những người đã truyền đạt
kiến thức mới trong thời gian học sau đại học.
- Sự hướng dẫn và chỉ bảo chân tình về mọi mặt trong thời gian làm đề tài
của Thầy Đinh Đức Thuận, đến hôm nay đã hoàn thành luận văn tốt nghiệp thạc
sỹ khoa học ngành Lâm nghiệp này.
- Xin chân thành cảm ơn các cấp chính quyền, bà con trong xã Mã Đà,
huyện Vĩnh Cửu, cán bộ Khu BTTN&DT Vĩnh Cửu đã tận tình giúp đỡ tôi trong
quá trình thực tập tốt nghiệp tại địa phương.
- Xin gởi lời cám ơn đến những người bạn và những người đồng nghiệp đã
động viên tôi trong suốt quá trình công tác tại cơ quan cũng như thời gian theo
học cao học vừa qua.
Cuối cùng, xin gởi tới vợ, các con và người thân trong gia đình, nguồn
động viên tinh thần to lớn vì sự nghiệp của cá nhân hôm nay và những mong ước
tốt đẹp hơn cho thế hệ sau.
LÊ VĂN GỌI
ii
MỤC LỤC
DANH SÁCH CÁC CHỮ VIẾT TẮT .................................................................... v
DANH SÁCH CÁC BẢNG .................................................................................. vii
DANH SÁCH CÁC HÌNH .................................................................................... ix
ĐẶT VẤN ĐỀ......................................................................................................... 1
1. Cơ sở nghiên cứu và sự cần thiết của đề tài .................................................... 1
2. Câu hỏi cho nghiên cứu ................................................................................... 5
Chương 1 ................................................................................................................. 6
TỔNG QUAN TÀI LIỆU ....................................................................................... 6
1.1 Khái niệm về sinh kế và khuôn mẫu của sinh kế bền vững .......................... 6
1.2 Tài nguyên rừng và sinh kế của người dân ................................................... 9
1.3 Một số nghiên cứu và dự án liên quan đến sinh kế trên thế giới ................. 11
1.4 Hệ thống chính sách và nghiên cứu sinh kế ở Việt Nam ........................... 12
2.1 Tiêu chí chọn địa điểm nghiên cứu ............................................................. 18
2.2 Giới thiệu sơ lược về điều kiện tự nhiên khu vực nghiên cứu .................... 19
2.2.1 Phạm vi ranh giới ................................................................................. 19
2.2.2 Khí hậu thủy văn .................................................................................. 19
2.2.3 Địa hình đất đai .................................................................................... 20
2.2.4 Tài nguyên rừng và đất rừng ................................................................ 20
2.3 Giới thiệu sơ lược về tình hình dân sinh kinh tế của xã Mã Đà ................. 22
2.3.1 Sơ lược về dân số, dân tộc và lao động ............................................... 22
2.3.2 Sơ lược về tình hình kinh tế - xã hội .................................................... 23
3.1 Mục tiêu nghiên cứu .................................................................................... 24
3.2 Đối tượng và giới hạn nghiên cứu .............................................................. 25
3.2.1 Đối tượng nghiên cứu .......................................................................... 25
3.2.2 Giới hạn nghiên cứu ............................................................................. 26
3.3 Nội dung nghiên cứu .................................................................................. 26
3.4 Phương pháp nghiên cứu ............................................................................ 27
iii
3.4.1 Cách tiếp cận ........................................................................................ 27
3.4.2 Phương pháp thu thập thông tin ........................................................... 28
3.4.3 Phương pháp xử lý và phân tích thông tin ........................................... 30
3.4.4 Tóm tắt các phương pháp nghiên cứu cho từng nội dung .................... 31
Chương 4 ............................................................................................................... 33
KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN .............................................................................. 33
4.1 Hiện trạng đời sống kinh tế xã hội và hệ thống sinh kế của cộng đồng dân
cư xã Mã Đà ...................................................................................................... 33
4.1.1 Hiện trạng về đời sống kinh tế và xã hội ............................................. 33
4.1.1.1 Dòng thời gian và chiều hướng ...................................................... 33
4.1.1.2 Các nhóm dân tộc, nhân khẩu, tình trạng cư trú và nhà ở .............. 37
4.1.2 Các nhóm sinh kế của cộng đồng người dân ....................................... 38
4.1.2.1 Sinh kế từ sản xuất nông nghiệp .................................................... 38
4.1.2.2 Sinh kế từ sản xuất lâm nghiệp ..................................................... 42
4.1.2.3 Sinh kế từ chăn nuôi ....................................................................... 44
4.1.2.4 Sinh kế từ các hoạt động phi nông nghiệp ..................................... 45
4.1.3 Các tài sản tạo ra sinh kế của người dân .............................................. 47
4.1.3.1 Tài sản nhân lực ............................................................................. 47
4.1.3.2 Tài sản hữu hình ............................................................................. 49
4.1.3.3 Tài sản tài chính ............................................................................. 51
4.1.3.4. Tài sản tự nhiên ............................................................................. 55
4.1.3.5 Tài sản xã hội ................................................................................. 58
4.2 Sự phụ thuộc vào tài nguyên rừng cho sinh kế của các nhóm hộ dân tại xã
Mã Đà ................................................................................................................ 59
4.2.1 Sự phụ thuộc của các nhóm hộ dân vào tài nguyên rừng .................... 59
4.2.2 Giá trị và tầm quan trọng của các sản phẩm từ rừng trong việc tạo ra
sinh kế ............................................................................................................ 63
iv
4.2.3 Những thuận lợi, khó khăn, cơ hội và thách thức ảnh hưởng đến khả
năng tiếp cận các tài sản tạo ra sinh kế .......................................................... 65
4.2.3.1 Thuận lợi ........................................................................................ 65
4.2.3.2 Khó khăn ........................................................................................ 66
4.2.3.3 Cơ hội ............................................................................................. 67
4.2.3.4 Thách thức ...................................................................................... 67
4.3 Các nhân tố ảnh hưởng đến sinh kế và ảnh hưởng của sinh kế đến tài
nguyên rừng ....................................................................................................... 68
4.3.1 Ảnh hưởng của các nguồn lực tự nhiên và xã hội đến khả năng tiếp cận
tài sản sinh kế ................................................................................................. 68
4.3.1.1 Các nguồn lực tự nhiên .................................................................. 68
4.3.1.2 Cấu trúc cộng đồng và hộ gia đình ................................................. 70
4.3.1.3 Các tổ chức và định chế địa phương .............................................. 76
4.3.2 Ảnh hưởng của các nhóm sinh kế đến tài nguyên rừng của Khu Bảo tồn
Thiên nhiên và Di tích Vĩnh Cửu ................................................................... 79
4.3.2.1 Ảnh hưởng từ sản xuất lâm nghiệp ................................................ 79
4.3.2.2 Ảnh hưởng từ sản xuất nông nghiệp .............................................. 80
4.3.2.3 Ảnh hưởng từ hoạt động chăn nuôi ................................................ 81
4.3.2.4 Ảnh hưởng từ tiểu thủ công nghiệp và buôn bán dịch vụ ............. 82
4.4 Các giải pháp cải thiện sinh kế của các nhóm hộ dân đã thực hiện ........... 85
4.4.1 Các giải pháp của hộ gia đình liên quan đến sản xuất vật chất tại chỗ 85
4.5.2 Các giải pháp liên quan đến tổ chức và vận dụng chính sách ............. 86
4.5.3 Xây dựng khung sinh kế bền vững tại địa phương .............................. 88
Chương 5 ............................................................................................................... 92
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ .............................................................................. 92
5.1 Kết luận........................................................................................................ 92
5.2 Kiến nghị ..................................................................................................... 94
v
DANH SÁCH CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BB-DV
Buôn bán – dịch vụ
BTTN&DT
Bảo tồn Thiên nhiên và Di tích
CBCNV
Cán bộ công nhân viên
Ủy ban Phát triển quốc tế
DFID
Đa dạng sinh học
ĐDSH
Điều tra Quy hoạch
ĐTQH
Động vật rừng
ĐVR
Trung tâm nghiên cứu phát triển quốc tế
IDRC
Tổ chức Quốc tế về phát triển bền vững
IISD
Khu Bảo tồn
KBT
Khai thác lâm sản
KTLS
KT-XH
Kinh tế - xã hội
Lâm nghiệp xã hội
LNXH
Lâm sản ngoài gỗ
LSNG
NN&PTNT
Nông nghiệp và phát triển nông thôn
PCCCR
Phòng cháy, chữa cháy rừng
PRA
Đánh giá nông thôn có sự tham gia
QLBVR
Quản lý bảo vệ rừng
RTN
Rừng tự nhiên
SXLN
Sản xuất lâm nghiệp
SXNN
Sản xuất nông nghiệp
THCS
Trung học cơ sở
vi
THPT
Trung học phổ thông
TVR
Thực vật rừng
UBND
Ủy ban nhân dân
WWF
Quỹ quốc tế về bảo vệ thiên nhiên
vii
DANH SÁCH CÁC BẢNG
Bảng 4.1 Cơ cấu diện tích các loại cây trồng nông nghiệp của hộ dân ..................... 39
Bảng 4.2a: Sử dụng đất nông nghiệp vào mục đích sinh kế của hộ .......................... 40
Bảng 4.2b: Sử dụng đất nông nghiệp vào mục đích sinh kế của hộ .......................... 41
Bảng 4.3: Sử dụng đất lâm nghiệp và khai thác sản phẩm từ rừng ........................... 42
Bảng 4.4: Tình hình chăn nuôi gia súc và gia cầm ở các hộ gia đình ........................ 44
Bảng 4.5: Diện tích nuôi cá và số lượng cá nuôi của hộ gia đình.............................. 45
Bảng 4.6 Tổng hợp trình độ học vấn theo nhóm dân tộc và giới tính ....................... 47
Bảng 4.7 Tổng hợp độ tuổi (lao động) theo nhóm dân tộc và giới tính ..................... 48
Bảng 4.8 Các loại tài sản cho sản xuất và sinh hoạt trong gia đình ........................... 49
Bảng 4.9 Mức tổng thu nhập (triệu/hộ/năm) của các nhóm hộ dân ........................... 51
Bảng 4.10 Cơ cấu thu nhập của hộ gia đình (%) từ các nguồn sinh kế ..................... 52
Bảng 4.11 Cơ cấu sử dụng diện tích đất canh tác của các hộ gia đình ...................... 56
Bảng 4.12 Tình hình sử dụng tài nguyên đất của các hộ gia đình ............................. 57
Bảng 4.13 Số hộ tham gia vào các tổ chức đoàn thể tại địa phương ......................... 59
Bảng 4.14 Cơ cấu thu nhập (%) từ các sản phẩm rừng của nhóm hộ ........................ 60
Bảng 4.15 Mức độ quan hệ tương quan giữa các nguồn thu nhập............................. 61
Bảng 4.16 Tóm tắt xếp hạng về tầm quan trọng của các loại lâm sản ....................... 64
Bảng 4.17 Mức độ quan hệ tương quan giữa các nguồn thu nhập............................. 70
Bảng 4.18a Mức tổng thu nhập (triệu/hộ/năm) của các nhóm hộ dân ....................... 71
Bảng 4.18b Mức tổng thu nhập (triệu/hộ/năm) của các nhóm tôn giáo .................... 72
Bảng 4.19 Mức tổng thu nhập (triệu/hộ/năm) theo số lao động/hộ ........................... 73
Bảng 4.20 Mức tổng thu nhập (triệu/hộ/năm) theo vốn vay tín dụng ....................... 74
Bảng 4.21a Đầu tư và thu nhập từ trồng Điều và Xoài của các hộ ............................ 76
Bảng 4.21b Đầu tư và thu nhập từ trồng lúa nước và cây ngắn ngày ........................ 76
Bảng 4.22a Đánh giá mức độ ảnh hưởng đến TNR từ khai thác lâm sản .................. 80
BẢNG TRANG
viii
Bảng 4.22b Đánh giá mức độ ảnh hưởng đến TNR từ trồng trọt .......................... 80
Bảng 4.22c Đánh giá mức độ ảnh hưởng đến TNR từ chăn nuôi .............................. 82
Bảng 4.22d Đánh giá mức độ ảnh hưởng đến TNR từ tiểu thủ công nghiệp ............ 83
Bảng 4.22e Đánh giá mức độ ảnh hưởng đến TNR từ buôn bán dịch vụ .................. 84
Bảng 4.23 Tổng hợp những khó khăn của các hộ gia đình xã Mã Đà ....................... 88
Bảng 4.24 Xếp hạng thứ bậc các yếu tố cấu thành khung sinh kế ............................. 89
ix
DANH SÁCH CÁC HÌNH
HÌNH TRANG
Hình 1.1 Lược đồ khung sinh kế bền vững của DFID (1998) ................................. 7
Hình 2.1 Khung phân tích sinh kế bền vững của DFID (1998) ............................... 8
Hình 4.1 Cơ cấu thu nhập bình quân chung theo nhóm sinh kế ........................... 54
Hình 4.2 Cơ cấu thu nhập theo nhóm sinh kế của hai nhóm hộ dân ...................... 55
Hình 4.3 Biểu diễn quan hệ hàm số giữa thu nhập và đầu tư của hộ ................... 76
Hình 4.4 Khung sinh kế của nhóm hộ người Kinh và người dân tộc .................... 90
1
ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Cơ sở nghiên cứu và sự cần thiết của đề tài
Sự xuống cấp của tài nguyên thiên nhiên và môi trường đang là một vấn đề
toàn cầu. Tác động của chúng ảnh hưởng trực tiếp và mạnh mẽ lên đời sống của
người dân ở các cấp độ khác nhau, từ khu vực cho đến từng cộng đồng và từng
nông hộ. Thật vậy, hầu hết người nghèo ở mọi nơi đều có cuộc sống phụ thuộc
vào tài nguyên thiên nhiên và các tiến trình chức năng của hệ sinh thái. Người
dân trong các cộng đồng địa phương vừa là tác nhân, vừa là nạn nhân của sự
xuống cấp cơ sở tài nguyên mà họ phụ thuộc, điều này đặc biệt đúng đối với
người nghèo trong các cộng đồng đang có sự chuyển đổi từ nền kinh tế tự túc tự
cấp sang nền kinh tế hàng hóa. Chính vì thế, kinh tế hộ và cuộc sống của họ có
thể bị ảnh hưởng bởi bất kỳ một biến động nào từ tài nguyên thiên nhiên.
Trong việc nghiên cứu sinh kế của các cộng đồng nông thôn, Ủy ban phát
triển quốc tế (DFID, 1999) cung cấp một khuôn khổ phân tích, trong đó nhấn
mạnh các khía cạnh khác nhau. Các khía cạnh này thống nhất với nhận định của
Lê Trọng Cúc (2003) [3]. Theo đó, nghèo đói và sự bấp bênh về sinh kế xảy ra ở
vùng cao không chỉ là do việc thiếu nguồn tài chính mà còn do nhiều nguyên
nhân khác, đấy là: sự chia cắt của địa hình, sự khác biệt về ngôn ngữ, sự thiếu
thông tin từ bên ngoài, thiếu kỹ thuật, bùng nổ dân số, thiếu nguồn nhân lực được
đào tạo và sự tham gia một cách bị động vào các chương trình phát triển, thiếu
khả năng lập kế hoạch phát triển và sử dụng sai lầm tài nguyên thiên nhiên (Bùi
Dung Thể và cộng sự, 2004). Ngoài ra, việc thiếu đi tính rõ ràng về quyền sở hữu
tài sản của cá nhân và cộng đồng ở các khu vực nông thôn cũng là nguyên nhân
chính gây ra sự bấp bênh về sinh kế. Những cá nhân không có sự đảm bảo về
quyền tiếp cận đến nguồn tài nguyên thì ít khuyến khích họ quản lý đất đai một
cách bền vững cho các lợi ích tương lai. Họ không đủ tư cách để vay vốn, không
2
thể tiếp cận các dịch vụ khuyến nông và không có khả năng tiếp cận thị trường
cho việc bán sản phẩm của họ (dẫn từ Nguyễn Thị Kim Tài, 2006 [12]).
Trước thực trạng này, Chính phủ Việt Nam đã nhấn mạnh các nỗ lực cải
thiện sinh kế của người nghèo trên cơ sở duy trì các tiến trình chức năng và sức
sản xuất của đất đai và các loại tài nguyên thiên nhiên khác. Do đó, có thể giả
thiết rằng, sự hiểu biết cách thức mà người dân nhìn nhận và đánh giá giá trị của
tài nguyên thiên nhiên trong việc tạo ra sinh kế là tiền đề để nghiên cứu các động
cơ của các nỗ lực quản lý bền vững cơ sở tài nguyên của họ [11]. Từ sau thời
điểm “Đổi mới” (1986), nhà nước ta đã ban hành và triển khai hàng loạt chính
sách nhằm tăng cường quyền tiếp cận và sở hữu tài nguyên thiên nhiên của người
dân trên cả nước nói chung và các cộng đồng dân cư sống trong và gần rừng nói
riêng. Luật Đất đai (1993, 1998, 2003), luật Bảo vệ và phát triển rừng (1992 và
2004) đã hỗ trợ đắc lực cho người dân trong việc tự đưa ra những quyết định trên
mảnh đất của mình. Đó là quyền được chuyển nhượng, thế chấp, thừa kế, cho
thuê, quyền sử dụng đất, chuyển đổi quyền sử dụng, dùng đất góp vốn liên doanh,
được đền bù thành quả lao động và kết quả đầu tư theo giá thị trường và hiện
trạng sản xuất trong trường hợp bị thu hồi đất, được hưởng các chính sách hỗ trợ
của nhà nước trong việc bảo vệ và phát triển rừng.
Bên cạnh đó, Chính phủ cũng đã ban hành một số chính sách về tài chính
và tín dụng; về khuyến khích đầu tư; về định canh định cư; về y tế giáo dục; …
nhằm giúp đỡ, hỗ trợ người dân địa phương có được những nguồn lực để tạo ra
một sinh kế bền vững. Cùng với các chính sách trên, chính sách về giao đất
khoán rừng (theo Nghị định 01, 02, và 163; Quyết định 327 và 661 của Chính
phủ) cho các tổ chức và cá nhân đã đánh dấu một sự thay đổi lớn trong việc cải
thiện đời sống của người dân có cuộc sống phụ thuộc vào rừng và tăng độ che
phủ rừng trên toàn quốc. Kết quả đạt được từ việc thực hiện những chính sách
này đã góp phần đáng kể vào chiến lược phát triển bền vững vùng nông thôn trên
phương diện quốc gia.
3
Cùng với xu hướng này, nhiều nghiên cứu và chương trình về việc cải
thiện đời sống của người dân liên quan đến lĩnh vực lâm nghiệp cũng được thực
hiện trên phạm vi toàn quốc. Ngoài ra, các chương trình nghiên cứu còn nhấn
mạnh việc tạo động lực khuyến khích những người sử dụng trực tiếp các lợi ích
(sản phẩm và dịch vụ) mà tài nguyên rừng cung cấp để họ theo đuổi các phương
thức quản lý bền vững. Những kết quả từ các nghiên cứu và chương trình đều có
một nhận định chung rằng: khi người dân có được một sinh kế bền vững thì họ sẽ
không còn tác động vào tài nguyên rừng, và đến một lúc nào đó họ sẽ thấy được
sự cần thiết phải có những biện pháp để quản lý bảo vệ nguồn tài nguyên này cho
việc tạo ra một sinh kế mới [1]. Ở huyện Vĩnh Cửu, cũng đã có một số nghiên
cứu và chương trình được triển khai với nhiều nội dung khác nhau. Các nghiên
cứu này chỉ dừng lại ở mức độ tìm kiếm những giải pháp nhằm khuyến khích
người dân tham gia quản lý bảo vệ rừng, hoặc phân tích mức độ tham gia của
người dân trong các chương trình dự án. Tuy nhiên, chưa có một nghiên cứu nào
đi sâu phân tích hệ thống sinh kế của người dân; và cũng chưa có nghiên cứu nào
tiến hành tìm hiểu cách thức mà người dân nhìn nhận và đánh giá các giá trị của
tài nguyên rừng trong việc tạo ra sinh kế của họ.
Theo số liệu điều tra, trên địa bàn xã Mã Đà, huyện Vĩnh Cửu hiện có
1.725 hộ dân đang sinh sống. Diện tích đất sản xuất nông nghiệp và rừng trồng
chia bình quân theo hộ trên toàn xã là 1,53 ha/hộ và chia bình quân theo khẩu là
0,33 ha/ khẩu. Diện tích rừng tự nhiên trên địa bàn xã là 21.527,4 ha. Vì lẽ đó,
nguồn thu nhập từ hoạt động sản xuất nông nghiệp không thể đáp ứng đủ cho nhu
cầu đời sống của đa phần người dân ở đây. Do thiếu đất để sản xuất, cộng với
những tập quán sinh sống vốn phụ thuộc vào rừng. Điều đó đã dẫn đến tình trạng
một bộ phận lớn các hộ dân ở đây vẫn thường xuyên can thiệp bất hợp pháp vào
tài nguyên rừng để khai thác lâm sản nhằm thỏa mãn những nhu cầu của gia đình
họ. Nếu thực trạng này vẫn tiếp diễn, rừng trong khu vực sẽ bị suy thoái dần và
mất đi những giá trị quý báu của nó trong tương lai.
4
Theo quan điểm của nhiều nhà khoa học hiện nay, để đảm bảo thành công
trong quản lý rừng bền vững thì sự tham gia của các cộng đồng dân cư sống trong
và gần rừng là rất quan trọng. Như vậy, việc nghiên cứu phát triển kinh kế hộ của
cộng đồng địa phương, để hiểu rõ hơn về nhu cầu đời sống có phụ thuộc đến tài
nguyên rừng được xem như một yêu cầu tất yếu. Kết quả của việc nghiên cứu có
thể làm cơ sở cho việc xây dựng kế hoạch quản lý tài nguyên lâu dài có sự tham
gia tích cực của người dân sinh sống trong khu vực.
Vì vậy, đề tài “Nghiên cứu sinh kế của người dân địa phương có phụ
thuộc vào tài nguyên rừng tại xã Mã Đà thuộc Khu Bảo tồn thiên nhiên và Di
tích Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai” được đặt ra để tìm hiểu sâu những vấn đề nêu
trên bằng cách triển khai một nghiên cứu điển hình tại xã Mã Đà, thuộc Khu
BTTN và DT Vĩnh Cửu, huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai. Tại đây, vì những lý
do mang tính lịch sử mà người dân đã có cuộc sống phụ thuộc vào rừng, tuy
nhiên kể từ khi chuyển thành Khu BTTN mà trọng trách bảo tồn đặt lên hàng đầu
thì vấn đề có thể đã thay đổi. Bên cạnh đó, đề tài cũng tìm hiểu cách nhìn nhận
của người dân trong việc nhận ra và đánh giá về giá trị tài nguyên rừng, từ đó tạo
ra cơ sở ban đầu cho các nhóm hộ dân sống trong khu vực có những giải pháp
cho sinh kế không chỉ dựa vào tài nguyên rừng. Điều này sẽ tạo ra những động
lực khuyến khích cộng đồng địa phương tham gia vào việc quản lý bền vững cơ
sở tài nguyên cho sinh kế của họ.
Hy vọng rằng, những kết quả thu được từ đề tài này cũng có thể đóng góp
thêm tư liệu giúp các nhà chuyên môn, các nhà chức trách có những tham khảo
cần thiết trong tiến trình nghiên cứu và thiết kế các hệ thống quản lý nhằm hỗ trợ,
khuyến khích và tạo điều kiện cho các cộng đồng nông thôn có được một đời
sống bền vững dựa vào cách thức sử dụng và hoạt động quản lý tài nguyên rừng
của họ.
5
2. Câu hỏi cho nghiên cứu
Để làm rõ vấn đề khoa học, đề tài đưa ra một số câu hỏi cho nghiên cứu
như sau:
(1) Người dân địa phương đã và đang phụ thuộc như thế nào vào các
nguồn tài nguyên cho cuộc sống của họ? Họ sử dụng trực tiếp các nguồn tài
nguyên nào? Ít sử dụng các nguồn nào? Và không can thiệp gì đến nguồn tài
nguyên nào?
(2) Những khó khăn và thách thức nào có thể xảy ra đối với các nhóm hộ
người trong việc phát triển kinh tế gia đình của họ? Có những giải pháp hay chiến
lược nào để cải thiện sinh kế mà vẫn bảo vệ được tài nguyên rừng?
Đây cũng chính là các trọng tâm của luận văn và là vấn đề nghiên cứu mà
đề tài này đã đặt ra.
6
Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1 Khái niệm về sinh kế và khuôn mẫu của sinh kế bền vững
Sinh kế, dưới góc độ cách tiếp cận của người nghèo thực tế luôn đa dạng
và phức tạp. Thường những gia đình khác nhau sẽ thực hiện phương thức sinh kế
khác nhau để tăng thu nhập, giảm nghèo và tăng chất lượng cuộc sống. Các
phương thức sinh kế của người dân thường bao gồm một lượng thay đổi các hoạt
động khác nhau như: trồng trọt, làm vườn, khai thái tài nguyên, chăn nuôi, buôn
bán, … vốn thường ít được các nhà nghiên cứu quan sát thấy nếu chỉ dùng các
cuộc nghiên cứu truyền thống.
Một khung chương trình hữu hiệu dùng để phân tích sinh kế được phát
triển bởi DFID (1998)(dẫn theo Nguyễn Thị Kim Tài, 2006). Trong khung này,
sinh kế gồm có năng lực, tài sản (bao gồm cả tài nguyên vật chất và xã hội) và
các hoạt động cần thiết mà con người dùng để kiếm sống. Sinh kế của người dân
được chia thành năm loại tài sản (xem thêm hình 1.1). Thứ nhất là tài sản tự
nhiên gồm đất đai, rừng cây, nguồn nước và đồng cỏ. Thứ hai là tài sản vật chất
gồm: (i) tài sản tư nhân được sử dụng để gia tăng sức sản xuất của lao động và
đất đai như gia súc, công cụ, máy móc; (ii) tài sản công cộng như cơ sở hạ tầng
phục vụ phát triển kinh tế (như đường sá, nguồn điện) và xã hội (như trường học,
trạm y tế). Thứ ba là tài sản bằng tiền gồm nguồn tài chính mà con người có được
như tiền tiết kiệm, nguồn tín dụng và vốn có thể chuyển thành tiền. Thứ tư là
nguồn nhân lực gồm tình trạng sức khỏe, dinh dưỡng, giáo dục và kỹ năng làm
việc. Thứ năm là tài sản xã hội gồm tập hợp các mối quan hệ xã hội mà người
dân có thể dựa vào đó để mở rộng các phương thức sinh sống như quan hệ dòng
tộc, thân hữu, quan hệ chủ và người làm công, quan hệ tương hỗ, thành viên của
các tổ chức quần chúng và các đảm bảo khác [11].
7
Lƣợc đồ sinh kế bền vững
H = tài sản nhân lực
S = tài sản/vốn xã hội
N = tài sản tự nhiên
P = tài sản vật chất
F = tài sản/vốn tài chính
Đầu ra
sinh kế
bền vững:
Tài sản tạo sinh kế
tăng thu
nhập;
Sự
H
tăng phúc
Bối cảnh
Sự
chuyển
N
S
lợi; giảm
Các
với những
ảnh
tổn
phương
đổi cấu
yếu tố gây
hưởng
F
thương;
thức sinh
P
trúc và
tổn thương
và
cải thiện
kế
các tiến
tiếp
an ninh
lương
cận
trình
thực; sử
dụng bền
vững tài
nguyên
Hình 1.1: Lược đồ khung sinh kế bền vững của DFID (1998)
Theo Champers R. (1999), phương thức sinh kế chú trọng vào quản lý tài
nguyên, phân phối lại tài nguyên thiên nhiên phục vụ cho sinh kế, giá cả và tiêu
dùng, ngăn cản các hoạt động phá hoại và khuyến khích sự phát triển của hệ
thống tương trợ xã hội nhằm giúp người nghèo trong những thời điểm khó khăn.
Thuật ngữ “sinh kế” đề cập đến khả năng kiếm sống, bao gồm cả việc tiếp cận
các nguồn lực sẵn có và không sẵn có. Hầu hết phương thức sinh kế của người
nghèo đều dựa vào các hoạt động tạo thu nhập khác nhau, các nguồn thức ăn và
an ninh khác nhau. Một sinh kế bền vững đề cập đến một cuộc sống có đảm bảo
8
các nhu cầu cơ bản và có khả năng hạn chế hoặc khả năng chống lại các tác động
Bối cảnh,
Tài
Định chế:
Chiến
Kết
điều kiện
nguyên
tiến trình
lược sinh
quả: đời
và xu
cho sinh
và tổ
sống
kế
hướng
kế
chức
bền
vững
Đời sống
Chính sách
Tích sản
Định
Lịch sữ
Con người
Thâm canh
Số ngày
chế và
Tự nhiên
Chính trị
Quảng canh
công
tổ chức
Kinh tế/
Kinh tế
Độc canh
Giảm nghèo
Tài chính
Thương
Đa canh
Chất lượng
Vật lý
mại
Đa dạng hóa
cuộc sống
Khí hậu
Khai thác/hái
Thích
Xã hội
Sinh thái
lượm
ứng/giảm
nông
Sản xuất
tổn thương
nghiệp
Tính bền
Di cư
Dân số
vững
Phân hóa
xã hội
Phân tích
Phân tích
Phân tích
Phân tích
sinh kế
tính bền vững
nguồn lực
bối cảnh
gây sốc và các nguy cơ có thể xảy ra (dẫn theo Nguyễn Thị Kim Tài, 2006 [12]).
Phân tích định chế
Hình 1.2: Khung phân tích sinh kế bền vững của DFID (1998)
Nhìn chung, sinh kế được xem là bền vững khi chúng: (a) chống lại tác
động của các cú sốc hay áp lực từ bên ngoài; (b) không phụ thuộc vào trợ giúp
9
bên ngoài (hoặc nếu có, bản thân sự trợ giúp cũng cần bền vững về kinh tế và tổ
chức); (c) đảm bảo sự sản xuất và tái sản xuất dài hạn của tài nguyên thiên nhiên;
và (d) không bỏ qua và đánh giá thấp các lựa chọn sinh kế khác nhau của những
nhóm/thành phần khác nhau trong cộng đồng (DFID, 1998; dẫn theo Nguyễn Thị
Kim Tài, 2006). Nói cách khác, sinh kế bền vững là khả năng của con người
trong việc kiếm sống và nâng cao chất lượng cuộc sống mà không làm ảnh hưởng
đến việc lựa chọn sinh kế của người khác, dù cho ở hiện tại hay trong tương lai
[12].
1.2 Tài nguyên rừng và sinh kế của ngƣời dân
Theo phát biểu của Subinay Nandy (Hội nghị tư vấn quốc tế xây dựng Kế
hoạch hành động về bảo vệ môi trường 2006-2010, Hà Nội, 2005): “Sinh kế của
hầu hết người nghèo phụ thuộc vào các nguồn tài nguyên thiên nhiên như rừng,
nước và đất đai”... Sự sống của con người phụ thuộc vào việc quản lý và sử dụng
nguồn tài nguyên này. Thật vậy, tài nguyên rừng cung cấp một vài dạng tài sản
cho người dân và chúng có vai trò rất quan trọng. Ngoài việc cung cấp đất trong
trường hợp người dân thiếu đất, rừng cũng là nơi cung cấp cho họ các nguồn
năng lượng, lương thực, thuốc chữa bệnh cũng như các vật liệu để làm nhà, đóng
thuyền và vật liệu khác (Sato, 2000). Sato còn cho rằng, người dân sống dựa vào
rừng ở hai khía cạnh. Thứ nhất là phụ thuộc vào thu nhập, liên quan đến tổng thu
nhập và thu nhập họ có được bằng việc bán các sản phẩm từ rừng (hiểu đơn giản
là tiền); và thứ hai là sự phụ thuộc vào sinh kế, được tính toán bằng các loại sản
phẩm rừng sử dụng hàng ngày (trích từ Trần Đức Viên và các cộng sự, 2005
[15]).
Đối với nhân loại nói chung và các cộng đồng sống trong và gần rừng nói
riêng, tài nguyên rừng là một trong những nguồn thu nhập và sinh kế của họ.
Ngoài ra, rừng cũng đóng vai trò quan trọng trong đời sống văn hóa của người
dân. Theo Guha (1989), sự phụ thuộc của người dân vùng núi vào tài nguyên
rừng đã được thể chế hóa thông qua rất nhiều thể chế xã hội và văn hóa. Thông
10
qua tôn giáo, văn hóa và truyền thống, các cộng đồng bản địa đã tạo ra một vành
đai bảo vệ xung quanh rừng. Khi được tôn trọng và dưới các lễ nghi phù hợp, các
thế lực này sẽ duy trì sự ổn định và thịnh vượng cho cộng đồng (dẫn trong Trần
Đức Viên và các cộng sự, 2005). Như vậy, việc thừa nhận và hiểu rõ giá trị của
tài nguyên rừng có thể giúp mang lại các cơ hội kiếm sống, cải thiện điều kiện
dinh dưỡng, sức khỏe và nước sinh hoạt cho người nghèo. Nhìn chung, giá trị của
tài nguyên rừng được đánh giá thông qua các chức năng mà chúng cung cấp.
Chức năng của môi trường nói chung và tài nguyên rừng nói riêng được chia
thành các nhóm sau: (i) chức năng sản xuất; (ii) chức năng chuyển tải; (iii) chức
năng điều hòa; và (iv) chức năng văn hóa và thông tin (Trần Đức Viên và các
cộng sự, 2005 [14], [15]).
Tuy nhiên, các chức năng này tác động đồng thời lên nhiều người có các
nhu cầu và mối quan tâm khác nhau; những sản phẩm và dịch vụ mà một cơ sở
tài nguyên mang lại có thể cung cấp một cách không phân biệt, nhưng có thể
mang lại lợi ích khác nhau cho các nhóm liên quan khác nhau, tùy thuộc vào hệ
thống sinh kế và nhận thức về các giá trị của họ. Rừng còn có giá trị hơn nhiều
khi được quản lý và bảo vệ để cho những sản phẩm cơ bản. Nhưng tại sao người
dân vẫn tiếp tục canh tác đốt nương làm rẫy và làm những hoạt động khác xâm
hại đến tài nguyên rừng? Theo Davier và Richards, 1999 (dẫn theo Nguyễn Thị
Kim Tài, 2006), trường hợp này xảy ra là bởi sự khác nhau trong nhận thức về
giá trị của những người có được từ rừng. Giá trị của trữ lượng lấy ra được tính
theo đơn vị diện tích, trong khi đó những người dân địa phương thì tính theo giá
trị trên đơn vị nhân công mà yêu cầu để có được nhiều lợi nhuận. Do đó, các
nhóm liên quan khác nhau có thể có những hành vi ứng xử khác nhau và đôi khi
mâu thuẫn nhau trong việc sử dụng các sản phẩm từ tài nguyên thiên nhiên cho
sinh kế của họ [12].
11
1.3 Một số nghiên cứu và dự án liên quan đến sinh kế trên thế giới
Wilkes (2003) khi nghiên cứu về sinh kế của người dân ở Yunnan (Trung
Quốc) đã chỉ ra rằng, các loại tài sản là cái quyết định trong việc duy trì sinh kế.
Một sự hiểu biết tốt hơn về các tài sản sinh kế và tiến trình có lẽ là hữu ích hơn
trong việc xác định những can thiệp có liên quan mà khác với những can thiệp
quy ước tạo ra bởi những dự án. Ngoài ra, phân tích chức năng của các loại tài
sản sẽ đem đến một sự hiểu biết tốt hơn về vai trò của các tài sản trong sinh kế
nhằm đề xuất những cách lựa chọn để hỗ trợ sinh kế cho người dân địa phương
(dẫn theo Nguyễn Thị Kim Tài, 2006 [12]).
Dự án CAMPFIRE (Chương trình Cộng đồng Quản lý Các khu vực Tài
nguyên bản địa) ở Zimbawe đã được phát triển như là một nỗ lực nhằm cung cấp
cho các cộng đồng địa phương quyền tiếp cận, kiểm soát và chịu trách nhiệm
quản lý tài nguyên động vật hoang dã trên đất đai của họ. Các mục tiêu liên quan
là tạo quyền cho các cộng đồng để thực hiện các quyết định về các tài nguyên
này, đảm bảo rằng họ tiếp nhận một sự chia sẻ công bằng các lợi ích từ khai thác
tài nguyên và tăng cường sự hỗ trợ định chế ở cấp cộng đồng. Các hoạt động của
chương trình bao gồm việc lập kế hoạch săn bắt và quản lý lửa rừng của địa
phương, kiểm soát sự xâm nhập và các hoạt động khác liên quan đến động vật
hoang dã và phân phối thu nhập. Ở một số nơi, CAMPFIRE đã tạo ra những
thành công đáng kể, gia tăng thu nhập của các hộ gia đình và cộng đồng, giảm sự
xâm nhập và các vấn đề nảy sinh từ những sự tương tác với động vật hoang dã,
và tăng cường thái độ và phương thức bảo tồn của địa phương (IIED, 1994;
Murombedzi, 1992; Murphree, 1996; Scoones và Matose, 1993; trích từ Hoàng
Hữu Cải, 2006 [2]).
Như vậy, động cơ để những người sử dụng tài nguyên đầu tư vào việc
quản lý nếu như tài nguyên có thể đáp ứng một phần quan trọng nhu cầu của
những người sử dụng, nếu các lợi ích này có thể thu nhận nhanh chóng và đều
đặn. Trường hợp này thấy rõ nhất trong một cuộc điều tra các hệ thống bản địa
12
dựa trên nhóm sử dụng ở Nepal (Molnar, 1983). Kết quả của cuộc điều tra cho
thấy rằng, các nhóm sử dụng này chỉ có khả năng quản lý tích cực khi tài nguyên
đủ phong phú và cung cấp những lợi ích đáng kể. Nếu những người sử dụng cảm
nhận rằng, tài nguyên địa phương họ quá nghèo hay quá nhỏ để có thể tạo ra
lượng bù đắp cho các nỗ lực cần thiết để bảo vệ và quản lý nó, họ đã không có
khả năng để thực hiện sự đầu tư này. Với những dấu hiệu tương tự, rừng ở trạng
thái sẵn sàng đi vào sản xuất có khả năng cung cấp một động lực lớn hơn cho sự
quản lý tập thể ở địa phương so với các lô trồng cây gỗ chỉ mới được tạo ra sau
một vài năm (dẫn theo Hoàng Hữu Cải, 2006 [2]).
Ở Tây Bengal, chương trình các Ban Bảo vệ rừng thôn bản (VPC) đã được
thực hiện thành công hơn trong các khu vực có nhiều rừng sal, tái sinh nhanh và
sản xuất nhanh các lâm sản ngoài gỗ hơn là những nơi mà sự thu hoạch sản phẩm
phải tập trung vào các rừng trồng. Ngoài ra, việc quản lý nguồn tài nguyên có khả
năng mang lại hiệu quả cao hơn nếu tài nguyên gần với nhóm sử dụng và có thể
được giám sát dễ dàng. Một yếu tố khác nữa là hệ thống quản lý tài nguyên phải
dễ áp dụng bởi các nhóm sử dụng (dẫn theo Hoàng Hữu Cải, 2006 [2]).
1.4 Hệ thống chính sách và nghiên cứu sinh kế ở Việt Nam
Nhận thức được những ảnh hưởng to lớn của rừng đối với đời sống của
con người, trong những năm qua, Việt Nam đã có nhiều chính sách liên quan đến
bảo vệ và phát triển tài nguyên rừng và cải thiện đời sống người dân tại các vùng
nông thôn miền núi, để đảm bảo chiến lược phát triển kinh tế bền vững của đất
nước.
Luật bảo vệ và phát triển rừng ban hành năm 1991 đã cho phép giao đất
cho các hộ, đồng thời các hộ cũng có quyền cho thuê, chuyển nhượng, thừa kế,
thế chấp, và chuyển đổi quyền sử dụng diện tích đất được giao. Nghị định 64/CP
ban hành năm 1993, trao cho người dân quyền sử dụng đất lâu dài, 20 năm đối
với đất trồng cây hàng năm và 50 năm đối với đất trồng cây lâu năm và đất rừng.
13
Bắt đầu từ năm 1993, chương trình “phủ xanh đất trống đồi núi trọc” hay còn gọi
là chương trình 327 (Quyết định 327/CT ban hành tháng 9 năm 1992) cũng đã
triển khai một số hoạt động giao khoán bảo vệ rừng và trồng rừng. Khi người dân
trồng rừng, họ được cấp một khoản tiền công cho việc đóng góp lao động và các
khoản thu hoạch do tỉa thưa nhưng sản phẩm cuối cùng thuộc về chủ đầu tư. Nghị
định 02/CP được thông qua vào tháng 1/1994, Nghị định 163/NĐ-CP (nghị định
sửa đổi của Nghị định 02/CP), cho phép giao đất rừng đến các hộ ở miền núi
trong thời hạn 50 năm. Theo Nghị định 01/CP ban hành tháng 1/1995, những hộ
ký cam kết chăm sóc và bảo vệ rừng với các lâm trường quốc doanh sẽ được trả
thù lao theo định kỳ bởi cơ quan chăm sóc và bảo vệ rừng. Theo Trần Đức Viên
và các cộng sự (2005), những điều luật mới này đã phần nào tạo cho người dân
có được quyền quyết định trong việc đầu tư sản xuất trên mảnh đất của mình để
tạo ra thu nhập cho gia đình. Với nhiều nhà quan sát, hiệu quả chung nhất của
những chính sách này là sự suy giảm của hoạt động canh tác nương rẫy ở nhiều
vùng miền núi Việt Nam.
Trong nghiên cứu “Ảnh hưởng của khả năng tiếp cận đến sự lựa chọn sinh
kế đối với các nông hộ ở miền núi phía Bắc Việt Nam” thì Alther và các cộng sự
(2002) kết luận rằng, hệ thống giao thông thuận tiện cùng với việc tiếp cận thị
trường dễ dàng có ảnh hưởng tích cực đến kinh tế nông hộ. Nông dân ở những
nơi tiếp cận tốt sẽ có nhiều khả năng tăng thu nhập hơn là ở những vùng hẻo
lánh, và theo đó có chiều hướng giàu hơn. Tuy nhiên, đường giao thông đem lại
nhiều lợi ích cho người dân nhưng cũng có cái giá của nó. Người dân có cảm giác
là khi ở gần đường, sự tự chủ của họ bị đe dọa vì chính quyền có thể giám sát họ
chặt chẽ hơn. Họ có thể không thấy việc ở gần đường có lợi ích gì nếu như họ
cảm thấy lối sống và hệ thống sản xuất truyền thống của mình đang bị đe dọa.
Như vậy, việc tiếp cận đến chợ, thông tin và các cơ quan nhà nước có thể là
những lợi ích rất lớn cho nông dân, nhưng cần phải làm cho họ tin tưởng vào điều
này sau những gì đã trải qua [1].
14
Theo Subinay Nandy (2005): “Duy trì và tạo điều kiện tiếp cận với các
nguồn tài nguyên thiên nhiên chất lượng cao như rừng, đất đai và nước để hỗ trợ
cho sinh kế của nông dân, ngư dân và những người nông dân khác, …” là một
trong những nội dung mà Chính phủ Việt Nam cần phải đưa vào “Kế hoạch hành
động về bảo vệ môi trường”. Dưới hình thức quản lý tập trung Nhà nước, những
chính sách bảo vệ rừng, đặc biệt là về hưởng dụng đất hoặc giao đất, quyết định
ai là người có quyền tiếp cận với tài nguyên rừng. Ví dụ trường hợp của Việt
Nam, tất cả đất đai đều thuộc về Nhà nước và chính sách của Nhà nước về đất sẽ
xác định trạng thái sử dụng đất và quyền đối với đất. Vì thế, đất đai có ảnh hưởng
đến những gì mà người dân có thể làm, hoặc sinh kế hay nguồn vốn nào họ sẽ có.
Hơn thế nữa, Johnson và Barlowe (1954) coi đất là một tài nguyên tự nhiên có
những lợi ích trước mắt hoặc tiềm tàng đối với con người. Nó là một trong những
yếu tố quan trọng nhất của sản xuất nông nghiệp, đặc biệt là những người canh
tác nương rẫy, những người có ít cơ hội kiếm sống từ các hoạt động phi nông
nghiệp (trích từ Trần Đức Viên và các cộng sự, 2005 [14], [15]).
Nghị quyết 08/1997/QH10 và Quyết định 661QĐ-TTg được ban hành lần
lượt vào tháng 12/1997 và tháng 7/1998 nhằm xây dựng chương trình trồng rừng
quốc gia, thường được gọi là chương trình 661 hay chương trình 5 triệu hecta
rừng với 3 mục tiêu cơ bản: (1) trồng mới 5 triệu hecta rừng nhằm tăng diện tích
che phủ của rừng lên 43% giai đoạn 1998-2010; điều này góp phần vào bảo vệ
môi trường, giảm thiên tai, tăng nguồn nước, bảo vệ nguồn gen và đa dạng sinh
học; (2) sử dụng đất trống như một công cụ sản xuất để tạo việc làm, góp phần
xóa đói giảm nghèo; định canh định cư; tăng thu nhập của người dân tại các vùng
nông thôn miền núi, đặc biệt là người dân tộc thiểu số và đảm bảo ổn định chính
trị và xã hội, quốc phòng và an ninh, đặc biệt tại khu vực biên giới; và (3) cung
cấp gỗ cho các hoạt động công nghiệp, củi và các sản phẩm rừng khác cho nhu
cầu trong nước và sản xuất hàng xuất khẩu (Bộ NN&PTNT, 1998). Tóm lại, mục
tiêu của chương trình này nhằm biến rừng thành một nguồn đóng góp quan trọng
15
cho phát triển kinh tế - xã hội miền núi. Chương trình sẽ được thực hiện thông
qua các dự án và hoạt động có sự tham gia của người dân. Quyết định 661QĐ-
TTg nêu rõ “Nhân dân là lực lượng chủ yếu trồng, bảo vệ, khoang nuôi tái sinh
rừng và hưởng lợi ích từ nghề rừng ...”. Việc giải quyết thủ tục giao đất giao rừng
và trao giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (hay còn gọi là “sổ đỏ”) cho “các tổ
chức, hộ gia đình và cá nhân” cũng được đặc biệt quan tâm theo Nghị định
24/1999/CT-TTg [21], [27], [28].
Luật Bảo vệ và phát triển rừng năm 2004 được Quốc hội nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua năm 2004 và được sửa đổi năm 2008. Một
trong những điểm mới trong Luật là việc quy định cụ thể về quyền, nghĩa vụ của
các loại chủ rừng đối với rừng, đất để trồng rừng được Nhà nước giao, cho thuê.
Trên cơ sở quy định rõ về quyền sử dụng rừng, quyền sở hữu rừng, quyền và
nghĩa vụ của chủ rừng, đã đề cao trách nhiệm của chủ rừng đối với rừng được
giao, được thuê, rừng trồng thuộc quyền sở hữu của mình trong việc quản lý, bảo
vệ; phòng, chống cháy rừng; phòng, trừ sinh vật hại rừng; bước đầu tạo những
điều kiện ưu đãi, những động lực kinh tế cho các chủ rừng yên tâm đầu tư sản
xuất kinh doanh lâm nghiệp, bảo vệ và phát triển rừng ...
Theo Đặng Kim Sơn (2005), các chính sách đổi mới, khuyến khích trên đã
đem lại một số kết quả đáng khả quan trong việc phát triển miền núi, tình hình
sản xuất và đời sống của nhân dân trong vùng đã có nhiều biến đổi: (1) Sản xuất
nông lâm nghiệp tăng lên, tình trạng phá rừng hạn chế dần trong khi rừng trồng
mới tăng nhanh; bình quân trồng thêm 35,8 nghìn ha trong khi bị phá 3,23 nghìn
ha/năm. (2) Kết cấu hạ tầng nông thôn cải thiện rõ rệt, … (3) Đời sống nông dân
được cải thiện đáng kể: trên 50% có thu nhập cao hơn, 58% có nhà kiên cố và
bán kiên cố, 34% số hộ được dùng điện, số hộ đói nghèo giảm dần với mức 2-
3%/năm [11].
Theo Trần Đức Viên (2005), việc phân chia đất rừng cho các cộng đồng
người Thái tại Nghệ An đã giúp cộng đồng này ổn định thu nhập và do đó việc
16
bảo vệ rừng có tăng lên. Tuy nhiên, vẫn cần có những thay đổi để đạt mục đích
quản lý và bảo tồn tốt hơn tài nguyên rừng, và đem lại những sinh kế thay thế bền
vững hơn cho người dân sống gần rừng. Đó là phải phân quyền nhiều hơn, tập
trung nhiều hơn vào cải thiện sinh kế của người dân sống gần rừng và nâng cao
vai trò của tổ chức cộng đồng [14].
Sự thừa nhận vai trò của người dân địa phương được thể hiện trong chính
sách giao đất lâm nghiệp và giao khoán quản lý bảo vệ rừng. Các chính sách này
giải quyết một vấn đề rất cơ bản của quản lý bền vững: một khi quyền sử dụng
đất và quyền tiếp cận tài nguyên rừng của người dân được xác lập, các hệ thống
quản lý rừng bền vững dựa trên cơ sở cộng đồng địa phương được quan tâm phát
triển. Tuy nhiên, trong tiến trình triển khai thực hiện còn nhiều vấn đề cần phải
được nghiên cứu cụ thể (dẫn theo R. Sarou, 2004 [10]) như sau:
(1) Mối quan hệ giữa các cộng đồng và môi trường tài nguyên mà họ đang
phụ thuộc cần phải được xem xét ở nhiều góc độ, không gian và thời gian khác
nhau. Rừng và các giá trị văn hóa của từng dân tộc sinh sống trong vùng thường
gắn bó chặt chẽ với nhau. Tuy nhiên, việc bảo vệ rừng mang lại các lợi ích ở một
phạm vi không gian rộng lớn hơn. Do đó, kết hợp giữa các hoạt động bảo tồn tài
nguyên và phát triển đời sống người dân là một vấn đề phức tạp.
(2) Các hệ thống quản lý và phát triển rừng được đặt trên cơ sở nâng cao
nhận thức của người dân. Điều này đòi hỏi những hoạt động trao đổi thảo luận
với cộng đồng làm cho họ thấy được những giá trị đích thực của rừng, những
truyền thống tốt đẹp của từng dân tộc gắn bó với tài nguyên rừng và những vấn
đề bức bách đang đặt ra cho cộng đồng để họ cùng nhau suy nghĩ và bàn bạc giải
quyết vấn đề quản lý bảo vệ rừng.
(3) Sự tham gia tích cực và chủ động của các cộng đồng không phải tự
nhiên mà có. Để góp phần tham gia phát triển nông thôn một cách nhanh chóng
và có hiệu quả, các nhà nghiên cứu, cán bộ khuyến nông-khuyến lâm và các cơ
17
quan quản lý tài nguyên rừng ở địa phương đã và đang hoạt động rất tích cực
trong việc tìm hiểu các giải pháp tốt nhất và phù hợp nhất cho từng địa phương
mà họ đang công tác, nhằm giúp người dân ổn định cuộc sống của họ, đồng thời
tự nâng cao kiến thức và năng lực của các bên liên quan (nhà nghiên cứu và cán
bộ khuyến nông khuyến lâm và cán bộ quản lý). Nói cách khác, tiến trình thúc
đẩy sự tham gia của người dân đòi hỏi phải tạo ra một môi trường học tập để các
bên tham gia cùng có thể chia sẻ kiến thức, kinh nghiệm và ý kiến của mình với
nhau.
Tuy nhiên, không phải tất cả các chương trình hay dự án liên quan đến sự
tham gia đều thành công, và lâm nghiệp xã hội nói chung hay lâm nghiệp cộng
đồng nói riêng không phải là một thứ thuốc bách bệnh (Bùi Việt Hải, 2007 [7]).
Một nghiên cứu của Viên Ngọc Nam (1996) [9] về vai trò của nông hộ trong sự
tham gia quản lý tài nguyên rừng ngập mặn tại huyện Cần Giờ, Thành phố Hồ
Chí Minh cho thấy rằng, đây là một trường hợp điển hình trong đó một chương
trình tái tạo rừng rộng lớn đã được thực hiện, nhằm khôi phục hệ sinh thái rừng
ngập mặn sau chiến tranh. Nhưng trong giai đoạn về sau, việc bảo vệ khu rừng
này đã gặp không ít khó khăn. Vì những năm trước nay, rừng được bảo vệ bởi
những đơn vị của nhà nước, người dân địa phương không được huy động để
tham gia dù một phần vào trong những hoạt động lâm nghiệp và họ không hiểu
về những lợi ích của tài nguyên rừng ngập mặn đối với đời sống của họ. Người
dân sống trong khu vực rừng ngập mặn vẫn thường chặt phá rừng trái phép. Từ
đó, các mâu thuẩn xảy ra giữa người dân địa phương và những tổ chức quốc
doanh. Đây là lý do chính dẫn đến rừng ngập mặn Cần Giờ vẫn còn bị phá huỷ.
18
Chƣơng 2
ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN KINH TẾ VÀ XÃ HỘI
CỦA ĐỊA ĐIỂM NGHIÊN CỨU
2.1 Tiêu chí chọn địa điểm nghiên cứu
Việc lựa chọn địa điểm nghiên cứu được thực hiện thông qua sự cân nhắc
các tiêu chí như sau:
- Điều kiện sinh thái và các hoạt động cho cuộc sống của cộng đồng địa
phương đa dạng để có cơ hội nhìn nhận cách thức mà người dân thích ứng được
với những điều kiện sinh thái khó khăn, đồng thời đánh giá tính bền vững của các
phương thức sinh sống của họ.
- Điều kiện dân số và xã hội đa dạng, trong đó đặc biệt quan tâm đến các
cộng đồng thiểu số để có cơ hội học hỏi được những yếu tố về xã hội có ảnh
hưởng đến tiến trình thích ứng của cộng đồng địa phương trong sử dụng và quản
lý tài nguyên thiên nhiên.
- Những cộng đồng nghèo phụ thuộc vào rừng cho an toàn lương thực và
thu nhập, đặc biệt là những cộng đồng đang có các chương trình hay dự án của
nhà nước liên quan đến quản lý tài nguyên rừng và cải thiện đời sống cho người
dân, để có thể học hỏi kinh nghiệm triển khai các chương trình và dự án.
Thông qua những cuộc tiếp xúc được thực hiện với Ban giám đốc Khu
BTTN và DT Vĩnh Cửu, các điểm sau đây được đề nghị: (1) xã Hiếu Liêm; (2) xã
Mã Đà; (3) xã Vĩnh An của huyện Vĩnh Cửu. Tất cả các xã này vừa nằm trên địa
bàn huyện Vĩnh Cửu, vừa nằm trong phạm vi của Khu BTTN và DT Vĩnh Cửu.
Qua quá trình đánh giá sơ bộ, cuối cùng xã Mã Đà được xem là địa điểm thuận
tiện hơn và thõa mãn nhiều hơn về các điều kiện nêu trên và đã được chọn làm
địa bàn nghiên cứu.
19
2.2 Giới thiệu sơ lƣợc về điều kiện tự nhiên khu vực nghiên cứu
2.2.1 Phạm vi ranh giới
Khu Bảo tồn thiên nhiên và di tích (BTTN và DT) Vĩnh Cửu nằm về phía
Bắc của sông Đồng Nai, cách thành phố Biên Hoà khoảng 30 km về phía Bắc.
Khu BTTN được thành lập trên cơ sở diện tích của 3 lâm trường nằm liền nhau
là: Lâm trường Vĩnh An, Mã Đà và Hiếu Liêm. Về mặt hành chính, Khu BTTN
cũng nằm trên diện tích của 3 xã là: Mã Đà, Hiếu Liêm và Phú Lý.
Phạm vi ranh giới của Khu BTTN được giới hạn cụ thể như sau:
- Phía Bắc giáp tỉnh Bình Phước
- Phía Nam giáp sông Đồng Nai và hồ Trị An
- Phía Đông giáp hồ thủy điện Trị An và Vườn Quốc gia Cát Tiên
- Phía Tây giáp tỉnh Bình Dương và tỉnh Bình Phước
Toàn bộ diện tích của xã Mã Đà nằm trọn trong lâm phần của Khu
BTTN&DT Vĩnh Cửu. Tổng diện tích tự nhiên 27.497 ha. Trong đó diện tích
thuộc vùng quy hoạch rừng đặc dụng (vùng lõi): 23.654,5 ha chiếm 86% và diện
tích thuộc vùng quy hoạch rừng sản xuất (vùng đệm): 3.842,5 ha chiếm 14%.
Hiện trạng cụ thể như sau:
- Diện tích rừng tự nhiên : 21.527,4 ha
- Diện tích rừng trồng : 1.599,7 ha
- Diện tích đất nông nghiệp + Ao : 2.171,1 ha
- Diện tích đất trống LN (Ia, Ib, Ic) : 495,7 ha
- Diện tích đất khác (sông, suối, hồ...): 1.703,1 ha
2.2.2 Khí hậu thủy văn
Khu vực Vĩnh Cửu (tỉnh Đồng Nai) nằm trong khu vực có chế độ khí hậu
nhiệt đới gió mùa cận xích đạo, mang đặc trưng của khí hậu miền Đông Nam bộ,
mỗi năm có hai mùa rõ rệt là mùa mưa và mùa khô, nhiệt độ cao đều giữa các
tháng trong năm.
20
- Mùa mưa thường từ tháng 5 đến tháng 10; mùa khô từ tháng 11 đến
tháng 4 năm sau.
- Lượng mưa trung bình trong năm từ 2.000 đến 2.800 mm, lượng mưa
trong mùa mưa chiếm tới 80% lượng mưa cả năm.
- Nhiệt độ trung bình hằng năm từ 250C đến 270C, tháng cao nhất 350C
và tháng thấp nhất là 180C. Độ ẩm tương đối: 80 đến 82%;
- Hướng gió thịnh hành: Đông Bắc – Tây Nam.
- Ít có gió bão và gần như không có sương muối.
2.2.3 Địa hình đất đai
Nằm trong vùng địa hình chuyển tiếp từ cao nguyên Bảo Lộc xuống vùng
Đông Nam bộ. Địa hình trong khu vực thuộc dạng bán bình nguyên, với nhiều
vùng đồi thấp nối liền nhau, có độ nghiêng thấp dần từ Bắc xuống Nam và từ Tây
sang Đông. Độ cao so với mực nước biển lớn nhất là 95 m, thấp nhất là 55 m. Độ dốc trung bình 60 đến 80.
Theo kết quả điều tra thổ nhưỡng của các đơn vị chuyên môn (Trường Đại
học Nông Lâm TP. Hồ Chí Minh và Phân viện Điều tra quy hoạch Lâm nghiệp
Nam Bộ), trong khu vực bao gồm các nhóm đất chính sau [24]:
- Nhóm đất Podzolit phát triển trên phù sa cổ phân bố ven các suối lớn
và ven hồ thủy điện Trị An. Nhóm này có diện tích ít hơn và được quy hoạch cho
phát triển nông nghiệp hay chăn nuôi.
- Nhóm đất Feralit đỏ vàng phát triển trên sa phiến thạch. Đây là nhóm
đất chủ yếu và phổ biến nhất. Nhóm đất này có độ phì trung bình, tầng đất mỏng,
có tầng kết von chặt hoặc kết von giả hay kết sỏi.
2.2.4 Tài nguyên rừng và đất rừng
Từ kết quả rà soát, quy hoạch 3 loại rừng theo chỉ thị số: 38/2005/CT-TTg
ngày 5/12/2005 của Thủ tướng Chính phủ, được UBND tỉnh Đồng Nai phê duyệt
21
tại quyết định số 4505/QĐ-UBND, ngày 29/12/2008 thì tổng diện tích quản lý và
hiện trạng sử dụng đất của Khu BTTN&DT Vĩnh Cửu được dẫn ra như sau [29].
Bảng 2.1: Hiện trạng sử dụng đất của Khu BTTN&DT Vĩnh Cửu
Diện tích (ha)
TT Hạng mục Rừng đặc Rừng sản Tổng dụng xuất
Tổng diện tích tự nhiên 67.903,3 59.809,9 8.093,4
1 Đất có rừng 56.997,2 53.452,9 3.544,3
- Rừng tự nhiên 52.237,5 50.859,5 1.378,0
- Rừng trồng 4.759,7 2.593,4 2.166,3
2 Đất chưa có rừng 10.906,1 6.357,0 4.549,1
- Đất trống (Ia+Ib+Ic) 4.269,6 3.576,0 693,6
- Đất khác (NN, ao hồ, đường...) 6.636,5 2.781,0 3.855,5
- Diện tích rừng giàu, rừng trung bình chỉ chiếm 6,5%, còn lại là diện
tích rừng nghèo, rừng non chiếm tới 93,5% diện tích rừng tự nhiên.
- Chất lượng rừng bị suy giảm nghiêm trọng, trữ lượng rừng thấp, kết
cấu của rừng bị phá vở từng mảng lớn, thành phần các loài thực vật quý hiếm,
đặc hữu, những loài cây gỗ lớn bị giảm sút nhiều.
Về thành phần thực vật: Trong tổng số diện tích rừng tự nhiên có gần 95%
là diện tích rừng gỗ thuộc kiểu rừng lá rộng thường xanh, mưa ẩm nhiệt đới, có
nhiều loài cây có giá trị kinh tế cao như: Dầu song nàng (Dipterocarpus dyeri),
Xuân thôn (Swietenia macrophylla King), Vên vên (Anisoptera costata), Gõ đỏ
(Afzelia xytocarpa), Gõ mật (Sindora siamesis var siamesis), Cẩm lai Đồng Nai
(Dalbergia dongnaiense), Lười ươi (Scaphium macropodium)…. trong đó các
loài cây họ Dầu chiếm ưu thế. Phần diện tích còn lại (gần 5%) là rừng hỗn giao
gỗ - lồ ô, tre nứa (Dự án đầu tư Khu DTTN, 2004 [24]).
22
Về thành phần động vật: Là khu vực có rừng tự nhiên nối liền với Vườn
quốc gia Cát Tiên nên đây cũng là vùng sinh sống và di trú của các loài động vật
hoang dã có giá trị kinh tế và khoa học. Theo thống kê chưa đầy đủ, trên địa bàn
có sự xuất hiện của nhiều loài động vật quý như: voi, hổ, bò tót, voọc... và các
loài động vật khác (Dự án đầu tư Khu DTTN, 2004 [24]).
Từ những thông tin trên cùng với những thông tin về vị trí địa lý, vùng
phân bố của xã Mã Đà như đã trình bày, chúng ta thấy tỷ lệ rừng tự nhiên còn lại
trong khu vực rất cao (76%), tài nguyên động, thực vật rừng trong khu vực có sự
đa dạng, phong phú. Đây cũng chính là nguồn tài nguyên dự trữ cho mục đích
bảo tồn ĐDSH; đồng thời có thể khai thác một loại lâm sản để tăng nguồn thu
của các cộng đồng dân cư sống trong và gần rừng nói chung, của người dân thuộc
xã Mã Đà nói riêng.
2.3 Giới thiệu sơ lƣợc về tình hình dân sinh kinh tế của xã Mã Đà
2.3.1 Sơ lƣợc về dân số, dân tộc và lao động
Tổng dân số 1.725 hộ với 7.959 khẩu, số khẩu trung bình/ hộ là 4,6. Trong
đó: số hộ sống trong vùng quy hoạch rừng đặc dụng: 474 hộ, chiếm 27,5%; số hộ
sống ở vùng quy hoạch rừng sản xuất: 1.251hộ, chiếm 72,5%.
Thành phần dân tộc: Trên địa bàn xã có 10 dân tộc sinh sống, trong đó:
dân tộc Kinh chiếm đa số 97,16%, dân tộc Ch’ro 0,75%, dân tộc Khơ Me chiếm
0,58%, dân tộc Hoa và dân tộc Thổ cùng chiếm 0,35%, dân tộc Tày chiếm
0,29%, dân tộc Nùng và dân tộc Chăm cùng chiếm 0,17%, dân tộc Mường chiếm
tỷ lệ 0,11% và dân tộc Stiêng chỉ chiếm tỷ lệ 0,06%.
Tổng số nhân khẩu trong độ tuổi lao động là 4.752 người, trong đó phân
theo giới tính: nam (52%) và nữ (48%); trong đó phân theo ngành nghề: lao động
nông lâm nghiệp (95%), lao động thương mại, dịch vụ và lao động khác (5%).
23
Trình độ văn hoá: Đa phần lao động có trình độ văn hoá cấp tiểu học
hoặc phổ thông cơ sở, một số lao động có trình độ văn hoá phổ thông trung học,
không qua đào tạo chuyên
2.3.2 Sơ lƣợc về tình hình kinh tế - xã hội
Dân cư toàn xã Mã Đà được phân thành 7 ấp, thường những ấp có dân số
thấp thì số hộ có thu nhập trung bình và giàu cao hơn những ấp có dân số cao.
Diện tích đất sản xuất nông nghiệp và rừng trồng (đã giao khoán cho dân)
chia bình quân theo hộ trên toàn xã là 1,53 ha/ hộ và chia bình quân theo khẩu là
0,33 ha/ khẩu.
Là một xã mới được thành lập (năm 2003) thuộc vùng sâu, vùng xa của
một huyện miền núi. Mặc dù trong những năm qua, chính quyền địa phương các
cấp có chú trọng chăm lo phát triển kinh tế cho các cộng đồng dân cư bằng những
chính sách ưu đãi như: cho vay vốn xóa đói giảm nghèo, hỗ trợ kỹ thuật phát
triển sản xuất chăn nuôi một số giống cây trồng vật nuôi phổ biến và hướng dẫn
gia công một số mặt hàng tiểu thủ công nghiệp. Do xuất phát điểm về khả năng,
tiềm lực kinh tế còn thấp; bên cạnh đó nguồn nhập liệu đầu vào để phát triển các
mô hình sản xuất kinh doanh cho người dân còn bị ràng buộc bởi những quy chế
khắt khe về quản lý và sử dụng các nguồn tài nguyên tại các khu rừng đặc dụng
nên nhìn chung, điều kiện kinh tế của đa phần người dân vẫn còn nhiều khó khăn,
thiếu thốn, nhất là vào những thời gian nông nhàn, giáp hạt.
Tại xã Mã Đà hiện nay đã được Nhà nước đầu tư xây dựng trạm y tế khang
trang, có quy mô 10 giường bệnh với biên chế 1 bác sĩ, 3 y sĩ và 2 y tá.
Cơ sở giáo dục trên địa bàn xã bao gồm: Truờng Tiểu học + PTCS (1
trường), Trường mầm non (1 điểm chính và 5 phân hiệu).
Đa phần lao động có trình độ văn hoá cấp tiểu học hoặc phỗ thông cơ sở,
một số lao động trình độ văn hoá phổ thông trung học, không qua đào tạo chuyên
môn kỹ thuật, lao động chân tay là chính.
24
Chƣơng 3
MỤC TIÊU, ĐỐI TƢỢNG, NỘI DUNG VÀ
PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1 Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu chung:
Cải thiện sinh kế người dân địa phương dựa trên cơ sở nguồn tài nguyên
rừng của Khu BTTN và DT hiện có, các chính sách hiện hành của nhà nước liên
quan đến quản lý bảo vệ rừng và các mối quan hệ xã hội của cộng đồng tại nơi
đang sinh sống.
Dựa trên các câu hỏi nghiên cứu và mục tiêu chung, 4 mục tiêu cụ thể của
nghiên cứu được xác định là:
1. Mô tả hệ thống sinh kế của các nhóm người dân khác nhau nhằm tìm
hiểu và phân tích cách thức nhìn nhận và đánh giá của họ về giá trị các tài sản tạo
ra sinh kế, nhấn mạnh đến giá trị và tầm quan trọng của tài nguyên rừng.
2. Xác định được những sinh kế chính mà các nhóm người dân xã Mã Đà
đang sử dụng có phụ thuộc vào tài nguyên rừng, nhấn mạnh đến mức độ của sự
phụ thuộc vào tài nguyên rừng.
3. Phân tích ảnh hưởng của các điều kiện tự nhiên và xã hội đến khả năng
tiếp cận của các nhóm người dân đối với các loại tài sản tạo ra sinh kế và hệ quả
của những sinh kế đó gây ảnh hưởng đến tài nguyên rừng của Khu BTTN và DT
Vĩnh Cửu.
4. Dựa trên các kết quả có được, đề xuất một số giải pháp nhằm giúp người
dân trong khu vực tạo ra một sinh kế bền vững, đồng thời khuyến khích họ quản
lý và bảo vệ tài nguyên rừng tốt hơn.
25
3.2 Đối tƣợng và giới hạn nghiên cứu
3.2.1 Đối tƣợng nghiên cứu
Đề tài này sẽ tập trung vào các vấn đề liên quan đến sinh kế và quản lý
rừng tự nhiên để tạo sinh kế bền vững ở một địa phương cấp xã thuộc huyện
Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai. Tầm quan trọng của tài nguyên rừng đối với con
người hiện đã được nhìn nhận một cách rộng rãi và ngày càng gia tăng. Song,
trong giới hạn của một Khu BTTN, sự đòi hỏi ngày càng cao của tính ĐDSH và
sự phát triển dân số ngay trong khu vực đã là một mâu thuẫn, điều đó đã phát
sinh một thử thách tiềm ẩn giữa bảo vệ môi trường và phát triển sinh kế. Dựa
trên mối quan hệ qua lại giữa tài nguyên rừng, các yếu tố xã hội và sinh kế của
người dân, đề tài xác định có 3 nhóm đối tượng chính:
Thứ nhất, tất cả các sinh kế đều có xuất phát từ vật chất mà cụ thể ở đây
là tài nguyên rừng. Rừng tự nhiên ở khu vực thượng nguồn sông Đồng Nai giữ
vai trò tích cực, vừa thực hiện chức năng năng phòng hộ và vừa là nguồn lực
sản xuất vật chất (cung cấp nguyên vật liệu và an toàn lương thực) cho cộng
đồng cư dân trong vùng. Tuy nhiên, trong những thập kỷ gần đây, nhìn chung
rừng tự nhiên luôn bị tác động bởi các áp lực của chính con người.
Thứ hai, tất cả những yếu tố liên quan đến chính sách, tổ chức và định
chế mang tính xã hội cũng can thiệp trực tiếp vào cuộc sống người dân, gần hơn
đó chính là các yếu tố như tổ chức của cộng đồng, vai trò của các bên liên quan
đang có quan hệ trực tiếp đến sinh kế của các hộ gia đình. Nói cách khác, các
mối quan hệ xã hội và những ràng buộc liên quan tới nó ở tầm xa (chính sách,
xã hội) và cả tầm gần (định chế, cộng đồng, các bên liên quan) đều được xem là
đối tượng của nghiên cứu này.
Thứ ba, nghiên cứu sinh kế của các nhóm người dân trong cộng đồng thì
dĩ nhiên cộng đồng địa phương phải được xem là đối tượng chính của các mối
quan hệ này. Tuy nhiên, làm thế nào để huy động các cộng đồng có cuộc sống
26
phụ thuộc vào tài nguyên rừng tham gia tích cực và có hiệu quả vào công cuộc
bảo tồn và phát triển tài nguyên rừng, để từ đó tài nguyên rừng đem lại một sinh
kế bền vững vẫn là một câu hỏi đầy thử thách.
3.2.2 Giới hạn nghiên cứu
Về đối tượng tài nguyên rừng, đề tài nghiên cứu chủ yếu ở đối tượng sản
xuất vật chất cho sinh kế là rừng và đất rừng tự nhiên trong Khu BTTN, mà
không quan tâm tới phạm vi địa lý và đơn vị bảo vệ (tiểu khu, khoảnh) về mặt
tài nguyên. Về các quan hệ xã hội cũng giới hạn trong phạm vi cộng đồng của
các thôn đang sống trong hay gần rừng tự nhiên, không quá chú trọng vào các
bên liên quan như Ban quản lý Khu BTTN, Sở NN&PTNT mặc dù họ là đơn vị
quản lý trực tiếp tài nguyên rừng.
Về nội dung nghiên cứu, đề tài giới hạn ở 4 nội dung tương ứng với 4
mục tiêu đã nêu, tất cả đều xoay quanh “tam giác” tài nguyên rừng – xã hội –
cộng đồng và chỉ có một điểm chung là sinh kế.
3.3 Nội dung nghiên cứu
Để đạt được các mục tiêu nghiên cứu đã đưa ra ở trên, một số nội dung mà
đề tài cần thực hiện là:
(1) Hiện trạng kinh tế xã hội và hệ thống sinh kế của ngƣời dân địa
phƣơng tại xã Mã Đà
- Hiện trạng đời sống kinh tế, xã hội của cộng đồng người dân xã Mã Đà
- Hệ thống sinh kế của người dân và giá trị các loại tài sản hiện có để tạo
ra sinh kế.
(2) Mức độ phụ thuộc vào tài nguyên rừng cho sinh kế của các nhóm
hộ dân xã Mã Đà
- Sự phụ thuộc vào tài nguyên rừng cho sinh kế, đánh giá của người dân về
giá trị và tầm quan trọng của tài nguyên rừng trong việc tạo ra sinh kế.
27
- Những thuận lợi, khó khăn, cơ hội và thách thức ảnh hưởng đến khả năng
tiếp cận các tài sản tạo ra sinh kế của các nhóm liên quan.
(3) Phân tích mối quan hệ qua lại giữa sinh kế và tài nguyên rừng
trong quản lý và sử dụng tài nguyên rừng
- Ảnh hưởng của bối cảnh tự nhiên, tiến trình và cấu trúc cộng đồng tại
khu vực nghiên cứu có ảnh hưởng tới sinh kế.
- Ảnh hưởng của các loại sinh kế đến nguồn tài nguyên rừng của Khu
BTTN và DT Vĩnh Cửu.
(4) Đề xuất một số giải pháp cho sinh kế bền vững tại cộng đồng địa
phƣơng xã Mã Đà
- Một số giải pháp nhằm đảm bảo sinh kế bền vững cho người dân đang
sinh sống tại địa phương.
- Xây dựng khung sinh kế bền vững tại địa phương
3.4 Phƣơng pháp nghiên cứu
3.4.1 Cách tiếp cận
Với các nội dung nghiên cứu đã xác định trên đây, nghiên cứu này sẽ sử
dụng cách tiếp cận nghiên cứu có sự tham gia là chính nhằm đánh giá tổng hợp
các vấn đề về môi trường - dân sinh - kinh tế - xã hội trên quan điểm hệ thống,
làm cơ sở xây dựng một khung sinh kế bền vững theo nguyên tắc có sự tham gia
của người dân. Sự lựa chọn cách tiếp cận này đặt ra yêu cầu thu thập thông tin
theo quan điểm của các nhóm liên quan khác nhau trong bối cảnh của khu vực
nghiên cứu. Do đó, nghiên cứu này dừng lại ở mức phát hiện và xác minh các vấn
đề mà không phải là đánh giá định lượng các vấn đề đang đặt ra cho hệ thống
quản lý rừng hiện tại.
Tóm lại, phương pháp tiếp cận tổng quát ở đây là:
28
- Thu thập thông tin về dòng thời gian, dân số, hiện trạng phân bố dân cư,
diện tích đất sản xuất và mức thu nhập từ các hoạt động sản xuất của những
người dân thuộc cộng đồng dân cư xã Mã Đà.
- Điều tra thông tin liên quan đến những sinh kế hiện tại của người dân xã
Mã Đà thường sử dụng, mà những sinh kế đó có phụ thuộc vào tài nguyên rừng
của Khu Bảo tồn Thiên nhiên và Di tích Vĩnh Cửu.
- Phân tích nguyên nhân dẫn đến sự xuất hiện những sinh kế của cộng
đồng dân cư xã Mã Đà có phụ thuộc vào tài nguyên rừng, và hệ quả của những
sinh kế đó đối với rừng của Khu Bảo tồn Thiên nhiên và Di tích Vĩnh Cửu.
- Sử dụng phương pháp lấy mẫu với đơn vị là hộ gia đình, sau đó xử lý,
phân tích và tính toán trên mẫu rồi trên cớ sở đó suy ra cho tổng thể là cộng đồng
nghiên cứu.
3.4.2 Phƣơng pháp thu thập thông tin
- Thu thập thông tin thứ cấp về điều kiện tự nhiên - kinh tế - xã hội của địa
bàn nghiên cứu từ một số nghiên cứu đã được thực hiện như: các báo cáo hàng
năm, tài liệu của các dự án phát triển liên quan đến đề tài nghiên cứu. Nguồn
thông tin thứ cấp này được thu thập tại các đơn vị hay cơ quan có liên quan như:
UBND, các tổ chức phòng ban ở cấp huyện và xã.
- Quan sát trực tiếp giúp thu thập thông tin và kiểm chứng một số thông tin
thu thập được liên quan đến hiện trạng sử dụng đất và cách thức quản lý tài
nguyên thiên nhiên của cộng đồng tại khu vực nghiên cứu.
- Kết hợp phỏng vấn chuyên sâu để thu thập thông tin từ những người đưa
tin then chốt như: chủ tịch xã, các trưởng thôn, già làng, … và các cá nhân khác ở
địa phương. Thiết kế một bảng câu hỏi về các vấn đề nghiên cứu nhằm phục vụ
cho việc phỏng vấn bán định hướng. Đơn vị hỏi là hộ gia đình. Các câu hỏi phần
lớn được thiết kế ở dạng đóng (xem phần phụ lục 1).
29
- Dung lượng mẫu quan sát (đơn vị hộ) [12]:
trong đó:
- n: số hộ cần điều tra, N: tổng số hộ hiện có
- t: hệ số tin cậy của kết quả (t = 1,64)
- d: sai số mẫu (10%) - S2: phương sai mẫu (0,25)
Với tổng số hộ (N) của xã Mã Đà là 1.725 hộ, do đó n tính được khoảng
66 hộ. Để đảm bảo độ tin cậy, chúng tôi sẽ rút gấp đôi số này, tức tương đương
với 8% số hộ của tất cả 6 ấp nằm trong khu vực vùng đệm của KBT (trừ ấp 1 ở
ngoài KBT).
Kết quả đã có 132 hộ gia đình đang định cư ở 6/7 ấp của xã Mã Đà được
rút ngẫu nhiên và số hộ rút ra ở từng ấp cũng xấp xỉ theo tỷ lệ mẫu chung. Số
lượng hộ điều tra cụ thể là: ấp 2: 15 hộ, ấp 3: 12 hộ, ấp 4: 27 hộ, ấp 5: 48 hộ, ấp
6: 10 hộ và ấp 7: 20 hộ (chi tiết ở phụ lục 1).
- Sử dụng một số công cụ PRA (Participatory Rural Appraisal) để thu thập
và phân tích thông tin, cụ thể như sau:
Sử dụng các loại bản đồ (có sẵn hoặc vẽ nháp) để tiếp cận các đối ưtợng
nghiên cứu, các nguồn tài nguyên thiên nhiên (đất, nước, động thực vật
rừng, ...) trong khu vực.
Vẽ sơ đồ phác thảo khu vực nghiên cứu và đi lát cắt nhằm tìm hiểu hiện
trạng sử dụng đất đai và các loại tài nguyên thiên nhiên trong khu vực,
đồng thời đánh giá tiềm năng sử dụng tài nguyên thiên nhiên của cộng
đồng địa phương.
30
Sử dụng công cụ dòng thời gian để thấy được những sự kiện xảy ra trong
quá khứ và ảnh hưởng của nó đến đời sống, tình hình sản xuất, sử dụng
nguồn lực, ...của cộng đồng địa bàn nghiên cứu.
Phân loại hộ gia đình (có thể phân chia theo cách sử dụng tài nguyên thiên
nhiên, theo thành phần dân tộc, hoặc theo mức sống) để từ đó xác định
những nhóm liên quan khác nhau.
Họp dân (theo nhóm quan tâm) để thảo luận chuyên sâu về một vấn đề nào
đó (ví dụ SWOT), để tổng kết và kiểm chứng các thông tin và công cụ đã
thu thập được.
3.4.3 Phƣơng pháp xử lý và phân tích thông tin
Công cụ hỗ trợ cho xử lý và phân tích dữ liệu là phần mềm Excel 2003 và
SPSS 15.0. Số liệu nhập vào bảng tính theo các hàng và các cột, ở đó hàng là hộ
gia đình và cột là biến chỉ tiêu. Dữ liệu nhập vào là các mã ứng với các mức có
được đã xác định ở bảng câu hỏi nếu là định tính (ví dụ: giới tính, dân tộc, loài
vật nuôi hay cây trồng, v.v.) hoặc số liệu khai báo nếu là định lượng (ví dụ: năng
suất, thu nhập, đầu tư, chi phí). Ghi chú các loại mã hoá cho từng biến.
Có 3 phương pháp phân tích số liệu thống kê được áp dụng trong đề tài
này là:
- Xác định tần số (hộ gia đình) hay tỷ lệ (%) cho từng vấn đề theo nguyên
tắc số đông (tức tần số gặp nhiều hơn). Nói cách khác là phân bố số hộ theo chỉ
tiêu nghiên cứu, ví dụ: phân bố số hộ theo lao động, nhà ở, tài sản, diện tích, tín
dụng, năng suất, thu nhập, ... (phụ lục 2.1). Số liệu trình bày thường biểu thị dưới
dạng tỷ lệ %.
- Xác định mối quan hệ phụ thuộc giữa các biến định tính hay giữa biến
định lượng với biến định tính (qua số liệu đã được mã hoá) bằng phương pháp
trắc nghiệm thống kê Chi-square, ví dụ như: quan hệ phụ thuộc của độ tuổi lao
31
động với dân tộc, trình độ theo giới tính, thu nhập với dân tộc, thu nhập với tuổi
lao động, ... (phụ lục 2.2).
- Xác định mối quan hệ phụ thuộc giữa các biến định lượng với nhau bằng
phương pháp tính và trắc nghiệm ý nghĩa của hệ số tương quan (qua số liệu khai
báo), ví dụ: quan hệ tương quan giữa tổng thu nhập với thu nhập từ các nguồn
khác nhau, thu nhập từ rừng với các loại khác nhau, tương quan giữa thu nhập và
đầu tư, ... và xác định hàm số hồi quy nếu cần (phụ lục 2.3).
Ngoài ra:
Phân tích nguồn sinh kế (gồm các nhóm sinh kế đã và đang tồn tại mang
tính ngành nghề, mỗi nhóm lại bao gồm các loại sinh kế), phân tích nguồn
tài sản tạo sinh kế theo phân loại của DFID và tìm hiểu nguyên nhân của
vấn đề.
Xác định, phân loại và xếp hạng bằng cách cho điểm các giá trị của tài
nguyên rừng theo các nhóm liên quan khác nhau, từ đó chọn ra được chức
năng môi trường ưu tiên theo từng nhóm để sử dụng.
Họp riêng các nhóm liên quan khác nhau để xác định, thảo luận các cách
thức sử dụng và quản lý tài nguyên thiên nhiên theo quan điểm hay cách
nhìn của họ.
Phân tích SWOT để xác định điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và nguy cơ
trong việc sử dụng và quản lý tài nguyên thiên nhiên cho sinh kế của các
nhóm liên quan.
3.4.4 Tóm tắt các phƣơng pháp nghiên cứu cho từng nội dung
Chúng tôi tổng hợp các phương pháp cho từng nội dung nghiên cứu theo
khung logic như sau:
32
Mục tiêu Nội dung chính Phương pháp và công cụ
- Phỏng vấn đóng (bảng câu hỏi đóng)
1- Mô tả hệ thống sinh kế của các nhóm người dân.
- Phân tích nguồn sinh kế (nhóm sinh kế và tài sản tạo sinh kế)
1- Hiện trạng sinh kế và hệ thống sinh kế của người dân địa phương tại xã Mã Đà.
- Xác định tỷ trọng thu nhập từ rừng so với tổng thu nhập.
- Phỏng vấn bán định hướng (kết hợp với bảng câu hỏi)
2- Xác định những sinh kế chính có phụ thuộc vào tài nguyên rừng. - Phân loại và xếp hạng giá trị của tài nguyên rừng
2- Tầm quan trọng của tài nguyên rừng và mức độ phụ thuộc vào tài nguyên rừng để cho sinh kế. - Phân tích SWOT
- Thảo luận nhóm quan tâm
- Phỏng vấn bán định
hướng
- Phân tích bối cảnh, tiến trình và cấu trúc
- Ảnh hưởng của các nguồn lực tự nhiên và xã hội đến các loại tài sản tạo ra sinh kế.
-Ảnh
- Phân tích các mối quan hệ định tính (bằng Chi-square) và quan hệ định lượng (bằng hệ số tương quan R)
3- Phân tích bối cảnh, tiến trình trúc cộng và cấu đồng ảnh hưởng đến khả năng tiếp cận các loại tài sản tạo ra sinh kế và hệ quả của chúng đối với tài nguyên rừng. hưởng của các nhóm sinh kế đến quản lý và sử dụng tài nguyên rừng. - Thảo luận nhóm quan tâm
- Dựa vào các kết quả phân tích của nội dung 1, 2 và 3.
4- Đề xuất một số giải pháp cho sinh kế bền vững tại địa phương. - Phân loại và xếp hạng giá trị của tài sản tạo sinh kế
4- Đưa ra một số kiến nghị hay giải pháp thực tiễn nhằm giúp người dân trong khu vực tạo ra một sinh kế bền vững. - Tổng hợp và so sánh để tìm ra giải pháp tốt hơn.
33
Chƣơng 4
KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
4.1 Hiện trạng đời sống kinh tế xã hội và hệ thống sinh kế của cộng đồng
dân cƣ xã Mã Đà
4.1.1 Hiện trạng về đời sống kinh tế và xã hội
4.1.1.1 Dòng thời gian và chiều hướng
Bằng phương pháp sử dụng công cụ Dòng thời gian, chúng tôi đã tiến hành
phỏng vấn những người cao tuổi trong ấp, cùng với việc tham khảo các thông tin
thứ cấp để tái hiện những sự kiện thay đổi có ý nghĩa, ảnh hưởng đến cách kiếm
sống, tập quán sinh hoạt, phương thức sử dụng tài nguyên đã diễn ra tại cộng
đồng theo từng mốc thời gian cụ thể. Kết quả:
(1) Năm 1977: Lâm trường Mã Đà được thành lập (theo Quyết định số:
515/QĐ.UBT, ngày 10/6/1977 của UBND tỉnh Đồng Nai).
(2) Năm 1978: Nhà nước khởi công xây dựng Nhà máy thủy điện Trị An
nằm trên địa phận huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai.
(3) Năm 1992-1993: Lâm trường Mã Đà thay đổi cơ chế hoạt động từ tập
trung bao cấp sang doanh nghiệp hạch toán độc lập. Triển khai thực hiện những
dự án nông lâm nghiệp theo tinh thần của chương trình 327.
(4) Năm 1997: Lâm trường Mã Đà đóng cửa rừng tự nhiên (Quyết định số:
4631/QĐ.UBT ngày 24/12/1997) và chuyển sang loại hình doanh nghiệp nhà
nước hoạt động công ích.
(5) Năm 2001-2002: Tất cả những người dân có đất sản xuất trên địa bàn
được tiến hành lập sổ hợp đồng giao khoán đất sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp,
nuôi trồng thủy sản theo Nghị định 01/CP của Chính phủ.
(6) Năm 2003: Xã Mã Đà được thành lập.
34
(7) Năm 2004-2005: Thành lập Khu Dự trữ Thiên nhiên Vĩnh Cửu trên cơ
sở sáp nhập 3 Lâm trường: Mã Đà, Hiếu Liêm và Vĩnh An (Quyết định số
4679/QĐ.UB ngày 03/12/2003). UBND huyện Vĩnh Cửu tiến hành xây dựng dự
án Quy hoạch ổn định dân cư xã Mã Đà.
(8) Năm 2006-2007: Trung tâm quản lý di tích chiến khu Đ sáp nhập với
Khu DTTN Vĩnh Cửu và đổi tên thành Khu Bảo tồn Thiên nhiên và Di tích Vĩnh
Cửu. KBT tiến hành rà soát lại tất cả những diện tích đất đã giao khoán cho
người dân theo Nghị định 01/CP để chuẩn bị thực hiện việc giao khoán theo Nghị
định 135/CP.
Từ những mốc thời gian được trình bày trên, chúng tôi có những thảo luận
với nhóm người cao tuổi tại cộng đồng và cùng phân tích, nhận định về ảnh
hưởng của các sự kiện lịch sử đến đời sống kinh tế xã hội của cộng đồng xã Mã
Đà như sau:
- Những hộ gia đình là người dân bản địa sinh sống rải rác trong rừng theo
tập quán du canh, du cư, mọi tập quán sinh hoạt cũng như sinh kế hoàn toàn phụ
thuộc vào tài nguyên rừng, được Nhà nước bố trí định canh định cư.
- Vào những năm của thập niên 1970, các lâm trường hoạt động theo cơ
chế tập trung bao cấp với nhiệm vụ chủ yếu: quản lý bảo vệ rừng, khai thác kinh
doanh rừng tự nhiên, trồng rừng phủ xanh diện tích đất trống. Trong thời kỳ này,
mọi hoạt động sản xuất, sinh hoạt của công nhân lâm trường đều mang tính tập
thể. Các khu tập thể đó chính là một trong những nguyên nhân chủ yếu để hình
thành nên các cụm dân cư hiện nay. Và, do họ có nguồn gốc xuất thân từ những
gia đình là công nhân của lâm trường nên trong những sinh kế của họ cũng
thường có tập quán phụ thuộc vào tài nguyên rừng.
- Việc xây dựng Nhà máy Thủy điện Trị An đòi hỏi phải khai thác trắng
một diện tích lớn rừng tự nhiên để làm hồ chứa nước, đã thu hút lực lượng lao
động từ mọi miền đất nước. Lợi dụng việc khai thác trắng rừng tự nhiên, một bộ
35
phận dân nhập cư tự do đã thực hiện việc khai phá các diện tích rừng lân cận
vùng quy hoạch hồ để làm nương rẫy sản xuất nông nghiệp cho chính gia đình
họ. Đến khi các công trình kết thúc, rất nhiều công nhân ở lại định cư ven lòng hồ
Thuỷ điện Trị An, thuộc lâm phần quản lý của lâm trường Mã Đà. Lúc này tuy họ
đã có đất để sản xuất nông nghiệp, nhưng do trình độ thâm canh chưa cao, giống
cây trồng chưa được cải thiện nên thu nhập từ SXNN chưa thể đáp ứng đầy đủ
cho cuộc sống hằng ngày. Vì lẽ đó, những sinh kế chính của họ vẫn chủ yếu dựa
vào nghề rừng như: khai thác, săn bắt, thu hái các loại lâm sản, làm thuê các công
đoạn cho lâm trường, ngoài ra còn tận dụng mặt nước hồ thủy điện để sinh sống
bằng nghề nuôi trồng, đánh bắt thuỷ sản.
- Sự kiện trở thành doanh nghiệp nhà nước hạch toán độc lập đã đánh dấu
một bước đổi thay mới cho cả lâm trường Mã Đà nói chung. Việc đẩy mạnh sản
xuất đã góp phần giải quyết công ăn việc làm, tạo thêm sinh kế hợp pháp cho các
hộ dân sinh sống trong khu vực. Bên cạnh, người dân được Nhà nước hỗ trợ đầu
vào (giống cây trồng, vốn sản xuất) và kỹ thuật canh tác, chăm sóc theo mô hình
nông lâm kết hợp. Từ đó, góp phần nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho
cộng đồng. Song, sau một vài năm thì tình trạng người dân bị thiếu việc làm, thu
nhập không được cải thiện từ sinh kế mới như mong muốn của các nhà hoạch
định và thực thi chính sách, do vốn đầu tư của Nhà nước thấp, lại không được cấp
phát kịp thời cho người dân. Theo đó, nhiều người đã quay trở lại với đời sống
phụ thuộc vào tài nguyên rừng tự nhiên.
- Từ năm 1997, Lâm trường Mã Đà chuyển sang loại hình doanh nghiệp
nhà nước hoạt động công ích với nhiệm vụ trọng tâm là quản lý bảo vệ và xây
dựng phát triển vốn rừng. Sự kiện này buộc lực lượng quản lý bảo vệ rừng ngày
càng chú trọng đến công tác tuần tra bảo vệ, ngăn cản những hành động can thiệp
của người dân vào tài nguyên rừng. Nhưng, điều đáng nói là chính những nhà
quản lý lâm nghiệp lúc bấy giờ chưa thực sự quan tâm đến người dân, đến lĩnh
vực LNXH và chưa có những chính sách đồng bộ, nghĩa là họ vẫn đơn thuần sử
36
dụng cách quản lý theo kiểu áp đặt trên xuống. Thể hiện cho nhận định này là
một minh chứng cụ thể rằng, trong quãng thời gian đầu của sự kiện thay đổi đó,
phần lớn các hộ dân sống trong rừng hoặc gần rừng bị hạn chế đột ngột những
khoản thu nhập của họ từ hoạt động khai thác lâm sản.
- Mặc dù đa số người dân ở đây đã có đất để canh tác từ năm 1990. Song,
trên những diện tích đó, họ chưa được lâm trường Mã Đà công nhận sự sử dụng
hợp pháp, nên mọi quyết định về cơ cấu cây trồng, đầu tư chăm sóc, đều không
được mạnh dạn và chủ động. Năm 2002, tất cả những người dân trên địa bàn
được Lâm trường công nhận quyền sử dụng hợp pháp diện tích đất mà họ đã canh
tác bằng việc ký hợp đồng giao khoán đất SXNN, đất rừng trồng theo Nghị định
số 01/CP. Theo ý kiến của người dân được phỏng vấn thì sự kiện này đã thể hiện
sự quan tâm của Lâm trường đối với họ, từ đó có những định hướng mới trong kế
hoạch xây dựng và phát triển sản xuất nông hộ.
- Năm 2003, xã Mã Đà được thành lập, hầu hết những người dân trước đây
chưa có hộ khẩu thường trú tại địa phương đều được chính quyền địa phương lập
sổ hộ khẩu gia đình và chính quyền địa phương chính thức quản lý người dân
trong lĩnh vực hành chính. Thêm một lần nữa, người dân được hưởng quyền lợi
từ chính sách của Nhà nước.
- Trước yêu cầu của quy chế quản lý các khu rừng đặc dụng, cần phải hạn
chế một số tác động gây bất lợi vào tài nguyên rừng từ phía con người, UBND
tỉnh Đồng Nai đã chỉ đạo cho UBND huyện Vĩnh Cửu tiến hành xây dựng “Dự
án quy hoạch ổn định dân cư xã Mã Đà”. Đến nay, theo định hướng phát triển của
KBT và nội dung của dự án thì có những ấp phải di dời và cũng có các ấp được
ổn định tại chỗ. Vấn đề đang đặt ra cho KBT và chính quyền địa phương là sớm
xây dựng những giải pháp thúc đẩy phát triển kinh tế cho cộng đồng bằng những
sinh kế mới, theo hướng giảm dần sự phụ thuộc của người dân vào tài nguyên
rừng và có kế hoạch khai thác, sử dụng hợp lý nguồn tài nguyên rừng này.
37
Tóm lại, từ những sự biến đổi của dòng lịch sử tại cộng đồng xã Mã Đà và
từ những phân tích, nhận định trên đây, chúng tôi khẳng định rằng ở vào thời
điểm, hoàn cảnh lịch sử nào thì những người dân ở đây cũng có những sinh kế,
tập quán phụ thuộc vào tài nguyên rừng, cho dù ở từng sinh kế có mức độ phụ
thuộc khác nhau (trực tiếp hoặc gián tiếp).
4.1.1.2 Các nhóm dân tộc, nhân khẩu, tình trạng cư trú và nhà ở
Để làm cơ sở cho việc phân tích mức độ phụ thuộc từ những sinh kế của
cộng đồng dân cư vào tài nguyên rừng theo từng nhóm nông hộ (phân theo dân
tộc chẳng hạn), theo tình trạng cư trú và nhà ở hiện tại của cộng đồng người dân
tại địa phương, hoặc theo số lao động của hộ và nghề nghiệp của chủ gia đình,
chúng tôi đã tiến hành tập hợp thông tin của 132 hộ gia đình được chọn làm mẫu
điều tra đại diện cho các ấp (thông tin chi tiết ở phụ lục 2.1) và được kết quả tóm
tắt như sau:
- Về dân tộc: Trong 132 hộ có 122 hộ người Kinh, 8 hộ người Ch’ro và 2
hộ là dân tộc khác. Theo đó, chúng tôi chia làm 2 nhóm: nhóm hộ người Kinh với
92,4% số hộ và nhóm hộ người dân tộc với 7,6% còn lại. Mặc dù tỷ lệ hộ người
dân tộc thấp, nhưng vì họ có sinh kế khác nhiều với người Kinh nên chúng tôi
vẫn giữ 2 nhóm. Do đó, trong luận văn này sẽ có những so sánh và phân tích về
sinh kế giữa 2 loại nhóm hộ theo thành phần dân tộc.
- Về nhân khẩu và lao động: Tổng số có 676 nhân khẩu (gồm 360 nhân
khẩu nam và 316 nhân khẩu nữ) của 132 hộ điều tra, bình quân 5,1 người/hộ.
Tổng số có 403 lao động và như vậy bình quân có 3 lao động/hộ. So với số liệu
bình quân chung của toàn xã (UBND xã Mã Đà, 2007) thì số nhân khẩu là nhiều
hơn (so với 4,6 người/hộ) và số lao động cũng cao hơn (so với 2,4 lao động/hộ).
- Về cư trú: Có 120 hộ (chiếm 90,9%) là dân di cư từ các địa phương khác
tới, chỉ có 12 hộ (9,1%) là dân gốc địa phương. Có thể nói, gần như toàn bộ số
38
gia đình người Kinh là dân di cư từ nhiều địa phương khác đến, còn 8/10 hộ đồng
bào dân tộc đều là người cư trú ở đây từ trước.
- Về ngành nghề chính: Khi hỏi 132 chủ hộ về ngành nghề chính của gia
đình thì được biết: có 110 người làm nông (chiếm 83,3%), 15 người làm thuê
(11,4%), chỉ có 1 người làm công nhân và 1 hộ chuyên về buôn bán và dịch vụ.
Tất nhiên là trên thực tế, một hộ gia đình có nhiều lao động có thể kết hợp làm
nhiều ngành nghề khác nhau.
4.1.2 Các nhóm sinh kế của cộng đồng ngƣời dân
Các hoạt động tạo sinh kế ở cộng đồng có nhiều loại khác nhau. Nhưng ở đây,
có thể dựa vào một số đặc điểm và tính chất tương tự nhau của một số hoạt
động mà nghiên cứu này chia thành các nhóm sinh kế như sau:
- Nông nghiệp: Gồm các hoạt động trồng trọt trên nông trại và
ngoài nông trại.
- Lâm nghiệp: Các hoạt động khai thác và thu hái sản phẩm từ
rừng tự nhiên, nhận đất trồng rừng và thu hoạch
từ rừng trồng.
- Chăn nuôi: Bao gồm các hoạt động chăn nuôi gia súc, gia
cầm và một số động vật khác, kể cả nuôi cá.
- Phi nông nghiệp: Tất cả các hoạt động khác: làm thuê, buôn bán
và dịch vụ.
4.1.2.1 Sinh kế từ sản xuất nông nghiệp
Phần lớn hoạt động sinh kế của các nhóm hộ dân ở xã Mã Đà là từ sản
xuất nông nghiệp. Hoạt động này hầu như diễn ra quanh năm và sản phẩm chính
là các loại cây trồng (cây ăn quả, cây công nghiệp, cây lương thực, và cây hoa
màu). Nguồn đất đai sử dụng cho các loại cây trồng này là đất vườn hộ, nương
39
rẫy, ruộng, và đôi khi cả đất lâm nghiệp trong KBT. Do vậy, trồng trọt đã là một
trong những hoạt động chủ yếu đối với cộng đồng dân cư.
Theo người dân thì ngay buổi đầu mới định canh định cư, họ đã chọn cây
Điều là cây trồng chính trong các hệ thống canh tác, sau này do đáp ứng được thị
trường và phù hợp với đất, cây Xoài được đưa vào nhiều hơn. Cho đến thời điểm
hiện nay, trồng Điều và Xoài vẫn là một hoạt động sinh kế của đa số hộ gia đình
trong xã Mã Đà.
Ngoài một bộ phận nhỏ là các hộ dân tộc Ch’ro vẫn còn mang nặng ý thức
giữ gìn tập quán canh tác truyền thống, nên năng suất cây trồng thấp và phụ thuộc
vào thiên nhiên là chính. Một bộ phận lớn dân cư còn lại đang trong thời kỳ
chuyển dịch hệ thống canh tác từ quảng canh, độc canh sang thâm canh và xen
canh, nên năng suất cây trồng của họ tương đối ổn định.
Trong 132 hộ được điều tra đã sử dụng 240 ha đất canh tác các loại thì đất
dành cho trồng trọt chiếm 87,4% (còn lại là đất trồng cây lâm nghiệp và nuôi cá).
Mục đích chính của việc sử dụng đất sản xuất nông nghiệp là trồng cây để thu
hoạch sản phẩm cho thương mại và tiêu dùng trong gia đình.
Bảng 4.1 Cơ cấu diện tích các loại cây trồng nông nghiệp của hộ dân
Loài cây Vườn Điều Xoài Lúa Ngắn Khác
nước ngày Sử dụng
Có trồng (hộ) 132 82 95 13 5 5
Tỷ lệ hộ trồng (%) 100 62,1 72,0 9,8 0,4 0,4
B.quân chung (ha/hộ) 0,04 0,61 0,83 0,08 0,01 0,02
B.quân hộ trồng (ha/hộ) 0,04 0,98 1,16 0,85 0,34 0,58
Từ kết quả ở bảng 4.1 ta thấy rằng, 100% số hộ điều tra đều có vườn xung quanh nhà với diện tích bình quân/hộ là 400 m2, nhỏ nhất trong các loại đất trồng
cây nông nghiệp. Diện tích trồng bình quân/hộ lớn nhất thuộc về cây Xoài (1,16
40
ha/hộ) với 72% số hộ, tiếp theo là Điều (xấp xỉ 1 ha/hộ) với 62,1% số hộ tham
gia.
Do tính chất cây trồng và thu nhập từ các loại cây trồng rất khác nhau, cho
nên chúng tôi chia thành 2 nhóm cây trồng như sau:
+ Trồng cây ăn quả, lấy hạt (cây dài ngày)
Các loài cây dài ngày thường được trồng nhiều nhất là Điều và các loại
Xoài, các loài cây khác còn lại là Nhãn, Chôm chôm, Đu đủ. Sau đây là hiện
trạng cây trồng với 2 loài phổ biến nhất trong cộng đồng (bảng 4.2a)
* Nhận xét:
Kết quả từ bảng 4.2a cho thấy, phần trăm số hộ đã sử dụng đất tỷ lệ nghịch
với diện tích canh tác, diện tích nhỏ hơn 1,0 ha thì số hộ chiếm ưu thế hơn. Điều
đó chứng tỏ việc trồng cây mang tính thâm canh không phải có diện tích lớn là
tốt. So sánh giữa 2 loài cây trồng chính về số hộ tham gia và diện tích trồng thì cả
hai đã nghiêng hơn về cây Xoài.
Bảng 4.2a: Sử dụng đất nông nghiệp vào mục đích sinh kế của hộ
Trồng cây lấy hạt (Điều) Trồng cây ăn quả (Xoài)
Mức độ sử dụng Hộ % Mức độ sử dụng Hộ %
Không 51 38,6 Không 37 28,0
Dưới 1,0 ha 54 40,9 Dưới 1,0 ha 61 46,2
Từ 1,0 đến 2 ha 18 13,6 Từ 1,0 đến 2 ha 16 12,1
Từ 2,0 đến 3 ha 8 76,1 Từ 2,0 đến 3 ha 11 8,3
Trên 3,0 ha 1 10,8 Trên 3,0 ha 7 5,4
Cộng 132 100 Cộng 132 100
+ Trồng cây lương thực, rau màu (cây ngắn ngày)
41
Cây lương thực được trồng tại đây gồm có lúa nước, bắp, khoai mì. Cây
hoa màu là rau đậu các loại. Tuy nhiên, trừ lúa nước là chuyên canh và chỉ có ở
ấp 7, còn lại các loại cây khác đều trồng xen canh với diện tích nhỏ lẻ.
Mức độ
Lúa nước
Cây ngắn ngày
Cây khác
Sử dụng
Hộ
%
Hộ
%
Hộ
%
Không
119
90,2
127
96,2
127
96,2
Dưới 1,0 ha
11
8,3
5
3,8
5
3,8
Trên 1,0 ha
2
1,5
Cộng
132
100
132
100
132
100
Bảng 4.2b: Sử dụng đất nông nghiệp vào mục đích sinh kế của hộ
Nhận xét:
Từ bảng 4.2b cho thấy, việc trồng các loài cây ngắn ngày có số hộ tham
gia đều rất thấp (cao nhất là lúa nước với 9,8%), chứng tỏ đây không phải là các
loài cây trồng cho thu nhập cao ở vùng này và việc người dân trồng có thể là do
tận dụng đất, lao động trong nhà và phục vụ cho nhu cầu sinh sống trong gia đình
chứ không phải vì mục tiêu hàng hoá.
Tóm lại, theo những thông tin thu thập được từ phía người dân và hồ sơ
lưu trữ tại Hạt Kiểm lâm KBT, chúng tôi khẳng định rằng, hoạt động trồng trọt
tuy không thể hiện tính phụ thuộc trực tiếp vào tài nguyên rừng, nhưng thực tế đã
cho thấy nó vẫn có sự phụ thuộc nhất định. Cụ thể:
- Để đáp ứng phần nào nhu cầu sử dụng đất, đối với những hộ có diện tích
đất sản xuất nông nghiệp ít, khi có điều kiện (ví dụ: ranh giới đất SXNN giáp với
rừng trồng quốc doanh hoặc rừng tự nhiên) thường có hành vi lấn rừng để mở
rộng diện tích đất trồng trọt nhằm tăng thêm thu nhập nông hộ. Những diện tích
này thường không được khai báo hoặc kê khai thiếu chính xác.
- Đối với những hộ có nhiều đất sản xuất nông nghiệp thì nhu cầu về làm
mới, sửa chữa lán trại trong vườn rẫy, nhà kho bảo quản phân bón, cất giữ nông
42
sản, công cụ dụng cụ lao động sản xuất hằng tháng hàng năm thì họ vẫn phải cần
đến nguyên vật liệu từ rừng, nghĩa là gián tiếp ảnh hưởng đến tài nguyên rừng
của KBT.
4.1.2.2 Sinh kế từ sản xuất lâm nghiệp
Sản xuất lâm nghiệp là tên gọi chung chỉ các hoạt động sinh kế có liên
quan đến đất lâm nghiệp và rừng, bao gồm hoạt động cho sản phẩm từ rừng trồng
(kể cả một vài cây trồng nông nghiệp trồng xen trên loại đất này) và hoạt động
khai thác hay thu hái các loại sản phẩm từ rừng tự nhiên.
Rừng trồng (các loại)
Thu hái sản phẩm (các loại)
Mức độ sử dụng Hộ
%
Mức độ sử dụng Hộ
%
115
87,1
Không
71
53,8
Không
10
7,6
Có thu hái
61
46,2
Dưới 1,0 ha
7
5,3
Trên 1,0 ha
132
100
Cộng
132
100
Cộng
Bảng 4.3: Sử dụng đất lâm nghiệp và khai thác sản phẩm từ rừng
Cũng theo đặc điểm của các hoạt động này, chúng tôi phân ra 2 nhóm khác
nhau:
+ Trồng rừng và sản phẩm từ rừng trồng
Theo kết quả điều tra, hoạt động trồng rừng có 17/132 hộ, chiếm 12,9%
(bảng 4.3). Trên phần lớn diện tích đất sản xuất lâm nghiệp, người dân tự đầu tư
vốn để trồng rừng theo chương trình 661 và rừng tự trồng tự hưởng.
Loài cây trồng chủ yếu là cây Keo lai giâm hom. Loài cây này thích hợp
với nhiều điều kiện môi trường lập địa khác nhau, thường cho sinh khối lớn (bình
quân khoảng 170 - 190 ster gỗ nguyên liệu giấy/ha) trong một chu kỳ kinh doanh
ngắn (6 năm), cho nên rất được nhiều người dân quan tâm đầu tư phát triển vì
những hiệu quả kinh tế của nó. Ngoài ra, một số ít diện tích nhỏ trồng cây Xà cừ,
43
hoặc trồng hỗn loài giữa Keo tai tượng với Xà cừ. Nhìn chung, những loài cây
này cho năng suất và hiệu quả kinh tế thấp.
Trong những năm gần đây, nhu cầu gỗ nguyên liệu giấy của thị trường
tăng mạnh, loài cây Keo lai đã góp phần lớn vào việc cải thiện điều kiện kinh tế
cho người trồng rừng. Nhưng từ khi KBT và UBND tỉnh Đồng Nai có chủ trương
không cho trồng những giống cây nhập nội (trong đó có Keo lai) trong vùng quy
hoạch rừng đặc dụng và những vùng lân cận, rất có thể sẽ làm hạn chế mức thu
nhập của người dân trong tương lai gần (khi mà chưa có những loài cây mới hay
sinh kế khác thay thế).
+ Khai thác lâm sản từ rừng tự nhiên
Để tăng thêm thu nhập và thỏa mãn nhu cầu trước cuộc sống, rất nhiều gia
đình trong xã Mã Đà vẫn còn phụ thuộc mạnh vào tài nguyên rừng tự nhiên, nhất
là đối với những gia đình thuộc nhóm hộ nghèo, dư thừa lao động hay tận dụng
vào những lúc nông nhàn, giáp hạt, vụ mùa thất bát. Tỷ lệ số hộ tham gia vào một
hay đồng thời nhiều hoạt động này là 46,2% (bảng 4.3).
Hoạt động khai thác lâm sản trái phép chủ yếu là bẫy bắt chim, thú nhỏ (gà
rừng, cheo cheo, nhím, khỉ, các loài cầy, v.v.), tận thu gỗ lục, lấy song mây,
măng tre, các loại nấm, cây thuốc để đem bán tăng thêm thu nhập. Một số gia
đình khác khác xâm hại tài nguyên rừng của KBT chỉ mang tính cơ hội, nghĩa là
họ không có chủ định trước mà chỉ thực hiện hành vi xâm phạm khi có điều kiện
thuận lợi.
Những năm gần đây, do giá cả trên thị trường về các loại lâm sản tăng
mạnh, nhất là các loại lâm sản thuộc nhóm động vật hoang dã. Từ đó, nhiều gia
đình trong cộng đồng đã chú trọng hơn vào quy mô và hình thức khai thác, tập
trung nhiều vào nhóm có giá trị kinh tế, dược liệu cao, làm cho tình hình tài
nguyên rừng trong khu vực luôn phải chịu áp lực mạnh. Có thể nói, đây là một
loại sinh kế gây ảnh hưởng đến tài nguyên rừng cao nhất.
44
4.1.2.3 Sinh kế từ chăn nuôi
Trong nhóm hộ gia đình khá, nhóm sinh kế được thực hiện nhiều nhất là
chăn nuôi. Các hộ gia đình này chủ yếu là chăn nuôi heo, trâu, bò, dê và gia cầm.
Với hoạt động chăn nuôi heo, một năm hộ gia đình có thể nuôi được 3 lứa và sản
phẩm có được là để bán cho các tư thương thu mua tận nhà. Còn đối với trâu bò,
chủ yếu nuôi để lấy sức kéo.
Cũng tương tự như hoạt động trồng trọt, chăn nuôi cũng được coi là một
hoạt động có phụ thuộc vào tài nguyên rừng của KBT. Nguồn thức ăn, vật liệu
xây dựng chuồng trại, hoặc việc đào ao thả cá đều là những yếu tố cần có sự đóng
góp từ tài nguyên rừng.
Theo tính chất của vật nuôi và mức độ phụ thuộc vào tài nguyên rừng,
chúng ta có 2 nhóm:
+ Chăn nuôi gia súc và gia cầm ở các hộ
Chăn nuôi gia súc (các loại)
Chăn nuôi gia cầm (các loại)
Mức độ
Hộ
%
Mức độ sử dụng Hộ
%
Không nuôi
98
74,2
Không nuôi
69
52,3
Có chăn nuôi
34
25,8
Có chăn nuôi
63
47,7
Cộng
132
100
Cộng
132
100
Bảng 4.4: Tình hình chăn nuôi gia súc và gia cầm ở các hộ gia đình
Những năm vừa qua, do ảnh hưởng của dịch cúm gia cầm và dịch lở mồm
long móng trong khu vực, cũng như sự biến động thất thường về giá cả thực
phẩm trên thị trường nên đa phần các hộ dân còn dè dặt trong đầu tư. Do vậy,
hoạt động chăn nuôi tại cộng đồng dường như chững lại, không mấy phát triển.
Theo bảng 4.4, số hộ tham gia chăn nuôi gia súc (chiếm 25,8%) ít hơn so với hộ
chăn nuôi gia cầm (47,7%). Thông thường, khi chăn nuôi gia súc để bán thì mỗi
hộ chỉ nuôi một loài (hoặc heo hoặc dê, trâu bò), còn nếu nuôi gia cầm thì có thể
kết hợp 2 loài (gà, vịt).
45
Hoạt động chăn nuôi có thể mang lại nguồn lợi cao cho người dân, nếu
như họ có kiến thức kinh nghiệm và biết đầu tư đúng mức. Nhưng tại cộng đồng
Mã Đà nói chung, hoạt động này chưa được phát triển, chưa cân đối với hoạt
động trồng trọt, chỉ mới phổ biến là hình thức chăn thả rong gia súc gia cầm dưới
tán cây nông nghiệp và trong rừng tự nhiên. Nguồn thức ăn cho vật nuôi chủ yếu
dựa vào thiên nhiên, một phần nhỏ được tận dụng từ nhà bếp và các sản phẩm
nông nghiệp tại chỗ.
+ Chăn nuôi thủy sản (chủ yếu là cá)
Diện tích ao nuôi
Số lượng cá nuôi/hộ
Mức độ sử dụng Hộ
Mức độ sử dụng Hộ
%
%
Không có
123
Không có
126
93,2
95,5
Dưới 1,0 ha
7
Dưới 1000 con
4
5,3
3,0
Trên 1,0 ha
2
Trên 1000 con
2
1,6
1,6
Cộng
132
Cộng
132
100
100
Bảng 4.5: Diện tích nuôi cá và số lượng cá nuôi của hộ gia đình
Ngoài chăn nuôi trên cạn, do có nhiều đầm hồ nhỏ và sản phẩm lại dễ tiêu
thụ nên trong nhiều năm trở lại đây, việc nuôi cá cũng đã thâm nhập vào một số ít
hộ gia đình nhanh nhạy với thị trường. Kết quả ở bảng 4.5 cho thấy, đã có 9 hộ
(6,9% số hộ) có diện tích nuôi cá chuyên canh và 6/9 hộ này đã có sản phẩm hàng
năm tới hàng ngàn con cá các loại, chắc chắn đây sẽ là nguồn thu nhập đóng góp
đáng kể cho sinh kế của những hộ này.
4.1.2.4 Sinh kế từ các hoạt động phi nông nghiệp
Bên cạnh 3 nhóm sinh kế mang tính sản xuất như nông nghiệp, lâm nghiệp
và chăn nuôi thì trong hệ thống sinh kế của các hộ gia đình còn có nhóm sinh kế
từ các hoạt động phi nông nghiệp. Đó là các hoạt động không liên quan trực tiếp
tới sản xuất trong các gia đình, chủ yếu là làm thuê, buôn bán (dịch vụ), tiểu thủ
công nghiệp; ngoài ra còn có thu nhập từ tiền lương. Sở dĩ có hoạt động thuê
46
mướn này là do một số hộ gia đình khó khăn, thiếu hoặc không có đất sản xuất, đi
làm thuê cho các hộ gia đình khác trong thôn và xã với tiền công là 30-40 ngàn
đồng/ngày. Tiền lương là nguồn thu nhập của các hộ đang có người làm việc cho
KBT hoặc tham gia vào các công tác hành chính của thôn xã, ngoài ra là số ít các
cựu chiến binh.
+ Tiểu thủ công nghiệp
Đến nay, tiểu thủ công nghiệp gần như chưa được phát triển mạnh tại cộng
đồng. Đối với sinh kế này, có nhiều hoạt động khác nhau, song trong đó có một
vài hoạt động có phụ thuộc trực tiếp vào tài nguyên rừng như: gia công và chế
biến đồ gỗ dân dụng tại các xưởng mộc, xưởng xẻ gỗ, nghề đan lát vật gia dụng
gia đình.
+ Buôn bán - dịch vụ
Tại cộng đồng, hoạt động buôn bán – dịch vụ chỉ mới mang tính nhỏ lẻ,
chủ yếu là một số quầy hàng tạp hóa phục vụ hàng nhu yếu phẩm cho người dân.
Tuy nhiên, trong số những người dân tham gia hoạt động này, có một số hộ có sự
phụ thuộc lớn và trực tiếp đến tài nguyên rừng, đó là những đầu nậu chuyên thu
mua các loài động vật hoang dã mà người dân trên địa bàn săn bắt được, sau đó
bán lại cho nhà hàng, quán ăn tại thị trấn Vĩnh An, TP Biên Hòa, TP Hồ Chí
Minh. Những hộ này chính là động lực thúc đẩy cho những hành vi săn bắt trái
phép động vật rừng đối với rất nhiều hộ gia đình trên địa bàn.
Nói tóm lại, từ kết quả nghiên cứu về các nhóm sinh kế trên địa bàn xã Mã
Đà, chúng ta thấy người dân nơi đây có các hoạt động sinh kế chủ yếu là từ nông
nghiệp, chăn nuôi và lâm nghiệp. Hoạt động sinh kế từ các dịch vụ và buôn bán
hầu như không phát triển. Điều này cho thấy hệ thống sinh kế của người dân hiện
nay vẫn còn theo hướng phụ thuộc vào thiên nhiên, mang tính tự cung tự cấp, thể
hiện điều kiện chậm phát triển của địa phương.
47
4.1.3 Các tài sản tạo ra sinh kế của ngƣời dân
Các thành viên của hộ gia đình kết hợp các khả năng, kỹ năng và tri thức
của họ với các nguồn lực khác mà họ có thể vận dụng để tạo ra các hoạt động
giúp đạt được sinh kế tốt nhất cho chính họ và cho hộ gia đình. Mọi thứ nhằm tạo
dựng sinh kế có thể xem như là “tài sản” của sinh kế. Các hộ gia đình khác nhau
sẽ có các mức độ tiếp cận khác nhau đối với một phạm vi rộng các tài sản này.
Dựa vào khung phân tích sinh kế của DFID (1998) và trong bối cảnh của khu vực
nghiên cứu, đề tài đã thống kê các loại tài sản tạo ra sinh kế như sau:
4.1.3.1 Tài sản nhân lực
Trong bối cảnh của khu vực nghiên cứu, trình độ học vấn và số người có khả
năng tham gia lao động trong gia đình là những chỉ báo quan trọng thể hiện
loại tài sản nhân lực mà họ có được.
a) Về trình độ học vấn
Dân tộc
Giới tính
Học vấn
Kinh
DT khác
Nam
Nữ
1. Mù chữ
14
5
16
3
2. Tiểu học
65
5
54
16
3. PT cơ sở
35
29
6
6
6
4. PT trung học
0
2
1
9. Các hệ đào tạo khác
1
Tổng
122
10
106
26
Bảng 4.6 Tổng hợp trình độ học vấn theo nhóm dân tộc và giới tính
Kết quả điều tra về trình độ học vấn của người dân (người trực tiếp phỏng
vấn/hộ) theo nhóm dân tộc và giới tính như thể hiện ở bảng 4.6 cho thấy, có sự
khác biệt rõ rệt về trình độ học vấn giữa hai nhóm dân tộc; đồng thời, trình độ
học vấn cũng không giống nhau giữa nam và nữ. Theo dân tộc, số người Kinh có
trình độ học vấn cấp phổ thông cơ sở trở lên chiếm tỷ lệ 35,2% trong khi nhóm
48
người dân tộc không có. Tương tự, 34,0% nam giới có trình độ từ phổ thông cơ
sở trở lên, trong khi ở nữ giới là 26,9%. Tóm lại là, số người có trình độ phổ
thông trung học trở lên rất thấp (gần 5%) và gần như không có ở đồng bào dân
tộc và nữ giới. Điều này đã phần nào hạn chế khả năng tiếp thu các kỹ thuật được
chuyển giao và theo dõi thông tin đại chúng của các hộ gia đình ở đây.
b) Về lực lượng lao động
Bảng 4.7 Tổng hợp độ tuổi (lao động) theo nhóm dân tộc và giới tính
Dân tộc Giới tính Độ tuổi Kinh DT khác Nam Nữ
1. Tuổi 18 - 45 54 7 51 10
2. Tuổi 46 – 60 54 2 45 11
3. Trên 60 14 1 10 5
Tổng 122 10 106 26
Kết quả điều tra về phân bố lao động nhóm theo dân tộc và giới tính thể hiện
ở bảng 4.7 cho thấy, tỷ lệ số người có thể tham gia lao động trên 45 và dưới
45 tuổi xấp xỉ nhau ở cả nam và nữ. Giữa hai nhóm giới tính thì số lao động
nam đều nhiều hơn số lao động nữ, nhưng không có sự khác biệt về tỷ lệ lao
động nam-nữ. Kết quả phân bố số lao động chính trên từng hộ gia đình qua
điều tra 132 hộ như trình bày dưới đây:
- Có từ 1 – 2 lao động chính: 59 hộ, chiếm 44,7%
- Có từ 3 – 4 lao động chính: 53 hộ, chiếm 40,2%
- Có 5 lao động trở lên: 20 hộ, chiếm 15,1%
So sánh với số lao động bình quân của xã (UBND xã Mã Đà, 2007) là 2,4
người/hộ. Theo đó, có thể nói việc có trên 50% số hộ ở đây có từ 3 lao động
chính trở lên là con số cao hơn so với bình quân toàn xã và có lẽ là còn cao so
với nhiều địa phương khác, đây chính là nguồn tài sản nhân lực phổ thông dồi
dào mà chưa có cơ hội khai thác hết.
49
4.1.3.2 Tài sản hữu hình
a) Các loại tài sản sản xuất và sinh hoạt gia đình
Về nhóm tài sản hữu hình gồm các loại liên quan trực tiếp tới sản xuất (máy
cày, phát điện, bơm nước, xe chuyên chở) và sử dụng cho sinh hoạt trong nhà
(tivi, xe máy, bếp ga, điện thoại, …). Kết quả ở như ghi nhận ở bảng 4.8 (số
liệu chi tiết trong phụ lục 2.1):
Bảng 4.8 Các loại tài sản cho sản xuất và sinh hoạt trong gia đình
Nhóm người Kinh Nhóm người dân tộc Tên vật dụng Số lượng Số hộ Số lượng Số hộ
- Máy cày, kéo 5 5 0 0
- Máy phát điện 16 15 0 0
- Máy bơm nước 47 45 1 1
- Xe chuyên chở 1 1 0 0
- Radio+Tivi 120 108 5 5
- Xe máy 184 118 8 8
- Bếp ga 36 36 0 0
- Điện thoại 134 91 3 3
- Đầu máy 44 44 1 1
Nhận xét:
- Nhóm hộ người Kinh đã hơn hẳn nhóm hộ người dân tộc về tích sản tư
nhân, đặc biệt với những tài sản phục vụ trực tiếp cho sản xuất như máy cày, máy
phát điện, xe chuyên chở, ... điều mà những hộ gia đình người dân tộc hầu như
không nghĩ tới. Chỉ tính riêng máy bơm nước đã xuất hiện ở trên 36,9% số hộ
người Kinh. Điều này rõ ràng không hẳn là do sự giàu nghèo, mà theo chúng tôi,
đó còn là nếp nghĩ đã hằn sâu trong tư duy của người dân tộc vốn sống lệ thuộc
vào tự nhiên.
50
- Ngược lại, khi so sánh về tài sản phục vụ cho sinh hoạt gia đình như
phương tiện đi lại bằng xe máy thì tỷ lệ hộ có xe ở nhóm người dân tộc (80%)
không kém gì so với nhóm người Kinh (97%). Riêng với bếp ga thì 100% số hộ
người dân tộc vẫn chưa có thói quen sử dụng.
b) Tài sản công cộng
Bên cạnh tích sản tư nhân thì tài sản công cộng cũng là một chỉ báo phản ánh
tài sản hữu hình của các nhóm dân cư. Do đó, đề tài cũng đã tiến hành tìm
hiểu và phân tích loại tài sản này. Tuy nhiên, do tính chất “công” của loại tài
sản này nên nó không can thiệp cụ thể vào từng hộ gia đình. Các loại đề cập
đến ở đây là nước, điện và đường giao thông.
Theo kết quả điều tra, đa số hộ (65,2%) trong khu vực có giếng nước để phục
vụ cho sinh hoạt. Trong khi đó, vẫn còn 26,5% hộ dân dùng nước sinh hoạt từ
hồ hoặc suối. Việc sử dụng nước cho sinh hoạt ở đây khác nhau giữa các ấp,
vì địa hình và nơi cư trú nên có ấp buộc phải đào giếng nhưng cũng có nơi chỉ
dùng nước hồ. Tuy nhiên, trong 86 hộ dùng giếng thì có tới 58 hộ cho biết,
nguồn nước hiện nay cho canh tác và nước sinh hoạt đang là vấn đề khó khăn
nhất mà họ gặp phải. Nguyên nhân của tình trạng này là mạch nước ngầm sâu
gây thiếu nước vào mùa khô. Những hộ gia đình có đất canh tác gần nguồn
nước tự nhiên thì có thể dùng máy bơm để lấy nước tưới cho cây trồng, còn đa
số là phụ thuộc vào nước trời.
Hiện nay, trên địa bàn xã Mã Đà, mạng lưới điện và hệ thống đường giao
thông đã được nâng cấp, vì thế người dân trong xã có điều kiện tiếp cận với các
dịch vụ này. Điều này đã tạo thuận lợi cho bà con địa phương giao thương và tiếp
cận với dịch vụ, thông tin bên ngoài. Đây là một trong những điều kiện ban đầu
giúp cho người dân có được nguồn lực cơ bản trong quá trình tạo ra một sinh kế
bền vững. Hệ thống giao thông thuận tiện cùng với việc tiếp cận thị trường dễ
dàng có ảnh hưởng tích cực đến sinh kế của nông hộ. Nông dân ở những nơi tiếp
51
cận tốt sẽ có nhiều khả năng tăng thu nhập hơn là ở những vùng hẻo lánh, và theo
đó có chiều hướng giàu hơn.
4.1.3.3 Tài sản tài chính
Tài chính thể hiện sức mạnh về vốn và có thể thấy được là tiền thông qua thu
nhập của các hộ gia đình. Do vậy, chúng tôi sử dụng yếu tố “thu nhập” với
đơn vị là tiền làm chỉ báo cho thu thập số liệu và phân tích loại tài sản này.
Sau khi tính toán và phân tích số liệu về các nguồn thu nhập theo nhóm người
dân và loại hình sản xuất của người dân địa phương, các kết quả được trình
bày ở bảng 4.9, 4.10 và được minh hoạ thêm ở hình 4.1 như dưới đây:
+ Thu nhập theo các nhóm người dân
Bảng 4.9 Mức tổng thu nhập (triệu/hộ/năm) của các nhóm hộ dân
Mức thu nhập Kinh (hộ) Dân tộc (hộ) Tổng (hộ) Tỷ lệ (%)
8 Dưới 25 triệu 31 39 29,5
2 Từ 25 – 50 triệu 48 50 37,9
0 Từ 50 – 100 triệu 26 26 19,7
0 Từ 100 – 200 triệu 9 9 6,8
0 Từ 200 – 400 triệu 7 7 5,3
0 Trên 400 triệu 1 1 0,8
Nhận xét:
- Mức tổng thu nhập dưới 25 triệu/năm chiếm 29,5% tổng số hộ. Trong số
này, có 8/10 hộ là người dân tộc. Hộ có thu nhập cao nhất vượt mức 400 triệu
chỉ có 1 hộ người Kinh, các hộ gia đình dân tộc đều đạt dưới mức 50
triệu/hộ/năm.
52
- Tổng thu nhập bình quân chung của cả 2 nhóm dân là 58,9 triệu/hộ, Tổng
thu bình quân của người Kinh là 61,83 triệu đồng/hộ, trong khi đó ở nhóm hộ
người dân tộc là 22,96 triệu/hộ, nghĩa là người Kinh thu nhập cao hơn nhóm
người dân tộc tới 2,6 lần.
- Điều đáng chú ý là so với tiêu chuẩn nghèo mới của Đồng Nai (UBND tỉnh
Đồng Nai, 2008) thì thu nhập dưới 300 ngàn/người/tháng (khu vực nông thôn)
thì xếp vào diện nghèo. Nếu bình quân số khẩu là 5,1 người/hộ (mục 4.1.1) thì
thu nhập dưới 20 triệu/hộ/năm sẽ là diện nghèo. Vậy, theo số liệu điều tra như
trên thì tỷ lệ hộ nghèo của Mã Đà nằm trong 30% số hộ gia đình này. So với
tiêu chuẩn nghèo cũ (200 ngàn/người/tháng) và số liệu từ UBND xã (2007) thì
tỷ lệ nghèo là 20,6%, nghĩa là đến nay số hộ nghèo vẫn cứ nghèo.
+ Cơ cấu thu nhập từ các nguồn
Bảng 4.10 Cơ cấu thu nhập của hộ gia đình (%) từ các nguồn sinh kế
Nhóm người dân Tỷ lệ (%) thu nhập từ các nguồn
Trồng trọt Chăn nuôi L.nghiệp Khác
Chung 63,0 8,5 5,3 23,2
Nhóm người Kinh 63,6 8,8 5,1 22,5
Nhóm dân tộc 41,2 0,7 12,6 45,5
53
Hình 4.1 Cơ cấu thu nhập bình quân chung theo nhóm sinh kế
Nhận xét:
- Trong 4 nguồn thu chính thì thu nhập bình quân cao nhất từ các hoạt
động nông nghiệp với 37,1 triệu/hộ (chiếm tỷ trọng 63,0%) và thấp
nhất là lâm nghiệp với 3,1 triệu/hộ (chiếm tỷ trọng 5,3%). Lý do thu
nhập từ lâm nghiệp có tỷ trọng thấp là do tỷ lệ số hộ gia đình có nguồn
thu này ít (chỉ chiếm 36,3%) và mức thu cũng thấp (cũng chỉ dưới 25
triệu/năm). Trong khi đó ở nông nghiệp, có tới 91,6% số hộ đều có thu
nhập từ cây này hoặc cây kia.
54
Hình 4.2 Cơ cấu thu nhập hộ (%) theo nhóm sinh kế ở hai nhóm dân
Nếu tách riêng cho từng nhóm (người Kinh và dân tộc) thì cơ cấu thu
nhập chung ở trên đã có sự thay đổi:
- Ở nhóm người Kinh, hoàn toàn như nhóm chung, thu nhập từ trồng trọt
chiếm ưu thế gần như tuyệt đối với 63,6%, thu nhập từ lâm nghiệp rất thấp với
5,1%. Thứ tự đóng góp của các nhóm cho thu nhập hộ bình quân là: nông nghiệp
– phi nông nghiệp – chăn nuôi – lâm nghiệp.
- Ở nhóm người dân tộc, không có nhóm sinh kế nào vượt trội, thu nhập từ
trồng trọt (41,2%) và phi nông nghiệp gần bằng nhau (45,5%), đóng góp của lâm
nghiệp tăng đáng kể với 12,6%. Thứ tự đóng góp của các nhóm cho thu nhập là:
phi nông nghiệp – nông nghiệp – lâm nghiệp – chăn nuôi.
Khác biệt giữa hai nhóm trên cho thấy, nhóm người dân tộc gần như không
có hoạt động chăn nuôi, nhất là chăn nuôi theo kiểu công nghiệp hiện nay, nếu có
thì chỉ là chăn thả tự do với mục đích cung cấp thực phẩm cho gia đình. Cũng ở
nhóm này, các hoạt động phi nông nghiệp cho thu nhập tăng lên so với nhóm
người Kinh, lý do chính là do các hộ dân tộc này đều có người đi làm thuê, mặt
khác chính họ cũng còn là mối buôn bán các sản phẩm khai thác từ rừng tự nhiên.
55
Qua kết quả trên còn cho thấy, nhóm hộ dân tộc có sự phụ thuộc vào rừng
nhiều hơn vì tỷ lệ thu nhập ở rừng cao hơn. Ở nhóm người Kinh thì thu nhập từ
lâm nghiệp chủ yếu từ sản phẩm của rừng trồng, còn ở nhóm người dân tộc thì
hoàn toàn là từ các sản phẩm trong rừng tự nhiên. Vậy, nếu nói sinh kế có phụ
thuộc nhiều vào rừng (tự nhiên) thì đúng hơn là cho đối tượng nhóm người dân
tộc.
Để xác định cụ thể loại sinh kế nào cho thu nhập cao hơn, chúng tôi tính tỷ
lệ đóng góp của từ mỗi loại trong từng nhóm sinh kế. Sau đây là các loại sinh kế
cho thu nhập theo thứ tự từ cao đến thấp (phần còn lại không liệt kê ở đây là tất
cả các loại khác):
1. Nông nghiệp: Xoài 62,9% Điều 21,1%
2. Phi nông nghiệp: Lương 43,5% Làm thuê 41,1%
3. Chăn nuôi: Cá 26,8% Gia cầm 26,7% Heo 24,6%
4. Lâm nghiệp: LSNG 65,2% Gỗ 27,1%
Theo đó, phần đóng góp cho sinh kế của hộ từ cây trồng nông nghiệp chủ
yếu là Xoài; ở nhóm phi nông nghiệp thì có thu nhập từ lương (đối với nhóm
người Kinh) và làm thuê (cả hai nhóm) là tương đương nhau; về chăn nuôi không
có biểu hiện con vật nuôi nào cho thu nhập là trội hơn và cả 3 loại sản phẩm gia
súc, gia cầm và cá đều xấp xỉ nhau; cuối cùng với lâm nghiệp thì thu nhập ưu thế
đã nghiêng hẳn về các loại LSNG, sau đó mới đến gỗ, phần đóng góp từ gỗ rừng
trồng là chưa đáng kể.
4.1.3.4. Tài sản tự nhiên
Tài sản tự nhiên theo nghĩa rộng bao gồm đất, nước và rừng. Vì việc sử
dụng nguồn nước đã được đề cập ở phần trên và nguồn tài nguyên rừng sẽ được
trình bày ở nội dung tiếp theo. Vì thế, với vốn tự nhiên, ở phần này đề tài chủ yếu
tập trung vào tình hình sử dụng đất đai của hai nhóm dân cư.
56
Trước hết, xét trên toàn bộ phạm vi xã Mã Đà thì diện tích đất đai được
phân bố như sau (UBND xã Mã Đà, 2007):
- Diện tích rừng tự nhiên: 21.527,4 ha
- Diện tích rừng trồng: 1.599,7 ha (diện tích khoán cho dân: 798,2ha)
- Diện tích nông nghiệp: 2.171,1 ha (diện tích khoán cho dân: 1838,2ha).
- Diện tích đất không có rừng: 495,7 ha
Diện tích đất sản xuất nông nghiệp và rừng trồng chia bình quân theo hộ
trên toàn xã là 1,53 ha/ hộ và chia bình quân theo khẩu là 0,33 ha/ khẩu.
Dưới đây là diện tích đất đang được sử dụng tại các hộ gia đình từ số liệu
điều tra mẫu của 132 hộ.
Tình hình sử dụng đất
Tỷ lệ (%) sử dụng đất canh tác
Ha/hộ
Trồng trọt
Lâm nghiệp Nuôi cá
1,82
86,5
10,9
2,6
Chung
1,86
85,9
11,4
2,7
Nhóm người Kinh
1,37
100,0
0
0
Nhóm dân tộc
Bảng 4.11 Cơ cấu sử dụng diện tích đất canh tác của các hộ gia đình
Nhận xét:
- Trước hết, ta thấy diện tích đất nông nghiệp và rừng trồng bình quân là
1,53 ha/hộ là một con số khá lớn so với các xã lân cận trong vùng. Theo kết quả
điều tra thì con số sử dụng là 1,82 ha/hộ (bằng 119%). Như vậy có thể khẳng
định rằng, bình quân diện tích đất canh tác của những hộ sống gần và ven rừng
thì cao hơn xấp xĩ bình quân của toàn xã. Trong đó phần sử dụng cho cây nông
nghiệp chiếm 86,5%, phần sử dụng cho trồng cây lâm nghiệp chiếm 10,9%.
- Tiếp theo, về tình hình sử dụng đất của nhóm hộ người Kinh và người
dân tộc như thể hiện ở bảng 4.11 cho thấy, có sự khác biệt về cách thức sử dụng
57
đất của hai nhóm dân cư này. Người Kinh quan tâm nhiều đến việc trồng cây
nông nghiệp (85,9%) và có một phần đất trồng cây lâm nghiệp hoặc nuôi cá; còn
người dân tộc hoàn toàn chỉ sử dụng đất để trồng trọt (100%), không có trồng cây
lâm nghiệp cũng như ao thả cá, nếu có trồng cây ăn quả thì cũng chỉ trong phạm
vi vườn hộ. Riêng đất cho trồng rừng để tự trồng tự hưởng có thể liên quan đến
chính sách từ trên xuống, nhưng điều đó cũng nói lên phần nào việc sử dụng diện
tích đất có sự khác biệt giữa hai nhóm dân cư này. Lý do ở đây vừa có nguồn gốc
từ tập quán sản xuất và cũng vừa xuất phát từ nguyên nhân bên ngoài.
Loại hình canh tác
Loài cây trồng
Tổng diện
Số hộ có
Diện tích
chính
tích
sử dụng
bình quân
(ha/hộ)
(ha)
(hộ)
Đất vườn hộ
Nhiều loài cây
4,73
132
0,04
(vườn tạp)
và thổ cư
Đất trồng Điều
Điều
80,1
81
0,99
Đất trồng Xoài
Xoài
109,8
95
1,16
Đất lúa nước
Lúa nước
11,1
13
0,85
Đất n.nghiệp
Bắp, mì, mía
1,68
5
0,34
Đất khác
Trồng xen LN,NN
2,90
5
0,58
Đất lâm nghiệp
Keo lai
22,9
17
1,35
Đất ao cá
Nuôi cá
7,25
9
0,81
Bảng 4.12 Tình hình sử dụng tài nguyên đất của các hộ gia đình
Theo bảng 4.12, riêng vườn hộ nhà nào cũng có (0,44 ha/hộ) và trồng
nhiều loài cây khác nhau, diện tích bình quân/hộ (có trồng) lớn nhất thuộc về cây
Keo lai (1,35 ha/hộ), sau đến Xoài (1,16 ha/hộ) và Điều (0,99 ha/hộ). Diện tích
trồng lúa nước chỉ có ở các hộ thuộc ấp 7, diện tích ao cá cũng chỉ có ở ấp có
những hộ gần hồ Trị An. Theo kết quả trên, các diện tích được sử dụng theo kiểu
“thâm canh” đã chiếm tỷ lệ cao hơn nhiều so với hỗn loại và xen canh, chứng tỏ
58
trình độ sản xuất đối với các loài cây trồng đã ở mức độ cao hơn và sản phẩm cây
trồng đã mang tính hàng hoá.
Tóm lại, chúng ta thấy rằng, các loại hình sử dụng đất ở nhóm hộ người
Kinh đa dạng hơn nhóm hộ người dân tộc. Người dân tộc hầu như chỉ có lúa
nước với ít nương rẫy trong rừng, người Kinh ngoài các loài cây trồng thâm canh
còn sử dụng mặt nước cho chăn nuôi thủy sản.
Một tình trạng thực tế đã xảy ra tại địa phương là việc các hộ gia đình
người Kinh khi mới đến định cư đã chuyển nhượng đất trồng từ các hộ gia đình
định cư trước đó, hoặc các tư nhân từ nơi khác đến “mua đất”, sau đó họ tiếp tục
đầu tư và có thể lại chuyển nhượng cho người khác. Điều này đã dẫn đến tình
trạng có một số hộ đã lén lút lấn chiếm đất rừng để lấy đất canh tác, sau đó bán
lại (mặc dù không hợp pháp). Chính vì thế, các diện tích như khai báo chưa phải
là con số đầy đủ khi nói tới việc sử dụng đất cho sinh kế hộ gia đình.
4.1.3.5 Tài sản xã hội
Từ thực tế bối cảnh tại địa phương, tài sản xã hội được chúng tôi xác định
bằng khả năng mua bán trao đổi hàng hoá và sự tham gia của người dân vào các
hoạt động mang tính tổ chức trong cộng đồng.
- So với các xã khác trong huyện, xã Mã Đà ở khá gần Trung tâm Vĩnh
Cửu, nhưng vì là xã rộng cho nên cự ly đến trung tâm xã và huyện rất khác nhau,
ví dụ ấp 1 ở tại trung tâm xã và cách huyện 5 km, các ấp khác lần lượt cách xa
dần và tới ấp 7 thì xa nhất là 35 km. Vì vậy, hầu hết người dân trong những ấp
vùng sâu ít khi ra trung tâm huyện để trao đổi mua bán hàng hóa. Song, do có
đường giao thông tương đối thuận lợi nên không có sự khác biệt lớn về khả năng
buôn bán trong phạm vi xã. Kết quả phỏng vấn đối với nhóm hộ người Kinh, có
tới 52/122 hộ bán sản phẩm hàng hóa cho những người thu mua vào tận nhà với
lý do nhiều nhất là có thể lấy tiền liền, đồng thời họ cho rằng không phải tốn
công đi xa.
59
- Tiến hành tìm hiểu sự tham gia của các hộ gia đình trong một số tổ chức
đoàn thể tại địa phương để thấy được mối quan hệ xã hội của các nhóm hộ
này. Kết quả thu được từ bảng 4.13 dưới đây cho thấy, số người trong nhóm
hộ gia đình người Kinh tham gia vào các tổ chức đoàn thể tương đối nhiều.
Đặc biệt, ở cả hai nhóm hộ sự tham gia trong hội Nông dân và hội Phụ nữ là
một điều kiện thuận lợi để có thể tiếp cận nguồn vốn vay từ ngân hàng.
Bảng 4.13 Số hộ tham gia vào các tổ chức đoàn thể tại địa phương
Nhóm hộ Tổng Tổ chức Kinh Dân tộc Cộng %
1. Không tham gia 20 1 21 15,9
2. Hội nông dân 75 6 81 61,3
3. Hội phụ nữ 17 2 19 14,4
4. Hội người cao tuổi 7 1 8 6,1
5. Tổ Cựu chiến binh 2 0 2 1,5
6. Đoàn Thanh niên 1 0 1 0,8
4.2 Sự phụ thuộc vào tài nguyên rừng cho sinh kế của các nhóm hộ dân tại
xã Mã Đà
4.2.1 Sự phụ thuộc của các nhóm hộ dân vào tài nguyên rừng
Để đi tìm hiểu sự phụ thuộc vào tài nguyên rừng của các nhóm hộ tại địa
phương, trước hết sẽ phân tích nguồn thu nhập từ rừng của các nhóm dân cư này.
Bởi vì, thu nhập từ rừng là một chỉ báo quan trọng của những cộng đồng có cuộc
sống dựa vào rừng. Việc phân tích nguồn thu nhập từ rừng của người dân có thể
cung cấp một sự hiểu biết sâu sắc về việc quản lý tài nguyên và chiến lược sinh
kế của họ. Ngoài ra, thu nhập từ những hoạt động liên quan đến rừng cũng được
coi như là một tiêu chuẩn để đánh giá giá trị của tài nguyên rừng và sự phụ thuộc
của con người vào rừng.
60
Đa dạng sinh học của tài nguyên rừng trên địa bàn xã Mã Đà nói riêng và
KBT Vĩnh Cửu nói chung đã có tác dụng quan trọng đối với đời sống của cộng
đồng dân cư địa phương. Từ nhiều năm nay, việc khai thác tài nguyên rừng mang
lại nguồn thu nhập cho người dân xã Mã Đà. Kết quả từ bảng 4.10 và hình 4.2 ở
phần trên đã cho ta thấy ngay rằng, nhóm người dân tộc có đời sống phụ thuộc
vào rừng cao hơn so với nhóm người Kinh.
Phần tiếp theo sau đây là những phân tích chi tiết cho sự phụ thuộc vào
rừng của hai nhóm này.
Bảng 4.14 Cơ cấu thu nhập (%) từ các sản phẩm rừng của nhóm hộ
Nhóm hộ dân Tỷ lệ (%) đóng góp vào thu nhập
sử dụng TNR Tr.rừng Gỗ TV rừng ĐV rừng Khác
Chung 7,7 27,1 18,4 12,6 34,2
Nhóm ng.Kinh 8,3 28,0 17,7 12,8 33,3
Nhóm dân tộc 0,0 15,6 27,7 11,1 45,7
Nhận xét:
Thu nhập bình quân từ các sản phẩm rừng của nhóm hộ người Kinh là 19,6
triệu/hộ, còn của nhóm người dân tộc là 13,7 triệu/hộ. Kết quả thể hiện ở bảng
4.14 còn cho thấy, trong 5 nguồn thu nhập từ rừng thì nguồn thu từ các sản phẩm
khác (gồm dầu chai, mật ong, song mây) chiếm tỷ lệ cao nhất (tới 34,2% tổng thu
nhập từ rừng), tiếp theo đó là thu nhập từ hoạt động khai thác gỗ (gồm cây gỗ
tươi và gỗ lục nhưng chủ yếu là gỗ lục) chiếm vị trí thứ hai (27,1%). Riêng đối
với nhóm hộ người dân tộc thì nguồn thu chính là từ khai thác dầu chai, mật ong
(45,7%), nguồn thu thứ hai từ thực vật rừng gồm măng, mây, cây thuốc, lồ ô
chiếm tỷ lệ khá cao (27,7%), còn khả năng săn bắt động vật thì có phần thấp hơn
người Kinh (11,1%), riêng thu nhập từ rừng trồng hoàn toàn không có.
61
Ngày nay, khi mà vốn rừng suy giảm, khả năng canh tác nông nghiệp và
chăn nuôi ngày càng tăng lên thì sự phụ thuộc vào tài nguyên rừng của người dân
địa phương có xu hướng cũng giảm theo, đấy là một thực tế hiển nhiên cho đa số
người Kinh. Song, một số khác ít nhiều họ vẫn còn phụ thuộc vào rừng khi đến
mùa giáp hạt, đồng thời các loại thức ăn kiếm được từ rừng có thể làm đa dạng
thêm bữa ăn cho những gia đình khá giả nhưng cũng có thể còn là nguồn thực
phẩm chính cho các gia đình nghèo khó. Hầu hết các hộ gia đình người dân tộc
trong xã Mã Đà đều thuộc diện khó khăn, nên tất yếu họ phải có một sự tác động
đến rừng cho kế sinh nhai của họ.
Ngoài khai thác gỗ, việc thu hái các lâm sản khác gỗ cho nhu cầu sinh hoạt
hàng ngày và thị trường tại chỗ là nguồn sống quan trọng khác của người dân nơi
đây. Một mặt vì dễ tiêu thụ (dầu chai, mật ong), mặt khác cũng vì nguồn tài
nguyên rộng lớn và đa dạng (các loại cây thuốc). Theo đó mà người dân thường
ưu tiên cho các loại lâm sản này.
Ngoài việc sử dụng số liệu thu nhập từ rừng để phản ánh sự phụ thuộc của
người dân vào rừng, đề tài còn tiến hành tìm hiểu và phân tích một số chỉ báo
khác cũng có thể cho thấy được sự phụ thuộc vào rừng của người dân, đó là quan
hệ định lượng giữa các nguồn thu nhập so với thu nhập chung (các phân tích
thống kê chi tiết được lưu trong phụ lục 2.3).
Tổng TN TN trồng
TN chăn
TN
trọt
TN từ rừng
nuôi
từ phi n.nghiệp
0,96**
Tổng TN
1
1
0,38* 0,22*
0,13 -0,20*
0,01 -0,18*
TN trồng trọt
1
-0,13
-0,06
TN chăn nuôi
1
-0,12
TN từ rừng
1
TN từ phi NN
Bảng 4.15 Mức độ quan hệ tương quan giữa các nguồn thu nhập
(Ghi chú: dấu ** biểu thị cho mức rất có ý nghĩa, * là mức có ý nghĩa)
62
Mức độ quan hệ tương quan giữa tổng thu nhập và thu nhập từ các nhóm
nguồn cho sinh kế như chỉ ra ở bảng 4.15 cho thấy:
- Tổng thu nhập chung của hộ gia đình phụ thuộc một cách có ý nghĩa về
phương diện thống kê vào thu nhập từ trồng trọt và chăn nuôi, trong đó mức độ
chặt chẽ hơn là với trồng trọt, nói ngắn gọn rằng: thu nhập từ trồng trọt chừng
nào thì tổng thu nhập chung cũng chừng ấy.
- Tổng thu nhập không có quan hệ tương quan với thu nhập từ rừng, mặc
dù thu nhập từ rừng cũng có quan hệ có ý nghĩa với thu nhập từ trồng trọt nhưng
ở mức độ không chặt lắm.
- Trừ hai mối quan hệ giữa tổng thu nhập với trồng trọt và chăn nuôi là tỷ
lệ thuận, các mối quan hệ kia là tỷ lệ nghịch, nghĩa là nếu tăng thu nhập từ nguồn
này thì lại giảm thu nhập từ nguồn kia.
Tóm lại, qua kết quả đánh giá sự phụ thuộc vào tài nguyên rừng dựa trên
các kết quả phân tích và kiểm định thống kê, đến đây ta có thể khẳng định rằng:
sinh kế (thông qua thu nhập) của người dân có phụ thuộc vào các nhóm sinh kế,
đặc biệt là nhóm ngành trồng trọt, sau đến nhóm ngành chăn nuôi, không phụ
thuộc nhiều vào các hoạt động liên quan tới rừng. Nói cách khác, thu nhập từ
rừng không phải là yếu tố quyết định sự sống còn của người dân ở đây, nó là yếu
tố ảnh hưởng gián tiếp hoặc mang tính hỗ trợ tới thu nhập, thậm chí có quan hệ
nghịch với thu nhập từ trồng trọt. Đó là những chỉ báo tốt dưới góc độ quản lý tài
nguyên, ít nhất ở hai mặt:
- Thứ nhất, cuộc sống hiện tại của người dân cộng đồng không hoàn toàn
phụ thuộc vào rừng như nếp nghĩa của chúng ta xưa nay, mặc dù rừng vẫn cung
cấp sản phẩm cho một số ít hộ gia đình. Nói cách khác, rừng vẫn có tác dụng cho
sinh kế của một số hộ gia đình nghèo chứ không phải cho toàn cộng đồng.
- Thứ hai, quan hệ tương quan âm giữa thu nhập từ trồng trọt với thu nhập
từ rừng cũng chứng tỏ rằng, một khi người dân có công ăn việc làm trên đất canh
63
tác của họ và cho thu nhập cao thì việc họ vào rừng để tạo thu nhập sẽ tự giảm đi
một cách có ý nghĩa.
Cũng cần chú ý thêm ở đây rằng, số liệu thu thập được trong nghiên cứu
về nguồn thu nhập từ rừng có thể vẫn chưa phản ánh chính xác ngoài thực tế. Vì
đây là vấn đề nhạy cảm khó nói trong bối cảnh hiện nay khi mà địa điểm nghiên
cứu nằm trong vùng đệm của Khu BTTN&DT Vĩnh Cửu, mọi hoạt động xâm hại
đến rừng đều bị nghiêm cấm.
4.2.2 Giá trị và tầm quan trọng của các sản phẩm từ rừng trong việc tạo ra
sinh kế
Tài nguyên rừng tại xã Mã Đà không những có vai trò quan trọng trong
việc tạo thêm thu nhập mà còn đóng góp một cách có ý nghĩa về an toàn môi
trường cho những hộ dân nơi đây. Tuy nhiên, nhìn nhận giá trị và tầm quan trọng
của các sản phẩm từ rừng thì khác nhau tùy thuộc vào tình trạng mức sống của
từng hộ gia đình và từng nhóm dân tộc. Những sản phẩm gỗ và ngoài gỗ như dầu
chai, măng, mây, tre nứa là nguồn thu nhập thêm của nhiều hộ gia đình nghèo
trong những tháng mùa khô và giáp hạt. Còn động vật rừng và một số lâm sản
phụ khác vừa được coi là nguồn thực phẩm lại vừa dễ tiêu thụ của nhóm hộ người
Kinh. Dưới đây là kết quả tổng hợp từ quá trình phỏng vấn 61 hộ gia đình (có
hoạt động liên quan tới sản phẩm rừng) về đánh giá vai trò và tầm quan trọng của
5 nhóm loại sản phẩm từ rừng đóng góp vào thu nhập hộ trong việc tạo ra sinh kế
(xem bảng 4.16).
64
Bảng 4.16 Tóm tắt xếp hạng về tầm quan trọng của các loại lâm sản
Sản phẩm Xếp hạng Lý do
Dầu chai, mật Nguồn thu còn nhiều (dầu chai), dễ bán để có
ong 1 thêm thu nhập trong thời gian nhàn rỗi, khai
thác được quanh năm.
Thực vật rừng Nhiều loại và dễ bán (cây thuốc), dễ đi lấy
(măng, mây, cây 2 vào mùa khô, phụ cấp thêm vào chi phí gia
thuốc, ...) đình (mây, tre, nứa) và làm thức ăn (măng).
Gỗ từ rừng Giá cả cao, có thị trường tiêu thụ, không sợ
3 trồng làm ăn gian dối, nhưng không phải hộ nào
cũng muốn là được (vốn, chính sách).
Gỗ từ rừng tự Chỉ lấy khi cần vật liệu làm nhà, có thể tiêu
nhiên 4 thụ được nhưng rất khó khăn vì dễ bị phát
hiện và tịch thu, gỗ lục thì dễ hơn.
Động vật rừng Tiêu thụ tại chỗ hoặc đem bán, có giá cao,
5 nhưng vi phạm luật (bị cấm) nên chỉ bắt thú
nhỏ, hoạt động mang tính lén lút.
(Ghi chú: 1, 2 là thứ bậc xếp hạng ưu tiên tính trên 5 sản phẩm)
Từ kết quả ở bảng 4.16 và so sánh với thu nhập từ các sản phẩm này (bảng
4.14) cho thấy, không phải sản phẩm có thu nhập cao và dễ bán thì được người
dân đánh giá cao hơn. Vai trò và tầm quan trọng của mỗi sản phẩm còn phụ thuộc
vào khả năng tiếp cận với nguồn tài nguyên ấy, vào khả năng tự đối phó khi gặp
tình huống xấu và tính cộng đồng (tập thể) trong khi thực hiện.
- Trong các sản phẩm ngoài gỗ mà người dân lấy từ rừng thì nhóm sản
phẩm gồm dầu chai, mật ong và một vài lâm sản phụ khác là nguồn lâm sản mà
cư dân địa phương đều đánh giá là quan trọng nhất. Nguyên nhân là do nhiều
65
tháng trong năm những người nhàn rỗi trong hộ gia đình vẫn có thể vào rừng thu
hái lâm sản. Theo người dân, lợi thế ở đây là đường đi thuận tiện, không bị kiểm
lâm bắt và có thể bán được ngay, trang trải thêm chi phí trong gia đình. Đặc biệt
đối với nhóm hộ dân tộc, đây còn là nguồn tiền mà họ có thể dành dụm để đóng
học phí cho con cái.
- Nguồn lâm sản phụ mà người dân cho là quan trọng tiếp theo là khai thác
các sản phẩm có nguồn gốc từ cây rừng như lấy nấm và măng, chặt tre nứa và lồ
ô, thu hái cây thuốc. Lý do, những hoạt động này đem lại thu nhập trực tiếp và có
thể sử dụng ngay trong gia đình (nấm, măng) hay đem bán (cây thuốc). Đặc biệt,
sự phụ thuộc vào lâm sản ngoài gỗ để làm thức ăn và thuốc chữa bệnh được thể
hiện rõ hơn ở nhóm hộ gia đình người dân tộc. Đối với nhiều người dân, hoạt
động khai thác tre, lồ ô hay lấy măng là công việc dễ dàng và dễ đem lại thu
nhập. Tuy nhiên, địa điểm khai thác những sản phẩm này không phải chỗ nào
cũng có.
- Sau cùng, nguồn sản phẩm từ rừng ít được hộ gia đình đánh giá cao là
khai thác cây gỗ lớn và săn bắt động vật rừng. Nguyên nhân đơn giản và hiệu quả
cao là hai sản phẩm này đã bị cấm triệt để, tâm lý người dân sợ bị bắt và sản
phẩm nếu bắt được cũng bị tịch thu. Người dân thường chỉ khai thác cây gỗ nhỏ
khi họ cần vật liệu để làm nhà và một số công cụ sản xuất, hoạt động này được
kết hợp khi đi thu hái mây hoặc lồ ô. Tuy nhiên, việc chặt cây gỗ lớn và săn bắt
động vật rừng vẫn xuất hiện ở một vài hộ người Kinh, họ tham gia theo một thói
quen mang tính nghề nghiệp.
4.2.3 Những thuận lợi, khó khăn, cơ hội và thách thức ảnh hƣởng đến khả
năng tiếp cận các tài sản tạo ra sinh kế
4.2.3.1 Thuận lợi
- Diện tích đất lâm nghiệp (đất rừng và đất trống) trong xã Mã Đà chiếm tỷ
lệ khá lớn (85,5%) trong tổng diện tích tự nhiên của xã. Do đó, cùng với cơ chế
66
mở của nhà nước về quy chế quản lý rừng đặc dụng là những thuận lợi cho công
tác giao đất (đất trống) giao rừng (rừng trồng) để người dân phát triển sản xuất
lâm nghiệp. Đồng thời, đất trong vùng có nhiều loại khác nhau nên thích hợp với
nhiều loại cây trồng như cây lâm nghiệp, cây công nghiệp, v.v.
- Hệ thống suối khá đa dạng (suối Boon, suối Sai) và đặc biệt là hồ thủy
điện Trị An đã cung cấp được nguồn nước tưới cho những hộ ở hầu hết các ấp.
Do đó, những hộ trồng cây ăn quả và cây công nghiệp (ấp 1, 2, 3) không lo khô
hạn, còn các hộ canh tác lúa nước (ấp 7) đã làm được 2 vụ/năm.
- Được nhà nước quan tâm và đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng. Điện, đường,
trường, trạm phải nói là rất tốt, nhất là giao thông liên xã và liên huyện đã hoàn
chỉnh, tạo điều kiện cho người dân trong địa bàn giao thương buôn bán và tiếp
cận dễ dàng với những dịch vụ từ bên ngoài.
- Số người trong độ tuổi lao động của xã là 4.752 so với 7.959 người,
chiếm tỷ lệ cao (59,7% tổng nhân khẩu) là nguồn lao động dồi dào của xã. Tỷ lệ
tăng dân số 1,83% là một đảm bảo về ổn định số dân trong tương lai.
4.2.3.2 Khó khăn
- Một trong những khó khăn lớn nhất mà bà con ở xã Mã Đà gặp phải là tỷ
lệ hộ nghèo thuộc diện cao nhất trong huyện (20,6% vào năm 2007, số liệu từ
UBND xã) và chênh lệch giữa mức giàu nghèo cũng rất lớn. Đây là một trở ngại
đối với nhóm người nghèo khi họ muốn chuyển đổi từ làm thuê sang làm chủ trên
đất canh tác của chính mình.
- Mặc dù diện tích canh tác bình quân trên hộ của toàn xã là 1,53 ha/hộ,
nhưng nhiều hộ vẫn cho rằng thiếu đất sản xuất, đất không được cấp chủ quyền
nên không dám đầu tư dài hạn, không chủ động được việc trồng cây gì vì có sự
can thiệp từ Ban quản lý KBT.
- Các chính sách về tín dụng, đầu tư hiện nay mặc dù đã mở rộng cho
nhiều đối tượng nhưng vẫn chưa khuyến khích người dân vay vốn vì thủ tục
67
rườm rà và thời gian hoàn vốn nhanh. Điều này đã dẫn đến nhiều hộ dân phải đi
vay nóng của tư thương với lãi suất khá cao.
- Thiếu biện pháp chăm sóc đất thích hợp để tái sản xuất, cỏ tranh lấn át
nên nhiều diện tích đất canh tác trong vườn hộ khiến đất bị cằn cỗi, thiếu dinh
dưỡng, khó có thể trồng các loài cây khác (nhất là đất đã trồng Điều). Bên cạnh,
cũng có nhiều địa điểm thiếu nguồn nước cho canh tác vào mùa khô nên diện tích
vườn hộ chưa được tận dụng triệt để cho trồng trọt.
4.2.3.3 Cơ hội
- Được sự hỗ trợ của nhiều dự án và chương trình về PTNT như dự án xóa
đói giảm nghèo, dự án bảo vệ rừng và phát triển nông thôn, chương trình giao đất
giao rừng cho hộ gia đình sản xuất kinh doanh, v.v.
- Đối với các hộ thuộc diện nghèo, nếu có phương án sản xuất khả thi thì
được khuyến khích cho vay vốn ưu đãi từ các chương trình như xóa đói giảm
nghèo thuộc Ngân hàng chính sách xã hội, vốn hỗ trợ đồng bào dân tộc đặc biệt
khó khăn, v.v.
- Ban điều hành xóa đói giảm nghèo của tỉnh ưu tiên hỗ trợ cho địa
phương về đầu tư cơ sở hạ tầng nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển
kinh tế và phục vụ an sinh xã hội. Đó là tiếp tục cải thiện đường giao thông,
trường học, trạm xá, ... những hạng mục này dự kiến sẽ thực hiện theo phương
châm nhà nước và nhân dân cùng làm.
4.2.3.4 Thách thức
- Trong hai năm trở lại đây, dịch cúm gia cầm và bệnh lở mồm long móng
ở khu vực lân cận đã tác động đến (nhưng chưa gây thiệt hại lớn cho hoạt động
chăn nuôi trên toàn khu vực xã Mã Đà), khiến nhiều hộ dân trong xã đã không
còn mạnh dạn đầu tư vào chăn nuôi gia súc, gia cầm. Bên cạnh, giá thức ăn gia
súc tăng cũng làm người chăn nuôi công nghiệp phải cân nhắc.
68
- Chính sách giao đất cho trồng rừng theo kiểu tự trồng tự hưởng trên địa
bàn xã chỉ triển khai ở một số hộ người Kinh nên có nguy cơ phát sinh mâu
thuẫn. Và mâu thuẫn sẽ căng thẳng hơn khi mà những hộ này chuyển nhượng đất
hay tự ý thay đổi loài cây trồng (từ trồng cây lấy gỗ sang trồng cây ăn quả hay
cây công nghiệp) trên đất được giao.
4.3 Các nhân tố ảnh hƣởng đến sinh kế và ảnh hƣởng của sinh kế đến tài
nguyên rừng
4.3.1 Ảnh hƣởng của các nguồn lực tự nhiên và xã hội đến khả năng tiếp cận
tài sản sinh kế
4.3.1.1 Các nguồn lực tự nhiên
a) Tài nguyên đất và rừng
Quỹ đất của xã Mã Đà rất lớn, tổng diện tích tự nhiên là 27.497 ha. Trong
đó đất nông nghiệp có 2.171,1 ha, chiếm 7,9%, đất lâm nghiệp chiếm tới 85,1%,
còn lại là đất khác (7%). Diện tích của xã nằm trong vùng lõi là 23.567,5 ha
chiếm 85,7% và diện tích ở vùng đệm là 3.929,5 ha chiếm 14,3% (UBND xã Mã
Đà, 2007). Phần diện tích đang canh tác trong vùng lõi không cấp quyền sử dụng
dù là đất nương rẫy vì trong phạm vi quản lý của KBT. Đối với đất lâm nghiệp
trong ranh giới hành chính xã thuộc vùng đệm do xã và KBT cùng quản lý. Hai
đơn vị này đã tiến hành giao một số diện tích đất lâm nghiệp cho người dân trồng
rừng theo chương trình 661.
Từ số liệu trên ta thấy, xã Mã Đà có tiềm năng đất nông nghiệp và lâm
nghiệp rất lớn (đất tự nhiên lớn nhất so với các xã khác của huyện Vĩnh Cửu).
Đối với đất lâm nghiệp ngoài vùng đệm dự kiến giao cho các hộ dân trong xã.
Đây là cách tốt nhất để người dân vừa có thể duy trì và phát triển vốn rừng vùng
đệm vừa có thể được hưởng lợi từ những sản phẩm rừng nhận được, từ đó cải
thiện dần cuộc sống của họ.
69
Với 21.527,4 ha diện tích đất có rừng tự nhiên cho thấy, xã Mã Đà có thế
mạnh về các sản phẩm lâm nghiệp. Từ năm 2002, một số khu vực thuộc địa bàn
xã được công nhận là vùng đệm của Khu BTTN&DT Vĩnh Cửu. Do đó, mọi tác
động của người dân vào tài nguyên rừng tự nhiên bị hạn chế. Điều này đã ảnh
hưởng đến sinh kế của người dân. Song, dự án BVR&PTNT cũng hình thành và
triển khai giao đất giao rừng cho người dân theo quyết định 178. Đây là một hoạt
động góp phần vào việc tăng diện tích đất canh tác cho người dân. Tuy nhiên,
điều này đã dẫn đến việc nảy sinh mâu thuẫn giữa những hộ được nhận và không
được nhận rừng, nhưng ngược lại, tài nguyên rừng tự nhiên sẽ được bảo tồn và
phát triển tốt hơn.
b) Tài nguyên cây trồng
Đất ở xã Mã Đà thuộc nhóm Feralit đỏ vàng phát triển trên sa phiến thạch,
đây là nhóm đất chủ yếu và phổ biến nhất. Nhóm đất này có độ phì trung bình,
tầng đất mỏng nhưng trong điều kiện có nguồn nước tưới nên thích hợp với các
loài cây công nghiệp dài ngày như cây ăn quả và cây lâm nghiệp.
Theo kết quả điều tra tại hiện trường (bảng 4.1 và 4.2), cây Xoài và Điều
là hai loại cây trồng chiếm phần lớn diện tích trong tổng diện tích canh tác của
các hộ gia đình. Việc người dân chọn cây Điều bởi nó phù hợp với điều kiện đất
đai ở địa phương và không cần phải tốn nhiều công chăm sóc, đặc biệt loại hình
canh tác này phù hợp với túi tiền của đa số hộ nghèo và hộ dân tộc. Với nhóm hộ
người Kinh thì diện tích đất canh tác các giống Xoài đã chiếm ưu thế cả về số hộ
trồng (76,2%) và diện tích trồng (bình quân 1,16 ha/hộ).
Ngoài hai loại cây trồng trên thì bắp và khoai mì cũng được một số hộ gia
đình người Kinh canh tác xen canh giữa các tháng trong năm. Dĩ nhiên, nhiều
loại cây ăn quả khác (mít, chôm chôm, đu đủ) và cây hoa màu (rau đậu các loại)
vẫn được trồng trong các vườn hộ. Còn lúa nước thì được nhóm hộ gia đình
người Ch’ro (ấp 7) quan tâm nhiều hơn, chủ yếu trồng ở những vùng đất thấp và
70
trong những tháng mưa. Như vậy, số loài cây trồng cho thu nhập hiện diện trong
khu vực này chưa hẳn là nhiều.
Bảng 4.17 Mức độ quan hệ tương quan giữa các nguồn thu nhập
Cộng Lúa nước Ng.ngày Điều Xoài
Cộng (tr.trọt) 1 0,30* 0,95** -0,09 0,13
Cây Điều 1 0,02 -0,12 -0,39**
Cây Xoài 1 -0,09 -0,08
Lúa nước 1 -0,06
Cây ngắn ngày 1
(Ghi chú: dấu ** biểu thị cho mức rất có ý nghĩa, * là mức có ý nghĩa)
Theo bảng 4.17, có thể khẳng định rằng, thu nhập từ trồng trọt nói chung
có quan hệ tương quan rất chặt chẽ với thu nhập từ trồng Xoài (r = 0,95), sau đó
đến cây Điều (r = 0,30). Kết quả trên cũng chỉ ra một điều thú vị rằng, thu nhập
từ lúa nước và các loại cây ngắn ngày có quan hệ âm với các nguồn thu nhập
khác, chứng tỏ hộ gia đình nào có thu nhập từ Xoài và Điều thì coi như không có
thu nhập từ lúa nước hay cây ngắn ngày. Trên thực tế, hai loại thu nhập trên rất ít
trùng trong cùng một hộ gia đình.
4.3.1.2 Cấu trúc cộng đồng và hộ gia đình
a) Dân tộc, tôn giáo và thu nhập
Dân số xã Mã Đà tính đến đầu năm 2007 là 1.725 hộ với 7.959 khẩu. Dân tộc
gốc địa phương là Ch’ro, ngoài ra còn 8 dân tộc khác đều là di cư. Tuy nhiên,
tỷ lệ người Ch’ro cũng chỉ có 12 trên tổng số 1.725 hộ của xã.
Theo kết quả của 132 hộ thấy rằng, nhóm dân cư chiếm tỷ lệ cao nhất
trong địa bàn xã chính là nhóm hộ người Kinh (92,4%). Các hộ gia đình người
Kinh ở đây (như đã đề cập trong Dòng thời gian, mục 4.1.1) có nguồn gốc từ
nhiều địa phương và đến định cư tại đây dưới nhiều hình thức khác nhau. Họ di
71
cư vào đây theo từng nhóm công việc. Do đó, mối quan xã hội không mang nặng
tính dòng dõi gia đình hay địa phương, là điểm khác biệt với nhiều cộng đồng
thuần túy là dân địa phương gốc. Đây là đặc điểm mà đề tài này quan tâm hơn khi
xem xét sự khác biệt giữa hai nhóm sinh kế người dân.
Từ kết quả điều tra của 132 hộ thấy rằng, có 3 loại tôn giáo phổ biến ở đây
là Phật giáo (37,1%), Thiên chúa giáo (36,2%) và Tin lành (6,1%). Tuy nhiên, số
người không theo tôn giáo nào cũng phổ biến (24,2%).
Để đánh giá sinh kế của người dân có phụ thuộc vào dân tộc và tôn giáo
như đã đặt ra hay không, sử dụng kiểm định bằng phương pháp định tính. Kết
quả về mức độ quan hệ như ghi nhận trong bảng 4.18 (chi tiết ở phụ lục 2.2).
Bảng 4.18a Mức tổng thu nhập (triệu/hộ/năm) của các nhóm hộ dân
Mức thu nhập Kinh (hộ) Dân tộc (hộ) Tổng (hộ) Tỷ lệ (%)
Dưới 25 triệu 31 8 39 29,5
Từ 25 – 50 triệu 48 2 50 37,9
Từ 50 – 100 triệu 26 0 26 19,7
Từ 100 – 200 triệu 9 0 9 6,8
Trên 200 triệu 8 0 8 6,1
Kiểm định Chi-square cho biết P = 0,008 xác định quan hệ phụ thuộc này
là rất có ý nghĩa về phương diện thống kê (P nhỏ hơn 0,01), nghĩa là sinh kế (thể
hiện qua thu nhập) phụ thuộc rất có ý nghĩa vào thành phần dân tộc mà ở đây là 2
nhóm khác nhau. Nhóm người Kinh có thu nhập ở tất cả các mức mà nhiều nhất
từ 25 – 50 triệu, trong khi đó nhóm dân tộc đa số hộ thu nhập ở mức dưới 25
triệu/hộ.
72
Bảng 4.18b Mức tổng thu nhập (triệu/hộ/năm) của các nhóm tôn giáo
Mức thu nhập Phật giáo (hộ) Thiên chúa Không có Tin lành
(hộ) (hộ) (hộ)
Dưới 25 triệu 13 4 6 16
Từ 25 – 50 triệu 23 9 2 16
Từ 50 – 100 triệu 7 12 0 7
Từ 100 – 200 triệu 3 4 0 2
Trên 200 triệu 3 3 0 2
Kiểm định Chi-square cho biết P = 0,025 xác định quan hệ phụ thuộc này
là có ý nghĩa về phương diện thống kê (vì P nhỏ hơn 0,05), nghĩa là sinh kế (thể
hiện qua thu nhập) phụ thuộc có ý nghĩa vào thành phần tôn giáo mà ở đây là 4
nhóm khác nhau. Nhóm Phật giáo thu nhập nhiều ở mức 25 – 50 triệu, nhóm
Thiên chúa giáo thu nhập dao động trong khoảng dưới 50 triệu, nhóm Tin lành đa
số dưới 25 triệu, riêng nhóm không theo tôn giáo nào lại nổi trội hơn ở mức từ 50
– 100 triệu.
b) Nhân khẩu, lao động và thu nhập
Là một xã chuyên sống bằng sản xuất nông nghiệp và tổng thu nhập hàng
năm từ nông nghiệp chiếm tới 63,0% (bảng 4.10). Do nhân khẩu, lao động trong
hộ có ảnh hưởng mang tính quyết định tới các hoạt động nông nghiệp (trồng cây,
chăm sóc, thu hoạch đều cần nhiều đến lao động phổ thông). Do đó, giả thuyết
đặt ra ở đây là cấu trúc cộng đồng thông qua các con số về nhân khẩu và lao động
có thể ảnh hưởng tới sinh kế của hộ. Các kết quả về mức độ quan hệ như ghi
nhận trong bảng 4.19 (chi tiết về kiểm định lưu ở phụ lục 2.2).
73
Bảng 4.19 Mức tổng thu nhập (triệu/hộ/năm) theo số lao động/hộ
Mức thu nhập Có 1-2 lao Có 3-4 lao Có 5-6 lao Tổng (hộ)
động (hộ) động (hộ) động (hộ)
Dưới 25 triệu 26 3 39 10
Từ 25 – 50 triệu 15 11 50 24
Từ 50 – 100 triệu 10 3 26 13
Từ 100 – 200 triệu 2 2 9 5
Trên 200 triệu 6 1 8 1
Kiểm định Chi-square cho biết P = 0,017 xác định quan hệ phụ thuộc này
là có ý nghĩa về phương diện thống kê (P nhỏ hơn 0,05), nghĩa là sinh kế thể hiện
qua thu nhập phụ thuộc có ý nghĩa vào số lao động/hộ mà ở đây là 3 nhóm khác
nhau. Hộ có 1-2 lao động có thu nhập dưới 25 triệu chiếm nhiều nhất, hộ có 3-4
hoặc 5-6 lao động có thu nhập ở mức 25 đến 50 triệu chiếm cao nhất.
c) Tín dụng và tiết kiệm
Cuộc sống của người dân tại xã Mã Đà còn khó khăn, nhiều hộ gia đình
phải lo ăn từng ngày, nên việc tích lũy hầu như không có. Tuy nhiên, trong những
năm trở lại đây, vấn đề này đã được giải quyết nên đến năm 2008, số hộ trong xã
vay Ngân hàng NN&PTNT, Ngân hàng Chính sách xã hội và các tổ chức khác đã
lên đến 102/132 hộ. Ngoài ra, xã còn có hình thức vay tín chấp tại Quỹ tín dụng
người nghèo cũng từ nguồn vốn của Ngân hàng Chính sách xã hội nhưng được
Hội phụ nữ của xã đứng ra bảo lãnh. Nhìn chung, trong giai đoạn năm 2005-
2008, đã có 5 tổ chức chính thức đứng ra cho vay (kể cả Hội Nông dân và Hội
Phụ nữ), thời hạn vay thông thường 2 - 4 năm, số tiền vay phổ biến là 5 – 10 triệu
đồng (cao nhất 20 triệu đồng). Kết quả sử dụng vốn vay của nhân dân đều có hiệu
quả, người dân đã thực hiện tốt việc trả lãi theo tháng và quý. Sau đây là minh
74
chứng về số hộ vay vốn và làm ăn có lãi (thông qua thu nhập) của 132 hộ điều tra
trong xã Mã Đà.
Bảng 4.20 Mức tổng thu nhập (triệu/hộ/năm) theo vốn vay tín dụng
Mức thu nhập Có vay (hộ) Không vay (hộ) Tổng (hộ) Tỷ lệ (%)
Dưới 25 triệu 36 39 29,5 3
Từ 25 – 50 triệu 41 50 37,9 9
Từ 50 – 100 triệu 21 26 19,7 5
Từ 100 – 200 triệu 4 9 6,8 5
Trên 200 triệu 0 8 6,1 8
Kiểm định Chi-square cho biết P = 0,000 xác định quan hệ phụ thuộc này
là cực kỳ có ý nghĩa về phương diện thống kê (P nhỏ hơn 0,00), nghĩa là sinh kế
(thể hiện qua thu nhập) hoàn toàn phụ thuộc một cách rất có ý nghĩa vào việc vay
tiền của hộ mà ở đây là 2 nhóm khác nhau (có vay và không vay). Hộ có vay thì
có thu nhập và phân bố chủ yếu trong khoảng từ 25 đến 200 triệu, tuy vậy một số
hộ không có vay cũng vẫn có thu nhập cao (thậm chí trên 200 triệu) vì tự họ có
sẵn vốn đầu tư cho sản xuất.
d) Đầu tư và thu nhập
Khi nói đến các yếu tố ảnh hưởng đến sinh kế về góc độ gia đình không
thể không nói đến khả năng đầu tư. Đầu tư thể hiện tiềm lực kinh tế của gia đình,
đồng thời cũng biểu hiện “cách làm ăn” của hộ gia đình ấy. Nó là kết quả từ
nhiều yếu tố manh mối hợp thành như sự hiểu biết, tiếp cận thị trường, chớp cơ
hội, thói quen, cạnh tranh, ... Số tiền đầu tư có thể là nguồn vốn có sẵn của gia
đình, cũng có thể từ vốn vay tín dụng hoặc tiền vay cá nhân. Song, dù là nguồn
nào đi nữa thì khi đầu tư người dân cũng đều kỳ vọng có một khoản thu nhập cao
75
hơn. Sử dụng phương pháp phân tích định lượng bằng quan hệ tương quan và hồi
quy (phụ lục 2.3), kết quả hiển thị như trình bày trong hình 4.3:
Hình 4.3 Biểu diễn quan hệ hồi quy giữa thu nhập và đầu tư của hộ
Nhận xét:
Phương trình hồi quy đường thẳng Y = 1,6008X + 24,875 với hệ số của X
(tức đầu tư) là 1,6008 rất cao, chứng tỏ tốc độ tăng của Y (tức thu nhập) càng
nhanh khi đầu tư càng nhiều. Bên cạnh, hệ số tương quan (r = 0,846) đã khẳng
định mối quan hệ khá chặt giữa thu nhập và đầu tư. Thực tế số liệu điều tra hộ
cho thấy, trong số 131/132 hộ có đầu tư thì tất cả các hộ này đều có thu nhập, hộ
có đầu tư cao nhất (350 triệu) cũng là hộ có thu nhập lớn nhất (510 triệu), dĩ
nhiên là số ít hộ vẫn có thu nhập thấp hơn so với số tiền đầu tư. Hình 4.3 cũng
cho thấy, số hộ đầu tư trong khoảng dưới 50 triệu và thu nhập dưới 100 triệu đã
chiếm hơn 50% tổng số hộ ở đây.
Một trong số những lý do giải thích cho quan hệ tỷ lệ thuận giữa thu nhập
và đầu tư này là từ cây trồng (bảng 4.21).
76
Bảng 4.21a Đầu tư và thu nhập từ trồng Điều và Xoài của các hộ
Trồng Điều Trồng Xoài
Số hộ Đầu tư Thu nhập Số hộ Đầu tư Thu nhập
tham gia (triệu/hộ) (triệu/hộ) tham gia (triệu/hộ) (triệu/hộ
87/84 6,6 12,3 84/89 18,8 34,6
Bảng 4.21b Đầu tư và thu nhập từ trồng lúa nước và cây ngắn ngày
Trồng lúa nước Trồng các loại cây ngắn ngày
Số hộ Đầu tư Thu nhập Số hộ Đầu tư Thu nhập
tham gia (triệu/hộ) (triệu/hộ) tham gia (triệu/hộ) (triệu/hộ)
13 2,8 5,0 33/46 5,0 11,6
Nhận xét:
- Cây trồng Điều và Xoài: Có trên 80 hộ đầu tư vào hai loại cây trồng này,
số tiền đầu tư bình quân/hộ là 6,6 triệu (Điều) và 18,8 triệu (Xoài) nhưng thu
nhập là 12,3 triệu (Điều) và 34,6 triệu (Xoài), nghĩa là số thu nhập lớn hơn đầu tư
1,84 đến 1,86 lần.
- Trồng lúa nước và các loại cây ngắn ngày: Chỉ có 13 hộ ở ấp 7 đầu tư
trồng lúa nước, có 33 hộ đầu tư trồng chuyên canh và ngoài ra là các hộ trồng xen
canh Bắp, Mì, Đậu các loại. Số tiền bình quân/hộ đều dưới 5 triệu và số thu nhập
lớn hơn đầu tư 1,76 lần (lúa nước) đến 2,32 lần (các loại cây khác).
4.3.1.3 Các tổ chức và định chế địa phương
Theo sự phân tích và đánh giá của người dân địa phương, UBND xã Mã
Đà là một tổ chức chính quyền cao nhất trong xã, mọi hoạt động của nó có tác
động rất lớn đến sự phát triển của địa phương. Thật vậy, bà con nơi đây đều có ý
kiến chung rằng: tất cả mọi vấn đề, công việc bà con đều liên hệ với Ủy ban, từ
các cuộc họp dân, triển khai các hỗ trợ từ các dự án đầu tư vào địa phương đến
77
việc giải quyết các tranh chấp, mâu thuẫn; và cũng bởi vì UBND là nơi mà mọi tổ
chức khác ngoài địa phương khi muốn đến làm việc đều phải thông qua, chẳng
hạn như dự án Bảo vệ rừng và PTNT, các hỗ trợ của chương trình 135, 661, ...
Hay nói cách khác, Ủy ban là cầu nối giữa các tổ chức, chương trình dự án bên
ngoài với người dân địa phương.
Trong sự phát triển kinh tế của bà con xã Mã Đà, như kết quả ở mục trên,
sự có mặt của Ngân hàng Chính sách và Ngân hàng NN&PTNT là không thể
thiếu. Tuy nhiên, để vay được vốn từ Ngân hàng, bà con phải trải qua nhiều thủ
tục phức tạp. Vì vậy, Hội phụ nữ và Hội Nông dân xã đã giúp cho người dân tiếp
cận được nguồn vốn vay từ các ngân hàng. Các hoạt động của Hội luôn được sự
ủng hộ của các thành viên và người dân nên phạm vi hoạt động của Hội ngày
càng lan rộng sang cả những tổ chức khác như vận động bà con thực hiện kế
hoạch hóa gia đình, tiêm phòng dịch bệnh, ... Có thể nói, sau Ủy ban nhân dân,
Hội phụ nữ và Hội Nông dân được coi là một trong những tổ chức gần gũi và có
tầm ảnh hưởng đối với người dân trong xã.
Bên cạnh các tổ chức trên, trong xã còn có Hội người cao tuổi, Hội cựu
chiến binh, Mặt trận Tổ quốc. Hội người cao tuổi và Hội cựu chiến binh rất gần
gũi với người dân thông qua hoạt động tinh thần của Hội. Hội người cao tuổi
chấp hành tốt pháp luật; còn Hội cựu chiến binh có quyền kiểm tra hoạt động của
UBND xã. Mặc dù Hội gần gũi với bà con thông qua hoạt động tinh thần nhưng
hoạt động của các Hội này chưa thật sự giúp bà con giải quyết những khó khăn.
Mặt trận Tổ quốc tuy là một tổ chức không thể thiếu trong đời sống chính trị,
nhưng những hoạt động của tổ chức này cũng chưa có ảnh hưởng rõ rệt đến đời
sống của người dân trong xã.
Tình hình canh tác của xã hiện nay rất cần sự hướng dẫn về kỹ thuật nên
những hoạt động của Hội nông dân xã và Trạm Khuyến nông huyện đóng vai trò
rất quan trọng trong việc chuyển giao những kỹ thuật mới. Trên thực tế, những
hoạt động của hai tổ chức này thực sự thu hút sự quan tâm của người dân nơi đây.
78
Qua quá trình hình thành và phát triển của xã như trình bày ở trên, về khía
cạnh tổ chức và định chế phát triển công đồng xã Mã Đà, tựu trung lại có thể rút
ra một số nhận định chính như sau:
- Các tổ chức chính thức như UBND xã, Khu Bảo tồn, Hội Nông dân, Hội
Phụ nữ, Trạm Khuyến nông, Ngân hàng nhà nước đều có ảnh hưởng tích cực tới
sự phát triển chung của cộng đồng. Những ảnh hưởng này là trực tiếp (như
UBND, Ngân hàng, tín dụng) và cũng có thể là gián tiếp (Hội Phụ nữ, Hội Nông
dân, ...). Nếu hiển thị trên sơ đồ Venn thì các tổ chức này được người dân đặt ở
các vị trí gần nhất.
- Nếu là các hoạt động liên quan đến đất rừng để sản xuất nông hay lâm
nghiệp thì vai trò của Ban quản lý KBT được đánh giá cao, còn các hoạt động
khác liên quan tới đời sống hàng ngày thì các tổ chức chính quyền và đoàn thể
được người dân đánh giá cao hơn. Như vậy, có thể nói nhận thức về vai trò của
các tổ chức ở đây không còn là “chung chung” nữa, bà con đã phân biệt được cấp
quản lý hành chính (theo bề ngang) và cấp quản lý ngành (theo chiều dọc). Ví dụ:
việc chuyển nhượng đất sản xuất nông nghiệp, việc trồng các loại cây ăn quả hay
lấy hạt trên đất lâm nghiệp để có thu nhập cao là vấn đề mà bà con phản ánh và
Ban quản lý KBT đang phải đối mặt.
- Người dân cũng nhận thức được các chính sách xã hội đã đi vào cuộc
sống thông qua các chương trình của Nhà nước và của nhiều dự án phát triển
nông thôn khác nhau. Cơ sở hạ tầng trong xã được phát triển tương đối khá so với
các xã khác trong vùng sâu. Trong phạm vi xã Mã Đà không có quy định sử dụng
cơ sở hạ tầng của riêng từng thôn. Người dân nơi đây đã có điều kiện như nhau
để tiếp cận với các dịch vụ mà cơ sở hạ tầng này mang lại.
79
4.3.2 Ảnh hƣởng của các nhóm sinh kế đến tài nguyên rừng của Khu Bảo tồn
Thiên nhiên và Di tích Vĩnh Cửu
Để thuận tiện cho việc đánh giá mức độ ảnh hưởng của các giải pháp sinh
kế đến tài nguyên rừng của KBT, chúng tôi đã gặp gỡ nhóm thành viên trong
cộng đồng và tiến hành thảo luận về sự ảnh hưởng từ mỗi sinh kế khác nhau theo
từng nhóm. Mức độ ảnh hưởng đến tài nguyên rừng được xác định theo các cấp
độ tương đối và định tính như sau:
1 - Bình thường
2 - Ít nghiêm trọng
3 - Nghiêm trọng
4 - Rất nghiêm trọng
Theo mục 4.1.2 đã chia thành 4 nhóm sinh kế. Các kết quả ảnh hưởng
được xác định cho từng nhóm sinh kế như trình bày sau đây:
4.3.2.1 Ảnh hưởng từ sản xuất lâm nghiệp
Sản xuất lâm nghiệp là nhóm hoạt động thể hiện rõ nhất về sự phụ thuộc
hoàn toàn vào tài nguyên rừng và điều đó kéo theo sự ảnh hưởng tới chúng. Theo
đặc điểm tác động từ các hoạt động của sinh kế này, đã chia thành hai nhóm riêng
biệt để xác định mức độ ảnh hưởng. Bởi vì, theo nhận định của những người
tham gia, mức độ ảnh hưởng giữa hai nhóm đó có sự cách biệt nhau rõ rệt.
+ Từ hoạt động trồng rừng và quản lý rừng trồng
Trồng rừng và quản lý rừng trồng là hai hoạt động có ảnh hưởng tích cực
đến tài nguyên rừng cả về bản chất lẫn hiện tượng, vừa tăng diện tích che phủ,
tăng nguồn tài nguyên thực vật và vừa giữ được nguồn nước. Do vậy, với hoạt
động này không gây ảnh hưởng tiêu cực đến tài nguyên rừng.
+ Từ hoạt động khai thác lâm sản
80
Trái ngược hoàn toàn với hoạt động trên, khai thác lâm sản là hoạt động
gây ảnh hưởng lớn nhất, rõ nét nhất đến tài nguyên rừng.
Bảng 4.22a Đánh giá mức độ ảnh hưởng đến TNR từ khai thác lâm sản
Cấp độ ảnh hưởng Số hộ đánh giá (hộ) Bình quân (điểm) Đánh giá mức độ ảnh hưởng
3,5
Giữa nghiêm trọng và rất nghiêm trọng 0 7 15 34 1 2 3 4
Theo 56/61 hộ trả lời, họ vẫn công nhận hoạt động khai thác lâm sản là trái
phép, là vi phạm Luật Bảo vệ và phát triển rừng, nhưng tất cả cũng chỉ vì mục
đích kinh tế gia đình. Họ nhận xét rằng, hoạt động này đang và sẽ tạo ra những áp
lực lớn cho tài nguyên rừng của KBT, nếu như Nhà nước chưa thật sự có những
giải pháp sinh kế thích hợp thay thế.
Bảng 4.22a đã cho thấy mức độ ảnh hưởng đến tài nguyên rừng từ từng
nhóm hộ cụ thể. Có vẻ như một điều nghịch lý khi có 7 hộ cho rằng ảnh hưởng
này là ít nghiêm trọng, thực tế đây là một cách nhìn nhận cũng khá phổ biến, vì
họ cho rằng số sản phẩm lấy ra của vài chục hộ gia đình so với nguồn tài nguyên
rộng lớn của rừng là chưa đủ gây ra thiệt hại.
4.3.2.2 Ảnh hưởng từ sản xuất nông nghiệp
+ Từ hoạt động trồng trọt
Bảng 4.22b Đánh giá mức độ ảnh hưởng đến TNR từ trồng trọt
Cấp độ ảnh hưởng Số hộ đánh giá (hộ) Bình quân (điểm) Đánh giá mức độ ảnh hưởng
Giữa bình thường và ít nghiêm trọng 1,6
16 16 4 0 1 2 3 4
81
Như trên chúng tôi đã trình bày, sự phụ thuộc vào tài nguyên rừng từ hoạt
động trồng trọt là không rõ nét và ít phổ biến. Sự phụ thuộc chỉ dừng lại ở nhu
cầu sửa chữa nhỏ lán trại, nhà kho phục vụ sản xuất, một số trường hợp lấn đất
rừng khi có điều kiện. Chính vì vậy, đối với hoạt động này cũng có mức độ ảnh
hưởng không lớn đến tài nguyên rừng của Khu BTTN.
- Đối với hộ gia đình sử dụng diện tích đất sản xuất khá lớn (trồng Điều và
Xoài), hàng năm đã có tích lũy vốn để tái đầu tư cho tất cả các hoạt động sản
xuất, trong đó có trồng trọt. Từ đó, họ không quan tâm đến việc lấn rừng mà chỉ
gây ảnh hưởng đến tài nguyên rừng do nhu cầu sửa chữa lán trại bằng cách lấy
vật liệu trực tiếp từ rừng hoặc gián tiếp (mua vật liệu từ hộ khác).
- Đối với nhóm hộ sử dụng diện tích đất sản xuất nhỏ (trồng cây ngắn
ngày), thu nhập hằng năm từ các sinh kế ít hoặc không đủ cho nhu cầu vật chất và
tái đầu tư sản xuất. Để giải quyết được vấn đề đó, ngoài việc khai thác lâm sản
sửa chữa lán trại, họ vẫn có xu hướng lấn rừng tự nhiên để mở rộng diện tích
trồng trọt. Nhưng theo nhận xét, nhu cầu sửa chữa lán trại là nhỏ, số người lấn
rừng và diện tích rừng bị lấn ít, nên mức độ ảnh hưởng là ít nghiêm trọng.
4.3.2.3 Ảnh hưởng từ hoạt động chăn nuôi
Nhìn bề ngoài, chăn nuôi có vẻ như một hoạt động ít có sự phụ thuộc và
cũng ít ảnh hưởng đến tài nguyên rừng. Song trên thực tế tại cộng đồng Mã Đà,
hoạt động này đã thể hiện khá rõ về ảnh hưởng tiêu cực của nó đến tài nguyên
rừng của KBT, bởi người dân chưa áp dụng hình thức nuôi công nghiệp, chỉ sử
dụng thói quen chăn thả rong, tận dụng thức ăn từ thiên nhiên là chính. Do vậy,
đối với hoạt động này cũng đã có những tác động đến tài nguyên rừng. Sau đây là
kết quả đánh giá của 26 hộ chăn nuôi trâu bò:
82
Bảng 4.22c Đánh giá mức độ ảnh hưởng đến TNR từ chăn nuôi
Cấp độ ảnh Số hộ đánh giá Bình quân Đánh giá mức độ
hưởng (hộ) (điểm) ảnh hưởng
Giữa bình thường 1 12
1,6 và ít nghiêm trọng 2 13
3 1
4 0
Đối với nhóm hộ chăn nuôi heo, trâu bò theo hình thức nhốt chuồng (hoặc
trong vườn) đã không có câu trả lời vì họ cho rằng chẳng có gây thiệt hại gì, mặc
dù trên thực tế họ cũng phải lấy một phần thức ăn từ những loại thực vật trong
rừng (cỏ, các loại lá cây).
Phần còn lại là những hộ chăn thả rong (trâu bò) để tận dụng nguồn thức
ăn từ thiên nhiên. Với hình thức này thì hầu như nguồn thức ăn hoàn toàn phụ
thuộc vào rừng. Việc chăn thả rong đã gây ảnh hưởng không nhỏ đến khả năng
sinh trưởng và phát triển các loài cây trong rừng tự nhiên, nhất là đối với những
cây tái sinh (bị gia súc dẫm đạp). Ngoài ra, việc thả rong vật nuôi còn ảnh hưởng
đến công tác bảo tồn vì nguy cơ lây nhiễm bệnh giữa vật nuôi và động vật hoang
dã, kể cả nguy cơ lai tạp giống cũng có thể xảy ra. Tuy nhiên, những thiệt hại này
rất khó xác định, vả lại số hộ nuôi và lượng cá thể vật nuôi trên địa bàn còn ít nên
mức độ ảnh hưởng cũng ít nghiêm trọng.
4.3.2.4 Ảnh hưởng từ tiểu thủ công nghiệp và buôn bán dịch vụ
+ Từ tiểu thủ công nghiệp
83
Bảng 4.22d Đánh giá mức độ ảnh hưởng đến TNR từ tiểu thủ công nghiệp
Cấp độ ảnh Số hộ đánh giá Bình quân Đánh giá mức độ
hưởng (hộ) (điểm) ảnh hưởng
1 2 Giữa ít nghiêm
2 6 2,6 trọng và nghiêm
3 9 trọng
4 2
Kết quả phỏng vấn về sinh kế cho thấy, trên địa bàn xã có 19/132 hộ gia
đình tham gia hoạt động tiểu thủ công nghiệp, và thu nhập từ hoạt động này cũng
tương đối đáng kể trong nguồn thu nhập từ sản xuất phi nông nghiệp. Trong đó,
có 11 hộ thể hiện sự phụ thuộc trực tiếp và gây ảnh hưởng đến tài nguyên rừng
(nghề mộc và đan lát các vật dụng sinh hoạt), phần còn lại (8 hộ) không có sự
phụ thuộc.
Theo ý kiến của những người tham gia đánh giá mức độ ảnh hưởng của
loại sinh kế này đến tài nguyên rừng rất khác nhau. Một là, phần vật liệu đầu vào
cho ngành nghề tiểu thủ công nghiệp có nguồn gốc từ rừng trồng, được khai thác
hợp pháp theo kế hoạch hằng năm, chứng tỏ ở đây chỉ có sự phụ thuộc nhưng
không gây ảnh hưởng. Song mặt khác, phần nhập liệu còn lại, họ vẫn công nhận
có nguồn gốc bất hợp pháp từ rừng tự nhiên và đã gây ảnh hưởng đến tài nguyên
rừng (9/9 hộ tham gia đánh giá có chung nhận xét).
+ Từ dịch vụ buôn bán
Theo kết quả điều tra, phần lớn hoạt động mang tính buôn bán – dịch vụ
chưa phát triển, chỉ mới dừng lại ở quy mô nhỏ và lẻ, nhưng trong số những hộ
có tham gia hoạt động này lại có sự hiện diện của các gia đình buôn bán động vật
hoang dã (3/132 hộ điều tra) vì lợi nhuận từ hoạt động này cũng khá cao. Và
chính những hộ này là đầu mối tiêu thụ, là động lực thúc đẩy những người dân
84
khác đẩy mạnh quy mô, số lượt tham gia vào khai thác lâm sản trái phép, tạo cho
tài nguyên rừng trong khu vực luôn chịu những áp lực lớn.
Bảng 4.22e Đánh giá mức độ ảnh hưởng đến TNR từ buôn bán dịch vụ
Cấp độ ảnh Số hộ đánh giá Bình quân Đánh giá mức độ
hưởng (hộ) (điểm) ảnh hưởng
1 0 Giữa ít nghiêm
2 4 2,6 trọng và nghiêm
3 5 trọng
4 0
Có thể nói việc buôn bán động vật hoang dã là hoạt động vi phạm pháp
luật rõ nét nhất đối với những sinh kế tại cộng đồng. Do vậy, với nhóm hộ giàu vì
họ không muốn những sinh kế của gia đình có liên quan đến việc vi phạm pháp
luật nên họ không tham gia; đối với nhóm hộ nghèo vì không có vốn để thực hiện
nên hai nhóm hộ này không thể hiện mức độ gây ảnh hưởng.
Hoạt động buôn bán động vật hoang dã trên địa bàn cộng đồng chỉ tồn tại
ở nhóm hộ người Kinh. Khi đánh giá mức độ gây ảnh hưởng đến tài nguyên
rừng, 9/9 người tham gia đều căn cứ vào tính chất của hoạt động, số lượng tiêu
thụ hằng năm và đều cho rằng đã gây ảnh hưởng đến tài nguyên rừng ở mức độ
nghiêm trọng.
Tổng hợp tất cả các đánh giá trên, dù chỉ là đánh giá mang tính tham khảo,
điều đọng lại ở đây là tất cả các hoạt động liên quan tới tài nguyên rừng dù ít dù
nhiều đều có gây hại tới chúng, thấp nhất cũng là mức 1,6 (trồng trọt, chăn nuôi)
và cao nhất là mức 3,5 (khai thác lâm sản) so với mức thiệt hại tối đa là 4. Người
dân nhận thức được như vậy, đó là biểu hiện mang tính tích cực, nhưng chuyển từ
nhận thức sang hành động bảo vệ và phát triển lại là một vấn đề phức tạp khác và
dứt khoát không thể tách ra khỏi sinh kế của họ. Đó chính là những giải pháp có
thể có được dựa vào những phân tích ở trên.
85
4.4 Các giải pháp cải thiện sinh kế của các nhóm hộ dân đã thực hiện
4.4.1 Các giải pháp của hộ gia đình liên quan đến sản xuất vật chất tại chỗ
(1) Các giải pháp mang tính tự vận động:
Do nguồn lợi về cây công nghiệp (Điều) và cây ăn quả (Xoài) ở vùng đất
này khá hấp dẫn đã tạo ra thu nhập cho nhiều hộ gia đình. Do đó, một trong
những giải pháp dễ thực hiện và mang tính khả thi là trồng cây thâm canh với sản
phẩm là hàng hoá tiêu thụ trên thị trường.
Nhìn chung, việc trồng cây để tạo thu nhập là một loại sinh kế gần như là
phổ biến cho các hộ gia đình ở đây. Tuy nhiên, điều khác biệt là trồng các loài
cây dài ngày trên diện tích lớn thì việc đầu tư phải tính đến sản phẩm là hàng hoá,
còn trồng cây ngắn ngày trên diện tích nhỏ thì sản phẩm chỉ cho tiêu dùng trong
gia đình. Đấy đều là các loại sinh kế mang tính bền vững.
- Mô hình trồng Điều, Xoài: Đây là loại hình canh tác đem lại nguồn thu
nhập khá lớn cho rất nhiều hộ người Kinh. Như kết quả trình bày ở bảng 4.21,
phần thu nhập cao hơn đầu tư khoảng 1,84 đến 1,86 lần.
- Mô hình trồng các loài cây ngắn ngày: Đây là loại hình canh tác đem lại
nguồn thu nhập hỗ trợ cho số ít hộ gia đình nghèo, ít đất sản xuất và cũng thiếu
vốn đầu tư. Cũng theo kết quả trình bày ở bảng 4.21, phần thu nhập cao hơn đầu
tư khoảng trên dưới 2 lần.
- Mô hình canh tác trong vườn hộ và ô dinh dưỡng: Gần đây khái niệm ô
dinh dưỡng được người Kinh vận dụng trong khá nhiều hộ gia đình, đơn giản là
dễ làm và tránh được nhiều rủi ro từ thời tiết và bệnh tật cây trồng. Cách trồng và
chăm sóc thì học hỏi qua lại lẫn nhau. Sản phẩm cũng đa dạng và thu hái ở nhiều
thời điểm khác nhau. Thường người Kinh trồng xen nhiều loại cây không phân
biệt chính phụ, không đặt nặng sản phẩm hàng hoá, mục đích đơn giản là để cung
cấp thực phẩm và hoa quả tiêu dùng cho gia đình.
86
(2) Các giải pháp cần có sự can thiệp từ bên ngoài:
Mặc dù các hộ dân ở xã Mã Đà đã có nhiều cách thức nhằm cải thiện sinh kế
của họ nhưng số ít hộ gia đình trong xã vẫn rơi vào tình trạng thiếu ăn (55/132
hộ có khai báo thiếu ăn phổ biến từ 1-3 tháng, vào những tháng mùa mưa và
tháng giáp hạt). Dưới đây là kết quả phỏng vấn 55 hộ gia đình thiếu ăn về
những giải pháp chính mà họ đã đề xuất thực hiện:
- Trước mắt là trong khoảng thời gian giao mùa, người dân có thể mua
thiếu lương thực để trang trải tạm thời cho gia đình tại các cửa hàng tạp hóa hay
gia đình người quen, nơi mà họ có thể tin tưởng lẫn nhau. Yếu tố can thiệp ở đây
là vật chất cho vay mượn.
- Đối với nhóm hộ người Kinh, chủ yếu tập trung vào những giải pháp
trong vườn hộ như dự định đào ao nuôi cá, kết hợp nuôi heo gà trên cạn. Đồng
thời, nếu có vốn sẽ mua thêm một số giống cây ăn trái trồng trong vườn hộ và
chăn nuôi công nghiệp để tận dụng phân và tận dụng nguồn lao động tại chỗ. Như
vậy, yếu tố can thiệp từ bên ngoài là vốn.
- Đối với nhóm hộ người dân tộc, mong rằng Ban quản lý KBT và UBND
xã sẽ cho nhận đất rừng để trồng có thêm thu nhập. Và nếu có vốn họ cũng sẽ tập
trung vào chăn nuôi nhỏ (chủ yếu gia súc), đồng thời cũng muốn mở rộng diện
tích canh tác lúa nước nếu như xã cho phép. Theo đó, yếu tố can thiệp từ bên
ngoài là cấp đất và vay vốn.
4.5.2 Các giải pháp liên quan đến tổ chức và vận dụng chính sách
- Giải pháp về quy hoạch: Do nguồn lợi về cây công nghiệp (Điều) và cây
ăn quả (Xoài) ở vùng đất này khá hấp dẫn, điều đó đã thu hút một số cá nhân từ
thành phố đến mua lại đất hoặc chuyển nhượng đất đã có cây trồng. Do đó, nếu
để tình trạng này kéo dài thì rừng có thể bị phá, các hậu quả về xã hội chưa thể
lường hết được. Một trong những công cụ quản lý quan trọng để đối phó với tình
hình này là thiết lập quy hoạch sử dụng đất vùng đệm. Thực tế sử dụng tài
87
nguyên ở khu vực nghiên cứu cho thấy, ngay cả khi có sự phân định giữa đất lâm
nghiệp và đất nông nghiệp thì các hệ thống này cũng vẫn là những hệ thống mở,
người ta vẫn lợi dụng nó. Vậy, quy hoạch cần dựa trên sự tham gia của cộng
đồng và sự phối hợp giữa các ngành, đặc biệt là ngành nông nghiệp và lâm
nghiệp.
- Giao đất trồng rừng: Thực hiện chủ trương chung của Chính phủ cũng
như của UBND tỉnh Đồng Nai về giao đất lâm nghiệp đến các tổ chức, hộ gia
đình và cá nhân sử dụng lâu dài vào mục đích lâm nghiệp. Bắt đầu từ năm 2002,
Ban quản lý Khu BTTN&DT Vĩnh Cửu đã phối hợp với Ban quản lý dự án
BVR&PTNT tiến hành giao đất lâm nghiệp thuộc vùng đệm cho hộ gia đình
(16/132 hộ gia đình thuộc mẫu điều tra) trên địa bàn xã Mã Đà. Việc Ban quản lý
và xã giao đất cho người dân trồng rừng theo Nghị định 178 là một giải pháp tốt,
cần tiếp tục duy trì và hoàn chỉnh. Tuy nhiên, đến nay các hộ được nhận đất đều là
hộ người Kinh. Như thế là chưa đủ, nên cân nhắc quỹ đất và phân chia một cách
hợp lý và công bằng, sao cho các hộ nghèo trong xã đều được nhận đất để tránh
tình trạng xảy ra mâu thuẫn.
- Giải pháp về vốn: Bên cạnh các chính sách về lâm nghiệp nhằm cải thiện
đời sống của người dân, tại địa phương cũng cần có sự quan tâm từ phía ngân
hàng. Ngân hàng chính sách phối hợp với Hội phụ nữ và Hội Nông dân cho các
hộ gia đình vay vốn để đầu tư sản xuất. Hội chịu trách nhiệm với Ngân hàng
trong việc bảo đảm hộ vay trả lãi và gốc đúng thời hạn và sử dụng vốn đúng mục
đích. Theo kết quả điều tra nghiên cứu, trong 102 hộ gia đình có vay vốn thì có
tới 37 hộ (chiếm 28,0%) vay từ Quỹ tín dụng người nghèo, 25 hộ (18,9%) vay từ
Ngân hàng chính sách và 8 hộ (6,1%) từ Ngân hàng NN&PTNT để đầu tư sản
xuất nông lâm nghiệp, dịch vụ, hoạt động phi nông nghiệp hay để sữa chữa nhà
cửa. Có nhiều hộ gia đình được vay ở cả hai nguồn, nhưng cũng có tới 17 hộ
(chiếm 12,9%) phải vay tư nhân (người bán hàng, người nhà). Hoạt động này sẽ
giúp nhiều hộ gia đình có vốn đầu tư ban đầu cho cây trồng vật nuôi, nhằm từng
88
bước cải thiện năng suất cây trồng, tăng thu nhập và dần dần khắc phục được khó
khăn.
4.5.3 Xây dựng khung sinh kế bền vững tại địa phƣơng
Để xây dựng được khung sinh kế bền vững của người dân, bên cạnh quan
sát trực tiếp bối cảnh tại địa phương, chúng tôi còn tiến hành phỏng vấn chuyên
sâu các hộ gia đình về những khó khăn họ đang gặp phải. Những thông tin này sẽ
giúp cho chúng tôi có được nhận kết quả và nhận định chính xác hơn trong việc
xây dựng khung sinh kế của các hộ này.
Bảng 4.23 Tổng hợp những khó khăn của các hộ gia đình xã Mã Đà
Loại khó khăn Số hộ Tỷ lệ (%) Ghi chú
Thiếu vốn 62 52,1
Năng suất cây trồng thấp 14 11,8 Tỷ lệ % chỉ
tính trên số hộ Thiếu nước tưới tiêu 14 11,8
có trả lời Thiếu đất canh tác 13 10,9
Thiếu kỹ thuật, phương tiện 3 2,5
Các thứ linh tinh khác 13 10,9
Tổng 119 100,0
Không trả lời 13
Kết quả từ bảng 4.23 ở trên cho thấy, vấn đề thiếu vốn được nhiều hộ quan
tâm nhất (trên 52% số hộ), tiếp theo là năng suất cây trồng thấp và thiếu nước
tưới tiêu cũng như thiếu đất canh tác là những khó khăn chính mà hộ gia đình
đang gặp phải (từ 11 đến 12% số hộ). Về vấn đề thiếu đất canh tác, thực chất là
có đất nhưng đất xấu vì người dân chưa có thói quen cải tạo đất, họ chỉ tiến hành
làm cỏ, đôi khi nhiều hộ gia đình để cỏ tranh lấn át cả cây trồng. Vì thế mà đất
đai ngày càng cằn cỗi và năng suất cây trồng thấp là điều không tránh khỏi. Việc
thiếu các thứ linh tinh mà nhiều hộ gia đình quan tâm (chiếm 10,9% số hộ) phải
kể đến là phân bón, thuốc trừ sâu. Người dân cho rằng việc thiếu phân bón cùng
89
với việc thiếu nguồn nước tưới tiêu là nguyên nhân dẫn đến năng suất cây trồng
thấp.
Theo kết quả ở mục 4.1.3 (các tài sản tạo sinh kế) và mục 4.3.1 (ảnh
hưởng của các yếu tố), dựa vào kết quả tổng hợp những khó khăn ở trên, chúng
tôi tiến hành xếp hạng theo thứ bậc quan trọng của các yếu tố cấu thành khung
sinh kế ở cả hai nhóm hộ dân này như trình bày ở bảng 4.24:
Bảng 4.24 Xếp hạng thứ bậc các yếu tố cấu thành khung sinh kế
Nhóm người Kinh Nhóm người dân tộc
1. Tài sản tự nhiên (N) 1. Tài sản tự nhiên (N)
2. Tài sản hữu hình (P) 2. Tài sản xã hội (S)
3. Tài sản nhân lực (H) 3. Tài sản tài chính (F)
4. Tài sản xã hội (S) 4. Tài sản nhân lực (H)
5. Tài sản tài chính (F) 5. Tài sản hữu hình (P)
N
N
S
P
Nhóm người Kinh Nhóm người dân tộc
H
P
H
F
S
F
Hình 4.4 Khung sinh kế của nhóm hộ người Kinh và người dân tộc
90
Từ bảng xếp hạng thứ bậc của các loại tài sản sinh kế, chúng ta nhận thấy,
khung sinh kế ở hai nhóm dân cư có sự khác biệt nhau cả về thứ bậc lẫn việc sử
dụng các loại tài sản để tạo ra sinh kế.
- Đối với nhóm hộ người Kinh, loại tài sản tự nhiên được xếp bậc thứ nhất
là vì người dân ở đây đã có sự kết hợp giữa các tài sản tự nhiên như đất, rừng và
nước để tạo ra sinh kế cho họ. Họ lợi dụng các vùng đất trũng gần nguồn nước để
tiến hành nuôi cá và trồng các loại cây hoa màu. Đồng thời, họ đã từng bước áp
dụng kỹ thuật thâm canh trong trồng cây dài ngày và xen canh trong vườn hộ để
tạo thêm nguồn thu nhập cho gia đình. Đa số hộ trong nhóm người Kinh cho
rằng, hiện nay họ rất cần vốn để cải thiện vườn hộ và mua giống cây trồng mới có
năng suất cao nhằm tăng thu nhập cho gia đình.
- Đối với nhóm hộ người dân tộc, hoạt động sinh sống để sinh sống chính
hàng ngày của họ là thu hái các loại sản phẩm có sẵn từ rừng và sản xuất lúa
nước. Bên cạnh, việc sử dụng đất để canh tác cây trồng (lúa) cũng dựa vào chất
dinh dưỡng sẵn có trong đất, ít có sự đầu tư ban đầu. Do đó, loại tài sản tự nhiên
ở nhóm dân cư này được xếp vào ưu tiên 1. Ngược lại, tài sản mà ở nhóm người
dân tộc hiếm khi thấy là các công cụ phục vụ cho sản xuất. Ở đây, khi canh tác
các loại cây trồng người dân chủ yếu là làm bằng tay.
Cũng từ phân tích trên cho chúng ta thấy, vấn đề thiếu đất canh tác ở nhiều
hộ là điều sẽ xảy ra. Bởi họ không có chú ý tới việc đầu tư cải tạo đất khi canh
tác đã dẫn đến đất đai ngày cằn cỗi, năng suất cây trồng thấp. Bên cạnh đó, họ
thiếu các công cụ hỗ trợ sản xuất như máy bơm nước, thiếu vốn đầu tư phân bón,
thuốc trừ sâu. Điều này tất yếu dẫn đến việc khai thác nguồn tài nguyên có sẵn
trong rừng để trang trải cuộc sống hàng ngày. Đối với nhóm người Kinh, hiện
nay họ rất cần nguồn vốn để đầu tư vào sản xuất. Việc thiếu vốn và nguồn nước
canh tác là những nguyên nhân chính làm cho năng suất cây trồng thấp. Do đó,
họ cũng không dám mạnh dạn đầu tư những loại cây trồng khác và hiện nay họ
91
cần thêm đất canh tác để tiến hành trồng cây điều vì đây là loại cây trồng thích
hợp với bối cảnh tại địa phương nhất.
92
Chƣơng 5
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
5.1 Kết luận
Qua quá trình mô tả hiện trạng sinh kế, qua phân tích mối quan hệ giữa tài
nguyên rừng, các yếu tố xã hội và sinh kế, kết hợp với hệ thống quản lý rừng tại
khu vực xã Mã Đà, đề tài đưa ra một số kết luận sau đây:
1. Về hệ thống sinh kế và các loại tài sản cho sinh kế
- Hệ thống sinh kế của hai nhóm dân cư (nhóm người Kinh và nhóm người
dân tộc) trên địa bàn xã Mã Đà có độ đa dạng rất cao, từ 20 loại sinh kế khác
nhau có thể phân thành 4 nhóm sinh kế, đó là nhóm sinh kế nông nghiệp, lâm
nghiệp, chăn nuôi và phi nông nghiệp. Trong đó, hoạt động sinh kế chủ yếu của
nhóm người Kinh là nông nghiệp và của nhóm người dân tộc là nông và lâm
nghiệp. Hệ thống sinh kế của người dân địa phương hiện nay đã đi theo hướng thị
trường (sản phẩm cây nông nghiệp dài ngày đã trở thành hàng hoá).
- Nhìn chung cả hai nhóm dân cư đều hội tụ đủ cả 5 loại tài sản tạo sinh
kế, đó là tài sản nhân lực, tự nhiên, xã hội, hữu hình và tài chính. Cả hai nhóm
đều coi loại tài sản tự nhiên (gồm đất, nước và rừng) là nền tảng, là quan trọng
nhất. Tuy nhiên, có sự khác biệt ở cách thức sử dụng và cách thức phối hợp các
loại tài sản trên để tạo ra sinh kế giữa hai nhóm đối tượng nghiên cứu.
2. Về sự phụ thuộc của sinh kế vào tài nguyên rừng
- Thu nhập của người dân có phụ thuộc vào các nhóm sinh kế, đặc biệt là
nhóm ngành trồng trọt, sau đến nhóm ngành chăn nuôi, không phụ thuộc nhiều
vào các hoạt động liên quan tới rừng. Nói cách khác, thu nhập từ rừng không phải
là yếu tố quyết định sự sống còn của người dân ở đây, nó là yếu tố ảnh hưởng
gián tiếp hoặc mang tính hỗ trợ tới thu nhập. Đó cũng là những chỉ báo tốt dưới
góc độ quản lý tài nguyên rừng hiện tại ở khu vực.
93
- Từ kết xếp hạng giá trị và tầm quan trọng của các loại lâm sản cho sinh
kế và so sánh với thu nhập từ các sản phẩm này cho thấy, không phải sản phẩm
có thu nhập cao và dễ bán thì được người dân đánh giá cao hơn. Vai trò và tầm
quan trọng của mỗi sản phẩm còn phụ thuộc vào khả năng tiếp cận với nguồn tài
nguyên ấy. Thứ tự xếp hạng của các sản phẩm này từ thứ 1 đến thứ 5 như sau:
dầu chai, sản phẩm từ thực vật rừng, gỗ từ rừng trồng, gỗ từ rừng tự nhiên và
cuối cùng là động vật hoang dã.
3. Ảnh hưởng của các nguồn lực tự nhiên và xã hội tới sinh kế và ảnh
hưởng của các hoạt động sinh kế tới tài nguyên rừng
- Hiện trạng bối cảnh tự nhiên, cấu trúc cộng đồng và tiến trình vận hành
tại xã Mã Đà không chỉ tạo ra những thuận lợi và cơ hội mà còn thể hiện nhiều
trở ngại và thách thức cho cộng đồng dân cư trong tiếp cận các tài sản tạo ra sinh
kế. Hiện nay, hoạt động giao đất cho bà con trồng rừng hưởng lợi là một hoạt
động thiết thực nhằm phát triển sản xuất lâm nghiệp ở địa phương. Bên cạnh, hệ
thống điện, đường, trường, trạm được đầu tư trên địa bàn xã đã tạo điều kiện giao
thương và tiếp cận với các dịch vụ, thông tin bên ngoài. Tuy nhiên, một khó khăn
chính mà người dân trong khu vực đang gặp phải là thiếu vốn để sản xuất, thiếu
nguồn nước để tưới tiêu, đã làm hạn chế việc canh tác và ảnh hưởng đến sự lựa
chọn các loại cây trồng cho sinh kế.
- Tổng hợp tất cả các hoạt động có ảnh hưởng tới tài nguyên rừng, điều
khẳng định là tất cả các hoạt động liên quan đến sinh kế dù ít dù nhiều đều có gây
hại tới tới tài nguyên rừng, thấp nhất cũng là mức 1,6 (trồng trọt và chăn nuôi,
trung bình là mức 2,6 (tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ) và cao nhất là mức 3,5
(khai thác lâm sản) so với mức thiệt hại tối đa là 4. Người dân đã đánh giá và
nhận thức được như vậy, đó là biểu hiện mang tính tích cực, là cơ sở đề xuất
những giải pháp có thể có được cho sinh kế.
94
4. Đề xuất các giải pháp cho sinh kế và xây dựng khung sinh kế
- Có những chiến lược khác nhau để cải thiện sinh kế. (i) Ở nhóm hộ người
Kinh, sinh kế phải đa dạng hơn, giải pháp cải thiện sinh kế phổ biến nhất là chọn
giống mới để thâm canh cây trồng cho sản phẩm hàng hoá, giải pháp này sẽ giải
quyết được thu nhập và tái đầu tư cho các hoạt động sản xuất khác. (ii) Đối với
nhóm người dân tộc, giải pháp chủ yếu là trồng các cây hoa màu trên vườn hộ và
giải pháp tình thế là trồng lúa nước trên diện tích đất trũng nhằm cung cấp thêm
nguồn lương thực cho gia đình.
- Cùng với những giải pháp cải thiện sinh kế xuất phát từ chính bản thân
các hộ gia đình, là các giải pháp can thiệp từ Ban quản lý KBT và các tổ chức
chính quyền trong địa bàn xã Mã Đà. Đó là việc hỗ trợ các dịch vụ đầu vào như
cho vay vốn ưu đãi, bán phân bón trả góp, đó là tiến hành giao đất trồng rừng
nhằm sử dụng lâu dài vào mục đích lâm nghiệp v.v. Những hoạt động này sẽ từng
bước giải quyết được khó khăn về đầu vào cho các hoạt động sinh kế của cộng
đồng dân cư nơi đây.
- Cuối cùng, đề tài đã xác định được khung sinh kế gồm 5 yếu tố đồng thời
là 5 loại tài sản mà hai nhóm dân cư đã sử dụng và kết hợp để tạo ra hệ thống
sinh kế cho riêng họ. Nhìn chung, cả hai nhóm hộ dân chủ yếu vẫn dựa vào thiên
nhiên (yếu tố đất đai, tài nguyên rừng) cho kế sinh nhai hàng ngày của họ. Từ
thực tế sinh kế của hai nhóm hộ, giải pháp chung nhằm hạn chế những hoạt động
gây bất lợi cho tài nguyên rừng là tạo điều kiện cho người dân tham gia trồng trọt
mang tính thâm canh trên đất quy hoạch cho nông nghiệp, trồng rừng trên đất quy
hoạch cho lâm nghiệp trong địa bàn cho phép.
5.2 Kiến nghị
Để đạt được mục tiêu chung là cải thiện đời sống của người dân tại địa
phương và giảm dần sự phụ thuộc vào tài nguyên rừng, nhưng vẫn đảm bảo một
95
sinh kế mang tính bền vững. Chúng tôi đưa ra đây một số kiến nghị nhằm khắc
phục những tồn tại mà nghiên cứu chưa đề cập được, bao gồm:
- Nâng cao vai trò của tổ chức cộng đồng và thực hiện một số biện pháp để
gia tăng hiệu quả của sự tham gia trong quản lý tài nguyên rừng. Hay nói cách
khác, hãy để người dân địa phương quản lý tài nguyên của địa phương. Đó là trao
quyền cho người dân, cùng kết hợp với người dân chủ động xây dựng kế hoạch
và thực hiện các hoạt động cần làm. Đây là một cách khiến người dân có trách
nhiệm trong tất cả các hoạt động liên quan đến sinh kế của họ.
- Trước thực trạng tỷ lệ hộ nghèo còn cao, gia tăng khả năng tiếp cận tín
dụng chính thức với thời gian đủ dài kết hợp với giao đất khoán rừng sẽ có tác
dụng khuyến khích đầu tư vào rừng và phát triển các hệ thống lâm nông kết hợp
trong vùng. Tín dụng cũng sẽ góp phần làm cho việc giao đất trở nên công bằng
hơn, thay vì để một diện tích rừng mà người dân đang phụ thuộc vào tay những
người bao chiếm đất.
- Để tạo động lực cho người dân địa phương tham gia vào công cuộc bảo vệ
và phát triển rừng, gắn bó với tài nguyên rừng, đòi hỏi một số biện pháp đồng bộ.
Hiện tại, việc chuyển đổi cây trồng đối với rừng vùng đệm mới được thực hiện thử
nghiệm trong phạm vi một số nông hộ với định mức đầu tư hỗ trợ còn quá thấp.
Nhưng bảo vệ rừng đòi hỏi hành động của cả cộng đồng chứ không phải là của
từng hộ gia đình. Do đó, cần thử nghiệm một cơ chế giao khoán mới cho cộng
đồng với các quy định chung, trong đó nêu rõ những gì người dân được phép và
không được phép làm để có thể duy trì sinh kế mà không phương hại đến tài
nguyên rừng.
- Trước những yêu cầu về thiết lập các cụm dân cư mới, nhằm hạn chế sự
phụ thuộc và gây ảnh hưởng đến tài nguyên rừng từ phía người dân, theo định
hướng của Nhà nước thì cần có những nghiên cứu chi tiết hơn, quy mô hơn về
những sinh kế của cộng đồng toàn xã. Nên chăng, Khu BTTN và UBND tỉnh
96
Đồng Nai cho phép người dân tiếp tục canh tác thêm một chu kỳ kinh doanh cây
Keo lai nhằm tăng thêm thu nhập của họ, đồng thời tránh tình trạng bỏ hóa đất
đai trước lộ trình bảo tồn mới thực hiện trong giai đoạn đầu.
97
PHỤ LỤC
Phụ lục 1.1 Thông tin chung
Trình
Giới
Dân
Tôn
Mã
Nghề
TT
Ấp
Họ và tên chủ hộ
Độ tuổi
độ văn
tính
tộc
giáo
số
nghiệp
hóa
Câu hỏi số:
1
2
3
4
5
6
1 2011
2 Trương Ngọc Vinh
1
2
1
1
2
2
2 2021
2 Trương Ngọc Sang
1
2
1
1
1
2
3 2031
2 Nguyễn Thị Kim Nhựt
2
4
1
2
2
2
4 2041
2 Nguyễn Văn Dũng
1
2
1
2
3
2
5 2053
2 Đỗ Thị Lệ Thu
2
2
1
2
3
2
6 2063
2 Nguyễn Đức Minh
1
3
1
3
4
2
7 2073
2 Nguyễn Hữu Phước
1
2
1
2
2
2
8 2083
2 Lê Văn Sa
1
3
1
2
2
2
9 2093
2 Nguyễn Văn Tại
1
4
1
2
2
6
10 2103
2 Huỳnh Văn Mến
1
2
1
1
1
2
11 2118
2 Trương Thị Đấu
2
2
1
1
2
2
12 2121
2 Phạm Văn Giang
1
2
1
3
1
2
13 2131
2 Võ Văn Diện
1
3
1
3
3
2
14 2141
2 Huỳnh Văn Huột
1
2
1
1
2
2
15 2153
2 Huỳnh Văn Khị
1
3
1
1
1
2
16 3013
3 Trần Công Lợi
1
3
1
1
3
2
17 3023
3 Võ Thị Minh Họa
2
2
1
1
2
2
18 3033
3 Nguyễn Văn Chín
1
3
1
2
2
2
19 3043
3 Lâm Quốc Uôn
1
2
1
1
2
2
20 3054
3 Nguyễn Quang Sơn
1
3
1
2
4
2
21 3065
3 Nguyễn Thị Huệ
2
3
1
2
3
2
22 3073
3 Huỳnh Văn Trường
1
3
1
2
3
2
23 3083
3 Nguyễn Thành Đô
1
2
1
2
3
2
24 3093
3 Nguyễn Thị Phụng
2
2
1
2
2
2
25 3106
3 Nguyễn Thanh Ngân
1
4
1
2
2
2
26 3114
3 Nguyễn Văn Sư
1
2
1
2
2
2
27 3124
3 Lý Văn Sáng
1
3
1
1
2
2
98
1
3
1
3
2
9
28 4012
4 Lê Văn Hai
1
2
1
1
1
2
29 4022
4 Nguyễn Văn Hùng
1
3
1
3
2
2
30 4033
4 Nguyễn Văn Khỏe
1
3
1
1
1
1
31 4043
4 Nguyễn Văn Tửng
1
4
1
2
1
2
32 4054
4 Lê Thành Tâm
1
2
1
3
2
2
33 4066
4 Nguyễn Văn Cường
2
2
1
2
3
2
34 4074
4 Trần Thị Thu
1
2
1
2
3
2
35 4083
4 Trần Thiện Tùng
2
4
1
2
1
6
36 4094
4 Võ Thị Rớt
1
3
1
2
2
2
37 4106
4 Nguyễn Văn Hải
1
2
1
2
2
2
38 4116
4 Lê Thành Sự
2
4
1
1
2
2
39 4123
4 Nguyễn Thị Truyển
2
3
1
1
2
2
40 4133
4 Yến Rớt
1
3
1
1
2
2
41 4146
4 Nguyễn Văn Thành
1
3
1
3
2
2
42 4156
4 Đặng Văn Ngọc
1
3
1
1
2
2
43 4166
4 Đặng Văn Tư
1
2
1
2
2
2
44 4176
4 Bùi Thanh Bình
2
2
1
2
2
2
45 4186
4 Nguyễn Thị Hoa
1
3
1
1
3
2
46 4194
4 Danh Thị Thu
1
3
1
2
2
2
47 4204
4 Bùi Văn Gương
1
2
1
1
2
2
48 4214
4 Trần Văn Ái
1
3
1
2
3
2
49 4224
4 Trần Văn Tánh
2
3
1
2
2
2
50 4233
4 Nguyễn Thị Thiên
1
2
1
2
2
2
51 4243
4 Phạm Thái Phong
1
4
1
2
3
2
52 4252
4 Phan Thế Viên
1
3
1
3
4
2
53 4266
4 Nguyễn Văn Dũng
1
2
1
2
3
2
54 4273
4 Ngô Quang Luôn
1
3
1
2
2
3
55 5017
5 Nguyễn Văn Khoánh
1
2
1
1
3
3
56 5027
5 Tiết Thạnh
1
2
1
1
2
2
57 5032
5 Trần Hữu Đức
1
3
1
3
4
2
58 5043
5 Nguyễn Văn Sinh
1
3
1
1
3
3
59 5053
5 Phạm Tự
1
2
1
3
3
2
60 5061
5 Lê Xuân Tính
1
3
1
1
2
3
61 5071
5 Tống Văn Thành
2
2
1
1
2
2
62 5082
5 Nguyễn Thị Nhì
1
2
1
1
2
2
63 5097
5 Thái Văn Hai
1
2
1
2
2
2
64 5106
5 Đỗ Minh Chung
99
2
3
1
1
2
4
65 5111
5 Nguyễn Thị Kim Cao
1
3
1
1
4
2
66 5121
5 Đỗ Sinh Nhai
2
3
1
2
3
2
67 5133
5 Hoàng Thị Khen
1
2
1
2
3
2
68 5142
5 Lê Văn Thành
2
4
1
3
9
6
69 5152
5 Lương Thị Cư
1
2
1
1
2
3
70 5164
5 Hoàng Đức
1
3
1
3
2
3
71 5174
5 Hồ Văn Tiền
1
3
1
1
1
2
72 5182
5 Ngô Văn Thành
1
2
1
3
3
3
73 5192
5 Võ Đình Lực
1
3
1
3
3
2
74 5202
5 Nguyễn Trọng Hoa
2
3
1
2
1
3
75 5217
5 Nguyễn Thị Mai
1
3
1
2
2
2
76 5224
5 Lê Tịch
1
4
1
2
3
2
77 5239
5 Lê Đối
1
2
1
2
2
2
78 5244
5 Nguyễn Văn Thi
2
2
1
2
2
2
79 5256
5 Lê Thị Lên
1
2
1
3
3
2
80 5266
5 Phan Minh Tâm
1
3
1
3
2
2
81 5272
5 Trần Văn Lực
1
3
1
3
2
2
82 5283
5 Võ Minh Chung
1
2
1
3
2
2
83 5292
5 Trịnh Quốc Hùng
1
2
1
3
2
2
84 5309
5 Hoàng Trung Tín
1
4
1
1
2
2
85 5313
5 Bùi Văn Nhất
2
3
1
3
3
3
86 5329
5 Trần Thị Mỹ Vân
1
3
1
3
3
2
87 5339
5 Châu Cẩm Tú
1
2
1
1
1
3
88 5349
5 Trần Văn Thành
1
2
1
3
2
2
89 5352
5 Nguyễn Trung Cường
1
3
1
3
4
2
90 5362
5 Võ Xuân Chung
1
2
1
1
3
2
91 5373
5 Đặng Ngọc Sâm
1
2
1
1
2
2
92 5382
5 Nguyễn Chí Tình
1
3
1
3
3
2
93 5394
5 Tào Quang Tư Khoa
1
3
1
2
2
3
94 5405
5 Lâm Văn Năm
1
3
1
1
2
2
95 5419
5 Lê Văn Cấm
2
2
1
1
2
3
96 5429
5 Trương Thị Lam
1
2
1
1
2
2
97 5439
5 Mai Lành
2
3
1
1
2
2
98 5443
5 Nguyễn Thị Hường
1
3
1
1
3
2
99 5452
5 Nguyễn Văn Sướng
1
3
1
1
1
3
100 5463
5 Đỗ Văn Nhàn
1
2
1
2
1
3
101 5473
5 Trương Văn Đặng
100
102 5482
5 Phạm Văn Ri
1
3
1
4
3
2
103 6011
6 Lê Thanh Trí
1
2
1
1
2
2
104 6021
6 Võ Văn Hồng
1
2
1
3
2
2
105 6031
6 Võ Văn Phi
1
4
1
2
2
2
106 6041
6 Phạm Thị Hương Giang
2
3
1
3
3
2
107 6051
6 Nguyễn Thanh Long
1
2
1
2
2
2
108 6063
6 Huỳnh Văn Mười
1
4
1
1
2
2
109 6078
6 Nguyễn Thành Có
1
4
1
3
2
2
110 6088
6 Võ Văn Lợi
1
4
1
3
2
2
111 6091
6 Lê Văn Thảnh
1
3
1
1
2
2
112 6102
6 Nguyễn Văn Tấn
1
2
1
1
3
2
113 7014
7 Trần Hữu Quý
1
2
1
3
2
2
114 7024
7 Lê Thị Tuyết
2
3
1
1
2
2
115 7034
7 Trần Văn Tỉnh
1
2
1
1
2
2
116 7043
7 Nguyễn Văn Khương
1
2
1
1
3
2
117 7051
7 Trịnh Đình Song
1
3
1
1
9
2
118 7061
7 Hà Ngọc Thọ
1
2
1
2
1
2
119 7071
7 Nguyễn Văn Phúc
1
2
1
3
3
2
120 7084
7 Điểu Hùng
1
2
2
4
2
3
121 7096
7 Điểu Văn Dựng
1
3
2
4
2
2
122 7103
7 Điểu Thị Xệt
2
3
2
4
1
2
123 7115
7 Điểu Cửu
1
2
2
4
1
2
124 7129
7 Điểu Kịp
1
2
2
4
1
2
125 7139
7 Điểu Hưởng
1
2
2
4
1
2
126 7142
7 Điểu Thiị Ái Liên
2
2
2
4
2
2
127 7152
7 Điểu Nhung
1
2
2
2
1
2
128 7163
7 Hứa Phi Hùng
1
2
3
1
2
2
129 7174
7 Nguyễn Đắc Hùng
1
3
1
3
3
2
130 7183
7 Phùng Thị Dương
2
4
3
1
2
6
131 7193
7 Trịnh Bá Lạp
1
3
1
1
3
2
132 7204
7 Nguyễn Văn Lộc
1
3
1
3
3
2
101
Phụ lục 2. Số liệu xử lý và phân tích thống kê
Phụ lục 2.1 Bảng tần số (Frequency)
2.1.1 Các thông tin chung
102
103
104
2.1.2 Cơ cấu diện tích cây trồng
105
106
2.1.3 Sử dụng tài nguyên rừng
107
2.1.4 Số lượng vật nuôi
108
109
2.1.5 Thu nhập hộ gia đình
110
Phụ lục 2.2 Bảng chéo (Crosstabulation)
2.2.1 Thông tin chung
111
112
113
114
2.2.2 Quan hệ phụ thuộc về thu nhập
115
116
117
Phụ lục 2.3 Tương quan (Correlation) và hồi qui (Regression)
2.3.1 Tương quan
118
2.3.2 Hồi quy
SUMMARY OUTPUT
Regression Statistics
Multiple R
0.846
R Square
0.715
Adjust R Sq.
0.713
Standard E.
38.005
Observations
132
ANOVA
df
SS
MS
F
Sig. F
Regression
1
471817
471817
326.7 2.811E-37
Residual
130
187772
1444.4
Total
131
659589
119
Lower
Upper
Coeffs
Stand E.
t Stat
P-value
95%
95%
Intercept
24.8746
3.80551
6.5364 1.31E-09
17.3458
32.4034
X Variable 1
1.6008
0.08857
18.0735 2.81E-37
1.4256
1.7760