TẠP CHÍ SINH HỌC, 2013, 35(3se): 94-99<br />
<br />
NGHIÊN CỨU TẠO CHỦNG ESCHERICHIA COLI TÁI TỔ HỢP<br />
BIỂU HIỆN INTERLEUKIN-3 VÀ INTERLEUKIN-11 NGƯỜI<br />
DƯỚI DẠNG LAI VỚI PelB<br />
Nguyễn Thị Quý, Dương Thu Hương, Lê Ngọc Giang,<br />
Lê Thị Thu Hồng, Đỗ Thị Huyền, Trương Nam Hải*<br />
Viện Công nghệ sinh học, Viện Hàn lâm KH & CN Việt Nam, *tnhai@ibt.ac.vn<br />
TÓM TẮT: Interleukin-3 (IL-3) và Interleukin-11 (IL-11) là những cytokine đa chức năng, đóng vai trò<br />
điều hòa sự nhân lên, biệt hóa và trưởng thành của nhiều loại tế bào máu. Gen mã hóa cho protein IL-3 và<br />
IL-11 của người (mã số NM_000588 và NM_000641 trên ngân hàng gen quốc tế) được tổng hợp nhân tạo<br />
cùng tín hiệu tiết pelB và trình tự nhận biết của hai enzyme hạn chế NdeI ở đầu 5' và NotI ở đầu 3', được<br />
đưa vào vector tách dòng pUC57. Sau đó toàn bộ đoạn DNA được chuyển vào vị trí NdeI- NotI của vector<br />
biểu hiện pET22b(+) để tiến hành biểu hiện gen il-3, il-11 trong vi khuẩn E. coli BL21. Kết quả cho thấy ở<br />
37oC và nồng độ chất cảm ứng là 0,5 mM IPTG, IL-3 được biểu hiện dưới hai dạng: dạng đơn (IL-3<br />
nguyên vẹn đã được cắt bỏ tín hiệu tiết PelB) có kích thước khoảng 15 kDa và dạng lai với tín hiệu tiết<br />
PelB (khoảng 18 kDa). Protein IL-11 biểu hiện ở mức độ thấp và ở dạng đơn, có kích thước khoảng 19<br />
kDa đúng với kích thước của protein IL-11 chuẩn.<br />
Từ khóa: Escherichia coli, Interleukin-3, Interleukin-11, Isopropylthio-β-galactoside (IPTG), tín hiệu tiết PelB.<br />
<br />
MỞ ĐẦU<br />
Interleukin-11 (IL-11) là một cytokine thuộc<br />
họ Interleukin-6, đóng vai trò điều hòa sự nhân<br />
lên, biệt hóa và trưởng thành của nhiều loại tế<br />
bào máu. Theo Souto et al. (2012) [6], protein<br />
IL-11 người tái tổ hợp sản xuất bằng công nghệ<br />
DNA tái tổ hợp từ chủng E. coli hiện nay được<br />
sử dụng trên toàn thế giới để phòng bệnh giảm<br />
tiểu cầu sau hóa trị liệu và giảm nhu cầu truyền<br />
tiểu cầu đối với bệnh nhân bị u tủy ác tính.<br />
Interleukin 3 (IL-3) cũng là một cytokine có<br />
bản chất là glycoprotein, tham gia vào quá trình<br />
tự đổi mới và sống sót của các tế bào nguồn tạo<br />
máu, sự nhân lên, biệt hóa của các tế bào nguồn<br />
và hoạt hóa chức năng của các bạch cầu trưởng<br />
thành [3].<br />
Trong số các hệ biểu hiện protein ngoại lai<br />
hiện nay thì vi khuẩn Gram âm E. coli vẫn là<br />
một trong những hệ biểu hiện thu hút nhiều<br />
quan tâm nhất vì chúng có tốc độ sinh trưởng<br />
nhanh với mật độ tế bào cao trên môi cơ chất<br />
không đắt tiền cũng như các đặc điểm di truyền<br />
đã được nghiên cứu đầy đủ. Hơn nữa, trên thị<br />
trường hiện nay thương mại nhiều loại vector<br />
tách dòng và chủng đột biến đối với hệ biểu<br />
hiện này.<br />
Protein ngoại lai tổng hợp trong tế bào chất<br />
94<br />
<br />
ở E. coli thường đi kèm với sự cuộn xoắn không<br />
chính xác và tích tụ ở dạng thể vùi. Mặc dù sự<br />
tạo thành thể vùi thuận lợi cho tinh sạch nhưng<br />
việc tái cấu trúc để đảm bảo chức năng sinh học<br />
chưa hiệu quả. Việc tiết protein vào khoang chu<br />
chất sẽ có nhiều ưu điểm, nhất là giảm sự phân<br />
cắt protein đích, tinh sạch dễ dàng, protein độc<br />
với tế bào khu trú trong khoang chu chất. Hầu<br />
hết các protein được tiết ra khoang chu chất là<br />
protein dạng tan, có chức năng sinh học.<br />
Khoang chu chất của tế bào E. coli chứa các<br />
enzyme xúc tác việc tạo thành hoặc tái sắp xếp<br />
cầu disulfide, vì vậy các protein tái tổ hợp biểu<br />
hiện trong E. coli thường được định hướng vận<br />
chuyển đến đây [1].<br />
Có nhiều chuỗi tín hiệu xuất phát từ những<br />
protein tiết trong tự nhiên như OmpA, OmpT,<br />
PelB, β-lactamase và alkaline phosphatase giúp<br />
vận chuyển các polypeptide ngoại lai qua màng<br />
trong nếu được thiết kế ở dạng lai với chúng.<br />
Người ta thường thiết kế thêm tín hiệu dẫn<br />
đường vào đầu N của protein đích. Chúng sẽ<br />
định hướng chuyển protein ra khoang chu chất<br />
và sau đó bị cắt bởi peptidase của màng trong,<br />
phần protein còn lại có hoạt tính được định<br />
hướng tới khoang chu chất của tế bào.<br />
Theo Georgiou & Segatori (2005) [2], nhờ<br />
<br />
Nguyen Thi Quy et al.<br />
tiến bộ về công nghệ biểu hiện trong thời gian<br />
qua, nhiều protein của động vật có vú được sản<br />
xuất đều đặn dưới dạng tiết, năng suất lên tới<br />
gam/lít.<br />
Trong bài báo này, chúng tôi thiết kế tín hiệu<br />
tiết PelB ngay trước gen il-3 và il-11 để định<br />
hướng biểu hiện protein IL-3 và IL-11 người tái<br />
tổ hợp ở khoang chu chất của E. coli, đồng thời<br />
tránh sự gắn không mong muốn của methionin<br />
vào đầu chuỗi polypeptide mới tổng hợp.<br />
VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU<br />
<br />
Vật liệu<br />
Gen il-3 và il-11 được tổng hợp bởi hãng<br />
Genscript (Hoa Kỳ) và tách dòng trong vector<br />
pUC57. Plasmid pET22b(+) được dùng làm<br />
vector biểu hiện. Chủng E. coli DH10b dùng<br />
cho mục đích tách dòng gen. Chủng E. coli<br />
BL21 (Invitrogen) được dùng làm chủng biểu<br />
hiện protein.<br />
Enzyme hạn chế NotI, NdeI, DNA marker,<br />
protein chuẩn của hãng Fermentas (Đức).<br />
Skimmed<br />
milked<br />
(Difco),<br />
3,3′,5,5′Tetramethylbenzidine (TMB, Sigma). Protein<br />
tái tổ hợp IL-3 người chuẩn (Biovision) và IL11 chuẩn (Sigma) được dùng làm đối chứng<br />
dương. Kháng thể kháng IL-3 (Bioworld) và IL11 (Abcam) được sử dụng cho phản ứng lai<br />
western blot. Tất cả các hóa chất khác được<br />
mua từ hãng Merck.<br />
Phương pháp<br />
Thiết kế plasmid mang gen il-3 và il-11<br />
Trình tự gen mã hóa protein IL-3 và IL-11<br />
người được tổng hợp dựa trên trình tự gen mã<br />
số NM_000588 và NM_000641 trên Ngân hàng<br />
gen quốc tế, trong đó trình tự amino acid của<br />
IL-11 giống với trình tự amino acid của IL-11<br />
đã được thương mại của hãng Neumega (không<br />
có Prolin). Để định hướng protein tiết ra khoang<br />
chu chất và đảm bảo methionin được cắt khỏi<br />
protein đích, gen il-3 và il-11 được thiết kế thêm<br />
đoạn peptide dẫn đường pelB ở đầu mỗi gen.<br />
Ngoài ra, trình tự nhận biết bởi enzyme hạn chế<br />
NdeI và NotI được đưa vào hai đầu của mỗi gen<br />
để thuận tiện cho việc tách dòng các gen. Trình<br />
tự cassette biểu hiện gen il-3, il-11 được gửi<br />
sang hãng Genscript để tổng hợp và tách dòng<br />
<br />
trong vector pUC57. Sau đó, đoạn gen pelBil3,<br />
pelBil11 được cắt khỏi vector tách dòng bằng<br />
NdeI và NotI và nối vào vector pET22b(+) cũng<br />
đã được xử lý bằng hai enzyme hạn chế trên để<br />
tạo thành vector pET22pelBil3, pET22pelBil11.<br />
Biểu hiện gen il-3 và il-11<br />
Các tế bào E. coli mang vector biểu hiện<br />
pET22pelBil3, pET22pelBil11 được nuôi cấy<br />
trong môi trường Luria Broth có ampicillin<br />
(LBamp) nồng độ 100 µg/ml qua đêm ở 37oC,<br />
200 vòng/phút rồi chuyển sang sang môi trường<br />
LBamp mới sao cho OD600 ban đầu là 0,1. Tiếp<br />
tục nuôi cấy trong cùng điều kiện cho tới khi<br />
OD600=0,4-0,6 thì bổ sung 0,5 mM<br />
Isopropylthio-β-galactoside (IPTG) để cảm ứng<br />
promoter tổng hợp protein ngoại lai ở 37oC và<br />
thu mẫu sau 4 giờ nuôi cấy cảm ứng. Tế bào<br />
được thu lại bằng cách ly tâm và hòa lại trong<br />
đệm TrisHCl 20 mM sao cho OD600=10. Sau đó,<br />
tế bào được xử lý trực tiếp bằng đệm xử lý mẫu<br />
để giải phóng protein tổng số. Protein tổng số<br />
có chứa protein tái tổ hợp được phân tích bằng<br />
SDS-PAGE và Western blot.<br />
Tính kháng nguyên của IL-3 và IL-11 được<br />
đánh giá thông qua khả năng liên kết với kháng<br />
thể đặc hiệu.<br />
Mẫu protein được điện di biến tính trên gel<br />
SDS-PAGE 15% và chuyển màng bằng bộ<br />
chuyển màng của BioRad trong 1 giờ, 120 V.<br />
Màng được lấy ra và phủ bằng sữa tách béo 5%,<br />
rồi ủ với kháng thể 1 là kháng thể kháng IL-3<br />
(hoặc IL-11) người trong 1 giờ. Sau bước rửa<br />
bằng đệm TBS 1X, màng tiếp tục được ủ với<br />
kháng thể 2 cộng hợp với enzyme peroxidase<br />
trong 1 giờ và hiện màu với 3,3′,5,5′Tetramethylbenzidine (TMB).<br />
KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN<br />
<br />
Thiết kế plasmid mang gen il3 và il11 để biểu<br />
hiện trong E. coli<br />
Các gen il-3, il-11 của người có kích thước<br />
tương ứng là 405 bp và 537 bp. Khi được gắn<br />
pelB và trình tự nhận biết enzyme hạn chế vào đầu<br />
5', kích thước gen tăng lên tương ứng là 488 bp và<br />
620 bp (hình 1). Do trong vector có thêm trình tự<br />
nhận biết của NdeI nên khi cắt bằng cặp enzyme<br />
hạn chế này vector đã bị cắt thành hai đoạn có<br />
kích thước khoảng 2,5 kb và 0,25 kb (hình 1).<br />
95<br />
<br />
TẠP CHÍ SINH HỌC, 2013, 35(3se): 94-99<br />
bp<br />
<br />
1<br />
<br />
M<br />
<br />
Gen il-3 và il-11, pET22b(+) sau khi xử lý<br />
với NdeI và NotI được phân tách trên gel<br />
agarose và được tinh sạch bằng kít của Qiagen.<br />
Cả ba đoạn DNA pET22b(+), il3, il11 giới hạn<br />
bởi NdeI+NotI có kích thước lần lượt là 5,37 kb,<br />
488 bp, 620 bp đều được cắt và tinh sạch hiệu<br />
quả (hình 2).<br />
Các đoạn gen il-3, il-11 lần lượt được nối<br />
vào vector pET22b(+) để tạo thành vector<br />
pET22pelBil3 và pET22pelBil11. Sự có mặt của<br />
gen il-3, il-11 trong vector biểu hiện được kiểm<br />
tra bằng chính cặp enzyme hạn chế NdeI và<br />
NotI (hình 3) và giải trình tự gen (kết quả không<br />
trình bày).<br />
<br />
2<br />
<br />
10000<br />
6000<br />
4000<br />
3000<br />
2500<br />
2000<br />
1500<br />
1000<br />
750<br />
500<br />
250<br />
<br />
Hình 1. DNA plasmid được xử lý<br />
bằng enzyme hạn chế<br />
1. pUC57pelBil11/NdeI+NotI;<br />
2: pUC57pelBil3/NdeI+NotI; M: DNA marker 1 kb.<br />
bp<br />
<br />
1<br />
<br />
M<br />
<br />
2<br />
<br />
bp<br />
<br />
1<br />
<br />
M<br />
<br />
2<br />
<br />
3<br />
10000<br />
6000<br />
<br />
10000<br />
6000<br />
<br />
2500<br />
2000<br />
<br />
2500<br />
2000<br />
1500<br />
<br />
1500<br />
1000<br />
<br />
1000<br />
<br />
750<br />
<br />
750<br />
500<br />
<br />
500<br />
<br />
250<br />
<br />
250<br />
<br />
Hình 2. pET22b(+), gen pelBil3 và pelBil11 tinh<br />
sạch sau khi xử lý bằng NotI và NdeI.<br />
<br />
Hình 3. Cắt kiểm tra vector biểu hiện mang gen<br />
bằng enzyme hạn chế<br />
<br />
1. pET22b(+)/NdeI+NotI; 2: pelBil3/NdeI+NotI;<br />
3: pelBil11/NdeI+NotI; M: DNA marker 1kb<br />
(fermentas).<br />
<br />
1. pET22pelBil3/NdeI+NotI; 2: pET22pelB<br />
il11/NdeI+NotI; M: DNA marker 1 kb<br />
(fermentas).<br />
<br />
a kDa<br />
116,<br />
66,2<br />
45,0<br />
35,0<br />
<br />
1 M 1 2 3 4 DC 5 K<br />
<br />
b kDa<br />
<br />
1 M 2 P 2 3 DC 4 5 K<br />
<br />
70<br />
55<br />
40<br />
35<br />
25<br />
<br />
25,0<br />
18,4<br />
14,4<br />
<br />
15<br />
10<br />
<br />
Hình 4. Kiểm tra protein biểu hiện từ các dòng E. coli BL21 mang pETpelBil3<br />
bằng Coomassie (a) và phản ứng lai western blot (b)<br />
1-6. các dòng mang pETpelBIL-3; DC: chủng đối chứng không mang gen;<br />
K. chủng mang gen không cảm ứng IPTG; M1. thang protein chuẩn (Fermentas);<br />
M2. thang protein màu chuẩn (Fermentas); P: protein chuẩn hIL3 (Biovision)<br />
<br />
96<br />
<br />
Nguyen Thi Quy et al.<br />
Biểu hiện gen il-3 và il-11 trong E. coli<br />
Vector tái tổ hợp mang gen pelBil-3 và il-11<br />
được biến nạp vào tế bào biểu hiện E. coli<br />
BL21. Các dòng biến nạp được nuôi cấy trong<br />
môi trường LBamp và cảm ứng với IPTG. Dịch<br />
phá tế bào được điện di biến tính trên gel SDSPAGE 15% để kiểm tra sự có mặt của protein<br />
quan tâm (hình 4 và 5).<br />
Kết quả nhuộm Coomassie trên hình 4a cho<br />
thấy sau cảm ứng, tất cả các dòng biến nạp (16) đều biểu hiện protein ngoại lai, thể hiện với<br />
một băng protein có kích thước khoảng 15 kDa<br />
tương ứng với kích thước của protein IL-3 và<br />
một băng protein khác có kích thước khoảng<br />
gần 18 kDa, trong khi dòng đối chứng âm<br />
(đường chạy DC) là dòng chỉ mang vector<br />
pET22b(+) và dòng mang gen nhưng không<br />
được cảm ứng IPTG (đường chạy K) đều không<br />
cho hai băng protein này. Theo lý thuyết, đoạn<br />
peptide tín hiệu PelB có kích thước khoảng 2,42<br />
kDa. Sự xuất hiện băng protein có kích thước<br />
khoảng 18 kDa trên điện di đồ được cho là băng<br />
của protein IL-3 gắn với PelB và trong quá trình<br />
biểu hiện có thể chỉ một phần protein IL-3 được<br />
cắt khỏi đoạn peptide tín hiệu. Để chứng minh<br />
lập luận trên, phản ứng lai western blot dựa trên<br />
sự liên kết đặc hiệu giữa kháng nguyên – kháng<br />
thể được thực hiện. Kết quả phân tích miễn dịch<br />
trên Hình 4b cho thấy có hai băng màu xuất<br />
hiện được đánh dấu bằng mũi tên, đó là băng<br />
protein IL-3 (khoảng 15 kDa) và IL-3 liên kết<br />
với PelB (khoảng 18 kDa). Kết quả liên kết<br />
<br />
a kDa<br />
116,<br />
66,2<br />
45,0<br />
35,0<br />
25,0<br />
18,4<br />
14,4<br />
<br />
1 K DC P M1 2 3 4 5<br />
<br />
miễn dịch này hoàn toàn thống nhất với kết quả<br />
phân tích SDS-PAGE.<br />
Như đã đề cập ở trên, để protein biểu hiện<br />
dưới dạng tiết thì người ta thường thiết kế thêm<br />
tín hiệu tiết vào đầu N của protein đích. Tuy<br />
nhiên, hiệu suất biểu hiện thường thấp hơn<br />
nhiều và không phải tất cả protein biểu hiện đều<br />
được tiết vào khoang chu chất mà còn tìm thấy<br />
ở trong môi trường, trong tế bào chất và màng<br />
nguyên sinh chất [1, 7]. Kết quả biểu hiện<br />
protein IL-3 từ chủng E. coli tái tổ hợp do<br />
chúng tôi thiết kế cũng giống như trường hợp<br />
trên. Mặc dù được thiết kế gắn thêm pelB vào<br />
đầu gen nhưng chỉ một phần protein biểu hiện<br />
ra được cắt khỏi PelB và phần còn lại vẫn gắn<br />
với tín hiệu tiết này. Theo Mergulhao et al.<br />
(2005) [5], kích thước protein có thể ảnh hưởng<br />
đến hiệu quả tiết. Thành phần amino acid của<br />
peptide tín hiệu và protein đích cũng đóng vai<br />
trò quan trọng. Tốc độ vận chuyển protein ngoại<br />
lai ra khoang chu chất có thể bắt nguồn từ khả<br />
năng tiết hạn chế của bộ máy vận chuyển trong<br />
E. coli. Khi khả năng này bị lấn át thì phần lớn<br />
protein biểu hiện ra dưới dạng thể vùi. Vì thế<br />
việc tối ưu mức độ biểu hiện là điều rất quan<br />
trọng.<br />
Tương tự như vậy, các dòng biến nạp với gen<br />
il-11 cũng được nuôi cấy và cảm ứng với IPTG<br />
để phân tích sự biểu hiện protein IL-11 người tái<br />
tổ hợp trong dịch phá tế bào. Sự biểu hiện protein<br />
ngoại lai được phân tích trên gel SDS-PAGE và<br />
phản ứng lai western blot (hình 5).<br />
<br />
b kDa<br />
<br />
1 K DC P M2 2 3 4 5 DC<br />
<br />
170<br />
70<br />
55<br />
40<br />
35<br />
25<br />
15<br />
10<br />
<br />
Hình 5. Kiểm tra protein biểu hiện từ các dòng E. coli BL21 mang pETpelBil11<br />
bằng Coomassie (a) và phản ứng lai western blot (b)<br />
1-5. các dòng mang vector pETpelBil11; ĐC. chủng đối chứng không mang gen;<br />
K. chủng mang gen không cảm ứng IPTG; P: protein chuẩn human IL-11 (Sigma);<br />
M1. thang protein chuẩn (Fermentas); M2. thang protein màu chuẩn (Fermentas).<br />
<br />
97<br />
<br />
TẠP CHÍ SINH HỌC, 2013, 35(3se): 94-99<br />
<br />
Kết quả nhuộm Coomassie trên hình 5a cho<br />
thấy so với dòng đối chứng (ĐC) và dòng không<br />
cảm ứng IPTG (K) thì các dòng còn lại đều<br />
không quan sát thấy băng protein khác biệt<br />
trong khi kết quả lai với kháng thể kháng IL-11<br />
người (hình 5b) cho một băng duy nhất bắt màu<br />
rất yếu, tương ứng với kích thước của protein<br />
IL-11 chuẩn (đường chạy P, mũi tên) ở các dòng<br />
số 1, 3, 4 và 5. Như vậy IL-11 biểu hiện kém<br />
trong chủng chủ và dưới dạng đơn, không giống<br />
như trường hợp IL-3. Mức độ biểu hiện yếu của<br />
IL-11 trong chủng tái tổ hợp có thể liên quan<br />
đến cấu trúc gen il-11 và tính chất của protein<br />
tạo ra. Thành phần nucleotide của gen liên quan<br />
đến mã bộ ba mã hóa cho amino acid.<br />
Khi phân tích sự phù hợp của gen il-11 đối<br />
với chủng chủ thì thấy thành phần GC của gen<br />
lên tới 71,13% và chỉ số phù hợp codon là 0,61.<br />
Thông thường để gen biểu hiện tốt trong chủng<br />
chủ thì chỉ số phù hợp codon lớn hơn 0,8 và<br />
thành phần GC nằm trong ngưỡng 30-70%.<br />
Mức độ biểu hiện protein ngoại lai trong chủng<br />
chủ phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau. Theo<br />
Mehlin at el. (2006) [4], sự phù hợp của gen,<br />
kích thước phân tử, điểm đẳng điện (PI) của<br />
protein đích đối với E. coli liên quan mật thiết<br />
đến khả năng biểu hiện trong chủng chủ.<br />
KẾT LUẬN<br />
<br />
Gen il-3 và il-11 đã được thiết kế gắn với tín<br />
hiệu tiết pelB và đưa vào vector biểu hiện<br />
pET22b(+) và biểu hiện trong tế bào E. coli<br />
BL21. Protein IL-3 tái tổ hợp tạo ra ở dạng đơn<br />
và dạng lai với tín hiệu tiết PelB trong khi<br />
protein IL-11 biểu hiện ở dạng đơn. Phân tích<br />
miễn dịch cho thấy protein IL-11 biểu hiện ở<br />
mức độ thấp, thể hiện ở tín hiệu yếu với kháng<br />
thể kháng IL-11.<br />
Lời cảm ơn: Công trình được thực hiện từ<br />
nguồn kinh phí của đề tài độc lập cấp nhà nước<br />
“Nghiên cứu sản xuất Interleukin-3 và<br />
Interleukin-11 tái tổ hợp chất lượng cao dùng<br />
trong y học (điều trị)” giai đoạn 2013-2015.<br />
Công trình có sử dụng trang thiết bị của Phòng<br />
<br />
98<br />
<br />
thí nghiệm Trọng điểm Công nghệ Gen.<br />
TÀI LIỆU THAM KHẢO<br />
<br />
1. Baneyx F., 1999. Recombinant protein<br />
expression in Escherichia coli. Curr Opin<br />
Biotechnol., 10(5): 411-21.<br />
2. Georgiou G., Segatori L., 2005. Preparative<br />
expression of secreted proteins in bacteria:<br />
status report and future prospects. Curr Opin<br />
Biotechnol., 16(5): 538-545.<br />
3. Kaushansky K., Shoemaker S. G., Broudy<br />
V. C., Lin N. L., Matous J. V., Alderman E.<br />
M., Aghajanian J. D., Szklut P. J., VanDyke<br />
R. E., Pearce M. K., 1992. Structurefunction relationships of interleukin-3. An<br />
analysis based on the function and binding<br />
characteristics of a series of interspecies<br />
chimera of gibbon and murine interleukin-3.<br />
J. Clin. Invest., 90(5): 1879-1888.<br />
4. Mehlin C., Boni E., Buckner F. S., Engel L.,<br />
Feist T., Gelb M. H., Haji L., Kim D., Liu<br />
C., Mueller N., Myler P. J., Reddy J. T.,<br />
Sampson J. N., Subramanian E., Van<br />
Voorhis W. C., Worthey E., Zucker F., Hol<br />
W. G., 2006. Heterologous expression of<br />
proteins from Plasmodium falciparum:<br />
results from 1000 genes. Mol. Biochem.<br />
Parasitol., 148(2): 144-160.<br />
5. Mergulhao F. J. M., Summers D. K.,<br />
Monteiro G. A., 2005. Recombinant protein<br />
secretion in Escherichia coli. Biotechnology<br />
Advances 23: 177-202.<br />
6. Souto R. B., Stamm F. P., Ribela M. T.,<br />
Bartolini P., Calegari G. Z., Dalmora S. L.,<br />
2012. Validation of a stability-indicating<br />
RP-LC method for the assessment of<br />
recombinant human interleukin-11 and its<br />
correlation with bioassay. Anal Sci., 28(3):<br />
215-220.<br />
7. http://www.embl.de/pepcore/pepcore_servic<br />
es/protein_expression/ecoli/improving_prot<br />
ein_solubility/<br />
<br />