Nghiên cứu triết học " PHƯƠNG PHÁP LUẬN PHÂN TÍCH MỐI QUAN HỆ GIỮA ĐỐI TÁC VÀ ĐỐI TƯỢNG TRONG NHẬN THỨC CỦA ĐẢNG TA "
lượt xem 22
download
Từ góc độ triết học, trong bài viết này, khi đề cập đến một vấn đề có ý nghĩa chính trị trong quan hệ quốc tế – mối quan hệ giữa đối tác và đối tượng, tác giả đã chỉ ra và luận giải ý nghĩa phương pháp luận trong việc phân tích mối quan hệ này của Đảng ta. Nhận thức rõ mối quan hệ này theo một nguyên tắc nhất quán – tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, quan hệ hữu nghị và hợp tác bình đẳng, cùng có lợi, Đảng ta...
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Nghiên cứu triết học " PHƯƠNG PHÁP LUẬN PHÂN TÍCH MỐI QUAN HỆ GIỮA ĐỐI TÁC VÀ ĐỐI TƯỢNG TRONG NHẬN THỨC CỦA ĐẢNG TA "
- PHƯƠNG PHÁP LUẬN PHÂN TÍCH MỐI QUAN HỆ GIỮA ĐỐI TÁC VÀ ĐỐI TƯỢNG TRONG NHẬN THỨC CỦA ĐẢNG TA PHAN TRỌNG HÀO (*) Từ góc độ triết học, trong bài viết này, khi đề cập đến một vấn đề có ý nghĩa chính trị trong quan hệ quốc tế – mối quan hệ giữa đối tác và đối tượng, tác giả đã chỉ ra và luận giải ý nghĩa phương pháp luận trong việc phân tích mối quan hệ này của Đảng ta. Nhận thức rõ mối quan hệ này theo một nguyên tắc nhất quán – tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, quan hệ hữu nghị và hợp tác bình đẳng, cùng có lợi, Đảng ta luôn xác định rõ các cấp độ bao quát về phạm vi đối tác và đối tượng, phân định rõ đối tác và đối tượng, xác định rõ đối tác chiến lược, lâu dài. Đó là cách nhìn nhận mới, mang ý nghĩa phương pháp luận của Đảng ta về mối quan hệ giữa đối tác và đối tượng trong bối cảnh quốc tế hiện thời. Nhận thức về đối tác v à đối tượng là vấn đề nhạy cảm và cực kỳ quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam x ã h ội chủ nghĩa. Sự cần thiết phải thống nhất về nhận thức t rong vấn đề n ày luôn là một đ òi hỏi chính đáng và hợp lý, trên cơ sở lợi ích chung của quốc gia, dân tộc. V ì thế, trong Văn kiện Đại hội X, Đảng ta đ ã nhấn mạnh việc cần phải “chú trọng giáo dục thống nhất nhận thức về đối t ượng và đối tác; nắm vững đường lối, quan điểm, yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong t ình hình mới; nâng cao ý thức trách nhiệm và tinh th ần cảnh giác trong thực hiện các nhiệm vụ quốc ph òng, an ninh”(1). 1 . T h ực ra, không phải đến Đại hội X, Đảng ta mới b àn đ ến vấn đề n ày. D ư ới các cá ch di ễn đạt khác nhau, vấn đề bạn, th ù, đ ối tác, đối t ư ợng đ ã
- đ ư ợc Đảng ta b àn đ ến trong L u ận c ương chánh tr ị đ ầu ti ên (1930). Tuy n hiên, ph ải đến Hội nghị Trung ư ơng 8, khóa IX (tháng 7 - 2 003), l ần đ ầu ti ên, trong Ngh ị quyết chuy ên đ ề về C hi ến l ư ợc bảo v ệ Tổ quốc t rong tình hình m ới , Đ ảng ta mới đ ưa ra cách nh ìn mới, thống nhất về vấn đề đối tác và đ ối t ư ợng theo nguy ên t ắc: Những ai chủ tr ương tôn t r ọng độc lập, chủ quyền, thiết lập v à mở rộng quan hệ hữu nghị và h ợp t ác bình đ ẳng, c ùng có l ợi với Việt N am đ ều l à đ ối tác của chúng ta. Bất kể thế lực n ào có âm mưu và hành động phá mục tiêu của nước ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đều là đối tượng đấu tranh… Trong mỗi đối tượng vẫn có mặt cần tranh thủ, hợp tác trong một số đối tác, có thể có mặt khác biệt, mâu thuẫn với lợi ích của ta(2). Có thể nói, nguyên tắc trên đây cũng đồng thời là tiêu chí để xác định đối tác và đối tượng trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa hiện nay. Về nhận thức, cần xem xét, làm rõ các cấp độ bao quát về phạm vi đối tác và đối tượng. Trước hết, xét trên tầm vĩ mô, tổng thể (của chủ thể), đối tác (và đối tượng) được xác định là một chủ thể: một con người (ai); hay nhiều người, nhiều lực lượng (những ai, những thế lực,...). Theo đó, có thể hiểu là một người (cá nhân), một nhóm người (tổ chức) hay suy rộng ra, một tập đoàn người, một quốc gia, dân tộc, v.v. đều có thể là đối tác (hay đối tượng) của chúng ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Ở đây, đối tác (hay đối tượng) được xác định là một chủ thể hoàn chỉnh (một người, một tổ chức). Thứ hai, ở tầm vi mô, phạm vi hẹp, trong khuôn khổ của mỗi chủ thể, đối tác và đối tượng không phải là một chủ thể hoàn chỉnh, mà chỉ là những “mặt”, những “thuộc tính”, những bộ phận của mỗi chủ thể đó. Trong trường hợp này, đối tượng (hoặc đối tác) chỉ là một, một số, đa số hay hầu hết các mặt, thuộc tính, bộ phận của một chủ thể trong quan hệ với chúng ta. Vì thế, bất cứ chủ thể nào cũng có thể vừa là đối tượng lại vừa là đối tác, hay nói chính xác hơn, vừa có mặt đối tác, vừa có mặt đối tượng trong quan hệ với chúng ta. Diễn đạt theo cách khác, đối tượng và đối
- tác là hai mặt luôn đan xen và thống nhất trong mỗi chủ thể. Không có chủ thể nào chỉ là đối tác hoặc ngược lại, chỉ là đối tượng của cách mạng Việt Nam. Vấn đề là, trong quan hệ với chúng ta, những “mặt”, những “thuộc tính”, những bộ phận ấy bộc lộ ra với tư cách gì, là đối tác hay đối tượng. Và, ngay trong mỗi “mặt”, mỗi “thuộc tính”, mỗi bộ phận cũng bao hàm các yếu tố đối tác và đối tượng ở trong nó. Như vậy, đối tác và đối tượng có những cấp độ rất khác nhau; chúng không chỉ là những thuộc tính đối lập nhau trong mỗi chủ thể, mà còn có ở trong nhau, ngay trong mỗi thuộc tính của chủ thể. Từ những phân tích trên cho thấy, về mặt lý luận, sẽ không có đối tác (hoặc đối tượng) toàn diện, thuần túy. Các đối tác (hay đối tượng) toàn diện, thuần túy mà ta vẫn được nghe, nói trong cuộc sống thường ngày chỉ là khái niệm trừu tượng, có ý nghĩa tượng trưng và biểu đạt một sắc thái tình cảm chủ quan mà thôi. Tuy vậy, cần thấy rằng, vẫn có những đối tác (hay đối tượng) nhiều mặt trong quan hệ với chúng ta. Thực tế cách mạng Việt Nam cho thấy, chúng ta đã từng phải đối phó với kiểu chiến tranh phá hoại nhiều mặt của kẻ thù nguy hiểm. 2. Cũng cần thấy rằng, “đối tác” và “đối tượng” không phải chỉ gồm những “mặt”, “thuộc tính”, những bộ phận ở trong cùng một chủ thể, đã được bộc lộ ra trong quan hệ với chúng ta. Bởi lẽ, đối tác hay đối tượng được xác định là những “mặt”, những “thuộc tính”, những bộ phận nào đấy của một chủ thể trong quan hệ với chủ thể khác. Ngoài những thuộc tính được biển hiện ra là những đối tác hay đối tượng trong quan hệ với các chủ thể, thì vẫn còn những thuộc tính khác đang ẩn giấu vai trò trong quan hệ với các chủ thể. Nghĩa là, trong mối quan hệ của một chủ thể xác định với chúng ta, không phải ngoài những mặt, những thuộc tính biểu hiện ra thành mặt đối tác (hay đối tượng) thì các thuộc tính còn lại đều là những mặt đối tượng (hay đối tác). Kể cả trong trường hợp chủ thể bộc lộ rất nhiều mặt đối tác và mặt đối tượng thì trong nó, vẫn còn những mặt, những thuộc tính chưa được biểu hiện ra. Đó có thể là những “đối tác thầm lặng”, đối tác tiềm năng trong tương lai. Và, đó cũng có thể là những “đối tượng giấu mặt”, “đối tượng tiềm ẩn”. Như vậy,
- đối tượng và đối tác, xét về phương thức biểu hiện, có hai dạng: một đã hiện hữu trong các mối quan hệ thực tế với chúng ta và một đang tồn tại dưới dạng tiềm năng, tiềm ẩn. Nhận thức đúng và dự báo được những dạng biểu hiện của hai loại đối tác và đối tượng này luôn là đòi hỏi thiết yếu của thực tiễn chính trị và khoa học chính trị. 3. Sự phân định đối tác, đối tượng là rất cần thiết. Song, sự phân định này cần phải “mềm dẻo” và “uyển chuyển” trong nhận thức. Trong thực tế, ranh giới giữa đối tác và đối tượng thường rất “mờ nhòe”, tương đối và do vậy, nhận thức chúng không phải dễ dàng, đơn giản. Do đó, cần xác định rõ những tiêu chí và quan điểm trong nhận thức và xử lý vấn đề này. Một trong những tiêu chí rất quan trọng để xác định đối tác là lợi ích. Lợi ích (hiểu theo nghĩa đầy đủ của nó) phải được bảo đảm cho cả hai phía: phía chúng ta và phía đối tác, làm sao để đôi bên “cùng có lợi”, phù hợp với pháp luật Việt Nam và thông lệ quốc tế. Tiêu chí “cùng có lợi” đã trở thành cơ sở của quan hệ giữa các đối tác. Tiêu chí này bác bỏ quan điểm “lợi kỷ”, chỉ biết giành lợi ích về phía mình mà thiếu quan tâm đến lợi ích của phía đối tác. Quan điểm ích kỷ, hẹp hòi này sẽ dẫn tới không tôn trọng nhau, không bình đẳng, lợi dụng nhau trong quan hệ giữa các đối tác. Từ “lợi kỷ” sẽ dẫn tới “hại nhân”, sẵn sàng làm tất cả để “lợi mình, hại người”. Điều này cực kỳ nguy hiểm, vì nó có thể đưa đến sự chuyển hóa đối tác thành đối tượng. Đây là sản phẩm của lối tư duy thực dụng, thiển cận, không phù hợp với không gian quan hệ mới giữa các đối tác văn minh, hiện đại. Vì thế, trong quan hệ giữa các đối tác, ngoài mối quan tâm về lợi ích là chủ chốt nhất, thì vấn đề chữ “tín” đã và đang cần phải được đặt lên hàng đầu. Cần phải tín nhiệm, tin tưởng nhau, tôn trọng nhau và chỉ có như vậy, mới trở thành đối tác thực sự của nhau. Như vậy, về tính chất, dưới góc độ lợi ích chung, có thể thấy đối tác và đối tượng mang lại lợi ích đối lập nhau (trái ngược nhau) trong quan hệ với chúng ta: đối tác mang lại lợi ích cho ta, đối tượng thì ngược lại. Tuy nhiên, lợi hay hại là xét trong những quan hệ xác định, rất cụ thể, ở những thời
- điểm cụ thể của những đối tác, đối tượng cụ thể. Từ đó, có thể hiểu là: sẽ không có đối tác vĩnh viễn và cũng sẽ không có đối tượng bất biến, mãi mãi không thay đổi. Đối tượng và đối tác có thể thay đổi tính chất, có thể chuyển hoá cho nhau trong những điều kiện, không gian và thời gian của những quan hệ nhất định. Biện chứng của cuộc sống đòi hỏi phải khách quan, toàn diện trong xem xét, đánh giá đối tác, đối tượng và phải biết phân tích, nắm vững bước chuyển hoá đó để có đối sách phù hợp. Cần tránh giáo điều, siêu hình, máy móc hay tuỳ tiện, vô nguyên tắc trong xử lý vấn đề đối tác và đối tượng. Phải biết tranh thủ khai thác mặt đối tác, nhưng cũng luôn phải cảnh giác, đấu tranh với mặt đối tượng trong quan hệ với các chủ thể. Cần phải lấy lợi ích căn bản của quốc gia, dân tộc, của chủ nghĩa xã hội làm “cái bất biến” để đối phó với “cái vạn biến” của đối tác và đối tượng. Thực hiện phương châm “thêm bạn, bớt thù”, tranh thủ mọi khả năng, điều kiện để phục vụ cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. 4. Mặc dù không có đối tác vĩnh viễn, nhưng vẫn và luôn cần phải có đối tác chiến lược, lâu dài. Chúng ta đang thiếu những đối tác chiến lược, tầm cỡ và “toàn diện”, có thể bảo đảm lợi ích lâu dài, chắc chắn cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Thực tế cho thấy, nếu tự neo mình vào một “điểm tựa” bất biến thì chưa đủ để bảo đảm sự ổn định lâu dài và phát triển bền vững của đất nước. Cần phải giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa các đối tác song song với giải quyết mối quan hệ giữa các đối tượng và mối quan hệ giữa đối tác và đối tượng. Làm thế nào để tránh sự chuyển hóa bất lợi từ đối tác trở thành đối tượng, mà chỉ có thể tạo ra sự chuyển hóa ngược lại: từ đối tượng trở thành đối tác. Đây chính là sự nhận thức mới về vấn đề địch - ta, đối tượng - đối tác theo tinh thần: “Việt Nam là bạn, đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, tham gia tích cực vào tiến trình hợp tác quốc tế và khu vực”(3). Không đồng nhất đối tác với bạn, nhưng cũng không đồng nhất đối tượng với thù. Bạn, theo nghĩa rộng, đã bao hàm đối tác trong đó. Còn đối tác chưa hẳn đã là bạn theo đúng nghĩa,
- đó có thể chỉ là “bạn” trên một góc độ nào đấy, chưa phải là bạn đích thực. Như vậy, đối tác chỉ là một loại “bạn”; kẻ thù cũng chỉ là một loại đối tượng, nó có thể hiện diện là “đối tượng tác chiến” - loại đối tượng cần đấu tranh để loại bỏ, chứ không phải loại đối tượng đấu tranh để hợp tác. Chúng ta không mong muốn có nhiều “đối tượng”, nhất là đối tượng kẻ thù. Chúng ta càng không muốn có “kẻ thù truyền kiếp”, nhưng thực tế cuộc sống buộc chúng ta phải thường xuyên nêu cao cảnh giác và đấu tranh cách mạng. Trong bối cảnh tình hình diễn biến mau lẹ và phức tạp hiện nay, cần có cách nhìn biện chứng về mối quan hệ giữa đối tác và đối tượng. Trên cơ sở đó, cần khắc phục cả hai khuynh hướng mơ hồ, mất cảnh giác hoặc cứng nhắc trong nhận thức, chủ trương và trong xử lý các tình huống cụ thể, nhạy cảm. Nếu không thấy được sự mâu thuẫn, khác biệt trong các đối tác dễ đi đến chỉ thấy mặt hợp tác, sự thống nhất mà quên đi sự đấu tranh. Bài học lịch sử của An Dương Vương còn đó! Ngược lại, không thấy mặt cần tranh thủ, hợp tác trong mỗi đối tượng thì sẽ bỏ mất cơ hội có thể làm phân hóa, chuyển hóa đối tượng thành đối tác, đồng minh có lợi cho ta. Khi giải quyết vấn đề đối tác, đối tượng phải có tư duy chiến lược, kết hợp giữa chiến lược với sách lược; giải quyết hài hòa các quan hệ lợi ích cả trước mắt và lâu dài, cả cục bộ và toàn cục, cả đối nội và đối ngoại. Vấn đề này, trong bối cảnh chiến tranh trước đây, chúng ta đã làm tốt, nhưng trong bối cảnh chiến trường - thương trường phức tạp hiện nay, chúng ta cần quan tâm nghiên cứu thoả đáng và phải tỉnh táo, thực tế hơn nữa. Cần thấm nhuần sâu sắc chủ trương Việt Nam sẵn sàng “làm bạn với tất cả mọi nước dân chủ và không gây thù oán với một ai”(4) mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa ra 60 năm trước đây.r (*) Tiến sĩ, Học viện Chính trị – Quân sự. (1) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2006, tr. 109.
- (2) Xem: Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương. Tài liệu học tập Nghị quyết lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2003, tr. 44. (3) Đảng Cộng sản Việt Nam Sđd., tr. 112. (4) Hồ Chí Minh Toàn tập, t.5. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, tr. 220.
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tiểu luận triết học "Sự khác biệt căn bản của triết học phương Tây và phương Đông"
7 p | 1703 | 867
-
Tiểu luận: So sánh triết học phương Đông và triết học phương Tây
25 p | 2138 | 482
-
Tiểu luận triết học: Sự khác biệt giữa triết học phương Đông và phương Tây
13 p | 592 | 200
-
Tiểu luận triết học Phương Đông
21 p | 1625 | 196
-
Nghiên cứu triết học: Bản thể luận và cách tiếp cận bản thể luận trong triết học phương Tây
11 p | 832 | 158
-
Tiểu luận: " Sự khác biệt căn bản của triết học phương Tây và phương Đông "
10 p | 356 | 146
-
Đề tài: " NGHIÊN CỨU CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG Ở VIỆT NAMTHÀNH QUẢ VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA "
12 p | 340 | 101
-
TIỂU LUẬN: Sự khác biệt căn bản của triết học phương Tây và phương Đông
9 p | 243 | 77
-
Bài thuyết trình Triết học phương Tây: Bản thể luận của trường phái Mile và Heraclite
20 p | 615 | 61
-
Nghiên cứu triết học " MỘT SỐ SUY NGHĨ VỀ MỤC ĐÍCH, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG THỨC CỦA VIỆC GIẢNG DẠY TRIẾT HỌC "
9 p | 288 | 56
-
Báo cáo nghiên cứu khoa học: "Kết cấu trận đồ bát quái theo luật âm dương ngũ hành "nhịp 1: khấn nguyện" trong tập thơ về Kinh Bắc của Hoàng Cầm"
10 p | 237 | 54
-
Đề tài: " THỰC TRẠNG NGHIÊN CỨU VÀ ĐÀO TẠO TRIẾT HỌC Ở VIỆT NAM THỜI GIAN QUA – MẤY ĐỀ XUẤT PHƯƠNG HƯỚNG ĐỔI MỚI "
9 p | 214 | 38
-
NGHIÊN CỨU TRIẾT HỌC: " RÈN LUYỆN PHƯƠNG PHÁP BIỆN CHỨNG CHO SINH VIÊN CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC, CAO ĐẲNG QUA VIỆC DẠY VÀ HỌC TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN TRONG TÌNH HÌNH HIỆN NAY "
10 p | 201 | 37
-
Nghiên cứu triết học " KHOAN DUNG THUẬT NGỮ VÀ SỰ VẬN ĐỘNG CỦA NÓ TRONG LỊCH SỬ TRIẾT HỌC PHƯƠNG TÂY "
12 p | 179 | 35
-
Đề tài “So sánh triết học phương Đông cổ đại và Hy Lạp cổ đại”
21 p | 181 | 31
-
Nghiên cứu triết học " PHƯƠNG PHÁP TIẾP CẬN DI SẢN KINH ĐIỂN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN "
13 p | 158 | 22
-
Đề tài: " LUDWIG JOSEF JOHANN WITTGENSTEIN (1889 – 1951) “CHA TINH THẦN” CỦA TRIẾT HỌC PHÂN TÍCH "
19 p | 137 | 14
-
Nghiên cứu triết học " PIRONE VÀ CHỦ NGHĨA HOÀI NGHI CỔ ĐẠI "
7 p | 69 | 8
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn