intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Nghiên cứu và bảo tồn di sản văn hóa Huế (Tập 3): Phần 2

Chia sẻ: Vô Trần | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:262

22
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Phần 1 cuốn sách Nghiên cứu và bảo tồn di sản văn hóa Huế giới thiệu tới người đọc các nội dung: Nghiên cứu, đào tạo và bảo tồn tại khu di tích Huế giai đoạn 2005-2012, ứng dụng công nghệ GIS trong quản lý bảo tồn lăng Tự Đức, vài suy nghĩ về cấu trúc các cổng kinh thành Huế,.... Mời các bạn cùng tham khảo nội dung chi tiết.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Nghiên cứu và bảo tồn di sản văn hóa Huế (Tập 3): Phần 2

  1. Nghiên cứu và Bảo tồn TRÁN BÌNH ĐÀI VÀ VAI TRÒ CỦA NÓ TRONG HỆ THỐNG PHÒNG THỦ KINH THÀNH HUÉ Nguyễn Đắc N ghĩa Trong suốt lịch sử triều Nguyễn, Trấn Bình Đài luôn được xem là công trình phòng thủ quan trọng của Kinh đô Phú Xuân. Tòa thành này kết họp với pháo đài Bắc Định và Đông Vĩnh không chỉ bảo vệ Kinh Thành ở mặt đông bắc mà còn kiểm soát tuyến đường thủy từ Thuận An lên Huế. Chính vì vậy, Trấn Bình Đài sớm được xây dựng thời Gia Long và thường xuyên tu sửa trong các đời vua tiếp theo. I. Lịch sử xây dựng Trấn Bình Đài Sau khi đánh bại vương triều Tây Sơn, năm 1802, Nguyễn Ánh lên ngôi hoàng đế lấy niên hiệu Gia Long đã chọn Phú Xuân để xây dựng kinh đô mới. Từ năm 1803, vua Gia long cùng với các quan chuyên lo xây đắp thành trì thuộc vệ Giám Thành đã đi khảo sát địa thế, định ra kích thước và cách thức xây dựng. Đến năm 1805, công cuộc xây dựng Kinh Thành tiến hành, tòa thành này được thiết kế theo phong cách kiến trúc Vauban kết họp với những nguyên tắc địa lý, phong thủy phương Đông. Song song với việc xây dựng Kinh Thành Phú Xuân, vua Gia Long còn cho xây dựng ở góc đông bấc của Kinh Thành một tòa thành nữa gọi là Thái Bình Đài. Đây là thành phụ mang phong cách kiến trúc Vauban đắp bằng đất có dạng hình lục giác không đều mà các nhà nghiên cứu phương Tây gọi là “công trình bên ngoài ”. Kinh Thành và Trấn Bình Đài cách nhau bởi một đoạn hào chung rộng 30m.. Cùng với với quá trình hoàn thiện Kinh Thành Huế từ thời vua Gia Long đến đầu triều Minh Mạng, Thái Bình Đài cũng được gia cố thêm cho vững chắc bằng cách xây gạch ờ hai mặt tường thành. Theo L. Cadière "Ban đầu đây chi là một công trình bảng đắt. Các bức thành bằng gạch chỉ được xây dựng vào nám Phòng N ghiên cứu Khoa học 260
  2. D i tích và cuộc sông 1818 hay 182 2 ”
  3. Nghiên cứu và Bảo tôn II. 1. Trấn Bình Môn. Trấn Bình M ôn được xây bằng gạch theo dạng hình vòm cao 3,6m, rộng 2,77m (vòm cao l,59m , rộng 2,9m), ở góc đông bắc Kinh Thành tức ở phía tây của Trấn Bình Đài. Bên trên cổng có tấm đá Thanh khá lớn khắc ba chữ Hán Trấn Bình M ôn • Phần trên của cổng vòm xây dựng theo lối xếp gạch vồ thành hỉnh rẽ quạt . Trên cửa Trấn Bình vần còn 2 cánh cửa gồ thượng song hạ bản, sơn màu đỏ rất lớn. Từ Trấn Binh M ôn đi vào đài Trấn Bình qua chiếc cầu gạch bắc qua đoạn hào chung rộng 30m. c ầ u dài 33m, rộng 5,5m, được xây ốp gạch ở hai mặt trái và phải dày 0,8m. M ặt trên của cầu vốn có tráng một lớp nhựa đường nhưng nay đã bị xói lở,
  4. D i tích và cuộc sông ỉ 1.3. Hào và Phòng lộ. Hào và phòng lộ là hai yếu tố rất quan trọng trong tuyến phòng thứ bôn ngoài của bất cứ tòa thành nào trên thế giới, ơ Trấn Bình Đài, hệ thống hào và phòng lộ được quy hoạch rất đăng đối, hài hòa theo kiến trúc của tòa thành này ngay từ khi mới xây dựng, v ề hào và phòng lộ cúa Trấn Bình Đài, sách Khám định Đại Nam hội điên sự lệ ghi rỏ: "Đ ât thừa ở chân thành bên trong bên ngoài đều rộng / trượng 5 thước [6m]. Bờ hào ở m ặt đỏng, mặt nam, m ặt bắc đài rộng 7 trượng 5 thước [30m], sâu 1 trượng [4m], thông với hào Kinh thành"0 \ Trên thực tế, hệ thống hộ thành ờ Trấn Binh Đài không phân chia theo các mặt đông, tây, nam, bắc mà lại chạy theo các m ặt tường thành như của đài. Hộ thành hào mặt tây chung với hào góc đông bắc của Kinh Thành và ở đầu phía bắc của đoạn hào này chảy thông ra cống sông đào (theo tên gọi của dân địa phương) ở đường Tăng Bạt Hố. Các đoạn hào khác của Trấn Bình Đài cũng rộng 30m, cùng thông với nhau và thông với hào của Kinh Thành. Nguồn nước cung cấp cho hộ thành hào của Trấn Bình Đài chính là sông Bạch y ế n (thông qua cống sông đào) và Ngự Hà chảy qua Kinh Thành. Hai bờ của hộ thành hào xây kè bàng đá hộc, đá gan gà cao l , 6m, dày l,3m . Phòng lộ là đường đất ở bên ngoài thân thành được sách Khâm định Đ ại Nam hội điếu sự lệ ghi lại chỉ rộng 1 trượng 5 thước ( 6m), nhưng trên thực tế, con số này rất khác biệt. Ớ những đoạn phòng lộ hẹp nhất chúng tôi đo được là 7,2m; những đoạn rộng hơn là 7,8m. Có thế do những đợt lụt lớn trong một thời gian dài ở Huế, các đoạn phòng lộ ở Trấn Bình Đài ngày càng được bồi đắp rộng hơn. Hiện nay, đoạn phòng lộ ở hai bên cửa Trường Định bị các hộ dân ở phường Phú Bình lấn chiếm xây dựng nhà ở. Thậm chí, họ còn đóng các cọc sắt lên thân tường thành đế kéo giữ nhà trong các m ùa m ưa lũ. 11.4. Hệ thống tường thành và các Pháo nhãn. Hệ thống tường thành của Trấn Bình Đài nguyên dưới thời Gia long được đấp bằng đất. Trong khoảng từ năm 1818- 1822, tường thành ở tòa thành phụ này được đắp bằng gạch ở hai mặt. v ề kích thước tường thành, sách Đại Nam nhất thông chí cho biêt: “ngoài cửa Trân Bình lại xâ y m ột tầng thành chu vi 246 trượng 7 thước 4 tấc [986,96m]”
  5. Nghiên cứu và Bảo tôn XX, các nhà nghiên cứu như A.Du Picq, L.Cadière đều cho rằng chu vi vòng thành chỉ vào khoảng lOOOm. Nhà nghiên cứu Phan Thuận An, trong cuốn Kinh Thành Huế lại đưa ra con số khác là “C/ỉM vi mặt ngoài 248 trượng 7 thước 4 tấc = 1 048,645m . Đe tiện cho việc khảo sát, đo vẽ và khảo tả, chúng tôi tạm quy ước các mặt tường thành bằng cách đánh số La Mã trên các mặt thành (như bản đồ bên dưới). Trong đó, mặt thành phía bắc được lấy làm chuẩn và đánh dấu số I rồi tiếp tục xoay theo chiều kim đồng hồ cho đén các mặt II, III, IV, V và mặt tường lớn phía đông là VI. B ản đ ồ tổ n g th ể T rấ n B ìn h Đ ài tro n g P L A N C H E .L a C ita d e lle d e H u é Hiện nay trên thực địa, kích thước các mặt tường thành đo được là: 111 Phan Thuận An, Kình Thành Huế, N X B Thuận Hóa, Huế, 1999, trang 195. 264
  6. D i tích và cuộc sông Mặt thành số I dài 251,5m Mặt thành số II dài 80,6m M ặt thành số III dài 170,3m M ặt thành số IV dài i 70,8m - M ặt thành số V dài 80,9m - Mặt thành sổ VI dài 253,7m Với kích thước các mặt thành như trên, chu vi vòng thành ngoài của Trấn Rình Đài là 1007,8m. v ề kích thước và hình dáng, Trấn Bình Đài có sự đăng đối rất cao giữa các cặp mặt tường thành: mặt thành số I (25!,5m ) và mặt thành số VI (253,7m), mặt thành số II (80,6m) và mặt thành số V (80,9m), mặt thành số III (170,3m) và mặt số IV (170,8m). Như chúng ta đã biết, tường thành của Trấn Bình Đài bao gồm hai lóp được xây bằng gạch vồ trát vôi vừa truyền thống ớ mặt trên, bề dày thân thành là 14,5m. Tường thành ngoài cao 5m được chia làm ba phần: móng, thành và đỉnh thành. M óng sâu 0,2m, thân thành (từ mặt đất phòng lộđến tai thành) cao 3,7m. R iêng phần đỉnh thành (tính từ tai thành lên) cao l,3m , được xây vát vào phía trong m ột khoán 0,375m. Như vậy, phần thân thành ở trên dày l,3m và ở dưới dày l,65m . Tai thành rộng ra phía ngoài 0,12m. Tường thành trong xây bằng gạch vồ trát vừa truyền thống cao l , 6m, dày 0,63m. Tường thành trong cách tường thành ngoài 1 l,5tn tạo thành bề mặt thượng thành phục vụ cho việc phòng thủ và đi tuần. Trên mặt tường thành trong có trố các hệ thống bậc cấp để đi lên thân thành. Ở mặt thành số I có 2 dãy bậc cấp, một dãy ngay chính giữa thành và một dãy ở góc phía tây. Mặt thành so VI cũng có 2 dãy bậc cấp, một dãy ngay sát bên phải Trường Định Môn và một dãy cách cửa này 30m về phía nam. v ề cơ bản, các hệ thống bậc cấp được xây bàng gạch vồ rộng 4,2m, bao gồm 11 bậc cấp; mỗi bậc cao 0,3m và rộng 0,33 m. Hiện trạng các hệ thống bậc cấp này bị hư hại nghiêm trọng, đặc biệt là ở giữa tường thành số I gạch đã bị sụp đổ phần lớn. Trấn Bình Đài là tòa thành phụ trấn giữ góc đông bắc của Kinh Thành Huế, do vậy, trên thân thành có rất nhiều pháo nhãn đế đặt súng đại bác. v ề cơ bản, pháo nhăn có dạng hình thang cân với miệng mờ rộng ra bên ngoài để chỉnh góc độ bắn của súng. Hai cạnh bên của pháo nhãn dài l,3m , cạnh đáy nhỏ (ở 265
  7. Nghiên cứu và Bảo tôn trong) dài 0,9m và cạnh đáy lớn (ở ngoài) dài l,25m . Tuy có kích thước tương đương nhau, nhưng độ sâu của các pháo nhãn ở Trấn Bình Đài rất khác nhau. Những pháo nhãn ở các mặt thành số I, II, III, có lẽ dùng để đặt súng nhỏ nên chỉ sâu từ 0,2- 0,3m. Trong khi đó, những pháo nhãn ở thành số IV và VI lại sâu từ 0,4- 0,9m. II.5. Hỏa dược khố. Hỏa Dược Khố hay còn gọi là kho đạn là một trong những công trình kiến trúc hiếm hoi được xây dựng dưới thời Nguyễn còn lại đến bây giờ. về tổng thể đây là nhà kho quay mặt về hướng tây, dạng hình khối chữ nhật dài 8, 8m, rộng 2,1 lm và cao 2,38m. Mái Hỏa Dược Khố lợp bằng ngói liệt dốc 15° bị cỏ xây bám dày làm sụt lở ngói nghiêm trọng. Phía trước trổ một cửa duy nhất, dạng hình vòm cao l,4m , rộng 0,73m. Tường của công trình này 0,77m để đảm bảo an toàn khi phải thường xuyên chứa đựng m ột lượng lớn thuốc nổ. Để đảm bảo yếu tố an toàn cũng như ánh sáng, trên các m ặt tường còn có những cửa thông gió kích hước 0,2m X 0,2m (tường trước và sau 3 cửa mồi mặt; tường hai mặt bên chỉ 1 cửa kích thước 0,25m X 0,3 m). Nội thất của Hỏa Dược Khố cũng có dạng hình vuông, kích thước 2,1 lm X 7,4m. Trần được xây bằng gạch trát vôi vữa theo hình vòm, nền đất. Vị trí đặt Hỏa Dược Khố ở Trấn Bình Đài rất hợp lý, ở ngay sát chỗ giao nhau giữa đoạn thành số III và IV. Ở vị trí này, H ỏa Dược ỈChố sẽ nhanh chóng cung cấp đạn dược cho các pháo nhãn khắp tường thành. Đ ặt biệt là đoạn thành số III với 10 pháo nhãn nhắm bắn thẳng ra nơi sông Hương và sông Bạch Yến gặp nhau. Đồng thời khi có hỏa hoạn, nguồn nước của hồ Trấn Bình bên cạnh sẽ giúp dặp tắt ngọn lửa nhanh chóng. II.ổ.Trấn Bình hồ. Vào đầu thế kỷ XX, Léopold Cadière cho biết nơi đây chỉ có 2 cái hồ nằm theo hình chữ V gọi là Trấn Bình Đài H ồ(1). Hiện nay trên thực địa, Trấn Bình Đài có khá nhiều hồ. Hai cái hồ mà L. Cadière đề cập vẫn còn và chúng ta có thể thấy rõ khi đứng trên mặt thành, nơi giao nhau của đoạn thành số III và sổ IV. Tuy nhiên, hai hồ này đã bị biến dạng nhiều do bồi đắp và sự lấn chiếm của người dân ở đây. Ngoài ra, còn có 4 hồ nhỏ khác do nhân dân ở đây tự đào từ các hố bom để phục vụ nhu cầu canh tác của họ trong khuôn viên Trấn Bình Đài. 111 Léopold C adière, “ Kinh Thành H uế- địa d an h ” , sđd, trang 91. 266
  8. Di tích và cuộc sông III. Vai trò của Trấn Bình Đài trong hệ thống phòng thủ Kinh Thành Huế Trấn Bình Đài, tuy chỉ là tòa thành phụ nhưng tọa lạc tại góc đông bắc Kinh Thành, nơi giao nhau của hai hô thành hà là sông Đông Ba và sông An Hòa nên đóng vai trò quan trọng trong hệ thống phòng thủ của Kinh Thành Huế. Các nhà quân sự thời Nguyền kỳ vọng vào Trấn Bình Đài đó là việc kiểm soát đường thủy từ Thuận An, cảng Bao Vinh lên Kinh Thành Huế hỗ trợ pháo đài Bắc Định và Đông Vĩnh bảo vệ Kinh Thành ở m ặt đône bẳc. Như vậy, muốn đánh vào góc đông bắc Kinh Thành, trước hết phải đánh vào Trấn Bình Đài. Nhưng trong thế phòng thù liên hoàn giữa Trấn Bình Đài, pháo đài Bắc Định và pháo đài Đông Vĩnh thì việc đó rất khó khăn. Trên các mặt thành của Trấn Bình Đài, các vị vua Nguyền cho xây dựng rất nhiều pháo nhàn đế đặt súng đại bác. v ề cơ bản, pháo nhãn có dạng hình thang cân với miệng m ở rộng ra bên ngoài đe chỉnh góc độ bắn của súng. Hai cạnh bên của pháo nhãn dài l,3m , cạnh đáy nhỏ (ở trong) dài 0,9m và cạnh đáy lớn (ở ngoài) dài l,25m . Tuy có kích thước tương đương nhau, nhung độ sâu của các pháo nhãn ở Trấn Bình Đài rất khác nhau. Những pháo nhãn ở các mặt thành số I, II, III, có lẽ dùng đế đặt súng nhỏ nên chỉ sâu từ 0,2- 0,3m. Trong khi đó, những pháo nhãn ở thành số IV và VI lại sâu từ 0,4- 0,9m. Trên thực địa, ở các mặt thành hướng ra Hộ Thành Hà (sông Bạch Đằng, sông Bạch Yến) được thiết kế đến 10 lỗ châu mai đe đặt đại bác hạng nặng. Đặc biệt hơn, trên mặt thành số III chỉ dài 170,3m lại được bố trí 10 cỗ súng hạng nặng hướng ra điểm giao nhau của các nhánh sông Hương. Trong khi đó, ở những mặt thành khác ít quan trọng, sự bố phòng gần như không đáng kể khi chỉ có 1 cỗ pháo (mặt thành số IV) hoặc không có cỗ pháo nào (mặt thành số V). Có thể nói, mặt thành số VI đóng vai trò quan trọng nhất trong việc phòng thủ của Trấn Bình Đài. Ở giữa mặt thành này có Trường Định Môn, con đường duy nhất thông ra bên ngoài thành. Chính vì vậy, ở sát hai bên cửa Trường Định, các nhà quân sự thời Nguyễn đã bố trí 4 pháo nhãn mỗi bên. Những pháo nhăn này sâu từ 0,4- 0,9m để đặt súng đại bác cỡ lớn. Ngoài ra, quân đội Pháp và Việt Nam Cộng Hòa còn xây ở đây các lồ châu mai nhỏ (0,2m X 0,2 m ) xuyên qua thân thành và trại lính trên thượng thành đê phòng thủ. Với vị tri xung yếu như vậy, Trấn Bình Đài là nơi ghi lại nhiều sự kiện lịch sử quan trọng trong cuộc chiến tranh bảo vệ độc lập dân tộc. Sau hiệp ước Patenotre (1884), người Pháp đã biến đây thành khu nhượng địa đầu tiên và xây 267
  9. Nghiên cứu và Bảo tôn dựng các công trình quân sự của mình ở bên trong. Năm 1885, phe chủ chiến của triều Nguyễn đã chủ động tấn công vào căn cứ quân sự này và Tòa Khâm Sứ với mong muốn đánh bại thực dân Pháp ở Huế, từ đó mở rộng ra toàn quốc. Ke hoạch tuy thất bại, nhưng cuộc tấn công đã thể hiện tấm lòng yên nước, tinh thần độc lập cao của người Việt Nam dưới thời Nguyễn. Trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, Trấn Bình Đài trở thành một địa điểm tấn công quan trọng của quân đội Cách mạng Việt Nam. Đặc biệt, trong chiến cuộc Mùa xuân 1968 và Tổng tiến công và nối dậy năm 1975, chiến trường ở đây diễn ra rất quyết liệt. Theo lời ông Hoàng Đình Chiểu (người đã tham gia trận dánh này, hiện ở trong khuôn viên di tích), quân ta gặp rất nhiều khó khăn khi tiến công vào đây, nhưng với tinh thần cách mạng dâng cao, các chiến sĩ đã không ngại hy sinh để giành thắng lợi cuối cùng. Từ sau ngày đất nước thống nhất, Trấn Bình Đài thuộc quản lý của Bộ chỉ huy Quân sự Tỉnh, khí tài và các cơ sở vật chất chiến tranh đã bị triệt bỏ, chức năng phòng thủ của tòa thành này không còn nữa. Tuy chiến tranh đã qua đi gần 40 năm, nhưng mỗi khi nhắc đến Trấn Bình Đài (Mang Cá nhỏ), người dân Huế lại nhớ đến các cuộc chiến đấu hào hùng của dân tộc ta để giành độc lập, thống nhất đất nước. N.Đ.N 268
  10. Di tích và Di vật BẢO TÒN VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ CHÂU BẢN T R IÈ U NG UYỄN (1802 -1945) - N H ÌN T Ừ HUẾ Phan Thanh Hải L ê Thị Toán* I. Đ ặt vấn đề Đối với di sản văn hóa của dân tộc, tài liệu châu bản là một di sản có giá trị lớn. Đó là ký ức của lịch sử, là nguồn sử liệu gốc có ý nghĩa to lớn đối với việc nghiên cứu và biên soạn lịch sử dân tộc. Tuy nhiên, hầu hết các triều đại phong kiến Việt Nam đều không còn lưu giữ được nguồn tài liệu quý báu này, trừ triều Nguyễn (1802-1945), do những điều kiện lịch sử đặc biệt. Trong thời gian tồn tại 143 năm, triều Nguyễn đã để lại nhiều di sản văn hóa vật thể và phi vật thể vô giá, không ít trong số đó đã được công nhận là di sản thế giới như Quần thể di tích c ố đô Huế, Nhã nhạc cung đình Huế, Mộc bản triều N guyễn... Một di sản văn hóa đồ sộ khác là hệ thống văn bản, sách vở m à theo đánh giá của giáo sư Trần Văn Giàu: “có thể bằng hoặc hơn tất cả các triều đại trước đỏ cộng lại ”, cũng là di sản hết sức quý giá, trong đó có khối châu bản triều Nguyễn. Châu bản là các văn bản hành chính do các cơ quan chính quyền từ trung ương đến địa phương soạn thảo dâng tấu lên và được nhà vua trực tiếp phê duyệt, ban hành. Châu bản là nguồn sử liệu đặc biệt có giá trị với độ tin cậy cao, nên việc nghiên cứu, tìm hiểu và đánh giá đúng tiềm năng của khối tài liệu này có ý nghĩa rất lớn trong việc nghiên cứu giai đoạn lịch sử đầy biến động của Việt Nam ở thế kỷ XIX và nửa đầu thế kỷ XX. Bên cạnh đó, việc phát huy giá trị của khối tư liệu đồ sộ này với tư cách là một di sản văn hóa cũng là điều hết sức có ý nghĩa. Trong bài viết này, với cái nhìn của một người làm công tác bảo tồn, tôi muốn bàn thêm đôi điều về việc bảo tồn và phát huy giá trị châu bàn triều Nguyễn, nhìn từ c ố đô Huế. Bài viết gồm các nội dung sau: Tiến sĩ. G iám đốc T rung tâm Bảo tồn Di tích c ố đô Huế Thạc sĩ. Phó trưởng phòng N ghiên cứu K hoa học 269
  11. Nghiên cứu và Bảo tồn - Đặt vấn đề; - Công tác quản lý, lưu trữ và sử dụng châu bản dưới triều Nguyễn; - Công tác quàn lý, liru trữ và sử dụng châu bản hiện nay; - Bảo tồn và phát huy giá trị châu bản, nhìn từ Huế. - Thay lời kết 2. Công tác quản lý, lưu trữ và sử dụng châu bản dưới thời Nguyễn 2.1. Quản lý, lưu trữ châu bản Châu bản triều Nguyễn là các bản tấu, sớ, sẳc, dụ, chiếu, chỉ và các tờ truyền, sai, phó, khiển, di (loại công văn của các cơ quan, tổ chức nhà nước) thuộc kho lưu trữ của triều đình Nguyễn được vua ngự lãm và ngự phê. Trước khi ngự phê, vua tham khảo “phiếu n g h ĩ’ của Nội Cáp, Lục Bộ sau đó trực tiếp cho ý kiến đồng ý hay phủ nhận. Ngự phê là ý kiến chỉ đạo, phê bình hay bố sung của nhà vua dưới dạng một đoạn văn dài hay vắn tắt đều viết bằng chữ son (châu phê), hay chấm son (châu điểm) điếm lên đầu chữ tấu biểu thị vua đã xem và chấp nhận, hay vòng khuyên đỏ (châu khuyên) lên tên người hay sự vật được lựa chọn, hay quẹt một nét son lên tên người hoặc câu văn nếu phủ nhận (gọi là châu mạt, châu cải). Vì thể tất cả các văn bản đã được vua ngự lãm và châu phê đều gọi là châu bản. Như vậy, châu bản triều Nguyền loại văn bản hành chính được hình thành trong quá trình hoạt động của bộ máy nhà nước phong kiến thời Nguyễn từ trung ương đến địa phương. Nội dung văn bản phản ánh một cách toàn diện các mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quân sự, ngoại giao của xã hội Việt Nam trong thời gian tại vị của 13 đời vua Nguyễn, từ Gia Long đến Bảo Đại (1802-1945). Đe quản lý và lưu trữ loại văn bản hành chính này, tất cả các đời vua Nguyễn đều cho thực hiện theo nguyên tắc nhất định. Dù ở mỗi thời có đôi chút thay đối, nhưng tất cả đều phải thực hiện theo kiểu công văn phái được chuyên theo đường chính thống của nhà nước, từ cấp cơ sở ở địa phương lên cấp trung ương theo ngành dọc quản lý đến các bộ, nha, sau đó mới chuyến đến Nội Các. Nội Các là cơ quan xử lý văn bản cuối cùng trước khi chuyển đến cho vua ngự lãm, châu phê. Đối với các bản tấu được dâng lên từ các địa phương trấn, dinh, tỉnh thì phải qua ty Thông Chính gởi tới quan chức cua văn phòng bộ trực tại nhà Tả Vu, rôi 270
  12. Di tích và Di vật chuyên ngay cho quan chức chuyên môn của các bộ, nha tương quan xem xét nội dung. Lục Bộ tháo “phiếu n g h ĩ’ đề nghị cách giải quyết công việc được nêu trong bản tâu, rồi mới chuyến đến Nội Các. Nội Các chí có quyên duyệt lại và đóng ấn. Đối với Lục Bộ và các nha trung ương thì trực tiếp giao cho Nội Các (văn phòng của vua). Như vậy, tất cà các công văn của cả địa phương và trung ương đều phai giao về Nội Các. Tất cả các bản tấu của địa phương hay của các cơ quan gửi đến Nội Các đều phải đầy đủ 3 ban, gồm ] bản chính (bản giáp f?P) và 2 bản phó (bản ất
  13. Nghiên cứu và Bảo tôn Năm Minh Mạng thứ 10 (1829), Văn Thư Phòng được đổi thành Nội Các, gồm 4 tào: Thượng Bửu Tào, Chú Ký Tào, Đồ Thư Tào và Biểu Bộ Tào, 4 tào này được phân công nhiệm vụ rất cụ thể: Thượng Bửu Tào: phụ trách châu bản, đóng dấu các chiếu, dụ, tấu, sớ, hội đồng với các cơ quan tương quan để sử dụng ấn, dấu. Tấu sớ đã được châu phê, châu khuyên, châu điểm, châu mạt thì lấy bản phó gởi cho bộ nha liên quan, bản chính chuyển Biểu Bộ Tào lưu giữ. Ngoài ra còn giữ các loại bảo tỷ, các loại quan phòng, đồ ký, bản phó dụ chi, bản thảo chiếu biếu. Ký Chú Tào (Thừa Vụ Tào): ghi chép tất cả những việc xảy ra khi nhà vua tuần hành ngoài kinh đô như: việc sinh hoạt ăn uống, lời nói, cử chỉ của vua, các lời tấu sớ của các quan tâu lên vua. Đồ Thư Tào (Bí Thư Tào): ghi lại các ngự chế, thi văn, coi giữ sách vở của triều đình, công văn ngoại giao. Biểu Bộ Tào: có nhiệm vụ lưu trữ châu bản, các phó bản văn thư, sổ sách, giấy tờ hình thành trong hoạt động của Nội Các. Như vậy, Biểu Bộ Tào là cơ quan chuyên trách lưu trữ châu bản và các tài liệu của Nội Các. Đây là một bước tiến bộ của triều Nguyễn mà cụ thể là của vua Minh Mạng, đã lập ra một cơ quan lưu trữ chuyên lưu giữ các văn bản hành chính quan trọng trong quản lý, điều hành đất nước, mà các triều đại trước Nguyễn đều chưa hề có. Toàn bộ văn thư của triều Nguyễn đều được lưu giữ ở tòa nhà Đông Các(l), tọa lạc phía sau nhà Tả Vu trong Hoàng Thành. Tài liệu lưu trữ ở đây không chỉ có châu bản mà còn cỏ ngự chế thi văn, bản đồ, các văn thư ngoại giao và các điều ước ngoại giao của triều Nguyễn. Đến năm Bảo Đại thứ 8 (1933), nhà vua cho thành lập Ngự Tiền Văn Phòng(2), Nội Các coi như bị giải thể, tuy nhiên, châu bản vẫn lưu giữ ở Đông Các. Đến năm Bảo Đại thứ 17 (1942), Đổng lý Văn phòng Trần Văn Lý nhận thấy Nội Các từ khi giải thể đã trở nên hoang phể, các châu bản lưu giữ ở đó trong tình trạng hư hỏng, nên đã dâng tấu với vua Bảo Đại xin đem tất cả văn thư (1) Đ ông Các được xây dụng năm 1826, là m ột kiến trúc 2 tầng, tọa lạc phía sau tòa Tả vu của điện Cân Chánh. C ông trình này hiện chỉ còn phế tích nền móng. (2) N gự Tiền V ăn Phòng được xây dựng năm 1933 ờ phía bắc, bên trái lầu Kiến Trung, gằn cừa Tường Loan, trong T ử c ấ m Thành. Đ ây là m ột tòa nhà hai tầng, xây bằng bê-tông, lợp ngói. Sau khi công trình này ra đời, triều N guyễn đã trồ thêm một cửa phía sau của T ử c ấ m Thành, gọi là Văn Phòng Môn. Công trình này hiện vẫn tồn tại, được sừ dụng làm trụ sở của phòng Ọuản lý Bào vệ thuộc Trung tâm Bảo tôn Di tích Cố đô Huế. 272
  14. Di tích và Di vật trong Nội Các ra Viện Vãn Hóa111. Một hội đồng được thành lập do Ngô Đình Nhu đúng đầu đà làm việc trong vòng hai năm đế kiểm điểm, phân loại và đóng tập châu bản, đồng thời kiểm kẽ sô sách các loại ở Nội Các. Hội đồng đã làm bản mục lục băng chữ Hán và quôc ngừ, chia tài liệu thành các loại: châu bản, hòa ước, quốc thư, các loại sách, các quyến điện thí, tư liệu linh tinh. Toàn bộ khối tài liệu này được đem về Viện Văn Hóa bảo quản. Có thể nói, các vua nhà Nguyễn từ Gia Long cho đến Bảo Đại đều rất quan tâm đến công tác quản lý, lưu trừ và bảo tồn văn thư nói chung và châu bản nói riêng. Điêu này được thê hiện ở việc vua đặt các chức quan và cơ quan trông coi công tác lưu trữ văn thư của nhà nước, trong đó có châu bản. Đặc biệt là vua Minh Mạng đâ đề ra nhiều chủ trương và biện pháp về lưu trữ văn bản nhà nước, số sách, nhằm phục vụ cho công tác quản lý điều hành lúc bấy giờ và bảo tồn lâu dài cho hậu thế. 2.2. S ử dụng châu bản Châu bản dưới triều Nguyễn được sử dụng rất hiệu quả trong công tác quản lý và điều hành đất nước. Do quản lý tốt nên các tấu sớ tâu lên vua đều được thực hiện theo trình tự từ dưới lên trên. Trước khi tâu lên vua, các bộ, nha và Nội Các đều duyệt qua nội dung và cho ý kiến hay giải pháp, đồng thời có sự kiếm tra chéo giữa Lục Bộ và Nội Các đế tránh sự sai sót. Sau khi được ngự phê, châu bản phát đi cho đương sự thi hành, một bản phó được gửi cho Quốc Sử Quán để làm tài liệu biên soạn các công trình lịch sử, địa c h í... Ọuốc Sử Quán và Nội Các triều Nguyễn đã sử dụng châu bản được lưu trữ qua các đời vua để biên soạn nên những bộ sử, địa chí rất có giá trị như Đại Nam thực lục, Đại Nam liệt truyện, Minh Mệnh chính yếu, Khâm định Đại Nam hội điên sự lệ, Đại Nam nhất thong chí, Khâm định Việt sử thông giám cươnọ, mục... Đó là những công trình phản ánh toàn diện về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh quốc phòng của đất nước trong hàng trăm năm lịch sử. Như vậy, nhờ châu bàn, các nhà nghiên cứu ngày nay mới hiểu được đât nước Việt Nam trong suốt thế kỷ XIX và nửa đầu thế kỷ XX. 3. Công tác quản lý, lưu trữ và sử dụng châu bản hiện na\' Viện V ăn hóa hay Viện Văn hóa Trung kỳ được thành lập năm 1947. sư dụng tòa nhà rường bên trái điện Long A n (trên nền cù của tòa nhà Tẻ tửu Quốc T ử G iám ) làm trụ sờ. Công trình này hiện vẫn được bào tôn, thuộc quản lý cua Bảo tàng Cô vật Cung đình Huế. 273
  15. Nghiên cứu và Bảo tôn Sau khi triều Nguyễn cáo chung (tháng 8.1945), những biến cố lịch sử trong thời kỳ 1945-1954 đã tác động không nhỏ đến khối tài liệu châu bản của triều Nguyễn đề lại. Tác động của chiến tranh, thời gian và cả hành động vô thức của con người đã làm một phần lớn khối lượng châu bản bị hư hỏng, mất mát. Đây là điều vô cùng đáng tiếc, một tổn thất to lớn đối với di sản văn hóa dân tộc! Năm 1959, dưới thời chính quyền Miền Nam, Viện Đại học Huế tiếp nhận toàn bộ thư tịch và châu bản triều Nguyễn còn lại ở Viện Văn Hóa, tổng cộng còn 614 tập, thuộc 10 đời vua Nguyễn*". Thời gian tiếp theo là cả một hành trình luân chuyển của châu bản. Cuối năm 1963 đến đầu năm 1964, châu bản được chuyển lên Đà Lạt theo Viện Văn Hóa; đến năm 1978 lại chuyển về kho Lưu trữ quốc gia II Thành phố Hồ Chí Minh. Trong thời gian hơn 12 năm cất giữ ở kho Lưu trữ II, nguồn tài liệu châu bản này được bảo quản trong điều kiện phương tiện thiếu thốn, cách quản lý và khai thác, sử dụng còn rất hạn chế. Sau nhiều năm được luân chuyển qua nhiều nơi, khối tài liệu châu bản triều Nguyễn đã được Cục Văn thư và Lưu trữ nhà nước cho chuyến về Trung tâm Lưu trữ quốc gia I tại Hà Nội, nhằm tìm cách khắc phục những văn bản hư hỏng, và khai thác bước đầu những giá trị to lớn của khối văn bản này. Sau nhiều năm thực hiện công tác dịch tóm tắt nội dung từng văn bản để làm mục lục tra cứu, bộ mục lục tra cứu châu bản đã hoàn thành với trên 121 tập, mồi tập trên đều từ 400- 500 trang. Đây thực sự là một nỗ lực to lớn của Cục Văn thư và Lưu trữ Nhà nước mà đon vị thực hiện trực tiếp là Trung tâm Lưu trữ quốc gia I nhằm khai thác các thông tin quý giá của khối tài liệu châu bản triều Nguyễn. Năm 2010, Cục Văn Thư và Lưu trữ Nhà nước đã cho in ấn công bố cuốn Mục lục châu bản triều Nguyễn tập I thời Gia Long, M inh Mạng, đây không chỉ là một công trình bổ ích đối với giới nghiên cứu mà còn là một tín hiệu vui về khả năng khai thác, phát huy giá trị của châu bản. Tại Trung tâm Lưu trữ quốc gia I, với phương tiện bảo quản tiên tiến, hệ thống kho bảo quản tài liệu khoa học và hiện đại, châu bản và các nguồn tư liệu khác đều đã được xử lý chống ấm, chống mốc và những tác nhân khác gây hư hỏng tài liệu và được bảo quản rất tốt. Ngoài ra, Trung tâm cũng có được một số dự án tài trợ để phục hồi tư liệu xuống cấp, bồi lại những tờ châu bản đã bị hư hỏng. Quyết tâm đưa nguồn tài liệu quý giá trong châu bản được khai thác phục n) Các đời vua Dục Đ ức (1883), Hiệp H òa (1884) và Hàm N ghi (1885) không có châu bản hoặc không còn được bảo tồn. 274
  16. D i tích và Dì vật vụ công tác nghiên cứu lịch sử triều Nguyễn và Việt Nam thời cận, hiện đại, Cục Văn thư và Lưu trữ Nhà nước và Trung tâm Lưu trừ Quốc gia I đã phần nào thực hiện được một khối lượng công việc khổng lồ, rất đáng ngưỡng mộ, được giới nghiên cứu đánh giá cao. Mặc dù đã có nhiều cố gắng trong việc đưa châu bản ra phục vụ độc giả, nhưng trên thực tế trong nhiều năm qua, công tác nghiên cứu, tham khảo nguồn tai liệu quý giá này vẫn còn một số hạn chế do mấy nguyên nhân sau: Thứ nhất, nguồn tài liệu này rất kén độc giả, vì đó không phái là tài liệu viết bằng chừ quốc ngữ mà ai cũng có thế đọc được. Trong khi đó bản dịch trong mục lực chi là bán tóm tắt, vì thế muốn nghiên cứu nội dung thì phải tìm đến bản gốc (chữ Hán). Đây chính, là rào cản cho rất nhiều người khi muốn tìm hiểu, nghiên cứu về châu bán. Thứ hai, đối tượng muốn tiếp cận và nghiên cứu châu bản chù yếu là các nhà nghiên cứu, người nước ngoài, sinh viên, nghiên cứu sinh đang làm luận án có liên quan đến triều Nguyễn hoặc xã hội Việt Nam dưới thời Nguyễn. Tuy nhiên chỉ có một số ít nhà nghiên cứu là có thể khai thác trực tiếp tài liệu, còn lại chủ yếu là phải thông qua bản dịch, nhưng hiện nay việc dịch thuật nhằm chuyến ngữ châu bản sang tiếng Việt lại chưa hoàn thành' do đây là một công việc khó, đòi hỏi phải có thời gian và nguồn kinh phí rất lớn. Thứ ba, nguồn tài liệu châu bản hiện còn là độc bản, lại đang lưu trữ tại Hà Nội, nên buộc người muốn nghiên cứu phải đến tại Trung tâm Lưu trữ Ọuốc gia I thì mới có thể tham khảo. Đây là một khó khăn không nhỏ cho những người không ở tại Hà Nội, vì vậy, muốn khai thác và sử dụng châu bản có hiệu quả hơn thì phải có kế hoạch m ở rộng diện phục vụ, nhất là đối với các cá nhân, viện, trường đại học và các cơ quan có chức năng nghiên cứu ở các địa phương trong nước. 4. Bảo tồn và ph át huy giá trị châu bản triều Nguyễn, nhìn từ H uế Châu bản vốn hình thành từ triều Nguyễn, gắn liền với kinh đô Huế trong suốt 143 năm lịch sử (1802-1945), nhưng do những biến động về chính trị, nguồn tài liệu quý này đã thiên di qua nhiều nơi như đã đề cập. Mặc dù, từ năm 1959, ủ y ban phicn dịch sử liệu Việt Nam - Viện Đại học Huế đã tiến hành chỉnh lý tài liệu theo thứ tự các đời vua, biên dịch tóm lược đê hình thành nên Mục lục châu bản triều Nguyễn đầu tiên cho khối tài liệu châu bản này và đã xuất bản được 2 275
  17. Nghiên cứu và Bảo tôn tập (tập 1- Triều Gia Long, năm 1960, và tập 2- Triều Minh Mạng, năm 1962), nhưng nói chung vẫn còn hết sức vắn tắt, giá trị tham khảo, nghiên cứu chưa cao. Đen năm 1963, do nhiều nguyên nhân, ủ y ban này không còn hoạt động, còn 18.351 bản thảo chưa được in ấn (dạng phiếu) của các đời vua Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức, sau này được Thư viện trường Đại học Tổng hợp Huế quản lý. Hiện nay, khối tài liệu châu bản đã về đúng địa chỉ mà nó cần đến - tại thủ đô Hà Nội - và đã được bảo tồn bàng các phương pháp hiện đại, việc thực hiện mục lục hoàn chỉnh và đưa ra khai thác sử dụng phục vụ tham khảo nghiên cứu khoa học cũng đã được làm tốt hơn nhiều. Tuy nhiên, đối với Huế, nơi ra đời của châu bản triều Nguyễn, sẽ là vô cùng hữu ích và có ý nghĩa nếu châu bản bằng cách này hay cách khác, dưới dạng này hay dạng khác được bảo tồn và phát huy giá trị tại đây. Cố đô Huế hiện nay đang gìn giữ, bảo tồn cả một quần thể di tích kiến trúc đồ sộ vốn là Kinh đô của triều Nguyễn và những di sản văn hóa phi vật thế liên quan. Việc bảo tồn, trùng tu tôn tạo và phát huy giá trị của quần thể di tích cũng như các di sản văn hóa phi vật thể nói trên là một trách nhiệm rất nặng nề và đòi hỏi những kiến thức sâu sắc về lịch sử, văn hóa dân tộc, nhất là trong giai đoạn lịch sử từ đầu thế kỷ XIX đến giữa thế kỷ XX. Vì thế, Huế là nơi cần nhất những thông tin quý giá chứa đựng trong châu bản. Bên cạnh đó, Huế cũng đang được xây dựng và phát triển theo hướng hình thành một trung tâm văn hóa, giáo dục, khoa học của cả nước và khu vực (Ket luận 48 của Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam, ngày 25/5/2009), vì vậy nhu cầu về tài liệu phục vụ cho công tác tham khảo, nghiên cứu ngày càng lớn. Việc đưa khối tài liệu đồ sộ và có giá trị cao như châu bản, dưới hình thức nào đó (chẳng hạn như bản số hóa) về phục vụ nhu cầu này chắc chắn sẽ là một việc làm phù hợp và có ý nghĩa. Mặt khác, hiện nay và trong tương lai gần, những công trình kiến trúc tại cố đỏ Huế vốn gắn liền với sự hình thành của châu bản như Tả vu (của điện c ầ n Chánh), Đông Các, trụ sở của Viện Văn hóa, Tàng Thơ L âu... đã và sẽ được phục hồi. Việc đưa châu bản về để trưng bày, khai thác, phát huy giá trị là việc làm hết sức cần thiết. Cụ thể hơn, đối với công cuộc bào tồn di sản văn hỏa Huế, có thể thấy vai trò của châu bản rất quan trọng ở các khía cạnh sau: 276
  18. Di tích vù Di vật - Huế là thành phố Fetival đặc trưng của Việt Nam, nơi đã tổ chức phục dựng thành công rất nhiều lễ hội cung đình gắn liền với triều Nguyễn nhàm phục vụ phát triên văn hóa, du lịch, đôntỉ thời auang bá được những nét văn hóa độc đáo riêng có của vùng đất cố đô. Đê làm tốt hơn nữa công việc này, rất cần những thông tin đà được ghi chép trong châu bản, chăng hạn thông tin về việc bài trí, soạn nghi lề, nghi thức làm lễ ơ đàn Nam Giao, Xã Tắc, lễ tế ớ các miếu, các nghi thức về nhạc lễ, múa cung đình, tuồna cung đình, các nhạc khí... - Việc bảo tồn, trùng tu các di tích làm thế nào vẫn đảm bảo được tính nguyên gốc của nó đang là một vấn đề nhức nhối ơ nhiều địa phương. Riẽng cố đô Huế lại đang quản lý một quần the di tích triều Nguyền đồ sộ, trong số đó có không ít công trình quan trọng chỉ còn là phế tích. Việc phục dựng như thế nào cho đúng vẫn đang là một bài toán khó đối với các nhà quản lý, bảo tồn. Châu bản là tài liệu đề cập khá nhiều về việc xây dựng, tu bổ các công trình dưới triều Nguyễn, kế cả việc bài trí, sinh hoạt trong cung điện. Neu khai thác được mảng tài liệu này, thì đây cũng là một lời giải quan trọng cho các nhà quản lý, bảo tồn ở Huế. - Những ghi chép về c ô n g năng sử dụng, cách bài trí, các nghi lễ diễn ra trong từng cung điện dưới triều Nguyễn ở châu bản cũng có thế giúp cho các nhà nghiên cứu và nhà quản lý có hướng sử dụng các di tích sau khi đã trùng tu, phù hợp với cuộc sống đương đại và phát huy hiệu quả đối với du lịch. Tuy nhiên, việc khai thác giá trị của châu bản đòi hỏi phải có thời gian, có nguồn lực và có kế hoạch cụ thế, phù hợp. Trước mắt, Trung tâm BTDTCĐ Huế dự kiến phối hợp với Trung tâm Lưu trữ Quốc gia I tổ chức trưng bày, giới thiệu về m ột số giá trị tiêu biểu của châu bản ngay tại quần thể di tích cố đô Huế. Dự kiến, trong tháng 9/2013, nhân kỷ niệm 20 năm ngày di sản Huế được UNESCO công nhận, sẽ tô chức trưng bày khoảng trên 150 châu bàn với chủ đê “Bút tích ngự phê của các hoàng đế trên châu bàn triều Nguyễn (1802-1945)” ; năm 2014, trong Festival Huế sẽ trưng bày các châu bản với chủ đề “ngoại giao và hội nhập văn hóa” . Chẳc chắn việc trưng bày, giới thiệu châu bản tại Huế sẽ ý nghĩa sâu sắc và có tác dụng quảng bá to lớn đối với di sản văn hóa độc đáo này. Bên cạnh đó, hai bên cũng đã cam kết hỗ trợ nhau trong công tác xây dựng hồ sơ, đệ trình UN ESCO công nhận châu bản trở thành Di sản Ký ức Thế giới. Đây cũng là những bước chuẩn bị tích cực để châu bản thực sự “trở về” với cố đô Huế. 277
  19. Nghiên cứu và Rảo tôn Thay lời kết Châu bản là một khối văn bản đồ sộ, gắn liền với triều Nguyễn, triều đại quân chủ cuối cùng tại Việt Nam. Dù trải qua bao thăng trầm của lịch sử, một khối lượng châu bản rất lớn vẫn còn được bảo tồn, đó là một may mắn lớn của người Việt Nam! Hiện nay, việc bảo tồn, gìn giữ châu bản tại Trung tâm Lưu trừ Quốc gia I, Hà Nội đang được thực hiện tốt, nhưng việc khai thác, phát huy giá trị của di sản quý báu này vẫn còn nhiều hạn chế. Cố đô Huế là nới gắn liền với sự hình thành của châu bản, cũng là nơi có nhu cầu to lớn trong việc khai thác, phát huy giá trị của châu bản. Vì vậy, việc các đơn vị quản lý và chuyên môn phối họp chặt chẽ với nhau đế đưa châu bản, bằng nhiều hình thức và cách làm khác nhau, về Huế để khai thác, phát huy giá trị là việc làm hết sức cần thiết và phù hợp. Và đây cũng là m ột phương cách hữu hiệu để tôn vinh giá trị của di sản châu bản ngay tại nơi nó được sinh ra. P.T.H-L.T.T 278
  20. Di tích và Di vật ĐÒ S Ứ KÍ K IẺU NĂM MẬU TÝ (1828) TRIÈU VUA MINH M ẠNG Trần Đình Sơn Vào thời Lê - Nguyền, Vua Chúa Việt Nam thường cho gởi kiểu thức đặt làm đồ sứ tại các lò cao cấp ứ Cảnh Đức trấn (Giang Tây, Trung Ọuốc ) đê phục vụ nhu cầu sinh hoạt hoàng gia, triều đình. Loại đồ sứ đặc biệt này có ghi nhiều hiệu đề khác nhau như: Nội Phu - Khánh Xuân - Minh Mạng - Thiệu Trị niên ch ế... Nhưng thú vị nhất đối với giới sưu tập cố ngoạn là phát hiện được những vật phẩm ghi rõ thời điểm chính xác như: Giáp tý niên chế (1804), Canh ngọ niên chế (1810)... lần này, chúng tôi xin giới thiệu đồ sứ “ Mậu Tý niên chế” kí kiếu dưới triều vua Minh Mạng năm thứ 9 (1828) đến nay tồn tại đúng 185 năm. 1-Tô đựng nước: đường kính miệng 19 cm - cao 7 cm 5. Thân tô vẽ 8 vị tiên đứng trên mây (Bát tiên đằng vân). Theo truyền thuyết là: Hán Chung Ly, Lã Dồng Tân, Lý Thiết Quải, Trương Quả Lão, Tào Quốc Cựu, Lam Thái Hòa, Hàn Tương Tử, Hà Tiên Cô. Dưới đáy tô ghi: Mậu Tý niên chế. T ô B á t T iê n Đ ằ n g V ân Nhà N ghiên cứu và sưu tầm cô vặt 279
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
15=>0