intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Ngược dòng thời gian để tìm hiểu về vitamin

Chia sẻ: Ha Thi Hoang | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:10

61
lượt xem
2
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Ngày nay, nói đến vitamin, hẳn ai cũng biết đó là một chất cần thiết cho sự phát triển của cơ thể. Nhưng nếu đặt ra câu hỏi: Con người đã biết đến vitamin từ bao giờ?, chắc hẳn ít ai có thể trả lời được. Qua bài viết này, chúng ta hãy ngược dòng thời gian để tìm hiểu xem 2 loại vitamin nào đã được biết đến sớm nhất? NHỮNG GHI NHẬN BAN ĐẦU VỀ CÁC BỆNH DO THIẾU VITAMIN Ngay từ xa xưa, con người đã biết rằng ngoài những món ăn như thịt cá, cơ...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Ngược dòng thời gian để tìm hiểu về vitamin

  1. Ngược dòng thời gian để tìm hiểu về vitamin
  2. Tác giả : TRẦN PHƯƠNG HẠNH Ngày nay, nói đến vitamin, hẳn ai cũng biết đó là một chất cần thiết cho sự phát triển của cơ thể. Nhưng nếu đặt ra câu hỏi: Con người đã biết đến vitamin từ bao giờ?, chắc hẳn ít ai có thể trả lời được. Qua bài viết này, chúng ta hãy ngược dòng thời gian để tìm hiểu xem 2 loại vitamin nào đã được biết đến sớm nhất? NHỮNG GHI NHẬN BAN ĐẦU VỀ CÁC BỆNH DO THIẾU VITAMIN Ngay từ xa xưa, con người đã biết rằng ngoài những món ăn như thịt cá, cơ thể luôn cần có những chất từ rau quả tươi. Sự thiếu hụt những chất này sẽ gây tác hại cho sức khỏe và dẫn đến bệnh tật. Tình trạng này xảy ra rõ nhất ở những người đi biển lâu ngày nhưng lúc ấy chưa ai hiểu rõ tại sao? Cho đến giữa thế kỷ XVI, qua kinh nghiệm của nhiều đoàn thủy thủ, mọi chuyện mới dần dần được sáng tỏ. Tháng 5/1534, nhà thám hiểm người Pháp Jacques Cartier (1491-1577) dẫn một
  3. đoàn 110 thủy thủ rời cảng Saint Malo thuộc miền bắc nước Pháp, trên bờ biển Manche tìm đường đến châu Á. Trong nhật ký du hành có đoạn ghi: “...Bệnh xảy ra ở một số thủy thủ với những dấu hiệu như mệt mỏi, hai chân sưng phù, nướu (lợi) miệng loét hôi, niêm mạc và da bong từng mảng, răng rơi rụng dần...”. Cũng thời gian đó, một nhân viên người Anh, John Woodall (1569-1643), có thời gian dài phục vụ ở công ty tàu biển Ấn Độ đã ghi chép: “...Nhiều thợ trên tàu bị bệnh nướu (lợi), răng chảy máu, phù chi, nổi mẩn và ngứa khắp người. Sau khi uống nước rau tươi và hoa quả thì khỏi bệnh...”. Tuy nhiên tất cả các kinh nghiệm này vẫn chỉ là những ghi nhận tản mạn, chưa được xác định trên cơ sở khoa học.
  4. Vào giữa thế kỷ XVIII, một thầy thuốc có công đóng góp lớn cho sự hiểu biết về các bệnh thiếu vitamin là James Lind (1716- 1794) thuộc hải quân Anh. Ông đã xác nhận ở những thủy thủ đi Sir Gowland biển lâu ngày luôn xuất hiện Hopkins, người đã nhiều dấu hiệu bệnh do chế độ ăn phát hiện ra nhiều thiếu rau, quả tươi, đó là bệnh thể bệnh do thiếu scorbut. Năm 1747, trong chuyến vitamin đi trên tàu Salisbury, ông đã tiến hành thử nghiệm và thu được kết quả: Những thủy thủ ăn đầy đủ rau quả tươi không mắc bệnh, trong khi những người khác đều có dấu hiệu của bệnh scorbut. Sau đó, năm 1753, James Lind đã viết một cuốn sách thông báo hiện tượng bệnh nhưng mãi tới năm 1795 (nghĩa là 42 năm sau khi ông qua đời) các nhà khoa học mới chú ý đến những nhận xét của ông và hải
  5. quân mới có những quy định về chế độ ăn rau quả tươi trên tàu biển. Tới đầu thế kỷ XX, vào năm 1907, hai nhà khoa học Axel Holst (1861-1931) và Theodor Frolich (1870-1947) dự tính dùng chế độ ăn giảm thiểu để tạo ra bệnh suy dinh dưỡng ở chuột lang, nhưng ngẫu nhiên họ lại gây được bệnh scorbut trong thử nghiệm, nhờ đó giới y học đã hiểu thêm được quá trình hình thành dạng bệnh này. SỰ RA ĐỜI CỦA VITAMIN C Ai đã đặt ra thuật ngữ “vitamin”? Năm 1912, sau một thời gian dài nghiên cứu các bệnh như beri-beri, scorbut và nhiều bệnh suy dinh dưỡng khác, Casimir Funk (1884-1967), nhà hóa sinh học Hoa Kỳ gốc Ba Lan (ông ra đời tại Warszawa) kết luận: “Đó là những bệnh hình thành do sự thiếu vắng nhiều yếu tố thức ăn phụ”. Chính ông đã đặt tên cho những “yếu tố phụ” đó là “vitamin”. Gọi như vậy là vì ông kết hợp từ nguyên (etymology). Tiếng La tinh “vita” có nghĩa là “sự
  6. sống” và “amine” (thành phần hóa học giả định cần thiết cho sự sống). Cũng chính Casimir Funk là người sau này đã khẳng định vai trò của vitamin C trong việc phòng chống bệnh scorbut. Mãi đến năm 1920, Jack Drummond (1891- 1952) mới xác định “yếu tố phụ cần thiết cho sự sống” không phải là “amine” và đề nghị bỏ chữ “e” để tránh gây sự ngộ nhận về tính chất hóa học. Từ đó thuật ngữ “vitamin” được chính thức sử dụng trong y văn. Năm 1928, trong khi nghiên cứu hiện tượng oxy hóa tế bào, Szent Giorgyi (Albert, 1893- Hình ảnh cấu trúc phân 1986), nhà sinh hóa Hoa Kỳ tử của vitamin C gốc Hunggari (ông ra đời tại Budapest) đã phân lập được từ tuyến thượng thận một chất và đặt tên là hexuronic acid, nhưng chưa biết rằng đó thực ra là vitamin C hòa tan trong nước. Nhờ phát hiện này, ông được tặng giải Nobel Y học
  7. năm 1937. Năm 1932, W.A. Waugh và Charles King phân lập được vitamin C từ chanh và xác nhận có tính chất giống hệt hexuronic acid. Năm 1933, vitamin C được gọi với tên ascorbic acid và tới năm sau được tổng hợp nhờ công trình nghiên cứu của nhà hóa học người Anh Walter Haworth (1883-1949). Như vậy vitamin C đã được biết đến sớm nhất. VITAMIN B Khoảng giữa thế kỷ XVII, Jacob de Bondt (1598-1631), một thầy thuốc làm việc tại Batavia ở miền đông Ấn Độ thuộc Hà Lan đã viết cuốn sách “Y học Ấn Độ”, trong đó mô tả một căn bệnh phổ biến ở dân cư vùng này: Người ốm mất trương lực bàn tay, cánh tay, cơ chi dưới suy yếu kèm viêm dây thần kinh ngoại vi. Nhưng mãi đến năm 1642 (nghĩa là sau khi Bondt qua đời 11 năm), gia đình mới phát hiện và cho xuất bản cuốn sách. Sau đó, nhiều thầy thuốc ở vùng Viễn Đông cũng thông báo một số trường hợp có những dấu chứng tương tự và gọi tên là beri beri, dựa theo thuật ngữ “beri” của
  8. dân cư Sri Lanka (có nghĩa là mỏi mệt, suy nhược). Năm 1881, Erwin Von Balcz (1849-1913) xác nhận dạng bệnh suy nhược cơ chi khá phổ biến ở nhiều vùng dân cư Nhật. Trong suốt 4 năm (1882-1885), Kanehiro Takaki (1849-1915), Tổng Giám đốc Y khoa Hải quân Nhật đã loại trừ dạng bệnh này trong thủy quân Nhật nhờ áp dụng chế độ ăn gạo cám, hoa quả tươi. Năm 1890, Christian Eijkman (1858-1890), thầy thuốc ngoại khoa và vệ sinh học người Hà Lan, làm việc tại một trại giam ở Java, nhận xét thấy phần lớn các tù nhân đều có dấu hiệu bệnh beri beri làm suy nhược cơ, tê phù, liệt chân. Qua theo dõi một thời gian dài, ông nhận ra nguyên nhân là do tù nhân ăn loại gạo xay xát quá kỹ. Ông dùng loại gạo đó nuôi dưỡng cho cả đàn gà của trại giam và lần đầu tiên gây được bệnh beri beri thực nghiệm. Sau đó, ông quyết định cho cả tù nhân lẫn đàn gà dùng chế độ ăn gạo chứa nhiều cám thì thấy hết hẳn các dấu hiệu bệnh.
  9. Năm 1906, nhà hóa sinh học người Anh Gowland Hopkins (1861 - 1947), đã tiến hành những thử nghiệm với các chế độ ăn khác nhau trên súc vật. Cuối cùng sau 6 năm nghiên cứu, ông kết luận: Nhiều thể bệnh (như scorbut, beri beri...) đều do các chế độ ăn thiếu hụt một chất rất cần thiết (dù với số lượng rất nhỏ) cho sự phát triển cơ thể sinh vật. Năm 1911, sau khi gây bệnh beri beri thực nghiệm ở chim câu, Funk đã dùng một liều lượng nhỏ 20mg chất phân lập từ bột cám và điều trị khỏi bệnh này, từ đấy mở đường cho việc tìm hiểu đầy đủ về vitamin B. Năm 1929, giải Nobel Y học được trao tặng cho hai nhà khoa học Eijkman và Hopkins để ghi nhận công lao phát hiện vai trò của vitamin B. Như vậy, từ giữa thế kỷ XVI, con người đã bắt đầu ghi chép để nhận biết về sự hiện diện của những chất (không phải thực phẩm) cần thiết cho sự phát triển của cơ thể. Đã hơn 4 thế kỷ trôi qua và ngành khoa học nghiên cứu các chất cần thiết này
  10. đã được hình thành với tên gọi “vitamin học” (vitaminology), xác định được khoảng 20 loại vitamin cùng với cấu trúc và vai trò của chúng.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
11=>2