BỘ QUỐC PHÒNG

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ 

PHẠM THÚY HÒA

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

NGUỒN LỰC ĐẤT ĐAI CHO PHÁT TRIỂN LÀNG NGHỀ THÀNH PHỐ HÀ NỘI

HÀ NỘI - 2013

BỘ QUỐC PHÒNG

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ 

PHẠM THÚY HÒA

NGUỒN LỰC ĐẤT ĐAI CHO PHÁT TRIỂN LÀNG NGHỀ THÀNH PHỐ HÀ NỘI

Chuyên ngành: KINH TẾ CHÍNH TRỊ

Mã số: 60 31 01 02

Người hướng dẫn khoa học: PGS, TS TRƯƠNG TUẤN BIỂU

Hµ NéI -2013

MỤC LỤC

Trang

3 MỞ ĐẦU

Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ NGUỒN

LỰC ĐẤT ĐAI CHO PHÁT TRIỂN LÀNG NGHỀ

10 TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

1.1 Những vấn đề chung về nguồn lực đất đai cho phát triển

làng nghề 10

1.2 Thực trạng huy động và sử dụng nguồn lực đất đai

cho phát triển làng nghề Thành phố Hà Nội 29

Chương 2 QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP KHAI THÁC, SỬ

DỤNG HIỆU QUẢ NGUỒN LỰC ĐẤT ĐAI CHO

PHÁT TRIỂN LÀNG NGHỀ THÀNH PHỐ HÀ

48 NỘI TRONG THỜI GIAN TỚI

2.1 Quan điểm khai thác, sử dụng có hiệu quả nguồn lực

đất đai cho phát triển làng nghề ở Hà Nội 48

2.2 Giải pháp sử dụng hiệu quả nguồn lực đất đai cho

phát triển làng nghề ở Thủ đô Hà Nội 59

76 KẾT LUẬN

78 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

82 PHỤ LỤC

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

CHỮ VIẾT ĐẦY ĐỦ

VIẾT TẮT

1. Cụm Công nghiệp làng nghề CCNLN

2. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa CNH, HĐH

3. Cụm công nghiệp CCN

4. Công nghiệp – Tiểu thủ công nghiệp CN-TTCN

5. Chủ nghĩa xã hội CNXH

6. Giải phóng mặt bằng GPMB

7. Hội đồng nhân dân HĐND

8. Kinh tế - xã hội KT-XH

9. Làng nghề truyền thống LNTT

10. Trọng điểm Bắc Bộ TĐBB

11. Ủy ban nhân dân UBND

12. Xóa đói giảm nghèo XĐGN

3

MỞ ĐẦU

1. Lý do lựa chọn đề tài

Đất đai là nguồn tài nguyên vô cùng quý giá của mọi quốc gia, là tư

liệu sản xuất đặc biệt, là nguồn lực quan trọng để sản xuất ra của cải vật chất

cho sự tồn tại và phát triển của mỗi quốc gia nói chung và mỗi ngành kinh tế

nói riêng. Đất đai là cũng là tài nguyên có hạn về số lượng nên cần được quản

lý, khai thác và sử dụng một cách chặt chẽ, tiết kiệm và hiệu quả.

Thủ đô Hà Nội sau khi điều chỉnh địa giới hành chính có diện tích

3.344,6 km2, với điều kiện tự nhiên phong phú, đa dạng, có nền văn hoá lâu

đời, đặc biệt là nơi hội tụ nhiều làng nghề thủ công truyền thống nhất cả nước

với bề dày phát triển hàng trăm năm đã sản xuất ra nhiều sản phẩm có giá trị

kinh tế, nghệ thuật, mỹ thuật cao phục vụ tiêu dùng trong nước và xuất khẩu.

Với 1.350 làng nghề và làng có nghề, chiếm khoảng 67% số làng nghề hiện

có của cả nước, Hà Nội tự hào là Thành phố có nhiều nghề thủ công nhất thế

giới. Trong những năm qua, ngành CN - TTCN của Thành phố Hà Nội ngày

càng đổi mới và đạt được những thành tựu nhất định. Các cấp, các ngành, các

tổ chức chính trị - xã hội, các hội, hiệp hội ngành nghề đã quan tâm đến sự

phát triển của nghề, làng nghề với sự năng động sáng tạo của nhân dân, nên

nhiều nghề, làng nghề được khôi phục, củng cố và phát triển. Quá trình hình

thành và phát triển của nghề, làng nghề truyền thống gắn liền với quá trình

phát triển CN - TTCN ở nông thôn đã góp phần tích cực vào sự nghiệp công

nghiệp hoá, hiện đại hóa, nông nghiệp, nông thôn trên địa bàn Thành phố; đời

sống của người lao động được nâng cao, giảm sự khác biệt giữa thành thị và

nông thôn, giữ vững trật tự an ninh xã hội, giảm tỷ lệ hộ nghèo, góp phần phát

triển kinh tế - xã hội ở địa phương, hạn chế di dân tự do và bảo tồn các giá trị

văn hoá truyền thống của dân tộc.

4

Mặc dù đã đạt được những thành tựu to lớn nhưng sự phát triển làng

nghề Thành phố Hà Nội vẫn chưa thực sự tương xứng với tiềm năng, lợi thế,

chưa đạt được hiệu quả như mong muốn. Phát triển nghề, làng nghề vẫn mang

tính tự phát và gặp phải không ít những khó khăn như: thiếu mặt bằng để sản

xuất tập trung, thiếu đội ngũ lao động có tay nghề cao, thiếu vốn để đầu tư đổi

mới công nghệ, thiết bị máy móc nhằm nâng cao sản lượng, chất lượng sản

phẩm, khả năng cạnh tranh thấp, nguồn nguyên liệu không ổn định, chưa tạo

nhiều thương hiệu hàng hoá, sức tiêu thụ sản phẩm còn hạn chế, một số sản

phẩm truyền thống bị mai một, suy giảm. Cơ sở hạ tầng nhất là đường giao

thông, thông tin liên lạc chưa đồng bộ, môi trường làng nghề bị ô nhiễm

nghiêm trọng, chưa có biện pháp khắc phục triệt để. Nói cách khác, sự phát

triển các làng nghề của thành phố Hà Nội chưa thực sự bền vững.

Nguyên nhân của tình trạng đó một phần do các nguồn lực, trong đó

có nguồn lực đất đai cho phát triển làng nghề chưa được khai thác và sử

dụng có hiệu quả. Thực tế tại các làng nghề cho thấy, công tác quản lý nhà

nước về đất đai còn nhiều hạn chế, nhất là trong quy hoạch sử dụng đất,

định giá đất, bồi thường, giải phóng mặt bằng, thủ tục hành chính; sử dụng

đất còn lãng phí, hiệu quả thấp,... nên nguồn lực đất đai chưa được phát

huy đầy đủ để trở thành nội lực quan trọng phục vụ phát triển làng nghề.

Trong khi đó, Thành phố Hà Nội sau khi điều chỉnh địa giới hành chính

năm 2008 có quỹ đất tự nhiên tăng lên rất lớn, đây là nguồn lực hết sức to

lớn và quan trọng mà Thành phố Hà Nội phải tận dụng khai thác cho phát

triển kinh tế - xã hội nói chung, phát triển các làng nghề của Thành phố nói

riêng. Với lý do đó, tác giả lựa chọn vấn đề: “Nguồn lực đất đai cho phát

triển làng nghề ở Hà Nội” làm đề tài luận văn thạc sỹ kinh tế - chuyên

ngành kinh tế chính trị và sự nghiên cứu này có tính cấp thiết cả về lý luận

lẫn thực tiễn.

5

2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài

Khai thác, sử dụng hiệu quả đất đai cho phát triển kinh tế - xã hội nói

chung và cho phát triển làng nghề nói riêng là chủ trương lớn của Đảng và

Nhà nước ta, vì vậy đã có rất nhiều cơ quan nhà nước, các chuyên gia quan

tâm nghiên cứu dưới nhiều hình thức.

Dưới dạng sách nghiên cứu, hội thảo, bài viết tham luận tại các hội thảo

chuyên đề có các công trình:

Công trình "Những biện pháp chủ yếu thúc đẩy công nghiệp hóa, hiện

đại hóa nông nghiệp, nông thôn vùng đồng bằng sông Hồng" của Giáo sư,

Tiến sĩ Nguyễn Đình Phan, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Trần Minh Đạo, NXB Chính

trị quốc gia, Hà Nội, năm 2002, đã phân tích làm rõ thực trạng quá trình công

nghiệp hóa, hiện đại hóa, đề xuất hệ thống cơ chế chính sách về chuyển đổi

mục đích sử dụng đất từ đất sản xuất nông nghiệp sang phát triển công

nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ để thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại

hóa nông nghiệp, nông thôn vùng đồng bằng sông Hồng, trong đó có Thủ đô

Hà Nội.

Công trình "Phát triển bền vững nông thôn đồng bằng Bắc Bộ trong

quá trình phát triển các khu công nghiệp: Thực trang và giải pháp" của Tiến

sỹ Đỗ Đức Quân, đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ, Học viện Chính trị -

Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, năm 2008, đã làm rõ những vấn

đề cơ bản về phát triển nông nghiệp, nông thôn; đề xuất giải pháp phát triển

các cụm công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, làng nghề bên cạnh việc phát triển

các khu công nghiệp tập trung.

Tạp chí Tài chính, số 10 năm 2012 chuyên đề về khai thác, quản lý và

sử dụng nguồn lực đất đai đã tập hợp hơn 10 bài viết nghiên cứu chuyên đề

của nhiều tác giả nổi tiếng như Giáo sư, Tiến sỹ Đặng Hùng Võ, Giáo sư,

Tiến sỹ Vương Đình Huệ,... tập trung phân tích, đánh giá hiện trạng và đề

6

xuất những giải pháp về cơ chế, chính sách nhằm khai thác, sử dụng, quản lý

có hiệu quả nguồn lực đất đai cho phát triển kinh tế - xã hội chung của đất

nước và một số địa phương điển hình, trong đó có Thủ đô Hà Nội.

Dưới dạng luận văn, đề tài nghiên cứu khoa học có một số công trình:

Luận án tiến sỹ kinh tế của Trần Minh Yến, năm 2003 "Phát triển làng

nghề truyền thống ở nông thôn Việt Nam trong quá trình công nghiệp hóa,

hiện đại hóa". Luận án Tiến sỹ Kinh tế của Bạch Thị Lan Anh, năm 2011

"Phát triển bền vững làng nghề truyền thống vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ".

Các đề tài luận án này đã tập trung nghiên cứu đánh giá hiện trạng phát triển

làng nghề, đề xuất quan điểm, giải pháp phát triển bền vững làng nghề, làng

nghề truyền thống ở phạm vi cả nước và vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ,

trong đó nguồn lực đất đai được xem xét như một yếu tố nguồn lực để phát

triển bền vững các làng nghề.

Luận văn Thạc sỹ kinh tế của tác giả Nguyễn Thanh Tùng, năm 2010,

“Khai thác và sử dụng nguồn lực tài chính từ đất đai để phát triển kinh tế - xã

hội ở Hà Nội” tập trung đánh giá kết quả khai thác và sử dụng nguồn lực tài

chính từ đất đai cho phát triển kinh tế - xã hội của Thành phố. Đối tượng

nghiên cứu là quan hệ tài chính về đất đai giữa một bên là chính quyền Thành

phố - đại diện chủ sở hữu về đất đai - với một bên là các đối tượng sử dụng

đất bao gồm: Các tổ chức, cá nhân trong nước và nước ngoài được Thành phố

giao đất, cho thuê đất; được bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước

thu hồi đất; các loại thuế liên quan đến đất; biểu hiện ra bên ngoài của mối

quan hệ này là việc Nhà nước được hưởng lợi bằng tiền, bằng sự ổn định,

phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và Thủ đô.

Nhìn chung các công trình nghiên cứu về làng nghề về nguồn lực đất

đai đều đã tiếp cận về cơ sở lý luận và thực tiễn dưới nhiều góc độ khác nhau.

Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu trên phạm vi tương đối rộng ở cấp độ

7

vùng hoặc liên vùng, một số nghiên cứu phạm vi hẹp hơn, giới hạn trên địa

bàn Thành phố Hà Nội nhưng thời gian nghiên cứu trước khi Thành phố điều

chỉnh địa giới hành chính năm 2008 nên không còn nhiều tính cập nhật, thời

sự. Những công trình này đối tượng nghiên cứu là phát triển làng nghề, nguồn

lực đất đai chỉ được xem xét như một giải pháp để phát triển làng nghề. Một

số công trình nghiên cứu về nguồn lực đất đai hầu hết chỉ tập trung nghiên

cứu về nguồn tài chính từ đất đai cho phát triển kinh tế - xã hội hoặc quản lý

nhà nước về đất đai.

Tóm lại, sau khi tìm kiếm và nghiên cứu các công trình của nhiều tác

giả liên quan đến phát triển làng nghề trên địa bàn từ sau khi có Nghị quyết

số 15NQ-QH/2008 ngày 29/5/2008 của Quốc hội về điều chỉnh địa giới hành

chính hành phố Hà Nội chưa có công trình nào nghiên cứu một cách có hệ

thống về nguồn lực đất đai cho phát triển làng nghề. Do vậy, học viên lựa

chọn đề tài: "Nguồn lực đất đai cho phát triển làng nghề thành phố Hà

Nội" để nghiên cứu dưới góc độ kinh tế chính trị là hoàn toàn mới, không

trùng lặp với bất kỳ công trình nghiên cứu hoàn chỉnh nào đã được công bố.

3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài

* Mục đích

Phân tích, hệ thống hóa những vấn đề lý luận, thực tiễn về nguồn lực

đất đai để phát triển làng nghề Thành phố Hà Nội hiện nay. Trên cơ sở đó đề

xuất các quan điểm, giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn lực đất đai

cho phát triển làng nghề Thành phố Hà Nội trong thời gian tới.

* Nhiệm vụ

Phân tích cơ sở lý luận và thực tiễn về nguồn lực đất đai cho phát triển

làng nghề.

Phân tích, thực trạng về huy động, sử dụng nguồn lực đất đai cho phát

triển làng nghề Thành phố Hà Nội.

8

Đề xuất quan điểm, giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn lực đất

đai cho phát triển làng Thành phố Hà Nội trong thời gian tới.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài

* Đối tượng nghiên cứu

Đề tài nghiên cứu nguồn lực đất đai cho phát triển làng nghề Thành

phố Hà Nội trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông

thôn Thủ đô và được tiếp cận dưới hai góc độ:

- Đất đai là tư liệu sản xuất, là yếu tố tạo dựng mặt bằng cho sản xuất

tại các làng nghề;

- Đất đai là yếu tố vốn, là nguồn lực tài chính khai thác từ đất đai tạo

nguồn vốn cho phát triển làng nghề.

* Phạm vi nghiên cứu của đề tài

Về không gian nghiên cứu chủ yếu là các làng nghề tại huyện ngoại

thành của Thành phố Hà Nội.

Về thời gian nghiên cứu từ năm 2000 đến nay.

5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của đề tài

* Cơ sở lý luận

Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa Mác -

Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam và

Nhà nước có liên quan; đồng thời sử dụng những lý thuyết kinh tế chính trị

học về vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường; kế thừa có chọn lọc

những công trình nghiên cứu trước có liên quan đến đề tài luận văn.

* Phương pháp nghiên cứu

Luận văn sử dụng các phương pháp như: Phương pháp duy vật biện

chứng, duy vật lịch sử, phương pháp trừu tượng hóa khoa học, phương pháp

phân tích - tổng hợp, phương pháp thống kê so sánh, phương pháp logíc lịch

sử, tổng kết thực tiễn và phương pháp chuyên gia.

9

6. Ý nghĩa của đề tài

- Kết quả nghiên cứu của đề tài có thể được sử dụng làm tài liệu để các

cơ quan quản lý nhà nước, các làng nghề tham khảo phục vụ cho công tác quy

hoạch, xây dựng các cơ chế, chính sách phát triển nghề và làng nghề Thành

phố Hà Nội.

- Làm tài liệu tham khảo trong giảng dạy kinh tế chính trị ở các trường

cao đẳng, đại học.

7. Kết cấu của đề tài.

Ngoài mở đầu, nội dung chính của luận văn được kết cấu thành 2

chương, 4 tiết, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục.

10

Chương 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ NGUỒN LỰC ĐẤT ĐAI CHO

PHÁT TRIỂN LÀNG NGHỀ TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

1.1. Những vấn đề chung về nguồn lực đất đai cho phát triển làng nghề

1.1.1. Làng nghề và vai trò của làng nghề trong phát triển kinh tế -

xã hội ở Thủ đô Hà Nội

* Làng nghề:

Theo quan điểm của Chính phủ và một số bộ, ngành liên quan khái

niệm về nghề và các loại hình làng nghề như sau:

Làng nghề là một hoặc nhiều cụm dân cư ấp, thôn, bản làng, buôn,

phun sóc, hoặc các điểm dân cư tương tự trên địa bàn một xã, thị trấn có các

hoạt động ngành nghề nông thôn, sản xuất ra một hoặc nhiều loại sản phẩm

khác nhau.

Để được công nhận làng nghề phải đạt được các tiêu chí: Có tối thiểu

30% tổng số hộ trên địa bàn tham gia các hoạt động ngành nghề nông thôn;

hoạt động sản xuất kinh doanh ổn định tối thiểu 2 năm tính đến thời điểm đề

nghị công nhận; chấp hành tốt chính sách pháp luật của Nhà nước.

* Làng nghề truyền thống: Là làng nghề có nghề truyền thống. Làng

nghề truyền thống phải đạt tiêu chí làng nghề và có ít nhất 1 nghề truyền thống

theo quy định tại Thông tư số 116/2006/TT-BNN. Đối với những làng chưa đạt

tối thiểu 30% tổng số hộ và 2 năm sản xuất kinh doanh làng nghề ổn định

nhưng có ít nhất 1 nghề truyền thống được công nhận theo quy định của Thông

tư số 116/2006/TT-BNN thì cũng được công nhận làng nghề truyền thống.

Để được công nhận làng nghề truyền thống, các làng nghề phải đạt

được những tiêu chuẩn: (1) Về thời gian: Là làng có nghề được hình thành

trên 50 năm tính đến ngày làng được đề nghị xét danh hiệu làng nghề truyền

thống; (2) Về kinh tế: Có giá trị sản xuất từ ngành nghề nông thôn của làng

11

chiếm tỷ trọng từ 50% trở lên so với tổng giá trị sản xuất của làng; (3) Về sử

dụng lao động: Có tối thiểu 30% số hộ trên địa bàn tham gia hoạt động ngành

nghề nông thôn; (4) Bảo đảm vệ sinh môi trường và an toàn lao động theo các

quy định hiện hành; (5) Chấp hành tốt đường lối, chủ trương của Đảng, chính

sách, pháp luật của Nhà nước, các quy định của Thành phố và địa phương; (6)

Sản phẩm làm ra phải mang bản sắc văn hoá dân tộc, phải gắn với tên tuổi của

làng; (7) Đối với những làng nghề chưa đáp ứng tiêu chuẩn của môi trường

theo quy định tại điểm 4 vẫn được xem xét công nhận danh hiệu làng nghề

truyền thống khi đã có các đề án, dự án nghiên cứu đánh giá tác động môi

trường và đề ra các biện pháp xử lý khắc phục ô nhiễm môi trường.

* Làng nghề mới: Là làng nghề được hình thành cùng với sự phát triển

của nền kinh tế, chủ yếu do sự lan toả của làng nghề truyền thống, có những

điều kiện nhất định để hình thành và phát triển.

* Nghề truyền thống: Là nghề được hình thành từ lâu đời, tạo ra sản

phẩm độc đáo có tính riêng biệt, được lưu truyền và phát triển đến ngày nay

hoặc có nguy cơ bị mai một, thất truyền.

Nghề được công nhận là nghề truyền thống phải đạt 3 tiêu chí: (1)

Nghề đã xuất hiện tại địa phương từ 50 năm tính đến thời điểm công

nhận; (2) Nghề tạo ra những sản phẩm mang bản sắc văn hoá dân tộc; (3)

Nghề gắn với tên tuổi của 1 hay nhiều nghệ nhân hoặc tên tuổi làng nghề.

* Làng có nghề: Là làng được hình thành cùng với sự phát triển của

nền kinh tế chủ yếu do sự lan toả của làng nghề truyền thống, có những điều

kiện thuận lợi để phát triển. Trong đó làng có số hộ, số lao động sản xuất công

nghiệp, tiểu thủ công nghiệp ít nhất từ 10% trở lên.

Với tiêu chí như trên, đến nay Thành phố Hà Nội đã công nhận 277

làng đạt tiêu chuẩn làng nghề chiếm 20,52% tổng số làng có nghề của Thành

phố, trong đó có 244 làng nghề truyền thống. Huyện Thanh Oai có 51 làng,

12

Thường Tín có 44 làng, Phú Xuyên 39 làng, Chương Mỹ 33 làng, Ứng Hoà 20

làng, Ba Vì 14 làng, Quốc Oai 15 làng, Hoài Đức 12 làng, quận Hà Đông 6

làng, Phúc Thọ 5 làng, Gia Lâm 5 làng, thị xã Sơn Tây 2 làng, Sóc Sơn 2 làng,

Từ Liêm 2 làng, Thanh Trì 2 làng, quận Long Biên 1 làng và Mê Linh 1 làng.

Phân theo ngành nghề gồm: Ngành mây tre đan có 83 làng, chiếm tới

30% số làng nghề; ngành nghề chế biến nông sản thực phẩm 44 làng, chiếm

15,88%; nghề thêu ren 28 làng; nghề dệt may 25 làng; nghề chế biến lâm sản

23 làng; nghề nón mũ lá 20 làng; nghề cơ kim khí 13 làng; nghề sơn mài -

khảm trai 11 làng; nghề da giầy, khâu bóng 8 làng; nghề chạm điêu khắc 6

làng; nghề gốm sứ 3 làng; nghề đan tơ lưới 4 làng; nghề sinh vật cảnh 2 làng;

nghề dát vàng bạc quý 1 làng và nghề khác 6 làng.

Nghề có nhiều làng nghề nhất là: ngành nghề mây tre giang đan có 83

làng, trong đó huyện Chương Mỹ 29 làng, Phú Xuyên 11 làng, Quốc Oai 11

làng, Ứng Hoà 11 làng, Thanh Oai 8 làng... Ít nhất là ngành dát vàng, bạc quý

(Gia Lâm) với 01 làng, rắn Lệ Mật (Long Biên) 01 làng... [29, tr.2].

Quy mô làng nghề ngày càng phát triển, số hộ tham gia sản xuất công

nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ tăng, số hộ thuần nông giảm dần. Cơ cấu

lao động ở nông thôn ngoại thành chuyển dịch nhanh sang làm công nghiệp và

dịch vụ. Các huyện có nhiều hộ sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp là:

Thanh Oai, Chương Mỹ, Hoài Đức, Thường Tín từ 13.000 hộ đến 22.000 hộ.

Một số huyện có số hộ tham gia sản xuất tiểu thủ công nghiệp thấp hơn như Từ

Liêm, Sóc Sơn, Thanh Trì, Đông Anh, Mê Linh, thị xã Sơn Tây từ 500 - 700 hộ.

* Vai trò của làng nghề trong phát triển kinh tế - xã hội Thủ đô Hà Nội

Thứ nhất, tạo việc làm cho người lao động.

Các cơ sở sản xuất làng nghề từ các hộ gia đình đến các thành phần

kinh tế trong làng nghề đã thu hút một số lượng lớn lao động trong sản xuất

phi nông nghiệp, hạn chế số lao động di dời nông thôn ra thành thị tìm việc

13

làm. Ngành nghề đã thu hút từ 30 đến 70% số hộ và từ 50 đến 90% số lao

động tham gia sản xuất nghề với trên 300.000 lao động thường xuyên. Ngoài

ra còn thu hút hàng nghìn lao động nơi khác đến làm thuê như nghề gốm sứ

Bát Tràng (Gia Lâm), làng dệt kim La Phù (Hoài Đức), đan cỏ tế xã Phú Túc,

khảm trai xã Chuyên Mỹ (Phú Xuyên), Vân Hà, Liên Hà (Đông Anh), Liên

Trung (Đan Phượng)...

Sự phát triển làng nghề kéo theo dịch vụ cung cấp nguyên vật liệu,

chuyên chở, kinh doanh hàng hoá, phục vụ ăn uống cho các làng nghề tạo ra

nhiều việc làm cho người lao động. Cơ cấu lao động trong công nghiệp, tiểu

thủ công nghiệp và dịch vụ đã chiếm từ 75 đến 85% trong tổng số lao động,

lao động thuần nông chỉ còn từ 15 đến 25%. Ngoài ra các làng nghề góp phần

giải quyết việc làm cho các lao động dôi dư trong quá trình đô thị hoá, từ đó

đã góp phần phân công lại lực lượng lao động ở nông thôn.

Thứ hai, góp phần tăng thu nhập, hạn chế tệ nạn xã hội, giữ gìn an ninh

trật tự ở nông thôn.

Nghề, làng nghề đã góp phần giải quyết việc làm, nâng cao thu nhập và

khả năng tích luỹ của các hộ khu vực ngoại thành Thành phố. Qua khảo sát ở

các làng nghề cho thấy, thu nhập bình quân của các hộ sản xuất nghề là 24

triệu đồng/người/năm, gấp 1,3 lần so với thu nhập bình quân của cả làng và

gấp 4 lần so với thu nhập của các hộ thuần nông. Đời sống nhân dân được cải

thiện, tỷ lệ hộ nghèo ở các làng nghề thấp hơn nhiều so với tỷ lệ hộ nghèo của

các hộ thuần nông. Số hộ nghèo có mức thu nhập dưới 320.000

đồng/người/tháng đã giảm từ 46.272 hộ, năm 2006 xuống 42.164 hộ năm

2010 [37, tr. 42].

Thứ ba, hạn chế di dân tự do từ ngoại thành vào trung tâm Thành phố.

Quá trình phát triển kinh tế ở Thủ đô nhất là việc đô thị hoá gây sức ép

về việc làm và thu nhập đã thúc đẩy người nông dân ngoại thành đi tìm việc

14

làm ở trung tâm Thành phố. Quá trình đó đã gây áp lực đối với các điều kiện

dịch vụ, cơ sở hạ tầng xã hội ở Thành phố, gây khó khăn quản lý trật tự xã hội.

Vì vậy, sự phát triển nghề, làng nghề hạn chế đáng kể hiện tượng di dân tự do

từ ngoại thành vào trung tâm Thành phố. Với 1.350 làng có nghề ở ngoại

thành, người nông dân có thu nhập ổn định gắn bó với làng quê, đồng thời thu

hút lao động các địa phương khác đến làm việc, góp phần xoá đói giảm nghèo.

Thứ ba, phát huy nội lực địa phương, phát triển kinh tế - xã hội, bảo tồn

và phát huy các giá trị văn hoá truyền thống.

Nghề, làng nghề phát triển tạo điều kiện khai thác thế mạnh của địa

phương về nguồn lực (lao động, thiết bị máy móc, tiền vốn) để tập trung cho

sản xuất kinh doanh theo quy mô hộ gia đình, tổ sản xuất, hợp tác xã, công ty

TNHH... Trong quá trình phát triển sẽ tạo ra đội ngũ lao động có tay nghề cao,

lớp nghệ nhân mới có trình độ để tiếp thu, ứng dụng những tiến bộ về công

nghệ tiên tiến sản xuất ra những sản phẩm có giá trị cao, giá thành hạ, khả năng

cạnh tranh thị trường lớn, đáp ứng dần với yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế.

Nghề, làng nghề phát triển kéo theo sự đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng ở

làng nghề như: đường giao thông được cải tạo, nâng cấp; thiết chế văn hoá ở

cơ sở được quan tâm xây dựng, đáp ứng nhu cầu sinh hoạt về vật chất, tinh

thần của nhân dân, đồng thời bảo tồn phát huy giá trị văn hoá ở các làng nghề

của địa phương.

Lịch sử phát triển các làng nghề truyền thống của Thành phố gắn với

lịch sử phát triển văn hoá của dân tộc. Mỗi làng nghề sản xuất ra những sản

phẩm chứa đựng nét độc đáo của văn hoá dân tộc, là di sản quý giá của cha

ông tạo ra, truyền lại cho con cháu, làm vẻ vang cho Thủ đô và đất nước như:

Lụa Vạn Phúc, gốm sứ Bát Tràng, sơn mài Duyên Thái, thêu Quất Động, đan

cỏ tế Phú Túc, mây tre đan Phú Vinh, đúc đồng Ngũ Xã... Vì vậy, bảo tồn và

phát huy các giá trị văn hoá truyền thống chính là sự kế thừa và phát huy đội

15

ngũ nghệ nhân và những bí quyết quý giá của nghề đã góp phần không nhỏ

vào việc duy trì bảo tồn di sản văn hoá. Bảo tồn và phát triển ngành nghề thủ

công là tăng thêm sức mạnh cội nguồn, tăng giá trị văn hoá truyền thống của

Việt Nam đối với bạn bè thế giới.

Thứ tư, góp phần tăng khối lượng hàng hoá xuất khẩu và phát triển dịch

vụ du lịch.

Nhu cầu tiêu dùng trong nước hàng thủ công mỹ nghệ ngày một tăng về khối

lượng và chủng loại các sản phẩm hàng hoá để trang trí nội thất và nơi làm việc.

Hàng thủ công mỹ nghệ của làng nghề được người nước ngoài ưa thích

đã góp phần làm phong phú thị trường xuất khẩu của Hà Nội. Giá trị xuất

khẩu hàng thủ công mỹ nghệ ngày càng tăng, từ 95 triệu USD năm 2006 lên

104 triệu USD năm 2010. Giá trị xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ tăng bình

quân hàng năm từ 1,6% đến 2,8%/năm [29, tr.5].

Hà Nội có tiềm năng về phát triển du lịch lớn lại có nhiều làng nghề

truyền thống. Vì vậy, việc gắn kết các tour du lịch đến với các làng nghề để

khách du lịch tham quan, với những mặt hàng lưu niệm phong phú sẽ tăng

thêm chất lượng của tour du lịch, qua đó quảng bá các sản phẩm làng nghề,

đồng thời góp phần thúc đẩy ngành dịch vụ, du lịch phát triển.

Thứ năm, thúc đẩy phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp theo

hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn.

Nghề, làng nghề đã góp phần thúc đẩy nền kinh tế của Thành phố phát

triển theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn, làm

chuyển dịch cơ cấu kinh tế của Thành phố. Đến năm 2010 tỷ trọng công

nghiệp và dịch vụ trong GDP của Thành phố đã chiếm tới 93,8%; nông, lâm

nghiệp và thuỷ sản là 6,2%. Cơ cấu kinh tế các làng nghề có tỷ trọng công

nghiệp và dịch vụ trong GDP cũng chiếm từ 75% đến 85%. Sự phát triển các

làng nghề đã mở rộng quy mô địa bàn sản xuất, thu hút nhiều lao động đã làm

16

chuyển dịch cơ cấu lao động sang làm công nghiệp và dịch vụ và giảm dần

lao động nông nghiệp. Chính làng nghề phát triển đã hình thành các trung tâm

buôn bán, trao đổi hàng hoá, dần dần trở thành các trung tâm dân cư, các thị

trấn, thị tứ và từng bước đô thị hoá.

Với vai trò như trên nên việc khai thác nguồn lực đất đai cho phát triển

các làng nghề trên địa bàn Thành phố Hà Nội có ý nghĩa to lớn về kinh tế, xã

hội và quốc phòng, an ninh.

1.1.2. Vai trò của nguồn lực đất đai cho phát triển làng nghề trên địa

bàn Thành phố Hà Nội

* Lý luận chung về địa tô.

Địa tô là phần sản phẩm thặng dư do những người sản xuất trong nông

nghiệp tạo ra và nộp cho người chủ sở hữu ruộng đất. Địa tô gắn liền với sự ra

đời và tồn tại của chế độ tư hữu về ruộng đất. Đã từng tồn tại trong các chế độ

chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa và cả trong thời kì đầu của chủ

nghĩa xã hội. Trong chế độ chiếm hữu nô lệ, địa tô là do lao động của nô lệ và

những người chiếm hữu ruộng đất nhỏ tự do tạo ra. Trong chế độ phong kiến,

địa tô là phần sản phẩm thặng dư do nông nô tạo ra và bị chúa phong kiến

chiếm đoạt, có khi còn bao gồm cả một phần sản phẩm tất yếu. Trong chủ

nghĩa tư bản, do còn chế độ tư hữu về ruộng đất trong nông nghiệp nên vẫn

tồn tại địa tô. Về thực chất, địa tô tư bản chủ nghĩa chính là phần giá trị thặng

dư thừa ra ngoài lợi nhuận bình quân và do nhà tư bản kinh doanh nông

nghiệp trả cho địa chủ. Nguồn gốc của địa tô tư bản chủ nghĩa vẫn là do lao

động thặng dư của công nhân nông nghiệp làm thuê tạo ra. Địa tô tư bản chủ

nghĩa phản ánh quan hệ giữa ba giai cấp: địa chủ, tư bản kinh doanh nông

nghiệp và công nhân nông nghiệp làm thuê. Trong chủ nghĩa tư bản, có các

loại địa tô: địa tô chênh lệch, địa tô tuyệt đối và địa tô độc quyền.

Địa tô chênh lệch là sự chênh lệch giữa giá cả sản xuất chung nông

phẩm đươc quyết định bởi điều kiện không thuận lợi nhất với giá cả sản xuất

17

cá biệt ở những nơi có điều kiện sản xuất thuận lợi, do đó năng suất lao động

được nâng cao. Địa tô chênh lệch là phần lợi nhuận siêu ngạch ngoài lợi

nhuận bình quân, nhà tư bản thu được trên những thửa ruộng đất có điều kiện

thuận lợi và trả cho địa chủ. Địa tô chênh lệch cũng như toàn bộ giá trị thặng

dư trong nông nghiệp không phải do ruộng đất đẻ ra. Ruộng đất tốt hay xấu

chỉ là điều kiện tự nhiên ảnh hưởng đến năng suất lao động của công nhân

nông nghiệp, là cơ sở tự nhiên không thể thiếu do địa tô chênh lệch hình

thành. Nguồn gốc của địa tô chênh lệch và địa tô nói chung là do lao động của

công nhân nông nghiệp tạo gia

Xét về cơ sở hình thành lợi nhuận siêu ngạch và việc chuyển hoá lợi

nhuận siêu ngạch thành địa tô, địa tô chênh lệch được chia làm hai loại: địa tô

chênh lệch I và địa tô chênh lệch II. Đây là cách Mác chia và ông coi địa tô

chênh lệch I gắn liền với độ mầu mỡ tự nhiên và vị trí địa lí thận lợi, còn địa

tô chênh lệch II gắn liền với thâm canh, là kết quả của tư bản đầu tư thêm trên

cùng một đơn vị diện tích.

Địa tô tuyệt đối là toàn bộ số chênh lệch giữa giá trị và giá cả sản xuất

hay chỉ bằng một phần (lớn hoặc nhỏ) của số chênh lệch. Như vậy giá cả nông

sản có thể cao hơn giá cả sản xuất của chúng. Nhưng vẫn thấp hơn giá trị của

chúng và không phải giá cả đắt lên là nguyên nhân sinh ra địa tô, mà chính địa

tô là nguyên nhân làm cho giá cả nông sản tăng lên. sự thiệt hại đối với xã hội

là nguồn gốc làm giàu cho giai cấp địa chủ. Khi độc quyền tư hữu ruộng đất

bị thủ tiêu thì địa tô tuyệt đối bị xoá bỏ. Giá cả nông sản sẽ hạ xuống có lợi

cho xã hội.

Trong chủ nghĩa tư bản, không phải chỉ đất đai sử dụng vào sản suất

nông nghiệp với phải nộp địa tô, mà tất cả các loại đất xây dựng, đất hầm mỏ

còn phải đem lại địa tô cho người sở hữu chúng. Bất kì ở đâu có sức tự nhiên

bị độc chiếm và tạo ra một lợi nhuận siêu ngạch cho nhà tư bản sử dụng

18

những sức tự nhiên. Địa tô đất xây dựng về cơ bản được hình thành như địa tô

đất nông nghiệp nhưng nó cũng có đặc trưng riêng. Đó là, trong việc hình

thành địa tô đất xây dựng, vị trí của đất đai là yếu tố quyết định, còn độ màu

mỡ và hình thái của đất đai không ảnh hưởng lớn; địa tô đất xây dựng tăng lên

nhanh chóng do sự gia tăng dân số, do nhu cầu nhà ở tăng lên và do những tư

bản cố định sát nhập vào ruộng đất ngày càng tăng lên.

Địa tô luôn ngắn với độc quyền sở hữu ruộng đất, độc chiếm các điều

kiện tự nhiên thuận lợi, cản trở sự cạnh tranh của tư bản, tạo nên giá cả độc

quyền của nông sản. tuy nhiên, có những loại đất có thể trồng những loại cây

cho sản phẩm quý hiếm có giá trị cao hay có những khoáng sản đặc biệt có

giá trị, thì địa tô ở những đất đó rất cao, có thể xem đó là địa tô độc quyền.

Nguồn gốc của địa tô độc quyền này cũng là lợi nhuận siêu ngạch do giá cả

độc quyền cao của sản phẩm thu được trên đất đai.

Các địa tô như địa tô về đất xây dựng, địa tô hầm mỏ và địa tô bãi cá,

đất rừng thiên nhiên,... tuy là địa tô thu được trên những diện tích đất phi

nông nghiệp nhưng đều dựa trên cơ sở địa tô đất nông nghiệp theo đúng nghĩa

của từ này. Chúng bao gồm cả hai loại địa tô: địa tô tuyệt đối và địa tô chênh

lệch. Mác nói "Bất kỳ ở đâu có những sức tự cho nhà công nghiệp lợi dụng

những sức tự nhiên ấy, chẳng kể là thác nước, là hầm mỏ giàu khoáng sản, là

những nơi nhiều cá hay là đất để xây dựng có vị trí tốt, thì số lợi nhuận siêu

ngạch đó của nhà tư bản hoạt động cũng đều bị kẻ có cái giấy chứng nhận về

quyền sở hữu những của cải tự nhiên ấy chiếm đoạt dưới hình thái địa tô".

Trong chủ nghĩa xã hội, khi ruộng đất thuộc sở hữu toàn dân, không

còn là tư hữu của địa chủ hay nhà tư bản, thì những cơ sở kinh tế để hình

thành địa tô tuyệt đối và địa tô độc quyền cũng bị xoá bỏ, nhưng vẫn tồn lại

địa tô chênh lệch, song nó thuộc sở hữu của nhà nước và khác về bản chất với

địa tô chênh lệch dưới chủ nghĩa tư bản.

19

Ở Việt Nam, ruộng đất thuộc sở hữu toàn dân, là tư liệu sản xuất đặc

biệt của nông nghiệp, lâm nghiệp, không gì thay thế được, và là tài nguyên

quý giá của quốc gia. Nhà nước chuyển quyền sử dụng ruộng đất lâu dài cho

nông dân, và người sử dụng đất phải nộp thuế sử dụng đất; cho người nước

ngoài thuê đất để lập doanh nghiệp hay để xây dựng trụ sở cơ quan ngoại

giao; cho phép các tổ chức, cá nhân người Việt Nam tham gia xí nghiệp liên

doanh với người nước ngoài được góp vốn pháp định bằng giá trị đất sử dụng.

Tuy hình thức địa tô tuyệt đối không còn, nhưng ruộng đất vẫn là một tư liệu

sản xuất có giá trị và người sử dụng vẫn phải trả giá như là một loại địa tô.

* Khái niệm về nguồn lực đất đai.

Nguồn lực là hệ thống những yếu tố tự nhiên, xã hội có ích đối với sự

phát triển của xã hội loài người, thông qua việc khai thác, sử dụng chúng mà

con người có thể tạo ra những sản phẩm phù hợp với nhu cầu của mình. Tùy

theo trình độ xã hội hóa của lực lượng sản xuất và sự phân công lao động xã

hội, các nguồn lực được khai thác nhằm phục vụ cho nhu cầu rất khác nhau

của con người. Do đó, vị trí, vai trò của các nguồn lực là rất khác nhau. Thậm

chí, đối với các quốc gia có trình độ phát triển khác nhau, các nguồn lực cũng

phát huy tác dụng không giống nhau.

Nguồn lực phát triển kinh tế có thể phân loại theo ngành, theo lĩnh vực.

Theo nhận thức phổ biến hiện nay, các nguồn lực bao gồm: nguồn lực con

người, nguồn lực đất đai, nguồn lực tài chính, nguồn lực khoa học - công

nghệ, hay cách hiểu tương tự là vốn, lao động, đất đai, tri thức.

Trong hệ thống các nguồn lực cho sự phát triển của xã hội loài người

kể trên, nguồn lực đất đai luôn có vị trí rất quan trọng. Vai trò đó còn ngày

càng quan trọng hơn đối với một quốc gia có trình độ phát triển thấp, đặc biệt

đối với nền kinh tế còn mang nặng đặc trưng nông nghiệp. Đất đai là một tư

liệu sản xuất đặc biệt không chỉ đơn thuần là yếu tố tạo dựng mặt bằng cho

20

hoạt động sản xuất mà trong những năm gần đây, cùng với sự chuyển đổi

sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đất đai còn được coi

là yếu tố vốn, là nguồn lực tài chính khai thác từ đất đai tạo nguồn vốn cho

sản xuất.

Theo đó, có thể hiểu: Nguồn lực đất đai cho phát triển các làng nghề là

yếu tố tự nhiên có ích với vai trò là tư liệu sản xuất, nguồn lực tài chính - vốn

không thể thiếu của quá trình sản xuất kinh doanh đã, đang và sẽ được huy

động, sử dụng cho phát triển các làng nghề phù hợp với quy định của pháp

luật và giải quyết hài hòa lợi ích kinh tế của các chủ thể có liên quan.

Như vậy, nội dung nguồn lực đất đai cho phát triển các làng nghề được

hiểu với tư cách là tư liệu sản xuất như dùng để xây dựng nhà xưởng, tạo mặt

bằng cho sản xuất, nhà kho, sân phơi...; đồng thời, đó còn là nguồn lực tài

chính, nguồn vốn nếu đất đai được chuyển đổi theo cơ chế thị trường và phù

hợp với quy định của pháp luật hiện hành.

* Vai trò của nguồn lực đất đai trong phát triển làng nghề

Thứ nhất, nguồn lực đất đai với vai trò là tư liệu sản xuất.

Đất đai là tài nguyên vô cùng quí giá đối với mỗi quốc gia, là điều kiện

tồn tại và phát triển của con người và các loài sinh vật khác trên trái đất. Các

Mác đã viết: “Đất đai là tài sản mãi mãi với loài người, là điều kiện cần để

sinh tồn, là điều kiện không thể thiếu được để sản xuất, là tư liệu sản xuất cơ

bản của sản xuất vật chất” [20, tr.7].

Trong tiến trình lịch sử của xã hội loài người, con người và đất đai

ngày càng gắn liền chặt chẽ với nhau. Đất đai trở thành nguồn của cải vô tận

của con người, con người dựa vào đó để tạo nên của cải vật chất nuôi sống

mình. Đất đai luôn là thành phần quan trọng của môi trường sống. Không có

đất đai thì không có bất kỳ một ngành sản xuất nào, không một quá trình lao

động nào diễn ra và cũng không thể có sự tồn tại của xã hội loài người.

21

Trong số những điều kiện vật chất cần thiết cho hoạt động sản xuất và

đời sống con người, đất đai chiếm vị trí đặc biệt, là điều kiện đầu tiên và nền

tảng tự nhiên của bất kỳ quá trình sản xuất nào.

Các Mác cho rằng, đất đai là phòng thí nghiệm vĩ đại, là kho tàng cung

cấp các tư liệu lao động, vật chất, là vị trí để định cư, là nền tảng của tập thể.

Khi nói về vai trò và ý nghĩa của đất đai đối với nền sản xuất xã hội, Mác đã

khẳng định "Lao động không phải nguồn duy nhất sinh ra của cải vật chất và

giá trị tiêu thụ - như William Petty đã nói - Lao động chỉ là cha của của cải

vật chất, còn đất là mẹ". Chúng ta đều biết rằng không có đất đai thì không

thể có sản xuất, cũng như không tồn tại con người. Đất đai là sản phẩm tự

nhiên, xuất hiện trước con người. Đất đai tồn tại như một vật thể lịch sử - tự

nhiên không phụ thuộc vào hình thái kinh tế - xã hội [22, tr.164].

Đất đai là điều kiện vật chất chung nhất đối với mọi ngành sản xuất và

hoạt động của con người, vừa là đối tượng lao động vừa là phương tiện lao

động, tuy nhiên đất đai là một tư liệu sản xuất đặc biệt, nó khác với các tư liệu

sản xuất khác ở những đặc điểm sau:

- Đặc điểm tạo thành: Đất đai xuất hiện ngoài ý chí và nhận thức của

con người; là sản phẩm của tự nhiên, có trước lao động, là điều kiện tự nhiên

của lao động. Chỉ khi tham gia vào hoạt động sản xuất của xã hội, dưới tác

động của lao động đất đai mới trở thành tư liệu sản xuất. Trong khi đó các tư

liệu sản xuất khác là kết quả của lao động có trước của con người.

- Tính hạn chế về số lượng: Đất đai là tài nguyên hạn chế, diện tích đất

bị giới hạn bởi ranh giới đất liền. Các tư liệu sản xuất khác có thể tăng về số

lượng, chế tạo lại tùy theo nhu cầu của xã hội.

- Tính không đồng nhất: Đất đai không đồng nhất về chất lượng, giá trị

và mục đích sử dụng. Các tư liệu sản xuất khác có thể đồng nhất về chất

lượng, quy cách, tiêu chuẩn.

22

- Tính không thay thế: Thay thế đất đai bằng từ liệu sản xuất khác là

không thể thực hiện được. Các tư liệu sản xuất tùy thuộc vào mức độ phát

triển của lực lượng sản xuất có thể được thay thế bằng tư liệu sản xuất khác

hoàn thiện hơn, hiệu quả kinh tế cao hơn.

- Tính cố định vị trí: Đất đai hoàn toàn cố định vị trí trong quá trình sử

dụng, không thể di chuyển từ chỗ này sang chỗ khác. Các tư liệu sản xuất

khác được sử dụng ở mọi chỗ, mọi nơi, có thể di chuyển trên các khoảng cách

khác nhau tùy theo sự cần thiết.

- Tính vĩnh cửu: Đất đai là tư liệu sản xuất vĩnh cửu, nếu biết sử dụng

hợp lý thì có thể làm tăng tính chất sản xuất cũng như hiệu quả sử dụng đất.

Khả năng tăng tính sản xuất của đất tùy thuộc vào phương thức sử dụng là

tính chất có giá trị đặc biệt, không tư liệu sản xuất nào có được. Các tư liệu

sản xuất khác đều bị hư hỏng dần, hiệu ích sử dụng giảm và cuối cùng là bị

loại khỏi quá trình sản xuất.

Như vậy có thể nói "đất đai là một tư liệu sản xuất cực kỳ quan trọng.

Đất đai tham gia vào tất cả các ngành sản xuất vật chất của xã hội như là một

tư liệu sản xuất đặc biệt" [20, tr.12].

Muốn xây dựng nhà máy, trước hết phải có địa điểm, một diện tích đất

đai nhất định, trên đó sẽ là nơi xây dựng nhà xưởng để máy móc, thiết bị, kho

tàng, bến bãi, nhà làm việc, đường sá đi lại trong nội bộ,... tất cả những cái đó

là điều cần thiết trước tiên để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh.

Quỹ đất là toàn bộ diện tích đất đai các loại của một quốc gia, một vùng

hay địa phương của một loại đất theo mục đích sử dụng. Quỹ đất có thể được

tính cho toàn bộ hay cho một đầu người. Có thể xem xét cơ cấu quỹ đất các

loại đang sử dụng theo mục đích. Quỹ đất của một quốc gia hay địa phương

thường là cố định và việc tăng thêm thường rất hạn chế. Quỹ đất theo đầu

người thường có xu hướng giảm bớt, vì đất đai không được sản sinh ra thêm

23

trong khi dân số lại tăng lên. Quỹ đất đai của quốc gia là một nguồn lực tự

nhiên cần được bảo vệ, sử dụng một cách tiết kiệm và hiệu quả. Quỹ đất

đai được hình thành một cách tự nhiên gắn liền với quá trình hình thành đất

với một lịch sử lâu đời trong quá trình sử dụng đất của con người. Quỹ đất

cũng được phân bố một cách tự nhiên gắn liền với phân bố các vùng lãnh

thổ. Mặt khác, trong quá trình sử dụng đất do những nhu cầu sử dụng đất

khác nhau, quỹ đất cũng được hình thành bởi con người nhằm điều hòa và

bố trí lại đất đai theo mục đích sử dụng. Khi những nhu cầu về xây dựng cơ

sở hạ tầng, về phát triển các khu công nghiệp, đô thị tăng lên, con người có

thể điều chỉnh, giảm bớt diện tích của các quỹ đất khác như quỹ đất nông

nghiệp để tăng quỹ đất cho các loại nhu cầu trên. Sự thay đổi cơ cấu quỹ

đất trong tổng thể quỹ đất tự nhiên có ý nghĩa rất quan trọng, nói lên xu thế

phát triển của đất nước trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội, đồng thời

cũng thể hiện trình độ phát triển của khoa học kỹ thuật và ứng dụng chúng

vào sản xuất.

Thứ hai, nguồn lực đất đai với vai trò là nguồn lực tài chính.

Nguồn lực tài chính là khối lượng giá trị dưới hình thái tiền tệ trong

quá trình tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ, phản ánh các mối quan hệ kinh tế

xã hội trong quan hệ phân phối nhằm đáp ứng nhu cầu tích lũy và tiêu dùng

của các chủ thể trong xã hội. Như vậy, nguồn lực tài chính là phạm trù của

quan hệ phân phối, đó là sự phân phối bằng giá trị chứ không phải bằng hiện

vật và thông qua hiện vật [33, tr.21].

Nguồn lực tài chính được biểu hiện rất khác nhau, tùy theo nguồn gốc

hình thành mà chủ thể có thể thực hiện để có được các quỹ tiền tệ tập trung.

Thông qua các nguồn lực tài chính mà những chủ thể trong xã hội có được hệ

thống các quỹ tiền tệ tập trung vận động độc lập với các chức năng cất trữ hay

phương tiện thanh toán. Nguồn lực tài chính là sự vận động của tiền tệ.

24

Với cách hiểu như vậy, để hình thành nguồn lực tài chính hay các quỹ

tiền tệ vận động tập trung, các chủ thể trong xã hội có thể khai thác từ nhiều

nguồn lực khác nhau trong đó có nguồn lực từ đất đai.

Nguồn lực tài chính từ đất đai là nguồn lực tài chính được hình thành từ

nguồn lực đất đai thông qua quan hệ kinh tế giữa các chủ thể trong một xã hội

nhất định và chịu sự chi phối của quan hệ sở hữu của xã hội đó.

Tài chính và nguồn lực tài chính phản ánh mặt quan hệ giữa các chủ thể

trong xã hội cụ thể là biểu hiện của quan hệ phân phối, song vì đó là sự phân

phối giá trị cho nên quan hệ đó chỉ được thực hiện trong nền kinh tế hàng hóa.

Tuy nhiên, biểu hiện rõ nhất của mặt phân phối và thực hiện giá trị từ các

nguồn lực là trong nền kinh tế hàng hóa phát triển ở trình độ cao hay kinh tế

thị trường. Vì kinh tế thị trường mới có khả năng biến mọi nguồn lực trở

thành hàng hóa và biến các hàng hóa đó trở thành những biểu hiện của giá trị,

mặc dù có thể chúng không phải do lao động làm ra.

Với ý nghĩa như vậy, nguồn lực tài chính từ đất đai chỉ có thể được

hình thành và phát triển trong nền kinh tế thị trường, khi mà các quan hệ đất

đai được thị trường hóa. Tức là chúng có thể được mua bán và trao đổi trên

thị trường.

Về mặt nguyên lý, những gì không phải là sản phẩm của sự hao phí lao

động trừu tượng của con người tạo ra thì chúng không có giá trị. Tuy nhiên,

chúng lại có thể là phương tiện để thực hiện lợi ích của các chủ thể sở hữu

chúng. Với tư cách là phương tiện để thực hiện lợi ích thì chúng có vai trò

trong việc hình thành các quỹ tiền tệ tập trung và vì thế chúng góp phần hình

thành các nguồn lực tài chính. Đất đai là một trong những yếu tố có đặc trưng

như vậy.

Bản thân đất đai không là sản phẩm của lao động, vì thế theo cách hiểu

thông thường chúng không có giá trị. Tuy nhiên, đất đai lại là nguồn lực mang

25

tư cách là điều kiện quan trọng tham gia vào các quá trình tạo ra của cải cho

xã hội. Đất đai không phải là nguồn gốc tạo ra giá trị nhưng đất đai là điều

kiện tạo ra của cải. Khi khoác áo là điều kiện cho quá trình tạo ra của cải thì

người ta có thể thực hiện được lợi ích từ chúng. Miễn là phải làm thế nào để

sở hữu chúng mà thôi. Từ việc sở hữu đất đai, các chủ thể có thể đem đất đai

ra để trao đổi như những yếu tố sản xuất khác. Thông qua sự trao đổi đó, chủ

thể thực hiện được lợi ích của họ. Hay nói một cách khác, đất đai là điều kiện

để các chủ thể sở hữu thực hiện được nguồn thu nhập dưới dạng hình thái

tiền, các nguồn tiền tệ để hình thành các quỹ tiền tệ tập trung, đó là những

nguồn lực tài chính từ đất đai.

Về bản chất, nguồn lực tài chính từ đất đai phản ánh quan hệ phân phối

giá trị để hình thành các quỹ tiền tệ thông qua đất đai.

Với tư cách là một loại nguồn lực tài chính, nguồn lực tài chính từ đất

đai có tính chất đặc thù. Tính đặc thù đó thể hiện ở chỗ, nó phản ánh quan hệ

phân phối và sử dụng nguồn tài chính song quá trình phân phối và sử dụng

nguồn tài chính đó lại gắn liền với quyền sở hữu đất.

Đó là quan hệ phát sinh được hình thành trên cơ sở thực hiện lợi ích từ

quyền sở hữu đất. Mà việc thực hiện lợi ích từ quyền sở hữu đất như C.Mác

đã phân tích là thông qua các hình thức địa tô. Nhưng với tư cách là hình thái

biểu hiện của quan hệ tài chính thì địa tô đó phải là địa tô dưới hình thái tiền,

không phải là tô hiện vật hay tô lao dịch.

Vì phản ánh quan hệ phân phối nên nguồn lực tài chính mang tính lịch

sử. Nghĩa là xét về mặt hình thức, cơ chế thực hiện lợi ích kinh tế từ quan hệ

đất đai sẽ do quan hệ sở hữu của chế độ xã hội đó quyết định. Trong mỗi chế

độ xã hội với kiến trúc thượng tầng khác nhau sẽ quy định chế độ sở hữu đặc

trưng của xã hội đó.

Nếu đất đai thuộc quyền sở hữu của nhân dân và nhà nước của dân, do

dân đứng ra làm đại diện chủ sở hữu thì nguồn lực tài chính từ đất đai sẽ hình

26

thành và thực hiện trên cơ sở chế độ sở hữu tương ứng. Từ đó, quy định cách

thức sử dụng các quỹ tiền tệ tập trung hình thành từ nguồn lực đất đai. Trái

lại, nếu đất đai thuộc về sở hữu tư nhân thì mục đích sử dụng nguồn lực tài

chính từ đất đai chắc chắn không phải phục vụ cho số đông mà là chỉ là một

bộ phận trong xã hội.

Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, nguồn lực tài

chính từ đất đai phản ánh tính chất quá độ của quan hệ sản xuất của nước ta.

Quan hệ đất đai tập trung nhất trong quan hệ sở hữu và các quyền năng phát

sinh từ quyền sở hữu đó.

Tuỳ thuộc vào từng nước, đất đai có thể thuộc sở hữu riêng của từng

thành viên hoặc từng nhóm thành viên và có thể là sở hữu chung của tất cả

các thành viên trong cộng đồng quốc gia hoặc hỗn hợp cả hai hình thức sở

hữu trên. Ở hầu hết các nước tư bản, đất đai thuộc sở hữu tư nhân và sở hữu

Nhà nước. Ở Việt Nam đất đai thuộc sở hữu toàn dân.

Về mặt hình thức biểu hiện trên thực tế, nguồn lực tài chính từ đất đai

được hình thành thông qua các khoản thu tài chính liên quan đến đất của chủ

sở hữu đất đai với các chủ thể sử dụng đất. Có nhiều hình thức thu và huy

động nguồn lực tài chính từ đất đai, về cơ bản gồm các nguồn thu như: Thu

từ giao quyền sử dụng đất, cho thuê đất, góp vốn bằng quyền sử dụng đất, thu

từ các khoản thuế liên quan đến đất, có thể có hình thức đổi quyền sử dụng đất

lấy cơ sở hạ tầng.

Không giống với các nguồn lực tài chính khác, nguồn lực tài chính từ

đất đai có những đặc điểm riêng.

Một là, nguồn lực tài chính từ đất đai luôn gắn với quan hệ sở hữu đất đai.

Như trên đã chỉ ra, muốn đất đai đem lại lợi ích dưới hình thái tiền tệ

thì trước hết các chủ thể phải nắm quyền sở hữu đất đai. Việc sở hữu đó sẽ là

tiền đề phái sinh ra các quyền năng khác, giúp cho chủ thể sở hữu thực hiện

27

được lợi ích của mình. Quyền sở hữu là điều kiện cần để thực hiện được lợi

ích hay khai thác nguồn lực tài chính từ đất đai.

Khi quan hệ sở hữu được xác lập đối với đối tượng là đất đai, các chủ

thể sở hữu mới có cơ sở để thực hiện lợi ích của mình. Tất nhiên, quan hệ sở

hữu đó phải được thể chế hóa thành chế độ sở hữu về đất đai.

Phương tiện thực hiện các nguồn lực tài chính từ đất đai là các hình thái

địa tô. Trong chủ nghĩa tư bản, địa tô phản ánh chế độ sở hữu tư nhân về đất

đai của phương thức sản xuất đó.

Hai là, nguồn lực tài chính từ đất đai chỉ hình thành và được thực hiện

trong cơ chế kinh tế thị trường.

Trong nền kinh tế tự cung, tự cấp, ở đó trình độ lực lượng sản xuất còn

thấp, nên phân công lao động xã hội và chuyên môn hóa chưa sâu sắc, do đó

các quan hệ giá trị chưa trở thành phổ biến. Việc trao đổi giữa các thành viên

trong xã hội chủ yếu để thỏa mãn nhu cầu giá trị sử dụng. Hình thức thực hiện

lợi ích từ quyền sở hữu đất đai của các chủ thể thường gắn với hiện vật hơn là

giá trị. Trong khi nguồn lực tài chính từ đất đai lại biểu hiện dưới hình thái

của giá trị, hay dưới dạng tiền tệ. Hơn thế, nguồn lực đó phải không ngừng

vận động độc lập tương đối với các chức năng cất trữ và phương tiện thanh

toán của tiền tệ. Để có thể thực hiện được điều đó, cần một cơ chế kinh tế mà

trong đó mọi yếu tố đều có thể chuyển hóa thành hàng hóa bất luận chúng có

phải do hao phí lao động làm ra hay không. Cơ chế kinh tế thị trường đáp ứng

được yêu cầu đó.

Để có thể khai thác tốt nguồn lực tài chính từ đất đai, ngoài những nỗ lực

chủ quan của Thành phố còn có ảnh hưởng rất quan trọng của các nhân tố

khách quan. Những nhân tố khách quan đó là:

- Quy mô đất đai;

- Đặc điểm và cấu tạo tự nhiên, thổ nhưỡng, môi trường đất đai;

28

- Vị trí không gian địa lý của từng khu vực trên địa bàn Thành phố;

- Trình độ phát triển của nền kinh tế nói chung.

Ngoài những nhân tố khách quan nói trên, việc khai thác và sử dụng

nguồn lực tài chính từ đất đai trên địa bàn Thành phố Hà Nội còn chịu tác

động của nhân tố chính trị, xã hội. Trước hết, phải kể tới chủ trương, chính

sách của Thành phố về vấn đề này. Thứ nữa là nhân tố con người tham gia bộ

máy thực hiện huy động và sử dụng nguồn lực tài chính từ đất đai cho phát

triển kinh tế - xã hội.

Về mặt chủ trương, chính sách, tác động của nhân tố này đến việc

khai thác và sử dụng nguồn lực tài chính từ đất đai thể hiện ở khả năng tạo

điều kiện hay kìm chế tính hiệu quả của việc khai thác cũng như sử dụng

nguồn lực tài chính từ đất đai để phục vụ sự phát triển của Thủ đô. Khi chính

sách phù hợp với tình hình thực tế, tức là các chính sách thể hiện được sự vận

động của cuộc sống, thuận theo quy luật vận động của nền kinh tế thì đó

chính là cơ chế tốt cho việc khai thác nguồn lực tài chính từ đất đai. Hơn nữa,

các chính sách thể hiện sự vận dụng một cách sáng tạo chính sách về đất đai

của Nhà nước nói chung thì cũng là nhân tố tích cực giúp cho khả năng khai

thác nguồn lực tài chính từ đất đai hiệu quả hơn.

Chủ trương, chính sách sử dụng nguồn lực tài chính từ đất đai cũng có

tác động quan trọng đến việc sử dụng nguồn lực tài chính từ đất đai cho sự

phát triển của Hà Nội. Các chính sách sử dụng nguồn lực tài chính đảm bảo

tính chặt chẽ và minh bạch là nền tảng cho việc thực hiện chính sách trong

thực tế được hiệu quả. Khi các chính sách sử dụng nguồn lực tài chính thu

được thông qua đất đai không linh hoạt, kém chặt chẽ, thiếu minh bạch tất sẽ

tạo ra nhiều kẽ hở để gây ra tình trạng thất thoát lãng phí. Nghĩa là, việc sử

dụng nguồn lực tài chính từ đất đai sẽ không hiệu quả.

29

Nếu như chính sách là cơ sở pháp lý để thực hiện việc khai thác và sử

dụng nguồn lực tài chính từ đất đai thì tính hiệu quả của chính sách lại đòi hỏi

phải được thực hiện thông qua bộ máy hoạt động của các cơ quan chức năng

liên quan. Nghĩa là liên quan đến đội ngũ nhân sự thực hiện huy động và sử

dụng nguồn lực tài chính từ đất đai trên địa bàn Thành phố. Với ý nghĩa đó,

con người tham gia vào quá trình này có ý nghĩa quyết định đến việc huy

động và sử dụng nguồn lực tài chính từ đất đai trên địa bàn Hà Nội có đạt

hiệu quả cao hay không. Chính vì vậy, nhân tố chủ quan ảnh hưởng đến việc

khai thác và sử dụng nguồn lực tài chính từ đất đai trên địa bàn Thủ đô phải

tính tới không chỉ chủ trương, chính sách của Thành phố mà còn phải quan

tâm đến nhân tố con người.

1.2. Thực trạng huy động và sử dụng nguồn lực đất đai cho phát

triển làng nghề Thành phố Hà Nội

1.2.1. Một số đặc điểm tác động đến khả năng khai thác, sử dụng

nguồn lực đất đai cho phát triển làng nghề Thành phố Hà Nội

* Đặc điểm tự nhiên

Thứ nhất, vị trí địa lý và tự nhiên đẹp là điều kiện thuận lợi để Hà Nội

huy động và sử dụng nguồn lực đất đai cho phát triển các làng nghề.

Thành phố Hà Nội nằm ở trung tâm đồng bằng Bắc Bộ, giới hạn trong

khoảng từ 20o34' đến 21o23' vĩ độ Bắc; 105o17' đến 106o02' kinh độ Đông.

Diện tích tự nhiên 3.300 km2. Tiếp giáp với 8 tỉnh: Phía Bắc giáp tỉnh Thái

Nguyên; phía Đông Bắc giáp tỉnh Bắc Giang; phía Đông giáp tỉnh Bắc Ninh

và Hưng Yên; phía Nam giáp tỉnh Hà Nam; phía Tây Nam giáp tỉnh Hòa

Bình; phía Tây giáp tỉnh Phú Thọ; phía Tây Bắc giáp tỉnh Vĩnh Phúc.

Hiện nay Hà Nội được tổ chức thành 10 quận, 18 huyện và 1 thị xã:

- 10 quận gồm: Hoàn Kiếm, Ba Ðình, Ðống Ða, Hai Bà Trưng, Tây Hồ,

Thanh Xuân, Cầu Giấy, Long Biên, Hoàng Mai và Hà Đông.

30

- 1 thị xã: Sơn Tây.

- 18 huyện gồm: Ðông Anh, Sóc Sơn, Thanh Trì, Từ Liêm, Gia Lâm,

Ba Vì, Chương Mỹ, Đan Phượng, Hoài Đức, Mỹ Đức, Phú Xuyên, Phúc Thọ,

Quốc Oai, Thạch Thất, Thanh Oai, Thường Tín, Ứng Hòa và Mê Linh.

Dân tộc: (Kinh) chiếm 99,1%; các dân tộc khác: Chiếm 0,9%.

Thành phố Hà Nội là Thủ đô của nước ta có vị trí địa lý, kinh tế, chính

trị quan trọng và có ưu thế đặc biệt so với các địa phương khác. Hà Nội nằm ở

phía hữu ngạn sông Đà và hai bên sông Hồng, giữa vùng đồng bằng Bắc Bộ

trù phú và nổi tiếng từ lâu đời. Vị trí địa lý quan trọng và địa thế tự nhiên đẹp

đã tạo thuận lợi cho Hà Nội trở thành trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa,

khoa học và là đầu mối giao thông quan trọng của cả nước.

Thứ hai, các làng nghề về cơ bản gắn liền với nông thôn, nông nghiệp,

quỹ đất sau khi Hà Tây được sát nhập vào Thành phố có sự cải thiện đáng kể

là điều kiện thuận lợi để khai thác nguồn lực này cho phát triển làng nghề.

Theo số liệu của Cục Thống kê Hà Nội, tổng diện tích đất tự nhiên của

Hà Nội là 334.852,5 ha, trong đó: Đất nông, lâm nghiệp, thủy sản là

192.720,7 ha, chiếm 57,6%; đất phi nông nghiệp là 131.300,5 ha, chiếm

39,2%; đất chưa sử dụng là 10.831,3 ha, chiếm 3,2%.

Thứ ba, quỹ đất tuy có được cải thiện nhưng Hà Nội vẫn là địa phương

đất chật, người đông cùng với quá trình đô thị hóa với tốc độ nhanh đang gây

khó khăn lớn cho khai thác, sử dụng quỹ đất để phát triển các làng nghề.

Với dân số đến hết năm 2012 là gần 7 triệu người, Thành phố Hà Nội là

địa phương có mật độ dân số cao, bình quân 2.013 người/km2, cao gấp 1,7 lần

bình quân khu vực đồng bằng sông Hồng (1.300 người/km2) và gấp 8 lần bình

quân chung của cả nước (259 người/km2). Với tình trạng đất chật, người đông

như vậy cùng với xu hướng đô thị hóa và tình trạng di dân tự do từ các vùng

nông thôn ra đô thị vẫn đang tiếp diễn mạnh mẽ sẽ là khó khăn rất lớn cho

31

việc khai thác, sử dụng quĩ đất cho phát triển làng nghề của Thành phố Hà

Nội hiện nay và những năm tiếp theo.

* Đặc điểm kinh tế - xã hội

Thứ nhất, tốc độ tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nhanh tạo

điều kiện thuận lợi cho đầu tư, nâng cao giá trị sử dụng đất cho phát triển kinh

tế - xã hội nói chung và các làng nghề nói riêng.

Năm 2010, GDP Hà Nội là 73.478 tỷ đồng. Tốc độ tăng trưởng kinh tế

giai đoạn 2006 - 2010 của Hà Nội là 10,73%/năm. Nếu xét theo thứ tự về quy

mô GDP theo tỉnh, thành cả nước, Thủ đô Hà Nội đứng vị trí thứ hai sau

Thành phố Hồ Chí Minh. Năm 2005, theo giá hiện hành, GDP bình quân đầu

người của Hà Nội đạt 15,6 triệu đồng; đến năm 2010, GDP bình quân đầu

người của Hà Nội đạt khoảng 37,3 triệu đồng [37, tr.52].

Chuyển dịch cơ cấu kinh tế của Thành phố khá nhanh theo hướng dịch vụ -

công nghiệp, xây dựng - nông, lâm, thủy sản. Năm 2005, tỷ trọng cơ cấu kinh tế

của Thành phố đạt tương ứng như sau: 51,5% - 39,4% và 9,1%. Năm 2010, sự

chuyển dịch tương ứng như sau: 50,6% - 43,1% và 6,2% [37, tr.54]. Hà Nội là

một trong số ít địa phương có tỷ trọng dịch vụ cao hơn ngành công nghiệp.

Với tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, Hà Nội có tiềm năng lớn trong việc

đầu tư cơ sở hạ tầng, nâng cao giá trị sử dụng đất, khả năng khai thác quỹ đất

cho phát triển kinh tế - xã hội nói chung và cho phát triển làng nghề nói riêng.

Thành phố Hà Nội có kết cấu hạ tầng kỹ thuật được quy hoạch, đầu tư

xây dựng khá đồng bộ bao gồm hệ thống đường sắt, đường bộ, đường thủy và

đường không,... thuận lợi cho phát triển sản xuất công nghiệp - tiểu thủ công

nghiệp, giá trị sử dụng đất được nâng cao.

Tốc độ đô thị hoá của thành phố Hà Nội đạt khá cao trong giai đoạn

2001 - 2005 là 5,6%/năm và giảm xuống còn 2,96%/năm giai đoạn 2006-2009,

đưa tỷ lệ đô thị hóa của Hà Nội từ 33,2% năm 2000 lên 39,6% năm 2005 và đạt

32

40,8% năm 2009 [37, tr.55]. Đây là nhân tố ảnh hưởng lớn đến khả năng khai

thác quỹ đất cho phát triển làng nghề, đòi hỏi việc sử dụng quỹ đất phải hết sức

tiết kiệm và hiệu quả.

Thứ hai, Hà Nội có địa kinh tế, chính trị đặc biệt quan trọng vừa là thuận lợi

vừa là khó khăn cho việc huy động, sử dụng quỹ đất để phát triển các làng nghề.

Hà Nội là trung tâm kinh tế, chính trị của cả nước nên có sức hút di dân

cơ học đến rất cao, do vậy giá đất của thành phố Hà Nội rất cao so với các địa

phương lân cận. Đây là nhân tố có tác động hai mặt đến khả năng khai thác,

quản lý và sử dụng đất đai. Mặt tích cực là làm tăng nguồn tài chính trên một

đơn vị diện tích đất đai đưa vào khai thác; mặt khác gây khó khăn cho công

tác bồi thường, giải phóng mặt bằng, khó khăn trong công tác quản lý nhà

nước về đất đai, tình trạng mất ổn định xã hội do tranh chấp, khiếu nại tố cáo

liên quan đến đất đai.

Thứ ba, Hà Nội là đất trăm nghề với tốc độ phát triển nhanh vừa là điều

kiện thuận lợi vừa là áp lực lớn đáp ứng nhu cầu đất cho phát triển làng nghề.

Với 1.350 làng có nghề ở ngoại thành, các ngành nghề đã thu hút từ

30% đến 70% số hộ và từ 50 % đến 90% số lao động tham gia sản xuất nghề

với trên 300.000 lao động thường xuyên, chưa kể số lao động thu hút từ các

địa phương khác. Cơ cấu kinh tế các làng nghề có tỷ trọng công nghiệp và

dịch vụ trong GDP cũng chiếm từ 75% đến 85%. Theo đó, cơ cấu lao động ở

nông thôn ngoại thành chuyển dịch nhanh sang làm công nghiệp và dịch vụ. Quy

mô làng nghề ngày càng phát triển, số hộ tham gia sản xuất công nghiệp, tiểu thủ

công nghiệp, dịch vụ tăng, số hộ thuần nông giảm dần. Các huyện có nhiều hộ

sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp như Thanh Oai, Chương Mỹ, Hoài

Đức, Thường Tín từ 13.000 hộ đến 22.000 hộ. Giá trị xuất khẩu hàng thủ công

mỹ nghệ của các làng nghề ngày càng tăng, từ 95 triệu USD năm 2006 lên

104 triệu USD năm 2010; tốc độ tăng bình quân hàng năm từ 1,6% đến

33

2,8%/năm. Tình hình trên vừa là điều kiện thuận lợi vừa gây áp lực lớn về bảo

đảm quỹ đất cho phát triển các làng nghề.

1.2.2. Ưu điểm huy động và sử dụng nguồn lực đất đai cho phát triển

các làng nghề

* Ưu điểm trong khai thác quỹ đất với vai trò là tư liệu sản xuất để tạo

dựng mặt bằng sản xuất, xây dựng hạ tầng kỹ thuật cho phát triển làng nghề

Thứ nhất, diện tích đất ở được khai thác và sử dụng khá triệt để cho xây

dựng mặt bằng sản xuất, nhà kho… phục vụ phát triển làng nghề.

Do đặc trưng sản xuất tại các làng nghề theo hộ gia đình và quỹ đất ở

các làng nghề còn hạn chế nên diện tích đất ở của gia đình kết hợp sử dụng

làm nơi sản xuất đã được khai thác sử dụng tối đa. Nhu cầu mặt bằng cho sản

xuất ngày càng lớn, nên các hộ đã thu hẹp không gian sống để dành mặt bằng

cho sản xuất như: tại các làng nghề dệt may Tân Triều (Thanh Trì), Cổ Nhuế

(Từ Liêm), dệt kim La Phù (Hoài Đức), dệt lụa Vạn Phúc (Hà Đông)... nhiều

nhà ống cao tầng vừa là cơ sở sản xuất, vừa là nhà kho, hầu như không có

khoảng trống nào trong gia đình mà không được tận dụng để sản xuất. Với

cách khai thác, sử dụng triệt để diện tích đất ở làm mặt bằng sản xuất đã góp

phần làm giảm chi phí sản xuất, hạ giá thành, tăng cường khả năng cạnh tranh

của sản phẩm do các làng nghề Hà Nội sản xuất. Đó vừa là ưu điểm vừa là

đặc điểm nổi bật tạo nên nét văn hóa riêng và cũng là cơ sở để phát triển loại

hình du lịch làng nghề Hà Nội.

Thứ hai, Hà Nội đã tích cực, chủ động xây dựng quy hoạch dành quỹ

đất cho xây dựng các cụm công nghiệp làng nghề.

Với mục tiêu nhằm tạo dựng quỹ đất có đủ điều kiện cơ bản về hạ tầng

kỹ thuật, mở rộng mặt bằng sản xuất ở các làng nghề góp phần phát triển

nông thôn theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Từ năm 2001, Thành

phố Hà Nội đã tiến hành quy hoạch các cụm công nghiệp làng nghề trên địa

bàn và triển khai thực hiện.

34

Theo quy hoạch phát triển các cụm công nghiệp làng nghề trên địa bàn

Thành phố Hà Nội đến năm 2010, tầm nhìn đến năm 2020, Thành phố quy

hoạch phát triển 176 cụm công nghiệp làng nghề với tổng diện tích 1.295 ha,

bình quân 7,4 ha/cụm công nghiệp [37, tr.91].

Các cụm công nghiệp làng nghề phân bố tại hầu hết các làng nghề, làng có

nghề trên địa bàn Thành phố. Số lượng, diện tích quy hoạch các cụm công nghiệp

làng nghề cơ bản đáp ứng nhu cầu về mặt bằng sản xuất cho các làng nghề.

Như vậy Hà Nội đã chủ động, tích cực quy hoạch trước cả khi Chính phủ

ban hành Quyết định số 105/2009/QĐ-TTg ngày 19/8/2009 về Quy chế quản lý

cụm công nghiệp, loại hình cụm công nghiệp làng nghề là giải pháp vận dụng mô

hình các khu công nghiệp nhỏ trong việc tạo dựng kết cấu hạ tầng kỹ thuật, quỹ

đất để phát triển sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp tại các làng nghề, làng

có nghề phù hợp với tình hình phát triển thực tiễn tại từng địa phương.

Sau khi Chính phủ ban hành Quy chế quản lý cụm công nghiệp, Thành phố

Hà Nội đã ban hành Quyết định số 44/2010/QĐ-UBND ngày 10/9/2010 để thống

nhất quy chế quản lý cụm công nghiệp trên địa bàn Thành phố thay thế các quy

định trước đây. Đây là cơ sở pháp lý quan trọng cho việc đầu tư phát triển các cụm

công nghiệp làng nghề, tạo dựng quỹ đất để mở rộng sản xuất cho các hộ sản xuất

tại làng nghề; di dời các cơ sở sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp gây ô

nhiễm môi trường ra khỏi các khu dân cư; từng bước xây dựng, phát triển làng

nghề theo hướng công nghiệp, hiện đại.

Thứ ba, tích cực, chủ động ban hành các chính sách khuyến khích đầu tư vào

phát triển các cụm công nghiệp làng nghề là điều kiện để sử dụng có hiệu đất đai.

Bên cạnh các chính sách về xây dựng, quản lý hoạt động các cụm công

nghiệp làng nghề, Thành phố đã ban hành một số chính sách khuyến khích đầu tư

phát triển các cụm công nghiệp làng nghề như chính sách đấu thầu thực hiện dự

án, chính sách hỗ trợ đầu tư hạ tầng kỹ thuật ngoài hàng rào, kinh phí giải phóng

35

mặt bằng các cụm công nghiệp; chính sách giao đất dịch vụ cho các hộ dân bị thu

hồi đất, ưu tiên sử dụng lao động địa phương,... Các chính sách trên có tác động

thúc đẩy hoạt động đầu tư phát triển các cụm công nghiệp làng nghề cũng như

phát triển kinh tế - xã hội chung của các làng nghề.

Đến nay đã có 41 cụm công nghiệp làng nghề đã và đang xây dựng với

tổng diện tích 443 ha. Trong đó, huyện Thạch Thất 6 cụm với diện tích 66 ha;

Hoài Đức 7 cụm, diện tích 74 ha; Chương Mỹ 3 cụm, diện tích 21 ha.... Số dự

án của các doanh nghiệp, hộ sản xuất được cấp giấy phép tại các cụm công

nghiệp làng nghề là 5.870 dự án, bình quân 800m2/dự án. Số dự án của các

doanh nghiệp đã đi vào hoạt động 2000 dự án [29, tr.10].

Thứ tư, sử dụng quỹ đất cho xây dựng hạ tầng kỹ thuật làng nghề có sự

chuyển biến tích cực.

Do làm tốt công tác tuyên truyền vận động nhân dân và giải phóng mặt

bằng nên hệ thống quỹ đất dành cho giao thông nông thôn nói chung và giao

thông để phục vụ sản xuất kinh doanh, phát triển kinh tế - xã hội làng nghề

phát triển nhanh. Đường giao thông nông thôn từ Thành phố đến trung tâm

các xã và các làng nghề truyền thống đã được nâng cấp cải tạo. Theo số liệu

của Sở Giao thông vận tải Hà Nội, tổng chiều dài đường giao thông nông thôn

ngoại thành là 9.845,16 km, trong đó có 6.101,71 km đường liên thôn, liên xã

được rải nhựa, bê tông hoá chiếm 62%; một số huyện đường giao thông nông

thôn được bê tông hoá cao chiếm 90% là Đan Phượng, Sóc Sơn, Thường Tín,

Từ Liêm... Giao thông nông thôn phát triển đã tạo thuận lợi cho việc vận

chuyển nguyên vật liệu, lưu thông hàng hoá, phục vụ ngày càng tốt hơn cho

sản xuất kinh doanh và khách du lịch đến tham quan các làng nghề.

100% các thôn và 100% số hộ đã có điện từ điện lưới quốc gia. 70% -

75% dân số đã được dùng nước sạch trong sinh hoạt với 18 nhà máy nước và

hàng chục nghìn giếng khoan, đó cũng là kết quả của việc tích cực trong khai

thác, sử dụng quỹ đất cho phát triển làng nghề.

36

* Ưu điểm trong khai thác và sử dụng nguồn lực tài chính từ đất đai

cho phát triển làng nghề Hà Nội

Xuất phát từ thực tế của Hà Nội và những hình thức khai thác nguồn

lực tài chính từ đất đai có thể vận dụng trên địa bàn Thủ đô, những năm gần

đây, đặc biệt là kể từ khi có Luật sửa đổi Luật Đất đai được ban hành, Thành

phố Hà Nội đã huy động những nguồn lực tài chính đáng kể từ đất đai nhằm

góp phần vào nguồn ngân sách, phục vụ phát triển kinh tế - xã hội các làng

nghề của Thành phố.

Thứ nhất, khai thác có hiệu quả nguồn lực tài chính từ đất đai thông

qua hình thức thu tiền sử dụng đất.

Từ những quy định hiện hành của Nhà nước cũng như của Thành phố

Hà Nội về khai thác nguồn tài chính từ đất đai thông qua thu tiền sử dụng đất,

thực tiễn vận hành những quy định đó tại các làng nghề đã đem lại nguồn thu

đáng kể cho ngân sách. Tạo lập cơ sở cho cân đối ngân sách phục vụ sự

nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của các làng nghề.

Kết quả tiền sử dụng đất thu được tăng dần qua các năm. Nếu như năm

2005 mới chỉ đạt 762 tỷ, năm 2008 tăng lên 2.236 tỷ đồng, đến năm 2010 đạt

5.243 tỷ đồng; năm 2013 kế hoạch thu 10.670 tỷ đồng, kết quả thu 8 tháng

đầu năm đạt 5.553 tỷ, bằng 53% kế hoạch năm.

Mức tăng trên có nguyên nhân phần lớn là do sự điều chỉnh địa giới

hành chính Thành phố Hà Nội năm 2008 làm cho quỹ đất khai thác, sử dụng

với tư cách là nguồn lực tài chính được dồi dào hơn nhưng cũng thể hiện sự

khai thác hiệu quả nguồn lực này cho phát triển của các làng nghề. Kết quả

nguồn thu tăng là do Thành phố đã vận dụng một cách sáng tạo những quy

định chung của Nhà nước về thu tiền sử dụng đất trên địa bàn Hà Nội. Các

chính sách đã được tổ chức thực hiện hiệu quả với sự tham gia phối hợp của

các cơ quan chức năng theo ngành dọc và liên ngành. Từ đó, làm cho hiệu quả

37

thu tiền sử dụng đất tốt hơn, tăng lượng tiền đóng góp vào ngân sách; là cơ sở có

vai trò rất quan trọng cho việc huy động nguồn lực tài chính này cho phát triển các làng

nghề của Thành phố.

Như trên đã phân tích, số thu tiền sử dụng đất tăng nhanh trong các năm từ 2005

đến 2010 còn do từ sự gia tăng nguồn thu từ bán đấu giá quyền sử dụng đất và do sự điều

chỉnh địa giới hành chính làm tăng diện tích đất tư nhiên của Thành phố lên nhiều lần.

Mục đích đấu giá quyền sử dụng đất là nhằm sử dụng hợp lý hơn nguồn tài nguyên đất đai

tại các làng nghề của Thành phố. Hiện nay, quỹ đất chưa sử dụng hoặc không sử dụng

đúng mục đích còn nhiều song vẫn chưa khai thác triệt để nguồn thu, vì vậy việc đấu giá

quyền sử dụng đất là nhằm giúp cho các làng nghề khai thác được nguồn thu hiệu quả

hơn. Với quy định này, trải qua quá trình thực hiện trong thực tiễn đấu giá quyền sử dụng

đất đã mang lại nguồn thu không nhỏ cho các làng nghề, là một kênh quan trọng và

hữu hiệu để tăng thu tiền sử dụng đất.

Thứ hai, Hà Nội đã đạt được kết quả tích cực trong khai thác nguồn lực tài

chính từ đất đai thông qua hình thức thuế.

Dưới hình thức thuế, những năm gần đây, Thành phố Hà Nội đã đạt

được những kết quả tích cực trong việc khai thác nguồn thu từ đất đai. Quy

mô con số tuyệt đối nguồn thu thuế từ đất đai (trừ thuế sử dụng đất nông

nghiệp được miễn từ năm 2004) gia tăng hàng năm, bình quân giai đoạn

2000-2010 tăng bình quân hơn 16%/năm [38, tr.44]. Các hình thức thuế như:

thuế nhà đất, thuế chuyển quyền sử dụng đất được khai thác tốt, từ đó làm

tăng quy mô cho ngân sách Thành phố nói chung và các làng nghề nói riêng.

Từ năm 2012, Luật Thuế sử dụng đất phi nông nghiệp có hiệu lực sẽ tạo điều

kiện cho Thành phố tăng thêm đáng kể nguồn thu từ thuế sử dụng đất. Việc

tăng quy mô ngân sách thông qua gia tăng lượng thuế thu được một mặt, làm

cho khả năng chi phục vụ phát triển kinh tế - xã hội Thành phố cải thiện; mặt

khác cũng làm chuyển động trong ý thức của các chủ thể sử dụng đất một

cách hiệu quả hơn.

38

Thứ ba, đã phát huy tác động tích cực trong sử dụng nguồn lực tài

chính từ đất đai phục vụ phát triển hạ tầng làng nghề.

Cùng với các nguồn thu ngân sách khác, nguồn tài chính thu được từ

đất đai đã cho phép các làng nghề của Thành phố Hà Nội gia tăng quy mô đầu

tư phục vụ phát triển kinh tế - xã hội nói chung và cho phát triển sản xuất

công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp tại các làng nghề nói riêng. Việc sử dụng

nguồn lực tài chính từ đất đai trong những năm qua đang phát huy tác dụng

rất tốt vai trò đối với tăng trưởng kinh tế cũng như phát triển kết cấu hạ tầng

các làng nghề.

Thông qua những nguồn đầu tư cho các mục đích và chương trình cụ

thể, nguồn lực tài chính từ đất đai phát huy tác dụng tích cực, trực tiếp trong

nâng cao hiệu quả của chi đầu tư xây dựng cơ bản, chi cho phát triển hạ tầng

làng nghề và những mục tiêu đầu tư khác như đã được chứng minh ở vai trò

của các làng nghề với sự phát triển kinh tế - xã hội Thành phố Hà Nội.

1.2.3. Hạn chế trong huy động và sử dụng nguồn lực đất đai cho

phát triển các làng nghề Hà Nội

* Khai thác quỹ đất với vai trò là tư liệu sản xuất để tạo dựng mặt bằng sản

xuất, xây dựng hạ tầng kỹ thuật cho phát triển làng nghề còn nhiều hạn chế

Thứ nhất, tận dụng quỹ đất sinh hoạt, mặt bằng sản xuất chật hẹp nên ảnh

hưởng đến đời sống và hiệu quả sản xuất kinh doanh.

Tình trạng phổ biến nhất hiện nay là việc sử dụng luôn nhà ở làm nơi sản

xuất. Các cơ sở sản xuất lớn thường chỉ có lán làm bằng tre, lợp fibrô xi măng,

rơm rạ, lá mía, căng bạt… mang tính chất tạm bợ. Các bãi tập kết nguyên liệu,

kể cả các bãi, kho chứa hàng gần khu dân cư, tạm bợ, không đúng tiêu chuẩn

môi trường. Về nhà xưởng, ở các làng nghề chỉ có số ít, chiếm tỷ lệ từ 10% -

30% là nhà xưởng kiên cố, còn lại là bán kiên cố và tạm bợ. Hiện nay, diện tích

đất bình quân dành cho sản xuất của các làng nghề mới đáp ứng được 25% -

39

30% nhu cầu. Theo điều tra khảo sát ở một số làng nghề như La Phù (Hoài

Đức), Hữu Bằng (Thạch Thất)... có đến 70% số nhà xưởng không đáp ứng

yêu cầu sản xuất của các hộ. Vì vậy, nhu cầu về mặt bằng để phát triển mở

rộng sản xuất tại làng nghề là rất lớn như: làng nghề gốm sứ Bát Tràng, nhu

cầu về mặt bằng sản xuất của mỗi hộ là 500 m2 và các doanh nghiệp thuộc

làng nghề là 2000 m2, nhưng hiện nay chỉ đáp ứng khoảng 200 m2/hộ và 500

m2 - 700 m2/doanh nghiệp. Các làng nghề gỗ Liên Hà, Vân Hà nhu cầu diện

tích mặt bằng cũng rất lớn đòi hỏi diện tích gấp 3 lần. Các làng nghề La Phù

(Hoài Đức), dệt may Cổ Nhuế (Từ Liêm), Tân Triều (Thanh Trì) cần diện tích

gấp 4 lần phục vụ cho sản xuất kinh doanh. Điều đó cho thấy nhu cầu đất để

làm mặt bằng sản xuất tại các làng nhề rất lớn nhưng khả năng đáp ứng của

Thành phố lại rất có hạn.

Thứ hai, quy hoạch các cụm công nghiệp làng nghề còn dàn trải, nhỏ lẻ,

thiếu đồng bộ.

Trên thực tế, việc quy hoạch các cụm công nghiệp làng nghề có nhiều cụm

diện tích chỉ khoảng 1 ha/cụm. Với diện tích quá nhỏ như vậy nên chưa đáp ứng

nhu cầu phát triển của các làng nghề.

Tiến độ triển khai xây dựng cụm công nghiệp làng nghề chậm. Nhiều làng

nghề do nhu cầu bức xúc, các hộ dân đã tự phát lấn chiếm đất nông nghiệp, đất

chuyên dùng, đất hành lang đê điều để lấy mặt bằng sản xuất như làng nghề Hữu

Bằng (Thạch Thất), Liên Hà, Liên Trung, Tân Hội, Tân Lập (Đan Phượng), La

Phù (Hoài Đức) gây khó khăn trong quản lý trật tự an ninh xã hội.

Hầu hết các cụm công nghiệp làng nghề đều chưa xây dựng đồng bộ hạ

tầng kỹ thuật theo quy định, đặc biệt là hạng mục xử lý ô nhiễm môi trường,

đường giao thông nội bộ...

Thu hút đầu tư vào cụm công nghiệp làng nghề còn gặp nhiều khó

khăn. Do suất đầu tư xây dựng hạ tầng công nghiệp cao nên đấu giá quyền

40

thuê đất tại các cụm công nghiệp có giá từ 1 - 1,5 triệu đồng/m2 gây khó khăn,

trở ngại cho việc thu hút đầu tư.

Nhiều cụm công nghiệp do quỹ đất hạn chế, trong khi nhu cầu hộ sản

xuất làm nghề lớn nên diện tích đất bị chia nhỏ để cho thuê từ 150 m2 - 200

m2/hộ. Cùng với sự quản lý yếu kém của chính quyền, một số hộ dân được

thuê đất đã sử dụng đất sai mục đích nên chưa đáp ứng được mục tiêu, yêu

cầu xây dựng cụm công nghiệp làng nghề.

Mô hình, cơ chế đầu tư, xây dựng và quản lý hoạt động cụm công nghiệp

làng nghề chưa hiệu quả. Trên địa bàn Thành phố, việc triển khai xây dựng

cụm công nghiệp làng nghề do UBND huyện, xã làm chủ đầu tư nên khó khăn

huy động vốn, công tác quản lý cụm công nghiệp còn nhiều bất cập, hạn chế.

Thứ ba, đa số các làng nghề, đất dành xây dựng xây dựng hạ tầng kỹ thuật

làng nghề chưa nhiều.

Quỹ đất dành cho giao thông còn ít, các đường giao thông còn nhỏ,

chưa đáp ứng được nhu cầu sản xuất, lưu thông hàng hoá và đi lại của nhân

dân làng nghề. Tỷ lệ đường giao thông tốt trong đa số các làng nghề chỉ

chiếm trên dưới 20%. Mạng lưới điện ở làng nghề không đồng bộ, chất lượng

thấp, thiếu công suất phục vụ cho sản xuất nên thường xảy ra cháy, chập ảnh

hưởng đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của các làng nghề. Hệ thống cấp

nước sạch chưa đáp ứng được cả cho sinh hoạt và cho sản xuất. Chỉ có 60%

số hộ nông dân dùng nước sạch theo các hình thức nước giếng khoan, nước

mưa, nước giếng khơi, còn lại là dùng nước mặt ao hồ, sông, suối.

Do diện tích mặt bằng sản xuất chật hẹp nên các nhà xưởng tại làng

nghề không đảm bảo yêu cầu về an toàn trong sản xuất và phòng chống cháy

nổ. Đa số các cơ sở sản xuất tại làng nghề không có đất để xây dựng hệ thống

thoát và xử lý chất thải phù hợp gây ảnh hưởng đến môi trường...

Thứ tư, sử dụng đất không hợp lý cho sản xuất và sinh hoạt nên môi

trường làng nghề ô nhiêm nghiêm trọng.

41

Hầu hết các cơ sở sản xuất theo hộ đặt tại nhà và nằm trong khu dân cư

nên việc thu gom và xử lý chất thải rất khó khăn. Hệ thống cấp thoát nước

chưa đồng bộ, 80% số cơ sở sản xuất chưa có hệ thống xử lý nước thải làm

gia tăng ô nhiễm môi trường. Khai thác bừa bãi nên nguồn nước bị cạn kiệt.

Nước thải hầu như ít được xử lý gây ô nhiễm nước mặt và nước ngầm ngày

càng nghiêm trọng. Đặc biệt, trong những năm gần đây, quy mô sản xuất của

nhiều làng nghề tăng lên, áp dụng nhiều biện pháp công nghệ có sử dụng hóa

chất, thiết bị và nhiêu liệu… đã gây ô nhiễm nặng nề cho môi trường sống.

Hầu hết các làng nghề chưa đầu tư bất kỳ giải pháp nào để giảm thiểu ô

nhiễm không khí, tiếng ồn, nước thải, bụi, chất thải rắn, nước thải sản xuất

được thải chung với nước thải sinh hoạt của làng. Trong tổng số 41 cụm công

nghiệp làng nghề đang hoạt động mới chỉ có 02 cụm công nghiệp có xây dựng

hệ thống xử lý nước thải; 39 cụm công nghiệp làng nghề còn lại hoặc không

quy hoạch quỹ đất để xây dựng công trình xử lý nước thải, chất thải, hoặc có

quy hoạch nhưng chưa đầu tư xây dựng.

* Việc khai thác và sử dụng nguồn lực tài chính từ đất đai tại các làng

nghề trên địa bàn Hà Nội còn tồn tại nhiều yếu kém

Thứ nhất, vấn đề quy hoạch treo, dự án treo, giao đất không đúng mục

đích sử dụng vẫn còn tồn tại trong các làng nghề.

Đất đai nói chung là nguồn lực vô cùng quý giá, đối với Hà Nội nó còn

quý giá hơn nhiều lần so với các địa phương khác, vì vậy nó cần phải được sử

dụng hợp lý và hiệu quả nhất. Tuy nhiên, trong những năm vừa qua, do công tác

tổ chức quy hoạch, xây dựng quy hoạch sử dụng và khai thác nguồn lực đất đai

chưa tốt đã dẫn đến tồn tại hàng loạt các khu quy hoạch treo, đất đai không được

sử dụng đúng mục đích, giao đất cho những chủ thể sử dụng đất không đúng mục

đích, tình trạng đất công còn bị để hoang hoá rất nhiều.

Thứ hai, hoạt động quản lý sau đấu giá còn nhiều yếu kém dẫn đến

không thu được toàn bộ số tiền mà các đơn vị trúng đấu giá phải nộp. Đến

42

nay, địa phương có số tiền thu được từ hoạt động bán đấu giá quyền sử dụng

đất mới chỉ đạt nhiều nhất là 70%, thậm chí có những quận, huyện đạt rất thấp

chỉ khoảng 20% - 30%. Đấu giá quyền sử dụng đất tại các làng nghề của

Thành phố cũng nằm trong tình trạng chung như trên.

Thứ ba, khai thác nguồn lực tài chính từ đất đai thông qua hình thức

thu tiền cho thuê đất.

Trong số các nguồn tài chính có thể huy động được từ đất đai tại các

làng nghề trên địa bàn Hà Nội, thì hình thức thu từ tiền cho thuê đất có số thu

thấp hơn cả; giai đoạn từ năm 2000 đến năm 2010, nguồn thu này chiếm chưa

đến 1% tổng nguồn thu từ đất đai [38, tr.24]. Một mặt, các hộ sản xuất tại

làng nghề đang sử dụng nơi ở làm mặt bằng sản xuất nên không thu được tiền

thuê đất mặt bằng sản xuất. Mặt khác, tiến độ xây dựng các cụm công nghiệp

làng nghề để cho các hộ sản xuất thuê đất, mở rộng mặt bằng sản xuất còn

chậm, quỹ đất còn hạn chế; các hộ thuê đất tại các cụm công nghiệp đã đi vào

hoạt động hầu hết đang trong giai đoạn được hưởng chính sách ưu đãi tiền

thuê đất nên nguồn thu này trong những năm qua còn rất hạn chế. Tuy nhiên,

về mặt con số tuyệt đối và xu hướng vận động của nguồn thu thì vẫn cho thấy

số thu tuyệt đối gia tăng hàng năm.

Thứ ba, việc sử dụng tiền thu được từ bán đấu giá quyền sử dụng đất

cũng chưa thật sự minh bạch. Hiện nay, theo quy định của Thủ tướng Chính

phủ và của Uỷ ban nhân dân Thành phố Hà Nội, số tiền thu được từ bán đấu

giá quyền sử dụng đất được nộp vào ngân sách và sử dụng phục vụ đầu tư cơ

sở hạ tầng và các dự án đầu tư khác. Thực tế sử dụng nguồn tài chính từ đất

đai tại các làng nghề thời gian qua cho thấy tỷ trọng đầu tư phát triển các công

trình hạ tầng kỹ thuật phục vụ trực tiếp cho phát triển sản xuất tại các làng

nghề còn thấp, giai đoạn 2005 - 2010 chỉ chiếm bình quân 15% - 20%. Đặc

biệt là đầu tư cho công tác bảo vệ môi trường tại các làng nghề chưa được

43

quan tâm thỏa đáng. Hầu hết các làng nghề chưa được đầu tư hoặc đầu tư

chưa đồng bộ các công trình xử lý ô nhiễm môi trường đảm bảo tiêu chuẩn

theo qui định.

1.2.4. Nguyên nhân hạn chế và những vấn đề đặt ra

* Nguyên nhân khách quan

Một là, quỹ đất của Hà Nội hiện nay không thật dồi dào.

Theo số liệu thống kê của Thành phố, như trên đã nói, điện tích đất

chưa sử dụng của Hà Nội chỉ còn 3,2%; diện tích đất nông nghiệp, lâm

nghiệp, thủy sản là 57,6%. Nhưng đó là diện tích đất rất hạn chế chuyển đổi

mục đích sử dụng vì liên quan đến vấn đề an ninh lương thực và bảo đảm mở

rộng không gian đô thị và các yêu cầu khác trong phát triển kinh tế - xã hội,

quốc phòng, an ninh của Thủ đô. Hơn nữa các làng nghề ở Thủ đô thường gắn

liền với nông thôn, nông nghiệp, nơi đất chật, người đông đã làm hạn chế việc

huy động nguồn lực đất đai cho phát triển các làng nghề.

Thứ hai, giá đất Hà Nội cao hơn so với các địa phương khác trong nước.

Giá đất cao vừa là điều kiện thuận lợi thông qua đấu giá quyền sử

dụng đất huy động nguồn lực tài chính đáng kể cho đầu tư phát triển các làng

nghề. Đồng thời, đất đai với tư cách là tư liệu sản xuất, một yếu tố trong tính

toán chi phí giá thành sản phẩm của các làng nghề nên giá đất cao sẽ làm cho

giá thành sản phẩn làng nghề cao, giảm lợi nhuận của người sản xuất, khả

năng cạnh tranh của sản phẩm thấp, đến lượt nó làm cảm trở việc huy động,

sử dụng nguồn lực đất đai cho phát triển làng nghề.

Thứ ba, do tác động của khủng hoảng tài chính, suy giảm kinh tế thế

giới từ năm 2008 và khủng hoảng bất động sản trong nước từ năm 2011.

Cuộc khùng hoảng tài chính, suy giảm kinh tế thế giới đã tác động đến

nền sản suất trong nước nói chung và các làng nghề Hà Nội nói riêng làm cho

sản phẩm đầu ra của các làng nghề khó tiêu thụ, sản xuất đình đốn. Đồng thời,

44

cuộc khủng hoảng bất động sản làm cho nguồn thu từ đấu giá quyền sử dụng

đất đang bị sụt giảm và chưa thấy có dấu hiệu phục hồi rõ rệt. Đây là một

nguyên nhân làm cho nguồn lực đất đai được huy động cho phát triển các làng

nghề trững lại.

* Nguyên nhân chủ quan

Thứ nhất, công tác quy hoạch phát triển các làng nghề và theo đó là

nguồn lực đất đai cho nó phát triển còn nhiều bất cập.

Về cơ bản, các làng nghề đều tập trung tại các huyện ngoại thành

của Thành phố, trước tháng 8/2008 là các địa phương thuộc tỉnh Hà Tây

cũ. Và như trên đã phân tích hầu hết các cụm công nghiệp làng nghề đều

được tỉnh Hà Tây quy hoạch từ năm 2001 nên khi trở thành Thủ đô, việc

quy hoạch này đã không còn nhiều phù hợp với quy hoạch phát triển Kinh

tế - xã hội, quốc phòng, an ninh chung của Hà Nội, đòi hỏi phải điều

chỉnh, bổ sung, hoàn thiện quy hoạch. Hơn nữa, bản thân cán bộ, cơ quan

làm công tác quy hoạch cũng chưa dự báo được tương lai phát triển chung

cho sự phát triển của các làng nghề là gì nên làm cho nhiều quy hoạch

tính khả thi không cao.

Thứ hai, luật pháp, cơ chế, chính sách của Nhà nước nói chung và Hà

Nội nói riêng, trong đó có những nội dung liên quan đến huy động và sử dụng

nguồn lực đất đai cho phát triển các làng nghề còn nhiều bất cập, đang trong

quá trình xây dựng, điều chỉnh, bổ sung, hoàn thiện.

Đất đai là vấn đề nhạy cảm liên quan đến tất cả mọi người, mọi thành

phần kinh tế, với nhiều quyền năng khác nhau như quyền sở hữu, quyền sử

dụng, quyền thừa kế, thế chấp, cho thuê… vốn đã phức tạp, trong khi đó Luật

đất đai lại đang trong quá trình sửa đổi… đây cũng là nguyên nhân dẫn đến việc

huy động và sử dụng đất đai cho phát triển các làng nghề còn gặp trở ngại.

45

Thứ ba, do các quận, huyện được Thành phố giao cho tổ chức đấu giá

nhưng chậm hoàn chỉnh hạ tầng kỹ thuật khu đất để bàn giao cho các tổ chức,

cá nhân trúng giá nên chưa thu đủ tiền thu đấu giá quyền sử dụng đất.

Thứ tư, nguyên nhân chính do hầu hết các hộ sản xuất tại làng nghề

đang sử dụng nơi ở làm mặt bằng sản xuất nên không thu được tiền thuê đất

mặt bằng sản xuất và thiếu vốn cho sản xuất kinh doanh.

Thứ năm, tiến độ xây dựng các cụm công nghiệp làng nghề để cho các hộ

sản xuất thuê đất, mở rộng mặt bằng sản xuất còn chậm, quỹ đất còn hạn chế.

Thứ sáu, công tác quản lý và những giải pháp bảo đảm quỹ đất cho bảo

vệ môi trường làng nghề chưa được quan tâm đúng mức.

Chính quyền địa phương chưa có ý thức về tuyên truyền và chỉ đạo

nhân dân thực hiện về bảo vệ môi trường. Chưa có cán bộ chuyên môn về môi

trường tại cơ sở nên việc quản lý bảo vệ môi trường hạn chế.

Ý thức bảo vệ môi trường của người dân và các đơn vị sản xuất tại làng

nghề còn kém. Người lao động chưa tự bảo vệ mình trong quá trình sản xuất

như chưa có trang bị bảo hộ lao động… Do ô nhiễm môi trường ở các làng

nghề đã xuất hiện nhiều loại bệnh như các bệnh tiêu hóa và mắt chiếm 37%,

bệnh hô hấp 20%, bệnh ngoài da 31% và các bệnh khác như các bệnh tai, mũi

họng, thần kinh...

* Những vấn đề đặt ra hiện nay với việc huy động và sử dụng nguồn

lực đất đai cho phát triển các làng nghề ở Hà Nội

Từ thực trạng huy động, sử dụng đất đai cũng như nguyên nhân hạn chế

của việc này cho phát triển các làng nghề ở Hà Nội, chúng tôi thấy có một số

mâu thuẫn sau:

Một là, mâu thuẫn giữa nhu cầu sử sụng đất lớn với quỹ đất không

nhiều tại các làng nghề. Mâu thuẫn này đặt ra yêu cầu phải khai thác hiệu quả

nguồn lực tài chính từ đất đai để đầu tư lại cho phát triển làng nghề, nâng cao

46

chất lượng sản phẩm, tính cạnh tranh và hiệu quả sản xuất kinh doanh của các

làng nghề.

Hai là, mâu thuẫn giữa giá đất cao với lợi nhuận sản xuất kinh doanh

của các làng nghề có xu hướng giảm. Mâu thuẫn này đặt ra yêu cầu phải khai

thác hiệu quả nguồn lực tài chính từ đất đai để đầu tư lại cho phát triển làng

nghề, nâng cao chất lượng sản phẩm, tính cạnh tranh và hiệu quả sản xuất

kinh doanh của các làng nghề.

Ba là, mâu thuẫn giữa yêu cầu huy động, sử dụng đất cho phát triển các

làng nghề với cơ chế, chính sách hiện hành lạc hậu chưa theo kịp thực tiễn

đang trói buộc nó. Mâu thuẫn này đặt ra yêu cầu phải tăng cường sự lãnh đạo

của Đảng; nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước.

Bốn là, mâu thuẫn giữa yêu cầu phát triển làng nghề theo hướng văn

minh, hiện đại với truyền thống sản xuất kinh doanh nhỏ lẻ, văn hóa truyền

thống của các làng nghề đặt ra yêu cầu phải phát triển các cụm công nghiệp

làng nghề tập trung để tăng quĩ đất về mặt bằng, qui mô sản xuất, giải quyết

tình trạng ô nhiễm môi trường tại các làng nghề.

*

* *

Đất đai là nguồn tài nguyên vô cùng quý giá, là nguồn lực quan trọng

để sản xuất, phát triển kinh tế - xã hội nói chung và phát triển làng nghề nói

riêng. Đất đai là cũng là tài nguyên có hạn về số lượng nên cần được quản lý,

khai thác và sử dụng một cách chặt chẽ, tiết kiệm và hiệu quả. Vai trò của các

làng nghề rất to lớn trong phát triển kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng, an

ninh, xây dựng nông thôn mới Hà Nội văn minh, hiện đại. Vì vậy, để phát

triển các làng nghề Thành phố Hà Nội cần phải huy động và sử dụng có hiệu

quả nhiều nguồn lực, trong đó đất đai là nguồn lực có vai trò, ý nghĩa đặc biệt

47

quan trọng. Đó là tư liệu sản xuất, nguồn lực tài chính, vốn để các làng nghề

phát triển.

Thực trạng khai thác, quản lý và sử dụng đất đai cho phát triển làng nghề

thời gian qua cho thấy, Hà Nội chưa thực sự khai thác hết tiềm năng; công tác

quản lý, sử dụng đất chưa thực sự hiệu quả gây ảnh hưởng không nhỏ đến khả

năng phát triển bền vững các làng nghề của Thành phố trong tương lai.

Trên cơ sở phân tích, đánh giá thực trạng khai thác, quản lý và sử

dụng nguồn lực đất đai cho phát triển làng nghề của Thành phố cả thành

tựu, hạn chế, nguyên nhân và những vấn đề đặt ra đòi hỏi phải có quan

điểm và giải pháp phù hợp để khai thác, quản lý và sử dụng hiệu quả

nguồn lực đất đai cho phát triển làng nghề của Thành phố Hà Nội trong

thời gian tới.

48

Chương 2

QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP KHAI THÁC, SỬ DỤNG HIỆU QUẢ

NGUỒN LỰC ĐẤT ĐAI CHO PHÁT TRIỂN LÀNG NGHỀ

THÀNH PHỐ HÀ NỘI TRONG THỜI GIAN TỚI

2.1. Quan điểm khai thác, sử dụng có hiệu quả nguồn lực đất đai

cho phát triển làng nghề ở Hà Nội

2.1.1. Quy hoạch sử dụng đất cho phát triển làng nghề phải phù hợp

với qui hoạch phát triển nghề, làng nghề và quy hoạch tổng thể phát triển

kinh tế - xã hội của Thủ đô

Quan điểm sử dụng đất phải phù hợp với quy hoạch được xác định là

quan điểm cơ bản, có tính nguyên tắc trong việc khai thác, sử dụng đất đai

cho phát triển làng nghề. Nước ta hiện nay đang xây dựng nền kinh tế thị

trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhà nước quản lý nền kinh tế tuân thủ

các quy luật của thị trường, đồng thời quản lý bằng pháp luật, chiến lược, quy

hoạch, kế hoạch và bằng lực lượng vật chất. Điều 11, Luật Đất đai năm 2003

đã qui định rõ: "Việc sử dụng đất phải đảm bảo nguyên tắc đúng quy hoạch

hoạch sử dụng đất và đúng mục đích sử dụng đất".

Sử dụng đất đai, đúng quy hoạch, kế hoạch sẽ khắc phục được sự quy

hoạch treo khá phổ biến ở nước ta và Hà Nội hiện nay. Mặt khác, trong khi

quỹ đất của Hà Nội không nhiều, không chỉ sử dụng nó đáp ứng yêu cầu phát

triển hiện tại mà còn phải bảo đảm cho Thủ đô phát triển trong tương lai. Vì

vậy, việc sử dụng đất đúng pháp luật, đúng quy hoạch sẽ khắc phục được sự

lãng phí, tiết kiệm, nâng cao hiệu quả sử dụng tư liệu sản xuất đặc biệt quan

trọng này.

Sử dụng đất đúng quy hoạch sẽ góp phần khắc phục sản xuất manh

mún, nhỏ lẻ, giúp cho sản xuất kinh doanh của các làng nghề Thủ đô phát

triển theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đồng thời bảo đảm sự phát

49

triển bền vững các làng nghề, khắc phục ô nhiễm môi trường, nâng cao chất

lượng cuộc sống của nhân dân các làng nghề.

Quán triệt quan điểm phát triển trên, quy hoạch sử dụng đất cho phát

triển làng nghề Thành phố Hà Nội phải đáp ứng các yêu cầu:

Thứ nhất, đổi mới, nâng cao tính liên kết, đồng bộ giữa quy hoạch, kế

hoạch sử dụng đất với quy hoạch, kế hoạch phát triển nghề, làng nghề theo

hướng quy hoạch sử dụng đất phải tổng hợp, cân đối, phân bổ hợp lý; sử dụng

hiệu quả đất đai. Quy hoạch phát triển nghề, làng nghề phải thực hiện đúng

các chỉ tiêu, tiến độ sử dụng đất được phân bổ trong quy hoạch, kế hoạch sử

dụng đất.

Thứ hai, quy hoạch sử dụng đất phải đáp ứng được và phù hợp với

quan điểm, định hướng phát triển kinh tế - xã hội nói chung và phát triển

nghề, làng nghề Thành phố nói riêng như sau:

Về mục tiêu phát triển:

Nghị quyết Đại hội Đảng Bộ thành phố Hà Nội lần thứ XV khẳng định:

“Phấn đấu hoàn thành trước từ 1 - 2 năm những mục tiêu, nhiệm vụ cơ bản về

công nghiệp hóa, hiện đại hóa Thủ đô, góp phần cùng cả nước để đến năm

2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại” và

“Củng cố phát triển sản xuất tiểu thủ công nghiệp, bảo tồn, phát triển các làng

nghề truyền thống gắn với phát triển du lịch, xuất khẩu”.

Về định hướng phát triển:

Phát triển nghề, làng nghề theo hướng sản xuất hàng hóa phù hợp với

nhu cầu và các nguyên tắc thị trường, trên cơ sở phát huy thế mạnh của mỗi

vùng, mỗi địa phương là một vấn đề hết sức quan trọng, có ý nghĩa quyết định

tới tính hiệu quả, khả năng cạnh tranh và tính bền vững của sản xuất trong

làng nghề. Với tinh thần đó, mỗi làng nghề, mỗi địa phương cần tập trung

phát triển những ngành nghề, những sản phẩm mà mình có thế mạnh.

50

Hiện đại hoá làng nghề truyền thống là từng bước đổi mới trang thiết

bị, lựa chọn, ứng dụng rộng rãi những công nghệ kĩ thuật tiến bộ, phù hợp vào

quy trình sản xuất, nhưng phải đảm bảo nguyên tắc kết hợp chặt chẽ với công

nghệ truyền thống, để vừa đảm bảo nâng cao năng suất lao động và chất

lượng sản phẩm, vừa đảm bảo tính chất truyền thống và giá trị của các loại

sản phẩm đặc thù.

Cùng với những mục tiêu kinh tế, văn hoá, xã hội, việc đảm bảo môi

trường phải được coi là mục tiêu quan trọng của phát triển làng nghề. Nói

cách khác, quá trình phát triển nghề, làng nghề ở Hà Nội không thể tách rời

vấn đề môi trường, mà phải đặt nó trong sự phát triển tổng thể, coi đó là một

yếu tố quan trọng của sự phát triển bền vững đối với nông thôn nói chung và

làng nghề nói riêng.

Phát triển nghề, làng nghề phải gắn với chủ động hội nhập kinh tế quốc

tế và đẩy mạnh xuất khẩu. Đồng thời, việc kết hợp giữa Nhà nước và nhân

dân là phương thức tốt nhất để phát huy tốt các nguồn lực, tạo những động lực

mạnh mẽ cho sự phát triển hiệu quả và bền vững của làng nghề trên địa bàn

Thủ đô.

Phát triển nghề, làng nghề Hà Nội gắn liền với quy hoạch phát triển

kinh tế - xã hội của Thủ đô với quy hoạch phát triển nông nghiệp và nông

thôn, quy hoạch phát triển nghề, làng nghề trong vùng kinh tế trọng điểm Bắc

Bộ, cả nước và các quy hoạch có liên quan nhằm chuyển dịch cơ cấu kinh tế

nông thôn theo hướng CNH, HĐH; đồng thời gắn với sự phát triển làng nghề

chung cả nước. Thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, giải quyết việc làm tại

chỗ, nâng cao thu nhập cho người dân, xoá đói giảm nghèo ở khu vực nông

thôn theo phương châm “ly nông bất ly hương”, phù hợp với chủ trương

chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngoại thành theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại

hóa. Phát triển làng nghề Hà Nội cần gắn liền với khôi phục, bảo tồn và phát

51

triển ngành nghề truyền thống, trong đó ưu tiên tập trung phát triển các nghề,

làng nghề truyền thống, có giá trị văn hóa, lịch sử, thu hút du lịch và đạt giá

trị kinh tế cao, ổn định thị trường tiêu thụ và đảm bảo an toàn về môi trường

sinh thái. Hạn chế và không khuyến khích phát triển các nghề, làng nghề gây

ô nhiễm môi trường, hiệu quả kinh tế - xã hội đạt thấp.

2.1.2. Khai thác, sử dụng nguồn lực đất đai cho phát triển làng nghề

trên địa bàn Hà Nội phải đảm bảo tiết kiệm, hiệu quả và phát triển bền

vững của làng nghề.

Đất đai là nguồn tài nguyên quý và có hạn, nhưng nhu cầu sử dụng của

con người là vô hạn. Vì vậy, đất đai cần phải được sử dụng tiết kiệm và có

hiệu quả. Điều 11, Luật Đất đai năm 2003 đã qui định rõ: "Việc sử dụng đất

đai phải đảm bảo nguyên tắc tiết kiệm, có hiệu quả, bảo vệ môi trường và

không làm tổn hại đến lợi ích chính đáng của người sử dụng đất xung quanh".

Sử dụng tiết kiệm và hiệu quả đất đai cho phát triển các làng nghề thể

hiện quan điểm ứng xử với loại tài nguyên, tư liệu sản xuất, nguồn lực đặc

biệt quan trọng này. Tuy nhiên, hiệu quả sử dụng tiết kiệm và hiệu quả đất đai

cho phát triển các làng nghề còn phải bảo đảm sự phát triển bền vững của các

làng nghề về kinh tế, xã hội và môi trường. Vì phát triển bền vững với thế

giới nói chung và Việt Nam cũng như các làng nghề Hà Nội vừa là yêu cầu

khách quan vừa là đòi hỏi cấp bách hiện nay. Thực tế vừa qua, việc huy động

và sử dụng đất đai cho phát triển các làng nghề ở Hà Nội chưa thực sự hiệu

quả, thất thoát, lãng phí, ô nhiễm môi trường. Mặt khác, đất đai là nguồn lực

tài nguyên có hạn, không thể sử dụng một cách bừa bãi, lãng phí. Vì vậy, sử

dụng tiết kiệm đất đai là một yêu cầu đặc biệt quan trọng trong Chiến lược

phát triển kinh tế - xã hội của Thủ đô và phải được thể chế hoá thành các quy

định cụ thể của Thành phố về khai thác, quản lý và sử dụng nguồn lực đất đai

bằng các biện pháp quản lý hành chính và kinh tế; trong đó phải coi trọng và

ngày càng phải tăng cường các biện pháp quản lý kinh tế.

52

Khai thác sử dụng đất tiết kiệm, hợp lý và có hiệu quả cho các mục đích

sử dụng; lấy việc bảo vệ, sử dụng đất tiết kiệm, chuyển đổi hợp lý đất đai đem

lại hiệu quả kinh tế cao là nhiệm vụ quan trọng nhằm đáp ứng yêu cầu phát

triển kinh tế - xã hội.

Sử dụng quỹ đất hợp lý, tiết kiệm, hiệu quả và bền vững, khai thác triệt

để tiềm năng đất đai, tiềm năng con người và lợi thế tự nhiên. Khai thác sử

dụng đất đi đôi với cải tạo, bồi bổ, làm giàu quỹ đất, gắn lợi ích kinh tế với

bảo vệ môi trường đất, cảnh quan thiên nhiên.

Quan điểm khai thác, sử dụng đất cho phát triển làng nghề phải đảm

bảo tiết kiệm, hiệu quả và phát triển bền vững được xác định là quan điểm

trung tâm, là cơ sở, điều kiện để hoạch định các chính sách về đất đai cho

phát triển làng nghề của Thành phố Hà Nội. Để thực hiện quan điểm này cần

thực hiện tốt một số yêu cầu:

Thứ nhất, về qui hoạch, kế hoạch sử dụng đất.

Việc bố trí kế hoạch sử dụng đất để phát triển nghề, làng nghề một

cách bền vững, bảo đảm môi trường sinh thái, xây dựng hạ tầng kỹ thuật...

là hết sức cần thiết. Vì vậy công tác quy hoạch, xây dựng và phát triển các

cụm công nghiệp làng nghề cần được coi trọng và ưu tiên thực hiện nhằm:

Đáp ứng mặt bằng phục vụ cho mở rộng sản xuất, đầu tư công nghệ mới,

di dời các doanh nghiệp, các cơ sở sản xuất gây ô nhiễm môi trường; xử

lý ô nhiễm môi trường do trong quá trình sản xuất có rất nhiều công đoạn

có nguy cơ gây ô nhiễm môi trường nếu không được xử lý đúng kỹ thuật;

bảo đảm dành quỹ đất cho phát triển TTCN và làng nghề theo đúng quy

hoạch đảm bảo cho công nghiệp nông thôn phát triển bền vững; phát triển

các ngành nghề sẵn có của địa phương và mở rộng nhân cấy nghề mới, ít

gây ô nhiễm môi trường.

53

Xây dựng quy hoạch sử dụng đất cho phát triển làng nghề đảm bảo

đúng mục đích có hiệu quả, ưu tiên mặt bằng cho các ngành nghề có hướng

phát triển, hiệu quả cao, thu hút nhiều lao động.

Xây dựng quy hoạch sử dụng đất cho phát triển làng nghề gắn với xây

dựng quy hoạch nông thôn mới theo Đề án Xây dựng Nông thôn mới Thành

phố Hà Nội giai đoạn 2010 - 2020, định hướng đến năm 2030.

Thứ hai, sử dụng nguồn tài chính từ đất đai cho phát triển làng nghề

phải theo hướng ưu tiên đầu tư cho các công trình hạ tầng kỹ thuật phục vụ

trực tiếp cho phát triển làng nghề, đặc biệt là công trình xử lý ô nhiễm môi

trường để phát triển làng nghề theo hướng bền vững, tạo tiền đề tăng thu ngân

sách tái đầu tư cho các công trình hạ tầng kinh tế - xã hội của địa phương.

Thứ ba, Thành phố cần có hệ thống đồng bộ các giải pháp nhằm giải

quyết hài hòa mối quan hệ giữa phát triển kinh tế, giải quyết các vấn đề xã

hội, môi trường trong quá trình huy động, sử dụng đất đai cho phát triển nghề,

làng nghề của Hà Nội.

2.1.3. Khai thác và sử dụng nguồn lực đất đai phải đảm bảo hài hòa

mối quan hệ lợi ích của chủ thể sở hữu đất đai với những người sử dụng

đất đai và phải đảm bảo thực hiện theo cơ chế thị trường

Theo qui định của pháp luật, đất đai ở nước ta thuộc sở hữu toàn dân và

là nguồn tài nguyên có hạn do Nhà nước là đại diện chủ sở hữu. Nhà nước

thực hiện quyền chủ sở hữu thông qua việc quyết định quy hoạch, kế hoạch sử

dụng đất. Nhà nước giao quyền sử dụng ổn định lâu dài cho các tổ chức kinh

tế, đơn vị lực lượng vũ trang, cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị xã hội, hộ

gia đình, cá nhân nhằm tăng cường quyền và trách nhiệm của các tổ chức, cá

nhân được giao đất; đồng thời giải quyết tốt mối quan hệ giữa Nhà nước

(người đại diện chủ sở hữu và thực hiện chức năng quản lý xã hội) với người

sử dụng đất (các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân).

54

Ở khía cạnh khác, đất đai là vấn đề nhạy cảm liên quan đến lợi ích của

Nhà nước, của mọi tổ chức và cá nhân được giao quyền sử dụng. Vì vậy, nếu

giải quyết hài hòa các lợi ích của các chủ thể liên quan sẽ trở thành động lực

cho phép khai thác và sử dụng có hiệu quả nguồn lực này để phát triển các

làng nghề. Ngược lại, nếu giải quyết không tốt vấn đề lợi ích liên quan tới đất

không những triệt tiêu hoặc làm giảm động lực phát triển mà còn để lại hậu

quả nặng nề về mặt xã hội, gây mất an ninh trật tự tại các làng nghề. Trên

thực tế, những năm gần đây, ở nước ta nói chung và các làng nghề Thủ đô Hà

Nội nói riêng, những cuộc khiếu kiện đông người hầu hết đều liên quan đến

vấn đề đất đai. Những cuộc khiếu kiện này có nguyên nhân cơ bản là từ giải

quyết không tốt mối quan hệ lợi ích giữa các chủ thể liên quan tới đất đai. Để

thực hiện được quan điểm này cần thực hiện tốt một số nội dung sau:

Thứ nhất, phải bảo đảm lợi ích của Nhà nước người đại diện chủ sở

hữu đất đai.

Nhà nước thông qua hệ thống cơ chế, chính sách, quy hoạch, kế hoạch

sử dụng đất, cho phép chuyển đổi mục đích sử dụng đất và quy định thời hạn

sử dụng đất; quyết định giá đất; quyết định điều tiết phần giá trị tăng thêm từ

đất không phải do người sử dụng đất tạo ra; trao quyền thu hồi đất và giao đất

để sử dụng đất vào mục đích quốc phòng, an ninh, phục vụ lợi ích quốc gia,

lợi ích công cộng và các dự án phát triển kinh tế - xã hội theo quy định của

pháp luật.

Thứ hai, phải đảm bảo lợi ích của người sử dụng đất.

Người sử dụng đất được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, công nhận

quyền sử dụng đất để sử dụng ổn định lâu dài hoặc có thời hạn và có các

quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho,

thế chấp, góp vốn bằng quyền sử dụng đất và được bồi thường khi Nhà nước

thu hồi đất, tùy theo từng loại đất và nguồn gốc sử dụng đất theo quy định của

55

pháp luật. Giá đất phải phù hợp với giá thị trường, phải được thỏa thuận một

cách khách quan, công bằng, không áp đặt chủ quan làm thiệt hại đến lợi ích

của các chủ thể sử dụng đất.

Việc bồi thường hỗ trợ tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất phải đảm

bảo dân chủ, công khai, khách quan, công bằng và đúng pháp luật. Người sử

dụng đất phải được bồi thường theo mục đích đất đang sử dụng, phải được

đào tạo nghề, tạo việc làm, tổ chức lại sản xuất và bảo đảm đời sống nhân dân

ở khu vực có đất bị thu hồi.

Thứ ba, đất đai phải được coi là một loại hàng hoá đặc biệt, giá cả đất

đai phải được vận động theo cơ chế thị trường.

Nhà nước với tư cách là đại diện chủ sở hữu về đất đai, là chủ thể quyết

định giá đất. Tuy nhiên đất đai cũng là một loại hàng hóa và lại là hàng hóa

đặc biệt, do đó trong cơ chế chung của kinh tế thị trường, việc định giá đất

của Nhà nước phải đảm bảo theo nguyên tắc của thị trường, tức là phải thực

hiện theo quy luật cung - cầu, đảm bảo sự chuyển nhượng bình thường, công

khai, minh bạch, đồng thời đảm bảo sự quản lý vĩ mô của Nhà nước.

Trong quá trình triển khai Luật Đất đai hiện hành, việc thực hiện

nguyên tắc quy định tại Điều 56 là: "Sát với giá chuyển nhượng quyền sử

dụng đất thực tế trên thị trường trong điều kiện bình thường; khi có chênh

lệch lớn so với giá chuyển nhượng quyền sử dụng đất thực tế trên thị trường

thì phải điều chỉnh cho phù hợp" gặp nhiều khó khăn, vướng mắc. Trong

nhiều trường hợp "thị trường" chỉ xuất hiện sau khi có sự xuất hiện, can thiệp

của Nhà nước như công bố quy hoạch, dự án, thu hồi đất,... do đó giá đất

trước và sau khi công bố dự án có sự chênh lệch rất lớn và rất khó xác định

chính xác, khó áp dụng trong thực tế.

Vì vậy, về nguyên tắc, giá đất phải do Nhà nước xác định và theo

nguyên tắc thị trường có sự quản lý của Nhà nước để đảm bảo vai trò chủ

56

động của Nhà nước trong việc hình thành và điều tiết thị trường. Tuy nhiên,

sự tác động của thị trường cũng như sự quản lý của Nhà nước đối với từng

loại đất khác nhau để đảm bảo tính khả thi cần thể hiện cụ thể nguyên tắc trên

đối với từng loại đất, từng mục đích dự án khác nhau.

2.1.4. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong công tác sử dụng đất

đai cho phát triển làng nghề trên địa bàn Thủ đô Hà Nội

Sự lãnh đạo của Đảng với đường lối phát triển kinh tế - xã hội cùng

những chủ trương đúng đắn, là cơ sở để Nhà nước, Ủy ban nhân dân Thành

phố Hà Nội ban hành cơ chế, chính sách phù hợp trong việc huy động và sử

dụng có hiệu quả đất đai cho phát triển các làng nghề. Mọi sự xa rời sự

lãnh đạo của Đảng, không trên cơ sở chính sách, pháp luật của Nhà nước

về đất đai đều dẫn đến sự thất thoát, lãng phí nguồn lực đặc biệt quan trọng

này; đất đai không được giao đúng đối tượng, sử dụng không đúng mục

đích, tham ô, tham nhũng là nguyên nhân của những khiếu kiện đông người

ở nhiều địa phương trong nước cũng như Hà Nội.

Trong những năm qua, mặc dù được Thành ủy, HĐND, UBND

Thành phố đã quan tâm chỉ đạo trong việc tăng cường công tác quản lý

Nhà nước về đất đai. Việc khai thác, sử dụng đất hợp lý, hiệu quả góp phần

quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của Thành phố. Tuy

nhiên, đất đai là tài sản đặc biệt, các quan hệ đất đai hết sức nhạy cảm và

phức tạp. Vì vậy, chính sách đất đai ngày càng cần được hoàn thiện để phù

hợp với tình hình mới. Mặt khác, nhận thức trong nhân dân về quyền sở

hữu đất đai không giống nhau đã dẫn đến khó khăn trong công tác quản lý,

sử dụng đất.

Việc chuyển đổi đất sản xuất nông nghiệp để phục vụ cho mục đích

phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, xây dựng kết cấu hạ tầng làng

nghề cần được quan tâm, chỉ đạo quyết liệt, giải quyết hài hòa giữa yêu cầu

57

CNH, HĐH từ nay đến năm 2020 với việc giữ diện tích đất lúa đảm bảo an

ninh lương thực lâu dài.

Thời gian các tổ chức kinh tế lập dự án đầu tư và lập hồ sơ đất đai thực

hiện chậm đã làm ảnh hưởng đến kết quả thực hiện các chỉ tiêu kế hoạch sử

dụng đất hàng năm. Một số hạng mục công trình đã có trong chỉ tiêu kế hoạch

sử dụng đất hàng năm nhưng cơ quan chủ đầu tư chưa lập xong dự án và hồ

sơ đất đai, vì vậy trong năm đó không thực hiện được chỉ tiêu kế hoạch sử

dụng đất đã được phê duyệt và phải chuyển sang năm sau.

Một số tổ chức, cá nhân chưa thực sự coi trọng hiệu quả sử dụng đất đã

dẫn đến sử dụng đất sai mục đích, gây lãng phí đất, vi phạm quy hoạch được

phê duyệt. Trong quá trình sử dụng đất một số tổ chức, doanh nghiệp còn coi

nhẹ việc bảo vệ cảnh quan môi trường dẫn đến ô nhiễm đất, hủy hoại đất.

Nguyên nhân của những vấn đề tồn tại nêu trên là ở một số địa

phương công tác quản lý đất đai vẫn còn buông lỏng và chính sách quản lý

còn nhiều bất cập; nhận thức về chính sách đất đai trong nhân dân không

đồng đều, ý thức của người sử dụng đất chưa cao, chưa chấp hành nghiêm

pháp luật đất đai.

Do vậy, cần tiếp tục tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến chủ

chương đường lối của Đảng, Nhà nước, của Thành phố về vai trò, ý nghĩa

của sự phát triển nghề, làng nghề, về việc sử dụng đất tiết kiệm, hiệu quả,

đúng quy định của pháp luật để cán bộ, đảng viên, nhân dân hiểu, tạo sự

đồng thuận của toàn xã hội, thống nhất về nhận thức và hành động.

Để thực hiện được quan điểm này đảng bộ, chính quyền địa phương, và

các cơ quan quản lý nhà nước về đất đai, làng nghề từ cấp cơ sở đến Thành

phố cần tập trung giải quyết một số nội dung yêu cầu cụ thể như sau:

- Các cấp ủy đảng và chính quyền địa phương cần đặc biệt quan tâm

lãnh đạo, chỉ đạo việc huy động và sử dụng có hiệu quả đất đai cho phát triển

58

kinh tế - xã hội địa phương nói chung và làng nghề nói riêng. Cần có các nghị

quyết chuyên đề, chương trình, kế hoạch cụ thể để lãnh đạo, chỉ đạo cho sát,

cho phù hợp với pháp luật, chính sách cũng như thực tiễn của địa phương;

điều căn bản là chủ trương, chính sách phải làm cơ sở cho việc giải quyết hài

hòa các lợi ích của các chủ thể liên quan tới đất đai.

- Tiếp tục đổi mới công tác giáo dục chính trị, tư tưởng cả về nội dung,

hình thức, phương pháp, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác giáo dục

chính trị, tư tưởng, tạo bước chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức của cán bộ,

đảng viên làm công tác quản lý nhà nước đối với việc sử dụng đất đai, phát

triển nghề, làng nghề của Thành phố. Xây dựng các quy chế, quy định về xử

lý, kiểm điểm trách nhiệm những trường hợp vi phạm chủ trương, nghị quyết

của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, suy thoái về đạo đức, lối sống

và các biểu hiện tiêu cực khác liên quan tới đất đai.

- Tăng cường công tác quản lý cán bộ, hoàn thiện các quy chế quản lý

cán bộ, phân công, phân cấp quản lý cán bộ, giao trách nhiệm rõ ràng, đề cao

trách nhiệm quản lý cán bộ từ chi bộ, tổ chức cơ sở Đảng trong từng cơ quan

nhất là những cán bộ trực tiếp hoặc liên quan đến quản lý, sử dụng đất đai.

- Đẩy mạnh việc thực hiện cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm

gương đạo đức Hồ Chí Minh" tạo chuyển biến mạnh về nhận thức trách

nhiệm và hành động của mỗi cán bộ, đảng viên làm công tác quản lý nhà

nước đối với quản lý, sử dụng đất đai tại các làng nghề.

- Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát; tích cực đấu tranh phòng

chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực. Phát huy vai trò của các cấp ủy Đảng

trong công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật, kết hợp chặt chẽ giữa xây và

chống, mục đích để chủ động phòng ngừa vi phạm, khuyết điểm ngay từ

lúc mới manh nha, khi phát hiện vi phạm phải xử lý nghiêm minh để ngăn

ngừa, giáo dục.

59

2.2. Giải pháp sử dụng hiệu quả nguồn lực đất đai cho phát triển

làng nghề ở Thủ đô Hà Nội

2.2.1. Hoàn thiện quy hoạch tổng thể đất đai, quy hoạch phát triển

làng nghề gắn với phát triển kinh tế - xã hội, bảo vệ môi trường và đầu tư

cơ sở hạ tầng trong các làng nghề

Việc lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đai có một ý nghĩa đặc biệt

quan trọng nhằm định hướng cho các cấp, các ngành lập quy hoạch sử dụng

đất chi tiết; là cơ sở pháp lý cho công tác quản lý nhà nước về đất đai, làm căn

cứ cho việc giao đất, cho thuê đất... và đáp ứng các nhu cầu phát triển kinh tế

- xã hội, an ninh, quốc phòng. Đồng thời, việc lập quy hoạch, kế hoạch sử

dụng đất là một biện pháp hữu hiệu của Nhà nước nhằm sử dụng đất hợp lý,

hiệu quả, từng bước ngăn chặn huỷ hoại đất, hạn chế lãng phí đất đai, phá vỡ

cân bằng môi trường sinh thái.

Để khai thác tốt nguồn lực đất đai nhất thiết Thành phố phải nắm chắc

được thông tin tổng thể về nguồn lực đất đai của mình. Từ đó có cơ sở để

hoạch định các chính sách khai thác nguồn lực đất đai một cách hợp lý và

hiệu quả nhất. Đặc biệt, trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại

hóa Thủ đô Hà Nội, kéo theo đó là quá trình đô thị hóa ngày càng mạnh mẽ

nên có sự thay đổi lớn về cơ cấu đất đai. Đất nông nghiệp tiếp tục thu hẹp

diện tích để chuyển đổi thành đất chuyên dùng (cho phát triển công nghiệp,

giao thông, dịch vụ, du lịch,…) và đất ở đô thị. Muốn khai thác được nguồn

lực đất đai hiệu quả nhất thì thông tin về sự biến động đất đai theo tiến trình

tăng trưởng và phát triển kinh tế Thủ đô cần phải được cập nhật và cụ thể hóa.

Để làm được điều đó nhất thiết công tác quy hoạch phải đi trước một bước và

phải tiến hành thật hiệu quả.

Quy hoạch phát triển nghề, làng nghề Thành phố Hà Nội đến năm 2020,

tầm nhìn đến năm 2030 là cần thiết, cấp bách, phân tích đánh giá đúng tiềm

60

năng, nguồn lực của Thành phố để xây dựng các quan điểm, định hướng mục

tiêu phát triển cho từng giai đoạn, là căn cứ khoa học và thực tiễn để có chiến

lược và quy hoạch cụ thể nhằm bảo tồn, phát huy những giá trị văn hóa truyền

thống, đồng thời phát triển nghề, làng nghề theo hướng hiện đại. Trên cơ sở đó

xây dựng kế hoạch hàng năm, 5 năm về phát triển nghề, làng nghề, đồng thời là

cơ sở giúp cho các cấp, các ngành, các địa phương có kế hoạch, giải pháp, hành

động cụ thể, ban hành các cơ chế, chính sách phù hợp khuyến khích nghề, làng

nghề phát triển sâu rộng, bền vững, tạo việc làm, nâng cao chất lượng cuộc

sống của người dân khu vực nông thôn, bảo tồn phát huy giá trị văn hoá của

các làng nghề truyền thống.

Quy hoạch đất đai trong làng nghề truyền thống phải đồng bộ với quy

hoạch kết cấu hạ tầng của địa phương. Xây dựng quy hoạch sử dụng đất cho

phát triển làng nghề gắn với xây dựng quy hoạch nông thôn mới theo Đề án

Xây dựng Nông thôn mới Thành phố Hà Nội giai đoạn 2010 - 2020, định

hướng đến năm 2030. Quy hoạch, đầu tư xây dựng hạ tầng kỹ thuật, bố trí

quỹ đất đấu giá tạo nguồn thu cho ngân sách đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng

kỹ thuật của làng nghề.

Quy hoạch sử dụng đất cho phát triển làng nghề cần ưu tiên bố trí quỹ

đất đáp ứng đủ nhu cầu phát triển cho nhóm các ngành nghề, làng nghề được

ưu tiên, khuyến khích phát triển hoặc các ngành nghề cần di dời khỏi các khu

dân cư để khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường như:

- Nhóm các làng nghề, ngành nghề có giá trị truyền thống, văn hóa, có

khả năng mở rộng thị trường gắn liền với truyền thống văn hóa của từng vùng

miền, từng địa phương và của cả Thành phố, gồm: Thủ công mỹ nghề truyền

thống như nghề sơn mài, khảm trai; chạm, điêu khắc đá, kim loại, gỗ, xương,

sừng; dát vàng, bạc quý; làm giấy, in tranh dân gian; nghề mây tre giang đan,

tăm hương, làm lồng chim; đồ gỗ cao cấp; làm nón, mũ; nghề dệt lụa, the,

đũi; nghề thêu ren; ngành nghề gốm sứ.

61

- Nhóm các làng nghề, ngành nghề khuyến khích, hỗ trợ phát triển theo

hướng tham gia sản xuất ra các sản phẩm phụ trợ phục vụ cho sản xuất công

nghiệp, bao gồm các ngành nghề: Dệt may, sản xuất các sản phẩm phụ trợ

phục vụ cho may xuất khẩu như khuy, mex, vải lót và các sản phẩm phụ khác;

cơ kim khí, điện.

Quy hoạch quỹ đất xây dựng các cụm công nghiệp làng nghề phù hợp

với quy mô phát triển hiện tại của các làng nghề gây ô nhiễm môi trường

nghiêm trọng, không được khuyến khích mở rộng và phát triển nhưng trong

giai đoạn trước mắt vẫn cho phép tồn tại để đảm bảo đời sống, an sinh xã hội

cho nhân dân làng nghề nhưng phải di dời sản xuất ra khỏi khu dân cư đến nơi

sản xuất tập trung đủ điều kiện xử lý ô nhiễm môi trường đảm bảo đạt tiêu

chuẩn theo quy định, gồm:

- Các nghề, làng nghề tập trung sản xuất, chế biến nông sản thực phẩm

và tái chế cơ kim khí đó là những làng nghề gây ô nhiễm môi trường nghiêm

trọng, đến nay chưa có biện pháp xử lý đã ảnh hưởng đến đời sống vật chất và

tinh thần của nhân dân. Các làng nghề chế biến nông sản thực phẩm đặc biệt là

sản xuất tinh bột sắn, dong riềng đã ô nhiễm không khí bởi các chất SO2, NO2,

H2S, NH3, NH4… gây mùi tanh, hôi, khó chịu. Gây ô nhiễm nước thải nhất là

các làng nghề Cát Quế, Dương Liễu, Minh Khai ở Hoài Đức, nước thải lên tới

5.500 - 7.000 m3/ngày, hàm lượng các chất ô nhiễm trong nước thải cao là

COD, BOD5, SS, tổng NP vượt TCVN đến 100 lần.

- Làng nghề tái chế kim loại ở xã Thanh Thùy (Thanh Oai) đã làm

nhiễm không khí bao gồm các chất SO2, CO, NO, phát sinh khí độc như axit,

kiềm, oxit kim loại (PbO, ZnO, Al2O3). Nước thải sản xuất chứa nhiều hóa

chất độc hại như kim loại nặng (Zn, Fe, Cr, dầu mỡ công nghiệp…) lớn hơn

1,5 - 10 lần TCVN.

- Những làng nghề nằm trong vành đai xanh và các khu đô thị vệ tinh

của Thành phố Hà Nội (khu đô thị Sơn Tây, Hoà Lạc, Xuân Mai, Phú Xuyên,

62

Sóc Sơn) trước mắt tiếp tục cho tồn tại nhưng hạn chế phát triển; cần lập dự

án quy hoạch làng nghề để làng nghề phát triển phù hợp với phát triển đô thị

chung của Thành phố hoặc chuyển đổi nghề để hạn chế sự ảnh hưởng đến quá

trình phát triển đô thị.

Các biện pháp trên đây đòi hỏi không thể thiếu sự quy hoạch quỹ đất

gắn với quy hoạch phát triển nghề, làng nghề. Phát triển không tuân thủ

nghiêm ngặt quy hoạch, hoặc quy hoạch không bám sát thực tiễn cũng như

hướng phát triển chung của nghề, làng nghề đều dẫn tới quy hoạch treo, gây

lãng phí, thất thoát đất đai.

2.3.2. Đầu tư xây dựng, phát triển mô hình cụm sản xuất tập trung

tại các làng nghề

Trong xu hướng mở cửa và hội nhập, mục tiêu của làng nghề truyền

thống là dần dần CNH, HĐH, áp dụng công nghệ mới vào sản xuất và thích

ứng với những thay đổi của nền kinh tế hiện đại. Vì vậy, quy mô sản xuất của

làng nghề sẽ ngày càng lớn, đòi hỏi phải có quy hoạch tổng thể và đồng bộ

mà nòng cốt là xây dựng, phát triển các cụm xuất công nghiệp tập trung.

Việc hình thành các cụm sản xuất tập trung tại các vùng, làng nghề là

một giải pháp quan trọng để tổ chức lại các nghề theo hướng từng bước hiện

đại hoá, khai thác triệt để tiềm năng và thế mạnh của nghề truyền thống, tạo

điều kiện thực hiện chuyển dịch lao động từ nông nghiệp sang công nghiệp và

dịch vụ ngành nghề, nhằm thực hiện yêu cầu và mục tiêu của công nghiệp hoá

hiện đại hoá nông thôn.

Phát triển các cụm công nghiệp làng nghề sẽ góp phần tạo mặt bằng cho

các cơ sở và các tổ chức dịch vụ, cho phép tạo khả năng phát triển sản xuất và

dịch vụ với quy mô lớn hơn, tốc độ cao hơn; mặt khác, đảm bảo sự phát triển

này không gây những ảnh hưởng bất lợi đối với đời sống và môi trường sống

của dân cư làng nghề và các vùng lân cận. Tập trung hoá nhằm tạo cơ sở nâng

63

cao sự phân công và hợp tác sản xuất giữa các cơ sở sản xuất với nhau, giữa

các cơ sở sản xuất với các cơ sở dịch vụ. Tạo điều kiện đầu tư đổi mới công

nghệ và tiếp cận trình độ tiên tiến về kỹ thuật, công nghệ và quản lý; tăng

cường cơ sở vật chất, cơ sở hạ tầng ngày càng hiện đại ở trong và ngoài cụm,

khu sản xuất như hệ thống đường giao thông, điện, cấp thoát nước và các hoạt

động dịch vụ khác; đồng thời cho phép xây dựng, trang bị cơ sở và phương

tiện xử lý chất thải tập trung và các biện pháp bảo vệ môi trường; thúc đẩy

quá trình đô thị hoá nông thôn. Phát triển khu sản xuất tập trung của làng

nghề là hình thức làm đổi mới bộ mặt nông thôn, thu hẹp khoảng cách giữa

nông thôn và thành thị.

Các cụm sản xuất tập trung không phải sẽ được thành lập ở tất cả các

làng nghề. Nó phụ thuộc vào điều kiện hình thành, các yếu tố phát triển và các

mục tiêu mà nó đáp ứng. Trước mắt những vùng, làng nghề có khả năng

thành lập khu sản xuất tập trung là những làng nghề có sức sản xuất lớn, tốc

độ tăng trưởng nhanh, sản phẩm thích ứng với nhu cầu thị trường, có nhu cầu

và điều kiện đổi mới công nghệ, có thị trường ổn định, đặc biệt là nơi gây ảnh

hưởng tới môi trường sinh thái và đời sống sức khoẻ của người dân v.v…Việc

thành lập khu sản xuất tập trung trên cơ sở đảm bảo nguyên tắc và những căn

cứ khoa học xác đáng sẽ có tác dụng thúc đẩy sản xuất phát triển, tạo điều

kiện tích luỹ để thực hiện tái sản xuất mở rộng, từng bước hiện đại hoá trong

ngành CN-TTCN, đảm bảo sự thích ứng với điều kiện hiện đại của nền kinh

tế thị trường.

Thực hiện khảo sát quy hoạch, thiết kế xây dựng dựa trên quy hoạch

tổng thể cũng như các điều kiện và khả năng phát triển của từng làng nghề,

từng địa phương, đảm bảo tính hợp lý về quy mô, tốc độ phát triển và mô

hình hoạt động. Tính hợp lý ở đây được đảm bảo không chỉ cho những năm

trước mắt mà phải cho khoảng thời gian tương đối dài. Nghĩa là việc quy

64

hoạch, thiết kế có tính chất mở, để có thể cải biến cho thích hợp, phù hợp với

sự thay đổi của thị trường.

Xây dựng tốt và đồng bộ kết cấu hạ tầng, đây là một trong những điều

kiện quan trọng nhất để các khu sản xuất tập trung phát triển có hiệu quả.

Trước hết, cần phải giải quyết khâu quan trọng đầu tiên là nhựa hoá đường

giao thông, nối liền từ khu sản xuất tập trung của làng nghề tới thị trấn,

huyện, Thành phố và các trung tâm thương mại, tạo sự giao lưu thông suốt

trong việc vận chuyển và trao đổi hàng hoá. Xây dựng hệ thống điện, cấp

thoát nước, các hệ thống dich vụ như tài chính, ngân hàng tín dụng, bưu chính

viễn thông v.v… tạo cho các khu này gần với sơ sở dịch vụ và không cách xa

khu dân cư.

Về nguồn vốn: trước mắt cần phát huy nguồn vốn nội lực của các cơ sở,

các doanh nghiệp tham gia hoạt động trong khu sản xuất tập trung, cùng với

sự hỗ trợ của Nhà nước và các cấp chính quyền địa phương. Huy động các

thành phần kinh tế, đặc biệt là thành phần kinh tế tư nhân trong việc góp vốn,

tạo cơ sở vật chất ban đầu. Có thể góp vốn theo từng giai đoạn khác nhau.

Điều kiện của đầu tư có thể được tính theo hai cách: (1) Những người góp vốn

đầu tư sẽ được tham gia sản xuất kinh doanh trong khu sản xuất tập trung đó,

và (2) Những người góp vốn nếu không tham gia sản xuất kinh doanh ở đó sẽ

được hoàn trả có hưởng lãi khi các khu sản xuất đó đi vào hoạt động.

Về tổ chức quản lý: Thành lập ban quản lý khu sản xuất với chức năng

nhiệm vụ giải quyết các vấn đề chung của toàn khu vực như bảo vệ môi

trường, quản lý các công trình công cộng, đảm bảo an ninh v.v…Ban hành

quy chế quản lý khu, cụm, điểm công nghiệp làng nghề.

Quy hoạch tổng thể phát triển nghề, làng nghề; quy hoạch tổng thể

phát triển các khu, cụm công nghiệp trên địa bàn Thành phố Hà Nội đến năm

2020, tầm nhìn đến năm 2030 đã xác định: Xây dựng các cụm công nghiệp

65

làng nghề trên cơ sở quy hoạch phát triển cụm công nghiệp của Thành phố,

tạo mặt bằng cho các cơ sở và các tổ chức dịch vụ làng nghề, nâng cao sự

phân công và hợp tác sản xuất giữa các cơ sở sản xuất với nhau, giữa các cơ

sở sản xuất với các cơ sở dịch vụ, đồng thời có điều kiện xử lý chất thải theo

hướng tập trung, đồng bộ. Kiểm tra các cơ sở sản xuất và các làng nghề hiện

đang nằm đan xen trong các làng xóm và điểm dân cư nông thôn để có biện pháp

quản lý chặt chẽ về môi trường và hạ tầng. Giữ gìn và phát triển các nghề thủ

công truyền thống, những làng nghề có nguy cơ gây ô nhiễm môi trường phải

được đưa vào khu, cụm công nghiệp tập trung. Phát triển giao thông kết nối giữa

điểm sản xuất với các tuyến đường chính, xây dựng trung tâm dịch vụ hỗ trợ tại

chỗ để phục vụ cho khách tham quan làng nghề và giới thiệu mua bán sản phẩm.

Đến năm 2020 Thành phố Hà Nội quy hoạch xây dựng 149 cụm công

nghiệp làng nghề, tổng diện tích quy hoạch là 1.404 ha. Thực hiện đầu tư xây

dựng các cụm công nghiệp sẽ giúp các làng nghề của Thành phố có điều kiện

bố trí quỹ đất đáp ứng mặt bằng phục vụ cho mở rộng sản xuất, đầu tư công

nghệ mới, di dời các doanh nghiệp, các cơ sở sản xuất gây ô nhiễm môi

trường; xử lý ô nhiễm môi trường do trong quá trình sản xuất có rất nhiều công

đoạn có nguy cơ gây ô nhiễm môi trường nếu không được xử lý đúng kỹ thuật.

Không gian quỹ đất phát triển các cụm công nghiệp làng nghề được bố

trí xen lẫn trong các loại hình khác do đặc thù phát triển sản xuất công nghiệp

- tiểu thủ công nghiệp tại các làng nghề có quan hệ hữu cơ với sản xuất nông

nghiệp do vậy không thể bố trí không gian quy hoạch phát triển các cụm công

nghiệp làng nghề với quy mô lớn như loại hình khu, cụm công nghiệp tập

trung; thu hút các ngành công nghiệp không gây ô nhiễm môi trường. Nâng

cấp mở rộng một số cụm công nghiệp thành khu công nghiệp tập trung. Tiếp

tục triển khai và phát triển theo hướng ứng dụng kỹ thuật công nghệ cao và có

xử lý chất thải ở các làng nghề truyền thống: gốm sứ Bát Tràng, sản xuất đồ

66

gỗ mỹ nghệ Vân Hà - Liên Hà, dệt Triều Khúc, dệt lụa Vạn Phúc,… Phát

triển các làng nghề này theo hướng kết hợp với du lịch, đưa các làng nghề này

thành một trong nhiều tuyến điểm du lịch của Thủ đô.

Để thực hiện thành công việc xây dựng và phát triển các cụm công nghiệp

làng nghề, Thành phố Hà Nội cần ban hành và thực hiện một số cơ chế chính

sách, biện pháp sau:

Thứ nhất, bên cạnh những cơ chế, chính sách chung của Nhà nước thì

Hà Nội cần có những cơ chế chính sách liên quan đến đất và cơ sở hạ tầng

cụm công nghiệp một cách đồng bộ. Các cơ chế, chính sách cần đổi mới là giá

cho thuê lại đất, phí dịch vụ và vốn đầu tư xây dựn. Điều chỉnh khung giá chi

phí đền bù, giải phóng mặt bằng cho phù hợp với thực tế, đặc biệt là dự toán

về giải phóng mặt bằng liên quan đến một số đối tượng đặc thù (hoa màu, cây

lâu năm, mồ mả, di tích lịch sử và nhà ở tại các khu trung tâm, nhạy cảm).

Thứ hai, xây dựng và thực hiện chính sách ưu tiên về mặt bằng đáp ứng

yêu cầu phát triển hoạt động sản xuất của các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất tại

các cụm công nghiệp làng nghề kinh doanh có hiệu quả, bố trí mặt bằng để

xây dựng các công trình xử lý ô nhiễm môi trường làng nghề.

Thứ ba, ban hành chính sách bắt buộc các cơ sở sản xuất tại làng nghề,

trong các khu dân cư gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng phải di chuyển

sản xuất ra các khu sản xuất tập trung, có đủ điều kiện về hạ tầng kỹ thuật,

đặc biệt là công trình xử lý môi trường đảm bảo tiêu chuẩn theo quy định.

Thứ tư, đẩy mạnh công tác xã hội hoá, thu hút nguồn lực đầu tư từ các

thành phần kinh kế, các tổ chức, cá nhân trong vào ngoài nước vào phát triển

hạ tầng các cụm công nghiệp làng nghề.

Thứ năm, thực hiện các chính sách ưu đãi, hỗ trợ tài chính cho xây

dựng hạ tầng và thu hút đầu tư vào các cụm công nghiệp làng nghề như: chính

sách hỗ trợ vốn lập quy hoạch, chuẩn bị đầu tư, giải phóng mặt bằng, hạng

67

mục xử lý môi trường trong các cụm công nghiệp làng nghề,... từ nguồn vốn

ngân sách; các chính sách miễn giảm tiền thuê đất cho các đối tượng là các hộ

sản xuất tại làng nghề di chuyển ra nơi sản xuất tập trung.

Thứ sáu, quan tâm đầu tư đồng bộ và kịp thời hạ tầng kỹ thuật ngoài

hàng rào các cụm công nghiệp làng nghề để tạo dựng, kết nối đồng bộ hệ

thống hạ tầng kỹ thuật bên trong và bên ngoài, đáp ứng yêu cầu hoạt động sản

xuất kinh doanh của các cụm công nghiệp làng nghề.

2.3.3. Khai thác, sử dụng hiệu quả nguồn tài chính từ đất đai cho

phát triển làng nghề thành phố Hà Nội

* Biện pháp tăng cường khả năng khai thác nguồn lực tài chính từ đất

đai cho phát triển làng nghề.

Thành phố Hà Nội với đặc thù đất chật, người đông, khả năng bố trí

quỹ đất cho các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội nói chung, để tạo nguồn

tài chính cho phát triển làng nghề nói riêng có hạn, do vậy việc tăng cường

hiệu quả, nâng cao khả năng khai thác quỹ đất có vai trò hết sức quan trọng.

Để làm được điều này, Thành phố cần thực hiện đồng bộ và có hiệu quả hệ

thống các biện pháp sau:

Thứ nhất, đa dạng hóa các hình thức khai thác quỹ đất.

Bên cạnh các chính sách tài chính về đất đai đang thực hiện theo quy

định của pháp luật hiện hành, Thành phố cần mở rộng, thực hiện đa dạng hóa

các hình thức khai thác nguồn lực đất đai khác như: đấu giá quyền sử dụng

đất; đấu thầu thực hiện dự án có sử dụng đất; đầu tư xây dựng hạ tầng làng

nghề theo hình thức BT, BOT, BTO, hình thức hợp tác đối tác công tư PPP và

các hình thức xã hội hóa đầu tư khác.

Thực hiện thí điểm một số chính sách nhằm tăng nguồn thu từ đất đai,

nâng cao hiệu quả sử dụng đất đai như: Chính sách ưu tiên bố trí quỹ đất cho

các hộ sản xuất trong làng nghề di dời sản xuất ra các cụm sản xuất công

68

nghiệp làng nghề tập trung, cần thực hiện chính sách đấu giá quyền thuê đất

đối với các cụm công nghiệp làng nghề tại những vị trí có lợi thế địa tô chênh

lệch lớn. Nhân rộng hình thức đấu thầu lựa chọn nhà đầu tư thực hiện dự án

đầu tư xây dựng và kinh doanh hạ tầng các cụm công nghiệp làng nghề; lựa

chọn các doanh nghiệp có năng lực để thay thế Nhà nước tổ chức quản lý hoạt

động các dự án cụm công nghiệp làng nghề do Nhà nước làm chủ đầu tư xây

dựng hạ tầng đã thực hiện trước đây.

Thứ hai, nâng cao giá trị, hiệu quả sử dụng đất thông qua hình thức

đấu giá quyền sử dụng đất, đưa giá đất về sát giá thị trường.

Việc thực hiện chính sách đấu giá quyền sử dụng đất sẽ hạn chế được

tình trạng xin - cho trong giao đất, cho thuê đất. Sẽ tạo được mặt bằng giá

công khai, minh bạch để xác lập giá thị trường của quỹ đất đem vào khai thác,

sử dụng. Ràng buộc chặt chẽ về kinh tế của người dân làng nghề khi sử dụng

đất nhằm hạn chế tình trạng dự án treo hoặc bỏ hoang không đưa vào sử dụng.

Việc đấu giá phải được thực hiện công khai minh bạch, bình đẳng, bảo vệ

quyền và lợi ích hợp pháp của người tham gia đấu giá; đấu giá phải đúng trình

tự theo quy định của pháp luật, giá trúng đấu giá phải không thấp hơn giá đất

do Thành phố quy định.

Thực hiện chính sách đấu giá quyền sử dụng đất theo quy định hiện

hành còn phức tạp về thủ tục, thời gian kéo dài và đòi hỏi cần có nguồn vốn

để giải phóng mặt bằng và đầu tư xây dựng hạ tầng của quỹ đất dự kiến khai

thác. Thành phố cần nghiên cứu phương án cho phép đấu giá đất chưa giải

phóng mặt bằng dưới hình thức Nhà nước thực hiện thu hồi đất của người

đang sử dụng, lập và phê duyệt phương án bồi thường, giải phóng mặt bằng,

hỗ trợ tái định cư theo quy định, sau đó tổ chức đấu giá; Nhà nước sử dụng

nguồn kinh phí thu được từ tiền đấu giá để giải phóng mặt bằng, xây dựng hạ

tầng và bàn giao đất cho nhà đầu tư theo quy hoạch.

69

* Biện pháp sử dụng hiệu quả nguồn lực tài chính từ đất đai cho phát

triển làng nghề.

Để nâng cao hiệu quả khai thác, sử dụng nguồn lực tài chính do khai

thác từ đất đai cho phát triển làng nghề cần thực hiện những biện pháp cụ thể

sau đây:

Thứ nhất, công khai hoá các thông tin, các chính sách về nguồn thu và

việc sử dụng nguồn lực tài chính thu được từ đất đai.

Việc công khai trên các phương tiện thông tin đại chúng và tại địa bàn

nơi thực hiện những hình thức khai thác nguồn lực tài chính cụ thể. Các địa

điểm nơi Thành phố thực hiện thu hồi đất hoặc thực hiện khai thác thông qua

các hình thức như bán đấu giá quyền sử dụng đất cần được niêm yết con số cụ

thể để công khai và minh bạch hoá về cách thức sử dụng nguồn lực.

Việc sử dụng nguồn tài chính thu được từ đất đai cho phát triển các

làng nghề đòi hỏi phải thật hiệu quả, đảm bảo tính minh bạch và tăng cường

được sức mạnh kinh tế của Thủ đô, tuyệt đối tránh hiện tượng thất thoát và

lãng phí trong sử dụng đất đai cũng như nguồn tài chính thu được thông qua

khai thác nguồn lực tài chính từ đất đai.

Thứ hai, đổi mới công tác phân bổ kế hoạch vốn đầu tư xây dựng theo

hướng đầu tư tập trung, có trọng điểm; hạn chế và tiến tới chấm dứt tình trạng

phân bổ vốn dàn trải.

Việc áp dụng những quy định về phân bổ ngân sách và sử dụng ngân

sách của Nhà nước và của Thành phố đối với những nguồn tài chính huy động

được từ đất đai cần được tuân thủ đúng, tránh thất thoát, lãng phí. Nguồn thu

tiền sử dụng đất của Thành phố và các địa phương phải được dành toàn bộ

cho đầu tư xây dựng các công trình hạ tầng kỹ thuật của làng nghề; trước mắt

tập trung cho các công trình giao thông, xử lý ô nhiễm môi trường làng nghề.

Thứ ba, nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác quản lý vốn đầu tư.

70

Tăng cường quản lý xây dựng theo quy hoạch, các dự án đầu tư được

duyệt phải phù hợp với quy hoạch. Tăng cường phối kết hợp giữa Thành phố

với các bộ, ngành Trung ương trong công tác quy hoạch. Nâng cao chất lượng

các dự án đầu tư và công tác thẩm định dự án.

Nghiên cứu, xây dựng và ban hành quy định phối hợp quản lý đầu tư

xây dựng chung trên địa bàn. Thành phố có văn bản đề nghị Chính phủ ban

hành quy định về quản lý đầu tư và xây dựng trên địa bàn, trong đó làm rõ các

chế tài xử lý vi phạm với các nguồn vốn đầu tư làm căn cứ cho Thành phố

triển khai thực hiện.

Đổi mới công tác chỉ đạo, điều hành của các cấp, các ngành trong công

tác quản lý đầu tư và xây dựng theo hướng nghiên cứu rút gọn quy trình giải

quyết, tăng trách nhiệm các cơ quan chủ trì thẩm định. Đổi mới cách làm, tạo

điều kiện thuận lợi tối đa cho các nhà đầu tư; các ngành các cấp có kế hoạch

triển khai thực hiện các Luật đầu tư, Luật doanh nghiệp có liên quan đến đầu

tư xây dựng. Nhanh chóng xây dựng và hoàn thiện các cơ chế, chính sách cho

phù hợp với Luật, văn bản mới ban hành của Nhà nước.

Thứ tư, đẩy mạnh công tác thanh tra, kiểm tra trong lĩnh vực đầu tư và

xây dựng.

Tăng cường giám sát và quản lý những dự án được đầu tư nguồn ngân

sách có được thông qua khai thác nguồn lực từ đất đai. Việc giám sát và quản

lý phải đảm bảo đúng pháp luật của Nhà nước, nhất là về chất lượng công

trình. Những công trình phục vụ cho phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế kỹ

thuật và hạ tầng xã hội làng nghề cần phải đảm bảo đúng tiến độ và yêu cầu

kỹ thuật nhằm đưa vào phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của làng

nghề nói riêng và Thủ đô nói chung.

Cần thực hiện nghiêm túc và triệt để việc chống tiêu cực, tham nhũng

trong khai thác và sử dụng nguồn lực tài chính từ đất đai. Đồng thời, xử lý

71

nghiêm minh và công khai kết quả xử lý đối với các tổ chức, cá nhân trong

việc sử dụng lãng phí nguồn lực tài chính từ đất đai.

2.3.4. Tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách để huy động và sử dụng

hiệu quả nguồn lực đất đai cho phát triển làng nghề Thành phố Hà Nội

Cơ chế, chính sách có vai trò rất quan trọng trong giải phóng các nguồn

lực cho sản xuất kinh doanh nói chung và huy động, sử dụng có hiệu quả đất

đai cho phát triển các làng nghề nói riêng. Thực tế đã khẳng định, trong khi sở

hữu tư liệu sản xuất chưa có sự thay đổi, nhưng chỉ cần có cơ chế, chính sách

phù hợp đã trở thành sức mạnh, động lực to lớn trong giải phóng sức sản xuất

như thực hiện khoán 100, tiếp đó khoán 10 trong nông nghiệp trước đây. Đại

hội XI của Đảng cũng xác định hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định

hướng xã hội chủ nghĩa là một trong ba đột phá quan trọng trong thực hiện

Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020.

Ở khía cạnh khác, đất đai là lĩnh vực hết sức quan trọng và nhạy cảm

trong phát triển kinh tế, đảm bảo an sinh, trật tự an toàn xã hội và an ninh,

quốc phòng. Những hạn chế, tồn tại trong khai thác, sử dụng đất cho phát

triển làng nghề thời gian qua có nhiều nguyên nhân cả chủ quan và khách

quan trong đó có nguyên nhân do hạn chế của cơ chế, chính sách, đòi hỏi phải

tháo gỡ kịp thời.

Để thật sự phát huy hiệu quả chính sách khai thác, sử dụng đất đai, các

chính sách, pháp luật về đất đai cần được xây dựng đồng bộ, cụ thể, góp phần

nâng cao chất lượng công tác quy hoạch, giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất,

bồi thường, hỗ trợ tái định cư; đăng ký đất đai; thanh tra giải quyết các khiếu

nại tố cáo về đất đai thúc đẩy nâng cao năng lực quản lý đất đai.

Đẩy mạnh cải cách hành chính trong lĩnh vực đất đai là một đòi hỏi

quan trọng trong khai thác mọi nguồn lực đầu tư, sản xuất kinh doanh do đất

đai mang lại. Cần có sự phân định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các

72

bộ, ngành, địa phương, Thành phố trong quản lý nhà nước về đất đai; đảm

bảo quản lý thống nhất, hiệu lực, hiệu quả và không chồng chéo. Phân cấp

việc quy định trình tự, thủ tục hành chính về đất đai gắn với trách nhiệm giải

quyết của từng cấp chính quyền địa phương cho phù hợp với chủ trương, yêu

cầu cải cách thủ tục hành chính.

Hiện nay, các quy định của pháp luật về đất đai nói chung, liên quan

đến phát triển nghề, làng nghề nói riêng đã được thay đổi rất nhiều... Tuy

nhiên, thủ tục hành chính liên quan đến việc thu hồi đất, giao đất, cho thuê đất

tại các làng nghề của Hà Nội vẫn còn rườm rà. Do vậy, Thành phố Hà Nội

cần tiếp tục nghiên cứu cải cách thủ tục này trong thời gian tới.

2.3.5.Tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về quản lý, sử

dụng đất đai cho phát triển làng nghề

Quản lý nhà nước về phát triển kinh tế - xã hội nói chung và quản lý

nhà nước về đất đai cho phát triển các làng nghề là chức năng, nhiệm vụ quan

trọng của Nhà nước nói chung và Chính quyền Thành phố Hà Nội nói riêng.

Hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước về huy động và sử dụng đất đai có

vai trò quan trọng trong sử dụng nguồn lực này cho phát triển các làng nghề.

Những hạn chế yếu kém trong lĩnh vực quản lý đất đai nói chung và đất đai cho

phát triển các làng nghề nói riêng thời gian qua có nguyên nhân từ sự yếu kém,

buông lỏng trong quản lý của chính quyền các cấp. Theo đó, hiệu quả sử dụng

nguồn lực đất đai cho phát triển các làng nghề ở Thủ đô chưa đạt được yêu cầu

như mong muốn của nhân dân các làng nghề cũng như các cấp chính quyền

Thành phố. Vì vậy, tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về đất đai

cho phát triển các làng nghề có ý nghĩa rất quan trọng và phải kết hợp thật tốt

giữa quản lý nhà nước về đất đai với quản lý nhà nước về các làng nghề.

* Quản lý nhà nước về đất đai

Thành phố Hà Nội cần tiếp tục cụ thể hóa chính sách, pháp luật về đất

đai, nghiên cứu xây dựng, ban hành cơ chế, chính sách phù hợp với điều kiện

73

thực tế của Thủ đô như: Chính sách về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà

nước thu hồi đất; chính sách tài chính về đất đai; chính sách đất đai đối với

nông nghiệp, thị trường bất động sản. Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính

trong lĩnh vực đầu tư xây dựng, quy hoạch kiến trúc và quản lý đất đai nhằm

tạo môi trường đầu tư thông thoáng, thuận lợi cho các chủ đầu tư, chủ sử

dụng đất đai tại các làng nghề, cụm công nghiệp làng nghề đi đôi với việc hậu

kiểm, xử lý nghiêm minh hành vi vi phạm Luật Đất đai. Rà soát và kiên quyết

thu hồi những dự án chưa đưa đất vào sử dụng, sử dụng đất kém hiệu quả để

tổ chức đấu giá quyền sử dụng đất, đấu thầu lựa chọn chủ đầu tư thực hiện dự

án có sử dụng đất. Thực hiện nghiêm túc và triệt để việc chống tiêu cực, tham

nhũng trong khai thác và sử dụng nguồn lực đất đai, đồng thời xử lý nghiêm

minh và công khai kết quả xử lý đối với các tổ chức, cá nhân trong việc sử

dụng lãng phí nguồn đất đai.

* Quản lý nhà nước về làng nghề

Tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến đường lối, chủ trương của

Đảng, chính sách của Nhà nước, của Thành phố về vai trò, ý nghĩa của sự

phát triển nghề, làng nghề để cán bộ, đảng viên, nhân dân hiểu, tạo sự đồng

thuận của toàn xã hội, thống nhất về nhận thức và hành động.

Thường xuyên rà soát các văn bản về cơ chế, chính sách liên quan đến

làng nghề để điều chỉnh, bổ sung và thống nhất về triển khai trên địa bàn

Thành phố nhằm tạo điều kiện thuận lợi nhất cho đầu tư, hỗ trợ phát triển các

nghề, làng nghề Hà Nội trong thời gian tới. Chú trọng các thông tin hai chiều

giữa Sở, Ban, Ngành và giữa cơ quan quản lý nhà nước với doanh nghiệp, cơ

sở sản xuất làng nghề để phát hiện những tồn tại nhằm đề xuất các giải pháp,

cơ chế, chính sách hỗ trợ phù hợp, có hiệu quả.

Các địa phương tập trung tổ chức triển khai công tác quy hoạch, kế

hoạch phát triển các làng nghề của Thành phố, phân công các ngành, đoàn thể

phụ trách theo dõi hỗ trợ về tổ chức cho từng làng cụ thể.

74

* Quản lý nhà nước về cụm công nghiệp làng nghề

Thành lập các tổ chức và tăng nhân sự quản lý nhà nước đối với các

cụm công nghiệp do Thành phố quyết định thành lập. Xác định rõ thêm chức

năng làm đầu mối quản lý quy hoạch phát triển và theo dõi tổng hợp hoạt

động các cụm công nghiệp do Thành phố thành lập; cho phép Sở Công

Thương, cần có tổ chức và tăng cường biên chế cho tổ chức đó để làm tốt việc

này. Các địa phương có nhiều cụm công nghiệp có thể được Thành phố thành

lập Ban Quản lý cụm công nghiệp (hoặc Trung tâm phát triển cụm công nghiệp)

trực thuộc UBND cấp huyện để thực hiện chức năng quản lý toàn diện đối với

cụm công nghiệp; tổ chức này nên có từ 3 - 5 người, tùy theo mức độ phát triển

về quy mô và số cụm công nghiệp, có thể bổ sung nhân sự kiêm nghiệm. Trang

bị cho các tổ chức và biên chế trên văn phòng, phương tiện đủ để làm việc

theo chế độ, qui định hiện hành đối với viên chức nhà nước.

Về cơ chế hoạt động của các Ban quản lý và Tổ chức chuyên trách liên

quan đến cụm công nghiệp: Các tổ chức này hoạt động theo Quy chế riêng do

UBND các cấp và cơ quan có thẩm quyền phê duyệt với thỏa thuận phối hợp

của các sở, ngành liên quan, trên cơ sở quy chế khung mẫu của Thành phố

ban hành. Các Tổ chức này chịu sự lãnh đạo trực tiếp của đảng bộ và sự quản

lý của UBND địa phương và chịu sự chi phối về chuyên môn, nghiệp vụ từ Sở

Công Thương và các sở, ban ngành liên quan của Thành phố.

Thành phố cần phân cấp hoặc ủy quyền cho các sở, ngành liên quan,

UBND cấp huyện giải quyết và tự chịu trách nhiệm trong một số lĩnh vực đối

với một số dự án đầu tư, đặc biệt là các dự án tiểu thủ công nghiệp, di chuyển

sản xuất tại các làng nghề, khu vực dân cư vào cụm công nghiệp làng nghề.

*

* *

Trên cơ sở lý luận, thực tiễn huy động và sử dụng nguồn lực đất đai

cho phát triển làng nghề Thành phố Hà Nội được hệ thống hóa, đánh giá và

75

phân tích tại chương 1, chương 2 của đề tài đã đề xuất hệ thống các quan

điểm khai thác và sử dụng có hiệu quả nguồn lực đất đai cho phát triển làng

nghề Thành phố Hà Nội trong thời gian tới. Trong đó quan điểm quy hoạch sử

dụng đất cho phát triển làng nghề phải phù hợp với quy hoạch phát triển kinh

tế - xã hội, quy hoạch phát triển nghề, làng nghề của thành phố được xác định

là quan điểm mang tính nguyên tắc, định hướng cho mọi chủ trương, cơ chế

chính sách liên quan. Quan điểm khai thác, sử dụng nguồn lực đất đai cho

phát triển làng nghề phải đảm bảo tiết kiệm, hiệu quả và phát triển bền vững

làng nghề là quan điểm chủ đạo, là yêu cầu bắt buộc đối với các chính sách,

giải pháp sử dụng đất đai cho phát triển làng nghề.

Các giải pháp chủ yếu nhằm khắc phục những tồn tại, hạn chế, nâng

cao hiệu quả khai thác và sử dụng nguồn lực đất đai cho phát triển làng nghề

tương xứng với tiềm năng, lợi thế của Thành phố được đề xuất và phải được

thực hiện một cách đồng bộ, từ quy hoạch, cơ chế, chính sách đến giải pháp

kết hợp lợi ích kinh tế và đảm bảo an ninh, quốc phòng,... trong đó đề tài tập

trung nhấn mạnh giải pháp về quy hoạch sử dụng đất và giải pháp huy động

nguồn lực tài chính từ đất đai cho phát triển bền vững làng nghề của Thành

phố là những giải pháp có tính chất đột phá.

76

KẾT LUẬN

Thủ đô Hà Nội là địa phương có điều kiện tự nhiên phong phú, đa dạng,

có nền văn hoá lâu đời; đặc biệt là nơi hội tụ nhiều làng nghề thủ công truyền

thống nhất của cả nước với bề dày phát triển hàng trăm năm đã sản xuất ra

nhiều sản phẩm có giá trị kinh tế, nghệ thuật, mỹ thuật cao phục vụ tiêu dùng

trong nước và xuất khẩu. Với vị trí đặc biệt quan trọng của Hà Nội trong quan

hệ với cả nước, làng nghề của Thủ đô đã và đang phát huy thế mạnh, mang lại

hiệu quả kinh tế - xã hội và phát triển bền vững, thân thiện với môi trường,

tạo ra những sản phẩm có nét văn hoá độc đáo riêng của từng địa phương, sử

dụng nguồn lao động tại chỗ, phát triển làng nghề kết hợp với phát triển du

lịch, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hoá

nông nghiệp, nông thôn gắn với xây dựng nông thôn mới; phát triển mọi mặt

để xứng tầm với điều kiện mới của đất nước. Để phát triển được như vậy, việc

huy động mọi nguồn lực trong đó có nguồn lực đất đai là hết sức quan trọng.

Nguồn lực đất đai được xem như là một nguồn nội lực cần được khai

thác và sử dụng hiệu quả để phục vụ phát triển kinh tế - xã hội nói chung và

phát triển làng nghề của Thành phố nói riêng. Việc khai thác và sử dụng hiệu

quả nguồn lực đất đai, một mặt giúp tạo dựng mặt bằng sản xuất đáp ứng nhu

cầu cho sản xuất tại các làng nghề. Mặt khác, nguồn lực tài chính thu được từ

đất đai thông qua nhiều hình thức khai thác khác nhau sẽ giúp Thành phố

nâng cao được năng lực đầu tư phục vụ phát triển kinh tế - xã hội, nhất là đầu

tư phát triển kết cấu hạ tầng làng nghề, một lĩnh vực đòi hỏi phải có nguồn

vốn đầu tư khá lớn.

Trong những năm qua trong việc khai thác và sử dụng nguồn lực đất

đai trên địa bàn Thủ đô cho phát triển các làng nghề đã đạt được những kết

quả đáng khích lệ. Nhiều làng nghề đã xây dựng được khu sản xuất tập trung

để mở rộng mặt bằng sản xuất, di dời sản xuất tách biệt ra khỏi nơi sinh sống;

77

hạ tầng làng nghề được từng bước đầu tư, đáp ứng cơ bản nhu cầu sản xuất

của làng nghề; môi trường làng nghề được khắc phục và cải thiện một bước

trở thành những nhân tố, điều kiện, tiền đề, nguồn lực quan trọng để phát triển

bền vững làng nghề của Thành phố trong thời gian tới. Bên cạnh đó việc khai

thác, sử dụng nguồn lực đất đai cho phát triển làng nghề của Thành phố cũng

còn có những hạn chế cần được khắc phục với hệ thống các giải pháp cả về

chính sách lẫn tổ chức thực hiện. Những giải pháp đó cần được thực hiện một

cách đồng bộ và có sự phối hợp của nhiều cơ quan, tổ chức có liên quan trên

địa bàn Thủ đô.

Kết quả nghiên cứu cùng những đề xuất của tác giả đã nêu trong luận

văn này mới chỉ là phác họa, chấm phá ban đầu. Mặc dù tác giả đã có nhiều

cố gắng nghiên cứu, nhưng do thời gian và năng lực có hạn, nên không thể

tránh khỏi những hạn chế, thiếu sót. Học viên xin cảm ơn sự góp ý của các

nhà khoa học để có điều kiện hoàn thiện và nghiên cứu sâu hơn đề tài này

trong quá trình công tác./.

78

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Bạch Thị Lan Anh, 2010, Phát triển bền vững làng nghề truyền thống Vùng

kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, Luận án Tiến sĩ kinh tế chính trị - Trường

Đại học Kinh tế quốc dân Hà Nội.

2. Trần Thanh Bân, Khai thác và phát huy hiệu quả nguồn lực đất đai, Báo

Nhân dân điện tử số ra ngày 09/5/2013.

3. Trần Hữu Bình và nhóm phóng viên, Môi trường làng nghề Hà Nội bị ô

nhiễm nghiêm trọng: Làm gì? Báo Hà Nội Mới số ra ngày 8-4-2009.

4. Bộ Công thương, 2005, Chiến lược và quy hoạch phát triển ngành tiểu thủ

công nghiệp Việt Nam giai đoạn 2006 - 2015, tầm nhìn đến năm 2020,

Hà Nội.

5. Bộ Giáo dục và Đào tạo, 2010, Giáo trình kinh tế chính trị Mác - Lênin,

Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.

6. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn - Cơ quan hợp tác quốc tế Nhật Bản

(JICA), 2003, Nghiên cứu quy hoạch phát triển ngành nghề thủ công

theo hướng công nghiệp hoá nông thôn Việt Nam, Hà Nội.

7. Bộ Tài chính (2012), Đề án khai thác nguồn lực tài chính từ đất đai và tài

sản Nhà nước phục vụ phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2011-2020,

Hà Nội.

8. Bộ Tài chính, 2001, Thông tư số 79/2001/TT-BTC hướng dẫn cơ chế tài

chính để thực hiện các dự án đường giao thông nông thôn; cơ sở hạ

tầng nuôi trồng thủy sản, cơ sở hạ tầng làng nghề ở nông thôn, Hà Nội.

9. Chính phủ, 2009, Quyết định số 1956/QĐ - TTg ngày 27/11/2009 của Thủ

tướng Chính phủ phê duyệt đề án “Đào tạo nghề cho lao động nông thôn

đến năm 2020”, Hà Nội.

79

10. Chính phủ, 2011, Quyết định số 1259/QĐ - TTg ngày 26 tháng 7 năm

2011 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt quy hoạch chung xây dựng

quy hoạch chung Thủ đô Hà Nội đến năm 2030 tầm nhìn đến năm

2050, Hà Nội.

11. Chính phủ (2010), Tờ trình về quy hoạch sử dụng đất đai đến năm 2020,

(Báo cáo Quốc hội phiên họp ngày 20/10/2013).

12. Đặng Kim Chi, 2005, Làng nghề Việt Nam và môi trường, NXB Khoa học

kỹ thuật.

13. Nguyễn Xuân Chính, 2007, Làng nghề Hà Tây, thưc trạng và giải pháp

phát triển bền vững, Tạp chí Công nghiệp số 6 năm 2007.

14. Phạm Văn Dũng, 2002, Làng nghề Hà Nội với giải quyết việc làm, Tạp

chí Nông nghiệp và phát triển nông thôn - số 4 năm 2002.

15. Ngô Thái Hà, 2009, Phát triển làng nghề và vấn đề bảo vệ môi trường,

trước hết là nước sạch, Tạp chí Cộng sản số 32 năm 2009.

16. Đinh Văn Hải (2012), Chính sách tài chính về đất đai: kết quả đạt được và

một số kiến nghị, Tạp chí Tài chính số 10 năm 2012.

17. Mai Thế Hởn, 2000, "Phát triển làng nghề truyền thống trong quá trình

CNH, HĐH ở vùng ven Thủ đô Hà Nội", Luận án tiến sỹ kinh tế -

Trường Đại học Kinh tế quốc dân Hà Nội.

18. Phương Hiếu (2012), Thực trạng quản lý và sử dụng đất đai hiện nay, Tạp

chí Tài chính số 10 năm 2012.

19. Vương Đình Huệ (2012), Đổi mới chính sách pháp luật tài chính đất đai

phục vụ phát triển kinh tế, Tạp chí Tài chính số 10 năm 2012.

20. Đỗ Thị Lan, 2007, Giáo trình kinh tế tài nguyên đất, Nxb Nông nghiệp,

Hà Nội.

21. Nguyễn Thăng Long, 2008, Vấn đề phát triển cụm - điểm công nghiệp và

cụm công nghiệp làng nghề, Báo cáo tại Hội thảo phát triển làng nghề

Miền Trung và Tây Nguyên - Bình Định 2008.

80

22. Các Mác, Bộ Tư bản - Quyển 1, Nxb Sự thật, 1998, Hà Nội.

23. Hoàng Ngân, 2006, Phát triển bền vững làng nghề đồng bằng sông Hồng:

Thực trạng và giải pháp, http://www.saga.vn

24. Khắc Nguyên, 2007, Qui hoạch sử dụng đất vùng kinh tế trọng điểm Bắc

Bộ, Tạp chí Tài nguyên và Môi trường số 2 năm 1007.

25. Dương Bá Phượng, 2001, Bảo tồn và phát triển các làng nghề trong quá

trình công nghiệp hóa, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.

26. Quốc hội, 2003, Luật Đất đai năm 2003, Hà Nội.

27. Trần Công Sách, 2003, Tiếp tục đổi mới chính sách và giải pháp đẩy

mạnh tiêu thụ sản phẩm của làng nghề truyền thống ở Bắc Bộ đến năm

2010, Đề tài khoa học cấp Bộ do Tiến sỹ Trần Công Sách làm chủ nhiệm

đề tài.

28. Nguyễn Văn Song, 2006, Giáo trình kinh tế tài nguyên và môi trường,

Nxb Nông nghiệp, Hà Nội.

29. Sở Công thương thành phố Hà Nội, 2012, Báo cáo đánh giá thực trạng

làng nghề và định hướng, giải pháp phát triển làng nghề Hà Nội.

30. Sở Công thương Thành phố Hà Nội, 2009, Làng nghề Hà Nội tiềm năng

và triển vọng phát triển - NXB Khoa học xã hội.

31. Sở Công thương thành phố Hà Nội, 2009, Báo cáo tổng hợp đề án Đánh

giá thực trạng môi trường làng nghề lưu vực sông Nhuệ, sông Đáy

thuộc Thành phố Hà Nội.

32. Nguyễn Thái Sơn (2007), Giáo trình quản lý nhà nước về đất đai, Nhà

xuất bản Nông nghiệp Hà Nội.

33. Ngô Tân Thanh, 2012, Hoàn thiện công tác quản lý nhà nước về đất đai

trên địa bàn tỉnh Bình Định, Luận văn Thạc sĩ Kinh tế chính trị - Đại

học Kinh tế quốc dân Hà Nội.

81

34. Nguyễn Văn Thanh (2013), Vai trò của Hội đồng nhân dân trong quản lý

nguồn lực đất đai, Tài liệu bồi dưỡng cán bộ dân cử tỉnh Bắc Giang.

35. Nguyễn Tân Thịnh (2012), Đấu giá quyền sử dụng đất: công cụ giải quyết

bức xúc về đất đai, Tạp chí Tài chính số 10 năm 2012.

36. Ủy ban nhân dân tỉnh Hà Tây, 2007, Quy hoạch phát triển làng nghề,

ngành nghề nông thôn tỉnh Hà Tây giai đoạn 2007 - 2010, định hướng

đến năm 2015, Hà Nội.

37. Ủy ban nhân dân Thành phố Hà Nội, 2012, Qui hoạch tổng thể phát triển

nghề, làng nghề thành phố Hà Nội đến năm 2020, tầm nhìn đến năm

2030, Hà Nội.

38. Ủy ban nhân dân Thành phố Hà Nội, 2012, Qui hoạch tổng thể sử dụng

đất thành phố Hà Nội đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030, Hà Nội.

39. Ủy ban nhân dân Thành phố Hà Nội, 2010, Đề án bảo tồn và phát triển

nghề, làng nghề Hà Nội giai đoạn từ năm 2010 đến năm 2020, Hà Nội.

40. Trần Minh Yến, 2003, Phát triển làng nghề truyền thống ở nông thôn Việt

Nam trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Luận án tiến sỹ

kinh tế - Trường Đại học Kinh tế quốc dân.

82

PHỤ LỤC

Phụ lục 1:

QUI HOẠCH SỬ DỤNG ĐẤT THÀNH PHỐ HÀ NỘI ĐẾN NĂM 2020

Đơn vị: ha

Hiện trạng 2010

Quy hoạch 2020

Tổng số

Diện tích

Diện tích do

do cấp

Thứ tự

Loại đất

Thành phố

Diện tích

Cơ cấu

Quốc gia

Diện tích

Cơ cấu

xác định

(ha)

(%)

phân bổ

(ha)

(%)

(ha)

(ha)

(6)

(7)

(1)

(2)

(3)

(4)

(5)

(8)

(9)

TỔNG DIỆN TÍCH TỰ

332.889

100,0

332.889

332.889 100,0

NHIÊN

1

ĐẤT NÔNG NGHIỆP

NNP

188.365

56,6 151.780

462

152.242

45,7

Trong đó:

1.1

Đất trồng lúa

LUA

114.780

34,5

92.120

0

92.120

27,7

Trong đó: đất chuyên

LUN

103.378

31,1

92.000

92.000

27,6

trồng lúa nước

1.2

Đất trồng cây lâu năm

CLN

15.892

4,8

11.460

11.460

3,4

1.3

Đất rừng sản xuất

RSX

8.550

4.161

2,6

0

1,2

4.161

1.4

Đất rừng phòng hộ

RPH

5.413

9.000

1,6

0

2,7

9.000

1.5

Đất rừng đặc dụng

RDD

10.295

13.546

3,1

0

4,1

13.546

1.6

Đất nuôi trồng thuỷ sản

NTS

10.710

60

10.318

10.261

3,2

3,1

2

ĐẤT PHI NÔNG NGHIỆP PNN

135.193

40,6 178.830

6

178.836

53,7

Trong đó:

2.1

0,6

0,7

2.194

2.194

Đất trụ sở cơ quan, CTSN CTS

1.908

2.2

14.477

2,5

0

4,3

14.477

Đất quốc phòng

CQP

8.453

2.3

787

0,1

0

0,2

787

Đất an ninh

CAN

372

2.4

4.255

0,6

0

1,3

4.255

Đất khu công nghiệp

SKK

2.065

2.5

0,7

1,4

4.628

4.628

Đất cụm công nghiệp

SKK

2.253

Đất cho hoạt động khoáng

2.6

0,1

SKS

400

841

841

0,3

sản

2.7

0

66.597

20,0

Đất phát triển hạ tầng

DHT

45.493

13,7

66.597

Trong đó:

0

2.628

0,8

Đất cơ sở văn hoá

DVH

1.425

0,4

2.628

83

Hiện trạng 2010

Quy hoạch 2020

Diện tích

Tổng số

Diện tích do

do cấp

Thứ tự

Loại đất

Diện tích

Cơ cấu

Thành phố

Quốc gia

Diện tích

Cơ cấu

(ha)

(%)

xác định

phân bổ

(ha)

(%)

(ha)

(ha)

(6)

(7)

(1)

(2)

(4)

(5)

(8)

(9)

(3)

DYT

Đất cơ sở y tế

379

0,1

994

1.045

0,3

51

Đất cơ sở giáo dục - đào tạo DGD

2.970

0,9

8.896

8.900

2,7

4

Đất cơ sở thể dục - thể thao DTT

1.086

0,3

1.834

1.834

0,6

0

DGT

Đất giao thông

22.895

6,9

30.537

30.537

9,2

2.8

DDT

Đất di tích, danh thắng

528

0,2

1.626

1.626

0,5

0

Đất xử lý, chôn lấp chất

2.9

DRA

312

0,1

3.713

3.721

1,1

7

thải

2.10

Đất tôn giáo, tín ngưỡng

TTN

836

0,3

847

0,3

847

2.11

Đất nghĩa trang, nghĩa địa NTD

2.848

0,9

3.833

1,2

3.833

2.12

ODT

Đất ở đô thị

7.840

2,4

9.522

9.522

2,9

0

CSD

3

ĐẤT CHƯA SỬ DỤNG

9.331

2,8

2.279

1.811

0,5

-468

Đất chưa sử dụng còn lại CSD

9.331

2,8

2.279

1.811

0,5

Đất chưa sử dụng đưa vào

7.052

7.520

2,3

sử dụng

CÁC CHỈ TIÊU QUAN SÁT:

DTD

Đất đô thị

32.116

9,65

66.873

66.875 20,09

Đất khu bảo tồn thiên

DBT

10.295

3,09

13.546

13.546

4,07

nhiên

DDL

Đất khu du lịch

12.802

3,85

12.802

12.802

3,85

Nguồn số liệu: Quy hoạch phố sử dụng đất Thành Hà Nội đến năm 2020, kế hoạch

sử dụng đất 5 năm 2011-2015- Báo cáo trình thông qua HĐND thành phố kỳ họp

tháng 7/2012.

84

Phụ lục 2:

HIỆN TRẠNG CÁC CỤM CÔNG NGHIỆP LÀNG NGHỀ ĐANG

TRIỂN KHAI XÂY DỰNG (đến tháng 12/2012)

Qui mô

TT

Tên cụm công nghiệp

(ha)

579,96

1 CNLN Đắc Sở

Xã Đắc Sở - Hoài Đức

6,3

2 CNLN Cầu Nổi – Vân Canh

Xã Vân Canh - Hoài Đức

9,4

3 CNLN La Phù

Xã La Phù – Hoài Đức

50

4 CNLN Đại Tự - Kim Chung

Xã Kim Chung – Hoài Đức

8

5 CNLN Dương Liễu

Xã Dương Liễu - Hoài Đức

12

6 CNLN Di Trạch

Xã Di Trạch - Hoài Đức

8,4

7 CNLN cơ kim khí Phùng Xá

Xã Phùng Xá - Thạch Thất

11,2

8 CNLN mộc dân dụng Phùng Xá Xã Phùng Xá - Thạch Thất

4,2

9 CNLN Bình Phú I

Xã Bình Phú - Thạch Thất

12,3

10 CNLN Chàng Sơn

Xã Chàng Sơn - Thạch Thất

10,7

11 CNLN Kim Quan

Xã Kim Quan - Thạch Thất

11,0

12 CNLN Đám Sào - Canh Nậu

Xã Canh Nậu - Thạch Thất

10,7

13 CNLN Thị trấn Quốc Oai

TT Quốc Oai - Quốc Oai

10,55

14 CNLN Vạn Điểm

Xã Vạn Điểm - Thường Tín

7,2

15 CNLN Duyên Thái

Xã Duyên Thái - Thường Tín

12,6

16 CNLN Ninh Sở

Xã Ninh Sở - Thường Tín

10

17 CNLN Tiền Phong

Xã Tiền Phong - Thường Tín

8,2

18 CNLN Kiêu Kỵ

Xã Kiêu Kỵ - Gia Lâm

12,9

19 CNLN Bát Tràng

Xã Bát Tràng -Gia Lâm

16,9

20 CNLN Đình Xuyên

Xã Đình Xuyên -Gia Lâm

20

21 CNLN Thanh Thuỳ

Xã Thanh Thùy - Thanh Oai

5,5

Địa điểm

85

Qui mô

(ha)

TT

Tên cụm công nghiệp

579,96

22 CNLN Liên Hà

Xã Liên Hà - Đan Phượng

9,6

23 CNLN Tân Hội

Xã Tân Hội - Đan Phượng

9,6

24 CNLN Đan Phượng

Xã Đan Phượng - Đan Phượng

28,9

25 CNLN Sông Cùng

Xã Đồng Tháp - Đan Phượng

6,3

26 CNLN Đa Sỹ

Phường Kiến Hưng - Hà Đông

13

27 CNLN Vạn Phúc

Phường Vạn Phúc - Hà Đông

13

28 CNLN Tiên Phương

Xã Tiên Phương -Chương Mỹ

10,8

29 CNLN Tân Tiến

Xã Tân Tiến -Chương Mỹ

9,8

30 CNLN Ngọc Hoà

Xã Ngọc Hòa -Chương Mỹ

10,4

31 CNLN Đông Sơn

Xã Đông Sơn -Chương Mỹ

5

32 CNLN Trường Yên

Xã Trường Yên -Chương Mỹ

9,9

33 CNLN Phú Nghĩa

Xã Phú Nghĩa -Chương Mỹ

10

34 CNLN Đông Phương Yên

Xã Đông Phương Yên -Chương Mỹ

1,2

35 CNLN Phụng Châu

Xã Phụng Châu -Chương Mỹ

10

36 CNLN Đại Yên - Hợp Đồng

Xã Đại Yên -Chương Mỹ

1,3

37 CNLN Ngọc Sơn

Thị trấn Chúc Sơn -Chương Mỹ

9,9

38 CNLN Tân Triều

Xã Tân Triều - Thanh Trì

10

39 CNLN Đồng Sét

Xã Cam Thượng - Ba Vì

2,2

40 CNLN Xà Cầu

xã Quảng Phú Cầu - Ứng Hòa

2,4

41 CNLN Tích Giang

Xã Tích Giang - Phúc Thọ

1,8

42 CNLN Thọ Lộc

Xã Thọ Lộc - Phúc Thọ

1

43 CNLN Võng Xuyên

Xã Võng Xuyên - Phúc Thọ

0,6

44 CNLN Phúc Hoà

Xã Phúc Hòa - Phúc Thọ

5

45 CNLN Vân Phúc

Xã Vân Phúc - Phúc Thọ

2,6

46 CNLN Hiệp Thuận

Xã Hiệp Thuận - Phúc Thọ

1,8

Địa điểm

86

Qui mô

TT

Tên cụm công nghiệp

(ha)

579,96

47 CNLN Liên Hiệp

Xã Liên Hiệp - Phúc Thọ

8,1

48 CNLN TT Phúc Thọ

Thị Trấn Phúc Thọ - Phúc Thọ

1,6

49 CNLN Phú Thịnh

Phường Phú Thịnh – Sơn Tây

8,5

50 CNLN Sơn Đông

Phường Sơn Đông – Sơn Tây

12,5

51 CNLN Phú Túc

Xã Phú Túc - Phú Xuyên

0,5

52 CNLN Phùng Xá

Xã Phùng Xá -Mỹ Đức

3,3

53 CNLN Liên Hà

Xã Liên Hà- Đông Anh

3

54 CNLN Vân Hà

Xã Vân Hà -Đông Anh

9,0

Địa điểm

Nguồn: Báo cáo rà soát Qui hoạch tổng thể phát triển khu, cụm công nghiệp đến

năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 - Sở Công Thương Hà Nội năm 2012

87

Phụ lục 3:

DANH MỤC QUY HOẠCH CỤM CÔNG NGHIỆP LÀNG NGHỀ

THÀNH PHỐ HÀ NỘI ĐẾN NĂM 2020

1.404

D CỤM CÔNG NGHIỆP LÀNG NGHỀ

I

HUYỆN PHÚC THỌ

4 cụm

90

1

H. Phúc Thọ

20

Đang hoạt động

Cụm CN làng nghề Liên Hiệp

2

H. Phúc Thọ

20

Qui hoạch mới

Cụm CN làng nghề Tam Hiệp

3

H. Phúc Thọ

20

Qui hoạch mới

Cụm CN làng nghề Sen Chiểu

4

H. Phúc Thọ

30

Qui hoạch mới

Cụm CN làng nghề Phụng Thượng

II

HUYỆN HOÀI ĐỨC

12 cụm

119

5

H. Hoài Đức

Đang hoạt động

6

Cụm CN làng nghề Đắc Sở

6

H. Hoài Đức

5

Đang hoạt động

Cụm CN làng nghề Cầu Nổi-Vân Canh

7

H. Hoài Đức

8

Đang hoạt động

Cụm CN làng nghề La Phù

8

H. Hoài Đức

10

Đang hoạt động

Cụm CN làng nghề Di Trạch

9

H. Hoài Đức

25

Đang hoạt động

Cụm CN làng nghề Sơn Đồng

10

H. Hoài Đức

12

Đang hoạt động

Cụm CN làng nghề Dương Liễu

11

H. Hoài Đức

8

Đang hoạt động

Cụm CN làng nghề Đại Tự

12

H. Hoài Đức

10

QH cũ, chưa XD

Cụm CN làng nghề An Thượng

13

H. Hoài Đức

10

QH cũ, chưa XD

Cụm CN làng nghề Cát Quế

14

H. Hoài Đức

10

QH cũ, chưa XD

Cụm CN làng nghề Đức Giang

15

H. Hoài Đức

5

QH cũ, chưa XD

Cụm CN làng nghề Đông La

16

H. Hoài Đức

10

QH cũ, chưa XD

Cụm CN làng nghề Song Phương

III HUYỆN THẠCH THẤT

11 cụm

161

17

H. Thạch Thất

10

Đang hoạt động

Cụm CN làng nghề Phùng Xá 1

18

H. Thạch Thất

4

Đang hoạt động

Cụm CN làng nghề Phùng Xá 2

19

H. Thạch Thất

16

Đang hoạt động

Cụm CN làng nghề Bình Phú

20

H. Thạch Thất

11

Đang hoạt động

Cụm CN làng nghề Kim Quan

Đang hoạt động;

21

H. Thạch Thất

20

Cụm CN làng nghề Canh Nậu

Mở rộng qui mô

Đang hoạt động;

22

H. Thạch Thất

15

88

Cụm CN làng nghề Chàng Sơn

Mở rộng qui mô

23

H. Thạch Thất

QH cũ, chưa XD

15

Cụm CN làng nghề Thạch Xá

24

H. Thạch Thất

QH cũ, chưa XD

15

Cụm CN làng nghề Hương Ngải

25

H. Thạch Thất

QH cũ, chưa XD

30

Cụm CN làng nghề Hữu Bằng

26

H. Thạch Thất

QH cũ, chưa XD

10

Cụm CN làng nghề Bình Phú 2

27

H. Thạch Thất

Qui hoạch mới

15

Cụm CN làng nghề Dị Nậu

IV HUYỆN ĐAN PHƯỢNG

11 cụm

161

28

H. Đan Phượng

Đang hoạt động

28

Cụm CN làng nghề Đan Phượng

29

H. Đan Phượng

Đang hoạt động

6

Cụm CN làng nghề Sông Cùng

30

H. Đan Phượng

Đang hoạt động

30

Cụm CN làng nghề Liên Hà

31

H. Đan Phượng

Đang hoạt động

20

Cụm CN làng nghề Tân Hội

32

H. Đan Phượng

QH cũ, chưa XD

6

Cụm CN làng nghề Hạ Mỗ

33

H. Đan Phượng

QH cũ, chưa XD

5

Cụm CN làng nghề Song Phượng

34

H. Đan Phượng

QH cũ, chưa XD

10

Cụm CN làng nghề Tân Lập

35

H. Đan Phượng

QH cũ, chưa XD

10

Cụm CN làng nghề Phương Đình

36

H. Đan Phượng

QH cũ, chưa XD

6

Cụm CN làng nghề Hồng Hà

37

H. Đan Phượng

QH cũ, chưa XD

10

Cụm CN làng nghề Thượng Mỗ

38

H. Đan Phượng

Qui hoạch mới

30

Cụm CN làng nghề Liên Trung

V

HUYỆN QUỐC OAI

9 cụm

89

39

H. Quốc Oai

Đang hoạt động

10

Cụm CN làng nghề TT Quốc Oai

40

H. Quốc Oai

QH cũ, chưa XD

13

Cụm CN làng nghề Tân Hòa

41

H. Quốc Oai

QH cũ, chưa XD

10

Cụm CN làng nghề Tuyết Nghĩa

42

H. Quốc Oai

QH cũ, chưa XD

6

Cụm CN làng nghề Nghĩa Hương

43

H. Quốc Oai

QH cũ, chưa XD

5

Cụm CN làng nghề Đồng Quang

44

H. Quốc Oai

QH cũ, chưa XD

5

Cụm CN làng nghề Thạch Thán

45

H. Quốc Oai

QH cũ, chưa XD

10

Cụm CN làng nghề Cộng Hòa

46

H. Quốc Oai

QH cũ, chưa XD

10

Cụm CN làng nghề Liệp Tuyết

47

H. Quốc Oai

Qui hoạch mới

20

Cụm CN làng nghề Sài Sơn

89

THỊ XÃ SƠN TÂY

1 cụm

9

VI

TX. Sơn Tây

Đang hoạt động

9

48

Cụm CN làng nghề Phú Thịnh

VII HUYỆN BA VÌ

11 cụm

55

H. Ba Vì

QH cũ, chưa XD

5

49

Cụm CN làng nghề Tản Lĩnh

H. Ba Vì

QH cũ, chưa XD

5

50

Cụm CN làng nghề Minh Quang

H. Ba Vì

QH cũ, chưa XD

5

51

Cụm CN làng nghề Tản Hồng

H. Ba Vì

QH cũ, chưa XD

5

52

Cụm CN làng nghề Đông Quang

H. Ba Vì

QH cũ, chưa XD

5

53

Cụm CN làng nghề Khánh Thượng

H. Ba Vì

QH cũ, chưa XD

5

54

Cụm CN làng nghề Đồng Thái

H. Ba Vì

QH cũ, chưa XD

5

55

Cụm CN làng nghề Sơn Đà

H. Ba Vì

QH cũ, chưa XD

5

56

Cụm CN làng nghề Phong Vân

H. Ba Vì

QH cũ, chưa XD

5

57

Cụm CN làng nghề Chu Minh

H. Ba Vì

QH cũ, chưa XD

5

58

Cụm CN làng nghề Vạn Thắng

H. Ba Vì

QH cũ, chưa XD

5

59

Cụm CN làng nghề Thụy An

5 cụm

VIII HUYỆN CHƯƠNG MỸ

41

H. Chương Mỹ

Đang hoạt động

10

60

Cụm CN làng nghề Phụng Châu

H. Chương Mỹ

Đang hoạt động

5

61

Cụm CN làng nghề Đông Sơn

H. Chương Mỹ

Đang hoạt động

6

62

Cụm CN làng nghề Đại Yên

H. Chương Mỹ

QH cũ, chưa XD

10

63

Cụm CN làng nghề Hòa Chính

H. Chương Mỹ

10

64

Cụm CN làng nghề Thụy Hương

IX HUYỆN THANH OAI

7 cụm

61

H. Thanh Oai

Đang hoạt động

6

65

Cụm CN làng nghề Thanh Thùy

H. Thanh Oai

QH cũ, chưa XD

5

66

Cụm CN làng nghề Dân Hòa

H. Thanh Oai

QH cũ, chưa XD

10

67

Cụm CN làng nghề Tam Hưng

H. Thanh Oai

QH cũ, chưa XD

10

68

Cụm CN làng nghề Kim Thư

H. Thanh Oai

QH cũ, chưa XD

10

69

Cụm CN làng nghề Hồng Dương

H. Thanh Oai

QH cũ, chưa XD

10

70

Cụm CN làng nghề Phương Trung

H. Thanh Oai

Qui hoạch mới

10

71

Cụm CN làng nghề Thanh Lương

90

X

QUẬN HÀ ĐÔNG

4 cụm

58

72

Q. Hà Đông

Đang hoạt động

13

Cụm CN làng nghề Đa Sỹ

73

Q. Hà Đông

Đang hoạt động

15

Cụm CN làng nghề Vạn Phúc

74

Q. Hà Đông

QH cũ, chưa XD

20

Cụm CN làng nghề Dương Nội

Cụm CN làng nghề Thượng Mạo -

75

Q. Hà Đông

Qui hoạch mới

10

Phú Lương

XI HUYỆN THƯỜNG TÍN

26 cụm

147

76

H. Thường Tín

13

Đang hoạt động

Cụm CN làng nghề Duyên Thái

77

H. Thường Tín

Đang hoạt động

7

Cụm CN làng nghề Vạn Điểm

78

H. Thường Tín

Đang hoạt động

5

Cụm CN làng nghề Ninh Sở

79

H. Thường Tín

Đang hoạt động

8

Cụm CN làng nghề Tiền Phong

80

H. Thường Tín

Đang hoạt động

7

Cụm CN làng nghề Hòa Bình

81

H. Thường Tín

QH cũ, chưa XD

5

Cụm CN làng nghề Chương Dương

82

H. Thường Tín

QH cũ, chưa XD

5

Cụm CN làng nghề Hồng Vân

83

H. Thường Tín

QH cũ, chưa XD

5

Cụm CN làng nghề Hiền Giang 1

84

H. Thường Tín

QH cũ, chưa XD

5

Cụm CN làng nghề Văn Tự

85

H. Thường Tín

QH cũ, chưa XD

5

Cụm CN làng nghề Dũng Tiến

86

H. Thường Tín

QH cũ, chưa XD

5

Cụm CN làng nghề Khánh Hà

87

H. Thường Tín

QH cũ, chưa XD

5

Cụm CN làng nghề Lê Lợi

88

H. Thường Tín

QH cũ, chưa XD

5

Cụm CN làng nghề Nguyễn Trãi

89

H. Thường Tín

QH cũ, chưa XD

5

Cụm CN làng nghề Nghiêm Xuyên

90

H. Thường Tín

QH cũ, chưa XD

6

Cụm CN làng nghề Nhị Khê

91

H. Thường Tín

QH cũ, chưa XD

6

Cụm CN làng nghề Thắng Lợi

92

H. Thường Tín

QH cũ, chưa XD

5

Cụm CN làng nghề Văn Bình

93

H. Thường Tín

QH cũ, chưa XD

5

Cụm CN làng nghề Tự Nhiên

94

H. Thường Tín

QH cũ, chưa XD

5

Cụm CN làng nghề Vân Tảo

95

H. Thường Tín

QH cũ, chưa XD

5

Cụm CN làng nghề Tô Hiệu

96

H. Thường Tín

QH cũ, chưa XD

5

Cụm CN làng nghề Văn Phú

97

H. Thường Tín

QH cũ, chưa XD

5

Cụm CN làng nghề Minh Cường

98

H. Thường Tín

QH cũ, chưa XD

5

91

Cụm CN làng nghề TT Thường Tín

99

H. Thường Tín

QH cũ, chưa XD

5

Cụm CN làng nghề Hà Hồi

H. Thường Tín

5

100 Cụm CN làng nghề Hiền Giang 2

H. Thường Tín

QH cũ, chưa XD

5

101 Cụm CN làng nghề Liên Phương

XII HUYỆN PHÚ XUYÊN

12 cụm

64

7

Đang hoạt động

H. Phú Xuyên

102 Cụm CN làng nghề Chuyên Mỹ

7

Đang hoạt động

H. Phú Xuyên

103 Cụm CN làng nghề Phú Túc

5

QH cũ, chưa XD

H. Phú Xuyên

104 Cụm CN làng nghề Phú Yên

5

QH cũ, chưa XD

H. Phú Xuyên

105 Cụm CN làng nghề Vân Từ

5

QH cũ, chưa XD

H. Phú Xuyên

106 Cụm CN làng nghề Hồng Minh

5

QH cũ, chưa XD

H. Phú Xuyên

107 Cụm CN làng nghề Sơn Hà

5

QH cũ, chưa XD

H. Phú Xuyên

108 Cụm CN làng nghề Phượng Dực

5

QH cũ, chưa XD

H. Phú Xuyên

109 Cụm CN làng nghề Đại Thắng

5

QH cũ, chưa XD

H. Phú Xuyên

110 Cụm CN làng nghề Tri Trung

5

QH cũ, chưa XD

H. Phú Xuyên

111 Cụm CN làng nghề thôn Ngọ

5

QH cũ, chưa XD

H. Phú Xuyên

112 Cụm CN làng nghề thôn Trung

5

QH cũ, chưa XD

H. Phú Xuyên

113 Cụm CN làng nghề Bạch Hạ

39

5 cụm

XIII HUYỆN MỸ ĐỨC

10

Đang hoạt động

H. Mỹ Đức

114 Cụm CN làng nghề Phùng Xá

8

QH cũ, chưa XD

H. Mỹ Đức

115 Cụm CN làng nghề Thượng Lâm

6

QH cũ, chưa XD

H. Mỹ Đức

116 Cụm CN làng nghề Phù Lưu Tế

10

QH cũ, chưa XD

H. Mỹ Đức

117 Cụm CN làng nghề An Phú

5

QH cũ, chưa XD

H. Mỹ Đức

118 Cụm CN làng nghề Phúc Lâm

XIV HUYỆN ỨNG HÒA

14 cụm

130

8

Đang hoạt động

H. Ứng Hòa

119 Cụm CN làng nghề Xà Cầu

5

Đang hoạt động

H. Ứng Hòa

120 Cụm CN làng nghề Cầu Bầu

10

QH cũ, chưa XD

H. Ứng Hòa

121 Cụm CN làng nghề Sơn Công

10

QH cũ, chưa XD

H. Ứng Hòa

122 Cụm CN làng nghề Cao Thành

H. Ứng Hòa

10

QH cũ, chưa XD

123 Cụm CN làng nghề Trường Thịnh

H. Ứng Hòa

10

QH cũ, chưa XD

124 Cụm CN làng nghề Đồng Tân

H. Ứng Hòa

10

QH cũ, chưa XD

125 Cụm CN làng nghề Trầm Lộng

H. Ứng Hòa

10

QH cũ, chưa XD

126 Cụm CN làng nghề Hòa Lâm

H. Ứng Hòa

10

QH cũ, chưa XD

127 Cụm CN làng nghề Minh Đức

H. Ứng Hòa

10

QH cũ, chưa XD

128 Cụm CN làng nghề Kim Đường

H. Ứng Hòa

7

QH cũ, chưa XD

129 Cụm CN làng nghề Hòa Xá

H. Ứng Hòa

10

QH cũ, chưa XD

130 Cụm CN làng nghề Hoa Sơn

H. Ứng Hòa

10

QH cũ, chưa XD

131 Cụm CN làng nghề Hòa Phú

H. Ứng Hòa

10

QH cũ, chưa XD

132 Cụm CN làng nghề Lưu Hoàng

92

XV HUYỆN THANH TRÌ

5 cụm

35

H. Thanh Trì

Đang hoạt động

15

133 Cụm CN làng nghề Tân Triều

Thanh Trì

5

QH mới

134 Cụm CN làng nghề Hữu Hoà

Thanh Trì

5

QH mới

135 Cụm CN làng nghề Vạn Phúc

Thanh Trì

5

QH mới

136 Cụm CN làng nghề Duyên Hà

Thanh Trì

5

QH mới

137 Cụm CN làng nghề Tam Hiệp

XVI HUYỆN ĐÔNG ANH

2 cụm

13

H. Đông Anh

3

Đang hoạt động

138 Cụm CN làng nghề Vân Hà

H. Đông Anh

10

Đang hoạt động

139 Cụm CN làng nghề Liên Hà

XVII HUYỆN SÓC SƠN

2 cụm

40

H. Sóc Sơn

20

Qui hoạch mới

140 Cụm CN làng nghề Xuân Thu

H. Sóc Sơn

20

Qui hoạch mới

141 Cụm CN làng nghề Xuân Giang

XVIII HUYỆN GIA LÂM

5 cụm

80

H. Gia Lâm

17

Đang hoạt động

142 Cụm CN làng nghề Bát Tràng

H. Gia Lâm

13

Đang hoạt động

143 Cụm CN làng nghề Kiêu Kỵ

H. Gia Lâm

10

Qui hoạch mới

144 Cụm CN làng nghề Kim Lan

Gia Lâm

20

QH mới

145 Cụm CN làng nghề Đình Xuyên

Gia Lâm

20

QH mới

146 Cụm CN làng nghề Dương Hà

93

XIX HUYỆN TỪ LIÊM

3 cụm

12

Từ Liêm

8

QH mới

147 Cụm CN làng nghề Cổ Nhuế

Từ Liêm

2

QH mới

148 Cụm CN làng nghề Mễ Trì

Từ Liêm

2

QH mới

149 Cụm CN làng nghề Xuân Đỉnh

Nguồn: Báo cáo rà soát Qui hoạch tổng thể phát triển khu, cụm công nghiệp đến

năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 - Sở Công Thương Hà Nội năm 2012

94

Phụ lục 4:

DANH SÁCH CÁC LÀNG NGHỀ KHÔNG KHUYẾN KHÍCH PHÁT TRIỂN

Thời Làng nghề Nội dung gian

Chuyển đổi từ chế biến tinh bột

Làng nghề Minh Khai - Hoài Đức sang chế biến thực phẩm (bánh

2011 kẹo) và đưa các doanh nghiệp

- và hộ sản xuất lớn gây ô nhiễm

2015 môi trường chuyển vào Cụm Làng nghề Dương Liễu - Hoài Đức công nghiệp làng nghề Dương

Liễu

Làng nghề Dụ Tiền - Thanh Oai

Làng nghề Từ Am - Thanh Oai Đưa 50% các doanh nghiệp, 2016 Làng nghề Rùa Hạ - Thanh Oai các hộ sản xuất lớn vào các - cụm công nghiệp làng nghề Làng nghề Cát Quế - Hoài Đức 2020 Cát Quế, Thanh Thùy… Làng nghề Ngự Câu - Hoài Đức

Làng nghề Yên Sở - Hoài Đức

Làng nghề Thượng Thôn - Đan Phượng Đưa 50% các doanh nghiệp, các

Làng nghề Trúng Đích - Đan Phượng hộ sản xuất cơ kim khí vào 2121 Làng nghề Bá Nội - Đan Phượng CCN làng nghề Thanh Thùy và - CCN Liên Hà, Hạ Mỗ, Hồng Làng nghề Gia Vĩnh - Thanh Oai 2030 Hà (Đan Phượng), Hòa Bình Làng nghề Rùa Thượng - Thanh Oai

(Thường Tín) Làng nghề Thụy Ứng - Thường Tín

Nguồn: Qui hoạch tổng thể phát triển nghề, làng nghề Hà Nội đến

năm 2020, tầm nhìn đến 2030 - UBND thành phố Hà Nội