intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Nguy cơ ung thư cho người mẹ trong hỗ trợ sinh sản

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:6

9
lượt xem
6
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Đối với người mẹ, việc sử dụng các loại thuốc kích thích buồng trứng trong hỗ trợ sinh sản đã gây nên những lo lắng về nguy cơ mắc các loại ung thư liên quan nội tiết như ung thư vú, ung thư buồng trứng và ung thư nội mạc tử cung. Vì vậy, nhiều nghiên cứu đoàn hệ lớn đã và đang được thực hiện nhằm đánh giá những nguy cơ này.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Nguy cơ ung thư cho người mẹ trong hỗ trợ sinh sản

  1. TỔNG QUAN Nguy cơ ung thư cho người mẹ trong hỗ trợ sinh sản Nguyễn Hà Ngọc Thiên Thanh1*, Dương Thị Ngọc Châu2, Thân Trọng Thạch3 1 Bộ môn Phụ sản, Khoa Y, Đại học Tân Tạo 2 Đại học Y Dược thành phố Hồ Chí Minh 3 Bộ môn Phụ sản, Đại học Y Dược thành phố Hồ Chí Minh doi: 10.46755/vjog.2023.4-5.1375 Tác giả liên hệ (Corresponding author): Nguyễn Hà Ngọc Thiên Thanh, email: thanh.nguyen@ttu.edu.vn Nhận bài (received): 30/9/2023 - Chấp nhận đăng (accepted): 15/11/2023. Tóm tắt Ngày nay, cùng với sự phát triển của các kĩ thuật hỗ trợ sinh sản, nhiều cặp vợ chồng đã có cơ hội mang thai những đứa con của mình. Tuy nhiên, những nguy cơ bất lợi về sức khoẻ lâu dài của mẹ, đặc biệt là nguy cơ ung thư, luôn là vấn đề được quan tâm và xem xét kĩ lưỡng. Đối với người mẹ, việc sử dụng các loại thuốc kích thích buồng trứng trong hỗ trợ sinh sản đã gây nên những lo lắng về nguy cơ mắc các loại ung thư liên quan nội tiết như ung thư vú, ung thư buồng trứng và ung thư nội mạc tử cung. Vì vậy, nhiều nghiên cứu đoàn hệ lớn đã và đang được thực hiện nhằm đánh giá những nguy cơ này. Hầu hết các kết quả đều cho thấy hỗ trợ sinh sản không làm gia tăng các loại ung thư này ở người phụ nữ. Tuy nhiên, vẫn còn một vài nghiên cứu cho thấy nguy cơ ung thư ở nhóm thực hiện hỗ trợ sinh sản cao hơn so với nhóm không thực hiện. Đa số những nghiên cứu này đều có những nhược điểm như cỡ mẫu nhỏ, số ca mắc ung thư thấp, sai lệch do thiết kế nghiên cứu và chưa hiệu chỉnh đầy đủ với các yếu tố nguy cơ. Cần lưu ý rằng, bản thân dân số vô sinh đã là yếu tố nguy cơ của ung thư trong tương lai. Với những bằng chứng hiện tại cho thấy, hỗ trợ sinh sản không làm gia tăng nguy cơ ung thư ở những người phụ nữ vô sinh. Từ khoá: vô sinh, hỗ trợ sinh sản, kích thích buồng trứng, thụ tinh trong ống nghiệm, bơm tinh trùng vào buồng tử cung, clomiphene citrate, các gonadotropin, ung thư vú, ung thư buồng trứng, ung thư nội mạc tử cung. Cancer risk among mothers treated with assisted reproductive techniques Nguyen Ha Ngoc Thien Thanh1*, Duong Thi Ngoc Chau2, Than Trong Thach3 1 Obstetrics and Gynecology Department, Tan Tao University 2 University of Medicine and Pharmacy at Ho Chi Minh City 3 Obstetrics and Gynecology Department, University of Medicine and Pharmacy at Ho Chi Minh City Abstract Nowadays, with the development of assisted reproductive techniques, infertile couples have many opportunities to conceive their biological children. However, the long-term adverse health risks of the mother, especially the risk of cancer, are always a matter of concern and scrutiny. For the mother, the use of ovarian stimulating drugs in assisted reproduction has raised concerns about the risk of endocrine-related cancers such as breast cancer, ovarian cancer, and endometrial cancer. Therefore, many extensive cohort studies have been conducted to assess these risks. Most results show that assisted reproduction does not increase the risk of these cancers in women. However, a few studies show a higher risk of cancer in the assisted reproductive group than in the natural conceived group or infertile group without the treatment. Most of these studies have disadvantages such as a small sample size, low number of cancer cases, bias due to study design, and inadequate adjustment for confounders. In addition, infertility itself is a risk factor for cancer. Nevertheless, current evidence suggests that assisted reproduction does not increase cancer risk in infertile women. Keywords: infertility, assisted reproductive techniques, ovarian stimulation, in vitro fertilization, intrauterine insemination, clomiphene citrate, gonadotropins, breast cancer, ovarian cancer, endometrial cancer. 1. TỔNG QUAN mà HTSS mang lại, nguy cơ về sự xuất hiện ung thư trong Ngày nay, với sự phát triển của các kĩ thuật hỗ trợ sinh tương lai cho người mẹ luôn là vấn đề được quan tâm. Bởi sản (HTSS), ngày càng nhiều cặp vợ chồng hiếm muộn lẽ, việc sử dụng các loại thuốc HTSS vẫn tồn đọng những đã được điều trị và có cơ hội mang thai những đứa con lo lắng về nguy cơ ung thư liên quan đến nội tiết như ung của mình. Năm 2014, dựa trên báo cáo của 76 quốc gia, thư vú, ung thư buồng trứng và ung thư nội mạc tử cung ước tính đã có gần 2 triệu chu kì HTSS được thực hiện [1] (NMTC) [3]. Tuy vậy, nhưng do điều trị vô sinh ngày càng và chỉ tính riêng ở Mỹ, trong năm 2019 cũng đã thực hiện phổ biến, nhiều nghiên cứu đã được tiến hành nhằm đánh khoảng 330 773 chu kì [2]. Song song với những lợi ích giá mối quan hệ giữa HTSS với nguy cơ ung thư cho mẹ. 32 Nguyễn Hà Ngọc Thiên Thanh và cs. Tạp chí Phụ sản 2023; 21(4-5): 32-37. doi: 10.46755/vjog.2023.4-5.1375
  2. 2. NGUY CƠ UNG THƯ CHO NGƯỜI MẸ TRONG HỖ TRỢ vô sinh có thể đã là yếu tố nguy cơ của ung thư, các tác SINH SẢN giả cũng phân tích so sánh giữa nhóm thực hiện HTSS Trong HTSS, việc sử dụng các loại thuốc nội tiết và nhóm dân số vô sinh không điều trị hiếm muộn, kết nhằm mục đích thu được nhiều nang noãn trưởng thành quả đều cho thấy không có sự khác biệt về nguy cơ ung trong một chu kì kích thích buồng trứng (KTBT). Những thư vú giữa hai nhóm về HTSS nói chung [6], [7] và từng thuốc thường được sử dụng là clomiphene citrate (CC) loại thuốc KTBT nói riêng [8] (p > 0,05). Mặt khác, trong và các gonadotropin. Các thuốc này đều dẫn đến hệ tổng quan của Barcroft [6], một điều thú vị là khi các quả là làm tăng nồng độ estrogen lưu hành trong máu tác giả loại trừ những nghiên cứu nhỏ (chỉ nhận những của người phụ nữ. Chính điều này đã dẫn đến những nghiên cứu có số ca mắc ung thư vú > 800 người) thì mối lo ngại về việc liệu các kĩ thuật HTSS có làm người kết quả lại cho thấy những người phụ nữ điều trị vô mẹ tăng nguy cơ mắc các loại ung thư nhạy với hóc sinh lại có nguy cơ ung thư vú thấp hơn những người môn như ung thư vú, ung thư buồng trứng hay ung thư không điều trị với OR 0,71 (95%CI 0,54 - 0,95; p < 0,05; NMTC hay không. 6 NC). Ngoài ra, tổng quan của Cullinane [7] cũng cho 2.1. Ung thư vú thấy việc thực hiện > 6 chu kì hay theo dõi dài hạn hơn Ung thư vú được biết đến là loại ung thư phổ biến 10 năm thì cũng không làm gia tăng nguy cơ ung thư nhất ở giới nữ (25%) và chiếm 1/6 những trường hợp tử vú cho người mẹ với OR lần lượt là 0,92 (95%CI 0,73 - vong do ung thư. Tuy nhiên, theo thống kê năm 2020 1,16; p = 0,94; 6 NC) và 0,97 (95%CI 0,85 - 1,12; p = 0,71; của Cơ quan nghiên cứu Ung thư quốc tế (trực thuộc 7 NC). Có thể thấy, việc sử dụng thuốc nội tiết trong tổ chức Y tế thế giới - GLOBOCAN), ung thư vú đã trở HTSS đều không làm gia tăng nguy cơ ung thư vú cho thành loại ung thư có tần suất mắc cao nhất ở cả hai người mẹ. giới (11,7%) [4]. Nguyên nhân của ung thư vú hiện chưa Mặt khác, việc thực hiện HTSS không chỉ dừng lại ở biết rõ và thường do nhiều yếu tố tác động. Một trong việc dùng thuốc mà còn có thể cần đến thụ tinh trong những giả thuyết được cho là dẫn đến ung thư vú đó ống nghiệm (IVF) trong một số trường hợp. Liệu IVF có là do cơ thể bị phơi nhiễm với nồng độ estrogen cao góp phần làm gia tăng nguy cơ ung thư vú cho phụ nữ kéo dài, chẳng hạn như những phụ nữ không sinh con, hay không? Trong tổng quan hệ thống và phân tích gộp có kinh sớm, mãn kinh muộn hoặc không cho con bú của Barcroft và cộng sự năm 2021 [6] cũng phân tích [5]. Vì vậy, trong HTSS, người mẹ cũng bị phơi nhiễm nhóm nhỏ những phụ nữ vô sinh, chỉ thực hiện IVF so với nồng độ cao estrogen và điều đó được cho rằng với dân số chung, kết quả cho thấy nguy cơ ung thư vú ở sẽ làm tăng nguy cơ ung thư vú. Nhiều nghiên cứu đã nhóm điều trị lại thấp hơn với OR 0,75 (95%CI 0,61 - 0,92; và đang được tiến hành nhằm đánh giá nguy cơ này p < 0,05; 9 NC). Ngoài ra, một nghiên cứu đoàn hệ hồi trong khoảng thời gian hơn 20 năm gần đây [3]. Các cứu gần đây của Machtinger và cộng sự năm 2022 [9] tổng quan hệ thống và phân tích gộp gần đây cho thấy đã so sánh nguy cơ mắc ung thư vú giữa nhóm những nguy cơ ung thư vú ở nhóm thực hiện HTSS so với dân phụ nữ vô sinh thực hiện HTSS (có IVF) và những phụ số chung là không khác nhau. Cụ thể, tổng quan của nữ chỉ dùng thuốc (Medically Assisted Reproduction - Barcroft và cộng sự năm 2021 [6] trên 29 nghiên cứu MAR) trên 97 098 phụ nữ (32 366 người cho mỗi nhóm (NC) hồi cứu (21 070 337 người) đã báo cáo nguy cơ HTSS, MAR và dân số chung). Sau thời gian theo dõi 9,1 này là OR 0,86 (95%CI 0,73 - 1,01; p = 0,07; 5 NC) và ± 6,3 năm, nguy cơ ung thư vú giữa HTSS/dân số chung tổng quan của Cullinane và cộng sự năm 2022 [7] trên là HR = 1,10 (95%CI 0,94 - 1,28; p > 0,05) và HTSS/MAR 25 NC (24 NC đoàn hệ và 1 NC bệnh chứng) gồm 617 là HR = 0,99 (95%CI 0,86 - 1,16; p > 0,05) cho thấy sự gia 479 phụ nữ, sau thời gian theo dõi lên đến 30 năm cho tăng nguy cơ không đáng kể. Hơn nữa, số chu kì HTSS kết quả OR 0,97 (95%CI 0,90 – 1,04; p = 0,14; 24 NC). không làm ảnh hưởng lên nguy cơ mắc ung thư vú (p = Khi xét riêng từng loại thuốc KTBT, tổng quan hệ thống 0,999) hay sự hiện diện của đột biến gen BRCA1/2 hoặc và phân tích gộp của Beebeejaun và cộng sự năm 2021 giai đoạn của khối u cũng cho thấy sự khác biệt không [8] gồm 20 NC (9 NC hồi cứu, 5 NC tiến cứu, 5 NC bệnh có ý nghĩa thống kê giữa các nhóm (p > 0,05). Như vậy, chứng và 1 NC so sánh) đã cho thấy khi sử dụng CC dù có thực hiện IVF hay không thì HTSS cũng không để KTBT không làm tăng nguy cơ ung thư vú khi so với làm gia tăng nguy cơ ung thư vú ở người phụ nữ. nhóm chứng với pOR 1,03 (95%CI 0,8 – 1,34; p = 0,97; Dù kết quả của nhiều nghiên cứu cho thấy HTSS 19 NC). Kết quả cũng tương tự trong tổng quan của không làm gia tăng nguy cơ ung thư vú ở người phụ nữ Barcroft (OR 1,08; 95%CI 0,89 –1,30; p = 0,45; 7 NC) [6] nhưng vẫn có một vài nghiên cứu cho thấy có sự gia và Cullinane (OR 1,07; 95%CI 0,98 - 1,16; p = 0,12; 9 NC) tăng nguy cơ này. Chẳng hạn, một nghiên cứu đoàn hệ [7]. Đối với các phác đồ khác như các gonadotropin của Vassard và cộng sự được công bố vào năm 2021 [6], [7], [8], CC + các gonadotropin [8], hMG [6], CC + [10] giữa 61 579 phụ nữ thực hiện HTSS và 579 760 phụ hMG [6], hCG [7] hoặc progesterone [7], các tổng quan nữ cùng độ tuổi trong dân số chung cho thấy sau khi đều cho thấy nguy cơ ung thư giữa các nhóm dân số là theo dõi lên đến 23 năm cho kết quả nguy cơ ung thư không khác nhau (p > 0,05). Nhận thấy bản thân dân số ở nhóm HTSS cao hơn nhóm chứng (HR = 1,14; 95%CI Nguyễn Hà Ngọc Thiên Thanh và cs. Tạp chí Phụ sản 2023; 21(4-5): 32-37. doi: 10.46755/vjog.2023.4-5.1375 33
  3. 1,12 - 1,16; p < 0,05), điều này càng thấy rõ hơn ở những vấp phải một số vấn đề như bản chất hồi cứu gây thiếu phụ nữ trên 40 tuổi (HR = 1,37; 95%CI 1,29 - 1,45; p < sót thông tin hoặc chưa được hiệu chỉnh đầy đủ với 0,05). Lí giải cho sự gia tăng này có thể do phụ nữ lớn những yếu tố gây nhiễu hoặc do số ca mắc bệnh khá tuổi dễ nhạy cảm với yếu tố nội tiết hoặc do phác đồ thấp dẫn đến sai lệch khi chọn mẫu và khoảng tin cậy HTSS đã thay đổi nhiều qua thời gian hoặc có thể do cũng trải dài khá rộng. Điều này được minh chứng rõ những nguyên nhân vô sinh tiềm ẩn. Tuy nhiên, một số hơn với những nghiên cứu có số ca mắc bệnh nhiều hơn khía cạnh vẫn chưa được khai thác kĩ trong nghiên cứu thì đều không tìm thấy sự gia tăng nguy cơ giữa HTSS do bản chất của thiết kế hồi cứu. Cho nên, kết quả này và nguy cơ ung thư vú ở người phụ nữ. Cuối cùng, tổng cần được kiểm chứng bởi những nghiên cứu khác với quan cho rằng chưa tìm được những bằng chứng đủ thiết kế tốt hơn. Vì vậy, với những bằng chứng hiện tại thuyết phục về sự gia tăng nguy cơ ung thư buồng trứng đều cho thấy việc sử dụng thuốc để KTBT nói riêng và của những thuốc KTBT. Trong tổng quan của Barcroft HTSS nói chung không làm gia tăng nguy cơ ung thư vú năm 2021 [6] cũng cho thấy không có sự gia tăng nguy ở người phụ nữ. cơ ung thư buồng trứng so với dân số chung (OR 1,19; 2.2. Ung thư buồng trứng 95%CI 0,98 - 1,46; p = 0,08; 19 NC). Kết quả cũng tương Ung thư buồng trứng là ung thư chỉ chiếm 3,4% (năm tự khi xét riêng các gonadotropin (OR 1,10; 95%CI 0,53 2020) [4]. Một vài giả thuyết đã được đề cập khi nói - 2,27; p > 0,05; 2 NC). Nhưng khi xét đến CC thì lại cho về nguyên nhân ung thư buồng trứng, đặc biệt là ung thấy tăng nguy cơ ung thư (OR 1,40; 95%CI 1,10 - 1,77; thư biểu mô, trong đó hai giả thuyết thường hay được p = 0,006; 6 NC). Dù vậy, khi so sánh với dân số vô sinh nhắc đến là thuyết “phóng noãn liên tục” (incessant không thực hiện HTSS, kết quả cũng cho thấy không có ovulation) và “nồng độ các gonadotropin cao” (elevated sự khác biệt về nguy cơ (OR 0,84; 95%CI 0,70 - 1,01; p gonadotropin levels). Về cơ bản, cả hai giả thuyết đều > 0,05; 11 NC) hoặc khi đã loại trừ các nghiên cứu nhỏ cho rằng những chấn động ở vỏ buồng trứng do phóng (< 800 ca ung thư buồng trứng) (OR 1,28; 95%CI 0,85 - noãn hoặc do nồng độ cao các gonadotropin sẽ làm 1,91; p > 0,05; 4 NC). Vậy, kết quả của nghiên cứu vẫn bộc lộ các yếu tố sinh ung. Ngoài ra, còn có một số giả cho thấy thuốc KTBT không đóng góp thêm nguy cơ thuyết khác như ung thư có thể có nguồn gốc từ các ung thư buồng trứng ở người phụ nữ thực hiện HTSS. cơ quan khác ở vùng chậu hoặc từ ống dẫn trứng [5], Dù đa số các nghiên cứu đều cho kết quả rằng các [11]. Từ những giả thuyết trên cho thấy bản thân yếu tố thuốc KTBT không làm tăng nguy cơ ung thư buồng vô sinh ở người phụ nữ có thể đã là một yếu tố nguy cơ trứng, một vài nghiên cứu gần đây cũng cho thấy sự của ung thư buồng trứng [12], do thời gian vô sinh kéo gia tăng nguy cơ. Một nghiên cứu đoàn hệ gần đây dài dẫn đến nhiều chu kì rụng trứng hoặc do những bất hơn của Spaan và cộng sự năm 2021 [14] trên 30 625 thường ở buồng trứng gây vô sinh cũng có thể là nguy trường hợp thực hiện HTSS và 9988 phụ nữ vô sinh cơ của ung thư sau này [11]. Điều này càng gây thêm lo không HTSS, sau khoảng thời gian theo dõi trung bình ngại khi họ phải sử dụng các loại thuốc KTBT để thực 24 năm cho thấy nguy cơ ung thư buồng trứng ở nhóm hiện HTSS vì những thuốc này vừa tạo ra nồng độ cao thực hiện HTSS cao hơn so với dân số chung (SIR 1,43; các gonadotropin, vừa tạo ra nhiều vị trí tổn thương ở 95%CI 1,18 - 1,71; p < 0,05). Khi xét về số chu kì thực lớp vỏ buồng trứng. Tuy nhiên, liệu rằng sự phơi nhiễm hiện HTSS, nguy cơ này lại không tăng theo số chu kì một thời gian ngắn với các thuốc HTSS có thể làm gia (p = 0,34) và khi theo dõi hơn 20 năm thì nguy cơ này tăng nguy cơ ung thư buồng trứng của bản thân người cũng không khác biệt so với dân số chung (SIR 1,34; phụ nữ đó hay không? 95%CI 0,91 – 1,90; p > 0,05). Trái lại, khi so sánh nhóm Mối liên quan giữa hỗ trợ sinh sản và nguy cơ ung thư thực hiện HTSS với nhóm vô sinh không HTSS thì lại buồng trứng quan sát thấy không có sự tăng nguy cơ ung thư buồng Trong công cuộc tìm kiếm mối liên hệ giữa các trứng giữa 2 nhóm (HR 1,02; 95%CI 0,70 - 1,50; p > 0,05). thuốc KTBT và nguy cơ ung thư buồng trứng ở người Ngoài ra, những phụ nữ đã sinh con thì nguy cơ ung phụ nữ, đa số các nghiên cứu đều cho thấy không có sự thư thấp hơn so với những người chưa có con (HR 0,54; gia tăng nguy cơ ở những người phụ nữ điều trị vô sinh. 95%CI 0,39 - 0,75; p < 0,05) và nguy cơ ung thư cũng Tổng quan của thư viện Cochrane do Rizzuto và cộng giảm dần theo sự tăng của số chu kì HTSS thành công sự năm 2019 [13] trên 24 NC đoàn hệ và 13 NC bệnh (HR 0,37; 95%CI 0,18 - 0,73; p = 0,001). Như vậy, kết quả chứng (4.684.724 người phụ nữ) đã tổng hợp những của nghiên cứu cũng đã cho thấy sự gia tăng nguy cơ bằng chứng về mối liên hệ này. Phần lớn các NC đoàn ung thư so với dân số chung được cho rằng do những hệ và NC bệnh chứng đều cho thấy các thuốc trong nguyên nhân vô sinh hoặc do số người chưa có con ở HTSS nói chung và từng phác đồ KTBT nói riêng (CC, CC nhóm HTSS nhiều hơn so với dân số chung và HTSS + các gonadotropin, các gonadotropin và progestogen) không làm gia tăng nguy cơ ung thư buồng trứng ở đều không làm gia tăng nguy cơ ung thư buồng trứng. người phụ nữ. Tuy nhiên, vẫn còn một vài nghiên cứu vẫn cho kết quả Một số nghiên cứu cũng cho kết quả rằng nguy cơ “có sự gia tăng nguy cơ”. Những nghiên cứu này thường ung thư buồng trứng cao hơn ở nhóm phụ nữ thực hiện 34 Nguyễn Hà Ngọc Thiên Thanh và cs. Tạp chí Phụ sản 2023; 21(4-5): 32-37. doi: 10.46755/vjog.2023.4-5.1375
  4. HTSS, tuy nhiên khi xét cụ thể về nguyên nhân vô sinh Vậy, cho đến thời điểm hiện tại, vẫn chưa có đủ bằng thì kết quả lại có khác biệt. Chẳng hạn, nghiên cứu đoàn chứng để kết luận về mối liên hệ giữa HTSS và nguy cơ hệ của Vassard năm 2019 [15] cho thấy nguy cơ ung ung thư buồng trứng hay BOT. Nếu có nghiên cứu báo thư buồng trứng trên những phụ nữ thực hiện HTSS cáo về sự gia tăng nguy cơ thì có thể đều do những so với dân số chung (HR 1,20; 95%CI 1,10 - 1,31; p < nguyên nhân vô sinh tiềm ẩn hơn là do bản thân các 0,05 [15]). Tuy nhiên, khi xét về nguyên nhân vô sinh, ta thuốc KTBT trong HTSS. nhận thấy nguy cơ chỉ tăng cao ở nhóm vô sinh do yếu 2.3. Ung thư nội mạc tử cung tố nữ (HR 1,36; 95%CI 1,25 – 1,48; p < 0,05) mà cụ thể Trong các loại ung thư thân tử cung, ung thư NMTC là nhóm phụ nữ mắc lạc NMTC (HR 3,78; 95%CI 2,45 là dạng thường gặp nhất. Đây cũng là loại ung thư liên – 5,84; p < 0,05). Còn những nguyên nhân do yếu tố quan đến sự phơi nhiễm với nồng độ cao estrogen mà nam hoặc vô sinh không rõ nguyên nhân thì các tác giả không có sự hiện diện của progesterone. Một số yếu không tìm thấy sự gia tăng nguy cơ này (p > 0,05). Kết tố nguy cơ được biết đến như béo phì, đái tháo đường, quả này đã ủng hộ cho quan điểm rằng chính những tăng huyết áp, PCOS, không sinh con, mãn kinh muộn nguyên nhân vô sinh mới làm gia tăng nguy cơ ung thư hay dùng nội tiết thay thế. Ngược lại, một vài yếu tố buồng trứng ở người phụ nữ, không phải do HTSS gây bảo vệ có thể kể đến như dùng thuốc tránh thai nội tiết nên. Mặt khác, mối liên quan giữa vấn đề vô sinh và phối hợp, sinh nhiều con hoặc sinh con muộn [3], [5]. Vì nguy cơ ung thư buồng trứng cũng đã được chứng minh các thuốc KTBT trong HTSS cũng tạo ra nồng độ cao qua nhiều nghiên cứu trước đây [12]. Vì vậy, hiện tại vẫn estrogen trong máu nên việc sử dụng những thuốc này chưa đủ những bằng chứng cho thấy HTSS làm gia tăng được cho rằng làm gia tăng nguy cơ ung thư NMTC ở ung thư buồng trứng ở người phụ nữ. người phụ nữ. Tuy nhiên, vì người ta cũng nhận thấy Mối liên quan giữa hỗ trợ sinh sản và nguy cơ xuất hiện rằng những người phụ nữ vô sinh cũng vốn là yếu tố u buồng trứng giáp biên nguy cơ của ung thư NMTC [12], vì vậy, mối liên hệ giữa U buồng trứng giáp biên (Borderline Ovarian Tumor các thuốc KTBT trong HTSS và nguy cơ xảy ra loại ung - BOT) là dạng u nằm giữa lành tính và ác tính, chiếm thư này còn cần được làm rõ qua các nghiên cứu. khoảng 15% các u biểu mô ở buồng trứng. Thông Tổng quan hệ thống và phân tích gộp của thư viện thường, tiên lượng của BOT khá tốt với tỉ lệ sống 10 Cochrane do Skalkidou và cộng sự thực hiện năm năm lên đến 95% [3], [16]. Tuy không xâm lấn và độ 2017 [17] dựa trên 19 NC (16 NC đoàn hệ hồi cứu và ác cao như ung thư buồng trứng nhưng vẫn cần thận 3 NC bệnh chứng) với 1 937 880 người tham gia, báo trọng với BOT bởi lẽ đặc tính tái phát cao và đã có cáo nguy cơ ung thư NMTC ở nhóm HTSS gấp 1,75 nhiều trường hợp tử vong do đặc điểm này của BOT lần so với dân số chung (pooled RR 1,75; 95%CI 1,18 [16]. Vì vậy, trong các nghiên cứu về HTSS và nguy - 2,61; p = 0,006; 15 NC), nhưng khi so với nhóm vô cơ ung thư buồng trứng, BOT luôn được đánh giá cẩn sinh không HTSS thì nguy cơ này là không khác biệt trọng. Tương tự như ung thư buồng trứng, hiện tại vẫn (pooled RR 0,96; 95%CI 0,67 - 1,37; p = 0,81; 6 NC). Khi chưa đủ bằng chứng đủ thuyết phục về việc các thuốc xét riêng từng loại thuốc, đối với CC, nguy cơ ung thư ở KTBT làm gia tăng nguy cơ BOT ở người phụ nữ như nhóm HTSS gấp 1,87 lần so với dân số chung (pooled trong tổng quan của Rizzuto năm 2019 [13] đã nhận RR 1,87; 95%CI 1,00 – 3,48; p = 0,050; 4 NC) và nguy định. Một số nghiên cứu gần đây hơn cũng cho kết quả cơ này cũng chỉ khác biệt so với dân số chung khi sử về sự gia tăng nguy cơ BOT trên những người phụ nữ dụng liều cao ≥ 2000 mg (pooled RR 5,48; 95%CI 2,28 - thực hiện HTSS so với dân số chung. Chẳng hạn, trong 13,17; p = 0,00015; 2 NC) hoặc ≥ 7 chu kì HTSS (pooled nghiên cứu đoàn hệ của Spaan năm 2021 [14] cũng RR 4,17; 95%CI 1,35 - 12,94; p = 0,013; 2 NC). Khi so với báo cáo sự gia tăng nguy cơ này (SIR 2,20; 95%CI 1,66 dân số vô sinh, xu hướng kết quả cũng tương tự (p < - 2,86; p < 0,05) và ngay cả khi so sánh với dân số vô 0,05). Lí giải cho sự gia tăng nguy cơ khi dùng liều cao sinh thì kết quả cũng tương tự (HR 1,84; 95%CI 1,08 - CC rằng có thể do những tình trạng sức khoẻ đòi hỏi 3,14; p < 0,05). Tuy nhiên, nghiên cứu lại thất bại trong phải tăng liều CC gây nên và không thể phân biệt rạch việc tìm kiếm sự đáp ứng theo liều (p > 0,05). Hơn nữa, ròi hai tình trạng này. Đối với những phác đồ KTBT khác khi xét về nguyên nhân vô sinh thì nguy cơ BOT lại cao như các gonadotropin (pooled RR 2,12; 95%CI 0,79 - hơn ở nhóm phụ nữ vô sinh do bệnh lí ống dẫn trứng 5,64; p = 0,13; 2 NC), CC + các gonadotropin (pooled (HR 2,47; 95%CI 1,44 - 4,25; p < 0,05). Như vậy, tuy RR 1,18; 95%CI 0,57 - 2,44; p = 0,65; 2 NC) hay GnRH nghiên cứu cho kết quả là nguy cơ BOT tăng ở nhóm (pooled RR 1,21; 95%CI 0,65 - 2,27; p = 0,54) thì nguy người phụ nữ thực hiện HTSS hơn so với dân số chung, cơ ung thư khi so với dân số chung (các gonadotropin) nhưng sự hi vọng về đáp ứng theo liều lại không được hay dân số vô sinh (CC + các gonadotropin và GnRH) tìm thấy. Ngược lại, khi xét về những nguyên nhân vô là không có sự gia tăng nguy cơ. Như vậy, tổng quan sinh lại càng gợi ý rằng kết quả tăng này là do những cho thấy hiện tại vẫn chưa thể kết luận gì về nguy cơ nguyên nhân vô sinh gây nên nhiều hơn là do bản thân ung thư NMTC trên những người thực hiện HTSS dựa của các thuốc KTBT trong HTSS. trên những bằng chứng này. Nguyễn Hà Ngọc Thiên Thanh và cs. Tạp chí Phụ sản 2023; 21(4-5): 32-37. doi: 10.46755/vjog.2023.4-5.1375 35
  5. Những nghiên cứu gần đây hơn cũng cho kết quả 4. Sung H, Ferlay J, Siegel RL, Laversanne M, không có sự gia tăng về nguy cơ ung thư NMTC ở những Soerjomataram I, Jemal A, et al. Global cancer statistics người phụ nữ thực hiện HTSS. Cụ thể, tổng quan của 2020: GLOBOCAN estimates of incidence and mortality Barcroft năm 2021 [6] cũng cho thấy nguy cơ ung thư worldwide for 36 cancers in 185 countries. CA: a cancer NMTC trên những người thực hiện HTSS là không khác journal for clinicians. 2021;71(3):209-49. biệt so với dân số chung (OR 1,28; 95%CI 0,92 1,79; p = 5. Medicine PCotASfR. Fertility drugs and cancer: a 0,14; 15 NC). Khi xét riêng về CC thì nguy cơ này cũng guideline. Fertility and sterility. 2016;106(7):1617-26. không tăng so với nhóm chứng (OR 1,47; 95%CI 0,95 6. Barcroft JF, Galazis N, Jones BP, Getreu N, 2,28; p = 0,08; 8 NC). Ngoài ra, với những phác đồ KTBT Bracewell-Milnes T, Grewal KJ, et al. Fertility treatment khác cũng không làm gia tăng nguy cơ ung thư NMTC and cancers—the eternal conundrum: a systematic ở người phụ nữ, cụ thể: CC + hMG (OR 1,11; 95%CI 0,65 review and meta-analysis. Human Reproduction. 1,87; p > 0,05; 3 NC), hMG (OR 1,51; 95%CI 0,60 3,82; p 2021;36(4):1093-107. > 0,05; 3 NC) và các gonadotropin (OR 0,85; 95%CI 0,32 7. Cullinane C, Gillan H, Geraghty J, Evoy D, Rothwell J, 2,29; p > 0,05; 3 NC). Vậy, với những bằng chứng hiện McCartan D, et al. Fertility treatment and breast-cancer tại cho thấy các thuốc KTBT trong HTSS không làm gia incidence: meta-analysis. BJS open. 2022;6(1):zrab149. tăng nguy cơ ung thư NMTC ở người phụ nữ. 8. Beebeejaun Y, Athithan A, Copeland TP, Kamath MS, Sarris I, Sunkara SK. Risk of breast cancer in women 3. KẾT LUẬN treated with ovarian stimulation drugs for infertility: Sự phát triển mạnh mẽ của các kĩ thuật HTSS đã a systematic review and meta-analysis. Fertility and mang lại nhiều cơ hội cho những cặp vợ chồng hiếm Sterility. 2021;116(1):198-207. muộn hiện nay. Đồng thời, chúng cũng gây lo ngại về 9. Machtinger R, Fallach N, Goldstein I, Chodick G, nguy cơ mắc các ung thư nhạy với nội tiết như ung thư Schiff E, Orvieto R, et al. Ovarian stimulation for fertility vú, ung thư buồng trứng và ung thư NMTC cho người treatments and risk of breast cancer: a matched cohort phụ nữ do phải sử dụng các thuốc KTBT, làm thay đổi study. Human Reproduction. 2022;37(3):577-85. nội tiết trong cơ thể. Nhiều nghiên cứu lớn đã được 10. Vassard D, Pinborg A, Kamper-Jørgensen M, thực hiện và đều cho kết quả rằng HTSS không làm Lyng Forman J, Glazer C, Kroman N, et al. Assisted gia tăng nguy cơ các loại ung thư cho người mẹ. Tuy reproductive technology treatment and risk of breast nhiên, vẫn có một vài nghiên cứu báo cáo kết quả với cancer: a population-based cohort study. Human sự gia tăng nguy cơ có ý nghĩa thống kê. Cần lưu ý Reproduction. 2021;36(12):3152-60. rằng bản thân những người phụ nữ vô sinh vốn đã là 11. Diergaarde B, Kurta ML. Use of fertility drugs and yếu tố nguy cơ cao của những loại ung thư này và hầu risk of ovarian cancer. Current opinion in obstetrics & hết những nghiên cứu này đều vấp phải những vấn đề gynecology. 2014;26(3):125. như số ca ung thư thấp hoặc chưa được hiệu chỉnh 12. Murugappan G, Li S, Lathi RB, Baker VL, Eisenberg đầy đủ với các yếu tố gây nhiễu khác. Vì vậy, cới các ML. Risk of cancer in infertile women: analysis of US dữ liệu hiện nay, chưa đủ để kết luận rằng các phụ nữ claims data. Human Reproduction. 2019;34(5):894- vô sinh có sử dụng các thuốc KTBT làm tăng nguy cơ 902], [Lundberg FE, Iliadou AN, Rodriguez-Wallberg K, mắc các ung thư sinh dục, tuy nhiên mối lo ngại này Gemzell-Danielsson K, Johansson AL. The risk of breast vẫn luôn tồn tại trong thời đại bùng nổ các kĩ thuật and gynecological cancer in women with a diagnosis HTSS như hiện nay và đòi hỏi cần nhiều hơn nữa các of infertility: a nationwide population-based study. nghiên cứu về vấn đề này trong tương lai European journal of epidemiology. 2019;34(5):499-507. 13. Rizzuto I, Behrens RF, Smith LA. Risk of ovarian TÀI LIỆU THAM KHẢO cancer in women treated with ovarian stimulating 1. Chambers GM, Dyer S, Zegers-Hochschild drugs for infertility. Cochrane database of systematic F, de Mouzon J, Ishihara O, Banker M, et al. reviews. 2019(6). International Committee for Monitoring Assisted 14. Spaan M, Van den Belt-Dusebout AW, Lambalk CB, Reproductive Technologies world report: assisted van Boven HH, Schats R, Kortman M, et al. Long-term reproductive technology, 2014. Human Reproduction. risk of ovarian cancer and borderline tumors after 2021;36(11):2921-34. assisted reproductive technology. JNCI: Journal of the 2. CDC. 2019 Assisted Reproductive Technology National Cancer Institute. 2021;113(6):699-709. Fertility Clinic and National Summary Report. US Dept 15. Vassard D, Schmidt L, Glazer C, Lyng Forman J, of Health and Human Services. 2021. Kamper-Jørgensen M, Pinborg A. Assisted reproductive 3. Lundberg FE. Evidence of the long term safety of technology treatment and risk of ovarian cancer—a ART and fertility drugs regarding cancer risk. Long nationwide population-based cohort study. Human Term Safety of Assisted Reproduction: CRC Press. p. Reproduction. 2019;34(11):2290-6. 8-19. 16. Sun Y, Xu J, Jia X. The diagnosis, treatment, 36 Nguyễn Hà Ngọc Thiên Thanh và cs. Tạp chí Phụ sản 2023; 21(4-5): 32-37. doi: 10.46755/vjog.2023.4-5.1375
  6. prognosis and molecular pathology of borderline ovarian tumors: Current status and perspectives. Cancer Management and Research. 2020;12:3651. 17. Skalkidou A, Sergentanis TN, Gialamas SP, Georgakis MK, Psaltopoulou T, Trivella M, et al. Risk of endometrial cancer in women treated with ovary- stimulating drugs for subfertility. Cochrane Database of Systematic Reviews. 2017(3). Nguyễn Hà Ngọc Thiên Thanh và cs. Tạp chí Phụ sản 2023; 21(4-5): 32-37. doi: 10.46755/vjog.2023.4-5.1375 37
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2