Đề bài: Nhà văn Tô Hoài cho rằng tác phẩm Đôi mắt của Nam Cao "là bản tuyên <br />
ngôn nghệ thuật của các nhà văn hồi bấy giờ" hãy bình luận ý kiến trên<br />
<br />
Bài làm<br />
<br />
Mỗi khi cầm bút, người nghệ sĩ dù muốn hay không, dù nói ra hay không nói ra cũng viết <br />
dưới ánh sáng của một "tuyên ngôn nghệ thuật" nào đấy. Ta đã từng gặp những tuyên <br />
ngôn nghệ thuật của nhiều nhà văn, nhà thơ lớn của dân tộc như Nguyễn Đình Chiểu, <br />
Phan Bội Châu, Hồ Chí Minh, Sóng Hồng,... Những tuyên ngôn nghệ thuật này không còn <br />
là của riêng của các ông nữa. Chúng đã trở thành một tuyên ngôn nghệ thuật của cả một <br />
thế hệ cầm bút, hơn nữa còn là tuyên ngôn của cả một thời đại văn nghệ. Viết Đôi mắt, <br />
Nam Cao muốn qua đó, phát biểu những suy nghĩ của mình về quan điểm, lập trường, về <br />
cách nhìn, cách sống của một nhà văn đi theo kháng chiến. Nhà văn Tô Hoài xem đó là một <br />
tuyên ngôn nghệ thuật chung của các nhà văn hồi bấy giờ.<br />
<br />
Cứ như cái tên gọi của nó thỉ tác phẩm muốn nói về văn đó cách nhìn, vấn đề quan điểm. <br />
Điều đó đã rõ. Nhưng nói cho chặt chẽ hơn, căn cứ vào nội dung hình tượng, thì đó trước <br />
hết đặt vấn đề lập trường. Đúng thế, mâu thuẫn giữa Độ và Hoàng trước hết là mâu <br />
thuẫn về lập trường. Một đằng thì coi cuộc kháng chiến là của mình và tích cực tham gia <br />
kháng chiến. Một đằng tự xem như người ngoài cuộc, từ chối không làm gì hết, dù là <br />
công tác bình dân học vụ trong làng. Một đằng vui sướng trước cuộc đổi đời của nhân <br />
dân và nhìn cuộc sống mới, tư thế mới mà cách mạng đem đến cho nhân dân lao động tốt <br />
đẹp là tốt đẹp. Một đằng chỉ thấy thế là lố bịch và hài hước. Nói tóm lại là Hoàng không <br />
thật sự tán thành cách mạng và kháng chiến. Lập trường ấy quyết định cách nhìn của anh <br />
mà Nam Cao gọi là chỉ thấy có một phía: "Anh trông thấy anh thanh niên đọc thuộc bài" ba <br />
giai đoạn, nhưng anh không trông thấy bó tre anh thanh niên vui vẻ vác đi để ngăn quân <br />
thù. Mà ngay trong cái việc anh thanh niên đọc thuộc lòng bài báo như một con vẹt biết <br />
nói kia, anh cũng chỉ nhìn thấy cái ngố bề ngoài của nó mà không thấy cái nguyên cớ đẹp <br />
đẽ bên trong. Vẫn giữ đôi mắt ấy để nhìn đời thì càng đi nhiều, càng quan sát lắm, ta chỉ <br />
càng thêm chua chát và chán nản". Vậy nếu gọi Đôi mắt là bản tuyên ngôn nghệ thuật thì <br />
trước hết đó là bản tuyên ngôn về lập trường cách mạng, lập trường kháng chiến của lớp <br />
văn nghệ sĩ tiểu tư sản, quyết tâm từ bỏ những quyền lợi ích kỉ của mình, từ bỏ những <br />
thói quen sinh hoạt cũ, từ bỏ cái nghệ thuật cho là "cao siêu" của mình ngày trước, sẵn <br />
sàng, nói như nhà văn Độ, làm một anh "tuyên truyền nhãi nhép" nhưng có ích cho nhân <br />
dân, cho kháng chiến. Đôi mắt xét về một phương diện khác, còn đặt vấn đề về quan <br />
niệm cái đẹp, về đối tượng của nghệ thuật mới nữa Phải tìm cái đẹp ở đâu, theo quan <br />
niệm nào? Phải thể hiện nó ra sao? Nam Cao có thể chưa ý thức được đầy đủ lắm, nhưng <br />
tác phẩm đã gợi ra và bước đầu giải đáp những câu hỏi đó. Thực ra, không phải đến Đôi <br />
mắt Nam Cao mới đặt vấn đề về đôi mắt. Qua một số truyện ông viết từ trước Cách <br />
mạng tháng Tám đã thấy ông luôn luôn băn khoăn, day dứt về vấn đề ấy: Phải biết nhìn <br />
người lao động bằng đôi mắt như thế nào mới thấy được bản chất tốt đẹp của họ <br />
thường ẩn giấu sau một vẻ đẹp bề ngoài hết sức tầm thường, thậm chí vụng về, thô lỗ <br />
nữa. Theo Nam Cao hồi ấy, đôi mắt phải là đôi mắt của tình thương. Chỉnh nhờ có đôi <br />
mắt yêu thương ấy mà nhà văn chẳng những đã nhìn thấy tấm lòng vị tha, hỉ xả của lão <br />
Hạc... mà còn phát hiện được cả chất thơ trong trẻo trong tâm hồn tưởng chừng như đã <br />
hoàn toàn đơn độc của Chí Phèo nữa. Hồi ấy, ông đã thấy được một số đức tính của <br />
người nông dân nghèo, tuy vậy, dưới ngòi bút của ông, họ chỉ là những con người bé nhỏ, <br />
bất lực. Trong "Nhật ký ở rừng", Nam Cao đã tự phê phán như thế. Ở Đôi mắt, ông cũng <br />
viết như vậy: "Người nhà quê dẫu sao thì cũng còn là một bí mật đối với chúng ta. Tôi <br />
gần gũi hơn nhiều. Tôi đã gần như thất vọng vì thấy họ phần đông dốt nát, nheo nhếch, <br />
nhát sợ, nhịn nhục một cách đáng thương... Nhưng đến hồi tổng khởi nghĩa thì tôi ngã <br />
ngửa người. Té ra người nông dân nước mình vẫn có thể làm cách mạng hăng hái lắm. <br />
Tôi đã theo họ đi đánh phủ. Gặp họ trong một trận Nam Trung Bộ. Vô số anh răng đen, <br />
mắt toét gọi lựu đạn là "nựu dạn", hát Tiến quân ca như người buồn ngủ cáu kỉnh mà lúc <br />
ra trận thì xung phong can đảm lắm...". Như vậy, nhờ thực sự tham gia cách mạng, sát <br />
cánh với nhân dân, Nam Cao đã có Đôi mắt mới để thấy quần chúng không chỉ là nạn <br />
nhân đáng thương của hoàn cảnh, mà còn là những người cải tạo hoàn cảnh, tức là những <br />
anh hùng. Những con người áo vải, răng đen, đi chân đất, gọi lựu đạn là "nựu đạn" đã <br />
đứng dậy làm cuộc Cách mạng tháng Tám vĩ đại và sau đó gánh cả cuộc kháng chiến lên <br />
đôi vai vững chãi của mình. Phải, Đôi mắt chưa tạo được nhân vật ấy nhưng đã khẳng <br />
định sự xuất hiện tất yếu của nhân vật ấy, nhưng con người bình thường mà vĩ đại; sau <br />
này, những nhân vật ấy đã trở thành phổ biến trong nền văn học của chúng ta. Vào những <br />
năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp, (Đôi mắt viết tháng 3 1948) hàng loạt nhà <br />
văn, nhà thơ thuộc tầng lớp trí thức tiểu tư sàn vừa thoát khỏi bóng tối của xã hội cũ, <br />
cuộc đời cũ, hăm hở đi theo kháng chiến. Đi theo kháng chiến nhưng nhiều khi chưa hiểu <br />
hết kháng chiến, chưa hiểu hết những người lao động, chưa quen cuộc sống mới với bao <br />
gian khổ khó khăn... Nhiều người không khỏi băn khoăn, ngơ ngác. Giữa lúc đó, Đôi mắt <br />
của Nam Cao ra đời. Với ý nghĩa như một tuyên ngôn nghệ thuật, Đôi mắt quả đã làm <br />
sáng ra nhiều vấn đề, giúp các nhà vãn yên tâm đi theo kháng chiến trong cuộc nhận <br />
đường đầy gian khổ, khó khăn. Đóng góp quan trọng của Đôi mắt trước hết là việc xây <br />
dựng cho văn nghệ sĩ một cách nhìn mới. Tuyên ngôn nghệ thuật ấy một mặt cổ vũ động <br />
viên các nhà văn tham gia kháng chiến "phụng sự kháng chiến", mặt khác nó cũng là tiếng <br />
chuông cảnh tỉnh, phê phán những ai đó còn mang nặng cách nhìn, cách nghĩ và cuộc sống <br />
cũ, chưa hoà được vào cuộc đời rộng lớn của nhân dân. Tuyên ngôn nghệ thuật của Nam <br />
Cao ra đời đã gần nửa thế kỉ. Nó là tiếng lòng và tư tưởng của nhiều nhà văn thời bấy <br />
giờ. Nhưng cho đến hôm nay, tuyên ngôn nghệ thuật ấy vẫn luôn luôn nóng hổi, luôn luôn <br />
mới mẻ và có ý nghĩa. Bởi vì cuộc sống không bao giờ dừng lại, cuộc sống luôn luôn đổi <br />
thay. Nhà văn cũng phải luôn luôn vận động đi lên theo nhịp sống mới của dân tộc. Hơn <br />
nữa, họ phải đi trước, báo trước, "dự cảm" trước những đổi thay trong tương lai của đất <br />
nước. Muốn làm tròn được sứ mệnh cao cả và thiêng liêng đó, một mặt họ phải luôn luôn <br />
giữ gìn đôi mắt của minh thật sáng trong, mặt khác phải luôn luôn vươn tới để có cái nhìn <br />
mới, cách nghĩ mới, cách viết mới phù hợp với những đổi thay đang diễn ra hàng ngày, <br />
hàng giờ trên đất nước mình. Không thể lấy Đôi mắt cũ để nhìn nhận và đánh giá cho một <br />
hiện thực mới. Đó là ý nghĩa khái quát luôn luôn đúng mà Nam Cao đã để lại qua truyện <br />
ngắn Đôi mắt.<br />
<br />
Trong cuộc đời cầm bút của mình, Nam Cao thường xuyên trăn trở, suy nghĩ về sứ mệnh <br />
của người nghệ sĩ, của nghệ thuật chân chính. Trước cách mạng cũng như sau Cách <br />
mạng ta luôn thấy ông cố gắng đi tìm cho chính mình một cách nhìn, cách nghĩ, một thái <br />
độ sống đúng đắn nhất. Vì thế, ông đã để lại nhiều suy nghĩ sâu sắc về cuộc đời và nghệ <br />
thuật.<br />