Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản Số 1 * 2008<br />
<br />
Nghiên cứu Y học<br />
<br />
NHẬN XÉT BƯỚC ĐẦU VỀ HIỆU QUẢ CÂY THÔNG NÒNG CẢI TIẾN<br />
TRONG ĐẶT ỐNG NỘI KHÍ QUẢN KHÓ<br />
Trần Viết Vinh*, Hà Thúc Thọ*, Phùng Văn Việt*, Nguyễn Ngọc Huy*<br />
<br />
TÓM TẮT<br />
Mở đầu: Đặt ống nội khí quản khó luôn là tình huống lâm sàng khẩn cấp. Tỉ lệ đặt ống nội khí quản<br />
khó chiếm khoảng 0,5%-5% các trường hợp đặt ống nội khí quản. Tỉ lệ thất bại khoảng 3,5%, tỉ lệ tử vong<br />
do không đặt được ống nội khí quản chiếm khoảng 5,9% các trường hợp tử vong do gây mê.<br />
Mục tiêu nghiên cứu: Đánh giá hiệu quả của cây thông nòng cải tiến trong đặt ống nội khí quản khó.<br />
Phương pháp nghiên cứu: tiến cứu, mô tả. Đối tượng là các bệnh nhân được gây mê nội khí quản<br />
nhưng thất bại khi đặt ống nội khí quản với cây thông nòng thường hoặc được dự đoán đặt ống nội khí quản<br />
khó.<br />
Kết quả: 26/26 trường hợp đặt ống nội khí quản thành công với cây thông nòng cải tiến, trong đó có 16<br />
trường hợp thất bại với cây thông nòng thường, 10 trường hợp được lựa chọn đặt ống nội khí quản với cây<br />
thông nòng cải tiến. 24 trường hợp đặt ống dưới gây mê, 2 trường hợp đặt ống dưới gây tê tại chỗ. Thời<br />
gian trung bình đặt ống nội khí quản với cây thông cải tiến là 1,5 phút, với cây thông nòng thường là 6,5<br />
phút. Số lần đặt trung bình với cây thông nòng cải tiến là 1,1 lần, với cây thông nòng thường là 2,3 lần.<br />
Không ghi nhận các tai biến, biến chứng khi sử dụng cây thông nòng cải tiến.<br />
Kết luận: cây thông nòng cải tiến có hiệu quả và hữu ích trong lâm sàng.<br />
<br />
ABSTRACT<br />
INITIAL REMARKS ON EFFICACY OF IMPROVED STYLET<br />
IN DIFFICULT ENDOTRACHEAL INTUBATION<br />
Tran Viet Vinh, Ha Thuc Tho, Phung Van Viet, Nguyen Ngoc Huy<br />
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 12 – Supplement of No 1 – 2008: 72 - 77<br />
Background:The difficult endotracheal intubation is an emergency situation in clinic. The rate of the<br />
difficult endotracheal intubation is about 0.5-5% of endotracheal intubations. The failed intubation rate is<br />
3.5% of difficult endotracheal intubations. The mortality rate causing by failed intubation is about 5.9% of<br />
mortalities of anesthesia.<br />
Objective:- To evaluate the efficacy of improved stylet in resolving situation of difficult endotracheal<br />
intubation.<br />
Methods: - Prospective, descriptive study. - Patients underwent endotracheal anesthesia with failed<br />
intubation by normal stylet or predicted difficult endotracheal intubation were chosen.<br />
Results: - 26/26 successful cases of endotracheal intubation by improved stylet in patients with difficult<br />
endotracheal intubation, among them 16 cases could not been intubated by normal stylet and 10 cases were<br />
chosen to intubate by improved stylet. 24 cases were intubated under general anesthesia and 2 cases were<br />
intubated under local anesthesia. Mean time to intubate with improved stylet was 1.5 minute and with<br />
normal one was 6.5 minute. Mean effort was 1.1 with improved stylet and was 2.3 with normal stylet. No<br />
complications were seen in use of improved mandrin.<br />
Conclusion: The improved stylet that we had created is very efficient and useful in clinic.<br />
* Bệnh viện 175<br />
<br />
Gây Mê Hồi Sức<br />
<br />
1<br />
<br />
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản Số 1 * 2008<br />
<br />
Nghiên cứu Y học<br />
<br />
ĐẶT VẤN ĐỀ<br />
<br />
Cấu tạo của cây thông nòng cải tiến<br />
<br />
Đặt ống nội khí quản khó luôn là tình huống<br />
lâm sàng khó khăn, cấp bách, đòi hỏi người gây<br />
mê hồi sức phải xử trí nhanh chóng, kịp thời<br />
tránh nguy cơ thiếu Oxy đe doạ tính mạng bệnh<br />
nhân. Tỉ lệ đặt ống nội khí quản khó chiếm<br />
khoảng 0,5 - 5% tuỳ tác giả. Tỉ lệ thất bại hoàn<br />
toàn khi đặt ống NKQ khó chiếm khoảng 3,5%<br />
các trường hợp đặt ống NKQ. Tỉ lệ tử vong do<br />
không đặt được ống NKQ chiếm khoảng 5,9%<br />
các trường hợp tử vong do gây mê. Để giải<br />
quyết tình huống này nhiều dụng cụ, phương<br />
tiện hỗ trợ đã được sáng chế và sử dụng. Nhưng<br />
ngoài cây thông nòng thường thì các dụng cụ<br />
khác đều đắt tiền và chưa tiện lợi nên chưa được<br />
sử dụng rộng rãi ở Việt Nam.<br />
<br />
Dựa trên hình dáng, kích thước của cây<br />
thông nòng thường, có sự cải tiến để khắc phục<br />
nhược điểm của nó và thêm chức năng cho cây<br />
thông nòng.<br />
<br />
Qua thực tiễn lâm sàng chúng tôi nghiên<br />
cứu, cải tiến cây thông nòng nhằm góp phần<br />
khắc phục các trường hợp đặt ống NKQ khó<br />
trong Gây mê và Hồi sức cấp cứu. Đề tài này<br />
tổng hợp và sơ bộ đánh giá hiệu quả sử dụng<br />
cây thông nòng cải tiến.<br />
<br />
ĐÁNH GIÁ ĐẶT ỐNG NỘI KHÍ QUẢN KHÓ CẤU TẠO CÂY THÔNG NÒNG CẢI TIẾN<br />
Đánh giá đặt ống nội khí quản khó<br />
Có nhiều cách đánh giá đặt ống NKQ khó, ở<br />
đây chúng tôi sử dụng phân độ của Cormack và<br />
Lehane vì liên quan trực tiếp tới kỹ thuật đặt ống<br />
NKQ khó với CTN cải tiến:<br />
- Độ I (Cormack I): Nhìn thấy toàn bộ<br />
thanh môn.<br />
<br />
* Cây thông nòng thường: là 1 cây kim loại dẻo,<br />
có độ cứng cần thiết để uốn ống NKQ theo độ<br />
cong mong muốn. Khi được luồn vào ống NKQ<br />
thì đầu CTN không được thò ra ngoài ống. Đây là<br />
điểm khác biệt quan trọng so với CTN cải tiến.<br />
* Cây thông nòng cải tiến: Ống nhựa rỗng có<br />
lõi bằng kim loại. Lõi gồm 2 phần: phần cứng<br />
dài khoảng 40 cm, có độ cứng tương đương với<br />
cây thông nòng thường, phần mềm nằm ở đầu<br />
xa (phía bệnh nhân) dài 10 cm có tác dụng dẫn<br />
đường, phần mềm không quá cứng để tránh<br />
thủng khí quản, không quá mềm tránh bị gập,<br />
lõi có tác dụng định hướng ống và dẫn điện,<br />
quấn quanh lõi là một dây dẫn điện có đường<br />
kính nhỏ (có thể sản xuất vỏ nhựa đủ cứng để<br />
thay thế cho lõi của cây thông nòng). Ở đầu xa<br />
có bóng đèn nhỏ được cung cấp bởi nguồn điện<br />
3 vôn (nguồn được gắn vào đầu gần). Đầu gần<br />
có cành ngang thông với bên ngoài, là nơi cung<br />
cấp Oxy, bơm thuốc tê và nối với máy hút. Đầu<br />
xa được đục lỗ để Oxy thuốc tê thoát ra ngoài và<br />
đờm dãi đi vào khi hút. Đường kính ngoài cây<br />
thông nòng khoảng 0,6 cm, đường kính trong<br />
khoảng 0,4 cm, dài 50-60 cm (tính cả nguồn<br />
điện). Đầu xa được bịt kín bằng nhựa để tránh<br />
rơi bóng đèn vào khí quản.<br />
<br />
- Độ II (Cormack II): Nhìn thấy phần sau<br />
thanh môn.<br />
- Độ III (Cormack III): Chỉ nhìn thấy sụn nắp<br />
thanh quản, không nhìn thấy thanh môn.<br />
- Độ IV (Cormack IV): Không nhìn thấy cả<br />
sụn nắp thanh quản.<br />
Cormack III và IV được coi là các trường<br />
hợp khó.<br />
<br />
Gây<br />
Mê Hồi Sức<br />
2<br />
<br />
Hình 1: Cấu tạo cây thông nòng cải tiến<br />
<br />
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản Số 1 * 2008<br />
<br />
Nghiên cứu Y học<br />
<br />
Sau mỗi lần sử dụng, CTN được ngâm khử<br />
trùng sau đó được rửa bằng nước vô khuẩn.<br />
<br />
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU<br />
Đối tượng<br />
Bệnh nhân từ 16 tuổi trở lên có chỉ định phẫu<br />
thuật dưới gây mê NKQ, dự kiến đặt ống NKQ<br />
khó hoặc thất bại khi đặt ống nội khí quản với<br />
cây thông nòng thường.<br />
Hình 2: Phiên bản I<br />
<br />
Phương pháp nghiên cứu<br />
- Tiền cứu, thử nghiệm lâm sàng, mô tả<br />
cắt ngang.<br />
<br />
Kỹ thuật đặt ống nội khí quản bằng cây<br />
thông nòng cải tiến<br />
Dụng cụ, phương tiện<br />
Tương tự khi đặt ống NKQ thông thường, có<br />
thêm CTN cải tiến.<br />
Hình 3: Phiên bản II<br />
<br />
Hình 4: Phiên bản III<br />
Có 3 phiên bản khác nhau của CTN.<br />
<br />
Phiên bản I<br />
Có cấu tạo như mô tả ở trên. Chức năng: dẫn<br />
đường, định vị ống NKQ, bơm thuốc tê, cung<br />
cấp Oxy, ánh sáng, hút đờm dãi.<br />
Phiên bản II<br />
Bỏ cành ngang và lỗ thông với bên ngoài.<br />
Chức năng: dẫn đường, định vị ống NKQ, cung<br />
cấp ánh sáng.<br />
Phiên bản III<br />
Bỏ luôn bóng đèn, chỉ còn lại lõi có đoạn<br />
mềm. Chức năng: dẫn đường.<br />
<br />
Gây Mê Hồi Sức<br />
<br />
Thực hiện kỹ thuật<br />
- Đưa cây thông nòng vào trong ống NKQ,<br />
để đầu xa cây thông nòng lòi ra ngoài đầu ống<br />
NKQ khoảng 8 cm.<br />
- Dẫn mê hoặc xịt thuốc tê vào họng hầu,<br />
thanh, khí quản tuỳ trường hợp.<br />
- Dùng đèn soi thanh quản để quan sát thanh<br />
môn (trong các trường hợp khó thường không<br />
nhìn thấy thanh môn).<br />
- Luồn cây thông nòng trượt phía sau sụn<br />
nắp thanh quản, kiểm tra ánh sáng phản chiếu<br />
lên phía trước khí quản, nếu thấy bóng đèn phản<br />
chiếu lên phía dưới sụn nhẫn là được. Lúc CTN<br />
đi vào khí quản sẽ có cảm giác “hẫng tay” và<br />
bệnh nhân ho nếu đặt ống dưới gây tê. Với<br />
phiên bản III, vì không có bóng đèn nên phải<br />
dựa vào cảm giác “hẫng tay” và phản xạ ho để<br />
xác định vị trí CTN.<br />
- Đẩy ống NKQ và cây thông nòng vào sâu<br />
trong khí quản.<br />
- Rút cây thông nòng, kiểm tra vị trí ống NKQ.<br />
- Cố định ống và kết thúc kỹ thuật.<br />
<br />
3<br />
<br />
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản Số 1 * 2008<br />
<br />
Nghiên cứu Y học<br />
<br />
khí quản ở lần đặt cuối cùng. Mỗi trường hợp<br />
được sử dụng một phiên bản.<br />
Bảng 1: Số lần đặt ống NKQ và kết quả<br />
Kỹ thuật<br />
<br />
Số lần 1 2 3 4 Thành Thất Tổng số<br />
lần lần lần lần công bại tr. hợp<br />
<br />
Với CTN thường - 10<br />
Với CTN cải tiến 24 1<br />
<br />
4<br />
1<br />
<br />
2 0/16 16/16<br />
- 26/26 0/26<br />
<br />
16<br />
26<br />
<br />
Bảng 2: Số lần sử dụng các phiên bản<br />
Phiên bản<br />
Số tr.hợp<br />
<br />
Hình 5: Ống NKQ được luồn vào CTN<br />
<br />
I<br />
4<br />
<br />
II<br />
6<br />
<br />
III<br />
16<br />
<br />
Tổng<br />
26<br />
<br />
Bảng 3: Tai biến, biến chứng<br />
Tai biến,<br />
B /chứng<br />
Kỹ thuật<br />
Với CTN<br />
thường<br />
Với CTN cải<br />
tiến<br />
<br />
Chảy<br />
máu<br />
<br />
Gãy<br />
răng<br />
<br />
16/16<br />
<br />
3/16<br />
<br />
Đau<br />
Giảm Tai biến,<br />
họng SpO2 biến chứng<br />
khác<br />
sau mổ<br />
16/16<br />
<br />
4<br />
<br />
Không Không Không Không<br />
<br />
Không<br />
Không<br />
<br />
2 trường hợp SpO2 giảm tới 85%, 2 trường<br />
hợp SpO2 giảm tới 80%.<br />
<br />
BÀN LUẬN<br />
Hình 6: Ánh đèn phản chiếu trước khí quản cải tiến<br />
<br />
Hiệu quả của CTN cải tiến<br />
<br />
KẾT QUẢ<br />
<br />
Kết quả bảng 1 cho thấy hiệu quả của CTN<br />
cải tiến cao hơn hẳn CTN thường.<br />
<br />
- Từ 5/2004 đến 8/2007: tại phòng mổ bệnh<br />
viện 175 chúng tôi đã đặt ống NKQ với CTN cải<br />
tiến cho 26 trường hợp (20 nam, 6 nữ, tuổi 37-72)<br />
trong đó có 3 trường hợp sẹo co kéo cằm cổ, 2<br />
trường hợp chấn thương cột sống cổ nặng.<br />
- 16 trường hợp thất bại với CTN thường (gồm<br />
14 tr.hợp Cormack III, 2 tr.hợp Cormack IV).<br />
- 10 trường hợp chủ động dùng CTN cải tiến<br />
(gồm 8 tr.hợp Cormack III, 2 tr.hợp Cormack IV).<br />
- 9 trường hợp đặt ống NKQ với thuốc mê<br />
Thiopental, thuốc dãn cơ Succinylcholine.<br />
- 15 trường hợp đặt ống NKQ với thuốc mê<br />
Propofol, thuốc dãn cơ Esmeron.<br />
- 2 trường hợp đặt ống NKQ dưới gây tê.<br />
- Thời gian đặt ống NKQ trung bình với CTN<br />
thường là 6,5 phút (5 phút -14 phút) với CTN cải<br />
tiến là 1,5 phút (15 giây- 12 phút). Thời gian đặt<br />
ống NKQ được tính từ lúc mở miệng đưa lưỡi đèn<br />
soi thanh quản vào quan sát lần đầu tiên cho tới<br />
khi kiểm tra và chắc chắn ống NKQ đã nằm trong<br />
<br />
Gây<br />
Mê Hồi Sức<br />
4<br />
<br />
Trong các trường hợp khó đặt ống NKQ,<br />
cung răng và khí quản di chuyển về phía trước,<br />
còn lưỡi di chuyển về phía sau. Sự di chuyển<br />
ngược chiều này ngăn cản tầm nhìn của người<br />
đặt ống. Nguyên nhân trực tiếp gây thất bại là<br />
ống NKQ không thể vượt qua được thanh môn<br />
vào khí quản nên trượt ra sau và chui vào thực<br />
quản. Cây thông nòng thường ít có khả năng giúp<br />
giải quyết tình huống này.<br />
Nhờ có đoạn mềm dẫn đường và với đường<br />
kính nhỏ, CTN cải tiến dễ dàng vượt qua thanh<br />
môn vào khí quản. Khi đã ở trong khí quản nó<br />
định hướng và buộc ống NKQ phải đi theo vào<br />
khí quản. Vì vậy, đã khắc phục được nguyên<br />
nhân trực tiếp gây thất bại khi đặt ống NKQ với<br />
CTN thường.<br />
Trường hợp đặt 2 lần là do lúc đầu ít kinh<br />
nghiệm. Trường hợp đặt 3 lần là do bệnh nhân<br />
có sẹo cằm cổ dày, co kéo mạnh, phải đặt ống<br />
dưới gây tê nhưng không tìm được khí quản và<br />
<br />
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản Số 1 * 2008<br />
thanh môn để bơm thuốc tê. Trong quá trình đặt<br />
ống bệnh nhân khó chịu và khó hợp tác. Phối hợp<br />
thiếu đồng bộ giữa người đặt ống và người phụ.<br />
<br />
Mức độ tiện lợi của các phiên bản (bảng<br />
2)<br />
Do chưa thực sự giải quyết được vấn đề kỹ<br />
thuật vì cây thông nòng được làm thủ công nên<br />
phiên bản I và II chưa đủ độ vững chắc, vì vậy<br />
tuy có nhiều chức năng hơn nhưng ít được sử<br />
dụng hơn. Phiên bản III gọn, dễ làm, dễ sử dụng<br />
và tiện lợi hơn nên được sử dụng nhiều hơn hai<br />
phiên bản còn lại.<br />
<br />
Nghiên cứu Y học<br />
<br />
* Nhược điểm<br />
- Trong điều kiện ban ngày, ánh đèn quá sáng<br />
hoặc mô trước khí quản bệnh nhân quá dày sẽ làm<br />
lu mờ ánh sáng phản chiếu qua khí quản.<br />
- Chỉ hiệu quả đối với các trường hợp đặt<br />
ống NKQ thông thường qua đường miệng.<br />
<br />
Tai biến, biến chứng (bảng 3)<br />
16 trường hợp sử dụng CTN thường trước<br />
khi sử dụng CTN cải tiến đều gây ra tai biến đặc<br />
biệt là giảm SpO2. Nguyên nhân của các biến<br />
chứng là do khi gặp tình huống khó đặt ống<br />
NKQ, người đặt ống có xu hướng dùng sức<br />
mạnh, tì lưỡi đèn soi thanh quản vào cung răng,<br />
ép đầu lưỡi đèn về phía trước họng hầu để cố<br />
gắng quan sát thanh môn nên gây gãy răng,<br />
sang chấn họng hầu gây tăng tiết, chảy máu. Các<br />
trường hợp này khó thông khí nên cung cấp Oxy<br />
hạn chế, thời gian thông khí kém hiệu quả kéo<br />
dài dẫn tới SpO2 giảm.<br />
Khi sử dụng cây thông nòng cải tiến chúng<br />
tôi ít sử dụng sức mạnh và không cần phải cố<br />
gắng nhìn thấy thanh môn vẫn đặt được ống<br />
NKQ nên hạn chế sang chấn. Mặt khác, việc đặt<br />
ống khá dễ dàng và nhanh nên thời gian không<br />
thông khí ngắn, nhờ đó tránh được nguy cơ<br />
thiếu Oxy.<br />
<br />
KẾT LUẬN<br />
Với 26/26 (100%) trường hợp đặt ống NKQ<br />
khó thành công khá dễ dàng không để lại tai<br />
biến, biến chứng chúng tôi cho rằng cây thông<br />
nòng mà chúng tôi đã cải tiến có hiệu quả cao,<br />
giúp giải quyết tình huống thường gây lo lắng<br />
cho người làm công tác gây mê hồi sức.<br />
- Rút ngắn thời gian đặt ống NKQ khó.<br />
- Rẻ tiền, tiện lợi (nhất là phiên bản 3) có thể<br />
phổ biến tới mọi cơ sở gây mê, hồi sức cấp cứu.<br />
<br />
Gây Mê Hồi Sức<br />
<br />
Hình 7-8: 2 trường hợp Cormack IV.<br />
<br />
TÀI LIỆU THAM KHẢO<br />
1.<br />
2.<br />
<br />
3.<br />
<br />
4.<br />
<br />
5.<br />
<br />
Cormack R.S., Lehane J. (1984). “Difficult tracheal<br />
intubation in obstetrics”, Anaesthesia, 39, pp.1105-11.<br />
Frédéric A. et al (2003). “Airway management in adult<br />
scheduled anaesthesia”, Annales francaises d’Anesthésie et de<br />
Réanimation, 22,pp.60-65.<br />
Bishop M.J., Tchaoussouf J. (2000). “Trucs et astuces de<br />
l’intubation trache’ale: Le biseau de la sonde”, Anesthesiol,<br />
48, pp.99-103.<br />
Saravan K. (2005). “Failed intubation in obstetrics has the<br />
incidence changed recently? ”. British Journal of Anesthesia,<br />
94 (5), p. 690.<br />
Jacobs L.M., Bennett B., et al (1983). “Endotracheal<br />
intubation in the prehospital phase of emergency medical<br />
care”. British Journal of Anesthesia, 250 (16), pp 2175-2177.<br />
<br />
5<br />
<br />