intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

những bệnh ký sinh trùng phổ biến ở gia cầm, lợn và các loài nhai lại ở việt nam (sách chuyên khảo dành cho đào tạo sau đại học): phần 2

Chia sẻ: Tháng Năm Vội Vã | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:229

171
lượt xem
28
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

nối tiếp nội dung phần 1 cuốn sách "những bệnh ký sinh trùng phổ biến ở gia cầm, lợn và các loài nhai lại ở việt nam", phần 2 giới thiệu tới người đọc các kiến thức: bệnh ký sinh trùng thường gặp ở lợn, bệnh ký sinh trùng thường gặp ở trâu, bò, dê. mời các bạn cùng tham khảo nội dung chi tiết.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: những bệnh ký sinh trùng phổ biến ở gia cầm, lợn và các loài nhai lại ở việt nam (sách chuyên khảo dành cho đào tạo sau đại học): phần 2

  1. Chương 2 BỆNH KÝ SINH TRÙNG THƯỜNG GẬP Ở LỢN BỆNH GIUN ĐŨA LỢN (Ascaríosis) Bệnh giun đũa lợn do giun ừòn Ascaris suum gây ra là bệnh thường gặp ờ lợn khắp các nước trên thế giói. Ở nước ta, bệnh phổ biến khắp các địa phương, gây nhiều tác hại cho ngành chăn nuôi lợn. Ascariosis là bệnh thấy nhiều hom ở những khu vực chăn nuôi nông hộ, quy mô nhỏ, nuôi theo phương thức truyền thống tận dụng, điều kiện vệ sinh thú y kém và vấn đề phòng trị bệnh không được quan tâm. Giun tròn A. suum có kích thước lớn, chiếm đoạt dinh duỡng nhiều, gây tình trạng gầy sút, còi cọc, thiếu máu, tiêu chảy ờ lợn, đặc biệt là ở lợn 2 - 4 tháng tuổi. 1. G IU N Đ Ũ A A SC A R IS S U U M KÝ SINH Ở LỢ N 1.1. Vị trí của giun đũa Ascaris suum trong hệ thống phân loại động vật Giun đũa lợn là những giun tròn thuộc họ Ascarididae (bộ phụ Ascaridata), loài Ascaris suum. Chúng ký sinh và gây bệnh giun đũa ở lợn. Theo Phan Thế Việt và cs (1977), giun đũa lợn Ascaris suum có vị trí trong hệ thống phân loại động vật như sau: Lớp Nematoda Rudolphi,1808 Phân lớp Secemenea Linstow, 1905 Bộ Spirurida Chitwood, 1933 Phân bộ Ascaridata Skrjabin et Schulz, 1940 Họ Ascarididae Baird, 1853 Phân họ Ascaridoidea Railliet et Henry, 1915 Giống Ascaris Linnaeus, 1758 Loài Ascaris suum Goeze, 1782 1.2. Đặc điểm hình thái, kích thước, cấu tạo giun đũa lọn Ascaris suum 1.2.1. Đặc điểm hình thái, kích thước và cấu tạo giun đũa lợn Ascaris suum Giun đũa là loài giun tròn lớn nhất ký sinh ờ ruột non cùa lợn. Chưcmg 2. Bệnh ký sinh trúng thường gặp ở lợn 103
  2. Đề cập đến hình thái giun đũa lợn, Nguyễn Thị Kim Lan và cs (1999) cho biết, giun đũa lợn có màu trắng sữa, hình ống, hai đầu hơi nhọn, đầu có ba môibao quanh (mộ môi ở phía lưng, hai môi ở phía bụng) ứên ria môi có một hàm răng cưa rất rõ. Theo Phạm Văn Khuê và cs (1996), Phan Địch Lân và cs (2005), cấu tạo của răng cưa giữa hai loài giun đũa lợn và giun đũa người có sự khác nhau, hàm răng cưa cùa giun đũa người không rõ bàng răng cưa cùa giun đũa lợn. Giun đực dài 12 - 25cm, đường kính 3mm. Giun cái dài 30 - 35cm, đường kính 5 - 6mm. Đặc điểm để phân biệt giun đực và giun cái là giun đực nhỏ, đuôi cong về phía bụng, đuôi giun cái thì thẳng. Giun Hình 55: cẳu tạo môi giun đũa lọn, đực có 2 gai giao hợp bằng nhau, dài đuôi giun đũa đực khoảng 1,2 - 2mm và không có túi giao (Nguồn: Phạm Văn Khuê và cs, 1996) hợp (Trịnh Văn Thịnh và cs, 1982). Theo Trịnh Văn Thịnh (1966), Đào Trọng Đạt và cs (1996), giun đũa lợn có hình thái, kích thước như sau: Giun đũa thân dài, hình trụ, hai đầu thót mầu trắng sữa, thân cứng và đàn hồi. Chóp đầu mang ba môi, bờ môi có răng cưa rất nhỏ, môi bọc lấy miệng, một môi ở phía lưng, đáy môi có 2 gai thịt, hai môi kia ở giữa phía cạnh và bụng và chi có một gai thịt. Giun đực dài 15 - 20cm, đường kính từ 3,2 - 4,4mm. Đoạn đuôi cong về phía bụng mang 2 gai giao hợp ngắn, bàng nhau, hoi cong. Trên mặt bụng ờ mỗi bên có từ 69 - 75 gai thịt, có 7 gai thịt sau hậu môn, những gai thịt xếp thành một hoặc hai hàng, một gai thịt lẻ ở trước hậu môn. Giun cái dài từ 20 - 30cm, đường kính từ 5 - 6mm, đoạn sau thẳng. Đuôi mang hậu môn về phía bụng (ở gần chóp đuôi). Hậu môn có hình dạng m ột cái khe ngang, bọc hai môi gồ lên. Âm hộ có hình dáng một lỗ nhò hình bầu dục, gần về phía bụng khoảng một phần ba đoạn trước thân, ngang một vùng có m ột cái vòng thát lại một chút (gọi là thắt lưng). Giun đũa có cấu tạo giống các loại giun tròn khác: Tiết diện ngang ưòn. Duới vỏ cutin dày là lớp hạ bì cùng với hệ cơ tơ hợp thành bao biểu mô cơ. Chúng chi có một lớp cơ dọc nên chi có cách vận chuyển duy nhất là cong gập cơ thể. Xoang cơ thề là xoang nguyên sinh khá rộng và chứa đầy dịch (Trần Tố và cs, 2002). 104 Những bệnh kỷ sinh trúng phổ biến ở gia cám, lợn và loài nhai lại Việt Nam
  3. 1.2.2. Đ ặc điểm h ình thái, cấu tạo trứng giun đũa A scaris suum Trứng giun đũa lợn có hình bầu dục hơi ngắn, kích thước 0,056 - 0,087 X 0,046 - 0,067mm, vỏ rất dầy, có 4 lớp vỏ, lóp ngoài cùng là màng protein, nhấp nhô làn sóng, do tác dụng dịch mật nên màng có mầu vàng cánh dán (Nguyễn Thị Kim Lan và cs, 1999). Đào Trọng Đạt và cs (1995) cho biết, trứng giun đũa có hình bầu dục hoặc ovan, vỏ dầy, bề mặt nhăn nheo, mầu vàng, ứong có nhân mầu vàng thẫm. Kích thước 45 - 85 X 35 - 55|im. v ỏ trứng giun đũa có tác dụng phòng vệ cao trong vòng đời phát triển của giun. Vỏ trứng được chia thành 3 lớp cơ bản: một lớp noãn hoàng bên ngoài, một lớp kitin ở giữa và một lóp lipid ở trong. Lớp lipid bên trong có tác giả gọi là màng noãn hoàng và lớp noãn hoàng thực sự là màng ngoài cùng. Ascaris còn có một lớp uterine ở bên ngoài lắng trên trứng, lớp này cũng được gọi là lớp protein, nó có một phức hợp protein axit - mucopolysaccharide. Lóp noãn hoàng bên ngoài của Ascaris dầy khoảng 0,05|im và là lipo - protein. Lớp kitin ở giữa chứa chất kitin, thành phần khác nhau tuỳ loài. Ở họ Ascaroides và Oxyuroidea lớp này phần lớn là kitin ít protein. Song ở Trichuis và Calpillaria lại có nhiều protein, ít kitin. Lớp lipid (bên ứong) là proteolipid có một lượng lớn ascaroside esters, chắc chắn nó có vai trò ừong sự đề kháng của trứng với các điều kiện môi trường khắc nghiệt, với các hoá chất. Nghiên cứu về cấu tạo trứng của A. suum, Phan Địch Lân (1996) cho biết, vỏ trứng giun đũa rất dày nên có sức đề kháng rất mạnh với tất cả các loại hoá chất (axit, bazơ), chống đỡ kém với sự khô ráo và ánh nắng mặt ười chiếu trực tiếp. Trứng giun đũa lợn gồm 4 lớp: - Lóp trong cùng của trứng có tác dụng bào vệ phôi thai giúp cho các chất hữu cơ không ảnh hưởng đến trứng. - Hai lớp giữa giữ cho chất lỏng của trứng không bốc hơi. - Lớp protein ngoài cùng có mầu cánh dán, giữ cho tia tử ngoại không xâm nhập vào bên trong. 1.3. Vòng đời của giun đ ũ a lọn Vòng đòi (hay chu kỳ sinh học) của giun đũa lợn đã được nghiên cứu hoàn chinh và có nhiều tác giả ghi nhận. Nguyễn Thị Kim Lan và cs (1999), Phạm Sỹ Lăng và cs (2006) cho biết, vòng đời giun đũa lợn không cần vật chủ trung gian, lợn trực tiếp nuốt phải trứng giun đũa có sức gây bệnh rồi phát triển thành giun trường thành. Theo Trịnh Văn Thịnh (1968), ữong m ột của lợn, giun đũa có con đực, con cái. Chúng giao hợp với nhau, giun cái thụ tinh và đẻ trứng. Trứng khi thải qua phân ra ngoài phát triển thành trứng có phôi thai. Một giun cái đẻ trung bình 27 triệu trứng, mỗi ngày đẻ khoảng 200.000 trứng. Trúng theo phân lợn ra ngoài gặp oxy, độ ẩm, nhiệt độ thích hợp (khoảng 24°C) sau 2 Chương 2. Bệnh ký sinh trùng thường gặp ờ lợn 105
  4. sau 12 ngày vẫn có ấu trùng vào phổi. Khi tới phôi âu trùng lột xác thành âu trùng kỳ III. Ấu trùng này từ mạch máu phổi chui vào phế bào, qua khi quản và cùng với niêm dịch ấu trùng lên hầu rồi xuống ruột non, lột xác lần nữa thành giun trưởng thành. Thời gian ấu trùng di hành là 2 - 3 tuần. Trong khi di hành, một sô âu trùng vào một vài khi quan khác như lách, tuyến giáp trạng, não... Hoàn thành vòng đời cân 54 - 62 ngày (Lương Văn Huấn và cs, 1997; Nguyễn Thị Kim Lan và cs, 1999). Đào Trọng Đạt và cs (1995) đã bồ sung chi tiết hơn chu kỳ sinh học của A. suum: Sau khi nuốt trứng có ấu trùng, trứng nở dưới ảnh hưởng cùa một số yếu tố ở ruột (đặc biệt là áp lực khí CO 2). CO 2 thâm nhập nhanh qua các lớp màng và tế bào ruột, tác động vào cơ quan nhận cảm ở ruột, cơ quan nhận cảm lại kích thích neurosecretion tiêt ra các men tham gia vào quá trình làm nở trứng. Phần lớn trứng nở ở tá tràng nhưng một số nở ờ dạ dày. Sau khi có kích thích nở, một dịch chứa ít nhất hai men chitinase và esterase được tiết ra. Những men này tác động vào vỏ kitin và lipid của màng trứng và giúp cho ấu trùng thoát ra ngoài hoặc ở giai đoạn hai (đã lột xác một lần trong trứng) hoặc vẫn còn lớp vỏ (ở giai đoạn I). Áu trùng này rất nhỏ, chúng lách qua những tế bào của vách ruột mà theo đường máu về gan và ở gan vài ngày, lột xác thành ấu trùng kỳ m . Sau đó ấu trùng kỳ III rời gan vào máu tới tim, qua động mạch phổi vào phổi, ờ đó 4 - 7 ngày. Áu trùng phá vỡ mao mạch vào phế nang, ở đó lột xác thành ấu trùng kỳ IV rồi di hành tới phế quản, khí quản rồi tói họng. Ấu trùng kỳ IV được nuốt trở lại ruột, tại đây chúng phát triển nhanh thành giun trưởng thành đực và cái. Chúng lại giao hợp với nhau, đẻ trứng và tiếp tục một chu kỳ mới. Chu kỳ phát triển của A. suum ờ lợn khoảng 40 đến 53 ngày. Theo Trịnh Văn Thịnh (1968), thời gian hoàn thành vòng đời của giun đũa lợn (từ khi trứng có phôi thai vào cơ thể lợn đến khi thành giun trường thành và đẻ trứng) phải mất từ 2 đến 2 tháng rưỡi. Phạm Vãn Khuê và cs (1996), Nguyễn Thị Kim Lan và cs (1999) ghi nhận, thời gian hoàn thành vòng đòi của A. suum là 54 - 62 ngày. Tuổi thọ của giun đũa không quá 7 - 1 0 tháng, hết tuổi thọ giun theo phân ra ngoài. Trường gặp điều kiện không thuận lợi (con vật bị bệnh truyền nhiễm, sốt cao...) thì tuổi thọ cùa giun ngàn lại. Sô lượng giun có thể từ vài con tới trên một nghìn con trong một cơ thể lợn (Phạm Sỹ Lăng và cs, 2001). Theo Lương Văn Huân và cs (1997), giun đũa lợn không truyền qua bào thai và không truyên qua sữa. N hu vậy, chu kỳ phát triển cùa giun đũa lợn chi có một vật chủ là lợn, không có vật chủ trung gian nhưng có giai đoạn phát triển bên ngoài môi trường, vì thế gọi là chu kỳ phát triển qua đất (Trần Tố và cs, 2002). 106 Những bệnh kỷ sinh trùng phổ biến ở gia cầm, lợn và loái nhai lại Việt Nam
  5. 1.4. Sự phát triển và sức đề kháng của trứng giun đũa lợn ở ngoại cảnh Trịnh Văn Thịnh (1985) cho biết, sự phát dục cùa trứng thành phôi thai ngoài thiên nhiên phụ thuộc chặt chẽ vào nhiệt độ, ẩm độ và mùa vụ. Tác giả đã tiến hành thí nghiệm theo dõi sự phát triển của trứng giun đũa lợn tại Hà Nội, kết quả cho thây, thời gian này là 12 - 13 ngày ở 32°c và 20 - 28 ngày ở nhiệt độ 24 - 25°c. Trứng giun đũa lợn khi thải qua phân chưa có phôi thai. Trứng tiếp tục phát triên phụ thuộc vào áp lực oxy, ẩm độ, nhiệt độ môi trường. Ở nhiệt độ 22 - 33°c, ừong vòng 9 - 1 3 ngày tế bào trứng phát triển thành ấu trùng nằm cuộn ưòn trong trứng (Đào Trọng Đạt và cs, 1996). Theo Phạm Văn Khuê và cs (1996), nhiệt độ thích hợp cho trứng phát triển là 25°c, khi nhiệt độ xuống thấp (12°C) trứng phát triển chậm. Trứng ở sâu 3m, nhiệt độ đất trong khoảng 26 - 33°c, độ ẩm đất từ 9,5 - 19% thì có 89% trứng phát triển. Trứng ngừng phát triển ờ điều kiện nhiệt độ và độ ẩm đất thấp (-4,8°c đến -13,4°c và 6,3 - 17%). Nghiên cứu về điều kiện thích hợp cho trứng phát triển thành trứng có sức gây bệnh, Phạm Sỹ Lăng và cs (2001) cho biết, điều kiện nhiệt độ để trứng phát triển là 15 - 35°c, nhưng điều kiện thích hợp nhất cho trứng phát triển là 30 - 33°c và ẩm độ 80 - 95%. Các tác giả Holmqvis A. và cs (2002) cho rằng: A. suum ở lợn rất giống A. lumbricoides ở người. Trứng giun đũa lợn có sức đề kháng cao với ngoại cảnh. Theo tác giả thì số lượng trứng trong phân là một chi tiêu đánh giá cường độ nhiễm giun đũa ở lợn. Theo nhận xét của Nguyễn Văn Đức (2005), trứng giun đũa lợn được thải ra môi trường đã chứa phôi dâu, gặp điều kiện thuận lợi, sau 1 0 - 1 5 ngày phát triển thành ấu trùng cảm nhiễm nằm cuộn ứòn trong vỏ trứng. Như vậy, trứng giun đũa lợn được thải theo phân ra môi trường đã có phôi dâu, tuy nhiên lúc này phôi mới chi là một khối đồng nhất, gặp điều kiện thuận lợi trứng có phôi sẽ phát triển thành trứng chứa ấu trùng. Thời gian phát triển từ giai đoạn phôi thai đến giai đoạn ấu trùng cảm nhiễm trong trứng tuỳ thuộc vào nhiệt độ, ẩm độ và mùa vụ. Thông thường thời gian phát triển này là 9 - 15 ngày ờ nhiệt độ 30 - 33°c và 20 - 28 ngày ờ nhiệt độ 24 - 25°c. Tiêu diệt trứng giun sán là một biện pháp quan trọng ừong công tác phòng chống bệnh ký sinh trùng. Chính vì vậy, nghiên cứu sức đề kháng của trứng giun đũa với các loại hoá chất có ý nghĩa quan ứọng trong công tác phòng chống bệnh giun đũa ở lợn. Sức đề kháng của trứng giun đũa đã được khá nhiều tác giả chú ý nghiên cứu. Các tác giả đều có quan điểm thống nhất ràng, trứng giun đũa có vỏ rất dày, được cấu tạo bởi 4 lóp nên có sức đề kháng mạnh với nhiều chất hoá học và các yếu tố ngoại cảnh Chương 2. Bệnh ký sinh trùng thường gặp ở lợn 107
  6. Hình 56: Trứng giun đũa lọn Hình 57: Trứng giun đũa lọ>n đang phát trien (x100) có sức gây bệnh ( x i00) Theo Đào Trọng Đạt và cs (1995), trong phòng thí nghiệm, trứng giun đũa phát triển thành phôi thai bình thường ữong dung dịch formol 2%, axit axetic và lactic 20%. Tuy nhiên, dưới ánh sáng mặt trời trực tiếp trứng chết trong một vài tuần, bị phá huỷ trong dung dịch NaOH 10% ở 70°c trong vòng 15 - 20 phút, vỏ kitin của trứng có thệ bị đung giải bời axit piric đặc và formol 10% làm cho trứng không nở và ấu trùng bị chết. Theo Phạm Văn Khuê và cs (1996), trứng giun đũa có sức đề kháng mạnh với một số chất hoá học: Creolin 3%, dung dịch bão hoà Sulfat đồng, axit sunfilric 10%, hypochlorit canxi 10% không diệt được trứng. Song, vào mùa hè ánh nắng chiếu trực tiếp lên đất cát thì trứng bị chết nhanh. Trứng cần oxy để phát triển trong môi trường ngoại cảnh, nếu thiếu oxy trứng không phát triển được nhưng vẫn duy tri sức sổng, vì thế trứng sống được một thời gian ừong nước bẩn hoặc ở môi trường thiếu oxy. Trứng giun đũa cũng có thể bị chết khi gặp một trong ba điều kiện sau: Độ ẩm quá thấp, độ ẩm quá thấp và nhiệt độ cao, độ ẩm và nhiệt độ cao. Khi nhiệt độ 45 - 50°c trứng chết trong nửa giờ. Ờ nhiệt độ từ 66°c trờ lên trứng giun đũa rất dễ bị chết (Bùi Quý Huy, 2006). Vì vậy, việc ủ phân để tăng nhiệt độ trong đống phân sẽ diệt hết ữứng giun đũa. Lương Văn Huấn và cs (1997) cho biết, trứng giun đũa A. suum có sức đề kháng cao với điều kiện ngoại cảnh. Trứng có thể sống ở môi trường bên ngoài một vài năm. Trịnh Văn Thịnh và cs (1976) cho ràng: Trong dung địch Tyrođe (NaCl 8g, KC1 20g, CaCb ọ,2g, MgCl20,lg, Na2C 0 3 lgTglucose lg, nước cất 1000ml) giun đũa có thể sống nhiều ngày. Khi thay đổi pH cùa môi trường, đặc biệt khi chuyển sang môi trường axit hoặc môi trường quá baza thì giun đũa tăng cường hoạt Hình 58: Trứng giun đũa có sức gây bệnh động. bị c h ế t (X100) 108 Những bệnh ký sinh trúng phồ biến ở gia cầm, lợn và loài nhai lại Việt Nam
  7. Còn với trứng giun đũa, trong suốt mùa xuân, hè chúng đêu có khả năng phát triên, tuy nhiên trong từng điều kiện cụ thể thì sự phát triển khác nhau. Tác giả cho biết: - Nếu ánh sáng chiếu trực tiếp vào môi trường có trứng giun đũa thì tác dụng huỷ diệt trứng xảy ra nhanh và rõ rệt. Với số giờ nắng là 97 giờ, số bức xạ là 259 kcal/cm2, sau 4 ngày 76% trứng giun đũa bị huỷ diệt. - Nhiệt độ môi trường trung bình là 28°c, độ ẩm bình quân là 86% trứng giun đũa phát triển rất thuận lợi. - Môi trường có bóng râm mát là môi trường thuận lợi cho sự phát triển của trứng giun đũa. Dưới bóng râm mát, 78% trứng giun đũa có thể phát triển tới giai đoạn trứng có ấu trùng. Một thử nghiệm về sức đề kháng cùa trứng giun đũa vói các hoá chất đã được Phạm Văn Chức (1980) thực hiện. Tác già đã nghiên cứu hiệu lực diệt trứng của các chất hoá học ờ ba giai đoạn phát triển cùa trứng (trứng chưa phân chia, trứng hình thành ấu trùng kỳ I, trứng hình thành ấu trùng cảm nhiễm). Kết quả cho thấy: - Nuôi trứng trong môi trường axit vô cơ (axit suníuric, nitric, photphoric, clohydric) với nồng độ 10%, trứng giun đũa có thề phát triển đến giai đoạn cảm nhiễm, vỏ trứng không bị phá hoại. Còn nếu nuôi trứng trong môi trường axit hữu cơ, vỏ kitin cùa trứng không bị ảnh hưởng và trứng có thể phát triển trong các dung dịch axit này với nồng độ 20%. - Trứng giun đũa có sức đề kháng mạnh với các loại bazơ như NaOH, Ca(OH) 2. Nuôi trứng trong dung dịch NaOH 10% chi thấy lớp vỏ ngoài cùng tan đi, làm mất vỏ sần sùi bên ngoài. Khi nâng nhiệt độ lên 70°c thì hiệu lực của các bazơ tăng và làm trứng chết sau 15 - 20 phút. - Các chất sát trùng và oxy hoá mạnh: Lizon là chất có khả năng diệt trúng cao, trứng ở giai đoạn chưa phân chia chỉ cần nồng độ 2 phần vạn, tác động trong 15 - 20 phút là tiêu diệt được hết. Trứng có ấu trùng cảm nhiễm, khi xử lý với nồng độ như ứên, sau 45 phút thì trứng mất khả năng cảm nhiễm cho động vật thí nghiệm. Hypochlorit natri (HClONa) nồng độ 10% ừở lên làm trứng bị dung giải, ở nồng độ 5%, điều chinh pH = 6 thì trúng -giun đũa lợn chết sau 60 phút. Như vậy, trứng giun đũa lợn có sức đề kháng mạnh với nhiều chất hoá học, nhưng lại rất dễ bị tiêu diệt bởi sức nóng. Đây là đặc điểm quan trọng để đề ra biện pháp tiêu diệt trứng giun đũa ở ngoài ngoại cảnh. Tìm hiểu về sự phát triển của ấu trùng giun đũa lợn A. suum ữong giun đất Perionoyx excavatus, Phan Lục và cs (2000) đã nghiên cứu trên 511 giun đất quanh khu vực nuôi lợn ờ ngoại thành Hà Nội, tìm thấy ấu trùng Nematoda ký sinh. 30,5% giun đất bị nhiễm ấu trùng Nematoda với cường độ 1 - 3 ấu trùng/giun, trong đó có ấu trùng giun đũa lợn. Gây nhiễm nhân tạo cho 85 giun đất Perionoyx excavatus, sau 30 ngày đã phát Chương 2. Bệnh kỷ sinh trùng thường gặp ờ lợn 109
  8. hiện được 17/85 (20%) giun đất nhiễm ấu trùng A. suum vẫn ờ giai đoạn gây nhiễiĩ nhung không còn nằm ữong vỏ trứng. Cường độ nhiễm ấu trùng A. suum toong giun đấ Peryonyx excavatus là 1 - 4 ấu trùng/giun. Các tác giả này còn cho biết, trong giun đất, ấu trùng A. suum tồn tại tới 25 ngày vớ tỷ lệ nhiễm 6,7%. Ờ trong giun đất, ấu trùng A. suum có sự tăng trường về kích thước Ví cấu tạo ống tiêu hoá. Như vậy, giun đất nhiễm trứng giun đũa lợn có sức gây bệnh thì trứng này sẽ phát triển thành ấu trùng trong giun đất, khi đó những giun đất này được coi là nguồn tàng trữ mầm bệnh. Hay nói cách khác, giun đất đã tạo điều kiện cho ấu trùng giun đũa lợn tồn tại, phát triển, chờ cơ hội xâm nhập vào cơ thể lợn để ký sinh và gây hại cho lợn. 1.5. Mối quan hệ giữa giun đũa lọn và giun đũa người Giun đũa ký sinh ở lợn và giun đũa ký sinh ờ người có cùng loài không? v ấn đề này cũng đã được một số tác già đề cập đến. về khả năng nhiễm chéo giữa giun đũa lợn và giun đũa người, Phạm Vãn Khuê và cs (1996), Nguyễn Thị Kim Lan và cs (1999) cho biết, khi gây nhiễm nhân tạo, một số tác giả thấy giun đũa người có thể nhiễm cho lợn và giun đũa lợn có thể nhiễm cho người. Tuy nhiên, xét về mặt dịch tễ, ở một khu vực lợn bị nhiễm giun đũa với tỷ lệ rất cao nhưng người nhiễm giun đũa không cao, hoặc người nhiễm với tỷ lệ rất cao nhưng lợn nhiễm không cao. Điều đó chứng tỏ giun đũa ờ lợn và ở người là khác loài và không có liên quan trực tiếp. về hình thái, giun đũa lợn và giun đũa người đều có màu trắng sữa hoặc trắng hồng, giun đũa lợn dài hơn giun đũa người nhưng đường lánh của giun đũa lợn lại nhỏ hơn so với giun đũa người (Hoàng Vãn Tân và cs, 2006). Phạm Văn Khuê (1982) cho biết, giun đũa lợn có khả năng lây truyền giữa lợn và nguời. Điều này có nghĩa là, giun đũa A. suum có thể nhiễm vào người, phát triển thành giun trường thành và gây bệnh cho nguời. Nghiên cứu về hai loài giun đũa này, Bùi Quý Huy (2006) cho biết, giun đũa lợn A. suum có đặc điểm hình thái và cấu tạo kháng nguyên tương tự giun đũa người A. lumbricoides. Sự di chuyển của hai loài này ưong cơ thể ký chủ cũng giống nhau: đó là vòng di chuyển gan - phổi - ruột non. Do những đặc điểm trên nên bệnh giun đũa lợn có thê truyền sang người, nhưng hiếm thấy giun đũa lợn phát triển thành giun trường thành trong ruột non người. Tuy nhiên, người nhiễm ấu trùng giun đũa lợn thì khá phổ biên, gây nên hội chứng Loeffler và các phản ứng tăng dị ứng của cơ thể với các triệu chứng đặc trưng như thở khò khè, ho, sốt, tăng bạch cầu ưa eosin trong máu. Hoàng Văn Tân và cs (2007, 2008) cho biết, nghiên cứu 68 mẫu giun đũa (32 mẫu giun đũa người và 36 mẫu giun đũa lợn) tại xã Phương Trung - Thanh Oai - Hà Nội và nghiên cứu 51 mẫu giun đũa (36 mẫu giun đũa người và 15 mẫu giun đũa lợn) tại xâ Phụng Châu - Chương Mỹ - Hà Nội, sau khi đã tách được ADN cùa các mẫu giun, tiến 110 Những bệnh ký sinh triing phổ biến ở gia cằm, lợn và loài nhai lại Việt Nam
  9. hành kỹ thuật PCR, sản phẩm PCR lần 1 được điện di để kiểm tra sản phẩm, sau đó sử dụng enzym Hae III để cắt ở vị trí giới hạn của giun đũa người tại nucleotid 358 và 131, 358 của giun đũa lợn. Kết quả các mẫu giun đũa người chỉ có 2 băng với kích thước 610bp và 370 bp; trong khi các mẫu giun đũa lợn cho ra 3 băng lần lượt là 610 bp, 230 bp, 140 bp. Dựa vào số luợt băng và kích thước của các băng, ta có thể phân biệt được giun đũa người và giun đũa lợn. Trong kết quả nghiên cứu chưa phát hiện ca nhiễm chéo nào, tuy nhiên có 15,62% mẫu giun đũa người ờ xã Phương Trung - Thanh Oai và 13,88% mẫu giun đũa người ờ xã Phụng Châu - Chương Mỹ khi sử dụng kỹ thuật điện di cho ra 4 băng, trong đó có cà những băng đặc trưng cho giun đũa người và giun đũa lợn. Tác giả cho ràng, những giun này rất có thể là con lai giữa giun đũa lợn và giun đũa người. 2. BỆNH GIUN ĐŨA LỢN 2.1. Những thiệt hại kinh tế do giun đũa lợn gây ra Theo Lương Văn Huấn (1998), ở Việt Nam lợn nhiễm giun sán nói chung làm giảm tăng trọng từ 1 - 3kg/con/tháng. Nghiên cứu ảnh hường của giun T. suis và A. suum ký sinh đến sự thiếu sắt của cơ thể lợn, Pedersen s. và cs (2001) đã thí nghiệm ừên 62 lợn ờ 10 tuần tuồi và chia chúng làm 2 lô: Lô 1 gây nhiễm đồng thời 4.500 trứng giun T. suis và 1.200 trứng giun A. suum. Lô 2: Đối chứng. Khẩu phần ăn của lợn ở 2 lô là như nhau. Kết quả cho thấy, giun T. suis và A. suum ký sinh đã làm cho cơ thể lợn thiếu sắt, ngoài ra số lượng hồng cầu trong máu của những lợn này giảm thấp. Lợn có thể bị nhiễm số lượng giun đũa khác nhau. Ớ lợn 2 - 5 tháng tuồi, giun gây tiêu chảy, giảm cân, gây viêm phổi, gây ho và có thể gây nhiễm trùng phổi do ấu trùng di hành mang vi khuẩn vào, lợn con có thể chết. Bề mặt gan của lợn bệnh có các đốm trắng hay còn gọi là điểm hoại tử. Bệnh giun đũa lợn là bệnh nội ký sinh trùng quan trọng nhất, gây nhiều tổn thất cho chăn nuôi lợn do làm lợn chậm lớn, giảm khối lượng, có tỷ lệ lợn chết và tổn thương gan, bệnh là tiền đề gây bội nhiễm hàng loạt bệnh truyền nhiễm đường tiêu hoá và hô hấp ở lợn (Nguyễn Hữu Vũ và cs, 2002). Vấn đề này cũng được các tác giả Trịnh Văn Thịnh (1985), Phan Địch Lân và cs (2005), Phạm Sỹ Lăng và cs (2006) cho biết, lợn con mắc bệnh giun đũa thường phát dục không đầy đù, luợng sản phẩm của lợn thịt có thể giảm 30%, bệnh nặng có thể làm chết lợn. Đề cập đến tác hại của giun đũa lợn, Đào Trọng Đạt (1986) cho rằng, giun đũa lợn gây tác hại bằng nhiều cách: bằng cơ giới, bằng độc tố, bằng cách mở đường cho các bệnh truyền nhiễm khác dễ dàng xâm nhập, bàng chiếm đoạt dinh dưỡng của ký chù. Chương 2. Bệnh ký sinh trùng thường gặp ở lợn 111
  10. Tuy nhiên, tác hại lớn nhất của chủng là gây bệnh có diễn biến măn tính, làm giảm sức sinh trường và sinh sản và làm giảm sản phẩm chăn nuôi. Đ ối với gia súc non, bệnh giun đũa lợn là bệnh gây thiệt hại nhiều nhất trong các bệnh ký sinh bùng ở lợn ở nước ta Một loạt các công trình nghiên cứu về tác hại của giun đũa đối với c a thể lợn đã được tiến hành, các tác giả đều thống nhất: Tác dụng bám cùa giun, khi ấu trùng chui vào thành ruột, sự di hành của ấu trùng tạo ra các vết thương cho cơ thể lợn và đó chinh là cửa ngõ để xâm nhập các bệnh khác, gây xuất huyết, huỷ hoại tế bào gan; làm mạch máu ờ phổi bị vỡ, gây viêm phổi. Khi giun trưởng thành ở ruột non làm niêm mạc bị loét, khi quá nhiều làm tắc và thủng ruột, có khi giun chui vào ống dẫn mật gây tắc ống dẫn mật, làm con vật bị hoàng đảm. Giun đũa còn tiết độc tố gây nhiễm độc thần kinh, con vật có triệu chứng thần kinh như tê liệt hoặc hưng phấn (đặc biệt ở lợn con), làm lợn gầy còm, chậm lớn (Phạm Văn Khuê và cs, 1996; Nguyễn Thị Lẽ, 1998; Nguyễn Thị Kim Lan và cs, 1999; Phan Địch Lân và cs, 2005; Phạm Sỹ Lăng và cs, 2007). Lương Văn Huin và cs (1997) cho biết, giun trưởng thành ký sinh làm viêm lóp cơ ở ruột, gây loét. Giun đũa sử dụng nhiều ion Ca2+ làm cho gia súc bị co giật, mềm xương, còi xương. 2.2. Đặc điểm dịch tễ bệnh giun đũa lợn 2.2.1. Phăn bố và tình hình nhiễm giun đũa ở lợn Theo Bùi Quý Huy (2006), bệnh giun đũa lợn phổ biến ờ khắp mọi nơi trên thế giới, nhưng nhiều nhất ở các nước có khí hậu nóng ẩm, tỷ lệ mắc bệnh có thể tới 80 - 90%. Ở nước ta, điều ừa tại các nông trường quốc doanh, đối với lợn nuôi tập trung hay nuôi tại các nông hộ, lợn ờ miền núi, trung du, đồng bàng đều thấy nhiễm giun đũa. Nguyên nhân là do khi hậu nước ta nóng ẩm, thuận lợi cho trứng giun phát triển ở ngoại cành, mặt khác, vệ sinh thú y ờ các cơ sờ chăn nuôi chưa tốt, chưa ủ phân, bón phân tươi vào ruộng trồng thức ăn cho lợn. Theo Lương Văn Huấn và cs (1997), bệnh giun đũa lợn phân bố rộng rãi khắp mọi ncri, ở mọi vùng và mọi giống lợn. Điều tra sơ bộ giun sán ký sinh ờ lợn cùa nông trường Cừu Long (tinh Hà Đông cũ), Nguyễn Thị Lê (1966) cho biết, lợn của nông trường nhiễm giun đũa v«5ri tỷ lệ từ 25 - 50% và nhiễm rất nặng. Tỳ lệ nhiễm giun đũa trên đàn lợn tại một số địa phương vùng Đồng bàng sông Hồng đã được Trần Văn Quyên và cs (2008) nghiên cứu và cho biết, xét nghiệm 221 m lu phân lợn tại một số địa phương, kết quả cho thấy lợn nhiễm giun đũa với tỷ lệ 22,4 - 37,3%. Nghiên cứu về khu hệ giun sán của lợn miền Trung Trung bộ, Bùi Lập (1979) Bùi Lập và cs (1988) đã mô khám 702 lợn ở đông băng, vùng núi và cao nguyên miền Trung Trung bộ, tìm thây 24 loài giun sán ký sinh, trong đó có 18 loài thuộc lớp giun 112 Những bệnh ký sinh trùng phổ biến ở gia cầm, lợn và loài nhai lại Việt Nam
  11. trốn (Nematoda), A. suum là loài thấy phổ biến ở cả 3 vùng đồng bằng, vùng núi và cao nguyên miền Trung Trung bộ, với tỷ lệ nhiễm trung bình là 52,08%. Tác giả còn cho biết thêm, lợn chưa cai sữa ở An Khê cũng đã nhiễm A. suum. Tuy nhiên, phần nhiều lợn nhiễm vói tỷ lệ cao ờ độ tuổi 3 - 6 tháng (tỷ lệ nhiễm cao ở 2 - 4 tháng, sau đó có xu hướng giảm dần). Phan Thế Việt (1990) đã xét nghiệm phân của 272 lợn, mổ khám 75 lợn tại huyện An Khê tinh Gia Lai. Kết quả cho thấy, lợn ở huyện An Khê bị nhiễm giun sán với tỷ lệ cao, nhiễm giun tròn với tỷ lệ 84,21%, trong đó nhiễm giun đũa (Ẩ. suum) từ 50 - 90%. Xác định thành phần loài và đặc điểm sinh thái giun sán ký sinh ờ lợn Nam bộ qua mổ khám toàn diện 1.055 lợn, mồ khám không toàn diện 900 lợn ở 7 lò mổ, ở 34 xã của 14 huyện, thị thuộc 6 tỉnh, thành phố ờ Nam Bộ (Đồng Nai, Sông Bé, thành phố Hồ Chí Minh, Tiền Giang, Kiên Giang, Minh Hải) ở các vùng canh tác, địa hình và khí hậu khác nhau, Phạm Văn Khuê (1980) đã công bố 3 kết luận sau: - Đàn lợn Nam bộ nhiễm giun sán với tỷ lệ cao (84,55%), nhiễm đù cả 4 lớp (sán lá, sán dây, giun tròn, giun đầu gai), trong đó lợn nhiễm giun tròn (Nematoda) với tỷ lệ 81,80%. - Thành phần loài giun sán ký sinh ờ lợn Nam bộ gồm 21 loài thuộc 17 giống và 4 lớp, trong đó có 13 loài thuộc lớp giun tròn. - Ascaris suum là một trong những loài có sức gây bệnh nặng, có tỳ lệ nhiễm cao, phân bố rộng ảnh hường tới năng suất chăn nuôi. Điều tra tình hình nhiễm giun sán ứên đàn lợn nuôi tại thành phố Hồ Chí Minh, Phạm Văn Chức (1986) đã mổ khám 166 lợn và xét nghiệm phân của 3228 lợn, kết quả như sau: Lợn ờ các ừại chăn nuôi quốc doanh có tỳ lệ nhiễm giun sán từ 38,8 - 83%, trong đó nhiễm giun đũa từ 2,9% (trại có qui mô lớn) đến 76,9% (ừại có qui mô nhỏ). Đàn lợn chăn nuôi gia đình nhiễm giun sán đến 58,1%, trong đó nhiễm giun đũa vói tỷ lệ cao nhất (42,8 - 46,4%). Nghiên cứu về tình hình nhiễm giun sán ở vùng Đồng bàng sông Cửu Long, Phạm Văn Chức (1986) đã xét nghiệm 14.425 mẫu phân và mồ khám 158 lợn tại tinh Hậu Giang, kết quả cho thấy: Lợn ở tỉnh Hậu Giang nhiễm giun đũa với tỷ lệ từ 20,7 - 55,6%, cường độ nhiễm biến động từ 1 - 69 giun/lợn. Nguyễn Thị Lê và cs (2000) cho biết, xét nghiệm 51 mẫu đất vườn ờ huyện Xuân Thuỷ - Nam Định, kết quả thấy có 31/51 mẫu phát hiện thấy trứng giun đũa (60,78%) với cường độ nhiễm 2 - 1 2 trứng/lOg đất. Xét nghiệm các mẫu đất ở các vườn trồng rau, đất ruộng trồng rau đang đợi vụ, đất đang trồng rau có tưới phân đều thấy trứng giun đũa với cường độ nhiễm lần lượt là 8 - 29, 32 - 185 và 185 trứng/lOg đất. Tổng hợp các kết quả nghiên cứu về bệnh giun đũa lợn cùa các tác già trong nước cho thây: Bệnh giun đũa lợn phân bô rộng khăp trong cà nước (Trịnh Văn Thinh 1963' Chương 2. Bệnh ký sinh trùng thường gặp ở lợn 113
  12. Phan Thế Việt và cs, 1977; Bùi Lập, 1979; Phạm Văn Khuê, 1982; Phạm Văn Chức (1986), Lương Văn Huấn, 1995; Nguyễn Đăng Khải, 1996; Vũ Tử Mỹ, 1999). Các tác giả đều thống nhất rằng: lợn nhà và lợn rừng đều là ký chủ của Ascaris suum. Giun đũa lợn ký sinh và gây bệnh ở ruột non của ký chù. Trịnh Văn Thịnh (1963) cho biết, giun thường không cắm đầu vào niêm mạc một và không ờ yên một chỗ mà chúng tự do và di động luôn luôn trong ống ruột. Phạm Văn Khuê (1982) đã công bố, tỷ lệ nhiễm A. suum ở lợn vùng Đồng bằng sông Hồng là khá cao, vói tỷ lệ nhiễm trung bình là 35,3%. Nghiên cứu ờ vùng Đồng bằng sông Cửu Long, Lương Văn Huấn (1995) cho biết, tỳ lệ nhiễm giun sán của lợn là 87,8% trong đó nhiễm A. suum là 64,30%. Theo Phạm Văn Khuê và cs (1996), Phan Địch Lân và cs (2005), tỷ lệ và cường độ nhiễm giun đũa qua mổ khám như sau: - Nghĩa Lộ (cũ): 43,5%; cường độ nhiễm trung bình 5,4 giun - Quàng Ninh: 26,65%; cường độ nhiễm trung bình 4,5 giun - Hà Bắc (cũ): 42,1%; cường độ nhiễm trung bình 9,2 giun - Thanh Hoá: 13,2%; cường độ nhiễm trung bình 3,0 giun - Hải Hưng (cũ): 40,5%; cường độ nhiễm trung bình 4,8 giun - Nam Hà (cũ): 33,3%; cường độ nhiễm trung bình 21,5 giun - Hà Tĩnh: 43,6%; cường độ nhiễm trung bình 5,9 giun Lương Văn Huấn (1998) đã mổ khám 891 lợn thuộc 4 lứa tuổi và xét nghiệm phân của 5.044 lợn thuộc 12 tinh thành phía Nam, kết quả cho thấy tỷ lệ nhiễm giun đũa lợn là 53%. Nghiên cứu về tình hình nhiễm giun sán trên đàn lợn của tỉnh Thái Nguyên, Nguyễn Thị Kim Lan và cs (2009) cho biết, lợn nhiễm giun đũa với tỳ lệ khá cao (31,90 - 34,19%). Như vậy, lợn nhiễm giun đũa lợn khá phổ biến và tỷ lệ nhiễm có sự khác nhau giữa các vùng, miền. Tuy nhiên, qua các kết quả nghiên cứu của các tác giả ừên, từ năm 1982 đến nay, tỷ lệ nhiễm giun đũa trên đàn lợn vẫn chưa có chiều hướng giảm. 2.2.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến tỷ lệ nhiễm giun đũa ở lợn - Tuổi lợn: Theo Trịnh Văn Thịnh và cs (1978), tuổi lợn bị nhiễm các loại giun ưòn nặng nhất từ 2 - 6 tháng tuổi vói tỷ lệ nhiễm cao từ 49,0 - 65,9%. Nghiên cứu về biến động nhiễm giun đũa theo tuổi, Lương Văn Huấn và cs (1997) cho biết, lợn dưới 3 tháng môi nhiễm 49,82%; 3 - 4 tháng nhiễm 67,1%; 5 - 7 tháng nhiễm 62,6%; > 7 tháng nhiễm 40,6%. 114 Nhũng bệnh kỷ sinh trùng phổ biến ở gia cầm, lợn và loài nhai lại Việt Nam
  13. Phạm Văn Khuê và cs (1996) có nhận xét: Tỷ lệ nhiễm giun đũa cao ờ lứa tuổi dưới 2 tháng đến 7 tháng tuổi, sau đó tỷ lệ nhiễm giảm dần: giai đoạn dưới 2 tháng nhiễm 39,2%; 3 - 4 tháng nhiễm 48,0%; 5 - 7 tháng nhiễm 58,3%; trên 8 tháng là 40,6%. Do giun đũa lợn không truyền qua bào thai và không truyền qua sữa nên lợn con mới đẻ chưa mang mầm bệnh, chúng chi nhiễm giun đũa toong quá trình nuôi dưỡng. Phạm Sỹ Lãng và cs (2006) cho biết, lợn con từ 1 - 4 tháng tuổi nhiễm giun đũa lợn vói tỳ lệ và cường độ cao hơn lợn từ 6 tháng ừở lên, lợn trên 1 năm ít thấy nhiễm giun đũa. Như vậy, lợn ở mọi lứa tuổi đều có thể bị nhiễm giun đũa, lợn đang trong thời kỳ sinh trường mạnh dễ bị bệnh giun đũa và bệnh phát triển nhanh hơn, nặng hơn so với lợn trưởng thành (nhiễm vói tỷ lệ cao và nặng nhất là ờ tháng thứ 4). Lợn ứên 1 năm tuổi nhiễm giun đũa biểu hiện lâm sàng ít hơn, hoặc không có biểu hiện lâm sàng, song chúng là động vật mang trùng và là nguồn bệnh nguy hiểm đối vói lợn con. - Mùa vụ: Nước ta, với một mùa nóng ẩm kéo dài và một mùa khô không lanh lắm là điều kiện thuận lọi cho ký sinh trùng tồn tại và phát triển quanh năm. Vì vậy, bệnh giun đũa nói riêng và các bệnh ký sinh trùng nói chung đều thấy xuất hiện quanh năm, song tỷ lệ nhiễm nhiều hom, nặng hơn vào mùa nóng ẩm (xuân, hè và đầu thu). Chúng tôi đã nghiên cứu tỷ lệ và cường độ nhiễm giun đũa lợn ở tinh Thái Nguyên theo mùa vụ, kết quà cho thấy, xét nghiệm phân của 1.092 lợn ở vụ hè - thu, tỷ lệ nhiễm là 43,32%, trong đó có hơn 14% nhiễm nặng; xét nghiệm phân của 930 lợn trong vụ Đông - Xuân, tỷ lệ nhiễm là 35,7%, ừong đó có hơn 7% nhiễm nặng. Như vậy, tỷ lệ và cường độ nhiễm giun đũa lợn trong vụ hè - thu cao và nặng hơn rõ rệt so với vụ đông - xuân (Trương Thị Thu Trang, Nguyễn Thị Kim Lan, Nguyễn Văn Quang, 2010). - Điều kiện vệ sinh thú y trong chăn nuôi: Điều kiện vệ sinh thú y trong chăn nuôi (vấn đề vệ sinh chuồng ừại, dụng cụ chăn nuôi, thức ăn nước uống và môi trường xung quanh, xử lý phân rác thài...) cũng được coi là yếu tố liên quan đến khả năng nhiễm giun đũa ờ lợn. Trần Tố và cs (2002), cũng có chung quan điểm đó, theo tác già thì chu kỳ phát triển cùa giun đũa lợn là chu kỳ phát triển trực tiếp qua đất, nên việc vệ sinh chuồng trại, thức ăn nước uống là biện pháp quan trọng trong công tác phòng bệnh. Trịnh Văn Thịnh (1985) cho biết, bệnh giun đũa lây nhiễm quanh năm ở các cơ sờ chăn nuôi có điều kiện vệ sinh kém và môi trường bị ô nhiễm. Lợn nhiễm giun đũa do nuốt phải trứng chứa ấu trùng có sức gây bệnh chủ yếu từ nền chuồng. Vì thế, nếu thu gom phân và ù phân thường xuyên, không để cho trứng kịp nờ thành phôi thai thì han chế được sự lây lan bệnh giữa các lợn trong cùng một ô chuồng. Theo Nguyễn Thị Kim Lan và cs (2006, 2009), lợn nuôi ừong điều kiện vệ sinh thú y kém thường nhiễm giun sán đường tiêu hoá, trong đó có giun đũa lợn với tỷ lệ cao và cường độ nặng hom nhiều so với lợn nuôi trong điều kiện vệ sinh thú y tốt. Sự khác nhau này có ý nghĩa thông kê rõ rệt (P < 0,001). Điêu này dẫn đến lợn bị tiêu chảy nhiều. Chương 2. Bệnh ký sinh trùng thường gặp ờ lợn 115
  14. Trong năm 2009 - 2010, chúng tôi đã nghiên cứu sâu về bệnh giun đũa lợn ở tinh Thái Nguyên, trong đó có ảnh hưởng của vấn đề vệ sinh thú y đến tình hình nhiễm giun đũa lợn. k ết quả cho thấy, ừong điều kiện vệ sinh thú y kém, lợn nhiễm giun đũa là 55,89% (trong đó có tới 18% nhiễm nặng và rất nặng), trong khi nuôi ờ điều kiện vệ sinh thú y tốt tỷ lệ nhiễm thấp (24,49%) và không có lợn nào nhiễm ờ cường độ nặng (Trương Thị Thu Trang, Nguyễn Thị Kim Lan, Nguyễn Vãn Quang, 2010). - Chuồng trại, phương thức chăn nuôi, thức ăn dinh dưỡng: Nghiên cứu về ảnh hưởng của phuơng thức chăn nuôi đến tỷ lệ nhiễm giun đũa, Lương Vãn Huấn và cs (1997) cho biết, lợn chăn nuôi theo hướng công nghiệp nhiễm thấp hơn so vói lợn chăn nuôi gia đình. Thức ăn dinh dưỡng cũng có ảnh hưởng đến sự nhiễm giun sán ờ lợn. Đề cập đến vấn đề này, Trịnh Văn Thịnh (1963, 1985) cho biết, ăn thiếu và vệ sinh thú y kém làm tăng rõ rệt tỷ lệ cảm nhiễm giun đũa (từ 3,5% đến 5,8%, thậm chí có thê tăng đên 27%) đối vói cùng giống lợn và cùng tuổi lợn. Do vậy, tăng cường chăm sóc, nuôi dưỡng cũng là một trong những biện pháp hữu hiệu phòng chống bệnh giun đũa ở lợn. Nghiên cứu về ảnh hường cùa hai phương thức chăn nuôi lợn (chăn nuôi công nghiệp và chăn nuôi truyền thống - tận dụng), chúng tôi (2009 - 2010) thấy, tỷ lệ nhiễm giun đũa lợn có sự khác nhau rõ rệt (53,73% ờ phương thức chăn nuôi truyền thông và 18,6% ờ phương thức chăn nuôi công nghiệp). - Ngoài ra, các yếu tố stress cũng đóng vai ừò thúc đẩy mức độ và tốc độ phát triển bệnh giun sán. Các yếu tố này bao gồm: chuồng trại chật chội, thức ăn kém dinh dưỡng, thiếu sữa, nhiệt độ môi trường thay đổi đột ngột... 2.2.3. Con đường lây nhiễm bệnh giun đũa lợn Lợn mắc bệnh thải trứng theo phân ra ngoại cảnh. Ở ngoại cảnh những trứng này được phát tán rộng rãi và bắt đầu quá trình phát triển để trờ thành trứng giun đũa có sức gây bệnh. Theo Phạm Văn Khuê và cs (1996), Nguyễn Thị Kim Lan và cs (1999), sự lây nhiễm bệnh giun đũa như sau: - Lây nhiễm trực tiếp: Lợn bệnh bài xuất trứng giun đũa qua phân, những trứng này phát tán trên nền chuồng, máng ăn, máng uống. Vì vậy lợn khoè dễ dàng bị nhiễm trứng giun đũa. Lây nhiễm trực tiếp chủ yếu giữa lợn bệnh và lợn khoẻ ữong cùng một ô chuồng. Lợn con nhiễm bệnh chủ yếu khi bú sữa mẹ, nuốt phải trứng cảm nhiễm bám ở đầu vú lợn mẹ. - Lây nhiễm gián tiếp: Dụng cụ chăn nuôi, người chàm sóc... cũng là tác nhân mang mầm bệnh. Đây là những yếu tố trung gian góp phần lây nhiễm giun đũa từ lợn bệnh sang lợn khoè từ ô chuồng này sang ô chuồng khác. Ngoài ra, ruồi, chuột cũng có thể phân tán trứng giun, gió cuốn trứng giun theo bụi, mang trứng giun đũa từ chuồng này sang chuồng khác gây phát tán mầm bệnh. 116 Những bệnh ký sinh trùng phò biến ở gia cảm, lợn và loài nhai lại Việt Nam
  15. 2.3. Đặc điểm bệnh tý, lâm sàng bệnh giun đũa lọrn 2.3.1. Cơ chế sinh bệnh về cơ chế sinh bệnh của bệnh giun đũa lợn, các tác giả đều thống nhất: Thời kỳ ấu trùng di hành hay trường thành ký sinh ờ ruột đều gây bệnh. Khi ấu trùng chui vào thành ruột, chúng gây tồn thưcmg, mở đường cho vi khuẩn vào cơ thể. Áu trùng giun đũa di hành qua phổi làm bệnh suyễn lợn càng nặng hơn và tỷ lệ phát bệnh có thể tăng gấp 10 lần. Âu trùng từ mạch máu phổi di chuyển tới phế bào, làm mạch máu bị vỡ nên ờ phổi có nhiều điểm xuất huyết, gây ra viêm phổi. Triệu chứng viêm còn phụ thuộc vào mức độ nhiễm, có thể kéo dài 4 - 15 ngày, có khi làm con vật chết. Thức ăn thiếu vitamin A làm lợn con dễ bị viêm phổi do giun đũa gây ra. Khi ấu trùng theo máu về gan, tác động đến mạch máu, gây lấm tấm xuất huyết, đồng thời gây hoại tử tế bào gan. Khi thành giun trưởng thành thi tác dụng gây viêm giảm dần. Giun trưởng thành ký sinh ờ ruột non làm niêm mạc ruột non bị loét, nếu quá nhiều làm tắc và thủng ruột. Giun đũa còn tiết độc tố gây nhiễm độc thần kinh và mạch máu khiến con vật có triệu chứng thần kinh (tê liệt hoặc hưng phấn). Ngoài ra, trong quá trinh trao đổi chất giun còn tiết độc tố và thài cặn bã, gây độc, làm lợn gầy còm chậm lớn (Phan Địch Lân và cs, 1996; Phạm Văn Khuê, cs, 1996; Lương Văn Huấn và cs, 1997; Phạm Sỹ Lăng và cs, 2001, 2006, 2007). 2.3.2. Triệu chứng của lợn bị bệnh giun đũa Tác hại cùa bệnh giun đũa nặng hay nhẹ tuỳ theo số lượng giun có ừong cơ thể lợn nhiều hay ít, vào thời gian ký sinh và sức chống đỡ của từng cơ thể lợn. Đã có nhiều đề cập đến biểu hiện lâm sàng của lợn bị bệnh giun đũa. Các tác giả đều cho biết, lợn con thường phát bệnh ở thể cấp tính (giai đoạn từ 1 - 4 tháng tuồi), lợn trường thành và lợn già thì bệnh thường ở thề mãn tính. Thể bệnh nặng thể hiện viêm ruột, đau bụng, ia chảy, đặc biệt là gầy yếu, suy nhược, còi cọc và thiếu máu. Đôi khi giun đũa chọc thủng ruột rơi vào xoang bụng, gây chết đột ngột hoặc viêm phúc mạc cấp. Thể mãn tính cũng thể hiện các triệu chứng trên nhưng không rõ rệt (Nguyễn Thi Kim Lan và cs, 1999; Phan Địch Lân và cs, 2005; Phạm Sỹ Lăng và cs, 2006, 2007). Một số tác giả cho biết, lợn bị bệnh giun đũa có sự thay đồi các chi tiêu sinh lý máu. Theo kết quả nghiên cứu cùa chúng tôi (2010), xét nghiệm máu của những lợn gây nhiễm giun đũa A. suum khi đã có triệu chứng lâm sàng và máu lợn đối chứng, thấy: số lượng hồng cầu của lẹm bệnh là 4,61 triệu/mm3 máu (thấp hơn rõ rệt so với đối chứng: 5,27 triệu/mm3 máu), hàm lượng huyết sắc tố của lợn bệnh là 9,53g% (thấp hơn rõ rệt so với đối chứng: 1 l,8g%), tỷ lệ bạch cầu eosin trong máu lợn bệnh là 10,56% (cao hơn rất nhiều so với đối chứng: 3,91%). Nghiên cứu về triệu chứng lâm sàng của lợn bị bệnh giun đũa, Trịnh Văn Thinh (1968) cho biết, về phương diện bệnh lý, người ta chia bệnh giun đũa lợn thành hai thể bệnh: thề thông thường và thể đặc biệt. Cụ thể: Chưong 2. Bệnh kỷ sinh trùng thường gặp ờ lợn 117
  16. - Thể bệnh thông thường: thể hiện ở 4 loại triệu chứng sau đây: + ỉa chảy không mạnh nhưng hay lặp lại, có biểu hiện đau bụng. + Lợn gầy yếu, lông xù, dáng điệu lờ đờ, chậm lớn, còi cọc, gầy rạc. + Một vài con bị co giật như động kinh. + Một vài con nồi những mụn mủ, hay mụn nước ngoài da, sau từ 5 - 6 ngày những mụn này khô đi và thành vẩy. - Thế bệnh đặc biệt: gọi là thể bệnh đặc biệt vi ít thấy, nhưng đã bị thì lợn thường chết. Trường hợp này, ruột lợn bị tắc do búi giun làm cho thức ăn ứ lại sinh đau bụng dữ dội. Khi búi giun làm căng ruột quá, ruột có thể rách hay vỡ ra, lợn chết nhanh. Giun đũa ờ ruột non của lợn để hút thức ăn chuyển từ dạ dày xuống nhung giun cũng có thể trườn lên dạ dày, thực quản rồi ra mõm nên có trường hợp thấy lợn mửa ra giun. Hoặc, từ họng giun chui vào khí quản, vào phổi, gây viêm phổi và ngạt thờ, trường họp này lợn chết nhanh. Giun đũa trưởng thành cũng có thể chui vào ống mật, hoặc chui vào đó từ khi còn là ấu trùng đến khi giun lớn lên làm tắc ống dẫn mật và làm lợn chết. Theo nghiên cứu của Nguyễn Thị Kim Lan và cs (2006, 2009), giun đũa A. suum là nguyên nhân gây tiêu chảy cho đàn lợn nuôi ở một số địa phương của tỉnh Thái Nguyên. Lợn bị tiêu chảy nhiễm giun đũa nhiều hơn và nặng hơn rõ rệt so vói lợn phân bình thường. Gây nhiễm giun đũa cho lẹm con ở Thái Nguyên, chúng tôi (2010) thấy, với liều từ 3.000 - 8.000 trứng giun đũa có sức gây bệnh, lợn đã thể hiện triệu chứng lâm sàng rõ rệt: ho (từ ngày 9 - 10 sau gây nhiễm), phân chuyển từ bình thường sang sệt và lỏng (từ ngày 35 - 42 sau gây nhiễm), gầy, ăn kém, niêm mạc nhợt nhạt. Trong khi lợn đối chứng, trong cùng điều kiện chăm sóc Hình 59: Bjểu hiện |âm sàng c nuôi dưỡng, không có biêu hiện lâm sàng. ờ ngày thứ 35 'sau khi gây nhiêm 2.3.3. Bệnh tích của lợn bị bệnh giun đũa Phạm Văn Khuê và Phan Lục (1996), Luơng Văn Huấn và cs (1997), Phạm Sỹ Lăng và cs (2006) đã mô tả những tổn thương bệnh lý qua mổ khám lợn nhiễm giun đũa nặng như sau: Lúc đâu phôi bị viêm, trên mặt phổi có đám huyết mầu hồng thẫm. Khi kiêm tra phôi thây nhiêu âu trùng giun đũa. Ruột có nhiều giun, lòng ruột chửa nhiều dịch nhây, niêm mạc ruột tôn thương, tăng sinh dày lên. Bề mặt gan có nhiều điềm hoại tử màu trăng. Nêu lợn nhiêm giun đũa với sô lượng lớn thì lòng ruột giãn rộng, gan phổi viêm, xơ hoá thanh những vệt dài, ruột viêm cata, khi ruột bị vỡ thì gây viêm phúc mạc và xuất huyết. 118 Nhũng bệnh ký sinh triing phổ biến ở gia cấm, lợn và loài nhai lại Việt Nam
  17. Mổ khám 3 lợn gây nhiễm giun đũa A. suum, chúng tôi (2010) thấy: Có rất nhiều giun đũa (76 - 586 giun/lợn) ký sinh ờ ruột non lợn. Phổi lợn viêm, có những vùng màu thẫm và chắc hơn bình thường. Ruột non viêm cata và xuất huyết, lòng ruột có nhiều dịch nhầy. Gan có nhiều điểm hoại tử màu trắng. Mổ khám 3 lợn đối chứng không có bệnh tích và không có giun đũa ký sinh. Hình 60, 61: Giun đũa ký sinh ở ruột non cùa lọn gây nhiễm W 4H B - m Hình 62: Gan có nhiều điểm hoại từ màu trắng Hình 63: Ruột non viêm cata, xuất huyết Hình 64: Niêm mạc m ộ t bj thoái hoá (1), Hình 65: Các tế bào viêm, bạch cầu ái toan và lông nhung bị đứt nát (2) (x200) hồng cầu xuất hiện nhiều ờ niêm mạc ruột (x400) Chương 2. Bệnh kỷ sinh trúng thường gặp ờ lợn 119
  18. 2.4. Miễn dịch học bệnh giun đũa lợn Tính miễn dịch chống các bệnh giun sán về nguyên tắc không khác các loại miễn dịch khác, cũng là chức năng sinh lý bảo vệ cơ thể. Đào Trọng Đạt và cs (1986) cho biết, tác dụng miễn dịch cùa ký chủ đối với giun sán là hạn chế sự phát dục của giun sán, rút ngắn thòi gian ký sinh. Khi nhiễm ấu bừng giun đũa, cơ thể lợn hình thành trạng thái miễn dịch. Miễn dịch giun đũa là miễn dịch mang trùng. Đề cập đến những nhân tố ảnh hường đến sức miễn dịch cùa cơ thể, trong dó có ảnh hường cùa tuổi đến sức miễn dịch, Trịnh Vãn Thịnh (1963) cho rằng: Ở nước ta, nghé và lợn con mắc bệnh giun đũa với tỷ lệ nhiều hơn và nặng. Ngoài 2 tháng tuổi nghé đã bắt đầu có miễn dịch với giun đũa Neoascaris vitulorum, ứong khi lợn phải đến ngoài 6 tháng tuồi mới có một phần sức chống đỡ với giun đũa Ascaris suum. Theo Đào Trọng Đạt và cs (1995, 1996), ờ lợn, miễn dịch bị động qua nhau thai chi phòng vệ được 3 tuần lễ đầu. Chi lợn 2 - 5 tháng tuổi có dấu hiệu lâm sàng của nhiễm A. suum, lợn già chịu đựng vói giun tốt hơn và hạn chế được sự di hành của ấu trùng. Do đó lợn già thường nhiễm mức độ thấp và không có triệu chứng lâm sàng. Ấu trùng A. suum có hoạt tính kháng nguyên cao hơn giun trưởng thành. Các kháng nguyên bề mặt ấu trùng có thể gắn với một loạt kháng thể của ký chù khác nhau. Các ấu trùng non (16 - 25 giờ sau khi nhiễm) có thể bị phủ protein của ký chủ, do đó, bằng cách giảm hoạt tính, chúng đã thực hiện được bước đầu xâm nhiễm vào ký chủ, sau 48 - 72 giờ các tế bào bạch cầu hạt kết dính vào bề mặt ấu trùng, tạo nên một môi trướng có hại cho ấu trùng. Giai đoạn lột xác từ ấu trùng kỳ II thành ấu trùng kỳ III cũng là thời gian dung giài kháng nguyên. Vì vậy ờ lợn đã được miễn dịch, đa số ấu trùng giun đũa bị chết trong gan. Hiện nay, áp dụng những thành tựu về miễn dịch học, người ta đã chế tạo được vacxin chống giun sán như: Dictyocaulus, Ascaris, Haemonchus, Moniezia, Echinococcus, Ancylostoma... Hiệu lực miễn dịch của các vacxin này thường đạt từ 2 đến 4 tháng. Ờ nước ta, bước đầu đã có những thử nghiệm chế vacxin giun đũa và giun phổi (Đào Trọng Đạt và cs, 1986). 2.5. Chẩn đoán bệnh giun đũa lợn Các tác giả Trịnh Văn Thịnh (1963), Phạm Văn Khuê và cs (1996), Nguyễn Thị Kim Lan và cs (1999), Phan Địch Lân và cs (2005), Phạm Sỹ Làng và cs (2006, 2007) đều thống nhất việc áp dụng các phương pháp sau trong chẩn đoán bệnh giun đũa lợn, đó là: 120 Những bệnh ký sinh trùng phồ biến ở gia cằm. lợn và loài nhai lại Việt Nam
  19. - Dựa vào dịch tễ và triệu chứng: Sự phân bố bệnh ữong khu vực, tình trạng vệ sinh thú y trong chăn nuôi lợn, tuổi mắc bệnh... là những đặc điểm dịch tễ cần lưu ý. Trịnh Văn Thịnh (1968) đã mô tả các biểu hiện lâm sàng của lợn bị bệnh giun đũa và cho biết để chẩn đoán bệnh đạt hiệu quả, nếu thấy một vài triệu chứng, nhất là ia chày, lông xù, chậm lớn thì có thể nghi là lợn đã bị bệnh giun đũa, còn nếu thấy cả bốn triệu chứng thì bệnh đã khá nặng và cần phải kịp thời điều trị cho lợn. - X ét nghiệm phân và mo khám lợn bệnh: Đối với lợn dưới 2 tháng tuổi: Lợn con theo mẹ nếu có giun thì giun chưa đẻ trứng. Bởi vậy muốn chẩn đoán bệnh, có thể mổ khám rồi tìm ấu trùng ở phổi và gan. Phương pháp mổ khám toàn diện Skrjabin K. I. (1928) vẫn là phương pháp cho độ chính xác cao nhất. Đối với lợn trên 2 tháng tuồi: Kiểm tra phân bằng phương pháp phù nổi để tìm trứng (thông dụng nhất là phương pháp Fullebom). Ngoài rạ, có thể mổ khám tìm giun trường thành ở ruột non. Theo Lương Văn Huấn và cs (1997), khi kiểm ư a phân bằng phương pháp Mc. Master, nếu có từ 1000 trứng/g phân thì lợn bị nhiễm nặng và có triệu chứng lâm sàng. - Chẩn đoán bằng phản ứng biến thái nội bì: Có nhiều cách chế kháng nguyên tiêm nội bì, nhưng thường dùng cách chế kháng nguyên cùa Ecsop: Rửa sạch giun đũa còn sống, nghiền nát, hoà với 2 phần nước cất, cứ lm l dung dịch trên cho thêm 8g men tuyến tuỵ và 10ml clorofoc, điều chinh pH = 7,6 - 7,8. Để tủ ấm 7 - 12 ngày, giun tan hết thì ly tâm, lấy nước ở trên cho vào lọ, pha với cồn 96°, tỷ lệ 1:5 để cho kháng nguyên lắng xuống, lấy kháng nguyên ở đáy cho vào lọ con để tủ ấm. Sau khi khô, bảo quản ở tù lạnh trên 8 tháng vẫn không ảnh hưởng tới đặc tính kháng nguyên. Khi tiêm, pha loãng 1:200, có thể tiêm nội bì vành ngoài tai hoặc nhỏ vào xoang kết mạc mắt. Phương pháp chẩn đoán này rất tốt, không có phản ứng chéo đối với lợn nhiễm giun tóc, giun kết hạt, giun đầu gai. Sau khi lợn nhiễm giun đũa từ ngày thứ 8 đến ngày 11 bắt đầu có phản ứng duơng tính. Thòi gian phàn ứng biến thái xuất hiện phù hợp với thời gian kháng thể tập trung trong máu sau khi nhiễm giun đũa và không phụ thuộc vào giun trường thành ở ruột. Các tác giả khác cũng cơ bản thống nhất về phương pháp chẩn đoán bệnh giun đũa ờ lợn nhu các tác già trên (Soulsby E. J. L., 1982; Phạm Văn Khuê, 1982; Trịnh Văn Thịnh, 1982; Lương Văn Huấn, 1995; Nguyễn Đăng Khải, 1996; Vũ Tứ M ỹ 1999' Nguyễn Thị Kim Lan và cs, 2008). Chương 2. Bệnh ký sinh trùng thường gặp ở lợn 121
  20. 2.6. Biện pháp phòng, chống bệnh giun đũa ở lợn 2.6.1. Điều trị bệnh giun đũa ở lợn bằng các hoá dược Vấn đề điều trị bệnh do giun đũa A. suum bàng các hoá dược đã được chú ý nghiên cứu và áp dụng từ lâu. Theo Trịnh Vãn Thịnh (1963), để chữa Acanosis cân kêt hợp ba biện pháp: cách ly con vật ốm; tẩy giun ngay lập tức bằng hoá dược, tránh không cho nhiễm bệnh ưở lại, đồng thời bồi dưỡng con vật ốm. Những loại hoá dược thường được dùng để tẩy giun đũa cho lợn là: Levamizol (Nguồn: Phạm Đức Chương và cs, 2003) Levamizol là đồng phân quay toái của dl - Tetramizol, là một trong những thuốc căn bản nhất chống giun tròn có phổ tác dụng rộng trên nhiều loài vật chủ (dê, cừu, trâu, bò, lợn, gà), có tác dụng tốt đối với giun tròn đường tiêu hoá và ở phổi. Levamizol hydrochloride có tác dụng làm liệt giun tròn do cơ giun co thắt. Điều này đã được chứng minh khi cơ co thắt do Levamizol gây ra ờ giun đũa A. suum. Nói chung, Levamizol liều 7,5mg/kg thể trọng hoặc l,0ml/10kg thể trọng) an toàn và ít độc với lợn, hiệu quả tẩy sạch từ 90 - 100% . (Phạm Đức Chương và Hình 66: Một số thuốc dùng tẩy giun aũaở\ợn cs, 2003; Phạm Sỹ Lăng và cs, 2003). Phạm Sỹ Lăng (2007) cho biết: Phenothiaán dùng liều 0,5g/kg thể trọng, cho uống 2 buổi sáng liền, kết quả ra giun 70 - 100%; Piperazin adipinat liều 0,3 - 0,5g/kg thể trọng và Mebenvet liều 0,5g/kg thể trọng, tỷ lệ sạch giun A. suum tmởng thành từ 90 -100%. Theo Phạm Đức Chương và cs (2003), Ivermectin có phồ tác dụng rộng đối với nhiều loại giun tròn. Ưu điểm cùa Ivermectin là tẩy được cả nội và ngoại ký sinh trùng với một lượng vô cùng nhò (dưới lmg/kg thể trọng). Tác giả cho biết: Tiêm dưới da liều 0,3mg/kg thể trọng đối với lợn cho phổ tác dụng rộng, liều này có tác dụng với 94 - 100% các giai đoạn chưa trưởng thành của A. suum. 122 Những bệnh ký sinh tiling phổ biến ở gia cằm, lợn và loài nhai lại Việt Nam
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
3=>0