Những hạn chế trong việc quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ internet và thông tin trên mạng
lượt xem 2
download
Việc phát hiện và khắc phục những điểm hạn chế trong công tác quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ internet và thông tin trên mạng là việc làm cấp thiết, phải thực hiện khẩn trương để bảo đảm hiệu quả hoạt động quản lý nhà nước trong lĩnh vực này. Bài viết phân tích những hạn chế trong việc quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ internet và thông tin trên mạng.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Những hạn chế trong việc quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ internet và thông tin trên mạng
- THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT NHỮNG HẠN CHẾ TRONG VIỆC QUẢN LÝ, CUNG CẤP, SỬ DỤNG DỊCH VỤ INTERNET VÀ THÔNG TIN TRÊN MẠNG1 Cao Vũ Minh* Nguyễn Nhật Khanh** * TS. Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh. * ThS. Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh. Thông tin bài viết: Tóm tắt: Từ khóa: thông tin trên mạng, dịch vụ Mạng toàn cầu Internet càng ngày càng có vai trò quan trọng. Sự internet, quản lý, cung cấp, sử dụng phát triển như vũ bão của Internet là minh chứng cho thấy những dịch vụ internet. tiện lợi, hữu ích mà Internet mang lại đối với đời sống con người. Việc phát hiện và khắc phục những điểm hạn chế trong công tác Lịch sử bài viết: quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ internet và thông tin trên mạng Nhận bài : 18/10/2018 là việc làm cấp thiết, phải thực hiện khẩn trương để bảo đảm hiệu Biên tập : 07/11/2018 quả hoạt động quản lý nhà nước trong lĩnh vực này. Bài viết phân Duyệt bài : 15/11/2018 tích những hạn chế trong việc quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ internet và thông tin trên mạng. Article Infomation: Abstract Keywords: information on internet, Internet plays an increasingly important role. The rushing internet services, management, development of the internet is convincing its convenience and provision, access of internet. usefulness to all aspects of social activities. The detection and Article History: correction of limitations in the management, provision and use of internet services and information on the internet is an urgent matter Received : 18 Oct. 2018 that needs to be urgently implemented to ensure the effectiveness Edited : 07 Nov. 2018 of the management of the government in this area. This article Approved : 15 Nov. 2018 provides analysis of the limitations of managing, providing, using internet services and information on the internet. 1. Đặt vấn đề quyền công dân. Hiến pháp năm 2013 đã ghi Tự do ngôn luận và tiếp cận thông tin nhận rất rõ nội dung này như sau: “Công dân là những quyền hiến định rất cơ bản của con có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp người. Ở Việt Nam, những quyền này được cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình. ghi nhận một cách cụ thể hơn dưới góc độ Việc thực hiện các quyền này do pháp luật 1 Bài viết thuộc phạm vi Đề tài NCKH cấp Bộ “Hoàn thiện pháp luật về quản lý thông tin trên mạng - Thực trạng và giải pháp” của Viện Nghiên cứu Lập pháp do ThS. Trần Thị Hoa làm Chủ nhiệm. 40 Số 24(376) T12/2018
- THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT quy định”2. nhiên, bên cạnh những kết quả tích cực trong Mọi quốc gia trên thế giới đều rất quan việc điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh tâm, tôn trọng quyền tự do ngôn luận và tiếp trong lĩnh vực này thì các quy định của Nghị cận thông tin của công dân, thể hiện qua việc định số 72/2013/NĐ-CP cũng như thực tiễn ban hành các văn bản pháp luật để bảo vệ quản lý của Nhà nước vẫn còn tồn tại những quyền tự do ngôn luận và tiếp cận thông tin bất cập nhất định, cần phải hoàn thiện để của công dân. Tuy nhiên, không một quốc gia đáp ứng yêu cầu bảo vệ quyền của công dân nào coi quyền tự do ngôn luận và tiếp cận cũng như nâng cao hiệu quả quản lý của Nhà thông tin của công dân là vô hạn, mà luôn đặt nước trong thực tế. trong khuôn khổ pháp luật nhằm thực hiện 2. Một số điểm hạn chế trong việc quản được sự quản lý của Nhà nước đối với việc lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ internet và thực hiện các quyền này của công dân trong thông tin trên mạng thực tiễn. Tự do ngôn luận và tiếp cận thông Thứ nhất, quy định pháp luật về các tin được bảo vệ khi nó không xâm phạm lợi hành vi bị cấm đăng tải trên không gian ích hợp pháp, chính đáng của quốc gia, của mạng còn tản mạn, chưa có sự thống nhất cộng đồng, của tổ chức, cá nhân khác. Để có cơ sở cho việc xác định và xử lý Quyền tự do ngôn luận và tiếp cận các vi phạm, Điều 5 Nghị định số 72/2013/ thông tin của công dân được biểu hiện dưới NĐ-CP (được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị nhiều hình thức với những phương thức thực định số 27/2018/NĐ-CP) quy định về các hiện khác nhau. Một trong những phương nội dung bị cấm đăng tải trên không gian thức hữu hiệu để thực hiện các quyền này mạng. Sau đó, Quốc hội ban hành Luật An của công dân trong thời kỳ công nghệ 4.0 đó ninh mạng năm 2018 và cũng quy định các là sử dụng dịch vụ internet và thông tin trên nội dung bị cấm đăng tải trên không gian mạng. Ở Việt Nam hiện nay, vấn đề quản mạng (Điều 16, 17, 18). So với quy định lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ internet và tại Nghị định số 72/2013/NĐ-CP (được thông tin trên mạng đang được quy định cụ sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 27/2018/ thể tại Nghị định số 72/2013/NĐ-CP ngày NĐ-CP), các hành vi bị cấm trong Luật An 15/7/2013 của Chính phủ (đã được sửa đổi, ninh mạng năm 2018 được quy định chi tiết bổ sung bởi Nghị định số 27/2018/NĐ-CP hơn, cụ thể hơn, bao gồm: thông tin có nội của Chính phủ). dung tuyên truyền chống Nhà nước Cộng Nghị định này gồm 6 chương với 46 hòa XHCN Việt Nam; thông tin có nội dung điều, quy định chi tiết về dịch vụ Internet, tài kích động gây bạo loạn, phá rối an ninh, gây nguyên Internet, nguyên tắc quản lý, cung rối trật tự công cộng; thông tin có nội dung cấp, sử dụng thông tin trên mạng, quản lý làm nhục, vu khống; thông tin có nội dung việc thiết lập trang thông tin điện tử tổng xâm phạm trật tự quản lý kinh tế; hành vi hợp, mạng xã hội, việc cung cấp dịch vụ nội gián điệp mạng, xâm phạm bí mật nhà nước, dung thông tin trên mạng viễn thông, quản bí mật công tác, bí mật kinh doanh, bí mật lý việc cung cấp dịch vụ trò chơi điện tử trên cá nhân, bí mật gia đình và đời sống riêng mạng, bảo đảm an toàn thông tin và an ninh tư trên không gian mạng; hành vi sử dụng thông tin trên mạng. Sự ra đời của Nghị định không gian mạng để vi phạm pháp luật về này đã tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho việc an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội. Các quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ internet nội dung bị cấm đều được quy định rõ ràng và thông tin trên mạng tại Việt Nam. Tuy dưới dạng liệt kê. 2 Điều 25 Hiến pháp năm 2013. Số 24(376) T12/2018 41
- THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT Trước đó, Luật An toàn thông tin Nghị định 167/2013/NĐ-CP quy định về xử mạng năm 2015 cũng đã liệt kê các hành phạt vi phạm trong lĩnh vực an ninh, trật tự, vi bị nghiêm cấm trong quá trình sử dụng an toàn xã hội; phòng chống tệ nạn xã hội; mạng3. Nhìn chung, các quy định ở ba văn phòng cháy và chữa cháy; phòng chống bạo bản này tuy có sự đồng nhất về mặt nội dung lực gia đình thì mức xử phạt đối với hành vi nhưng nội hàm pháp lý vẫn có những mâu viết, phát tán, lưu hành tài liệu có nội dung thuẫn nhất định. xuyên tạc, bịa đặt, vu cáo làm ảnh hưởng đến Thứ hai, chế tài xử phạt đối với các uy tín của tổ chức, cá nhân là từ 2.000.000 hành vi bị cấm đăng tải trên không gian đồng đến 3.000.000 đồng. Tuy quy định này mạng còn có những mâu thuẫn không nói rõ có thể áp dụng xử phạt hành vi Xử phạt vi phạm hành chính là việc vi phạm được thực hiện thông qua phương người có thẩm quyền xử phạt áp dụng hình tiện nào nhưng có thể ngầm hiểu quy định thức xử phạt đối với cá nhân, tổ chức thực này vẫn có khả năng áp dụng trong trường hiện hành vi vi phạm hành chính theo quy hợp hành vi phát tán thông tin xấu trên mạng định của pháp luật về xử lý vi phạm hành xã hội. chính4. Mức xử phạt vi phạm hành chính Thứ ba, như đã trình bày, các hành vi trong lĩnh vực quản lý thông tin trên mạng bị cấm trên không gian mạng được quy định được quy định tại Điều 65 và Điều 66 Nghị tại ba văn bản Nghị định số 72/2013/NĐ- định 174/2013/NĐ-CP ngày 13/11/2013 của CP (được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành số 27/2018/NĐ-CP), Luật An toàn thông tin chính trong lĩnh vực bưu chính, viễn thông, mạng năm 2015 và Luật An ninh mạng năm công nghệ thông tin và tần số vô tuyến điện. 2018. Vi phạm các hành vi bị cấm liên quan Theo đó, mức xử phạt đối với vi phạm các đến sử dụng, lưu trữ, phát tán thông tin mạng quy định về trách nhiệm tổ chức, doanh sẽ bị xử phạt theo Nghị định số 174/2013/ nghiệp cung cấp dịch vụ mạng xã hội và NĐ-CP. Tùy theo tính chất mức độ có thể bị đối với vi phạm quy định về lưu trữ, cho truy cứu trách nhiệm hình sự. thuê, truyền đưa, cung cấp, truy nhập, thu Theo pháp luật hiện hành, cá nhân, tổ nhập, xử lý, trao đổi và sử dụng thông tin chức phải chịu trách nhiệm hình sự khi thực là từ 5.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng. hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội. Như Ngoài mức phạt tiền như trên, các chủ thể vậy, trách nhiệm hình sự là loại trách nhiệm vi phạm quy định về quản lý thông tin trên nghiêm khắc nhất trong các loại trách nhiệm mạng xã hội còn phải chịu hình thức xử phạt pháp lý, thể hiện ở chỗ người phạm tội bị bổ sung là tịch thu phương tiện vi phạm Tòa án kết án, phải chịu hình phạt và các hoặc tước quyền sử dụng giấy phép từ 01 biện pháp tư pháp và mang án tích5. Thông tháng đến 03 tháng đối với tổ chức, doanh thường, các chủ thể vi phạm trong việc quản nghiệp cung cấp dịch vụ mạng xã hội nếu lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ internet trên vi phạm vào một số khoản của hai điều luật mạng xã hội có thể chịu trách nhiệm hình sự trên. Bên cạnh đó, tại điểm l khoản 3 Điều 5 với các tội danh: Tội hoạt động nhằm lật đổ 3 Điều 7 Luật An toàn thông tin mạng năm 2015. 4 Điều 2 Luật Xử lý vi phạm hành chính 2012. 5 Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh, Giáo trình Luật hình sự Việt Nam - Phần chung, Nxb. Hồng Đức, năm 2016, tr. 251. 42 Số 24(376) T12/2018
- THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT chính quyền nhân dân (Điều 109), Tội phá hình mạng xã hội. Một là mạng xã hội của hoại việc thực hiện các chính sách kinh tế - các doanh nghiệp trong nước được thành lập xã hội (Điều 115), Tội phá hoại chính sách theo quy định của pháp luật Việt Nam và do đoàn kết (Điều 116), Tội phá rối an ninh Bộ Thông tin và Truyền thông quản lý, hai (Điều 118), Tội vu khống (Điều 156), Tội là mạng xã hội nước ngoài cung cấp dịch vụ xâm phạm bí mật hoặc an toàn thư tín, điện xuyên biên giới tại Việt Nam. Vấn đề quản thoại, điện tín hoặc hình thức trao đổi thông lý thông tin trên mạng xã hội nước ngoài còn tin riêng tư khác của người khác (Điều 159). gặp nhiều khó khăn do khoảng cách địa lý. Tuy nhiên, ranh giới giữa vi phạm hành Đối với hành vi vi phạm quản lý thông tin chính với vi phạm hình sự còn chưa có sự mạng xã hội mà xác định được chủ thể, nếu phân biệt rõ ràng. đó là công dân Việt Nam thì sẽ được xử lý Cụ thể, tại khoản 1 Điều 116 Bộ luật theo quy định của pháp luật Việt Nam. Còn Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm đối tượng vi phạm là người nước ngoài thì 2017) quy định về tội phá hoại chính sách xử lý theo hình thức không xác định được đoàn kết có liệt kê bốn hành vi nhằm chống đối tượng và phải phối hợp với các doanh chính quyền nhân dân: i. gây chia rẽ giữa nghiệp cung cấp dịch vụ xuyên biên giới các tầng lớp nhân dân, giữa nhân dân với nhằm ngăn chặn. chính quyền nhân dân, với lực lượng vũ Vì đối tượng vi phạm là chủ thể không trang nhân dân, với các tổ chức chính trị - xác định và hành vi vi phạm được thực hiện xã hội; ii. gây hằn thù, kỳ thị, chia rẽ, ly khai trên mạng xã hội nước ngoài nên việc xử dân tộc, xâm phạm quyền bình đẳng trong lý hành vi vi phạm đó chỉ được thực hiện cộng đồng các dân tộc Việt Nam; iii. gây về phương diện kỹ thuật mà không có bất chia rẽ người theo tôn giáo với người không kỳ chế tài nào đối với chủ thể đó. Cụ thể, theo tôn giáo, giữa người theo các tôn giáo theo Thông tư số 38/2016/TT-BTTTT ngày khác nhau, chia rẽ các tín đồ tôn giáo với 26/12/2016 của Bộ Thông tin và Truyền chính quyền nhân dân, với các tổ chức chính thông quy định chi tiết về việc cung cấp trị - xã hội; iv. phá hoại việc thực hiện chính thông tin công cộng qua biên giới, đối với sách đoàn kết quốc tế. Trong khi đó, Điều các hành vi không xác định được đối tượng 64 Nghị định số 174/2013/NĐ-CP xử phạt nhưng có nguy cơ vi phạm quy định về hành các vi phạm về trang thông tin điện tử, trang vi bị nghiêm cấm tại khoản 1 Điều 5 Nghị thông tin điện tử tổng hợp cũng xác định chế định số 72/2013/NĐ-CP (được sửa đổi, bổ tài hành chính đối với các hành vi này nhưng sung bởi Nghị định số 27/2018/NĐ-CP) thì “chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình Bộ Thông tin và Truyền thông gửi đề nghị sự”. Vấn đề có tính thực tiễn đặt ra là công phối hợp bằng văn bản hoặc qua phương thức “chưa đến mức truy cứu trách nhiệm tiện điện tử thông báo cho tổ chức, cá nhân hình sự” không có chuẩn mực chung và phụ nước ngoài về các thông tin vi phạm. Trong thuộc hoàn toàn vào nhận thức của các chủ thời hạn 24 giờ sau khi Bộ Thông tin và thể áp dụng pháp luật. Truyền thông gửi đề nghị, tổ chức, cá nhân Thứ tư, vấn đề xử lý vi phạm đối với nước ngoài cung cấp thông tin công cộng chủ thể không xác định sử dụng mạng xã hội qua biên giới xác định thông tin vi phạm và nước ngoài vẫn chưa cụ thể thực hiện xử lý thông tin theo đề nghị. Sau Hiện nay, Việt Nam đang có hai loại thời hạn nêu trên, nếu tổ chức, cá nhân nước Số 24(376) T12/2018 43
- THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT ngoài không xử lý thông tin vi phạm theo doanh nghiệp thiết lập mạng xã hội phải có yêu cầu và cũng không phản hồi trở lại, Bộ ít nhất một hệ thống máy chủ đặt tại Việt Thông tin và Truyền thông sẽ gửi thông báo Nam đáp ứng việc thanh tra, kiểm tra, lưu lần hai. Sau 24 giờ tiếp theo, nếu vẫn tiếp trữ, cung cấp thông tin theo yêu cầu của cơ tục không xử lý thông tin và cũng không quan quản lý nhà nước có thẩm quyền và có phản hồi trở lại, Bộ Thông tin và Truyền giải quyết khiếu nại của khách hàng đối với thông sẽ thực thi những biện pháp kỹ thuật việc cung cấp dịch vụ theo quy định của Bộ cần thiết. Thông tin và Truyền thông. Trong khoản Như vậy, Thông tư số 38/2016/TT- 4 Điều 34 Dự thảo Luật An ninh mạng lần BTTTT cho phép tối đa sau 48 giờ thì tổ IV, có quy định rằng, doanh nghiệp nước chức, cá nhân cung cấp dịch vụ xuyên biên ngoài khi cung cấp dịch vụ mạng xã hội giới phải gỡ bỏ thông tin khi nhận được yêu thì phải đặt máy chủ quản lý dữ liệu người cầu. Điều này là hợp lý bởi do chênh lệch về sử dụng Việt Nam trên lãnh thổ Việt Nam. múi giờ giữa các quốc gia, việc quy định một Tuy nhiên, trong Luật An ninh mạng năm khoảng thời gian quá ngắn sẽ gây bất lợi và 2018 được ban hành chính thức vào ngày khó khăn trong việc giải quyết vi phạm. Chủ 12/06/2018, quy định về việc đặt máy chủ thể duy nhất có thẩm quyền gửi yêu cầu phối đối với doanh nghiệp nước ngoài đã không hợp bằng văn bản là Bộ Thông tin và Truyền còn. Máy chủ hay còn được gọi là Server thông. Ngoài cơ quan này, các chủ thể khác, thường được sử dụng cho nhu cầu lưu trữ và mặc dù có phát hiện vi phạm về quản lý xử lý dữ liệu trong một mạng máy tính hoặc thông tin mạng xã hội, thì cũng không có trên môi trường Internet. Quy định đặt máy thẩm quyền gửi yêu cầu cho tổ chức, cá chủ tại Việt Nam sẽ gây bất lợi cho doanh nhân cung cấp dịch vụ xuyên biên giới. Tuy nghiệp vì doanh nghiệp sẽ tốn khá nhiều nhiên, nhà làm luật lại không quy định trách chi phí như chi phí để lắp đặt máy chủ, chi nhiệm của tổ chức, cá nhân cung cấp dịch phí về nhân sự. Chính vì vậy, Luật An ninh vụ xuyên biên giới trong việc xem xét giải mạng đã bỏ quy định này và nó chỉ còn là quyết. Trong trường hợp, tổ chức, cá nhân quyền của các doanh nghiệp theo Nghị định cung cấp dịch vụ xuyên biên giới “phớt lờ” số 72/2013/NĐ-CP của Chính phủ (được yêu cầu của Bộ Thông tin và Truyền thông sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 27/2018/ thì vấn đề rất có thể sẽ đi vào “ngõ cụt”. Tất NĐ-CP). Doanh nghiệp có thể lựa chọn nơi nhiên, Bộ Thông tin và Truyền thông vẫn có đặt máy chủ, có thể là ở Việt Nam hoặc có quyền áp dụng các biện pháp cần thiết nhằm thể là ở nước ngoài. Tuy nhiên, quy định này bảo vệ an ninh trên mạng nhưng rõ ràng xây vẫn gây những khó khăn nhất định cho việc dựng cơ chế phối hợp có trách nhiệm với quản lý nội dung thông tin mạng. nhau vẫn là điều cần thiết. Điều này không Thứ sáu, các điều kiện về kỹ thuật đối chỉ duy trì mối quan hệ hữu hảo giữa các bên với trang thông tin điện tử tổng hợp, mạng mà còn tăng cường khả năng chọn lọc và xã hội không được nghiêm chỉnh tuân thủ phát thông tin cũng như đề cao trách nhiệm trong thực tế với nhau. Điều 23c Nghị định số 72/2013/NĐ- Thứ năm, theo Điều 25 Nghị định số CP của Chính phủ (được sửa đổi, bổ sung 72/2013/NĐ-CP (được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 27/2018/NĐ-CP) quy định bởi Nghị định số 27/2018/NĐ-CP) tổ chức, về điều kiện về kỹ thuật đối với trang thông 44 Số 24(376) T12/2018
- THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT tin điện tử tổng hợp, mạng xã hội. Theo đó, điện tử (nếu có). Hai là, để bảo đảm tính xác việc thiết lập hệ thống thiết bị kỹ thuật có thực trong việc cung cấp thông tin về số điện khả năng đáp ứng các yêu cầu sau: thoại và hộp thư điện tử, hệ thống kỹ thuật - Đối với trang thông tin điện tử tổng phải thực hiện việc xác thực người sử dụng hợp: Lưu trữ tối thiểu 90 ngày đối với nội dịch vụ thông qua tin nhắn gửi đến số điện dung thông tin tổng hợp kể từ thời điểm thoại hoặc đến hộp thư điện tử khi đăng ký đăng tải; lưu trữ tối thiểu 02 năm đối với sử dụng dịch vụ hoặc thay đổi thông tin cá nhật ký xử lý thông tin được đăng tải; nhân. Ba là, ngăn chặn hoặc loại bỏ thông - Đối với mạng xã hội: Lưu trữ tối tin vi phạm khi có yêu cầu từ cơ quan quản thiểu 02 năm đối với các thông tin về tài lý nhà nước có thẩm quyền. Bốn là, thiết lập khoản, thời gian đăng nhập, đăng xuất, địa cơ chế cảnh báo thành viên khi đăng thông chỉ IP của người sử dụng và nhật ký xử lý tin có nội dung vi phạm (bộ lọc). thông tin được đăng tải; Theo quy định mới của Nghị định số - Tiếp nhận và xử lý cảnh báo thông 72/2013/NĐ-CP của Chính phủ (được sửa tin vi phạm từ người sử dụng; đổi, bổ sung bởi Nghị định số 27/2018/NĐ- CP), người dùng mạng xã hội khi đăng ký - Phát hiện, cảnh báo và ngăn chặn tài khoản phải khai số chứng minh nhân dân/ truy nhập bất hợp pháp, các hình thức tấn thẻ căn cước công dân/hộ chiếu và những công trên môi trường mạng và tuân theo thông tin sẽ được lưu trữ trên hệ thống kỹ những tiêu chuẩn bảo đảm an toàn thông tin; thuật của mạng xã hội. Tuy nhiên, hiện nay, - Có phương án dự phòng bảo đảm rất nhiều mạng xã hội hoạt động tại Việt duy trì hoạt động an toàn, liên tục và khắc Nam không yêu cầu cung cấp số chứng phục khi có sự cố xảy ra, trừ những trường minh nhân dân/ thẻ căn cước công dân/ hộ hợp bất khả kháng theo quy định của pháp chiếu trong bước đăng ký tài khoản, chỉ yêu luật; cầu người dùng phải điền các thông tin cơ - Bảo đảm phải có ít nhất 01 hệ thống bản như họ và tên; ngày, tháng, năm sinh; máy chủ đặt tại Việt Nam, cho phép tại thời số điện thoại và địa chỉ thư điện tử… Bất điểm bất kỳ có thể đáp ứng việc thanh tra, cập này dẫn đến tình trạng người dùng có kiểm tra, lưu trữ, cung cấp thông tin trên thể khai thông tin “ảo”mà không bị kiểm toàn bộ các trang thông tin điện tử, mạng xã soát hoặc một người dùng đăng ký nhiều hội do tổ chức, doanh nghiệp sở hữu. tài khoản đồng thời. Cũng theo Nghị định Ngoài việc bảo đảm các điều kiện kỹ số 72/2013/NĐ-CP (được sửa đổi, bổ sung thuật chung như trên, Nghị định số 72/2013/ bởi Nghị định số 27/2018/NĐ-CP), trường NĐ-CP của Chính phủ (được sửa đổi, bổ hợp người sử dụng Internet dưới 14 tuổi và sung bởi Nghị định số 27/2018/NĐ-CP) còn chưa có chứng minh nhân dân/ thẻ căn cước quy định thêm bốn điều kiện riêng đối với công dân/ hộ chiếu, người giám hộ hợp pháp hệ thống kỹ thuật thiết lập mạng xã hội: Một quyết định việc đăng ký thông tin cá nhân là, thực hiện đăng ký, lưu trữ thông tin cá của người giám hộ theo quy định tại điểm nhân của thành viên, bao gồm: họ và tên; này để thể hiện sự cho phép và chịu trách ngày, tháng, năm sinh; số chứng minh nhân nhiệm trước pháp luật về việc đăng ký đó. dân/thẻ căn cước công dân/hộ chiếu, ngày Như vậy, trẻ em dưới 14 tuổi dùng mạng xã cấp, nơi cấp; số điện thoại và địa chỉ thư hội phải được cha, mẹ đồng ý và nếu đồng ý Số 24(376) T12/2018 45
- THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT thì chính cha, mẹ sẽ dùng thông tin cá nhân nhiên, trên thực tế một số trang mạng xã của mình để đăng ký tài khoản cho con trên hội được cấp phép vẫn cung cấp cả thông mạng xã hội. Tuy nhiên, trên thực tế, trẻ em tin điện tử tổng hợp cho đăng nhiều bài viết có thể tự sử dụng thông tin của cha, mẹ hoặc được dẫn nguồn từ nhiều cơ quan báo chí. của bất cứ ai để đăng ký thông tin trên mạng Như vậy, các mạng xã hội này đang hoạt xã hội mà pháp luật cũng như hệ thống kỹ động trang thông tin điện tử tổng hợp không thuật không thể kiểm soát được điều này. phép, vi phạm quy định tại khoản 3, Điều Như vậy, so với Thông tư số 04/2009/ 63 Nghị định số 174/2013/NĐ-CP. Một số TT-BTTTT, Nghị định số 72/2013/NĐ-CP mạng xã hội bất chấp các chế tài trong Nghị (được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số định số 174/2013/NĐ-CP và tổ chức sản 27/2018/NĐ-CP) đã bãi bỏ quy định về việc xuất, cung cấp thông tin như cơ quan báo chí sẵn sàng kết nối, xác thực thông tin cá nhân điện tử. Thực chất đây là hoạt động báo điện với cơ sở dữ liệu điện tử về chứng minh tử không phép, vi phạm quy định tại điểm nhân dân hoặc hệ thống mã số cá nhân quốc a, khoản 4, Điều 5 Nghị định số 159/2013/ gia theo yêu cầu của cơ quan có thẩm quyền. NĐ-CP ngày 12/11/2013 của Chính phủ Điều này tuy đơn giản hóa các thủ tục hành quy định xử phạt vi phạm hành chính trong chính nhưng vô hình trung lại dẫn đến tình lĩnh vực báo chí, xuất bản. Vấn đề cần nói trạng không thể quản lý cũng như xác định là nếu xử phạt theo Nghị định số 174/2013/ chính xác người đăng thông tin có nội dung NĐ-CP thì mức tiền phạt chỉ từ 20.000.000 vi phạm. đồng đến 30.000.000 đồng, còn xử phạt theo Thứ bảy, xuất hiện tình trạng biến Nghị định số 159/2013/NĐ-CP thì mức tiền “mạng xã hội” thành “báo điện tử” nhưng phạt cao hơn rất nhiều (từ 70.000.000 đồng việc áp dụng chế tài không thống nhất. đến 100.000.000 đồng). Trên thực tế, các cơ quan áp dụng pháp luật để xử phạt cũng có Theo thông tin đưa ra tại Hội nghị phổ những băn khoăn nhất định. biến Nghị định số 27/2018/NĐ-CP ngày 1/3/2018 sửa đổi, bổ sung một số của Nghị Thứ tám, việc áp dụng chế tài xử phạt định 72/2013/NĐ-CP của Chính phủ về phải căn cứ vào nhiều quy định trong các quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ Internet văn bản khác nhau. và thông tin trên mạng do Bộ TT&TT tổ Theo Điều 23 Nghị định số 72/2013/ chức sáng ngày 22/5/2018, có hiện tượng NĐ-CP (được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị mạng xã hội bất chấp các quy định pháp định số 27/2018/NĐ-CP) thì cơ quan cấp luật và tổ chức sản xuất, cung cấp thông phép ban hành Quyết định đình chỉ Giấy tin như cơ quan báo chí điện tử. Theo quy phép trang thông tin điện tử tổng hợp, Giấy định tại Nghị định 27/2018/NĐ-CP thì trang phép thiết lập mạng xã hội trong thời hạn 03 thông tin điện tử và mạng xã hội của cùng tháng kể từ ngày ban hành Quyết định khi tổ một tổ chức, doanh nghiệp không được sử chức, doanh nghiệp vi phạm một trong các dụng cùng một tên miền. Quy định này có trường hợp sau: i. Đưa thông tin xuyên tạc, nghĩa là mạng xã hội và trang thông tin điện vu khống, xúc phạm uy tín của tổ chức, danh tử tổng hợp của cùng một tổ chức, doanh dự và nhân phẩm của cá nhân; ii. Quảng nghiệp phải có sự tách biệt, phân biệt rõ cáo, tuyên truyền, mua bán hàng hóa, dịch ràng, không được mập mờ, lẫn lộn, kết hợp vụ bị cấm; truyền bá tác phẩm báo chí, văn cả hai loại hình trên cùng một tên miền. Tuy học, nghệ thuật, xuất bản phẩm bị cấm; iii. 46 Số 24(376) T12/2018
- THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT Giả mạo tổ chức, cá nhân và phát tán thông Thứ chín, mặc dù pháp luật có quy tin giả mạo, thông tin sai sự thật xâm hại định về việc cung cấp thông tin thật của cá đến quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, nhân khi đăng ký trở thành thành viên của cá nhân. Tương tự, cơ quan cấp phép thu mạng xã hội nhưng quy định này chưa được hồi giấy phép thiết lập trang thông tin điện thực thi một cách triệt để. Theo Điều 9 Nghị tử tổng hợp, giấy phép thiết lập mạng xã hội định số 72/2013/NĐ-CP (được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 27/2018/NĐ-CP) và khi tổ chức, doanh nghiệp vi phạm quy định theo điểm a khoản 2 Điều 26 Luật An ninh như: i. Chống lại Nhà nước Cộng hòa XHCN mạng năm 2018, một trong những trách Việt Nam; gây phương hại đến an ninh quốc nhiệm của các nhà cung cấp dịch vụ mạng gia, trật tự an toàn xã hội; phá hoại khối đại xã hội là phải bảo đảm chỉ những người đã đoàn kết dân tộc; tuyên truyền chiến tranh, cung cấp đầy đủ, chính xác thông tin người khủng bố; gây hận thù, mâu thuẫn giữa các dùng thì mới được thiết lập trang thông tin dân tộc, sắc tộc, tôn giáo; ii. Tuyên truyền, điện tử cá nhân hoặc cung cấp thông tin trên kích động bạo lực, dâm ô, đồi trụy, tội ác, tệ mạng xã hội. Tuy nhiên, để áp dụng được nạn xã hội, mê tín dị đoan, phá hoại thuần quy định này trên thực tế thì cần phải có sự phong, mỹ tục của dân tộc; iii. Tiết lộ bí mật phối hợp giữa doanh nghiệp cung cấp dịch nhà nước, bí mật quân sự, an ninh, kinh tế, vụ mạng xã hội và cơ quan nhà nước nhằm đối ngoại và những bí mật khác do pháp luật kiểm tra tính xác thực của thông tin như họ và tên, số chứng minh nhân dân/ số thẻ căn quy định; iv. hai lần bị đình chỉ giấy phép. cước công dân… Nếu không thực hiện được Lẽ ra, “đình chỉ” giấy phép phải được xem điều này thì quy định trên vẫn chỉ là trên lý là một hình thức xử phạt vi phạm hành chính thuyết. và phải được quy định trong Nghị định số 174/2013/NĐ-CP - Nghị định xử phạt vi 3. Kết luận Trong thời kỳ công nghiệp 4.0, phạm hành chính trong lĩnh vực bưu chính, Internet ngày càng có vai trò quan trọng, sự viễn thông, công nghệ thông tin và tần số phát triển như vũ bão của Internet là minh vô tuyến điện. Tuy nhiên, chế tài “đình chỉ” chứng cho thấy những tiện lợi, hữu ích mà giấy phép lại không được tìm thấy trong Internet mang lại đối với mọi mặt đời sống. Nghị định số 174/2013/NĐ-CP mà lại được Internet hình thành ra các ứng dụng, các điều chỉnh trong Nghị định số 72/2013/NĐ- trang mạng xã hội để kết nối mọi người với CP (được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định nhau dựa trên nền tảng nguồn thông tin vô số 27/2018/NĐ-CP). Điều này dẫn đến thực tận, thực hiện vô số các chức năng giáo dục, trạng là khi xử phạt vi phạm hành chính về nhận thức, thẩm mỹ, giải trí, thông tin, v.v..; thông tin trên mạng, người có thẩm quyền đồng thời phục vụ đa dạng các hoạt động phải căn cứ vào các chế tài khác nhau của 02 của con người, từ học tập, nghiên cứu, kinh nghị định khác nhau. Ngoài ra, thu hồi giấy doanh, giao lưu gặp gỡ. Trong đó, đáng chú phép có phải là chế tài xử phat vi phạm hành ý là Internet mở ra nhiều cơ hội học tập, phát triển các năng lực bản thân của các cá nhân chính hay không? Nếu là chế tài xử phạt trong xã hội. Vì vậy, việc phát hiện và khắc vi phạm hành chính thì không phù hợp với phục những điểm hạn chế trong công tác Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012. quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ internet Nếu không thì tại sao người có thẩm quyền và thông tin trên mạng là việc làm cấp thiết lại có thể áp dụng biện pháp này đối với các cần phải thực hiện khẩn trương để bảo đảm vi phạm với tính chất là một chế tài gây bất hiệu quả hoạt động quản lý nhà nước trong lợi cho người vi phạm? lĩnh vực này■ Số 24(376) T12/2018 47
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Liên kết kinh tế vùng: từ lý thuyết đến thực tiễn Việt Nam
5 p | 271 | 81
-
Sự cần thiết và vai trò của quản lý nhà nước về thương mại điện tử
7 p | 802 | 73
-
Hạn chế trong chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở việt nam
7 p | 1234 | 69
-
Tính hai mặt của đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) ở Việt Nam
9 p | 151 | 17
-
Kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay
6 p | 151 | 15
-
Rủi ro nợ công và giải pháp hạn chế rủi ro nợ công ở Việt Nam
3 p | 81 | 12
-
Các thách thức trong thu hút vốn FDI tại Việt Nam
14 p | 36 | 6
-
Thể chế thị trường lao động ở Việt Nam và sự chuẩn bị cho bối cảnh mới
15 p | 56 | 6
-
Xử lý vi phạm đối với các thoả thuận hạn chế cạnh tranh
6 p | 90 | 5
-
Những hạn chế của chính sách khoán kinh phí trong thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ sử dụng ngân sách nhà nước
20 p | 81 | 5
-
Luật viên chức năm 2010: Những vấn đề đặt ra trong cải cách pháp luật về dịch vụ công
9 p | 41 | 4
-
Những hạn chế trong tuyển dụng lao động nước ngoài tại các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và một số kiến nghị
7 p | 51 | 3
-
Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh trong pháp luật lao động Việt Nam
4 p | 49 | 3
-
Những hạn chế của pháp luật về xác định công sức đóng góp trong khối tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn và một số đề xuất khắc phục
13 p | 6 | 3
-
Việc làm và thị trường lao động
42 p | 21 | 2
-
Tiếp tục hoàn thiện môi trường thế chế để thu hút FDI cho phát triển bền vững
14 p | 47 | 2
-
Một số vấn đề về hoàn thiện cơ chế giám sát việc lựa chọn và bổ nhiệm cán bộ ở Trung Quốc hiện nay
8 p | 67 | 1
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn