NHỮNG TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT TRONG “LÊN ĐỒNG”<br />
CỦA NGƯỜI VIỆT VÀ “KUT” CỦA NGƯỜI HÀN<br />
Mỗi dân tộc đều tự sáng tạo riêng cho mình những văn hóa riêng mang<br />
dấu ấn dân tộc. Điều đó cũng đúng với người Hàn và người Việt. Đặc biệt,<br />
dấu ấn của văn hóa chịu ảnh hưởng của chăn nuôi và săn bắn hái lượm cũng<br />
tạo nên những nét độc đáo riêng có. Trong văn hóa dân gian Việt Nam và<br />
Hàn Quốc, các loại hình tín ngưỡng mang yếu tố shaman giáo đóng một<br />
vai trò khá quan trọng, trong đó lên đồng của người Việt và kut của<br />
người Hàn là những ví dụ tiêu biểu.<br />
Việc so sánh 2 nghi lễ này vừa chứng minh sự đa dạng, vừa nói lên sự<br />
tương đồng trong văn hóa của hai miền nhiệt-hàn.<br />
1. Khái niệm.<br />
Các thuật ngữ lên đồng, hầu đồng hay hầu bóng đều dùng để chỉ một<br />
nghi lễ quan trọng và tiêu biểu trong tín ngưỡng Tam Phủ, Tứ Phủ của<br />
người Việt - một loại hình tín ngưỡng bản địa có nguồn gốc từ sự tôn thờ<br />
các Nữ thần và dần được hệ thống hóa thành thần điện của tín ngưỡng<br />
thờ Mẫu. Thông qua các ông đồng bà đồng (những người có khả năng<br />
“liên lạc” với thần thánh), con người tìm thấy sự che chở, ban phúc, lộc,<br />
sức khỏe… những thứ mà họ cần trong cuộc sống thực tại.<br />
Cũng như Việt Nam, Hàn Quốc là một đất nước ngay từ rất sớm đã<br />
chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của shaman giáo các nghi lễ của nó cũng đã<br />
được hình thành ở quốc gia này trong nhiều thế kỷ và được chấp nhận<br />
trong sự khoan dung của Phật giáo. Một trong những nghi lễ quan trọng<br />
của shaman giáo ở Hàn Quốc là lễ kut hay shaman kut . Những người<br />
thực hiện nghi lễ này là các Mudang.<br />
2. So sánh hầu đồng VN với kut HQ.<br />
a. Giống nhau<br />
Như chúng ta đã biết, cả hầu đồng và kut đều có nguồn gốc từ<br />
shaman giáo, đây là một hình thức cổ xưa và còn tồn tại đến nay dưới<br />
nhiều dạng thức, do có cùng nguồn gốc nên có thể hiểu 2 hình thức tín<br />
ngưỡng này cũng có những điểm chung.<br />
1. Đối tượng thực hiện:<br />
Hầu hết những người có thể thực hiện lên đồng (ông đồng, bà đồng)<br />
hay kut (Mudang) đều là phụ nữ (cũng có một số ít trường hợp là nam<br />
giới). Tuy nhiên, không phải người phụ nữ nào cũng có thể thực hiện<br />
nghi lễ này mà thường phải là những người đã được “thần thánh tuyển<br />
chọn”.<br />
Ở người Việt, trước khi trở thành ông đồng hay bà đồng, bản thân<br />
một người nào đó thường phải trải qua một thời gian (thậm chí nhiều<br />
năm) ốm đau bệnh tật “thập tử nhất sinh” điên dại, mất trí… đã chạy<br />
chữa nhiều nơi nhưng không tìm ra bệnh. Cuối cùng, “bệnh nhân” ấy<br />
phải đến “cửa Mẫu” để cúng khấn và cuối cùng được các đồng đền (chủ<br />
đền) phán rằng đó là “bệnh nghề nghiệp” - hay người “có căn mạng”.<br />
Họ sẽ được “những người đi trước” hướng dẫn “tập sự”. Trước khi trở<br />
thành ông đồng, bà đồng thực sự, những người này phải qua “lễ mở cửa<br />
phủ”.<br />
Để trở thành Mudang thực sự, các đệ tử shaman giáo ở Hàn Quốc<br />
cũng phải trải qua những hiện tượng tương tự. Theo tác giả Nguyễn<br />
Long Châu trong Tìm hiểu văn hóa Hàn Quốc, muốn trở thành<br />
một Mudang thực sự phải đạt 3 tiêu chuẩn, trong đó quan trọng nhất là<br />
người lên đồng phải trải qua một thời gian bệnh tật rất nặng. Vào tuổi<br />
dậy thì hoặc khoảng thời gian sau đó, người phụ nữ ấy phải trải qua một<br />
cơn đau vật vã, kiệt quệ cả tinh thần, sau đó hay nằm mơ thấy ma quỷ<br />
hoặc thần thánh và ban ngày thường mắc chứng ảo giác. Sau khi không<br />
thể chạy chữa được nữa, cô gái đó đến một bà đồng và phát hiện ra<br />
chứng “bệnh nghề nghiệp” của mình. Bà đồng đó sẽ hướng dẫn cô thực<br />
tập. Cô đồng mới này sẽ thọ giáo một vị thần mà cô đã gặp trong giấc<br />
mơ. Thời gian học nghề thường là 5 năm. Trước khi được công nhận<br />
là Mudang chuyên nghiệp, tự cô đồng mới này phải mở một buổi lễ long<br />
trọng với sự chứng kiến của nhiều đồng nghiệp.<br />
Như vậy, về cơ bản “lộ trình” để trở thành một người “làm việc<br />
thánh” ở kut hay lên đồng là khá giống nhau.<br />
- Các ông đồng, bà đồng hay Mudang hầu hết đều do “thánh chọn”<br />
chứ không phụ thuộc vào ý thức chủ quan của con người. Người được<br />
chọn khó có thể chống lại được số phận mà thần linh đã sắp đặt sẵn. Bên<br />
cạnh đó cũng có những người theo “nghiệp” gia đình mà làm nghề này.<br />
Hầu hết nhóm người theo nghiệp gia đình thường có thời gian học việc<br />
lâu hơn những người “căn cao số nặng” đã từng bị điên dại.<br />
Ở khía cạnh này chúng ta cũng có thể tìm thấy sự tương đồng với<br />
các Mudang người Hàn. Ngoài sự lựa chọn của thần thánh hay những<br />
linh cảm thiêng liêng (con đường này gọi là kangsinmu ),<br />
các Mudang còn có thể hành nghề thông qua việc mẹ truyền cho con gái,<br />
hoặc con dâu (con đường này gọi là saeseupmu - hay Thế tập vu).<br />
- Về giới tính, tuy có những trường hợp cá biệt, song hầu hết<br />
các Mudang người Hàn và thầy đồng người Việt đều là nữ (dù độ tuổi để<br />
trở thành người hành nghề chuyên nghiệp có thể không hoàn toàn giống<br />
nhau).<br />
- Những người có “căn mạng” thường phải trải qua những kỳ ốm đau<br />
thập tử nhất sinh, cuối cùng mới phát hiện ra là người có khả năng là<br />
mối liên lạc “trung gian giữa thần thánh và con người”, họ sẽ được<br />
“huấn luyện” sau một thời gian nhất định trước khi hành nghề.<br />
- Để có thể làm việc chuyên nghiệp, các ông đồng bà đồng phải qua<br />
một thời gian học việc khá dài, có thể vài năm tùy theo khả năng của<br />
mỗi người. Tiếp đến, họ phải qua nghi lễ “trình đồng” và nghi lễ thụ giáo<br />
hay “mở cửa phủ” mới được phép mở đền riêng tại gia đình.<br />
2. Mục đích:<br />
Trong cuộc sống, từ xa xưa hay gay cả trong hiện đại thì con người<br />
luôn phải đối diện với nỗi sợ hãi, bệnh tật… Do đó rất cần 1 điểm tựa<br />
tinh thần để có thể có thêm những niềm tin mới, và cũng từ đó các nghi<br />
lễ của tín ngưỡng dân gian xuất hiện, đem lại luồng sinh khí mới cho<br />
con người.<br />
Vì lẽ đó mà mục đích của hai nghi lễ này đều xuất phát từ mong<br />
muốn của con người về một cuộc sống bình yên. Thông qua các lễ ấy,<br />
con người muốn cầu mong thần thánh ban cho sức khỏe, tài lộc trong<br />
làm ăn buôn bán hay trồng trọt chăn nuôi, chữa bệnh, xua đuổi điều<br />
không may mắn…<br />
3. Những kiêng cữ trước khi hành lễ<br />
Là môi trường thiêng nên trước khi hành lễ, các thầy đồng đều có<br />
những kiêng cữ nhất định để làm trong sạch bản thân như không được<br />
gần gũi với người khác giới (nhất là quan hệ vợ chồng), phải kiêng các<br />
đồ ăn có nguồn gốc động vật như thịt, cá… phải ăn chay, ăn ít, thậm chí<br />
có thể nhịn ăn… Đối với các ông đồng bà đồng người Việt thì ngoài các<br />
kiêng cữ trên đây, những người đang có tang (trong một năm), đang có<br />
thai, nuôi con bú hoặc đang kỳ … cũng không được vào đền hầu thánh.<br />
Căn nguyên của những kiêng cữ trên đây xuất phát từ việc các thầy<br />
đồng muốn tạo nên một trạng thái cơ thể có sự khác biệt đôi chút so với<br />
ngày bình thường. Cũng theo quan niệm của họ, việc “chay tịnh” cơ thể<br />
chính là sự tôn trọng thần thánh. Theo GS.TS Ngô Đức Thịnh, đối với<br />
kỹ thuật lên đồng, trạng thái bất thường trong cơ thể (sau khi chay tịnh)<br />
sẽ góp phần tạo cho ông đồng bà đồng dễ rơi vào trạng thái ngây ngất để<br />
thoát hồn hay nhập hồn.<br />
4, Đối tượng thờ cúng<br />
những bậc thần linh trong các bước (của kut) hay giá (của hầu đồng)<br />
đều có liên quan đến các quan lại trong triều đình - người đã có công<br />
đánh giặc ngoại xâm để bảo vệ đất nước, những người theo quan niệm<br />
của người Việt và các dân tộc Á đông là “sinh vi tướng tử vi thần”.<br />
Chẳng hạn trường hợp trường hợp tướng Choe Young - Thôi Huỳnh -<br />
người có cái chết bi thảm được tôn như một anh hùng và được coi như vị<br />
thần cao nhất của shaman giáo ở vùng Kyonggy.<br />
Trong hệ thống điện thần Tứ Phủ, số lượng các vị thánh vốn là các võ<br />
tướng trong triều đình hoặc những người có công đối với đất nước<br />
chiếm số lượng rất đông đảo, các Ông Hoàng trong điện thần Tứ Phủ<br />
cũng vậy. Tương truyền Ông Hoàng Đệ Nhất là danh tướng của Lê Lợi,<br />
Ông Hoàng Bơ (Ba) thờ ở Đền Lảnh (Hà Nam) có công phò vua đánh<br />
giặc, Ông Hoàng Lục (tức Trần Lựu) người đã có công đánh giặc Minh,<br />
Ông Hoàng Bẩy (hay Ông Hoàng Bẩy Bảo Hà) là viên quan triều đình<br />
đã có công trấn giữ vùng Lào Cai, Yên Bái.<br />
Sở dĩ có sự tương đồng về đối tượng thờ cúng nêu trên là bởi tâm lý<br />
của các cư dân nông nghiệp nói chung; người Việt, người Hàn nói riêng<br />
đều mong muốn có được sự che chở của các vị thần thánh. Mặt khác, sự<br />
tương đồng đó cũng không khiến chúng ta ngạc nhiên bởi Việt Nam và<br />
Hàn Quốc vốn là những quốc gia có lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ<br />
nước rất lâu dài. Trong quá trình ấy, cư dân hai nước phải đối mặt với rất<br />
nhiều thế lực ngoại xâm, Do đó, việc đưa những người có công với đất<br />
nước vào tín ngưỡng dân gian thể hiện lòng thành kính của dân tộc trước<br />
những người anh hùng có công với đất nước, đồng thời ghi tạc lại để thế<br />
hệ mai sau không quên quá khứ của mình.<br />
2. Khác nhau<br />
1. Âm nhạc<br />
lên đồng của người Việt và kut của Hàn còn tìm thấy một điểm chung<br />
rất rõ nét đó là sự “đồng diễn” của âm nhạc. Ngoài việc phục vụ cho hát<br />
múa, âm nhạc trong các nghi lễ này còn có tác dụng giúp người lên<br />
đồng dễ thăng hoa, ngây ngất và dễ dàng hơn trong việc tiếp cận với<br />
thần thánh.<br />
Tuy nhiên, việc sử dụng âm nhạc của hai nghi lễ này vẫn có những<br />
điểm khác nhau. Trong khi các ông đồng bà đồng người Việt phải sử<br />
dụng đến những đội cung văn chuyên nghiệp đó là Dàn nhạc Hầu Bóng.<br />
Dàn nhạc hầu bóng gồm có 1 đàn nguyệt, 1 đàn nhị, 1 sáo, 1 trống lớn, 1<br />
trống nhỏ, 1 cảnh đôi, 1 phách. Tùy từng địa phương, tùy hoàn cảnh<br />
hành lễ mà người ta có thể thêm bớt nhạc cụ này hoặc nhạc cụ khác,<br />
nhưng người ta không thể bớt đi đàn nguyệt, trống nhỏ, cảnh đôi vì đây<br />
là những nhạc cụ nòng cốt, nhạc cụ tính cách của dàn nhạc Hầu Bóng ..<br />
còn bản thân họ chỉ nhảy múa trong khi lên đồng thì các Mudang người<br />
Hàn lại có khả năng vừa nhảy múa vừa sử dụng nhạc cụ. Vì thế, nhiệm<br />
vụ quan trọng hàng đầu của Mudang là học để có thể đánh trống và<br />
chũm chọe. Nhạc cụ thường ít thay đổi về nhịp điệu và tiết tấu. Tiếng<br />
trống sẽ có những lúc dồn dập và nhanh hơn để kích thích những cu<br />
nhảy nhanh hơn tạo sự hiện diện của linh hồn. Ngoài ra sáo và đàn nhị<br />
cũng thường xuất hiện trong các buổi lễ kut, đặc biệt trong các buổi lễ<br />
cầu may và cúng thần linh, tổ tiên của các bà đồng, tuy nhiên đó cũng<br />
chỉ nhằm làm hài lòng âm hồn và khách hàng.<br />
Vừa nhảy múa, vừa chơi nhạc cụ nên về cơ bản âm nhạc<br />
trong kut không chuyên nghiệp bằng lên đồng. Tuy nhiên,<br />
các Mudang người Hàn lại tỏ ra “đa năng” hơn các ông đồng bà<br />
đồng người Việt (chí ít là khả năng đồng diễn ca - múa - nhạc trong khi<br />
hành lễ).<br />
2. Trang phục<br />
Để một buổi lên đồng thành công, trang phục là thứ không thể thiếu.<br />
Ở Việt Nam, các ông đồng bà đồng khi đã “ra nghề” đều phải may riêng<br />
cho mình trang phục hầu bởi những người trong “nghề” này rất kỵ mặc<br />
đồ chung với người khác. có lẽ họ sợ mất đi sự tôn kính, linh thiêng đối<br />
với thần thánh. Do đó, trường hợp mặc chung hoặc đi thuê đồ để hầu<br />
thánh là rất hiếm gặp. Tùy theo điều kiện kinh tế, chất lượng, giá cả các<br />
bộ trang phục của mỗi người có thể khác nhau, song tất cả phải tuân thủ<br />
tuyệt đối về màu sắc: Thiên phủ màu đỏ, Nhạc phủ màu xanh, Thoải phủ<br />
màu trắng…<br />
Tại Hàn Quốc, mỗi bộ trang phục của các Mudang là một vật cúng lễ<br />
hoặc từ khách hàng, người có quan hệ đặc biệt với loại linh hồn đặc biệt<br />
nào đó, hoặc từ bản thân bà đồng, theo lời khuyên bà ta nghe được trong<br />
giấc mơ hoặc các linh hồn mà bà ta nhìn thấy. Khi một khách hàng cúng<br />
một bộ trang phục nào đó thì tên bà ta hoặc tên chồng bà ta sẽ được thêu<br />
lên áo. Thậm chí khách hành còn được “trông đợi” phải dâng cúng đồ tế<br />
lễ định kỳ tại phủ của bà đồng. Mỗi lần Mudang mặc trang phục này thì<br />
thần linh của chính khác hàng cũng hài lòng và sẵn sàng phục vụ khách<br />
hàng theo chiều hướng thuận lợi([23]). Nếu xét trên phương diện này thì<br />
hoạt động của các Mudang tại Hàn Quốc thực sự không chỉ mang tính<br />
chuyên nghiệp mà còn mang tính thương mại hóa rất cao (có chi - có<br />
trả ).<br />
Việc sử dụng trang phục trong khi lên đồng hay kut cũng có sự khác<br />
biệt rất lớn. Bắt đầu buổi lễ, ông đồng bà đồng sẽ ra mắt mọi người với<br />
một trang phục hoàn toàn trắng thể hiện sự trong sạch trước khi hầu<br />
thánh. Với từng giá đồng sau đó, hầu dâng sẽ có nhiệm vụ giúp ông<br />
đồng bà đồng thay trang phục tương ứng với từng vị thần. việc thay đổi<br />
trang phục trong lên đồng quả là một nghệ thuật. Ngoài khả năng phán<br />
đoán chính xác vị thánh nào đó nhập khi ông đồng bà đồng ra hiệu,<br />
người hầu dâng còn phải nhớ chính xác trang phục, màu sắc, các phụ<br />
kiện đi kèm của từng vị thần linh, đó là chưa kể đến sự khéo léo, tỉ mỉ<br />
trong từng động tác vấn khăn, kẹp tóc... Tất cả những công việc này phải<br />
được diễn ra trong khoảng thời gian rất ngắn.<br />
Ngược lại, trong khi hành lễ, các Mudang Hàn Quốc lại cùng một lúc<br />
mặc nhiều bộ trang phục và cởi dần ra tùy theo sự xuất hiện của mỗi vị<br />
thần. Đó là chưa kể đến việc đôi khi trang phục còn được cuốn chéo lên<br />
để họ có thể nhảy múa và cả những chiếc mũ được chụp và cột chặt lên<br />
đầu có vẻ bất cẩn, nếu không muốn nói là không tôn trọng thần thánh<br />
(trích của Ngô Đức Thịnh). Ngoài ra, trang phục còn được mặc cái này<br />
chồng lên cái kia và cởi ra cũng từng cái một theo thứ tự thấp dần của<br />
bậc thang thần linh và những âm hồn mạnh mẽ nhất sẽ mặc vải mỏng.<br />
Theo như G.s Ngô đức Thịnh nhạn xét thì có lẽ hầu đồng ở VN rất<br />
đẹp, thuần và duyên dáng hơn.<br />
3. Đồ cúng lễ<br />
Nhìn chung, các lễ vật được sử dụng trong kut và lên đồng đều khá<br />
sặc sỡ, người ta rất chú ý đến việc sắp xếp đồ lễ để làm hài lòng thần<br />
linh<br />
Đối với hầu đồng, chúng được mua sắm bởi các đồng đền;<br />
các ông đồng bà đồng dâng khi lên đồng tại các đền hoặc do người tổ<br />
chức mua, đồng thời là sự đóng góp tùy tâm của những người tham dự.<br />
Nhưng ở kut thì do bà đồng dâng. Đặc biệt, một thầy đồng có thể yêu<br />
cầu khách hàng đóng góp cho buổi lễ kut nhằm cúng thần linh bảo vệ<br />
mình. Trong lễ Kut, động lực là linh hồn kêu goi sự đóng góp lớn từ<br />
khách hàng và các khoản ít hơn từ những người tham dự.<br />
Tuy nhiên, vấn đề quan tâm ở đây là cách sử dụng đồ lễ sau khi cúng.<br />
Tại các buổi hầu đồng của người Việt, trong mỗi giá đồng, các ông<br />
đồng bà đồng (khi thánh đang nhập đồng) vừa nghe hát, vừa nhảy múa<br />
kèm theo đó là việc phát lộc cho các con nhang đệ tử. Trong buổi hầu<br />
đồng tại Đền Đệ Nhị Thượng Ngàn lâm thuộc huyện Đức Trọng tỉnh<br />
Lâm Đồng “công tác chuẩn bị” của những người có trách nhiệm đó là để<br />
mọi người có sẵn vật dụng đựng lộc, trước buổi lễ, những người hầu<br />
dâng đã phát cho mỗi người tham dự một chiếc túi nilông. Trong suốt<br />
buổi lễ, những người tham dự liên tiếp được nhận các loại lộc tùy theo<br />
các giá nhất định. Chẳng hạn, lộc ở giá các Chầu thường là<br />
đoạn mồi cháy dở, bánh kẹo, hoa quả, tiền, những gói cà phê thậm chí là<br />
cả mì tôm… Lộc trong giá các Ông Hoàng là thuốc lá, rượu, tiền... Đến<br />
hàng các Cô, vì xuất thân từ miền rừng núi nên lộc thuộc các giá này<br />
thường là gừng, ớt, măng, cam, quýt, mận, trái cóc, khoai lang… Buổi lễ<br />
kết thúc cũng là lúc các loại lễ vật trên các gian thờ đã được đưa xuống<br />
và ban phát gần hết. Dù cho cách thức có khác nhau, song tại các lễ hầu<br />
đồng của người Việt, hầu hết các loại lễ vật đều được phân phát cho các<br />
con nhang đệ tử thậm chí cả những người đến vì hiếu kỳ.<br />
Ngược lại với hiện tượng trên, cuối các lễ kut ở Hàn<br />
Quốc, Mudang chủ lễ sẽ chia đồ cúng và tiền mặt, đặc biệt là những<br />
khoản tiền lớn (được dâng cho thần linh thông qua Mudang) cho những<br />
thành viên của nhóm và giữ lại phần nhiều nhất cho mình. Tất nhiên,<br />
những người tham dự cũng được thụ hưởng một chút lộc thánh, song<br />
không phải hầu hết các loại lễ vật như ở người Việt.<br />
Như vậy, nếu xét trên phương diện này thì sự hành nghề của các<br />
các Mudang ở Hàn Quốc thực sự “chuyên nghiệp” hơn các ông đồng bà<br />
đồng người Việt, bởi công việc này có thể đem lại cho họ nhiều lợi lộc.<br />
Chẳng thế mà vào năm 1990, ở Hàn Quốc đã có khoảng 200.000 đạo sĩ<br />
shaman đăng ký việc hành nghề đối với Bộ Văn hóa và Thông tin Hàn<br />
Quốc.<br />
Kết luận:<br />
Về những cách thức tượng trưng được sử dụng trog giao tiếp với linh<br />
hồn, giữa thế giới lên đồng và thế giới kut có những điểm tương đồng,<br />
Dù đã và đang có những ảnh hưởng nhất định đến đời sống tâm linh<br />
của cư dân Việt, Hàn; song về cơ bản,lên đồng và kut hay nói đúng hơn<br />
là tín ngưỡng thờ Mẫu và shaman giáo chỉ là những loại hình tín ngưỡng<br />
do một bộ phận cư dân hai nước “theo đuổi”.<br />
Vai trò nâng đỡ đời sống tinh thần của các loại hình tín ngưỡng nói<br />
trên trong những thời điểm nhất định là điều không thể phủ nhận (thậm<br />
chí nó còn an ủi linh hồn người quá cố và dẫn dắt họ tới những nơi tốt<br />
đẹp - như lễ ssikkum kut (? ? ? hay ? ? ? của người Hàn). Song, cũng cần<br />
phải nói đến vấn nạn của không ít trường hợp các thầy đồng “đã mượn<br />
đạo tạo đời”, lợi dụng lòng tin và sự “mộ đạo” của các tôi con đệ tử để<br />
chuộc lợi cho mình; càng nghiêm trọng hơn khi một số đệ tử do quá tin<br />
vào những lời “tiên đoán”, “phán truyền” của các thánh (thông qua các<br />
thầy đồng khi hành lễ) mà dẫn đến bi quan, mù quáng, thiếu ý chí phấn<br />
đấu để rồi dấn thân vào con đường “cầu xin thái quá” hết cửa thánh này<br />
đến cửa đền kia.<br />
Không thể nói lên đồng hay kut là hoàn toàn tốt đẹp; song cũng không<br />
thể phủ nhận những giá trị và ý nghĩa tâm linh mà các tín ngưỡng này<br />
mang lại cho cư dân Việt, Hàn. Vấn đề ở đây là cần phải bảo tồn những<br />
giá trị về mặt văn hóa do các nghi lễ này mang lại, đồng thời cũng phải<br />
tích cực loại bỏ hiện tượng “buôn thần bán thánh” của không ít kẻ “đội<br />
lốt thầy đồng mà làm điều bất chính”. Bởi xét đến cùng, bất cứ một tôn<br />
giáo, tín ngưỡng nào cũng có những mặt tích cực riêng của nó; những<br />
hạn chế tiêu cực thường là do con người mượn tôn giáo, tín ngưỡng để<br />
thực hiện những mưu đồ riêng cho mình.<br />