BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM



NGUYỄN THỊ KIM YẾN

NGHIÊN CỨU

PHÂN TÍCH HÀNH VI BÁO CÁO SỰ CỐ Y KHOA

TẠI BỆNH VIỆN TỪ DŨ

CHUYÊN NGÀNH: KINH TẾ PHÁT TRIỂN

MÃ SỐ: 60310105

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC

TP.HỒ CHÍ MINH-NĂM 2015

PGS.TS. TRẦN KIM DUNG

LỜI CAM ĐOAN

Tôi tên: Nguyễn Thị Kim Yến

Là học viên cao học lớp Thạc sĩ Kinh tế và Quản trị Sức khỏe, khóa 2013-2015 của Khoa Kinh tế

Phát triển, trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh.

Tôi xin cam đoan đây là phần nghiên cứu do tôi thực hiện. Các số liệu, kết luận nghiên cứu trình

bày trong luận văn này là trung thực và chưa được công bố ở các nghiên cứu khác.

Tôi xin chịu trách nhiệm về nghiên cứu của mình.

Học viên

Nguyễn Thị Kim Yến

MỤC LỤC

TRANG PHỤ BÌA

LỜI CAM ĐOAN

MỤC LỤC

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

DANH MỤC CÁC BẢNG

DANH MỤC BIỂU ĐỒ

DANH MỤC HÌNH

TÓM TẮT

CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN ĐỀ TÀI -------------------------------------------------- 1

1.1 Lý do chọn đề tài --------------------------------------------------------------------- 1

1.2 Mục tiêu nghiên cứu ----------------------------------------------------------------- 2

1.3 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ------------------------------------------------- 2

1.4 Phương pháp nghiên cứu ------------------------------------------------------------ 3

1.5 Ý nghĩa thực tiễn của nghiên cứu -------------------------------------------------- 3

1.6 Kết cấu luận văn --------------------------------------------------------------------- 3

CHƯƠNG 2: CƠ SỞ LÝ THUYẾT – MÔ HÌNH NGHIÊN CỨU --------------- 4

2.1 Lý thuyết về sự cố y khoa ----------------------------------------------------------- 4

2.2 Lý thuyết các mô hình nghiên cứu liên quan ------------------------------------- 12

2.3 Mô hình nghiên cứu đề xuất -------------------------------------------------------- 14

TÓM TẮT CHƯƠNG 2 ------------------------------------------------------------------- 15

CHƯƠNG 3: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ------------------------------------- 17

3.1 Thiết kế nghiên cứu ------------------------------------------------------------------ 17

3.2 Xây dựng bảng câu hỏi -------------------------------------------------------------- 19

3.3 Phương pháp tiến hành -------------------------------------------------------------- 19

3.4 Đối tượng khảo sát ------------------------------------------------------------------- 19

3.5 Phân tích, xử lý số liệu -------------------------------------------------------------- 19

3.6 Mô tả biến số ------------------------------------------------------------------------- 20

TÓM TẮT CHƯƠNG 3 ------------------------------------------------------------------- 23

CHƯƠNG 4: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU---------------------------------------------- 24

4.1 Thống kê mô tả ---------------------------------------------------------------------- 24

4.2 Phân tích mối liên quan với dự định hành vi báo cáo sự cố -------------------- 43

4.3 Phân tích mối liên quan với tần suất báo cáo sự cố ----------------------------- 47

4.4 Phân tích mối liên hệ giữa kiến thức chung, thái độ chung về qui trình, thái

độ lo sợ chung, niềm tin chung về báo cáo sự cố với đặc tính mẫu nghiên cứu -

---------------------------------------------------------------------------------------------- 52

TÓM TẮT CHƯƠNG 4 ------------------------------------------------------------------- 56

CHƯƠNG 5: KẾT LUẬN VÀ ĐỊNH HƯỚNG CHÍNH SÁCH ------------------ 57

5.1 Kết luận ------------------------------------------------------------------------------- 57

5.2 Đề xuất giải pháp -------------------------------------------------------------------- 58

5.3 Hạn chế và hướng mở rộng nghiên cứu ------------------------------------------- 59

TÀI LIỆU THAM KHẢO

PHỤ LỤC: Phiếuđiều tra, tổng quan bệnh viện Từ Dũ

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

Chữ viết tắt Nội dung

BS Bác sĩ

NHS Nữ hộ sinh

ĐD Điều dưỡng

KTV Kỹ thuật viên

HL Hộ lý

HSOPSC Hospital Survey on Patient Safety Culture

IOM Institute of Medicine

KT Kiến thức

TĐ Thái độ

HV Hành vi

JCI Joint Commission International

TRA Theory of Reasoned Action

TPB Theory of Planned Behavior

OR Odds Ratio

DANH MỤC BẢNG

Bảng 4.1 Dự định hành vi báo cáo sự cố ..................................................................27

Bảng 4.2 Thang điểm đánh giá kiến thức chung về hệ thống báo cáo sự cố ............32

Bảng 4.3 Thái độ về hệ thống báo cáo ......................................................................35

Bảng 4.4 Thái độ lo sợ ..............................................................................................37

Bảng 4.5Niềm tin về sự cố suýt xảy ra .....................................................................39

Bảng 4.6Niềm tin về sự cố do sai biệt ......................................................................40

Bảng 4.7 Niềm tin về sự cố đặc biệt nghiêm trọng ...................................................41

Bảng 4.8 Mối liên quan giữa kiến thức chung với hành vi .......................................43

Bảng 4.9 Mối liên quan giữa thái độ chung về hệ thống báo cáo với hành vi ..........44

Bảng 4.10 Mối liên quan giữa thái độ lo sợ chung với hành vi ................................44

Bảng 4.11 Mối liên quan giữa hành vibáo cáo vớiniềm tinbáo cáo sự cố ................45

Bảng 4.12 Mối liên quan giữa đặc tính mẫu nghiên cứu với hành vi .......................46

Bảng 4.13 Mối liên quan giữa kiến thức chung với tần suất báo cáo .......................48

Bảng 4.14 Mối liên quan giữa tần suất báo cáo sự cố và thái độ chung về hệ thống

báo cáo ......................................................................................................................48

Bảng 4.15 Mối liên quan giữa tần suất báo cáo sự cố và thái độ lo sợ chung ..........49

Bảng 4.16 Mối liên quan giữa tần suất báo cáo sự cố và niềm tin báo cáo chung ...49

Bảng 4.17 Mối liên quan giữa tần suất báo cáo sự cố và đặc tính mẫu nghiên cứu

................................................................................................................................ ..50

Bảng 4.18 Mối liên quan giữa kiến thức chung và đặc tính mẫu nghiên cứu ...........52

Bảng 4.19 Mối liên quan giữa thái độ chung về qui trình và đặc tính mẫu nghiên

cứu .............................................................................................................................53

Bảng 4.20 Mối liên quan giữa thái độ lo sợ chung và đặc tính mẫu nghiên cứu ......54

Bảng 4.21 Mối liên quan giữa niềm tin báo cáo sự cố chung và đặc tính mẫu nghiên

cứu .............................................................................................................................55

DANH MỤC BIỂU ĐỒ

Biểu đồ 4.1 Phân bố giới tính ....................................................................................24

Biểu đồ 4.2 Chức danh nghề nghiệp .........................................................................25

Biểu đồ 4.3 Thâm niên công tác................................................................................26

Biểu đồ 4.4 Chức vụ ..................................................................................................26

Biều đồ 4.5 Dự định hành vi chung ..........................................................................29

Biểuđồ 4.6 Tần suất báo cáo sự cố ............................................................................30

Biểu đồ 4.7 Kiến thức đúng về hệ thống báo cáo sự cố ............................................31

Biểu đồ 4.8 Kiến thức chung về hệ thống báo cáo sự cố ..........................................33

Biều đồ 4.9 Thái độ chung về hệ thống báo cáo sự cố .............................................36

Biểu đồ 4.10 Thái độ chung về lo sợ ........................................................................38

Biểu đồ 4.11 Niềm tin báo cáo sự cố chung .............................................................42

DANH MỤC HÌNH

Hình2.1 Mô tả các lớp hàng rào bảo vệ hệ thống phòng ngừa sự cố y khoa .................................. 5

Hình 2.2 Mô hình TRA ........................................................................................................ 12

Hình 2.3 Mô hình TPB ........................................................................................................ 13

Hình 2.4 Mô hình nghiên cứu đề xuất của tác giả ............................................................... 14

Hình 3.1 Qui trình nghiên cứu ............................................................................................. 18

TÓM TẮT

Tên đề tài: Phân tích hành vi báo cáo sự cố y khoa tại Bệnh viện Từ Dũ

Sự cố y khoa là một sự việc xảy ra bất ngờ bao gồm chết hay chấn thương

vật lý hoặc tâm lý nghiêm trọng, hoặc những việc dẫn đến rủi ro (JCI, 2000). Hiện

nay, sự cố y khoa là một vấn đề đáng quan tâm không chỉ ở các nước phát triển mà

còn ở các nước đang phát triển, đặc biệt là Việt Nam. Một nghiên cứu được khảo sát

trên 780 bệnh án một cách ngẫu nhiên cho thấy 13,5% người nhập viện gặp sự cố y

khoa, trong đó 49% sự cố có thể phòng ngừa được (Daniel, 2010). Sự cố y khoa do

phẫu thuật theo ước tính của Tổ chức y tế thế giới chỉ ra rằng, trong 25 bệnh nhân

thì có một người phẫu thuật, và tỉ lệ tử vong liên quan đến phẫu thuật chiếm từ

0,4% đến 0,8%, và biến chứng do phẫu thuật chiếm tỉ lệ từ 3% đến 16% (Bộ Y tế,

2014).Tại Việt Nam, một cuộc phỏng vấn 89 điều dưỡng công tác tại Bệnh viện đa

khoa khu vực Cai Lậy cho thấy kết quả như sau, 148 sự cố liên quan đến chuyên

khoa ngoại sản, 592 sự cố liên quan đến thuốc. Và những nơi xảy ra sự cố nhiều

nhất là khoa hồi sức cấp cứu, khoa sản, hoặc khoa phẫu thuật với tỉ lệ từ 40% đến

50%, những nơi có cường độ lao động cao, hoặc được áp dụng kỹ thuật mới

(Nguyễn Thị Mỹ Linh, 2010). Một sự cố y khoa sẽ hữu ích nếu được công khai,

phân tích để từ đó rút kinh nghiệm nhằm không lặp lại lần sau. Tuy nhiên, một rào

cản rất lớn trong việc ghi nhận và báo cáo sự cố là văn hóa buộc tội và trừng phạt,

dẫn đến tâm lý e ngại báo cáo.

Từ Dũ, bệnh viện sản phụ khoa hàng đầu khu vực phía Nam, thực hiện

nhiệm vụ chỉ đạo tuyến về chuyên môn, kỹ thuật cho 32 tỉnh thành khu vực, mỗi

ngày bệnh viện tiếp nhận khoảng 2.600 lượt bệnh nhân đến khám, và điều trị nội trú

gần 340 bệnh nhân. Với tình trạng quá tải và áp lực công việc cao, bệnh viện đã

triển khai hệ thống quản lý sự cố như thế nào? Trong công tác quản lý ấy, những

yếu tố nào tác động đến việc báo cáo sự cố của nhân viên. Nhằm góp phần xây

dựng một môi trường an toàn cho công tác khám chữa bệnh tại bệnh viện, góp phần

chủ động phòng ngừa những sự cố, sai sót lặp lại; xác định tầm quan trọng của hệ

thống báo cáo sự số tự nguyện tại bệnh viện, tác giả tiến hành nghiên cứu “Yếu tố

chính tác động đến báo cáo sự cố tại Bệnh viện Từ Dũ”.

Bằng phương pháp nghiên cứu định lượng dựa trên bộ dữ liệuphỏng vấnbộ

câu hỏi tựđiền gởiđến 271 nhân viên, số liệu thống kê cho thấy 20,9%, cóhành vi

đúng vềbáo cáo sự cốở nhân viên,39% đã từng báo cáo từ 1 sự cố trở lên, kiến

thứcchung về báo cáo sự cố chỉđúng 12%, hầu hết nhân viên phải thông qua Ban

lãnhđạo khoa trước khi báo cáo, không biết ai là người báo cáo và phải gởi báo cáo

vềđâu. Đa số nhân viên ủng hộ báo cáo sự cố 68,3%, tuy nhiên vẫn còn rất nhiều

người lo sợ khi tham gia báo cáo 60,9%;trong đó sợ bị kỹ luật, sợ phải hội họp là

nổi trội hơn cả; nhóm kỹ thuật viên có tháiđộ lo sợ cao hơn bác sĩ. Khi xãy ra sự cố

21,6% nhân viên tin rằng sẽ báo cáo các trường hợp sự cố suýt xảy ra, 16,6% sẽ báo

cáo các sự cố do sai biệt và 27,7% sẽ báo cáo các sự cốđặc biệt nghiêm trọng. Sau

khi phân tích mốiliên quan bằng phép kiểm chi bình phương và test chính xác fisher

nhận thấy các nhóm tháiđộ về qui trình, tháiđộ lo sợ và niềm tin báo cáo cóảnh

hưởngđến hành vi báo cáo. Nữ hộ sinh tin rằng sẽ báo cáo khi có sự cố vàđã từng

báo cáo từ một sự cố cao hơn bác sĩ, kiến thức về báo cáo sự cố của nữ hộ sinh cũng

cao hơn bác sĩ. Người có kiến thứcđúngđã từng báo cáocao gấp 3,3 lần những người

có kiến thức chưa đúng.Từ đó, tác giả khuyến nghị cần tập huấn lại qui trình quản

lý sự cố cho nhân viên toàn bệnh viện, tăng cường khuyến khích khen thưởng cho

công tác báo cáo sai sót, có hình thức báo cáo nặc danh và sự cam kếtkhông trừng

phạt của lãnhđạo.

1

CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN ĐỀ TÀI

1.1 LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI

Sự cố y khoa là một sự việc xảy ra bất ngờ bao gồm chết hay chấn thương

vật lý hoặc tâm lý nghiêm trọng, hoặc những việc dẫn đến rủi ro (JCI, 2000). Hiện

nay, sự cố y khoa là một vấn đề đáng quan tâm không chỉ ở các nước phát triển mà

còn ở các nước đang phát triển, đặc biệt là Việt Nam. Một nghiên cứu được khảo sát

trên 780 bệnh án một cách ngẫu nhiên cho thấy 13,5% người nhập viện gặp sự cố y

khoa, trong đó 49% sự cố có thể phòng ngừa được (Daniel, 2010). Sự cố y khoa do

phẫu thuật theo ước tính của Tổ chức y tế thế giới chỉ ra rằng, trong 25 bệnh nhân

thì có một người phẫu thuật, và tỉ lệ tử vong liên quan đến phẫu thuật chiếm từ

0,4% đến 0,8%, và biến chứng do phẫu thuật chiếm tỉ lệ từ 3% đến 16% (Bộ Y tế,

2014).

Tại Việt Nam, một cuộc phỏng vấn 89 điều dưỡng công tác tại Bệnh viện đa

khoa khu vực Cai Lậy cho thấy kết quả như sau: 148 sự cố liên quan đến chuyên

khoa ngoại sản, 592 sự cố liên quan đến thuốc. Và những nơi xảy ra sự cố nhiều

nhất là khoa hồi sức cấp cứu, khoa sản, hoặc khoa phẫu thuật với tỉ lệ từ 40% đến

50%, những nơi có cường độ lao động cao, hoặc được áp dụng kỹ thuật mới

(Nguyễn Thị Mỹ Linh, 2010).

Sự cố y khoa là những vấn đề khó tránh khỏi và nhiều khi nằm ngoài tầm

kiểm soát. Khi sự cố y khoa không mong muốn xảy ra, cả người bệnh và thầy thuốc

đều là nạn nhân, và đặc biệt đối với người bệnh phải gánh chịu hậu quả về mặt sức

khỏe và thậm chí tử vong. Tuy nhiên, nếu các sự cố y khoa không được ghi nhận và

không được tìm hiểu nguyên nhân thì những sự cố này sẽ tiếp tục xảy ra và gây

thiệt hại về sức khỏe và tính mạng của người bệnh. Do vậy, một sự cố y khoa sẽ

hữu ích nếu được công khai, phân tích để từ đó rút kinh nghiệm nhằm không lặp lại

lần sau. Tuy nhiên, một rào cản rất lớn trong việc ghi nhận và báo cáo sự cố là văn

hóa buộc tội và trừng phạt, dẫn đến tâm lý e ngại báo cáo.

Tuy thực tế cho thấy, không phải tất cả sự cố, sai sót y khoa đều gây hậu quả

nghiêm trọng. Những sự cố, sai sót không gây hậu quả nghiêm trọng là cơ hội cho

2

cải tiến vì giúp phát hiện những nguy cơ tiềm ẩn để phòng ngừa những sự cố

nghiêm trọng có thể xảy ra trong tương lai . Vì vậy cần tạo ra một môi trường

khuyến khích giúp nhận diện sự cố, báo cáo sự cố, và học hỏi từ sự cố, sai sót, chú

trọng xác định nguyên nhân gốc rễ vấn đề và có hoạt động thích hợp cải thiện cho

tương lai.

Từ Dũ, bệnh viện sản phụ khoa hàng đầu khu vực phía Nam, thực hiện

nhiệm vụ chỉ đạo tuyến về chuyên môn, kỹ thuật cho 32 tỉnh thành, mỗi ngày bệnh

viện tiếp nhận khoảng 2.600 lượt bệnh nhân đến khám, và điều trị nội trú gần 340

bệnh nhân. Với tình trạng quá tải và áp lực công việc cao, bệnh viện đã triển khai hệ

thống quản lý sự cố như thế nào? Trong công tác quản lý ấy, những yếu tố nào tác

động đến việc báo cáo sự cố của nhân viên. Nhằm góp phần xây dựng một môi

trường an toàn cho công tác khám chữa bệnh tại bệnh viện, góp phần chủ động

phòng ngừa những sự cố, sai sót lặp lại; xác định tầm quan trọng của hệ thống báo

cáo sự số tự nguyện tại bệnh viện, tác giả tiến hành nghiên cứu “Phân tích hành vi

báo cáo sự cố y khoa tại Bệnh viện Từ Dũ”.

1.2 MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU

Mục tiêu của đề tài là phân tích hành vi báo cáo sự cố y khoa của nhân viên

Bệnh viện.

1.3 ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU

Đối tượng nghiên cứu là hành vi báo cáo sự cố y khoa tại bệnh viện Từ Dũ.

Phạm vi nghiên cứu là nhân viên công tác tại Khoa cấp cứu chống độc và Khoa Gây

mê Hồi sức, nơi tiếp xúc trực tiếp với bệnh nhân với cường độ làm việc và áp lực

công việc cao, dẫn đến khả năng sai sót rất lớn đồng thời đây cũng là nơi Bệnh viện

đang thí điểm công tác báo cáo sự cố. Dữ liệu nghiên cứu trích từ bản câu hỏi khảo

sát trực tiếp từ nhân viên hai khoa Gây mê hồi sức và Cấp cứu chống độc.

Thời gian nghiên cứu từ tháng 11/2014 đến tháng 4/2015

3

1.4 PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Đề tài sử dụng phương pháp nghiên cứu định lượng qua phỏng vấn bảng câu

hỏi từ 271 nhân viên công tác tại hai khoa Cấp cứu chống độc và Gây mê hồi sức.

Thống kê mô tả nhằm xác định kiến thức, thái độ, hành vi, tần suất báo cáo và niềm

tin báo cáo sự cố của mẫu khảo sát. Qua đó tác giả sử dụng phương pháp phân tích đơn biến bằng phép kiểm định (Chi)2, Fisher chính xác nhằm xác định các yếu tố

liên quan đến dự định báo cáo sự cố của nhân viên tại hai khoa. Nghiên cứu sử dụng

các công cụ tính toán và phân tích số liệu là phần mềm xử lý thống kê Stata 12.

1.5 Ý NGHĨA THỰC TIỄN CỦA NGHIÊN CỨU

Đề tài phân tích các yếu tố tác động đến hành vi báo cáo sự cố y khoa tại bệnh

viện, từ đó tác giả đề xuất các kiến nghị nhằm cải thiện và nâng cao chất lượng công

tác báo cáo sự cố.

1.6 KẾT CẤU LUẬN VĂN

Nội dung đề tài được tác giả trình bày gồm 5 chương:

Chương1: tổng quan đề tài nhằm giới thiệu lý do chọn đề tài, mục tiêu,

phương pháp nghiên cứu và ý nghĩa thực tiễn của đề tài.

Chương 2: tác giả trình bày cơ sở lý thuyết và mô hình nghiên cứu về dự định

hành vi TRA và TPB, cũng như lý thuyết về sự cố y khoa, khảo lược các nghiên

cứu, từ đó đề xuất mô hình nghiên cứu của tác giả.

Chương 3: trình bày phương pháp nghiên cứu gồm cách thức thu thập và xử lý

số liệu.

Chương 4: tác giả trình bày kết quả nghiên cứu.

Chương 5: trình bày kết luận nghiên cứu, định hướng chính sách, các kiến

nghị cũng như hạn chế của đề tài.

4

CHƯƠNG 2: CƠ SỞ LÝ THUYẾT-MÔ HÌNH NGHIÊN CỨU

Chương này tác giả trình bày các lý thuyết liên quan đến sự cố y khoa, lý

thuyết các mô hình liên quan đến dự định hành vi của mỗi cá nhân như mô hình

hành động hợp lý (TRA), và mô hình hành vi dự định (TBP) từ đó làm cơ sở lý

thuyết để xây dựng mô hình nghiên cứu.

2.1 LÝ THUYẾT VỀ SỰ CỐ Y KHOA

2.1.1 Định nghĩa các khái niệm

Sự cố y khoa không mong muốn là tổn thương làm cho người bệnh mất khả

năng tạm thời hoặc vĩnh viễn, kéo dài ngày nằm viện hoặc chết. Nguyên nhân do

công tác quản lý khám chữa bệnh hơn là do biến chứng bệnh của người bệnh

(WHO, 2001). Sự cố y khoa là một sự việc xảy ra bất ngờ bao gồm chết hay chấn

thương vật lý hoặc tâm lý nghiêm trọng, hoặc những việc dẫn đến rủi ro (JCI,

2000).

Sai sót y khoa là thất bại trong việc thực hiện một hành động đã được lập kế

hoạch dự kiến hoặc áp dụng kế hoạch sai hay có sự khác biệt giữa những gì làm

được trong thực tế và những gì lẽ ra phải làm được (Runciman, 2007).

2.1.2 Phân loại sự cố y khoa

Hiện nay có nhiều cách phân loại sự cố y khoa khác nhau tùy vào bản chất và

các tính năng của nó. Một sự cố y khoa có thể chỉ là những sai sót tiềm ẩn trong quá

trình thực hiện các thao tác chăm sóc sức khỏe cho người bệnh, hoặc có thể là

những trục trặc nhỏ về kiến thức công nghệ đối với trang thiết bị y tế, hoặc là những

lỗi lớn hơn do yếu tố chủ quan của con người gây ra hay là tất cả những nguyên

nhân khác xuất phát từ nhiều khía cạnh mà con người có thể hoặc không thể dự

đoán trước được.

Theo Hiệp hội an toàn người bệnh Thế giới phân loại theo tính chất chuyên

môn, sự cố y khoa được chia thành 6 nhóm: (1) sự cố y khoa do nhầm tên người

bệnh, (2) sự cố y khoa do thông tin bàn giao của cán bộ y tế không đầy đủ, (3) do

sai sót trong sử dụng thuốc, có thể xảy ra trong tất cả các công đoạn từ kê đơn, cấp

5

phát thuốc, pha chế thuốc, sử dụng thuốc và theo dõi sau dùng thuốc, (4) sự cố y

khoa do nhầm lẫn liên quan tới phẫu thuật (nhầm vị trí, nhầm phương pháp, nhầm

người bệnh), (5) do nhiễm khuẩn bệnh viện và (6) là sự cố y khoa do người bệnh bị

té ngã trong khi đang điều trị tại các cơ sở y tế.

Reason (năm1997) mô hình pho mát Thụy Sĩ giải thích cách thức các sự cố

xảy ra trong hệ thống. Mô hình cho thấy lỗi ở một tầng của hệ thống chăm sóc sức

khỏe thường chưa đủ để gây sự cố, nó là kết quả của nhiều tầng lớp bảo vệ khác

nhau trong đó phân thành lỗi cá nhân và lỗi hệ thống. Lỗi cá nhân hay còn gọi là lỗi

hoạt động, là những người thuộc tầng phòng thủ cuối cùng trực tiếp chăm sóc, tiếp

xúc người bệnh, và khi sự cố xảy ra họ thường bị đỗ lỗi. Tuy nhiên thực tế cho thấy

có nhiều lỗi cá nhân do hệ thống gây ra, và 80% sự cố do lỗi hệ thống. Lỗi hệ thống

liên quan đến các qui trình, qui định của tổ chức, các chính sách không phù hợp, và

các yếu tố này không được chú ý khi xem xét phân tích nguyên nhân sự cố, do đó

Hình 2.1 Mô tả các lớp hàng rào bảo vệ hệ thống phòng ngừa sự cố y khoa

Nguồn: Reason J. Carthey, Diagnosing vulnerable system sysdrome

các lỗi tương tự sẽ tiếp tục xảy ra.

6

Phân loại theo các yếu tố liên quan, người gây ra sự cố có thể không chủ

định gây sự cố nhưng vì làm việc theo thói quen, nhớ gì làm nấy, kiến thức, kinh

nghiệm hạn chế hay do ảnh hưởng tâm lý, tình cảm khi thực biện công việc; hoặc

cũng có thể do cố ý không làm theo qui trình, lạm dụng thuốc, hoặc kỹ thuật trên

người bệnh.

Phân loại theo mức độ tác động đến người bệnh, sự cố được chia làm 3 loại

bao gồm sự cố suýt xảy ra, sự cố sai biệt và sự cố đặc biệt nghiêm trọng. Sự cố suýt

xảy ra là sự cố hoặc tập hợp các tình huống không gây nguy hiểm hoặc tổn thương

trên thực tế vì nó chưa xảy ra nhưng có khả năng gây nguy hiểm hoặc tổn thương

nếu nó xảy ra. Ví dụ như cấp phát sai thuốc nhưng người bệnh chưa dùng, thiết bị

đang sử dụng không an toàn/không hoạt động, lẫn lộn giữa hai bệnh nhân có cùng

tên nhưng bệnh nhân chưa sử dụng thuốc hoặc trang thiết bị. Sự cố sai biệt là một

sự việc xảy ra không giống như mong đợi, nguyên nhân là do không tuân thủ các

chính sách, qui trình, qui định như hút thuốc ở khu vực nghiêm cấm; thực hiện

thuốc quá liều trên bệnh nhân, nhưng không ảnh hưởng nghiêm trọng; hay bỏ quên

gạc, dụng cụ trong cơ thể người bệnh trong quá trình thực hiện phẫu thuật nhưng đã

được phát hiện sai sót trước khi bệnh nhân ra khỏi phòng mổ; hay như nhân viên bị

kim đâm hay máu bắn vào mắt trong làm việc. Và sự cố đặc biệt nghiêm trọng là sự

cố gây chết hoặc gây tổn thương nghiêm trọng không mong muốn hoặc không

mong đợi về mặt thể chất hoặc tinh thần, hoặc những rủi ro từ những sự cố đó là rất

lớn như tử vong hoặc mất chức năng vĩnh viễn do tổn thương té ngã, thủng tử cung,

nhiễm trùng nặng sau nạo buồng tử cung, dò bàng quang – âm đạo, xuất huyết nội,

vỡ tử cung, hoặc gãy xương đòn, liệt đám rối cánh tay, sang chấn mặt, sọ não, cũng

như lỗi truyền máu nghiêm trọng, hoặc bệnh nhân tự tử, hoặc bị cưỡng hiếp trong

bệnh viện.

2.1.3 Báo cáo sự cố

Báo cáo sự cố là việc thu thập các thông tin từ bất kỳ sự việc nào đó có nguy

cơ gây hại hoặc đã gây hại cho người bệnh. Hệ thống báo cáo sự cố đóng vai trò cơ

bản trong việc rút kinh nghiệm từ thực tiễn các sai sót, thất bại được ghi nhận lại

7

trong các báo cáo sự cố, tăng cường an toàn người bệnh, ngăn chặn tình trạng lặp lại

cũng như giảm thiểu được nguy cơ xảy ra các sự cố tương tự trong tương lai.

Để phù hợp với những nguyên tắc đạo đức, báo cáo sự cố được triển khai bằng

phương pháp cụ thể trong khuôn khổ pháp lý rõ ràng có tính bảo mật. Chương trình

giáo dục và các hoạt động tăng cường năng lực cần thiết cho các bên liên quan khác

nhau để giúp mọi người hiểu rõ hơn về công cụ báo cáo nên được sử dụng. Báo cáo

sự cố được ghi nhận dưới hình thức giấy hoặc thông tin điện tử để ghi nhận những

nguy cơ tiềm tàng hay thật sự xảy ra cho bệnh nhân. Nhân viên tự giác tuân thủ qui

trình báo cáo sự cố tại đơn vị công tác.

Để đảm bảo nhân viên báo cáo toàn bộ các sự cố, sai sót, hoặc nguy cơ tiềm ẩn

rủi ro cao, nhà quản lý phải xây dựng và duy trì môi trường khuyến khích mọi

người báo cáo những sai sót, thừa nhận sai phạm, đưa ra ý kiến và trao đổi ý kiến.

Khi các nhân viên lo sợ bị trả thù, họ ít khi báo cáo sai sót và như thế cơ sở y tế sẽ

mất một nguồn thông tin giá trị về an toàn cho bệnh nhân. Và để tăng số lượng và

chất lượng báo cáo sự cố, tổ chức có phương cách bảo vệ người có liên quan khỏi

các hình thức xử lý kỷ luật, cho phép báo cáo bí mật hoặc hoặc giấu tên người báo

cáo, tách cơ quan thu thập, phân tích các báo cáo ra khỏi cơ quan có thẩm quiền xử

lý kỷ luật, cung cấp cho người báo cáo những thông tin phản hồi nhanh chóng, hữu

ích, dễ hiểu; và đơn giản hóa qui trình báo cáo (Lưu Trọng Tuấn, 2014)

2.1.4 Qui trình báo cáo sự cố

Năm 2014 Bệnh viện Từ Dũ đã ban hành qui trình quản lý sự cố với mục

đích ghi nhận bằng hồ sơ, điều tra, theo dõi và xác định xu hướng của tất cả các sự

cố và tình huống xung quanh những sự cố để quản lý sự cố một cách phù hợp và kịp

thời, nhằm nâng cao chất lượng chăm sóc điều trị và sự an toàn cho người bệnh.

Quản lý sự cố là qui trình có tính hệ thống nhằm nhận diện, thông báo, ưu tiên, điều

tra và kiểm soát tác động của một sự cố và hành động để ngăn ngừa tái diễn sự cố.

Khi có sự cố xảy ra, nhân viên chứng kiến hoặc nhận biết sự cố có trách

nhiệm báo cáo sự cố tại thời điểm nhận biết sự cố hoặc càng sớm càng tốt trong

vòng 24 giờ. Sau khi nhận được báo cáo nhân viên quản lý sự cố sẽ kiểm tra các

8

hành động khắc phục sự cố tức thời có phù hợp không và tiến hành điều tra, sau đó

bộ phận chuyên trách sẽ tổ chức họp phân tích nguyên nhân gốc, từ đó đề xuất giải

pháp cải tiến và phản hồi đến nhân viên.

2.1.5 Khảo lược các nghiên cứu

Một khảo sát trên 89 điều dưỡng tại BVĐK KV Cai Lậy cho thấy các sự cố y

khoa không mong muốn liên quan đến thuốc 30,42%; sự cố liên quan cận lâm sàng

12,54%; rủi ro nghề nghiệp 16,03%, chuyên khoa ngoại sản 7,61% và các sự cố y

khoa khác là 33,4% (Nguyễn Thị Mỹ Linh, 2010). Theo thống kê tại Canada hàng

năm có 2,5 triệu người nhập viện và ước tính có 185.000 người bệnh gặp sự cố y

khoa. Các chuyên gia y tế Mỹ ước tính ít nhất có 44.000 đến 98.000 người bệnh tử

vong trong các bệnh viện của Mỹ hàng năm do sự cố y khoa. Số người chết vì sự cố

y khoa trong các bệnh viện của Mỹ cao hơn tử vong do tai nạn giao thông, ung thư

vú, tử vong do HIV (IOM, 1999). Một sự cố, rủi ro xảy ra cho người bệnh gây ra

những mất mát, đau thương cho người bệnh, gia đình người bệnh và gây những tổn

thất về kinh tế là điều đau lòng, không ai mong muốn. Các cuộc khảo sát tại Mỹ vào

cuối thế kỷ 20 cho thấy sự cố y khoa không thể được nhận diện và ngăn chặn vì nó

không được báo cáo, các điều dưỡng ngại báo cáo sai sót của bản thân mình hay của

người khác khi gặp phải sự cố vì thủ tục báo cáo rườm rà dẫn đến tâm lý ít thay đổi,

sợ kiện cáo.

Trong các ngành công nghiệp có nguy cơ cao, báo cáo dẫn đến những cải tiến

đáng kể về an toàn thông qua các cuộc điều tra có hệ thống các sự cố từ đó nhân

viên hiểu và sửa chữa những thất bại của họ. Tuy nhiên, trong khi một số tổ chức

thành công trong việc xây dựng hệ thống báo cáo, thì những tổ chức khác lại gặp

nhiều khó khăn. Lý do hệ thống báo cáo không thành công rất nhiều và đa dạng. Về

cơ bản sợ trách nhiệm và trả thù, cảm giác tội lỗi, sợ hành động trừng phạt, văn hóa

an toàn kém trong một tổ chức, thiếu sự hiểu biết giữa các bác sĩ về những gì cần

được báo cáo, thiếu hiểu biết về cách thức báo cáo và làm thế nào báo cáo dẫn đến

những thay đổi để cải thiện an toàn bệnh nhân. Đặc biệt, thiếu hệ thống phân tích

các báo cáo và thông tin phản hồi trực tiếp với các bác sĩ được xem là rào cản lớn

9

đối với sự tham gia của lâm sàng. Báo cáo sự cố được đánh giá như là một phần

quan trọng trong khuôn khổ quản lý rủi ro của mỗi bệnh viện, hiện nay có nhiều

nghiên cứu trên thế giới về báo cáo sự cố nhằm tìm hiểu tại sao nhân viên y tế

không báo cáo.

Tại Đan Mạch, một cuộc khảo sát vào năm 2002 trên 4.019 bác sĩ và điều

dưỡng cho thấy thái độ đối với báo cáo sự cố, sai sót có sự khác biệt lớn giữa các

nhóm. Nhóm bác sĩ không thích hoặc miễn cưỡng phải báo cáo là 34%, trong khi

nhóm điều dưỡng là 21%. Lý do không báo cáo là thói quen, lo sợ bị chú ý, nguy cơ

bị khiển trách (Madsen và cộng sự, 2006). Một cuộc khảo sát 186 bác sĩ và 587 y tá

ở Nam Úc cho thấy hầu hết các bác sĩ và y tá (98,3%) biết rằng bệnh viện của họ có

một hệ thống báo cáo sự cố. Y tá biết làm thế nào để truy cập báo cáo chiếm tỉ lệ

88,3%, trong khi bác sĩ là 43%; đã từng hoàn thành một báo cáo ở Y tá là 89,2% và

bác sĩ là 64,4%; và biết phải làm gì với báo cáo hoàn thành nhóm y tá cũng chiếm

tỉ lệ cao hơn nhóm bác sĩ với tỉ lệ lần lượt là 81,9% và 49,7%. Rào cản của việc ít

báo cáo là do thiếu thông tin phản hồi chiếm tỉ lệ 57,7% ở nhóm y tá và 61,8% ở

nhóm bác sĩ (Kingston và cộng sự, 2004).

Kết quả tương tự trong nghiên cứu của Vincent (1999) khi tiến hành khảo sát

42 bác sĩ sản khoa và 156 nữ hộ sinh tại hai đơn vị sản khoa năm 1998. Hầu hết các

nhân viên biết về sự cố và hệ thống báo cáo tại đơn vị. Nữ hộ sinh báo cáo sự cố

cao hơn so với các bác sĩ, và nhân viên báo cáo sự cố nhiều hơn cấp lãnh đạo.

Những lý do chính cho việc không báo cáo cũng lo ngại bị đổ lỗi, khối lượng công

việc cao và niềm tin (mặc dù vụ việc đã được chỉ định là phải báo cáo). Một khảo

sát hồi cứu trên 250 bà mẹ và em bé tại hai đơn vị sản khoa ở London nhằm đánh

giá các sự cố được báo cáo cho thấy tỉ lệ các sự cố do nhân viên báo cáo là 23% và

sự cố do nhân viên quản lý rủi ro phát hiện là 22%, còn lại 55% sự cố được xác định

khi xem xét lại các trường hợp cần chú ý. 48% sự cố nghiêm trọng được báo cáo, sự

cố ít nghiêm trọng chiếm tỉ lệ 24% và sự cố chưa xảy ra chiếm 15%. Bên cạnh đó,

nhân viên chuyên trách quản lý rủi ro xác định thêm 16% sự cố nghiêm trọng không

được báo cáo (Stanhope và cộng sự, 1999).

10

Một khảo sát trên 338 bác sĩ nội trú cho thấy hầu hết đồng ý báo cáo sự cố để

cải thiện chất lượng chăm sóc bệnh nhân trong tương lai (84,3%), 73% báo cáo các

sai sót nhỏ, 92% báo cáo các sai sót gây tổn hại đến bệnh nhân. Tuy nhiên thực tế

cho thấy chỉ 17,8% người trả lời đã từng báo cáo các sai sót nhỏ (kết quả điều trị

kéo dài hoặc khó chịu), 3,8% báo cáo các sai sót nghiêm trọng (dẫn đến khuyết tật

hoặc tử vong). 54,8% biết được làm thế nào để báo cáo và 39,5% biết được các lỗi

cần báo cáo (Kaldjian và cộng sự, 2008). Một nghiên cứu tại Bệnh vện đa khoa Hàn

Quốc cho thấy rào cản đối với báo cáo sự cố bao gồm không đảm bảo về vấn đề bảo

mật, thiếu chia sẻ thông tin giữa các bộ phận liên quan, thiếu khả năng tiếp cận báo

cáo (trong các ngày nghỉ), cũng như khiếm khuyết của qui trình báo cáo (liên quan

nhiều bộ phận), và khả năng sử dụng hệ thống báo cáo (Jee-In Hwang, Sang-IL Lee

và cộng sự, 2012).

Nghiên cứu của Albert (2000) cho thấy rào cản đối với báo cáo sự cố: sợ bị

phát hiện, sợ bị trừng phạt, đồng nghiệp chỉ trích, đổ lỗi cho người khác, sợ bị tổn

thương, im lặng, bị lên án trong các cuộc họp. Một nghiên cứu định tính về báo cáo

tác dụng phụ sau tiêm chủng tại Úc cho thấy trở ngại đối với báo cáo bao gồm các

ràng buộc thời gian và qui trình báo cáo không đạt yêu cầu, không biết làm thế nào

để báo cáo, các định nghĩa không rõ ràng, sự nhầm lẫn ở người có trách nhiệm báo

cáo (Adriana Parrella và cộng sự, 2013). Nghiên cứu của Evans từ năm 2001 đến

2003 chỉ ra rằng, y tá có trên 5 năm kinh nghiệm đã từng hoàn thành báo cáo sự cố

cao hơn những người thâm niên công tác dưới 5 năm, bác sĩ có thời gian công tác

dưới 5 năm báo cáo sự cố nhiều hơn bác sĩ trên 5 năm kinh nghiệm. Và lãnh đạo

báo cáo sự cố ít hơn nhân viên (Evans, 2001-2003).

11

Bảng tổng kết các điểm chính của các nghiên cứu trước đây

Tên nghiên cứu Yếu tố tác động

Thái độ của Bác sĩ và y tá về báo cáo sự cố y khoa - Thái độ

và xử lý các lỗi của Madsen và cộng sự (2006)

Thái độ của bác sĩ và y tá về báo cáo sự cố của - Kiến thức

Kingston và cộng sự (2004) - Thái độ

Lý do không báo cáo sự cố: một nghiên cứu thực - Kiến thức

nghiệm của Vincent (1999) - Thái độ

- Niềm tin

Báo cáo lỗi y tế để cải thiện an toàn bệnh nhân của - Kiến thức

Kaldjian (2008) - Thái độ

- Niềm tin

Rào cản hoạt động của hệ thống báo cáo sự cố an - Kiến thức

toàn người bệnh tại bệnh viện đa khoa Hàn Quốc - Thái độ

của Jee-In Hwang và cộng sự (2012)

Kiến thức, kinh nghiệm và thách thức của báo cáo - Kiến thức

sự cố sau tiêm chủng (Adriana Parrella và cộng sự, - Thái độ

2015)

Thái độ và rào cản đối với báo cáo sự cố của Evans - Kiến thức

và cộng sự (2001-2003) - Thái độ

- Niềm tin

- Đặc điểm cá nhân:

chức danh nghề

nghiệp, thâm niên,

chức vụ.

Nguồn: tổng hợp của tác giả

Nhận xét: các nghiên cứu trên về báo cáo sự cố cho thấy kiến thức, thái độ,

niềm tin và các đặc điểm cá nhân có liên quan đến hành vi báo cáo sự cố

12

2.2 LÝ THUYẾT CÁC MÔ HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN

Trên cơ sở đối tượng nghiên cứu của đề tài là các yếu tố tác động đến báo cáo

sự cố, trong đó biến phụ thuộc là dự định báo cáo, do đó đề tài trình bày 02 học

thuyết quan trọng liên quan đến dự định hành vi của mỗi cá nhân là thuyết hành

động hợp lý TRA (Theory of Reasoned Action) và thuyết hành vi dự định TPB

(Theory of Planned Behaviour).

Hình 2.2: Mô hình TRA

Nguồn: Ajzen. I; Fishbein (1975)

Thuyết hành động hợp lý TRA

Thuyết hành động hợp lý TRA (Theory of Reasoned Action) được Ajzen và

Fishbein xây dựng từ năm 1967 và được hiệu chỉnh mở rộng theo thời gian. Mô

hình TRA cho thấy niềm tin xã hội và cá nhân liên quan đến ý định thực hiện hay

không thực hiện hành vi và là mô hình thích hợp để xác định các yếu tố dự đoán

13

hành vi. Ý định hành vi là các yếu tố có ảnh hưởng đến hành vi của mỗi cá nhân,

các yếu tố này cho thấy mức độ sẵn sàng hoặc nỗ lực mà các đối tượng sẽ bỏ ra để

thực hiện hành vi (Ajzen và Fishbein, 1975). Do vậy, để tìm hiểu hành vi tác giả

xem xét hai yếu tố thái độ và chuẩn chủ quan. Trong mô hình TRA, thái độ mà một

người được đánh giá tích cực hay tiêu cực của việc thực hiện hành vi (Fishbein and

Ajzen, 1975). Yếu tố chuẩn chủ quan liên quan đến niềm tin của một người cho

rằng một nhóm hay một cá nhân cụ thể nào đó nghĩ anh ta nên hay không nên thực

hiện hành vi và động cơ hành động của anh ta sẽ tuân theo những nhóm hay cá nhân

cụ thể trên (Ajzen và Fishbein, 1980).

Thuyết hành vi dự định

Hình 2.3: Mô hình TPB

Nguồn: Ajzen, I., The theory of planned behaviour, 1991, trang 182

Thuyết hành động hợp lý TRA bị giới hạn khi dự đoán việc thực hiện các

hành vi không thể kiểm soát được; yếu tố về thái độ đối với hành vi và chuẩn chủ

quan không đủ để giải thích cho hành động của cá nhân. Thuyết hành vi dự định

TPB (Theory of Planned Behaviour) được Ajzen (1985) xây dựng bằng cách bổ

sung thêm yếu tố nhận thức kiển soát hành vi vào mô hình TRA. Thành phần nhận

thức kiểm soát hành vi phản ánh việc dễ dàng hay khó khăn khi thực hiện hành vi,

14

điều này phụ thuộc vào sự sẵn có của các nguồn lực và các cơ hội để thực hiện hành

vi.

Mô hình nghiên cứu đề xuất

Trên cơ sở hai học thuyết TRA và TPB có ý nghĩa trong việc giải thích ý

định của mỗi cá nhân, tác giả đề xuất mô hình nghiên cứu với biến phụ thuộc là ý

định báo cáo sự cố, tần suất báo cáo sự cố và các biến độc lập ảnh hưởng đến ý định

này.

Hình 2.4: Mô hình nghiên cứu đề xuất

Nguồn: đề xuất của tác giả

Bên cạnh các yếu tố thái độ, chuẩn chủ quan, kiến thức, nghiên cứu còn xem

xét đến các yếu tố khác có khả năng ảnh hưởng đến ý định báo cáo như đặc điểm cá

15

nhân (kinh nghiệm, chức vụ, chuyên môn công tác). Các yếu tố này được đề xuất

trên cơ sở các nghiên cứu trước.

Các định nghĩa

Thái độ

Fishbein và Ajzen (1975) định nghĩa thái độ là sự đánh giá tích cực hay tiêu

cực của cá nhân về việc thực hiện mục tiêu. Trong nghiên cứu các yếu tố tác động

đến hành vi báo cáo sự cố: thái độ của nhân viên là những ý nghĩ tích cực hay tiêu

cực đến báo cáo sự cố, thái độ tích cực hướng đến việc thường xuyên và luôn luôn

báo cáo, bao gồm các thái độ về qui trình và sự lo lắng của bản thân.

Chuẩn chủ quan

Là áp lực xã hội nhận thức để thực hiện hoặc không thực hiện hành vi

(Ajzen,1991) hay là niềm tin của một người rằng một nhóm hay cá nhân cụ thể nào

đó nghĩ anh ta nên hoặc không nên thực hiện hành vi và động cơ hành động của anh

ta sẽ tuân theo những nhóm hay cá nhân cụ thể trên (Ajzen vàFishbein, 1980).

Nghiên cứu các yếu tố tác động đến hành vi báo cáo sự cố, chuẩn chủ quan là niềm

tin về khả năng chấp nhận hay không chấp nhận báo cáo sự cố khi có sự cố xãy ra

hoặc nhận được sự khuyến khích của đơn vị quản lý sự cố, của lãnh đạo bệnh viện

thông qua việc khen thưởng cho các khoa/phòng có nhiều báo cáo.

Kiến thức

Theo từ điển tiếng Việt của Viện ngôn ngữ học (2001) định nghĩa kiến thức

là những hiểu biết có được do từng trải hoặc do học tập mà có. Kiến thức về báo cáo

sự cố bao gồm những hiểu biết về qui trình báo cáo bao gồm định nghĩa sự cố, mục

đích của báo cáo, báo cáo cho ai, ai là người báo cáo và trình tự báo cáo như thế

nào.

TÓM TẮT CHƯƠNG 2

Chương này giới thiệu cơ sở lý thuyết về dự định báo cáo sự cố tại bệnh viện

Từ Dũ, các lý thuyết về sự cố và qui trình quản lý sự cố tại bệnh viện. Mô hình

nghiên cứu, trong đó biến phụ thuộc là dự định hành vi báo cáo sự cố, tần suất báo

16

cáo sự cố và 3 biến độc lập bao gồm: (1) kiến thức về qui trình báo cáo sự cố, (2)

chuẩn chủ quan là niềm tin về chấp nhận hay không chấp nhận báo cáo sự cố, (3)

thái độ về việc báo cáo. Chương tiếp theo tác giả trình bày qui trình nghiên cứu,

phương pháp nghiên cứu và mô tả các biến số trong nghiên cứu.

17

CHƯƠNG 3: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Chương này sẽ trình bày phương pháp nghiên cứu để xây dựng và đánh giá

các yếu tố tác động đến báo cáo sự cố bao gồm: cách xây dựng bảng câu hỏi,

phương pháp nghiên cứu.

3.1 Thiết kế nghiên cứu

3.1.1 Phương pháp nghiên cứu

Đề tài được thực hiện bằng phương pháp nghiên cứu định lượng thông qua hai

bước:

Bước 1: nghiên cứu thử được thực hiện nhằm điều chỉnh bảng câu hỏi dễ hiểu,

phù hợp với đối tượng nghiên cứu. Bước này được thực hiện qua việc khảo sát 35

nhân viên bằng bảng câu hỏi tự điền. Bảng câu hỏi được xây dựng dựa trên qui trình

quản lý sự cố của bệnh viện, bộ câu hỏi HSOPSC và tham khảo ý kiến chuyên gia.

Bước 2: nghiên cứu chính thức được thực hiện sau khi bảng câu hỏi đã được

hiệu chỉnh lại với ngôn ngữ rõ ràng, dễ hiểu theo góp ý của các thành viên tham gia

thử nghiệm bảng câu hỏi. Các bảng câu hỏi sau đó được gởi đến nhân viên tại hai

khoa Cấp cứu Chống độc và Gây mê hồi sức.

3.1.2 Qui trình nghiên cứu

Qui trình nghiên cứu được thực hiện theo trình tự như sau, đầu tiên tác giả

xác định mục tiêu nghiên cứu, mô hình nghiên cứu, xây dựng thang đo, sau đó tác

giả tiến hành nghiên cứu thử nghiệm từ đó điều chỉnh bảng câu hỏi dễ hiểu và phù

hợp mục tiêu nghiên cứu. Tiếp theo tác giả thực hiện khảo sát và thống kê phân tích

xác định các yếu tố tác động đến ý định báo cáo sự cố.

18

Hình 3.1: Qui trình nghiên cứu

19

3.2 Xây dựng bảng câu hỏi điều tra

Bảng câu hỏi điều tra được xây dựng dựa trên nhu cầu thực tế của bệnh viện,

qui trình quản lý sự cố và bộ câu hỏi HSOPSC cũng như các chuyên gia về quản lý

chất lượng công tác tại bệnh viện. Sau đó tác giả tiến hành thử nghiệm bảng câu hỏi

với một nhóm bao gồm 35 thành viên chuyên trách mạng lưới quản lý chất lượng

trực thuộc tất cả khoa/phòng. Mỗi thành viên có trách nhiệm đánh giá nội dung

bảng câu hỏi có dễ hiểu, có gây hiểu lầm không, và phù hợp mục tiêu khảo sát. Kết

quả thử nghiệm cho thấy 2/3 số nhân viên tham gia thử nghiệm hiểu bảng câu hỏi

nghiên cứu, ¼ số nhân viên phản hồi về việc cần làm rõ hơn khái niệm niềm tin báo

cáo sự cố và một số lỗi chính tả. Như vậy sau 2 tháng xây dựng và thử nghiệm,

bảng câu hỏi hoàn thiện và tiến hành khảo sát.

3.3 Phương pháp tiến hành

Sau khi bảng câu hỏi đã được hiệu chỉnh với ngôn ngữ rõ ràng, dễ hiểu, tác giả

thành lập nhóm khảo sát gồm 4 nhân viên trực thuộc phòng Quản lý chất lượng

trong đó có 1 nữ hộ sinh, 2 cử nhân Y tế công cộng và 1 cử nhân ngữ văn nhằm tiến

hành thu thập số liệu bằng cách phỏng vấn 271 nhân viên khoa Cấp cứu Chống độc

và Gây mê hồi sức. Sau khi tiến hành tập huấn, tác giả và nhóm nghiên cứu xây

dựng kế hoạch hành động về việc thu thập mẫu tại hai khoa khảo sát. Dữ liệu thu

được sẽ được nhập liệu bằng phần mềm epi data và xử lý số liệu bằng Stata 12.0.

3.4 Đối tượng khảo sát

Nghiên cứu được thực hiện trên tất cả nhân viên làm việc tại hai khoa Cấp

cứu chống độc và Gây mê hồi sức thỏa mãn tiêu chuẩn chọn mẫu là tự nguyện tham

gia nghiên cứu và đối tượng khảo sát trong độ tuổi lao động. Nhân viên hưu hợp

đồng làm lại và/hoặc vắng mặt tại thời điểm nghiên cứu sẽ được loại trừ khỏi danh

sách nghiên cứu. Như vậy, cỡ mẫu nghiên cứu là 271/298

3.5 Phân tích, xử lý số liệu

Dữ liệu được mô tả và phân tích bằng phần mềm Stata 12.0, vẽ biểu đồ bằng

phần mềm Excel 2010, chèn và kiểm soát tài liệu bằng phần mềm Endnote X1. Để

20

mô tả và phân tích các yếu tố tác động đến báo cáo sự cố, tác giả sử dụng kỹ thuật

thống kê trong y sinh học.

3.5.1 Thống kê mô tả

Để mô tả các biến số trong bộ số liệu bao gồm các biến về kiến thức, thái độ,

niềm tin, đặc điểm cá nhân, dự định báo cáo sự cố và tần suất báo cáo, tác giả mô tả

tần suất và tỉ lệ phần trăm đối với biến định tính; đối với biến định lượng mô tả

trung bình và độ lệch chuẩn.

3.5.2 Phân tích mối liên quan

Phép kiểm chi bình phương, Fisher chính xác được dùng để kiểm định sự

liên hệ giữa các biến độc lập và biến phụ thuộc với biến phụ thuộc là biến nhị phân

được mã hóa thành 2 giá trị 0 và 1. Tỉ số chênh OR là chỉ số phản ánh mối liên quan

giữa biến độc lập và phụ thuộc, với OR = 1 không có mối liên quan giữa biến độc

lập và phụ thuộc; OR>1 thể hiện mối liên quan thuận; và OR<1 thể hiện mối liên

quan nghịch.

3.6 Mô tả biến số

3.6.1 Đặc điểm cá nhân

Giới là biến nhị phân mang giá trị 1 là nam, và 2 là nữ. Thâm niên công tác

được tính bằng số năm công tác tại bệnh viện, mang giá trị 1 nếu <5 năm kinh

nghiệm và 2 nếu ≥ 5 năm kinh nghiệm. Chức danh nghề nghiệp là biến số mang 6

giá trị cụ thể như 1 là bác sĩ, 2 là điều dưỡng/nữ hộ sinh, 3 kỹ thuật viên, 4 dược sĩ,

5 hộ lý, và 6 là khác. Tương tự, chức vụ là biến gồm 5 giá trị, bao gồm 1 dành cho

trưởng khoa, 2 phó khoa, 3 nữ hộ sinh/điều dưỡng trưởng khoa, 4 nữ hộ sinh/điều

dưỡng phó khoa, và 5 là nhân viên.

3.6.2 Kiến thức về qui trình báo cáo sự cố

Các biến số kiến thức về qui trình sự cố là biến số nhị giá gồm 2 giá trị kiến

thức đúng và chưa đúng. Một người có kiến thức đúng về định nghĩa sự cố là người

biết được sự cố bao gồm tất cả các sự việc xảy ra khác với hoạt động bình thường

trong Bệnh viện. Một người có kiến thức đúng về đơn vị quản lý sự cố là người biết

được Phòng Quản lý chất lượng là đơn vị quản lý sự cố. Một người có kiến thức

21

đúng về người chịu trách nhiệm báo cáo sự cố của Khoa/phòng là bất kỳ người nào

biết về sự cố. Một người có kiến thức đúng về trình tự báo cáo sự cố của bệnh viện

là người biết được khi sự cố xảy ra phải viết phiếu báo cáo sự cố và gởi về Phòng

Quản lý chất lượng. Cũng như kiến thức đúng về mục đích của báo cáo sự cố là

tránh lặp lại sai sót tương tự ở cá nhân hoặc khoa/phòng khác.

3.6.3 Thái độ

Thái độ được thể hiện hai thành phần bao gồm thái độ về qui trình và thái độ

lo sợ. Thang đo thái độ gồm 16 câu hỏi được đo lường theo thang đo Likert 5 cấp

độ từ hoàn toàn đồng ý cho đến hoàn toàn không đồng ý, (1) hoàn toàn đồng ý, (2)

đồng ý, (3) không ý kiến, (4) không đồng ý, và (5) hoàn toàn không đồng ý.

Trong đó thái độ về qui trình gồm 10 câu hỏi như :

(1) báo cáo giúp cải thiện việc chăm sóc người bệnh

(2) báo cáo sự cố giúp học tập kinh nghiệm giữa các đồng nghiệp tốt hơn

(3) báo cáo sự cố giúp phòng tránh sai sót tốt hơn

(4) không có trách nhiệm báo cáo

(5) biểu mẫu quá phức tạp

(6) báo cáo sự cố không thay đổi được gì

(7) báo cáo chỉ là thêm việc

(8) trưởng/phó khoa không cho phép báo cáo

(9) mất thời gian để báo cáo

(10) nghĩ sự cố thuộc chuyên môn mới báo cáo.

Đối với thái độ lo sợ bao gồm 6 câu hỏi như sau:

(1) lo lắng bị đổ lỗi

(2) đồng nghiệp không thích

(3) không muốn gặp rắc rối

(4) lo lắng bị kỷ luật

(5) không muốn bị đưa ra trong các cuộc họp

(6) lo lắng bị để ý.

22

3.6.4 Niềm tin về báo cáo sự cố

Để đánh giá niềm tin về báo cáo sự cố chúng tôi đo lường theo 4 mức độ (1)

không bao giờ, (2) không thường xuyên, (3) thường xuyên, (4) luôn luôn bao gồm

các biến số đo lường sự cố suýt xảy ra, sự cố sai biệt, và sự cố đặc biệt nghiêm

trọng. Đây là những sự cố được ghi nhận từ đơn vị quản lý sự cố bệnh viện.

Sự cố suýt xảy ra gồm tám biến số:

(1) nhầm bệnh nhưng phát hiện kịp

(2) phát thuốc sai nhưng phát hiện kịp

(3) thiết bị đang sử dụng không an toàn/không hoạt động

(4) chẩn đoán sai bệnh nhưng phát hiện kịp thời

(5) rút nhầm máu xét nghiệm nhưng phát hiện kịp

(6) hệ thống nước bệnh viện bị ngắt/cúp

(7) gạch tại phòng nhận bệnh bị bong tróc

(8) cây xanh ngã/đổ trong khuôn viên bệnh viện.

Sự cố sai biệt gồm 11 biến số như :

(1) nhân viên bị kim đâm

(2) bệnh nhân té ngã trong bệnh viện nhưng chưa gây hậu quả nghiêm trọng

(3) hút thuốc trong khu vực nghiêm cấm

(4) quên gạc, dụng cụ trong phẫu thuật nhưng phát hiện kịp thời

(5) chậm làm xét nghiệm

(6) chậm trả kết quả xét nghiệm

(7) nhiễm trùng

(8) loét do nằm lâu,

(9) mất gạc trong lúc mổ

(10) bộ săng vải phòng mổ còn ướt sau khi đã hấp tại khoa Kiểm soát nhiễm

khuẩn

(11) la phông trần nhà rơi trúng bệnh nhân làm trầy sướt tay bệnh nhân.

Sự cố đặc biệt nghiêm trọng gồm 7 biến như sau :

(1) phẫu thuật nhầm vị trí

23

(2) tai biến do phẫu thuật

(3) phản ứng phụ do điều trị

(4) bệnh nhân tử vong đột ngột

(5) bệnh nhân ngã dẫn đến tử vong hoặc mất chức năng vĩnh viễn

(6) bệnh nhân bỏng nước khi rửa ổ bụng gây tổn thương nghiêm trọng

(7) hộ sinh, điều dưỡng cho bệnh nhân xuất viện khi chưa có y lệnh của BS.

3.6.5 Hành vi báo cáo sự cố

Để đánh giá hành vi báo cáo sự cố, tác giả sử dụng thang đo 5 điểm để đo

lường trong đó (1) không bao giờ, (2) hiếm khi, (3) đôi khi, (4) thường xuyên, và

(5) luôn luôn, bao gồm các nội dung :

(1) báo cáo sự cố xảy ra nhưng đã được phát hiện và ngăn chặn kịp thời trước

khi ảnh hưởng lên bệnh nhân.

(2) báo cáo sự cố xảy ra do không tuân thủ các chính sách, qui trình, qui định

của bệnh viện.

(3) báo cáo sự cố gây tử vong hoặc gây tổn thương nghiêm trọng không

mong đợi về mặt thể chất hoặc tinh thần người bệnh.

3.6.6 Tần suất báo cáo sự cố

Tần suất báo cáo sự cố là số sự cố đã từng báo cáo gồm 2 giá trị qui định 0 là

không báo cáo, và 1 là có báo cáo.

TÓM TẮT CHƯƠNG 3

Trong chương 3 tác giả đã trình bày phần thiết kế nghiên cứu của đề tài bao

gồm xây dựng qui trình nghiên cứu, phương pháp nghiên cứu định lượng được thực

hiện thông qua 2 bước: nghiên cứu thử nghiệm bảng câu hỏi và nghiên cứu chính

thức. Khảo sát chính thức được thực hiện bằng cách phát bảng câu hỏi trực tiếp cho

đối tượng khảo sát là nhân viên đang công tác tại 2 khoa Cấp cứu chống độc và Gây

mê hồi sức của bệnh viện, đồng thời tác giả đã giới thiệu các thang đo trong nghiên

cứu. Dữ liệu thu thập được phân tích bằng phần mềm stata theo phương pháp phân

tích thống kê y sinh học. Thông qua đó kết quả nghiên cứu cũng như các giải pháp,

đề xuất, kiến nghị sẽ được trình bày trong các chương tiếp theo.

24

CHƯƠNG 4: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

Chương này tác giả trình bày kết quả nghiên cứu gồm 3 phần, mô tả các biến

số trong nghiên cứu, xác định mối liên quan các yếu tố tác động đến báo cáo sự cố

bằng phép kiểm chi bình phương, Fisher chính xác và hệ số liên quan để đo độ kết

hợp.

4.1 THỐNG KÊ MÔ TẢ

Phần này tác giả sẽ mô tả các đặc điểm mẫu nghiên cứu, các biến số về kiến

thức, thái độ, hành vi và tần suất báo cáo để có cái nhìn chung về công tác báo cáo

sự cố hiện nay tại bệnh viện.

4.1.1 Đặc tính mẫu nghiên cứu

Sau khi tiến hành thu thập số liệu và kiểm tra toàn bộ các phiếu theo tiêu chí

chọn mẫu thu được 271 phiếu hợp lệ. Kết quả mô tả về giới, thâm niên công tác,

chuyên môn, chức vụ được trình bày như sau.

12%

Nam

Nữ

88%

Biểu đồ 4.1: Phân bố giới tính

Kết quả phân tích cho thấy giới tính trong mẫu nghiên cứu phân bố theo tỉ lệ

nữ 88%, và nam chiếm 12%. Tỉ lệ này phù hợp với thực tế tại bệnh viện, tỉ lệ nữ

chiếm 85% tổng số nhân viên tại bệnh viện.

25

2%

9%

10%

BS

NHS/ĐD

19%

KTV

HL

KHÁC

60%

Biểu đồ 4.2: Chứcdanh nghề nghiệp

Trong 271 nhân viên tham gia nghiên cứu có 9% bác sĩ; 60% nữ hộ sinh,

điều dưỡng; kỹ thuật viên 19%; hộ lý 10%; nhân viên khác (những người làm việc

hành chánh) 2%. Tại khoa Gây mê hồi sức, kỹ thuật viên 40% trong tổng số nhân

viên, như vậy kết quả này phù hợp với thực tế tại bệnh viện.

26

31%

< 5 năm

≥ 5 năm

69%

Biểu đồ 4.3: Thâm niên công tác

Nhân viên công tác tại bệnh viện từ 5 năm trở lên chiếm tỉ lệ gấp 2 lần số nhân

viêncó thâm niên công tác dưới 5 năm.

4%

Trưởng/phó khoa

Nhân viên

96%

Kết quả khảo sát cho thấy những người làm công tác quản lý tại khoa chiếm

Biểu đồ 4.4: Chức vụ

tỉ lệ chỉ 4%, trong khi số nhân viên tham gia nghiên cứu chiếm 96%.

27

4.1.2 Dự định hành vi báo cáo sự cố

Trong các ngành có liên quan trực tiếp đến tính mạng con người, một sơ suất

nhỏ có thể để lại hậu quả nghiêm trọng, nếu các sự cố đó được phát hiện kịp thời

được chỉnh sửa sẽ không gây thiệt hại cho con người cả về mặt thể chất và kinh tế,

đặc biệt trong nghành Y. Trong môi trường bệnh viện với áp lực công việc cao phải

chịu trách nhiệm về tính mạng của người bệnh, khi đến khám và chữa bệnh thì việc

phát hiện và báo cáo sự cố có giá trị rất lớn, nó là bài học để rút kinh nghiệm, không

để sự cố tương tự xảy ra không những cho bản thân mà còn cho các bộ phận khác

trong bệnh viện, giảm thiệt hại về người và tài sản đồng thời góp phần nâng cao

chất lượng bệnh viện. Thế nhưng mức độ thường xuyên và luôn luôn báo cáo các sự

Bảng 4.1 Dự định hành vi báo cáo sự cố

Hành vi

Luôn luôn

Không bao giờ

Hiếm khi

Đôi khi

Thường xuyên

5 (1,9)

28 (10,3)

72 (26,6) 120 (44,3) 46 (17)

37(13,8)

82 (30,6)

73 (27,2) 56 (20,9)

20 (7,5)

59 (21,9) 61 (22,6)

36 (13,3) 74 (27,4)

40 (14,8)

Báo cáo sự cố xảy ra nhưng phát hiện và ngăn chặn kịp thời Báo cáo sự cố xảy ra do không tuân thủ các chính sách, qui trình, qui định Báo cáo sự cố gây tử vong hoặc tổn thương nghiêm trọng

cố này vẫn còn thấp.

Kết quả thống kê bảng 4.1 cho thấy mức độ thường xuyên báo cáo sự cố có

liên quan đến an toàn người bệnh với 3 câu hỏi được chia thành 5 mức độ báo cáo

(1) không bao giờ, (2) hiếm khi, (3) đôi khi, (4) thường xuyên, (5) luôn luôn cho

thấysự cố xảy ra nhưng được phát hiện và ngăn chặn kịp thời mức độ báo cáo theo

thứ tự là thường xuyên; đôi khi và luôn luôn báo cáovới tỉ lệ tương ứng là 44,3%;

26,6% và 17%. Như vậy, những sự cố này được phát hiện, báo cáo và khắc phục.

Đây là kết quả tốt của quản lý chất lượng bệnh viện. Cần có chính sách khen

thưởng, khuyến khích cá nhân, tập thể phát hiện và ngăn chặn sự cố xảy ra.

28

Sự cố xảy ra do không tuân thủ chính sách, qui trình, và phác đồ; mức độ báo

cáo theo thứ tự là hiếm khi, đôi khi và thường xuyên báo cáo với tỉ lệ tương ứng là

30,6%; 27,2% và 20,9%; mức độ luôn luôn báo cáo lại chiếm tỉ lệ thấp nhất với tỉ lệ

là 7,5%. Nhân viên y tế hiếm khi báo cáo các sự cố xảy ra do không tuân thủ chính

sách, qui trình, và phác đồ do lo sợ bị trừng phạt, kiểm điểm nên còn chưa mạnh

dạn báo cáo. Cần có thêm nghiên cứu phân tích đặc điểm này, có như thế mới cải

thiện tốt chất lượng quản lý bệnh viện. Nhân viên y tế buộc phải tuân thủ chính

sách, qui định, và phác đồ của bệnh viện.

Sự cố gây tử vong hoặc tổn thương nghiêm trọng mức độ báo cáo là thường

xuyên, hiếm khi, và không bao giờ báo cáo với tỉ lệ tương ứng là 27,4%; 22,6% và

21,9%%); mức độ thường xuyên báo cáo còn chiếm tỉ lệ thấp là 14,8%. Kết quả này

cũng khá phù hợp vì theo qui định các trường hợp tử vong mẹ, tử vong sơ sinh hay

tai biến nghiêm trọng thì chỉ có một số ít nhân viên có chức năng mới biết và mới

được phép báo cáo sự cố. Bên cạnh đó thống kê cũng cho thấy các sự cố xảy ra

không phải lúc nào cũng được báo cáo, tỉ lệ hiếm khi báo cáo và không bao giờ báo

cáo còn cao, đặc biệt là sự cố do không tuân thủ qui trình là 30,6% và 13,8%; sự cố

đặc biệt nghiêm trọng là 22,6% và 21,9%; và thấp nhất là sự cố xảy ra nhưng phát

hiện và ngăn chặn kịp thời, tương ứng 10,3% và 1,9%.

Nếu tính cộng dồn cho biến số có báo cáo sự cố, gồm hiếm khi, đôi khi,

thường xuyên, và luôn luôn báo cáo thì kết quả có báo cáo sự cố trong nghiên cứu

cho từng loại sự cố thương ứng là sự cố xảy ra nhưng phát hiện ngăn chặn tạm thời

là 98,1%; sự cố xảy ra do không tuân thủ chính sách, qui định, phác đồ chiếm tỉ lệ

86,2%; và sự cố gây tử vong hoặc tổn thương nghiêm trọng là 78,1%. Kết quả này

cao hơn nhiều, không phù hợp với thực tế vì theo báo cáo của đơn vị quản lý sự cố

bệnh viện, 9 tháng đầu năm 2014 tỉ lệ có báo cáo các sự cố đặc biệt nghiêm trọng là

48,3%, sự cố do sai biệt là 32,4% và sự cố suýt xảy ra là 20,2%. Sự sai biệt này có

thể do sai lệch do nhớ lại khi phỏng vấn các đối tượng nghiên cứu, hoặc nhân viên y

tế có suy nghĩ sẽ báo cáo sự cố nhưng có thể vì các lý do chủ quan hay khách quan

mà quên không báo cáo, nhưng khi nghiên cứu thì nhớ sai lầm đã báo cáo. Quản lý

29

chất lượng bệnh viện cần lưu ý yếu tố này, nâng cao nhận thức cho mỗi nhân viên y

tế về thực hiện báo cáo sự cố ngay khi xảy ra sự cố.

4.1.3 Dự định hành vi chung

Dự định hành vi chung được chia làm 2 nhóm, hành vi đúng và hành vi chưa

đúng. Các biến số bao gồm 5 giá trị như sau không bao giờ, hiếm khi, đôi khi,

thường xuyên, và luôn luôn. Mỗi hành vi có 1 lựa chọn, hành vi đúng gồm thường

xuyên hoặc luôn luôn, và được cho 1điểm. Tổng số điểm đánh giá hành vi chung là

3 điểm được phân bổ như sau, hành vi đúng khi tổng số điểm ≥ 2 điểm (≥75%) và

hành vi chưa đúng khi tổng số điểm ≤ 1 điểm (<75%)

Qua biểu đồ (biểu đồ 4.5) thống kê kết quả hành vi báo cáo sự cố cho thấy nhân

Biểu đồ 4.5: Dự định hành vi chung

21%

HV đúng

HV chưa đúng

79%

viên chưa thật sự sẵn sàng báo cáo các sự cố khi xảy ra.

Năm 2014, bệnh viện đã xây dựng và triển khai qui trình quản lý sự cố, phổ

biến đến toàn thể nhân viên qua tổ chức các đợt tập huấn cho tất cả nhân viên

35khoa/phòng. Bên cạnh đó để khuyến khích báo cáo sự cố, Ban giám đốc bệnh

viện đã chủ trương khen thưởng những khoa/phòng có hoạt động tích cực trong

công tác báo cáo. Khoa Cấp cứu chống độc và Gây mê hồi sức là những khoa trọng

30

điểm về mặt chuyên môn của bệnh viện, đã được chọn triển khai thí điểm qui trình

quản lý sự cố từ đầu năm 2014 đến nay, tất cả nhân viên của khoa cũng được tập

huấn qui trình, tuy nhiên thực hành chung về báo cáo sự cố ở nhân viên chỉ đúng

21%, có thể sự cố xảy ra qua một thời gian do bận rộn công việc nhân viên quên

báo cáo hoặc không nắm qui trình báo cáo, không biết sự cố để báo cáo hoặc các lo

sợ của bản thân đã ngăn cản báo cáo và như vậy tỉ lệ sự cố thông qua báo cáo không

chính xác.

Biểu đồ 4.6: Tần suất báo cáo sự cố

39%

Có báo cáo

Không báo cáo

61%

4.1.4 Tần suất báo cáo sự cố

Thống kê cho thấy chỉ 39% nhân viên trả lời đã từng báo cáo sự cố, tỉ lệ của

chúng tôi thấp có thể đo qui trình quản lý sự cố mới được triển khai, nhân viên chưa

hiểu hết được ý nghĩa cũng như mục đích của báo cáo, hoặc có quan điểm chỉ báo

cáo sự cố nghiêm trọng nên còn e ngại khi báo cáo, tần suất báo cáo còn thấp. Đồng

thời cũng có thể do sai lệch nhớ lại khi phỏng vấn đối tượng nghiên cứu, đối tượng

nghiên cứu không nhớ rõ tần suất báo cáo sự cố của mình.

31

4.1.5 Kiến thức về hệ thống báo cáo sự cố

Qua biểu đồ 4.7 với 5 câu hỏi về kiến thức hệ thống báo cáo sự cố thì hầu hết

nhân viên biết được mục đích của báo cáo nhằm phòng tránh sai sót tương tự, cải

thiện hệ thống chăm sóc sức khỏe, tuy nhiên khi có sự cố xảy ra người gây ra sự cố

hoặc người chứng kiến có trách nhiệm báo cáo về đơn vị quản lý sự cố. Nhưng hầu

hết nhân viên không biết được trình tự báo cáo như thế nào, ai sẽ là người báo cáo

và báo cáo cho ai. Đa số nhân viên cho rằng khi sự cố xảy ra phải trình ban lãnh đạo

khoa xem xét, giải quiết trước khi báo cáo về đơn vị quản lý sự cố, như vậy những

sự cố mang tính chất hệ thống hoặc những sự cố có ảnh hưởng đến thi đua của khoa

hoặc vì tình cảm riêng muốn bao che cho nhau có thể không được báo cáo. Điều

này phản ánh công tác phổ biến qui trình báo cáo sự cố đến nhân viên chưa thực

Biểu đồ 4.7: Kiến thức đúng về hệ thống báo cáo sự cố

95.2

100

90

80

70

64.7

60

45.5

50

40

28.1

30

20

10

1.9

0

Định nghĩa sự cố Đơn vị tiếp nhận Mục đích báo

Trính tự báo cáo Người chịu trách

cáo

nhiệm báo cá

hiện tốt, mạng lưới quản lý chất lượng hoạt động chưa hiệu quả.

Có 64,7% nhân viên y tế định nghĩa đúng về sự cố. Như vậy cần tăng cường

thêm công tác đào tạo cho toàn bộ nhân viên y tế về khái niệm sự cố vì có kiến thức

đúng thì nhân viên y tế mới báo cáo sự cố đúng. 45,5% nhân viên y tế biết đúng về

đơn vị tiếp nhận sự cố xảy ra. Thay vì gửi cho Phòng Quản lý chất lượng của bệnh

viện, nhân viên y tế thường báo cáo sự cố cho ban chủ nhiệm khoa, phòng Kế hoạch

32

tổng hợp, hoặc phòng Tổ chức cán bộ. Báo cáo sự cố không chất lượng, không đúng

người, đúng việc thì không thể góp phần cải thiện chất lượng bệnh viện, chỉ hao phí

thời gian và công sức lao động.

95,2% nhân viên y tế biết đúng về mục đích báo cáo sự cố. Đây là yếu tố

thành công khi triển khai quản lý chất lượng bệnh viện. Hầu hết nhân viên y tế hiểu

mục đích báo cáo sự cố, từ đó chắc chắn sẽ chấp nhận và tham gia báo cáo sự cố

hiệu quả. Tuy nhiên chỉ có 1,9% nhân viên y tế biết đúng về trình tự báo cáo sự cố.

Điều này phù hợp với các báo cáo khác về báo cáo sự cố trong bệnh viện. Do vậy,

cần có những hành động, xây dựng, triển khai qui trình và tăng cường hỗ trợ cho

nhân viên y tế biết qui trình báo cáo sự cố. Tần suất báo cáo sự cố thấp có thể do

nhân viên y tế chưa nắm rõ qui trình báo cáo nên từ chối báo cáo sự cố.

28,1% nhân viên y tế biết đúng về người chịu trách nhiệm báo cáo. Nhân

viên y tế thường nghĩ chỉ có lãnh đạo, trưởng nhóm, trưởng tua trực mới tham gia

báo cáo sự cố. Đây có thể do đào tạo huấn luyện chưa cung cấp đầy đủ thông tin

cho nhân viên y tế hoặc qui trình chưa làm rõ trách nhiệm mỗi nhân viên y tế đều

tham gia báo cáo sự cố để cùng góp phần nâng cao chất lượng bệnh viện.

4.1.6 Kiến thức chung về báo cáo sự cố

Kiến thức về báo cáo sự cố là biến nhị phân với 2 giá trị đúng và chưa đúng.

Trong một câu hỏi chỉ có 1 lựa chọn đúng, kiến thức đúng được tính 1 điểm và kiến

Bảng 4.2: Thang điểm đánh giá kiến thức chung về hệ thống báo cáo sự cố

thức chưa đúng được tính 0 điểm.

Nội dung Giá trị Điểm

Định nghĩa sự cố Đúng 1

Đơn vị quản lý sự cố Đúng 1

Người chịu trách nhiệm báo cáo sự cố Đúng 1

Qui trình báo cáo sự cố Đúng 1

Mục đích báo cáo sự cố Đúng 1

33

Tổng số điểm đánh giá kiến thức chung là 5 điểm, dựa vào cách tính điểm

cắt đoạn 75% trên tổng số điểm (Nguyễn Thị Thu Hiền, 2011), chúng tôi chia điểm

kiến thức thành 2 nhóm: kiến thức đúng với tổng điểm ≥ 4 điểm (≥ 75%) và kiến

thức chưa đúng với tổng điểm ≤ 3 điểm (<75%). Như vậy người có kiến thức chung

đúng về báo cáo sự cố là người trả lời được từ 4 câu hỏi trở lên. Người có kiến thức

Biểu đồ 4.8: Kiến thức chung về hệ thống báo cáo sự cố

12%

KT chưa đúng

KT đúng

88%

chung chưa đúng là người trả lời đúng từ 3 câu hỏi trở xuống.

Qua biểu đồ 4.7 cho thấy vẫn còn rất nhiều người chưa hiểu đúng về qui trình

báo cáo sự cố, kiến thức đúng chỉ chiếm 12%. Vì qui trình báo cáo sự cố được phổ

biến trong họp mạng lưới quản lý chất lượng, thành viên gồm bác sĩ trưởng phó

khoa/phòng, nữ hộ sinh trưởng/phó và nhân viên phụ trách thường là bác sĩ. Thành

viên mạng lưới là những người phổ biến lại qui trình cho nhân viên khoa, quá trình

truyền đạt lại có thể không đủ ý hoặc do trình độ, khả năng tiếp thu của mỗi người

khác nhau nên sự hiểu biết cũng khác nhau.

4.1.7 Thái độ về hệ thống báo cáo

Thái độ về hệ thống báo cáo được phân thành hai nhóm, nhóm biến số tiêu

cực và nhóm biến số tích cực. Nhóm các biến số tiêu cực bao gồm không có trách

nhiệm báo cáo, biểu mẫu phức tạp, báo cáo không thay đổi được gì, báo cáo chỉ

34

thêm việc, trưởng/phó khoa không cho phép báo cáo, mất thời gian để báo cáo, và

nghĩ sự cố thuộc chuyên môn mới báo cáo. Nhóm các biến số tích cực bao gồm báo

cáo sự cố giúp phòng tránh sai sót tốt hơn, báo cáo sự cố giúp học tập kinh nghiệm

giữa các đồng nghiệp tốt hơn, và báo cáo giúp cải thiện việc chăm sóc người bệnh.

Qua bảng thống kê (bảng 4.3) cho thấy đa số không đồng ý với cách nghĩ tiêu cực,

khoảng 20% ý kiến đồng ý biểu mẫu báo cáo phức tạp và 15% cho rằng các sự cố

thuộc chuyên môn mới báo cáo. Như vậy biểu mẫu báo cáo sự cố cần cải tiến nhằm

đơn giản, dễ hiểu hơn, đồng thời phải có một định nghĩa rõ ràng hơn về sự cố hoặc

tập huấn về qui trình này để nhân viên hiểu sự cố không chỉ các vấn đề thuộc về

chuyên môn mà cả các vần đề xảy ra xung quanh ảnh hưởng đến chất lượng chăm

sóc, điều trị cũng như tạo sự thoải mái, an toàn cho bệnh nhân.

Hầu hết nhân viên ủng hộ việc báo cáo sự cố, 67,2% đồng ý với ý kiến sự cố

cải thiện chăm sóc người bệnh; 66,1% đồng ý sự cố giúp học tập kinh nghiệm tốt

hơn; và 65,7% đồng ý sự cố giúp phòng tránh sai sót tốt hơn. Được sự ủng hộ của

nhân viên bệnh viện, qui trình quản lý sự cố bước đầu mang đến sự thành công.

Bảng 4.3 Thái độ về hệ thống báo cáo

35

Đặc tính

Đồng ý

Hoàn toàn đồng ý

Không ý kiến

Không đồng ý

Hoàn toàn không đồng ý 53 (19,6)

14 (5,2)

13 (4,8)

32 (11,9) 158 (58,5)

8 (3)

52 (19,5)

97 (36,3)

86 (32,2)

24 (9)

Không có trách nhiệm báo cáo (N=270) Biểu mẫu phức tạp (N=267)

5(1,9)

14(5,2)

26(9,7)

176(65,4)

48 (17,8)

Báo cáo sự cố không thay đổi được gì (N= 269)

5 (1,9)

23 (8,6)

39 (14,5) 171 (63,8)

30 (11,2)

6 (2,2)

6 (2,2)

22 (8,2) 169 (62,6)

67 (24,8)

2 (0,7)

17 (6,3)

35 (12,9) 182 (67,2)

35 (12,9)

4 (1,5)

42 (15,6)

26 (9,6) 167 (61,9)

31 (11,5)

74 (27,3)

178 (65,7)

6 (2,2)

7 (2,6)

6 (2,2)

73 (26,9)

179 (66,1)

4 (1,2)

8 (3)

7 (2,6)

68 (25,1)

182 (67,2)

7 (2,6)

7 (2,6)

7 (2,6)

Báo cáo chỉ là thêm việc (N=268) Trưởng/phó khoa không cho phép báo cáo (N=270) Mất thời gian để báo cáo sự cố (N=271) Nghĩ sự cố thuộc chuyên môn mới báo cáo (N=270) Báo cáo sự cố giúp phòng tránh sai sót tốt hơn (N=271) Báo cáo sự cố giúp học tập kinh nghiệm giữa các đồng nghiệp tốt hơn (N=271) Báo cáo giúp cải thiện việc chăm sóc người bệnh (N=271)

4.1.8 Thái độ chung về hệ thống báo cáo sự cố

Thái độ chung đối với hệ thống báo cáo sự cố được phân thành 2 nhóm thái

độ tích cực và thái độ chưa tích cực. Mỗi biến số thái độ tích cực được cho 1 điểm,

36

tổng số điểm đánh giá thái độ chung là 10 điểm, trong đó thái độ tích cực được tính

tổng điểm là ≥ 8 điểm (≥75%) và thái độ chưa tích cực tổng điểm là ≤ 7 điểm

Biểu đồ 4.9: Thái độ chung về hệ thống báo cáo sự cố

32%

TĐ tích cực

TĐ chưa tích cực

68%

(<75%)

Thống kê kết quả cho thấy đa số nhân viên đồng tình báo cáo sự cố nên cần

đẩy mạnh tác động hành vi đúng về báo cáo sự cố.

4.1.9 Thái độ lo sợ

Qua bảng 4.4 thống kê kết quả với sáu câu hỏi thái độ lo sợ về báo cáo sự cố

cho thấy nhân viên vẫn còn lo lắng, có thái độ chưa tích cực khi tham gia báo cáo sự

cố. Nội dung nhân viên lo lắng nhiều nhất là sợ bị để ý, sợ bị kỷ luật, bị đưa ra các

cuộc họp, sợ bị đổ lỗi, đồng nghiệp không thích và biểu mẫu phức tạp. Điều này

cũng phù hợp với thực tế vì người báo cáo và người gây ra sự cố sẽ tham gia điều

tra, và giải trình trước ban lãnh đạo khoa, đơn vị quản lý sự cố bệnh viện và trong

cuộc họp phân tích nguyên nhân gốc. Bên cạnh đó, bệnh viện ít nhiều vẫn còn tồn

tại văn hóa trừng phạt và trong mỗi con người vẫn còn văn hóa đỗ lỗi cho nhau. Kết

quả nghiên cứu cũng phù hợp với nghiên cứu của tác giả Albert (2000) về những

rào cản của báo cáo sự cố như sợ bị phát hiện, sợ bị trừng phạt, đổ lỗi và bị lên án

trong các cuộc họp.

Bảng 4.4 Thái độ lo sợ

Đặc tính

Đồng ý

Không ý kiến Không đồng

Hoàn toàn đồng ý

ý

Hoàn toàn không đồng ý

Lo lắng bị đổ lỗi

18(6,7)

61(22,6)

40(14,8)

140(51,9)

11(4,1)

(N=270)

9(3,4)

65(24,2)

58(21,6)

123(45,7)

14(5,2)

Đồng nghiệp

không thích

(N=269)

19(7,1)

60(22,3)

35(13)

139(51,7)

16(56)

Không muốn

gặp rắc rối

(N=269)

10(3,7)

89(33)

30(11,1)

125(46,3)

16(5,9)

Lo lắng bị kỷ

luật (N=270)

18(6,6)

89(32,8)

47(17,3)

101(37,3)

16(5,9)

Không muốn bị

nêu ra trong các

cuộc họp

(N=271)

Lo lắng bị để ý

13(4,8)

80(29,5)

49(18,1)

112(41,3)

17(6,3)

(N=271)

37

4.1.10 Thái độ chung về lo sợ

Thái độ chung về lo sợ cũng được phân thành 2 nhóm, nhóm tích cực và nhóm

chưa tích cực. Mỗi thái độ tích cực được cho 1 điểm, tổng số điểm đánh giá thái độ

chung về lo sợ là 6 điểm, trong đó thái độ tích cực được tính điểm là ≥ 5 điểm

(≥75%) và thái độ chưa tích cực được tính điểm là ≤ 4 điểm (<75%)

Biểu đồ 4.10 Thái độ chung về lo sợ

39%

61%

Tích cực

38

Qua biểu đồ, tác giả thấy hầu hết các nhóm đều cảm thấy lo lắng khi tham

gia báo cáo sự cố, thái độ chưa tích cực chiếm 61%. Mặc dù nhân viên ủng hộ qui

trình quản lý sự cố nhưng vẫn còn nhiều lo lắng khi tham gia báo cáo sự cố, có thể

nhân viên chưa thực sự tin vào chính sách, chủ trương của bệnh viện hoặc văn hóa

đổ lỗi, trừng phạt, im lặng tập thể vẫn còn ăn sâu trong tổ chức và mỗi cá nhân.

4.1.11 Niềm tin về sự cố cần báo cáo 4.1.11.1 Sự cố suýt xảyra

Đối với sự cố suýt xảy ra, tỉ lệ thường xuyên và luôn luôn báo cáo trong 3

loại sự cố đều thấp. Những sự cố liên quan đến chuyên môn, mức độ luôn luôn báo

cáo nhiều hơn những sự cố xảy ra trong môi trường xung quanh người bệnh. Tỉ lệ

nhân viên cho rằng sẽ luôn luôn báo cáo các trường hợp nhầm bệnh nhân nhưng

phát hiện kịp thời; phát sai thuốc nhưng phát hiện kịp; thiết bị y tế đang sử dụng

không an toàn/ không hoạt động; chẩn đoán sai nhưng phát hiện kịp; rút nhầm máu

bệnh nhân xét nghiệm có tỉ lệ tương ứng 16%; 15,7%; 20,7%; 17,7% và 22,4%. Sự

cố về chuyên môn được nhân viên báo cáo ít nhất, có thể do nhân viên y tế nghĩ sự

cố đã được ngăn chặn kịp thời nên không báo cáo, hoặc tâm lý lo sợ bị trừng phạt,

bị tư thù, bị cản trở phát triển nên cũng không dám báo cáo sự cố.

63,3% người trả lời không bao giờ báo cáo những trường hợp cây xanh ngã;

43,1% không báo cáo khi gạch tại phòng nhận bệnh bong tróc; 56,5% không bao

39

giờ báo cáo sự cố hệ thống nước bệnh viện bị ngắt/cúp có thể nhân viên y tế cho

rằng các sự cố này không thuộc chuyên môn nên không quan tâm báo cáo.

Do vậy cần cung cấp thông tin đúng đắn cho nhân viên y tế về sự cố báo cáo,

báo cáo ai, báo cáo cái gì, bảo mật về báo cáo để nhân viên mạnh dạn tham gia báo

Bảng 4.5: Niềm tin về sự cố suýt xảy ra

cáo sự cố.

Sự cố

bao

Không giờ

Không thường xuyên

Thường xuyên

Luôn luôn

60 (22,4)

127 (47,4)

38 (14,2)

43 (16)

Nhầm bệnh nhân nhưng phát hiện kịp thời (N=268)

70 (26,2)

125 (46,8)

30 (11,2)

42 (15,7)

Phát thuốc sai nhưng phát hiện kịp (N=267)

49 (18,2)

115 (42,6)

50 (18,5)

56 (20,7)

Thiết bị đang sử dụng không toàn/không hoạt động an (N=270)

82 (30,9)

105 (39,6)

31 (11,7)

47 (17,7)

Chẩn đoán sai nhưng phát hiện kịp (N=265)

Ngã cây xanh (N=267)

169 (63,3)

33 (12,4)

30 (11,2)

35 (13,1)

121 (45,8)

59 (22,4)

25 (9,5)

59 (22,4)

Rút nhầm máu xét nghiệm (N=264)

115 (43,1)

83 (31,1)

39 (14,6)

30 (11,2)

Gạch tại phòng nhận bệnh bị bong tróc (N=267)

43 (16)

152 (56,5)

28 (10,4)

46 (17,1)

Hệ thống nước bệnh viện bị ngắt/cúp (N=269)

4.1.11.2 Sự cố do sai biệt

Nhìn chung các sự cố sai biệt được báo cáo ở mức độ luôn luôn thấp, tỉ lệ

luôn luôn báo cáo cao nhất là mất gạc trong lúc mổ chiếm tỉ lệ 25,9%; sự cố hút

thuốc trong khu vực nghiêm cấm thì không được báo cáo nhiều nhất chiếm 40,2%.

Sự cố bệnh nhân té ngã không được báo cáo thường xuyên chiếm ½ tổng số báo

40

cáo. Những sự cố liên quan đến nhiễm khuẩn bệnh viện hay do môi trường tác động

Bảng 4.6: Niềm tin về sự cố do sai biệt

Sự cố

Luôn luôn

Thường xuyên

Không bao giờ Không thường xuyên

23(8,5)

147 (54,4)

45 (16,7)

55(20,4)

Nhân viên bị kim đâm (N=270)

49 (18,2)

139 (51,5)

33 (12,2)

49 (18,2)

Bệnh nhân té ngã trong bệnh viện nhưng chưa gây hậu quả nghiêm trọng (N=270)

thuốc

trong khu vực

108 (40,2)

89 (33,1)

39 (14,5)

33 (12,3)

Hút nghiêm cấm (N=269)

83 (30,6)

105 (38,8)

38 (14)

45 (16,6)

Quên gạc, dụng cụ trong phẫu thuật nhưng phát hiện kịp (N=271)

làm

xét

nghiệm

48 (17,9)

150 (56)

53 (19,8)

17 (6,3)

Chậm (N=268)

35 (13,1)

138 (51,5)

73 (27,2)

22 (8,2)

Chậm trả kết quả xét nghiệm (N=268)

Nhiễm trùng (N=270)

35 (13)

148 (54,8)

50 (18,5)

37(13,7)

Loét do nằm lâu (N=267)

84 (31,5)

114 (42,7)

33 (12,4)

36 (13,5)

Mất gạc trong lúc mổ (N=270)

94 (34,8)

85 (31,5)

21 (7,8)

70 (25,9)

76 (28,2)

111 (41,1)

43 (15,9)

40 (14,8)

Bộ săng vải phòng mổ còn ướt sau khi đã hấp tại khoa KSNK (N=270)

165 (61,3)

25 (9,3)

26 (9,7)

53 (19,7)

La phông trần nhà rơi trúng bệnh nhân làm trầy sướt tay bệnh nhân (N=269)

lại không được chú ý nhiều.

4.1.11.3 Sự cố đặc biệt nghiêm trọng

41

Số liệu thống kê cho thấy sự cố đặc biệt nghiêm trọng được báo cáo ở mức độ

thường xuyên và luôn luôn tương đối thấp. Sự cố “Bệnh nhân tử vong” luôn luôn

báo cáo chỉ chiếm 1/3 tổng số báo cáo (29,3%), trong khi các sự cố nghiêm trọng

còn lại, quan điểm luôn luôn báo cáo của nhân viên y tế khá thấp, chỉ xấp xỉ 20%.

Các sự cố phẫu thuật nhầm vị trí, bệnh nhân tử vong hoặc mất chức năng vĩnh viễn

do ngã,bệnh nhân bỏng nước do rửa bụng, HS/ ĐD cho bệnh nhân xuất viện khi

chưa có y lệnh của BS thì quan điểm khôngbao giờ báo cáo rất cao, tương ứng đến

51,7%; 63,2%; 51,7%; 65,4%. Quan điểm không thường xuyên báo cáo đối với các

sự cố tai biến do phẫu thuật, phản ứng phụ do điều trị, bệnh nhân tử vong chiếm tỉ

lệ rất cao, tương ứng 50,6%; 51,1%; 41,4%.

Như vậy, đối với sự cố đặc biệt nghiêm trọng, quan điểm luôn luôn báo cáo

còn rất thấp, khuynh hướng không báo cáo, hoặc không thường xuyên báo cáo

chiếm ưu thế. Điều này cho thấy nhân viên y tế còn e ngại tham gia báo cáo sự cố

nghiêm trọng có thể nghĩ mình không được quyền báo cáo và/hoặc sợ bị trừng phạt

Bảng 4.7: Niềm tin về sự cố đặc biệt nghiêm trọng

Sự cố

Không bao giờ

Không thường xuyên

Thường xuyên

Luôn luôn

Phẫu thuật nhằm vị trí (N=269)

139 (51,7)

47 (17,5)

26 (9,7)

57 (21,2)

Tai biến do phẫu thuật (N=269)

45 (16,7)

136 (50,6)

30 (11,2)

58 (21,6)

Phản ứng phụ do điều trị (N=268)

41 (15,3)

137 (51,1)

40 (14,9)

50 (18,7)

Bệnh nhân tử vong (N=266)

62 (23,3)

110 (41,4)

16 (6,0)

78 (29,3)

170 (63,2)

15 (5,6)

11 (4,1)

73 (27,1)

Bệnh nhân ngã dẫn đến tử vong hoặc mất chức năng vĩnh viễn (N=269)

138 (51,7)

44 (16,5)

26 (9,7)

59 (22,1)

Bệnh nhân bỏng nước khi rửa ổ bụng (N=267)

176(65,4)

14 (5,2)

24(8,9)

55 (20,5)

HS/ĐD cho bệnh nhân xuất viện khi chưa có y lệnh của BS (N=269)

nên không báo cáo.

4.11.1.4 Niềm tin chung

42

Quan điểm chung về báo cáo sự cố được chia làm hai nhóm, nhóm có quan

điểm đúng và nhóm có quan điểm chưa đúng. Những quan điểm được cho là đúng

khi trả lời thường xuyên hoặc luôn luôn, mỗi quan điểm đúng được cho 1 điểm.

Tổng số điểm đánh giá chung là 26 điểm, trong đó quan điểm đúng có tổng điểm là

≥ 20 điểm (≥75%) và quan điểm chưa đúngcó tổng điểm là≤19 điểm (<75%). Tổng

số điểm đánh giá chung của sự cố suýt xảy ra là 8 với quan điểm đúng có số điểm ≥

6 điểm, và chưa đúng có số điểm ≤ 5 điểm. Tổng số điểm đánh giá chung của sự cố

sai biệt là 11, trong đó quan điểm đúng khi có số điểm ≥ 9 điểm, chưa đúng khi có

số điểm ≤ 8 điểm. Tổng số điểm đánh giá chung của sự cố đặc biệt nghiêm trọng là

7 với quan điểm đúng khi có số điểm ≥ 6 điểm, và chưa đúng khi có số điểm ≤ 5

Biểu đồ 4.11: Niềm tin báo cáo sự cố chung

90

83.4

79.9

78.4

80

72.3

70

60

50

40

27.7

30

21.6

20.1

16.6

20

10

0

Sự cố suýt xãy ra

Sự cố do sai biệt

Sự cố chung

Sự cố đặc biệt nghiêm trọng

Quan điểm đúng

Quan điểm chưa đúng

điểm.

Như vậy, quan điểm về báo cáo sự cố hầu như chưa đúng ở các nhóm sự cố,

khi sự cố xảy ra hầu hết nhân viên cho rằng nên báo cáo ở mức độ thấp, quan điểm

đúng cao nhất ở nhóm sự cố đặc biệt nghiêm trọng chỉ chiếm 27,6%, thấp nhất là

nhóm sai biệt chiếm tỉ lệ 16,6%.

43

4.2 PHÂN TÍCH MỐI LIÊN QUAN VỚI DỰ ĐỊNH HÀNH VI BÁO CÁO SỰ

CỐ

Để phân tích mối tương quan tác giả sử dụng phép kiểm chi bình phương,

test chính xác Fisher và hệ số tương quan để đo độ kết hợp. Tác giả kiểm tra vọng

trị giữa các biến độc lập và phụ thuộc để lựa chọn phép kiểm phù hợp. Trên 20%

giá trị vọng trị < 5,tác giả dùng phép kiểm Fisher, dưới 20% giá trị vọng trị < 5 tác

giả dùng phép kiểm chi bình phương.

4.2.1 Phân tích mối liên quan về hành vi báo cáo sự cố giữa các nhóm kiến thức

Qua bảng thống kê tác giả nhận thấy hành vi đúng ở nhóm có kiến thức đúng

thấp hơn nhóm có kiến thức chưa đúng, tuy nhiên sự khác biệt này không có ý

nghĩa thống kê (p > 0,05) ở mức ý nghĩa 95%. Như vậy không có sự khác biệt về

hành vi giữa các nhóm kiến thức.

Trong các nghiên cứu về kiến thức và hành vi, đa số kiến thức đúng thì sẽ có

hành vi đúng. Ở nghiên cứu yếu tố tác động đến báo cáo sự cố không có sự khác

biệt giữa nhóm hành vi và kiến thức, điều này có thể do báo cáo sự cố là một phạm

trù còn mới với nhân viên y tế. Nhân viên y tế càng được cung cấp nhiều kiến thức

càng do dự, chưa mạnh dạn trong hành động. Đây là yếu tố quan trọng cần chú ý

Bảng 4.8: Mối liên quan giữa kiến thức chung với hành vi

trong công tác nâng cao nhận thức của nhân viên y tế trong báo cáo sự cố.

HV chưa đúng HV đúng OR (KTC 95%) P

KT chưa đúng 174 (79,1) 46 (20,9) 0,95 0,908

(0,298-2,56) KT đúng 24 (80) 6 (20)

Tổng 198 (79,2) 50 (20,8)

44

Bảng 4.9: Mối liên quan giữa thái độ chung về hệ thống báo cáo với hành vi

4.2.2 Phân tích mối liên quan giữa hành vi báo cáo sự cố và thái độ chung về hệ thống báo cáo sự cố

HV chưa đúng HV đúng OR (KTC 95%) P

TĐ chưa tích cực 73 (88) 10 (12) 2,4 0,016

(1,1 – 5,7) TĐ tích cực 132 (75) 44 (25)

205 (79,2) 54 (20,8) Tổng

Giá trị P = 0,016 <0,05, vậy hành vi đúng ở nhóm có thái độ tích cực về hệ

thống báo cáo sự cố cao hơn 2,4 lần nhóm có thái độ chưa tích cực. Kết quả nghiên

cứu chứng minh nhân viên y tế có thái độ đúng về báo cáo sự cố sẽ có hành vi đúng.

Mối quan hệ này có ý nghĩa thống kê. Như vậy, khi nhân viên y tế nhìn nhận rằng

báo cáo sự cố trong bệnh viện mang lại lợi ích trong việc cải thiện chăm sóc, điều

trị cho bệnh nhân thì nhân viên y tế sẽ có hành vi đúng về báo cáo sự cố và thường

xuyên báo cáo sự cố. Họ sẽ không còn tâm lý e dè, sợ bị phán xét, hay trừng phạt

khi tham gia báo cáo sự cố trong bệnh viện.

Bảng 4.10Mối liên quan thái độ lo sợ chung với hành vi

4.2.3 Phân tích mối liên quan về hành vi báo cáo sự cố với thái độ lo sợ chung

HV chưa đúng HV đúng OR (KTC 95%) P

TĐ chưa tích cực 136 (85) 24 (15) 2,3 0,006

(1,2 – 4,4) TĐ tích cực 74 (71,2) 30 (28,8)

210 (79,6) 54 (20,4) Tổng

Qua kết quả phân tích cho thấy thái độ lo sợ của bản thân có ảnh hưởng đến

hành vi báo cáo sự cố, với p=0,006 giả thuyết hành vi giữa các nhóm thái độ như

nhau bị bác bỏ. Hành vi đúng ở nhóm có thái độ tích cực cao hơn 2,3 lần hành vi

đúng ở nhóm chưa có thái độ tích cực và mối tương quan này có ý nghĩa thống kê.

Số liệu thống kê cho thấy nhân viên y tế không có thái độ lo sợ khi báo cáo sự cố

trong bệnh viện. Họ nhận thức đúng rằng báo cáo sự cố mang lại lợi ích tốt trong cải

45

thiện chất lượng chăm sóc, điều trị cho bệnh nhân, cải thiện chất lượng bệnh viện,

nâng cao vai trò của nhân viên y tế trong bệnh viện. Đây là yếu tố cần quan tâm và

phát huy của lãnh đạo bệnh viện, lãnh đạo Khoa/Phòng nhằm nâng cao chất lượng

báo cáo sự cố trong bệnh viện, có như thế quản lý chất lượng bệnh viện mới thật sự

hiệu quả.

Bảng 4.11: Mối liên quan giữa hành vi báo cáo với niềm tin báo cáo sự cố

4.2.4 Phân tích mối liên quan giữa hành vi báo cáo với niềm tin báo cáo sự cố

HV chưa đúng HV đúng OR (KTC 95%) P

Niềm tin chưa đúng 159 (82,4) 31 (17,62) 2,5 (1,1-5,2) 0,009

Niềm tin đúng 32 (65,3) 17 (34,7)

Những người có niềm tin đúng, có hành vi đúng cao hơn 2,5 lần những người

có niềm tin chưa đúng, sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê với p=0,009. Đây cũng

là một yếu tố quan trọng, cần quan tâm khi muốn quản lý chất lượng bệnh viện tốt.

Thực tế trong bệnh viện, đối với một số sự cố, nhân viên y tế có niềm tinbáo cáo các

sự cố nhỏ, sự cố không quan trọng, mức độ tác động của sự cố lên người bệnh nhẹ,

do đó họ không báo cáo hoặc báo cáo hời hợt. Nguyên nhân có thể do nhân viên y

tế chưa được cung cấp đủ kiến thức; hoặc chưa được định hướng có quan điểm

đúng đắn, từ đây cho thấy cần có những nghiên cứu sâu hơn với số mẫu lớn hơn để

phân tích rõ ràng, chi tiết nhằm nâng cao quan điểm của nhân viên y tế về sự cố cần

báo cáo, nhằm có hành vi báo cáo đúng. Vì theo nguyên tắc Heinrich (1950), cứ 300

sự cố suýt xảy ra hoặc những yếu tố nguy cơ tiềm ẩn, sẽ có 29 sự cố sai biệt tác

động đến người bệnh và sẽ dẫn đến 1 sự cố đặc biệt nghiêm trọng ảnh hưởng tính

mạng của người bệnh. Do vậy, nhận thức được những sự cố suýt xảy ra sẽ góp phần

rất lớn trong công tác an toàn người bệnh.

4.2.5 Phân tích mối liên quan về hành vi báo cáo với đặc tính mẫu nghiên cứu

Để phân tích mối tương quan về hành vi báo cáo sự cố với đặc tính mẫu nghiên

cứu, ở nhóm chuyên môn tác giả sử dụng nhóm bác sĩ để làm nhóm so sánh, ở

46

nhóm chức vụ chúng tôi sử dụng nhóm bác sĩ trưởng, phó khoa để tham chiếu. Số

liệu cho thấy các giá trị p giữa các đặc tính của mẫu nghiên cứu đều lớn hơn 0,05 do

đó không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về hành vi báo cáo sự cố với đặc tính

Bảng 4.12: Mối liên quan giữa các đặc tính mẫu nghiên cứu với hành vi

Đặc tính

Hành vi đúng

Hành vi

OR

p

Tần số

chưa đúng

KTC 95%

Giới tính

0,64(0,26-1,7)

0,2

9 (28,1)

23 (71,9)

32

Nam

47 (19,9)

189 (80,1)

236

Nữ

Chức danh nghề nghiệp

BS

24

5 (20,8)

19 (79,17)

NHS/ĐD

160

32 (20,0)

128 (80,0)

0,95

0,92

12 (23,1)

40 (76,9)

1,14

0,84

52

KTV

6 (23,1)

20 (76,9)

1,14

0,19

26

HL

1 (16,7)

5 (83,3)

0,76

0,82

6

Khác

Thâm niên công tác

83

17 (20,8)

66 (79,5) 1,04 (0,53-2,1)

0,91

< 5 năm

185

39 (21,1)

146 (78,9)

≥ 5 năm

Chức vụ

Trưởng phó khoa

10

6(60,0)

4(40,0) 0,3 (0,08-1,9)

Nhân viên

206

206(79,8)

52(20,2)

0,13

mẫu nghiên cứu ở mức ý nghĩa 95%.

Về giới tính, nam báo cáo sự cố chỉ bằng 36% so với nữ, mối quan hệ này

không có ý nghĩa thống kê với p=0,2. Dù vậy, điều này phù hợp với đặc điểm giới

tính. Nữ thường quan tâm đến mọi việc xung quanh hơn, quan sát nhiều hơn và có

thể sẽ báo cáo sự cố tốt hơn. Về chức danh nghề nghiệp, nhóm bác sĩ tham gia báo

47

cáo sự cố gấp 0,9; 1,14; 1,14; 0,76 so với nhóm tương ứng NHS/ ĐD; KTV; HL;

nhân viên khác. Tuy nhiên mối quan hệ này không có ý nghĩa thống kê. Dù vậy, kết

quả nghiên cứu cũng chỉ rõ nhóm NHS/ĐD là nhóm có báo cáo sự cố tốt và thường

xuyên. Điều này có thể được giải thích rằng nhóm NHS/ĐD là nhóm chiếm tỉ lệ

đông trong bệnh viện, thời gian tiếp xúc bệnh nhân nhiều hơn do đó họ quan sát, ghi

nhận và báo cáo sự cố nhiều hơn. Và đây cũng là nhóm cần quan tâm, tác động để

nâng cao chất lượng bệnh viện bên cạnh nhóm bác sĩ và các nhóm nhân viên còn

lại.

Nhân viên có thâm niên công tác dưới 5 năm báo cáo sự cố cao hơn1,04 lần

so với nhân viên công tác từ trên 5 năm, sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê với

p=0,9. Yếu tố này gợi ý có phải nhân viên lâu năm, không còn phản ứng với các sự

cố, hoặc cho rằng sự cố sai biệt hay suýt xảy ra, hay sự cố lặp đi lặp lại, không được

cải thiện nên không tham gia báo cáo. Nghiên cứu gợi ý cần quan tâm nâng cao

nhận thức nhóm nhân viên lâu năm tham gia báo cáo sự cố, vì nếu những nhân viên

này báo cáo sẽ rất hữu ích trong quản lý chất lượng bệnh viện.

Về chức vụ quản lý trong bệnh viện, nhóm trưởng/phó khoa/phòng báo cáo

sự cố cao gấp 0,25; 0,5 lần so với nhóm tương ứng NHS/ĐD trưởng/phó khoa; và

nhóm nhân viên. Sự khác biệt này cũng không có ý nghĩa thống kê với p=0,17; 0,6.

Tương tự đặc điểm thâm niên công tác, trong nhóm chức vụ, quản lý bệnh viện cần

quan tâm nhóm NHS/ĐD trưởng/phó khoa, các nhân viên trong bệnh viện vì đây là

nhóm số lượng đông, hoạt động tiếp xúc bệnh nhân thường xuyên, và liên tục nên

sẽ báo cáo chất lượng và số lượng.

4.3 PHÂN TÍCH MỐI LIÊN QUAN VỚI TẦN SUẤT BÁO CÁO SỰ CỐ

Trong phần này chúng tôi sẽ tiến hành phân tích các mối liên quan giữa kiến

thức chung, thái độ, niềm tin, dự định hành vi báo cáo và các đặc tính của mẫu với

tần suất báo cáo sự cố.

48

Bảng 4.13: Mối liên quan giữa kiến thức chung với tần suất báo cáo

4.3.1 Phân tích mối liên quan giữa tần suất báo cáo sự cố và kiến thức chung về hệ thống báo cáo sự cố

Không báo cáo Có báo cáo OR (KTC 95%) P

KT chưa đúng 145 (65,3) 77 (34,7) 3,3 (1,4 – 7,9) 0,002

KT đúng 11 (36,7) 19 (63,3)

156 (61,9) 96 (38,1) Tổng

Qua bảng thống kê cho thấy nhóm có kiến thức đúng báo cáo cao hơn 3,3 lần

nhóm có kiến thức chưa đúng, sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê (p < 0,05) ở

mức ý nghĩa 95%. Người có kiến thức về qui trình quản lý sự cố biết được báo cáo

cái gì, cho ai, ở đâu, khi nào báo cáo và báo cáo rất cần thiết để cải thiện chăm sóc

người bệnh. Mối liên quan này hoàn toàn phù hợp tài liệu đào tạo về báo cáo sự cố.

Nhân viên y tế có kiến thức đúng về báo cáo sự cố sẽ thường báo cáo hơn. Do đó,

việc cung cấp kiến thức cho nhân viên y tế là điều tiên quyết.

Bảng 4.14: Mối liên quan giữa tần suất báo cáo sự cố và thái độ chung về hệ thống báo cáo

4.3.2 Phân tích mối lien quan giữa tần suất báo cáo sự cố và thái độ chung về hệ thống báo cáo

Không báo cáo Có báo cáo OR (KTC 95%) P

TĐ chưa đúng 52 (62,7) 31 (37,4) 1,2 0,5

(0,7 – 2,1) TĐ đúng 104 (58,8) 73 (41,2)

156 (60) 104 (40) Tổng

Qua bảng 4.14 ta thấy các giá trị p giữa hai nhóm thái độ đúng và thái độ chưa

đúng lớn hơn 0,05 do đó chấp nhận giả thuyết. Có thể nói rằng không có sự khác

biệt có ý nghĩa thống kê về tần suất báo cáo sự cố giữa hai nhóm thái độ về qui trình

ở mức ý nghĩa 95%.

Có thể nghiên cứu của chúng tôi chỉ nêu về tần suất báo cáo, nhưng chưa có so

sánh giữa tần suất báo cáo và chất lượng báo cáo trong biến số thái độ về báo cáo sự

49

cố của nhân viên y tế, nên có thể nhân viên y tế có thái độ đúng về báo cáo sự cố sẽ

có chọn lọc sự cố, quyết định báo cáo ai, báo cáo thời điểm nào để mang lại hiệu

quả cải thiện quản lý chất lượng bệnh viện cao nhất nên tần số báo cáo có thấp hơn

nhóm nhân viên có thái độ chưa đúng về báo cáo sự cố. Cần có nghiên cứu sâu hơn

mối tương quan giữa tần suất và chất lượng các báo cáo sự cố trong các nhóm nhân

viên y tế có kiến thức đúng, thái độ đúng và hành vi đúng.

Bảng 4.15: Mối liên quan giữa tần suất báo cáo sự cố và thái độ lo sợ chung

4.3.3 Phân tích mối liên quan giữa tần suất báo cáo sự cố và thái độ lo sợ chung

Không báo cáo Có báo cáo OR (KTC 95%) P

TĐ chưa đúng 107 (66,0) 55 (34,0) 1,7 (1,0 – 2,9) 0,03

TĐ đúng 54 (52,9) 48 (47,1)

161 (61,0) 103 (39,0) Tổng

Với p= 0,03 nhỏ hơn 0,05, nhân viên y tế cảm thấy lo sợ đã từng báo cáo sự cố

cao gấp 1,7 lần nhân viênkhông lo sợ khi phải báo cáo. Điều này cũng đúng vì khi

sợ người ta sẽ tăng cường báo cáo để được hỗ trợ, để được giúp giải quyết vấn đề.

Tuy nhiên cần có nghiên cứu phân tích sâu về tần suất báo cáo và chất lượng báo

cáo. Và đồng thời nâng cao nhận thức nhân viên y tế, giúp nhân viên y tế có thái độ

đúng về nỗi lo sợ của bản thân khi báo cáo sự cố; báo cáo sự cố góp phần nâng cao

chất lượng quản lý bệnh viện chứ không phải trừng phạt một cá nhân nào cả.

Bảng 4.16: Mối liên quan giữa tần suất báo cáo sự cố và niềm tin báo cáo chung

4.3.4 Phân tích mối liên quan giữatần suất báo cáo sự cố và niềm tin báo cáo chung

Không báo cáo Có báo cáo OR (KTC 95%) P

Niềm tin chưa 124 (63,9) 70 (36,1) 1,9 (1-3,8) 0,04

đúng

Niềm tin đúng 23 (47,9) 25 (52,1)

147 (60,7%) 95 (39,3)

Tổng

50

Kết quả thống kê cho thấy những người có quan điểm chưa đúng về báo cáo sự

cố đã từng tham gia báo cáo cao gấp 1,9 lần những người có quan điểm đúng và sự

khác biệt này có ý nghĩa thống kê, với p = 0,04.

Tương tự như trên, có thể nghiên cứu của chúng tôi chỉ nêu về tần suất báo

cáo, nhưng chưa có so sánh giữa tần suất báo cáo và chất lượng báo cáo, nên có thể

nhân viên y tế có quan điểm đúng về báo cáo sự cố sẽ có chọn lọc sự cố, quyết định

báo cáo ai, báo cáo thời điểm nào để mang lại hiệu quả cải thiện quản lý chất lượng

bệnh viện cao nhất nên tần số báo cáo có thấp hơn nhóm nhân viên có quan điểm

chưa đúng về báo cáo sự cố.

Cần có nghiên cứu sâu hơn mối tương quan giữa tần suất và chất lượng các báo

cáo sự cố trong các nhóm nhân viên y tế có kiến thức đúng, thái độ đúng và hành vi

đúng. Bước đầu, trong quản lý bệnh viện, nhân viên tham gia báo cáo sự cố là rất

tốt, tuy nhiên để quản lý bệnh viện chất lượng cần quan tâm đẩy mạnh chất lượng

của các báo cáo sự cố để công tác quản lý đạt hiệu quả cao nhất.

Bảng 4.17: Mối liên quan giữa tần suất báo cáo sự cố và đặc tính mẫu nghiên cứu

Không báo

OR

Đặc tính

Tần số

Có báo cáo

p

cáo

KTC 95%

Giới tính

Nam

32

10 (31,3)

22 (68,8)

1,47(0,6-3,6)

0,34

Nữ

237

95 (40,1)

142(59,9)

Chức danh nghề nghiệp

BS

24

14(58,3)

10(41,7)

NHS/ĐD

162

58(35,8)

104 (64,2)

0,4(0,2-0,9)

0,04

KTV

52

20 (38,5)

32(61,5)

0,5(0,2-1,2)

0,11

HL

25

11(44,0)

14(56,0)

0,6 (0,2-1,7)

0,32

Khác

6

2(33,3)

4 (66,7)

0,4 (0,5-2,3)

0,28

4.3.5 Phân tích mối liên quan giữa tần suất báo cáo sự cố và đặc tính mẫu nghiên cứu

Thâm niên công tác tại Bệnh viện

< 5 năm

84

32(38,1)

52(61,9)

1,06(0,6-1,87)

0,83

≥ 5 năm

185

73 (39,5)

112(60,5)

Chức vụ

Trưởng

10

7 (70)

0,04

3 (30) 0,3 (0,04-1,18)

phó khoa

Nhân viên

259

98 (37,8)

161(62,2)

51

Về giới tính, nam có tần suất báo cáo sự cố cao hơn1,47 lần so với nữ. Sự

khác biệt này không có ý nghĩa thống kê với p=0,34. Tần suất báo cáo sự cố không

khác biệt có ý nghĩa giữa nam và nữ. Tuy nhiên, cần có nghiên cứu với số mẫu lớn,

cân bằng tỉ lệ nam - nữ để làm rõ mối quan hệ này. Về chức danh nghề nghiệp,

nhóm bác sĩ tham gia báo cáo sự cố gấp 0,4; 0,5; 0,6; 0,4 so với nhóm tương ứng

NHS/ĐD; KTV; HL; nhân viên khác với p tương ứng là 0,04; 0,11; 0,32; 0,28. Như

vậy, so với các bác sĩ, chỉ có nhóm NHS/ĐD có tần suất báo cáo sự cố thấp và có ý

nghĩa thống kê. Điều này không phù hợp thực tế bệnh viện Từ Dũ, nhóm NHS/ĐD

là nhóm có số lượng đông nhất, tiếp cận chăm sóc bệnh nhân thường xuyên nhất,

nên khả năng quan sát sự cố và báo cáo sự cố là cao nhất. Đây cũng là nhóm cần

quan tâm, tác động để nâng cao chất lượng bệnh viện bên cạnh nhóm bác sĩ và các

nhóm nhân viên còn lại, có sự không phù hợp này có thể do nhân viên không nhớ

hoặc quên đã từng báo cáo.

Về thâm niên công tác, nhân viên có thâm niên công tác dưới 5 năm có tần

suất báo cáo sự cố gấp 1.06 lần so với nhân viên công tác từ trên 5 năm. Sự khác

biệt này không có ý nghĩa thống kê với p=0,83. Yếu tố này gợi ý có phải nhân viên

lâu năm, không còn phản ứng với các sự cố, hoặc cho rằng sự cố nhỏ, hoặc cho rằng

sự cố quen thuộc, không được cải thiện nên không tham gia báo cáo. Nghiên cứu

gợi ý cần quan tâm nâng cao nhận thức nhóm nhân viên lâu năm tham gia báo cáo

52

sự cố, vì nếu những nhân viên này báo cáo thì sẽ rất hữu ích trong quản lý chất

lượng bệnh viện.

Về chức vụ quản lý trong bệnh viện, nhóm trưởng/phó khoa/phòng có tần

suất báo cáo sự cố gấp 5; 0,61 lần so với nhóm tương ứng NHS/ĐD trưởng/phó

khoa và nhóm nhân viên, và sự khác biệt này cũng không có ý nghĩa thống kê với

p=0,28; và 0,62. Tương tự đặc điểm thâm niên công tác, nhóm chức vụ, quản lý

bệnh viện cần quan tâm tác động nhóm NHS/ĐD trưởng/phó khoa, và các nhân viên

trong bệnh viện vì đây là nhóm số lượng đông, hoạt động tiếp xúc bệnh nhân

thường xuyên, và liên tục nên sẽ có báo cáo chất lượng và số lượng.

4.4 Phân tích mối liên hệ giữa kiến thức chung, thái độ chung về qui trình, thái

độ lo sợ chung, niềm tin chung về báo cáo sự cố với đặc tính mẫu nghiên cứu

Bảng 4.18: Mối liên quan giữa kiến thức chung và đặc tính mẫu nghiên cứu

Đặc tính

Tần số

Chưa có KT

Có KT

p

OR KTC 95%

Giới tính

Nam

28

25 (89,3)

3 (10,7)

1,1 (0,3-6,3)

0,8

Nữ

224

197 (88,9)

27 (12,1)

Chức danh nghề nghiệp

BS

20

15 (75)

5 (25)

1

NHS/ĐD

150

137 (91,3)

13 (8,7)

0,3 (0,09-0,9)

0,03

KTV

51

43 (84,3)

8 (15,7)

0,5 (0,1-1,9)

0,4

HL

25

22 (88)

3 (12)

0,4 (0,08-1,9)

0,3

Khác

6

5 (83,3)

1 (16,7)

0,6 (0,6-6,4)

0,6

Thâm niên công tác tại Bệnh viện

< 5 năm

80

69 (86,3)

11 (13,8)

0,5

0,8 (0,3-1,9)

≥ 5 năm

172

153 (88,9)

19 (11)

Chức vụ

8

5 (62,5)

3 (37,5)

0,02

Trưởng phó khoa

Nhân viên

244

217 (88,9)

27 (11,1)

0,2 (0,04-1,4)

4.4.1 Mối liên quan giữa kiến thức và đặc tính mẫu nghiên cứu

53

Bảng thống kê kết quả cho thấy kiến thức về hệ thống báo cáo sự cố ở nhóm

nữ hộ sinh thấp hơn BS và kết quả này của chúng tôi không phù hợp với nghiên cứu

của Evans (2006) y tá có kiến thức nhiều hơn bác sĩ có thể do qui trình mới được

triễn khai và tập huấn chủ yếu cho nhóm bác sĩ vì vậy có sự khác biệt trong nghiên

cứu. Do đó cần tập huấn và phổ biến qui trình cho nhóm NHS là lực lượng chiếm đa

số trong bệnh viện và là những người chăm sóc trực tiếp bệnh nhân góp phần nâng

cao chất lượng và số lượng báo cáo.

Với đặc tính chức vụ, nhóm Trưởng/ Phó khoa có kiến thức về hệ thống báo

cáo sự cố cao hơn nhóm nhân viên và có ý nghĩa thống kê. Có thể do qui trình mới

được triễn khai và tập huấn chủ yếu cho nhóm Trưởng/ Phó khoa- phòng vì vậy có

sự khác biệt trong nghiên cứu. Do đó cần tập huấn và phổ biến qui trình cho nhóm

nhân viên là lực lượng chiếm đa số trong bệnh viện và là những người chăm sóc

trực tiếp bệnh nhân góp phần nâng cao chất lượng và số lượng báo cáo.

Trong các đặc tính giới và thâm niên công tác tại bệnh viện cho thấy kiến thức

về hệ thống báo cáo sự cố không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê.

Bảng 4.19: Mối liên quan giữa thái độ chung về qui trình và đặc tính mẫu nghiên cứu

OR

TĐ chưa

Đặc tính

Tần số

TĐ tích cực

p

tích cực

KTC 95%

Giới tính

13 (43,3)

17 (56,7)

1,7 (0,7-4,1)

0,1

Nam

30

Nữ

232

70 (30,2)

162 (69,8)

Chức danh nghề nghiệp

BS

24

7 (29,2)

17 (70,8)

1

NHS/ĐD

159

45 (28,3)

114 (71,7)

1,0

0,9

KTV

48

21 (43,8)

27 (56,2)

0,5

0,2

HL

25

9 (36)

16 (64)

0,7

0,6

Khác

6

1 (16,7)

5 (83,3)

2,0

0,5

4.4.2 Thái độ về qui trình và đặc tính mẫu nghiên cứu

Thâm niên công tác tại Bệnh viện

24 (30)

56 (70)

0,9 (0,5-1,6)

0,7

< 5 năm

80

≥ 5 năm

182

59 (32,4)

123 (67,6)

Chức vụ

Trưởng

10

1 (10)

9 (90)

0,2 (0,01-1,7)

0,13

phó khoa

Nhân viên

252

82 (32,5)

170 (67,5)

54

Kết quả thống kê cho thấy thái độ tích cực và chưa tích cực về qui trình báo

cáo sự cố không có sự khác biệt giữa nam và nữ; các nhóm chức danh chuyên môn

khác nhau, thâm niên cống tác cũng như chức vụ.

Bảng 4.20: Mối liên quan giữa thái độ lo sợ chung và đặc tính mẫu nghiên cứu

Đặc tính

Tần

TĐ chưa tích

TĐ tích cực

OR

p

số

cực

KTC 95%

Giới tính

16 (51,6)

15 (48,4)

0,6 (0,3-1,5)

0,25

31

Nam

146 (62,1)

89 (37,9)

235

Nữ

Chức danh nghề nghiệp

23

11 (47,8)

12 (52,2)

1

BS

161

95 (59)

66 (41,0)

0,6

0,3

NHS/ĐD

50

37 (74)

13 (26)

0,3

0,03

KTV

26

15 (57,7)

11 (42,3)

0,7

0,5

HL

6

4 (66,7)

2 (33,3)

0,4

0,4

Khác

Thâm niên công tác tại Bệnh viện

82

52 (63,4)

30 (36,6)

1,2 (0,7-2)

0,6

< 5 năm

184

110 (59,8)

74 (40,2)

≥ 5 năm

Chức vụ

Trưởng phó khoa

9

0 (0)

0,00

9 (100)

Nhân viên

257

162 (63,0)

0,3 (0,3-0,4)

95 (37)

4.4.3 Thái độ lo sợ và đặc tính mẫu nghiên cứu

55

Kết quả thống kê cho thấy thái độ lo sợ và đặc tính chức danh nghề nghiệp,

nhóm KTV có thái độ lo sợ gần gấp đôi nhóm BS, mối quan hệ này có ý nghĩa

thống kê. Có thể BS có chuyên môn cao hơn nên tự tin báo cáo sự cố, không có thái

độ lo sợ như các nhóm khác.

Tương tự, kết quả thống kê cho thấy thái độ lo sợ và đặc tính chức danh nghề

nghiệp, nhóm nhân viên có thái độ lo sợ cao so với nhóm Trưởng/ Phó khoa, mối

quan hệ này có ý nghĩa thống kê. Nhân viên thì luôn có tâm lý sợ hơn với lãnh đạo.

Các đặc tính về giới, thâm niên tại Bệnh viện không có liên quan với thái độ

lo sợ khi báo cáo sự cố.

Bảng 4.21: Mối liên quan giữa niềm tin báo cáo sự cố chung và đặc tính mẫu nghiên cứu

Đặc tính

Tần số

Chưa có

Có niềm tin

OR

p

niếm tin

KTC 95%

Giới tính

24 (88,9)

3 (11,1)

2,1 (0,6-11,60

0,2

27

Nam

171 (78,8)

46 (21,2)

217

Nữ

Chức danh nghề nghiệp

14 (60,9)

9 (39,1)

23

BS

1

118 (79,2)

31 (20,8)

149

NHS/ĐD

0,4

0,06

36 (90)

4 (10)

40

KTV

0,2

0,01

21 (80,8)

5 (19,2)

26

HL

0,3

0,1

6 (100)

0 (0)

6

Khác

Thâm niên công tác tại Bệnh viện

< 5 năm

78

61 (78,2)

17 (21,8)

0,8 (0,4-1,8)

0,6

≥ 5 năm

166

134 (80,7)

32 (19,3)

Chức vụ

9

Trưởng phó

3 (33,3)

6 (66,7)

0,2 (0,04-1,4)

0,02

khoa

Nhân viên

235

192 (81,7)

43 (18,3)

4.4.4 Niềm tin về báo cáo sự cố và đặc tính mẫu nghiên cứu

56

Kết quả thống kê cho thấy nhóm BS tin rằng sẽ báo cáo khi sự cố xảy ra cao

hơn nhóm NHS, nhóm KTV, mối quan hệ này có ý nghĩa thống kê. Do đó cần tập

huấn và phổ biến qui trình cho nhóm NHS, nhóm KTV là lực lượng chiếm đa số

trong bệnh viện.

Tương tự, kết quả thống kê cho thấy nhóm Trưởng/ Phó khoa tin rằng sẽ báo

cáo khi sự cố xảy ra cao hơn nhóm nhân viên, mối quan hệ này có ý nghĩa thống kê.

Trưởng/ Phó khoa là người chịu trách nhiệm về các hoạt động của khoa, do đó niềm

tin báo cáo cũng cao hơn.

Các đặc tính về giới, thâm niên tại Bệnh viện không có liên quan với niềm

tin báo cáo khi sự cố xảy ra.

TÓM TẮT CHƯƠNG 4

Trong chương này chúng tôi đã trình bày phương pháp nghiên cứu, mô tả các

biến số và cách xử lý số liệu cụ thể của từng biến số chung bằng cách tính điểm.

Các biến số cũng được mô tả cụ thể trong chương. Phân tích đơn biến cho kết quả

biến hành vi bị ảnh hưởng bởi các biến thái độ, quan điểm về sự cố cần báo cáo.

Biến số kiến thức và các đặc điểm của mẫu như thâm niên, chuyên môn, chức vụ

không ảnh hưởng đến hành vi báo cáo. Tần suất báo cáo bị ảnh hưởng bởi kiến

thức, thái độ lo sợ và quan điểm các sự cố cần báo cáo. Kết quả cũng cho thấy nữ

hộ sinh/điều dưỡng là những người đã từng tham gia báo cáo nhiều hơn bác sĩ.

57

CHƯƠNG 5

KẾT LUẬN VÀ ĐỊNH HƯỚNG CHÍNH SÁCH

Chương kết luận và định hướng chính sách là chương tổng kết nghiên cứu,

tóm tắt nội dung được rút ra sau khi thực hiện nghiên cứu bao gồm các kết quả

nghiên cứu, bàn luận, đề xuất định hướng các giải pháp cải tiến, nâng cao chất

lượng báo cáo tại bệnh viện. Chương này cũng nêu lên những hạn chế trong nghiên

cứu và kiến nghị cho các nghiên cứu tiếp theo.

5.1 Kết luận

Trong cuộc sống hàng ngày, con người chúng ta không thể hoàn toàn dự

đoán và tránh được các thiếu sót, sai lầm. Trong y khoa cũng vậy, mặc dù công tác

chăm sóc sức khỏe cộng đồng đòi hỏi cao về độ an toàn cho người bệnh, độ chính

xác trong chẩn đoán thông tin, áp dụng đúng phương pháp điều trị, tuy vậy sự cố y

khoa thật sự không thể tránh khỏi. Hệ thống báo cáo sự cố y khoa tại các bệnh viện

được xây dựng nhằm ghi nhận lại tất cả các sự cố gặp phải để nghiên cứu, rút kinh

nghiệm và tìm giải pháp giảm thiểu đến mức thấp nhất các rủi ro do chủ quan,

khách quan, tiềm tàng và giảm nhẹ mức độ hiện hữu không thể tránh khỏi. Mặc dù

vậy, trên thực tế các rào cản về kiến thức, về thái độ hay hành vi của người báo cáo

sự cố dẫn đến hệ thống báo cáo sự cố vẫn chưa phát huy hết tác dụng của nó. Lo sợ

bị khiển trách, bị phạt, bị đổ lỗi, sợ bị kỷ luật và đồng nghiệp không thích là những

rào cản báo cáo sự cố, trong đó nhân viên quan ngại báo cáo sự cố sẽ bị kỷ luật

chiếm tỉ lệ 33%. Hầu hết nhân viên biết rằng có hệ thống báo cáo sự cố của Bệnh

viện, nhưng hơn 50% không biết nơi nào sẽ tiếp nhận báo cáo, ai phải chịu trách

nhiệm báo cáo và khi báo cáo nhân viên thường thông qua ban lãnh đạo khoa để xin

phép báo cáo. Hơn 1/2 nhân viên chưa bao giờ báo cáo sự cố. Nhóm nữ hộ sinh,

điều dưỡng báo cáo sự cố nhiều hơn bác sĩ, kết quả này nghiên cứu phù hợp với

nghiên cứu của Evans (2001-2003). Và kết quả nghiên cứu cũng cho thấy hầu hết

nhân viên đồngý hệ thống quản lý sự cố giúp cải thiện việc chăm sóc người bệnh

58

(67,2%) (thấp hơn nghiên cứu của Kaldjian 84,3%) và phòng tránh các sai sót

(65,7%). Tuy nhiên chỉ có 39% nhân viên đã từng tham gia báo cáo, gần 20% cho

rằng biểu mẫu phức tạp và những sự cố thuộc chuyên môn mới báo cáo, do đó cần

đơn giản mẫu báo cáo, định nghĩa rõ ràng, dễ hiểu hơn về sự cố.

Kết quả phân tích đơn biến với phép kiểm chi bình phương cho thấy nhóm

thái độ và hành vi có liên quan với nhau. Nhóm có thái độ tích cực về sự cố có hành

vi đúng cao gấp 2,4 lần nhóm chưa có thái độ tích cực. Những người không lo sợ

khi tham gia báo cáo hành vi đúng cao gấp 2,3 lần hành vi đúng ở nhóm có thái độ

lo sợ, tuy nhiên nhóm có thái độ tích cực về hệ thống báo cáo chỉ chiếm 31,7%

trong khi 60,9% người còn lo sợ khi tham gia báo cáo. Điều này cho thấy sự cam

kết của lãnh đạo và bảo mật thông tin người báo cáo là cần thiết. Quan niệm về

những sự cố cần báo cáo và hành vi báo cáo cũng có tương quan với nhau, những

người có quan niệm đúng sẽ có hành vi đúng cao gấp 2,5 lần những người có quan

niệm chưa đúng. Kết quả phân tích đơn biến cũng cho thấy kiến thức, thái độ lo sợ,

quan điểm về sự cố cần báo cáo và tần suất báo cáo có liên quan với nhau. Biết

những gì cần báo cáo và báo cáo như thế nào sẽ giúp nhân viên báo cáo tốt hơn.

5.2 Đề xuất giải pháp

Thái độ về hệ thống báo cáo và thái độ lo sợ của nhân viên ảnh hưởng đến

hành viên báo cáo. Do đó việc tạo dựng văn hóa an toàn, không phê phán, chỉ trích,

và thiết lập nhiều hình thức khuyến khích khen thưởng báo cáo sự cố như tuyên

dương trước khoa/phòng và bệnh viện những tập thể, cá nhân hoạt động tích cực

trong công tác báo cáo sự cố; hoặc nâng hình thức đánh giá hiệu quả công việc lên mức A+cho những cá nhân báo cáo sự cố nhiều nhất hàng tháng nhằm khuyến khích

và giảm thiểu cảm giác lo sợ hiềm khích, đổ lỗi, trừng phạt. Bệnh viện thiết lập hình

thức báo cáo nặc danh, có nhiều hòm thư tiếp nhận báo cáo đặt tại nhiều nơi trong

bệnh viện, bảo mật thông tin người báo cáo đồng thời lãnh đạo bệnh viện cam kết

tạo dựng văn hóa không trừng phạt.

Kiến thức, thái độ lo sợ là biến có ảnh hưởng đến đến tần suất báo cáo, qua

thống kê cho thấy hầu hết nhân viên chưa có kiến thức đúng về hệ thống báo cáo,

59

do đó cần tập huấn lại qui trình cho toàn thể nhân viên. Bệnh viện tổ chức tập huấn

cho từng khoa phòngvới nhiều hình thức sinh động, tạo sự chủ động cho người

tham dự nhằm tạo sự gợi nhớ, và dễ liên tưởng. Và trong các lớp tập huấn đó luôn

có sự hiện diện của thành viên ban giám đốc như một sự cam kết đồng hành, không

trừng phạt, không đổ lỗi và tạo động lực khuyến khích báo cáo sự cố.

5.3 Hạn chế và hướng mở rộng nghiên cứu

Nghiên cứu chỉ thực hiện tại hai khoa Cấp cứu chống độc và Gây mê hồi sức

chưa phản ánh mức độ toàn bệnh viện, cần có nghiên cứu lớn hơn với qui mô bệnh

viện để tìm ra các yếu tố ảnh hưởng đến báo cáo trên tất cả các đối tượng, bên cạnh

đó tác giả cũng chưa phân tích đa biến các yếu tố liên quan đến báo cáo sự cố.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tài liệu Tiếng Việt

Bộ Y tế - Dự án tăng cường chất lượng nguồn nhân lực trong khám chữa bệnh

(2014). “Tài liệu đào tạo An toàn người bệnh.”

Nguyễn Thị Mỹ Linh (2010). “Khảo sát sự cố y khoa không mong muốn của Điều

dưỡng Bệnh viện đa khoa khu vực Cai Lậy 2008-2010.” Tạp chí Y học

TP.HCM 14 (4)

Lưu Trọng Tuấn (2014). “Bài giảng môn học quản trị chất lượng cơ sở y tế”

Bệnh viện Từ Dũ (2014). “Qui trình quản lý sự cố”

Viện ngôn ngữ học (2001). “Từ điển Tiếng Việt”. Nhà xuất bả Đà Nẵng.

Nguyễn Thị Thu Hiền (2011). “Kiến thức, thái độ và hành vi của sản phụ nhiễm

HIV về dự phòng lây nhiễm HIV từ mẹ sang con.” Tạp chí Y học TP.HCM

16 (2)

Bệnh viện Từ Dũ - Phòng Quản lý chất lượng (2014). “Báo cáo 9 tháng đầu năm

2014”

Tài liệu Tiếng Anh

The Joint Commission on Accreditation of Healthcare organizations (2000). “What

Every Hospital Should Know About Sentinel Events.”

Daniel R. Levinson (2010). “Adverse Event in Hospitals: National Incidence

Among Medicare Beneficiaries”. Offic of Investigator general

Fishbein, M., Ajzen, I. (1975). Belief, attitude, intention and behavior: An

introduction to theory and research. Reading, MA: Addison – Wesley.

Ajzen, I., & Fishbein, M. (1980). Understanding attitudes and predicting social

behavior.Englewood Cliffs, NJ: PrenticeóHall.

Ajzen, I. (1991), “The Theory of Planned Behaviour”, Organization Behaviour and

Human Decision Processes, 50, 179-211.

Ajzen, I. (1985). From intentions to actions: A theory of planned behavior. In J.

Kuhi & J.Beckmann (Eds.), Actionócontrol: From cognition to behavior (pp.

11-39). Heidelberg: Springer.

World Health Organization, Executive Board 109th session, provisional agenda

item 3.4. (2001)

Runciman B, M. A., Walton M. (2007). Safety and ethics in health care: a guide to

getting it right.

Reason JT, Carthey J. (2001). Diagnosing “vulnerable system syndrome’: an

essential prerequisite to effective risk management. Quality in Health Care

2001; 10 (Suppl II): ii21-ii25.

Institute of Medicine. (1999). To err is human: building a safety health

system. Washington, DC: National Academy Press.

Madsen MD1, Ostergaard D, et al. (2006). “The attitude of doctors and nurses

towards reporting and handling errors and adverse events.” Ugeskrift laeger

168 (48): 4195-200.

Kingston MJ1, Evans SM, et al. (2004). “Attitudes of doctors and nurses towards

incident reporting: a qualitative analysis.” The Medical Journal of Australia

181 (1): 38-9.

Vincent C1, Stanhope N, et al. (1999). “Reasons for not reporting adverse incidents:

an empirical study.” Journal of evaluation in clinical practice 5 (1); 13-21

Stanhope N1, Crowley-Murphy M, et al. (1999). “Reasons for not reporting adverse

incidents: an empirical study.” Journal of evaluation in clinical practice 5 (1):

13-21

Kaldjian LC1, Jones EW, et al. (2008). “Reporting medical errors to improve

patient safety: a survey of physicians in teaching hospitals.” Archives of

internal Medicine 168 (1): 40-6.

Jee-In Hwang, P., M. Sang-IL Lee, PhD, et al. (2012). “Barriers to the Operation of

Patient Safety Incident Reporting Systems in Korean General Hospitals.”

Healthcare Informatics Research 18 (4): 279-286.

Albert W Wu (2000). “Medical error: the second victim: The doctor who makes the

mistake needs help too.”

http://www.ncbi.nlm.nih.gov/pmc/articles/PMC1117748/320(7237):726-727

Adriana Parrella, Annette Braunack-Mayer et al (2013). "Healthcare providers’

knowledge, experience and challenges of reporting adverse events following

immunisation: a qualitative study." BMC Health Serv Res. 2013; 13: 313

Evans, M., S., et al (2001-2003). "Attitudes and barriers to incident reporting : a

collaborative hospital study."

http://www.ncbi.nlm.nih.gov/pmc/articles/PMC2563993/#__ffn_sectitle

Heinrich, H.W. (1950). Industrial Accideent Prevention – A Scientific Approach,

3rd Edition.

PHỤ LỤC BẢNG CÂU HỎI KHẢO SÁT

Mã số nghiên cứu: ………………………..

Ngày khảo sát: ..………………………

Mục tiêu khảo sát: Nhằm thăm dò ý kiến của Anh/Chị về các vấn đề liên

quan đến báo cáo sự cố tại Bệnh viện làm cơ sở cải tiến nâng cao chất lượng báo

cáo sự cố và an toàn cho người bệnh. Các số liệu trong việc nghiên cứu này chỉ sử

dụng cho nghiên cứu khoa học và hoàn toàn được giữ bí mật thông tin mà anh chị

cung cấp. Anh chị vui lòng đánh dấu X vào 1 ô thích hợp.

A. THÔNG TIN CÁ NHÂN

1. Giới tính:

1. Nam  2. Nữ

2. Công việc chính của Anh/Chị tại khoa là:

 1. Bác sĩ  4. Dược sĩ

 2. Điều dưỡng  5. Hộ lý

 3. Kỹ thuật viên  6. Khác

3. Thời gian Anh/Chị đã làm việc tại Bệnh viện Từ Dũ

 1. < 1 năm  4. từ 10-15 năm

 2. từ 1 - 5 năm  5. từ 15 -20 năm

 3. từ 5 -10 năm  6. ≥ 20 năm

4. Anh/chị giữ chức vụ gì tại Khoa (khoa hiện công tác)

 1. Trưởng/ phó khoa  3. Nhân viên

 2. NHS/ĐD trưởng/phó khoa

B. Ý KIẾN VỀ BÁO CÁO SỰ CỐ

5. Theo anh chị sự cố là gì?

1. Sai sót xảy ra trong quá trình chăm sóc bệnh nhân (sai sót kê đơn, điều trị)

2. Các sai sót chuyên môn có ảnh hưởng đến người bệnh

3. Bao gồm tất cả các sự việc xảy ra khác với các hoạt động bình thường của

bệnh viện

4. Không biết

6. Khi có sự cố xảy ra cần báo cáo cho ai?

 4. Tổ chức cán bộ

 2. Hành chánh quản trị

 5. Quản lý chất lượng

 3. Điều dưỡng

6. Khác (ghi rõ)…………

 1. Kế hoạch tổng hợp

7. Mục đích của báo cáo sự cố?

1. Tìm ra người chịu trách nhiệm cho sự cố

2. Cải thiện hệ thống chăm sóc sức khỏe

3. Tránh sự cố lặp lại ở các khoa/phòng khác

4. Cả câu 2 & 3 đều đúng

8. Trình tự báo cáo sự cố tại Khoa/phòng anh chị như thế nào?

1. Phải thông qua Ban chủ nhiệm khoa/phòng

2. Viết phiếu báo cáo sự cố và gởi về Phòng Quản lý chất lượng

3. Trước tiên thông qua Ban chủ nhiệm khoa/phòng, viết phiếu báo cáo sự cố và

gởi về Phòng Quản lý chất lượng

4. Không biết

9. Ai là người chịu trách nhiệm báo cáo sự cố trong khoa/phòng anh/chị?

1. Trưởng phó khoa/phòng

2. NHS trưởng phó khoa/phòng

3. Người gây ra sự cố

4. Bất kỳ người nào biết về sự cố

5. Không biết

Ý kiến

Hoàn

Đồng

Không

Không

Hoàn

ý

ý kiến

đồng ý

toàn

toàn

không

đồng

đồng ý

ý

10. Không có trách nhiệm báo cáo

2

3

5

4

1

11. Biểu mẫu quá phức tạp

2

3

5

4

1

12. Báo cáo sự cố không thay đổi

1

2

3

5

4

được gì

13. Báo cáo sự cố giúp phòng tránh

1

2

3

5

4

sai sót tốt hơn

14. Lo lắng bị đổ lỗi

1

2

3

5

4

15. Đồng nghiệp không thích

1

2

3

5

4

16. Không muốn gặp rắc rối

1

2

3

5

4

17. Lo lắng bị kỷ luật

1

2

3

5

4

18. Báo cáo sự cố giúp học tập kinh

1

2

3

5

4

nghiệm giữa các đồng nghiệp tốt hơn

19. Không muốn bị đưa ra trong

1

2

3

5

4

cuộc họp

20. Lo lắng bị để ý

1

2

3

5

4

21. Báo cáo chỉ là thêm việc

1

2

3

5

4

22. Báo cáo giúp cải thiện việc chăm

1

2

3

5

4

sóc người bệnh

23.Trưởng/phó khoa không cho phép

1

2

3

5

4

báo cáo

24. Mất thời gian để báo cáo sự cố

1

2

3

5

4

25. Sự cố thuộc chuyên môn mới

1

2

3

5

4

báo cáo

Anh/Chị nghĩ như thế nào về việc báo cáo sự cố:

Luôn luôn

Sự cố

Thường xuyên

Không bao giờ

Không thường xuyên

1

2

3

4

26. Nhầm bệnh nhân nhưng phát hiện kịp thời

1

2

3

4

27. Phát thuốc sai nhưng phát hiện kịp

1

2

3

4

28. Thiết bị đang sử dụng không an toàn/không hoạt động

1

2

3

4

29. Chẩn đoán sai bệnh nhưng phát biện kịp thời

1

2

3

4

30. Nhân viên bị kim đâm

1

2

3

4

31. Bệnh nhân té ngã trong bệnh viện nhưng chưa gây hậu quả nghiêm trọng

1

2

3

4

32. Hút thuốc trong khu vực nghiêm cấm

1

2

3

4

33. Quên gạc, dụng cụ trong phẫu thuật nhưng phát hiện kịp thời

1

2

3

4

34. Chậm làm xét nghiệm

1

2

3

4

35. Chậm trả kết quả xét nghiệm

1

2

3

4

36. Nhiễm trùng

1

2

3

4

37. Loét do nằm lâu

1

2

3

4

38. Phẫu thuật nhầm vị trí

1

2

3

4

39. Tai biến do phẫu thuật

Theo Anh/Chị nếu các sự cố sau đây xảy ra, anh chị sẽ báo cáo với mức độ nào?

1

2

3

4

40. Phản ứng phụ do điều trị

1

2

3

4

41. Bệnh nhân tử vong

1

2

3

4

42. Bệnh nhân ngã dẫn đến tử vong hoặc mất chức năng vĩnh viễn

1

2

3

4

43. Ngã cây xanh

1

2

3

4

44. Bệnh nhân bỏng nước khi rửa ổ bụng

1

2

3

4

45. Mất gạc trong lúc mổ

1

2

3

4

46. Rút nhầm máu xét nghiệm

1

2

3

4

47. Gạch tại phòng nhận bệnh bị bong tróc

1

2

3

4

48. Bộ săng vải phòng mổ còn ướt sau khi đã hấp tại Khoa KSNK

1

2

3

4

49. La phông trần nhà rơi trúng bệnh nhân gây trầy sướt tay của bệnh nhân

1

2

3

4

50. Hệ thống nước bệnh viện bị ngắt/cúp

1

2

3

4

51. HS/ĐD cho bệnh nhân xuất viện khi chưa có y lệnh của BS

C. TẦN SUẤT BÁO CÁO CÁC SỰ CỐ

Đánh giá mức độ báo cáo thường xuyên của khoa Anh/Chị khi có những sự cố liên

quan đến an toàn người bệnh xảy ra

Không Hiếm Đôi Thường Luôn

bao giờ khi khi xuyên luôn

    

52. Báo cáo sự cố xảy ra nhưng đã

được phát hiện và ngăn chặn kịp thời 1 2 3 4 5

trước khi ảnh hưởng lên bệnh nhân

53. Báo cáo sự cố xảy ra do không

tuân thủ các chính sách, quy trình, quy 1 2 3 4 5

định, … của bệnh viện

54. Báo cáo sự cố gây tử vong hoặc

gây tổn thương nghiêm trọng không 1 2 3 4 5 mong đợi về mặt thể chất hoặc tinh

thần người bệnh

55. Trong vòng 12 tháng qua, Anh/Chị đã điền và báo cáo bao nhiêu sai sót/ sự cố

cho lãnh đạo khoa/BV?

 1. Không có  4. 6 đến 10

 2. 1 đến 2  5. 11 đến 20

 3. 3 đến 5  6. Từ 21 sự cố trở lên

CẢM ƠN ANH/CHỊ ĐÃ THAM GIA KHẢO SÁT

TỔNG QUAN BỆNH VIỆN TỪ DŨ

1. GIỚI THIỆU BỆNH VIỆN TỪ DŨ

Bệnh viện Từ Dũ nguyên là Bảo sanh viện Đông Dương đượcxây dựng năm 1937, trên khu đất có diện tích 19.123m2 tại đường Arras (nay là đường Cống

Quỳnh Quận 1 TP HCM).Tháng 9/1943 Bảo sanh viện Đông Dương được chuyển

giao cho cơ quan y tế Việt Nam với quy mô 100 giường bệnh. Năm 1944 Bảo sanh

viện Đông dương được đổi tên Việt Nam bảo sanh viện, sau đó là Bảo sanh viện

Georges Bechamps (1946), Bảo sanh viện Từ Dũ (1948-1975), Viện Bảo vệ bà mẹ -

sơ sinh II (1975 – 1977), Bệnh viện Phụ sản TP Hồ Chí Minh (1977 – 2004) và

Bệnh viện Từ Dũ trực thuộc Sở Y tế TP Hồ Chí Minh từ năm 2004 đến nay. Qua

nhiều lần thay đổi tên gọi, nhưng Bệnh viện Từ Dũ vẫn kiên trì thực hiện tốt nhiệm

vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản cho người dân, đồng thời tiếp tục phát triển, trở

thành bệnh viện sản phụ khoa đầu ngành của khu vực phía Nam.

Năm 2014 Bệnh viện tiếp đón 974,181 lượt bệnh nhân đến khám bệnh

(khoảng 2,669 lượt bệnh nhân/ngày), điều trị cho 124,909 bệnh nhân (khoảng 342

bệnh nhân/ngày), tổng số bệnh nhân được phẫu thuật trong năm là 46,669 tương

đương 128ca/ngày (Bệnh viện Từ Dũ 2014). Song song với nhiệm vụ khám – chữa

bệnh, Bệnh viện Từ Dũ còn là đơn vị thực hành của các trường Đại học Y Dược TP

Hồ Chí Minh, Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch, cơ sở giảng dạy – đào tạo cán bộ

y tế đến từ các bệnh viện trong cả nước và là địa chỉ thực tập của sinh viên các

trường đại học y khoa đến từ các quốc gia Pháp, Úc, Bỉ, Thuỵ Điển, Hungary,

Indonesia, Philippines, Lào, Campuchia …

Với đội ngũ gần 2.100 nhân viên y tế được đào tạo chính quy, có trình độ,

năng lực chuyên môn cao, Bệnhviện Từ Dũ là đơn vị đi đầu trong cả nước triển khai

thực hiện các thành tựu khoa học - kỹ thuật y học hiện đại của thế giới trong chẩn

đoán và điều trị chuyên ngành phụ - sản – nhi sơ sinh.Trong quá trình thực hiện

nhiệm vụ chăm sóc sức khỏe cho người dân, Bệnh viện Từ Dũ đã nhận được nhiều

danh hiệu thi đua, giải thưởng, bằng khen,… do Đảng và Nhà nước Việt Nam cùng

các tổ chức đoàn thể trao tặng.

2. CƠ CẤU TỔ CHỨC BỆNH VIỆN

Hiện nay Bệnh viện Từ Dũ có 35 khoa/phòng bao gồm 9 phòng chức năng,

19 khoa lâm sàng, và 7 khoa cận lâm sàng (hình 1: Sơ đồ tổ chức của Bệnh viện)

(nguồn: Bệnh viện Từ Dũ, 2015), tổng số nhân viên Bệnh viện là 2.147 cán bộ công

chức, người lao động, trong đó nữ chiếm 85% (1,825 người), bác sĩ chiếm 14%, nữ

hộ sinh/ĐD/KTV/YS là 53%, còn lại là các đối tượng khác.

GIÁM ĐỐC

PHÓ

PHÓ

PHÓ

PHÓ

HỘI ĐỒNG

GIÁM ĐỐC

GIÁM ĐỐC

GIÁM ĐỐC

GIÁM ĐỐC

KHOA HỌC

PHÒNG

KHOA

KHOA

CHỨC NĂNG

LÂM SÀNG

CẬN LÂM SÀNG

THUỐC VÀ

ĐIỀU TRỊ

KHOA

KHOA

PHÒNG

KHOA SANH

CHẨN ĐOÁN

GÂY MÊ

KIỂM SOÁT NHIỄM

KẾ HOẠCH TỔNG HỢP

HÌNH ẢNH

HỒI SỨC

KHUẨN

KHOA

PHÒNG

KHOA

SẢN A

KHOA

TỔ CHỨC CÁN BỘ

CẤP CỨU

XÉT NGHIỆM

CHỐNG ĐỘC

ĐIỀU DƯỠNG

KHOA

PHÒNG

HẬU SẢN C

KHOA

KHOA KHÁM PHỤ

CHỈ ĐẠO TUYẾN

XÉT NGHIỆM DI

KHOA

QUẢN LÝ

KHOA

TRUYỀN

CHẤT LƯỢNG

HẬU SẢN H

PHÒNG

Y HỌC

KHOA

HÀNH CHÍNH

CHĂM SÓC TRƯỚC

QUẢN TRỊ

KHOA

KHOA GIẢI PHẪU

SINH

THI ĐUA

HẬU SẢN M

BỆNH

PHÒNG

KHEN THƯỞNG

KHOA

KẾ HOẠCH

KHOA

KHOA

HẬU SẢN N

GIA ĐÌNH

TÀI CHÍNH KẾ TOÁN

KIỂM SOÁT

PHÒNG

NHIỄM KHUẨN

KHOA

ĐIỀU DƯỠNG

KHOA PHỤ

HIẾM MUỘN

KHOA DƯỢC

PHÒNG VẬT TƯ

KHOA

KHOA

THIẾT BỊ Y TẾ

NỘI SOI

SƠ SINH

KHOA

PHÒNG

KHOA

KHOA

DINH DƯỠNG TIẾT

CÔNG NGHỆ

PHỤC HỒI CHỨC

HẬU PHẪU

CHẾ

THÔNG TIN

NĂNG

KHOA

PHÒNG

KHOA

UNG BƯỚU

QUẢN LÝ

TẠO HÌNH THẨM

PHỤ KHOA

CHẤT LƯỢNG

MỸ

Hình 1:Sơ đồ tổ chức Bệnh viện Từ Dũ (nguồn: Bệnh viện Từ Dũ)

3. SƠ LƯỢC VỀ KHOA CẤP CỨU CHỐNG ĐỘC

Khoa Cấp cứu chống độc là một khoa thuộc khối lâm sàng của bệnh viện thực

hiện chức năng tiếp nhận các trường hợp về cấp cứu sản khoa, nhi khoa và sơ sinh

với tổng số nhân viên khoa Cấp cứu chống độc bệnh viện là 60 nhân viên, bao gồm

07 bác sĩ, 45 nữ hộ sinh/điều dưỡng/y sĩ, 6 hộ lý và 2 nhân viên khác (kỹ sư và văn

thư) (Nguồn: Bệnh viện Từ Dũ), đứng đầu khoa là trưởng khoa chịu trách nhiệm

trước Ban giám đốc về mọi hoạt động của khoa

TRƯỞNG KHOA

PHÓ TRƯỞNG KHOA HS TRƯỞNG KHOA

BS ĐIỀU TRỊ HS PHÓ KHOA

NV HÀNH CHÍNH

HS/HSTC/ĐD

Hình 2:Sơ đồ tổ chức khoa Cấp cứu chống độc

HỘ LÝ

Nhiệm vụ của khoa Cấp cứu chống độc thực hiện : tiếp tục điều trị và chăm

sóc tích cực những người bệnh nặng của các khoa lâm sàng trong bệnh viện chuyển

đến, tham gia cấp cứu ngoại viện trong tình trạng xảy ra cấp cứu hàng loạt – cấp

cứu thảm họa, phối hợp và hỗ trợ chuyên môn cho hệ thống cấp cứu tại các khoa

khác trong bệnh viện. Trường hợp bệnh nặng vượt quá khả năng chuyên môn thì hội

chẩn mời tuyến trên hổ trợ hoặc chuyển người bệnh, khám nhận và xử trí các

trường hợp bệnh lý sản phụ khoa, bệnh của tuyến trước chuyển đến và tất cả thai

phụ đến sanh tại viện, tham gia công tác hội chẩn liên viện, ngoại viện và tại bệnh

viện, phối hợp với các phòng chức năng và khoa phòng có liên quan thực hiện tốt

chức năng nhiệm vụ được giao. Khám nhận và xử trí các trường hợp bệnh lý sản

phụ khoa, bệnh của tuyến trước chuyển đến và tất cả các thai phụ đến sanh tại bệnh

viện, phối hợp Khoa GMHS cấp cứu bệnh nặng trong tình trạng nguy kịch. Sơ cấp

cứu các trường hợp bệnh lý nội, ngoại, nhi, nhiễm.

4. SƠ LƯỢC VỀ KHOA GÂY MÊ HỒI SỨC

Khoa Gây mê hồi sức là khoa lâm sàng, gồm hệ thống các buồng phẫu thuật

để thực hiện các phẫu thuật, thủ thuật theo chương trình và cấp cứu và buồng hồi

sức, đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Ban Giám đốc bệnh viện và chịu trách nhiệm

trước Ban Giám đốc về tổ chức thực hiện các hoạt động tại khoa, tổng số nhân viên

khoa là 238 nhân viên trong đó có 21 bác sĩ, 135 nữ hộ sinh/điều dưỡng/y sĩ, 55 kỹ

thuật viên, 25 hộ lý và 2 nhân viên khác (kỹ sư). Khoa thực hiện nhiệm vụ: tiến

hành vô cảm, theo dõi diễn biến bệnh nhân từ lúc tiếp nhận bệnh vào phòng tiền mê

đến khi bàn giao người bệnh cho các khoa.Theo dõi, chăm sóc và điều trị các bệnh

nặng có liên quan đến sản phụ khoa từ các khoa khác hoặc từ các bệnh viện khác

chuyển đến. Thực hiện giảm đau sản khoa tại phòng sanh. BS gây mê hồi sức tham

gia hội chẩn trước mổ và khám tiền mê tại các khoa. Hỗ trợ điều trị hồi sức cấp cứu

tại các khoa trong bệnh viện và ngoại viện. Là cơ sở thực hành để đào tạo cán bộ y

tế ở bậc đại học và trung học về phẫu thuật sản phụ khoa, về nội soi và gây mê hồi

sức. Nghiên cứu khoa học và áp dụng các thành tựu y học trong gây mê và hồi sức.

Có kế hoạch chỉ đạo tuyến dưới về chuyên môn và kỹ thuật chuyên khoa sâu theo

kế hoạch của bệnh viện; tham gia giảng dạy về gây mê hồi sức trong sản phụ khoa

và phẫu thuật nội soi cho tuyến dưới.

TRƯỞNG KHOA

PHÓ

NHS

PHÓ

TRƯỞNG

TRƯỞNG KHOA

TRƯỞNG

Bác sĩ điều trị Buồng hồi sức

Bác sĩ điều trị Buồng phẫu thuật

HS

HS

HS

KTV

Phó trưởngkhoa

Phó trưởngkhoa

Phó trưởngkhoa

Phó trưởngkhoa

CN/KTV/HS/HSTC/ĐD Buồng phẫu

CN/KTV/HS/HSTC/ĐD Buồng hồi sức

Hộ lý

Hộ lý

Hình 3:Sơ đồ tổ chức khoa Gây mê hồi sức

5.THỰC TRẠNG CÔNG TÁC BÁO CÁO SỰ CỐ TẠI BỆNH VIỆN

Dưới sự chỉ đạo của Bộ Y tế (căn cứu thông tư 19) năm 2013 bệnh viện đã

thành lập phòng Quản lý chất lượng và triễn khai các hoạt động nhằm nâng cao an

toàn cho người bệnh trong đó có việc thiết lập hệ thống báo cáo sự cố và xây dựng

qui trình nhằm tránh lặp lại các sai sót, những hoạt động cải tiến chất lượng được

triển khai đến toàn thể nhân viên. Qui trình quản lý sự cố của Bệnh viện được ban

hành vào đầu tháng 3 năm 2014, từ đó đến nay hoạt động báo cáo sự cố của Bệnh

viện ngày càng hiệu quả, cụ thể trong 9 tháng đầu năm 2014 số sự cố được báo cáo

tăng lên theo từng tháng. Trong quí 1 đơn vị quản lý sự cố nhận được 18 báo cáo,

Biểu đồ 1:Số lượng sự cố báo cáo theo tháng

15

16

14

13

14

12

11

10

10

8

7

7

8

6

4

4

2

0

QUÝ 1

QUÝ 2

QUÝ 3

Biểu đồ 2:Phân bố báo cáo sự cố theo đối tượng báo cáo

quí 2: 29 báo cáo, quí 3: 42 báo cáo.

Đối tượng tham gia báo cáo sự cố tại bệnh viện hiện nay chủ yếu là đội ngũ Nữ

hộ sinh, Kỹ thuật viên và điều dưỡng là những người trực tiếp chăm sóc bệnh nhân

chiếm 66%, Bác sĩ 31% và các đối tượng khác 2%.

Biểu đồ 2:Khoa/phòng tham gia báo cáo

15

11

7

6

5

4

4

3

2 2

2

2

2 2

1

1

1 1 1

1 1

16 14 12 10 8 6 4 2 0

Trong 9 tháng đầu năm 2014, khoa tham gia báo cao sự cố nhiều nhất là khoa

Phẫu thuật gây mê hồi sức, kế đến là khoa Sanh, riêng khoa Cấp cứu chống độc chỉ

Bảng 1:Phân loại sự cố được báo cáo

báo cáo 01 trường hợp.

Stt Tính chất sự cố Sự cố

Số lượng %

Đặc biệt nghiêm trọng 43 48,3 1

Sai biệt 28 32,4 2

Suýt xảy ra 18 20,2 3

Các sự cố mang tính chất đặc biệt nghiêm trọng có ảnh hưởng trực tiếp và gây

tổn hại đến người bệnh chiếm tỉ lệ khá cao 48,3% bao gồm mất gạc, mất kim, dị

ứng sau tiêm truyền thuốc, nhầm lẫn, bệnh nhân té ngã, chẩn đoán chưa chính

xác…., tiếp theo là sự cố do sai biệt như cháy nhà vệ sinh, chuyển mổ chưa hoàn

hiện hồ sơ …. và thấp nhất là sự cố suýt xãy ra như bỏ số lượng gạc sai qui định,

găng tay dơ, trang thiết bị không bảo đảm….(Phong Quan ly chat luong-Benh vien

Tu Du 2014)