YOMEDIA
ADSENSE
Phân tích kinh tế về tác dộng của biến đổi khí hậu các trường phái học thuật và định hướng nghiên cứu ở Việt nam
34
lượt xem 3
download
lượt xem 3
download
Download
Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ
Bài viết Phân tích kinh tế về tác dộng của biến đổi khí hậu các trường phái học thuật và định hướng nghiên cứu ở Việt nam trình bày nội dung về hai trường phái học thuật: Nordhaus và Stern; Định hướng nghiên cứu ở Việt Nam: tác động kinh tế của biến đổi khí hậu, các khía cạnh kinh tế của hạn chế phát thải, các khía cạnh kinh tế của thích nghi với biến đổi khí hậu. Mời các bạn tham khảo nội dung chi tiết.
AMBIENT/
Chủ đề:
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Phân tích kinh tế về tác dộng của biến đổi khí hậu các trường phái học thuật và định hướng nghiên cứu ở Việt nam
- Phân tích kinh tế về tác động của biến đổi khí hậu: các trường phái học thuật và định hướng nghiên cứu ở Việt Nam TS Đỗ Nam Thắng Viện Khoa học quản lý môi trường Tổng cục Môi trường Giới thiệu Biến đổi khí hậu đã trở thành một vấn đề thời sự có tính toàn cầu. Trong những năm cuối thế kỷ 20, còn nhiều hoài nghi về khả năng biến đổi khí hậu có xảy ra hay không, hoặc biến đổi khí hậu có phải do tác động của con người hay do qui luật tất yếu của tự nhiên. Cho đến những năm đầu thế kỷ 21 này, các hoài nghi trên đã phần nào được giải đáp. Các bằng chứng khoa học đã chứng minh rằng biến đối khí hậu đang diễn ra, và các hoạt động của con người là nguyên nhân thúc đẩy nhanh quá trình đó. Các tranh luận khoa học đã chuyển trọng tâm vào tác động của biến đối khí hậu đến hoạt động phát triển kinh tế - xã hội. Trên thế giới hiện có hai nhóm quan điểm chính trong đánh giá tác động của biến đổi khí hậu. Nhóm quan điểm thứ nhất cho rằng biến đổi khí hậu có cả mặt tích cực và tiêu cực và nếu tính tổng thể thì tác động tiêu cực đến phát triển kinh tế- xã hội là không nhiều. Cũng theo trường phái này, chi phí để cắt giảm khí gây hiệu ứng nhà kính (tác nhân chính của biến đổi khí hậu) là quá lớn so với các lợi ích của cắt giảm khí nhà kính. Vì vậy, không nên dành quá nhiều nguồn lực vào hạn chế phát thải và đối phó với biến đổi khí hậu. Nhóm quan điểm thứ hai cho rằng thiệt hại do biến đổi khí hậu là rất lớn, và rằng các nỗ lực cắt giảm khí nhà kính sẽ đem lại lợi ích lớn cho phát triển kinh tế - xã hội. Bài viết này tổng hợp và phân tích những luận cứ chính của hai trường phái quan điểm nêu trên, đồng thời phân tích một số định hướng nghiên cứu có thể áp dụng ở Việt Nam. Tác động của biến đổi khí hậu đến phát triển kinh tế Hai trường phái học thuật: Nordhaus và Stern Như đã đề cập ở trên, trên thế giới hiện có hai nhóm quan điểm chính về đánh giá tác động kinh tế của biến đổi khí hậu: nhóm quan điểm cho rằng biến đổi khí hậu không gây tác động tiêu cực nhiều đến phát triển và nhóm quan điểm cho rằng biến đổi khí hậu gây thiệt hại lớn cho phát triển. Người chủ xướng của nhóm quan điểm thứ nhất là nhà kinh tế học người Mỹ William Nordhaus. Sử dụng mô hình DICE (mô hình tổng hợp động về khí hậu và kinh tế - Dynamic Integrated Model of Climate and Economy), Nordhaus (1994) ước tính thiệt hại của biến đổi khí hậu vào khoảng 1% GDP toàn cầu. Trên cơ sở phân tích lợi ích và chi phí của hạn chế phát thải, Nordhaus khuyến nghị mức cắt giảm khí nhà kính tối ưu về mặt kinh tế là 5% năm 2005, 14% năm 2050 và 25% vào năm 2100. Cũng theo quan điểm này, một nhà kinh tế học người Đan Mạch Bjorn Lomborg đã viết hai cuốn sách Đỗ Nam Thắng – donamthang09@gmail.com 1 “Phân tích kinh tế về tác động của biến đổi khí hậu: các trường phái học thuật và định hướng nghiên cứu ở Việt Nam”- Tạp chí Kinh tế môi trường số tháng 9/2009
- gây chấn động trong giới quan tâm đến biến đổi khí hậu. Hai cuốn sách có tên là Skeptical Environmentalist: Measuring the Real State of the World (2001) và Cool It, The Skeptical Environmentalist, a Guide to Global Warming (2007). Theo Lomborg, biến đối khí hậu đã và đang xảy ra. Tuy nhiên, chi phí cho việc cắt giảm khí nhà kính lớn hơn nhiều so với lợi ích đem lại và vì vậy không nên tiêu tốn quá nhiều kinh phí cho cắt giảm khí nhà kính bởi như vậy sẽ không đạt được hiệu suất tối ưu về kinh tế. Ông cho rằng các ưu tiên ngân sách cần được dành cho các vấn đề toàn cầu khác như AIDS, suy dinh dưỡng và thiếu nước ngọt. Trên cơ sở các phân tích này, các học giả thuộc nhóm quan điểm thứ nhất này đồng ý cần thực hiện cắt giảm khí nhà kính nhưng với mức thuế phát thải CO2 vào khoảng từ 2-14 USD/tấn thay vì mức 20-40 USD như khuyến nghị trong Nghị định thư Protocol (Lomborg 2007). Trái ngược với nhóm quan điểm của Nordhaus, nhóm quan điểm thứ hai cho rằng thiệt hại do biến đổi khí hậu gây ra là rất lớn và không thể phục hồi. Người đứng đầu nhóm quan điểm này là nhà kinh tế học Nicholas Stern người Anh. Trong bản báo cáo có tính lịch sử được công bố năm 2006 Stern Rivew: the Economics of Climate Change, học giả này khẳng định rằng ‘nếu chúng ta không triển khai hành động ngay, thiệt hại và rủi ro của biến đối khí hậu sẽ tương đương với ít nhất là 5% GDP toàn cầu 1 năm, và các thiệt hại này sẽ không thể khắc phục được’ (Stern 2006). Sử dụng mô hình PAGE đánh giá tổng thể tác động của biến đổi khí hậu có kết hợp nhiều kịch bản rủi ro và các yếu tố bất định, Stern cho rằng chi phí để ứng phó với biến đổi khí hậu là 1% GDP toàn cầu 1 năm, và lợi ích từ các biện pháp ứng phó (tránh được thiệt hại 5% GDP) sẽ lớn hơn chi phí 1% GDP này. Ông cho rằng đến năm 2050 cần cắt giảm 50% lượng phát thải so với năm 1990. Stern khuyến nghị áp dụng mức thuế 85 USD/tấn CO2 nhằm hạn chế phát thải khí gây hiệu ứng nhà kính. Điểm khác biệt lớn nhất giữa hai nhóm quan điểm của Nordhaus và Stern là việc sử dụng tỷ lệ chiết khấu để ước tính thiệt hại của biến đổi khí hậu. Tỷ lệ chiết khấu của Nordhaus là 4% trong khi tỷ lệ chiết khấu mà Stern sử dụng là 1,4%. Với tỷ lệ 4% (Nordhaus) giá trị của 1 USD trong 100 năm tới chỉ là 0,0018 USD ngày hôm nay. Trái lại, với tỷ lệ 1,4% (Stern), giá trị của 1 USD trong 100 năm tới sẽ là 0,25 USD ngày hôm nay. Vì vậy, thiệt hại của biến đổi khí hậu do Stern ước tính cao hơn mức của Nordhaus. Nordhaus hay Stern đúng? Do sự phức tạp và đặc tính dự báo của vấn đề, khó có thể có câu trả lời chính xác trường phái nào đúng. Tuy nhiên, so với nhóm quan điểm của Nordhaus, nhóm quan điểm của Stern được hưởng ứng rộng rãi hơn. Chỉ một số ít quốc gia, trong đó có Mỹ, cho rằng thiệt hại của biến đổi khí hậu thấp hơn chi phí của việc tiến hành các biến pháp cắt giảm khí nhà kính và vì vậy không nên áp dụng các chính sách cắt giảm khí nhà kính. Đa số các quốc gia, các tổ chức quốc tế và các học giả đều cho rằng thiệt hại của biến đổi khí hậu là rất lớn và cần áp dụng ngay các biện pháp cắt giảm khí nhà kính. Mặc dù một số học giả chỉ trích về độ chính xác của phương pháp Stern sử dụng, đặc biệt là việc sử dụng tỷ lệ chiết khấu thấp và một số lỗi kỹ thuật về tính toán trùng lặp (double counting) (Nordhaus 2007; Tol và Yohe 2006), báo cáo của Stern đã được nhiều tổ chức quốc tế và chính phủ hoan nghênh. Uỷ ban châu Âu EC, Ngân hàng thế giới, Chính phủ Anh đều Đỗ Nam Thắng – donamthang09@gmail.com 2 “Phân tích kinh tế về tác động của biến đổi khí hậu: các trường phái học thuật và định hướng nghiên cứu ở Việt Nam”- Tạp chí Kinh tế môi trường số tháng 9/2009
- cho rằng báo cáo đã cung cấp bằng chứng khoa học xác đáng về tác động của biến đổi khí hậu đến phát triển. Nhiều học giả cũng ủng hộ quan điểm của Stern. Khi phân tích hai trường phái của Nordhaus và Stern, Hanemann (2008) ủng hộ phương pháp mà Stern sử dụng. Ông cho rằng nên áp dụng tỷ lệ chiết khấu thấp khi ước tính thiệt hại, bởi vì khi xã hội phát triển hơn, con người sẽ giảm tỷ lệ chiết khấu xã hội (social rate of time preference) của mình. Ngoài ra, mô hình của Nordhaus đã bỏ qua nhiều thiệt hại về nông nghiệp, vùng ven bờ biển, tài nguyên nước, năng lượng và sức khoẻ. Một nghiên cứu gần đây của Thuỵ Điển áp dụng chính mô hình của Nordhaus có cập nhật thêm giá tương đối cũng cho kết quả tương tự như dự báo của Stern (Sterner và Persson 2008). Một nghiên cứu khác do Chính phủ Australia thực hiện cũng ủng hộ trường phái của Stern, thậm chí còn chỉ ra rằng ước tính thiệt hại còn có thể lớn hơn mức mà Stern dự báo (Garnaut 2008). Căn cứ vào nghiên cứu này, thủ tướng Australia Kevin Rutt đã tuyên bố Australia sẽ phê chuẩn Nghị định thư Kyoto. Ủng hộ quan điểm của Stern, nhà kinh tế học được giải Nobel Kenenth Arrow cho rằng ‘dù có sử dụng tỷ lệ chiết khấu nào để ước tính thiệt hại, thì chúng ta cũng cần hành động cắt giảm khí nhà kính ngay, chứ không nên đương đầu với rủi ro của việc trì hoãn hành động’ (Arrow 2007). Cách tiếp cận của Stern cũng phù hợp với nguyên tắc 15 của Tuyên bố Rio về Môi trường và Phát triển đã được hơn 170 nước thông qua năm 1992. Theo nguyên tắc này, các nước không được sử dụng lý do chưa có đầy đủ thông tin khoa học về tác động đến môi trường để trì hoãn việc áp dụng các giải pháp ngăn ngừa suy thoái môi trường. Tương tự, chúng ta không nên chờ đợi cho đến khi có đầy đủ tin về tác động của biến đổi khí hậu mới hành động, mà cần tiến hành các biện pháp ứng phó ngay, trước khi diễn ra các thiệt hại không thể khắc phục. Quan điểm của Stern cũng là tinh thần của Nghị định thư Kyoto 1997. Các phân tích của Stern cũng giống với kết quả đánh giá lần thứ 4 của Tổ chức liên chính phủ về biến đổi khí hậu của Liên hợp quốc IPCC (IPCC 2007a). Theo các kết quả nghiên cứu này, các nước đang phát triển chịu nhiều ảnh hướng nhất. Biến đổi khí hậu sẽ là cản trở chính trong cuộc chiến giảm đói nghèo của các nước đang phát triển, đặc biệt là trong lĩnh vực nông nghiệp và sức khoẻ. Ví dụ như hàng triệu người sẽ chịu strees của tăng nhiệt độ, lũ lụt, suy dinh dưỡng, các bệnh liên quan đến nguồn nước và các bệnh vector truyền nhiễm. Theo ước tính, sốt xuất huyết ở Mỹ La tinh có thể tăng gấp 2-5 lần vào năm 2050. Thiệt hại của biến đổi khí hậu ở Ấn độ và Đông Nam Á có thể ở mức 9-13% GDP năm 2100. Thế giới sẽ có thêm 145-220 triệu người sống dưới mức 2 USD/ngày và 165.000 đến 250.000 trẻ em tử vong do giảm thu nhập (Stern 2006). Cùng quan điểm với Stern và IPCC, các tổ chức quốc tế cũng đã công bố nghiên cứu về tác động tiêu cực của biến đổi khí hậu đến phát triển. Theo Ngân hàng phát triển châu Á, riêng ở châu Á, biến đổi khí hậu sẽ làm giảm 2,5-10% sản lượng lương thực đến năm 2020, thêm 1 triệu người thiếu nước ngọt đến năm 2050, lũ lụt xảy ra thường xuyên hơn, đa dạng sinh học sẽ bị suy giảm, tần suất cháy rừng gia tăng, bệnh tiêu chảy và bệnh do vector truyền nhiễm sẽ gia tăng. Trong một nghiên cứu về tác động của dâng mực nước biển do biến đổi khí hậu, Ngân hàng Thế giới dự báo rằng Việt Nam là nước đang phát Đỗ Nam Thắng – donamthang09@gmail.com 3 “Phân tích kinh tế về tác động của biến đổi khí hậu: các trường phái học thuật và định hướng nghiên cứu ở Việt Nam”- Tạp chí Kinh tế môi trường số tháng 9/2009
- triển chịu ảnh hưởng lớn nhất của dâng cao mực nước biển (Dasgupta et al 2007) (Hình 1). Với độ dâng 1 m, khoảng 11 triệu người ở vùng đồng bằng sông Hồng và sông Cửu Long sẽ chịu tác động, ảnh hưởng đến 10% tổng sản phẩm thu nhập quốc nội GDP, 29% diện tích đất ngập nước, 7% diện tích đất nông nghiệp, 11% đô thị (Bảng 1). Các nghiên cứu nói trên đều thống nhất rằng các nước đang phát triển sẽ gánh chịu hậu quả nhiều nhất của biến đối khí hậu và rằng các nước đã phát triển cần tiên phong trong thực hiện các giải pháp ứng phó với biến đổi khí hậu. Hình 1. Dự báo tác động của dâng mực nước biển 1 m đến GDP (tỷ lệ thiệt hại GDP) Nguồn: Dasgupta et al. 2007. Bảng 1. Dự báo tác động của việc dâng mực nước biển 1 m ở Việt Nam Tổng số Chịu tác động Chịu tác động (giá trị tuyệt đối) (tỷ lệ %) Diện tích (km2) 328.535 16.977 5,17 Dân số (triệu 78,137 8,437 10,8 người) GDP (tỷ USD) 154,787 15,805 10,21 Diện tích đô thị 5.904 634 10,74 (km2) Diện tích nông 192.816 13.773 7,14 nghiệp (km2) Đất ngập nước 46.179 13.241 28,67 (km2) Đỗ Nam Thắng – donamthang09@gmail.com 4 “Phân tích kinh tế về tác động của biến đổi khí hậu: các trường phái học thuật và định hướng nghiên cứu ở Việt Nam”- Tạp chí Kinh tế môi trường số tháng 9/2009
- Nguồn: Dasgupta et al. 2007. Định hướng nghiên cứu ở Việt Nam Mặc dù biến đổi khí hậu đang đặt ra những thách thức lớn đối với Việt Nam song cho đến nay, chưa có nhiều nghiên cứu về biến đổi khí hậu ở Việt Nam, đặc biệt là còn thiếu các nghiên cứu dưới góc độ kinh tế của vấn đề. Hiện mới có nghiên cứu đề cập ở trên do Ngân hàng thế giới thực hiện được công bố chính thức. Tuy nhiên, nghiên cứu này mới chỉ khu trú vào tác động của dâng mực nước biển chứ chưa phân tích các tác động khác của biến đổi khí hâu. Ngoài ra, có một số nghiên cứu khác cũng đang được tiến hành với sự tài trợ của EEPSEA. Tuy nhiên, các nghiên cứu này mới thực hiện ở phạm vi nhỏ của nghiên cứu trường hợp (case studies) và cũng mới chỉ ở bước khởi động. Vì vậy, có thể nói tiềm năng cho các nghiên cứu về kinh tế của biến đổi khí hậu ở Việt Nam là rất lớn. Các nghiên cứu có thể tập trung vào 3 lĩnh vực chính: tác động kinh tế của biến đổi khí hậu, các khía cạnh kinh tế cảu hạn chế phát thải và các vấn đề liên quan đến thích ứng. Tác động kinh tế của biến đổi khí hậu Một trong những nghiên cứu cần thực hiện ngay là áp dụng các phương pháp luận của Stern (2006) để phân tích tác động của biến đổi khí hậu đến phát triển kinh tế ở Việt Nam. Có thể sử dụng các kịch bản về biến đổi khí hậu đã được Bộ Tài nguyên và Môi trường công bố trong thời gian gần làm cơ sở để phân tích. Nghiên cứu này cho biết các tác động của biến đổi khí hậu đến phát triển kinh tế trong điều kiện cụ thể của Việt Nam ra sao và vì vậy sẽ rất có ích cho quá trình hoạch định các chính sách. Nhóm nghiên cứu thứ hai là phân tích tác động đến từng ngành kinh tế, từng vùng lãnh thổ để từ đó đưa ra những khuyến nghị phù hợp. Cần lưu ý rằng không nên bỏ qua các tác động tích cực của biến đổi khí hậu (nếu có) đối với phát triển kinh tế. Cũng không nên bỏ qua các tác động của biến đổi khí hậu đến giá trị phi thị trường. Các khía cạnh kinh tế của hạn chế phát thải (mitigation) Nhóm nghiên cứu thứ nhất cần tập trung vào cơ chế chuyển nhượng quyền phát thải carbon. Mặc dù Việt Nam có tiềm năng lớn trong việc tham gia vào Cơ chế Phát triển sạch (Clean Development Mechanism-CDM) song hiện chưa có nhiều nghiên cứu về khía cạnh kinh tế xã hội của vấn đề này. Ví dụ của các chủ đề nghiên cứu có thể thực hiện là “định giá carbon hợp lý”, “tác động kinh tế-xã hội của việc tham gia CDM”…Nhóm nghiên cứu thứ hai là có thể tập trung vào phân tích chi phí-lợi ích của phát triển công nghệ ít carbon. Nhóm nghiên cứu thứ ba có thể hướng đến phân tích hành vi của việc việc lựa chọn các sản phẩm ít carbon, thân thiện với môi trường. Đỗ Nam Thắng – donamthang09@gmail.com 5 “Phân tích kinh tế về tác động của biến đổi khí hậu: các trường phái học thuật và định hướng nghiên cứu ở Việt Nam”- Tạp chí Kinh tế môi trường số tháng 9/2009
- Các khía cạnh kinh tế của thích nghi với biến đổi khí hậu (adaptation) Trên thế giới, các nghiên cứu về phương án thích nghi mới chỉ được bắt đầu vào những năm đầu thập kỷ này. Các tổ chức quốc tế đang hướng các nguồn lực vào việc nghiên cứu phân tích kinh tế của vấn đề thích nghi với biến đổi khí hậu.Ví dụ như Chương trình môi trường và kinh tế của các nước Đông Nam Á (EEPSEA) đang khởi động chương trình nghiên cứu về thích nghi với dâng mực nước biển. Với Việt Nam, một nước được dự báo là chịu ảnh hưởng lớn nhất của dâng mực nước biến, đây cũng là một hướng nghiên cứu cần được đầu tư trong thời gian tới. Các nghiên cứu có thể hướng vào phân tích chi phí lợi ích của các phương án thích nghi, phân tích chi phí tối ưu của các phương án thích nghi, qui hoạch lồng ghép các phương án thích nghi vào qui hoạch phát triển kinh tế- xã hội. Phạm vi của các nghiên cứu này có thể ở cấp độ tỉnh, vùng, liên vùng, quốc gia và khu vực. Kết luận Biến đổi khí hậu đang đặt ra những thách thức lớn đối với nhân loại. Có hai nhóm quan điểm chính với biến đổi khí hậu. Nhóm quan điểm của Nordhaus cho rằng thiệt hại của biến đổi khí hậu thấp hơn so với thiệt hại kinh tế của việc hạn chế phát thải và vì vậy ứng phó với biến đổi khí hậu không phải vấn đề ưu tiên. Nhóm quan điểm này ít được ủng hộ hơn so với nhóm quan điểm của Stern. Theo Stern, thiệt hại của biến đổi khí hậu là rất lớn, và lợi ích của việc ứng phó sẽ lớn hơn chi phí nhiều lần. Quan điểm của Stern được các giới khoa học, các chính phủ và các tổ chức phi chính phủ ủng hộ do biện luận khoa học thuyết phục và phù hợp với các nguyên tắc phát triển bền vững. Nghiên cứu về kinh tế của biến đổi khí hậu là phạm trù mới ở Việt Nam. Trong thời gian tới, cần tăng cường nghiên cứu đánh giá tác động của biến đổi khí hậu đối với Việt Nam, các vấn đề kinh tế liên quan đến hạn chế phát thải và thích nghi, từ đó đề ra các chính sách ứng phó thích hợp với bối cảnh phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam, đảm bảo mục tiêu phát triển bền vững. Tài liệu tham khảo Arrow, K., 2007. ‘Global climate change: a challenge to policy’, Economist’s Voice, 4(3). Asian Development Bank, 2007. ADB Climate Change Programs, Manila, the Philippines. Dasgupta, S., Laplante, B., Meisner, C., Wheeler, D. and Yan, J., 2007. The impact of Sea Level Rise on Developing Countries: a comparative analysis, World Bank Policy Research Working Papar 4136, February 2007. Garnaut, 2008. Garnaut Climate Change Riview, interim report to the Commonwealth of Australia, February 2008, Canberra. Đỗ Nam Thắng – donamthang09@gmail.com 6 “Phân tích kinh tế về tác động của biến đổi khí hậu: các trường phái học thuật và định hướng nghiên cứu ở Việt Nam”- Tạp chí Kinh tế môi trường số tháng 9/2009
- Hanemann, M., 2008. ‘The economics of climate change’, Paper presented at the European Association of Environmental and Resource Economistst 16th Annual Conference, 25-29 June 2008, Gothenburg, Sweden. IPCC 2007a. Summary for Policymakers, in Climate Change 2007: Mitigation. Contribution of Working Group III to the Fourth Assessment Report of the Intergovernmental Panel on Climate Change, Cambrige University Press, UK. IPCC 2007b. Summary for Policymakers, in Climate Change 2007: Impact, Adaptationa and Vulnerability, Contribution of Working Group II to the Fourth Assessment Report of the Intergovernmental Panel on Climate Change, Cambrige University Press, UK. Lomborg, B., 2001. Skeptical Environmentalist: Measuring the Real State of the World, Cambridge University Press. Lomborg, B., 2007. Cool It, The Skeptical Environmentalist, a Guide to Global Warming, Cyan Communications Ltd. Nordhaus, W.D., 1994. Managing the Global Commons, Cambridge MIT press. Nordhaus, W.D., 2007. ‘A review of Stern review on the economics of climate change’, Journal of Economics Literature, 45(3):686-702. Stern, N., 2006. Stern Review: The economics of climate change, Treasury Office of the Government of the United Kingdom and Northern Ireland. Stener, T. and Persson, M., 2008. ‘An even Sterner Review: Introducing relative prices into the discounting debate’, Paper presented at the European Association of Environmental and Resource Economistst 16th Annual Conference, 25-29 June 2008, Gothenburg, Sweden. Tol, R. and Yohe, G., 2006. ‘A review of Stern review’, World Economics, 7(4):233-50. Đỗ Nam Thắng – donamthang09@gmail.com 7 “Phân tích kinh tế về tác động của biến đổi khí hậu: các trường phái học thuật và định hướng nghiên cứu ở Việt Nam”- Tạp chí Kinh tế môi trường số tháng 9/2009
ADSENSE
Thêm tài liệu vào bộ sưu tập có sẵn:
Báo xấu
LAVA
AANETWORK
TRỢ GIÚP
HỖ TRỢ KHÁCH HÀNG
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn