Phân tích tính công bằng trong Luật biển quốc tế
Phạm Thanh Hữu
Tại công ước Luật biển năm 1982 sự ghi nhận nguyên tắc
công bằng ở những khía cạnh sau:
Một là, những quốc gia không biển hoặc bất lợi về biển
vẫn quyền vbiển đại dương. Thừa nhận những quyền
của các quốc gia không biển hoặc bất lợi về mặt địa
được sử dụng biển cả như những quốc gia biển phạm vi
luật biển cho phép nghĩa v không làm tổn hại đến
quyền sử dụng biển của những quốc gia khác. Với quy định
y đã trao cho những nước vị trí địa lý kém thuận lợi
quyền khai thác sử dụng biển, đây là tiền đto nên tính
công bằng của luật biển. Cụ thể khía cạnh này là: tại điều
17 của công ước quy định “với điều kiện phải chấp hành
công ước, tàu thuyền ca tt cả các quốc gia, bin hay
không biển, đều được hưởng quyền đi qua không gây hại
trong lãnh hải”. Ngoài ra tại công ước 1982 còn quy định
nhiều vấn đmang nh công bằng như: “các quốc gia không
biển hoc bất lợi về biển có quyền tự do hàng hải, tự do
hàng không, tự do đặt cáp ngầm, khai thác sinh vật biển
tại vùng tiếp giáp lãnh hải. Tại thềm lục địa c quốc gia
không ven biển được phép lắp đặt y cáp ngầm, ống dẫn
ngầm, thực hiện nghiên cu khoa học”. Hay tại vùng đặc
quyền kinh tế nếu quốc gia ven biển không khai thác hết tài
nguyên sinh vật biển thì quốc gia không biển quyền ra
đó khai thác tài nguyên dư đây một quy định ch mang
tính công bằng vmặt hình thức không ý nghĩa trong
thực tiễn; bởi trong thực tế chẳng có quốc gia nào lại tuyên
bố mình không khai thác hết tài nguyên sinh vật tại vùng này.
Hai là, không đặc biển dưới chủ quyền riêng biệt của bất kỳ
quốc gia nào. Quy định này nhằm bác bmọi yêu sách về
chủ quyền của biển cả ng nđối với vùng, di sản chung
của loài người. Với sự ghi nhận này thì tất cả các quốc gia
đều quyền tự do hàng hải, tự do hàng không, tự do lắp đặt
y cáp ngầm… tại biển cả.
Ba là, đặt vùng đáy biển dưới chế độ pháp di sản chung
của loài người. Vùng để ngỏ cho tất cả c quốc gia, quốc
gia biển hay kng biển để sử dụng vào mục đích hoàn
toàn hòa bình, không phân biệt đối xử. Mọi hoạt động trong
vùng được tiến hành là lợi ích của toàn th loài người,
không phụ thuộc vào vị tđịa của các quốc gia biển
hay không có biển. vấn đề này đã thhiện tính công bằng
trong luật biển là khác rõ nét.
Bốn là, phân chia các vùng biển chồng lấn xác định các
vùng biển. Áp dụng công bằng không nghĩa sửa chữa
lại tự nhiên đảm bảo cho mỗi quốc gia ven biển được
hưởng một vùng biển đúng công bằng, tính đến các
hoàn cảnh hữu quan. Trên gốc độ thuyết” thì khía cạnh
y thể hiện sự công bằng “tương đi”. Tuy nhiên gốc độ
“thực tiễn” thì khía cạnh này không được bảo đảm thực hiện
đúng luật. Bởi nhiều trường hp các quốc gia mạnh” ng
địa vị của mình để “áp đặt” những “nước yếu” và dn đến kết
quả của sự phân chia công bng đó “công bằng lệch
hướng”.
Nhìn nhận chung, không ai thể phủ nhận nguyên tắc ng
bằng ý nghĩa cùng quan trọng và không thể thiếu trong
luật biển quốc tế. Nguyên tắc này phần nào đã đảm bảo được
tính công bằng tương đối cho tất ccác quốc gia dù bin
hay không biển. Song trên thực tế nguyên tắc công bằng
không được đảm bảo đúng với “ý nghĩa thực sự tốt đẹp” của
trong một số trường hợp nhất định đã ảnh hưởng đến
quyền lợi ích hợp pháp của một số quốc gia. Bi trong
thực tiễn vẫn còn tồn tại cụm từ “cá lớn nuốt bé”. Do đó
để nguyên tắc công bằng thực sự phát huy tác dụng cũng như
mục đích cao ccủa thì cần shợp tác trên tinh thần
thiện chí của các quốc gia để tiến tới mục tiêu công bằng
phát triển nhân loại.
Ngày 4 tháng 1 năm 2011
Lưu ý: bài viết chỉ mang tính chất tham khảo
���������������������������������������������������������������������������
���������������������������������������������������������������������������������
�����������������������������������������������������