Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 20 * Số 2 * 2016<br />
<br />
<br />
PHẢN ỨNG CỦA TRẺ ĐỐI VỚI HAI KỸ THUẬT GÂY TÊ NGẤM<br />
TẠI CHỖ MỚI: SO SÁNH GIỮA GÂY TÊ HÀM TRÊN Ở MẶT NGOÀI<br />
VÀ MẶT KHẨU CÁI<br />
Phan Ái Hùng*<br />
<br />
TÓM TẮT<br />
Mục tiêu: Đánh giá và so sánh phản ứng đau của trẻ khi gây tê ngấm hàm trên phía hành lang và phía khẩu<br />
cái sau khi bôi tê bề mặt với EMLA 5%.<br />
Phương pháp:Thử nghiệm lâm sàng mù đơn, song song, thực hiện trên 62 trẻ có hành vi hợp tác (Frankl 3<br />
hoặc 4) trong độ tuổi 4 – 10 (trung bình 6,37 ± 1,71),có chỉ định gây tê tại chỗ hàm trên do yêu cầu nhổ răng. Mỗi<br />
trẻ được gây tê phía hành lang (kỹ thuật cắn – tựa – giật) và phía khẩu cái (kỹ thuật song song) sau khi gây tê bề<br />
mặt với EMLA 5%. Một phẫu thuật viên thực hiện toàn bộ các gây tê trong nghiên cứu. Ngay sau đó đánh giá<br />
biểu hiện đau của trẻ lúc đâm kim và lúc bơm thuốc tê (theo bảng đánh giá đau của Diana Ram). Sau mỗi mũi<br />
tiêm, hỏi trẻ cảm giác về gây tê theo thang đoWong & Baker Facial Pain Scale (WBFPS).<br />
Kết quả: cho thấy toàn bộ trẻ (trong điều kiện nghiên cứu) có cảm giác đau ở mức độ 0 – 2 theo thang đau<br />
Wong & Baker cho cả 2 kỹ thuật gây tê (hành lang với kỹ thuật cắn – tựa – giật, khẩu cái với kỹ thuật song song).<br />
Tuy nhiên trong đánh giá phản ứng đau khách quan, trẻ ít thể hiện “động đậy tay” và “nhíu mày” có ý nghĩa<br />
thống kê khi gây tê phía hành lang so vớigây tê phía khẩu cái.<br />
Kết luận: Không có sự khác biệt trong phản ứng đau giữa gây tê hành lang và gây tê khẩu cái ở trẻ em.<br />
Từ khóa: phản ứng đau, gây tê ngấm tại chỗ hàm trên, kỹ thuật cắn – tựa – giật, kỹ thuật song song.<br />
ABSTRACT<br />
REACTIONS OF CHILDREN TO MAXILLARY INFILTRATION: A COMPARISON OF PAIN ON<br />
INJECTIONS AT BUCCAL SITE VERSUS PALATAL SITE<br />
Phan Ai Hung * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Supplement of Vol. 20 - No 2 - 2016: 250 - 254<br />
<br />
Objective: To evaluate the pain responses of children during maxillary anesthetic infiltration with buccal<br />
technique versus palatal technique on the preparing the topical application of EMLA 5%.<br />
Method: This was a parallel, single-blind controlled trial. Sixty-two children (Frankl 3 or 4) with the ages of<br />
4 – 10 (mean age 6.37 ± 1.71) who needed extraction of maxillary primary teeth were included in this study. Each<br />
child received buccal anesthesia with “bite – hold tight – pull” technique and palatal anesthesia with “parallel”<br />
technique following topical application of EMLA 5%. One operator administered all injections. The modified<br />
Behavior Pain Scale (Diana Ram et al.) was used to assess pain responses during needle insertion and injection.<br />
Right after administering the local anesthesia on each site, children were required for ranking their feeling based<br />
on Wong and Baker Facial Pain Scale (WBFPS).<br />
Results: All children rated 0-2 on WBFPS both injections as a positive, non-painful experience and no<br />
discomfort was found with either buccal anesthesia or palatal anesthesia. However, from the Behavior Pain Scale,<br />
buccal technique was statistically significant less “hand movement” and “eyes squeeze” than palatal technique.<br />
Conclusion: There was no difference in pain responses of children during administration of local anesthesia<br />
either buccal or palatal site.<br />
<br />
* Bộ môn Nha khoa trẻ em – Khoa RHM, Đại học Y Dược TP.HCM<br />
Tác giả liên lạc: TS. Phan Ái Hùng ĐT: 0903856184 Email: phanaihung@yahoo.com<br />
<br />
250 Chuyên Đề Răng Hàm Mặt<br />
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 20 * Số 2 * 2016 Nghiên cứu Y học<br />
<br />
Key words: pain responses, maxillary anesthetic infiltration, “bite-hold tight-pull” technique, “parallel”<br />
technique.<br />
ĐẶT VẤN ĐỀ Thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên có nhóm<br />
chứng song song, mù đơn.<br />
Gây tê khẩu cái là một trong những thủ thuật<br />
gây đau nhiều nhất trong nha khoa và khó được Tiến trình nghiên cứu<br />
bệnh nhân chấp nhận. Đâm kim qua niêm mạc Mỗi trẻ lần lượt được gây tê phía hành lang<br />
có thể gây đau ở một mức độ nhất định nhưng bằng kỹ thuật cắn – tựa – giật và gây tê khẩu cái<br />
nguồn gây đau chủ yếu chính là sự dịch chuyển bằng kỹ thuật song song sau khi đã bôi thuốc tê<br />
của màng xương. Nhiều kỹ thuật đã được đề bề mặt EMLA 5%. Mũi tiêm đầu tiên được phân<br />
xuất (như tạo ra áp lực, sử dụng dòng điện, làm ngẫu nhiên ở phía hành lang hay khẩu cái và<br />
đông lạnh, dùng thuốc tê bề mặt) để khắc phục mũi tiêm thứ hai ở vị trí còn lại. Tất cả mũi tiêm<br />
cơn đau nhưng không có biện pháp nào được sử đều được thực hiện cùng một bác sĩ. Sử dụng<br />
dụng phổ biến hiệu quả và một số kỹ thuật còn thang đau dựa trên hành vi cải tiến (the modified<br />
đòi hỏi những thiết bị chuyên dụng(5,8).Vì vậy Behavioral Pain Scale – Diana Ram và cộng sự, 2007)<br />
gây tê nha khoa khẩu cái không đau vẫn là thách để đánh giá phản ứng đau của trẻ trong khi đâm<br />
thức và là yêu cầu đòi hỏi không chỉ của trẻ em kim và bơm thuốc tê. Ngay sau khi gây tê ở từng<br />
mà cả ở người lớn. vị trí, bác sĩ sẽ yêu cầu trẻ mô tả cảm giác đau<br />
Mục tiêu của nghiên cứu này là đánh giá bằng thang đau dựa trên hình dạng vẻ mặt của<br />
phản ứng đau của trẻ trong khi tiêm ngấm hàm Wong & Baker (Wong and Baker Facial Pain Scale).<br />
trên: so sánh giữa kỹ thuật gây tê mặt ngoài với Như vậy mỗi mũi tiêm sẽ có 2 giai đoạn để<br />
kỹ thuật gây tê khẩu cái sau khi đã bôi thuốc tê đánh giá:<br />
bề mặt EMLA 5%. - Khi đâm kim (giữ nguyên tư thế trong<br />
ĐỐITƯỢNG–PHƯƠNGPHÁPNGHIÊNCỨU khoảng 10s)<br />
- Bơm thuốc tê.<br />
Đối tượng nghiên cứu<br />
62 trẻ có hành vi hợp tác (Frankl 3 hoặc 4) với Xử lý thống kê<br />
độ tuổi 4 – 10 (trung bình 6,37 ± 1,71 tuổi) có nhu Kiểm định McNemar, kiểm định chính xác<br />
cầu nhổ răng hàm trên. Fisher (p