Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Số 4 * 2012<br />
<br />
Nghiên cứu Y học<br />
<br />
PHẢN ỨNG VỚI THUỐC CHỐNG LAO:<br />
NGHIÊN CỨU HỒI CỨU TẠI BỆNH VIỆN PHẠM NGỌC THẠCH<br />
Nguyễn Thị Bích Yến*, Nguyễn Hữu Lân*<br />
<br />
TÓM TẮT<br />
Đặt vấn đề: Phản ứng với thuốc chống lao (PƯTCL) trong quá trình điều trị có thể ảnh hưởng đến sự<br />
tuân thủ và kết quả điều trị lao cho người bệnh. Ở Việt Nam, số liệu về PƯTCL còn chưa nhiều.<br />
Mục tiêu: Mô tả về PƯTCL của các bệnh nhân (BN) điều trị nội trú tại bệnh viện Phạm Ngọc Thạch, thành<br />
phố Hồ Chí Minh, Việt Nam trong năm 2010.<br />
Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu hồi cứu hồ sơ của 315 BN lao bị PUTCL.<br />
Kết quả: Trong số 315 BN nhập viện vì PƯTCL tại bệnh viện Phạm Ngọc Thạch trong năm 2010, có 203<br />
(64,4%) nam và 112 (35,6%) nữ; tuổi trung bình 46 (từ 15-91 tuổi). Thuốc nghi ngờ gây phản ứng thường là<br />
rifampicin (88/315, 27,9%), pyrazinamide (81/315, 25,7%) và streptomycin (78/315, 24,8%). Isoniazid và<br />
ethambutol ít gặp hơn (theo thứ tự là 43/315, 13,7% và 33/315, 10,5%). Triệu chứng để BN nhập viện thường<br />
gặp nhất (149/315, 47,3%) là triệu chứng về da như mẩn ngứa, nhiễm độc da, mày đay, phù mạch, đỏ da toàn<br />
thân, hội chứng Stevens-Johnson; tiếp theo là các triệu chứng nôn, buồn nôn, đau bụng (51/315, 16,2%), vàng da<br />
(27/315, 8,6%). Thuốc chống lao được ngưng sử dụng và khi cho 177/315 (56,2%) BN dùng lại thuốc với liều<br />
lượng khác nhau, có 128/177(72,3%) BN tái xuất hiện triệu chứng phản ứng với thuốc, 26/177 (14,7%) BN<br />
không có triệu chứng phản ứng với thuốc và còn 23/177 (13%) BN có phản ứng với thuốc không rõ ràng.<br />
Kết luận: Nghiên cứu này cho thấy quy trình thử thuốc hiện nay được sử dụng rất đa dạng và không dựa<br />
trên bằng chứng tốt. Nghiên cứu tiến cứu dựa trên bằng chứng và quy trình thử thuốc cần được phát triển để<br />
hướng dẫn lâm sàng thực hiện thử thuốc cho BN bị phản ứng với thuốc khi đang điều trị lao.<br />
Từ khóa: Bệnh nhân lao, thuốc kháng lao, phản ứng với thuốc.<br />
<br />
ABSTRACT<br />
ADVERSE REACTIONS OF ANTI-TUBERCULOSIS DRUGS: A RETROSPECTIVE STUDY<br />
IN PHAM NGOC THACH HOSPITAL<br />
Nguyen Thi Bich Yen, Nguyen Huu Lan * Y hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 – No 4– 2012: 215 - 221<br />
Introduction: Adverse drug reactions (ADRs) due to anti-tuberculosis therapy can effect on adherence and<br />
outcome. In Vietnam, data of anti-TB-induced ADRs are limited.<br />
Objectives: To describe ADRs to antituberculous agents among in-patient admissions at Pham Ngoc Thach<br />
Hospital, Ho Chi Minh City, Viet Nam in 2010.<br />
Methods: A retrospective study reviewed 315 records of all TB patients with ADRs.<br />
Results: Of the 315 patients admitted with suspected antituberculous therapy-associated ADRs, there were<br />
203 (64.4%) males and 112 (35.6%) females; mean age was 46 (range: 15 to 91) years old. The majority of<br />
detected ADRs were attributed to rifampicin (88/315, 27.9%), pyrazinamide (81/315, 25.7%) or streptomycin<br />
(78/315, 24.8%). Isoniazid and ethambutol were suspected as the causative agent less frequently (43/315, 13,7%<br />
and 33/315, 10,5%, respectively). The highest percentage of ADRs (149/315, 47.3%) causing hospital admission<br />
*Bệnh viện Phạm Ngọc Thạch, Tp. Hồ Chí Minh.<br />
Tác giả liên lạc: BS. Nguyễn Hữu Lân<br />
ĐT: 0913185885<br />
<br />
Email: nguyenhuulan1965@gmail.com<br />
<br />
215<br />
<br />
Nghiên cứu Y học<br />
<br />
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Số 4 * 2012<br />
<br />
was skin rash, toxidermia, urticaria, angioedema, erythroderma, Stevens-Johnson syndrome; nausea, vomiting,<br />
abdominal pain (51/315, 16.2%), icterus (27/315, 8.6%). Anti-tuberculosis drugs were stopped and then<br />
rechallenged in 177/315 (56.2%) patients with different doses, of whom 128/177 (72.3%) developed reintroduction reactions, 26/177 (14.7%) had no recurrence of ADR symptoms and the remaining (23 patients,<br />
13%) had unclear reactions.<br />
Conclusion: This study demonstrates that method of antituberculosis drugs rechallenging is highly variable<br />
and not based on good evidence. It is necessary to develop a prospective evidence base and a clinical aligorithm to<br />
guide clinicians in the reintroduction of anti-TB drugs after the development of ADR in patients with TB.<br />
Key words: TB patient, antituberculous agent, adverse drug reactions.<br />
mới tại 16 bệnh viện quốc gia ở Nhật năm 1996<br />
ĐẶT VẤN ĐỀ<br />
bị ngừng hay gián đoạn isoniazid và rifampicin<br />
Phản ứng với thuốc thường gặp trong thực<br />
trong thời gian điều trị lao(2), các tác giả thấy tỷ<br />
hành y khoa. Tất cả các thuốc điều trị bệnh đều<br />
lệ khỏi bệnh (cấy âm hóa sau thời gian điều trị)<br />
có thể gây phản ứng bất lợi cho bệnh nhân. Việc<br />
ở nhóm BN bị gián đoạn isoniazid và rifampicin<br />
điều trị bệnh lâu dài với nhiều loại thuốc làm<br />
(88,9%) thấp hơn so với nhóm không bị gián<br />
tăng khả năng bị phản ứng với thuốc. Theo Tổ<br />
đoạn (98,9%).<br />
chức y tế thế giới (WHO), phản ứng với thuốc<br />
Cũng như các kháng sinh khác, tác dụng<br />
“Là những phản ứng độc hay có hại không<br />
phụ do thuốc lao rất đa dạng trên lâm sàng. Một<br />
được mong đợi đối với thuốc, xảy ra ở liều<br />
số nghiên cứu đã nhận thấy yếu tố cơ địa, chủng<br />
thông thường khi được sử dụng trên người để<br />
tộc châu Á của bệnh nhân đóng vai trò quan<br />
dự phòng, chẩn đoán hoặc điều trị bệnh hay để<br />
trọng trong sự xuất hiện phản ứng với thuốc<br />
thay đổi chức năng sinh lý”(9). Các phản ứng này<br />
chống lao(5,12). Phản ứng với thuốc chống lao làm<br />
dẫn tới việc ngừng điều trị thuốc đó, hoặc là<br />
cho việc điều trị lao bị gián đoạn, có thể phải<br />
nguyên nhân để bệnh nhân nhập viện(12).<br />
thay đổi công thức thuốc, và ảnh hưởng tới kết<br />
Lao là một bệnh nhiễm khuẩn phổ biến ở<br />
quả điều trị lao.<br />
Việt Nam. Theo WHO, năm 2010, tần suất lao tại<br />
Bệnh viện Phạm Ngọc Thạch là bệnh viện<br />
Việt Nam là 290 ca bệnh/100.000 dân (kể cả<br />
chuyên khoa lao và bệnh phổi tuyến cuối tại<br />
người nhiễm HIV), tỉ suất lao mới hàng năm là<br />
khu vực phía Nam Việt Nam, thường tiếp nhận<br />
180/100.000 dân(11). Dựa vào chiến lược DOTS<br />
điều trị các trường hợp phản ứng với thuốc<br />
thông qua mạng lưới chống lao tuyến cơ sở, đến<br />
chống lao. Hàng năm, số bệnh nhân nhập viện<br />
năm 2007, chương trình chống lao quốc gia<br />
vì phản ứng với thuốc khoảng 300 người. Cho<br />
(CTCLQG) nước ta đã đạt được mục tiêu của<br />
đến nay, vẫn chưa có nhiều thông tin về tình<br />
WHO đặt ra là phát hiện trên 70% các ca lao<br />
hình phản ứng với thuốc chống lao tại bệnh<br />
phổi mới AFB (+) và điều trị lành bệnh trên 85%<br />
viện Phạm Ngọc Thạch, và ảnh hưởng của nó<br />
những ca này(10). Tuy nhiên những thách thức<br />
tới việc điều trị lao. Chúng tôi tiến hành một<br />
cũng đang gia tăng, đó là tình hình lao/HIV, lao<br />
nghiên cứu hồi cứu trên bệnh nhân phản ứng<br />
đa kháng thuốc, siêu kháng thuốc xuất hiện. Vì<br />
với thuốc chống lao nhập bệnh viện Phạm Ngọc<br />
vậy, mặc dù được điều trị và quản lý, lao vẫn là<br />
Thạch trong 2010, nhằm mô tả một số đặc điểm<br />
một vấn đề sức khỏe đáng lo ngại của Việt Nam.<br />
lâm sàng và xét nghiệm của những bệnh nhân<br />
Phản ứng với thuốc chống lao làm phức tạp<br />
này. Chúng tôi hy vọng những số liệu bước đầu<br />
thêm việc điều trị lao, làm thay đổi hay gián<br />
có thể làm cơ sở cho những nghiên cứu sâu hơn<br />
đoạn điều trị, và cũng là lý do quan trọng làm<br />
về loại bệnh này trong tương lai.<br />
BN kém tuân thủ điều trị lao. Trong một nghiên<br />
cứu về kết quả điều trị lao ở 597 BN lao phổi<br />
<br />
216<br />
<br />
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Số 4 * 2012<br />
<br />
Nghiên cứu Y học<br />
<br />
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU<br />
<br />
hạn trên của trị số bình thường.<br />
<br />
Hồi cứu hồ sơ toàn bộ các bệnh nhân lao<br />
nhập bệnh viện Phạm Ngọc Thạch vì phản ứng<br />
với thuốc chống lao trong năm 2010. Thu thập<br />
các thông tin từ hồ sơ bệnh án về tuổi, giới, tiền<br />
sử dị ứng và bệnh tật khác; thời gian phản ứng<br />
với thuốc; triệu chứng phản ứng với thuốc; khả<br />
năng các thuốc nghi gây ra phản ứng cho BN và<br />
phân độ nặng của phản ứng với thuốc cũng như<br />
các chỉ số xét nghiệm.<br />
<br />
Mức 2: AST / ALT / bilirubin từ > 5-10 lần<br />
giới hạn trên của trị số bình thường.<br />
<br />
Một thuốc được cho là có khả năng gây ra<br />
phản ứng cho bệnh nhân khi các triệu chứng<br />
hoặc dấu hiệu phản ứng không còn nữa sau khi<br />
BN ngừng thuốc và tái xuất hiện khi thử điều trị<br />
lại với thuốc đó(12).<br />
Phân độ nặng của phản ứng với thuốc<br />
(PƯT): Theo Hartwig(3)<br />
Độ 1: Có 1 PƯT xảy ra nhưng không thay<br />
đổi điều trị với thuốc nghi ngờ.<br />
Độ 2: PƯT xảy ra có thể đòi hỏi ngừng<br />
điều trị với thuốc nghi ngờ hoặc đổi thuốc,<br />
nhưng không cần thuốc giải độc hay các điều<br />
trị đặc hiệu khác. Không kéo dài thời gian<br />
nằm viện của BN.<br />
Độ 3: PƯT xảy ra có thể đòi hỏi ngừng điều<br />
trị với thuốc nghi ngờ hoặc đổi thuốc, và/hoặc<br />
cần thuốc giải độc hay các điều trị đặc hiệu<br />
khác. Không kéo dài thời gian nằm viện của BN.<br />
Độ 4: Mức 3 và tăng thời gian nằm viện<br />
của BN ít nhất 1 ngày, hoặc PƯT là lý do BN<br />
nhập viện.<br />
Độ 5: Mức 4 và cần điều trị tích cực.<br />
Độ 6: PƯT gây tổn hại vĩnh viễn cho BN.<br />
Độ 7: PƯT trực tiếp hay gián tiếp gây tử<br />
vong cho BN.<br />
Độ nặng của nhiễm độc gan ở bệnh nhân<br />
dùng thuốc lao được chia làm 4 mức, dựa vào<br />
chỉ số transaminase (AST, ALT) và bilirubin<br />
toàn phần(12).<br />
Mức 0: AST / ALT / bilirubin < 3 lần giới hạn<br />
trên của trị số bình thường.<br />
Mức 1: AST / ALT / bilirubin từ > 3-5 lần giới<br />
<br />
Mức 3: AST / ALT / bilirubin từ > 10 lần giới<br />
hạn trên của trị số bình thường.<br />
Các số liệu sau khi thu thập sẽ được mã hóa<br />
và nhập vào máy vi tính, sử dụng phần mềm<br />
thống kê SPSS 16.0 để xử lý. Chúng tôi sử dụng<br />
phép kiểm Mann-Whitney để so sánh sự khác<br />
biệt giữa hai nhóm bệnh nhân cho các biến định<br />
lượng và phép kiểm 2 để so sánh sự khác biệt<br />
về tỷ lệ giữa hai nhóm bệnh nhân cho các biến<br />
định tính. Thực hiện phép kiểm chính xác của<br />
Fisher (Fisher’s Exact Test) nếu có trên 20% số ô<br />
trong bảng chéo có tần số mong đợi nhỏ hơn 5.<br />
Tất cả các phương pháp kiểm định giả thuyết<br />
được thực hiện bằng cách sử dụng kiểm định 2<br />
bên (two-sided alternatives). Ngưỡng ý nghĩa là<br />
0,05 (p < 0,05) để chấp nhận hay bác bỏ giả<br />
thuyết thống kê.<br />
<br />
KẾT QUẢ<br />
Tuổi, giới và thể lao<br />
Trong năm 2010, bệnh viện Phạm Ngọc<br />
Thạch thu nhận điều trị nội trú 315 bệnh nhân<br />
có phản ứng với thuốc chống lao, trong đó có<br />
203 BN nam (64,4%) và 112 BN nữ (35,6%). Tỷ lệ<br />
nam/nữ là 1,8/1. Tuổi trung bình của BN là 46 ±<br />
17,5 tuổi (từ 15-91 tuổi). Tuổi trung bình bệnh<br />
nhân nam là 48 ± 17 tuổi, nữ là 44 ± 19 tuổi (p <<br />
0,05). Có 71/315 (22,5%) BN ≥ 60 tuổi. Không có<br />
khác biệt có ý nghĩa thống kê về tỷ lệ bệnh nhân<br />
theo lứa tuổi và giới tính (p > 0,2).<br />
Trong số BN bị phản ứng với thuốc chống<br />
lao nhập viện năm 2010, lao phổi AFB (+) và<br />
AFB (-) chiếm 48,6% (153/315 BN), lao ngoài<br />
phổi chiếm 25,1% (79/315 BN), 13,7% BN là lao<br />
phổi đa kháng thuốc (MDR).<br />
Đa số bệnh án không có thông tin về tiền<br />
sử hút thuốc lá, uống rượu hay ma túy của<br />
BN do nhân viên y tế không hỏi, với tỷ lệ<br />
tương ứng là 69,5%, 75,9% và 74%. 80/315<br />
(25,4%) BN có tiền sử điều trị lao trước từ 1<br />
đến 4 lần. Số BN có tiền sử dị ứng thuốc lao là<br />
<br />
217<br />
<br />
Nghiên cứu Y học<br />
23/315 người (7,3%) và 3 trường hợp có tiền<br />
sử dị ứng với các thuốc khác (1%).<br />
<br />
Bệnh kèm theo<br />
Ngoài mắc lao, 129/315 (41%) bệnh nhân<br />
trong nghiên cứu này có kèm thêm các bệnh<br />
khác. Nhiều nhất là nhiễm HIV (46 BN =<br />
14,6%), sau đó là tiểu đường (20 BN = 15,5%).<br />
Còn lại là các bệnh khác như hen phế quản,<br />
bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính, vẩy nến, xơ<br />
gan, gout, suy thận mạn...<br />
Trong thời gian nằm viện, đa số BN không<br />
được chẩn đoán nhiễm HBV, HCV và HIV, với<br />
tỷ lệ tương ứng là 70,2%, 69,8% và 56,8%. Trong<br />
số BN được làm xét nghiệm, tỷ lệ BN có HBsAg<br />
(+) là 8/94 BN (8,5%), anti-HCV (+) là 15/95 BN<br />
(15,8%) và HIV(+) là 46/136 BN (33,8%).<br />
<br />
Thuốc nghi gây phản ứng cho BN<br />
BN điều trị thuốc chống lao có thể bị phản<br />
ứng với 1 hay nhiều loại thuốc. Trong số BN<br />
mà chúng tôi khảo sát ở nghiên cứu này, có<br />
131 (41,6%) BN nghi bị phản ứng với 1 loại<br />
thuốc lao, 29,8% BN nghi có phản ứng cùng<br />
lúc với 2 đến 6 loại thuốc chống lao. Thuốc<br />
nghi ngờ gây phản ứng cho BN thường gặp<br />
nhất là rifampicin (88/315 = 27,9%),<br />
pyrazinamide (81/315, 25,7%) và streptomycin<br />
(78/315, 24,8%) sau đó là isoniazid (43/315,<br />
13,7%), và ethambutol (33/315, 10,5%). Có 37<br />
trường hợp phản ứng với thuốc chống lao<br />
hàng hai (11,8%). 90 BN (28,6%) không rõ<br />
thuốc gây phản ứng. Số lượng thuốc lao bị<br />
phản ứng (phản ứng với 1 loại thuốc lao, 2<br />
loại thuốc lao, trên 3 loại thuốc lao) không<br />
khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa bệnh nhân<br />
chưa điều trị lao hay đã điều trị lao trong tiền<br />
sử (p > 0,2), bệnh nhân đang điều trị các công<br />
thức khác nhau (SHRZ, EHRZ, SHREZ, công<br />
thức điều trị lao đa kháng) (p > 0,7).<br />
<br />
Triệu chứng phản ứng với thuốc chống lao<br />
khiến BN nhập viện<br />
149 (47,3%) BN nhập viện có triệu chứng về<br />
da (mẩn ngứa, đỏ da toàn thân, mày đay, nhiễm<br />
độc da, hội chứng Stevens-Johnson, phù<br />
<br />
218<br />
<br />
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Số 4 * 2012<br />
mạch...). Sau đó là triệu chứng về tiêu hóa (nôn,<br />
buồn nôn, đau bụng) (51 BN, 16,2%), vàng da<br />
(27 BN, 8,6%), chóng mặt, ù tai (20 BN, 6,3%),<br />
ngất xỉu, sốc, mệt ngày càng tăng (20 BN, 6,3%),<br />
sốt (10 BN, 3,2%), đau khớp (9 BN, 2,9%), tê da,<br />
tê môi (5 BN, 1,6%), và các triệu chứng khác.<br />
Chỉ có 296 BN có ghi nhận thời gian từ khi<br />
điều trị lao đến khi có triệu chứng phản ứng với<br />
thuốc trong bệnh án. Thời gian trung vị từ khi<br />
điều trị lao đến khi BN có triệu chứng phản ứng<br />
với thuốc là 27 ngày (từ 1-350 ngày). Trong đó,<br />
16,2 % (48 BN) có phản ứng trong tuần đầu tiên<br />
sau khi dùng thuốc, 66,2% (196 BN) có phản ứng<br />
trong tháng đầu tiên, 86,8% (257 BN) có phản<br />
ứng trong vòng 2 tháng đầu tiên sau điều trị lao.<br />
Thời gian trung vị từ khi BN có triệu chứng<br />
phản ứng với thuốc đến khi vào viện là 7 ngày<br />
(từ 1-300 ngày).<br />
Trong 293 BN (93%) được thử men gan và<br />
bilirubin, có 210 BN (71,7%) có chỉ số men gan<br />
bình thường; 25 BN (8,5%) có viêm gan mức độ<br />
1 (men gan, bilirubin toàn phần > 3-5 lần giới<br />
hạn trên của trị số bình thường); 23 BN (7,9%) có<br />
viêm gan mức độ 2 (men gan, bilirubin toàn<br />
phần từ 5-10 lần giới hạn trên của trị số bình<br />
thường); 35 BN (11,9%) có viêm gan mức độ 3<br />
(men gan, bilirubin toàn phần > 10 lần giới hạn<br />
trên của trị số bình thường).<br />
<br />
Kết quả thử thuốc bằng đường uống<br />
Trong thời gian nằm viện, chỉ 177 BN được<br />
thử thuốc (56,2%). Trong số đó, 128 BN (72,3%)<br />
xuất hiện lại triệu chứng phản ứng với thuốc, 26<br />
BN (14,7%) không có triệu chứng phản ứng với<br />
thuốc và 23 BN (13%) có phản ứng không rõ<br />
ràng. Số ngày trung bình BN ngừng điều trị lao<br />
đến khi lâm sàng ổn định để thử thuốc là 8,3 ±<br />
9,5 ngày (trung vị 6 ngày, từ 0-90 ngày).<br />
Có 111 BN thử streptomycin với liều đầu<br />
tiên trung bình là 634 ± 222 mg (từ 251000mg); 150 BN được thử rifampicin với liều<br />
<br />
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Số 4 * 2012<br />
<br />
Nghiên cứu Y học<br />
<br />
đầu tiên là 259 ± 151 mg (từ 37-600mg); 175<br />
<br />
có tiền sử dị ứng thuốc, hút thuốc lá, hoặc BN<br />
<br />
BN được thử isoniazid với liều đầu tiên là 217<br />
<br />
lớn tuổi(5,12). Một nghiên cứu cũng cho thấy<br />
<br />
± 87 mg (từ 50-400 mg); 179 BN được thử<br />
<br />
BN lao có mức IgE toàn phần và IgE đặc hiệu,<br />
<br />
ethambutol với liều 703 ± 288 mg (từ 100-<br />
<br />
interleukin (IL)-6 và interferon (IFN) gamma<br />
<br />
1200mg); 150 BN được thử pyrazinamide với<br />
<br />
cao hơn người khỏe mạnh, chứng tỏ BN lao<br />
<br />
liều 794 ± 420 mg (từ 60-1600 mg).<br />
<br />
có tăng mức mẫn cảm hơn người bình<br />
<br />
Khi thử thuốc, 23 BN (13%) có thời gian từ<br />
<br />
thường. Sau khi điều trị lao khỏi, mức IgE và<br />
<br />
khi dùng thuốc đến khi xuất hiện lại triệu<br />
<br />
một số cytokin (IL-6, IFN gamma) trong huyết<br />
<br />
chứng phản ứng dưới 6 giờ, 69 BN (39%) có<br />
<br />
thanh của BN giảm xuống(1). Vì vậy, việc khai<br />
<br />
thời gian xuất hiện phản ứng từ 6-48 giờ sau<br />
<br />
thác kỹ tiền sử phản ứng với thuốc trước điều<br />
<br />
dùng thuốc, 53 BN (30%) có thời gian xuất<br />
<br />
trị lao là rất quan trọng, có thể góp phần hạn<br />
<br />
hiện phản ứng trên 48 giờ và 32 BN (18%)<br />
<br />
chế tình trạng phản ứng với thuốc xảy ra sau<br />
<br />
không được ghi nhận thời gian có phản ứng.<br />
<br />
này.<br />
<br />
Trong phác đồ tái điều trị được chỉ định cho<br />
<br />
Về lâm sàng, chúng tôi thấy 47,3% BN nhập<br />
<br />
BN, thuốc nghi phản ứng bị loại bỏ trong<br />
<br />
viện vì triệu chứng phản ứng da ở các mức độ<br />
<br />
88,5% các trường hợp. Có 107 BN (34%) không<br />
<br />
khác nhau như mẩn ngứa, đỏ da toàn thân, mày<br />
<br />
nhận được chỉ định điều trị sau khi ra viện.<br />
<br />
đay, nhiễm độc da, hội chứng Stevens-Johnson,<br />
<br />
BÀN LUẬN<br />
<br />
phù mạch.... Triệu chứng về tiêu hóa (nôn, buồn<br />
<br />
Phản ứng với thuốc trong điều trị lao là<br />
một yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến kết quả<br />
điều trị cho bệnh nhân. Những nghiên cứu<br />
khác nhau đưa ra những số liệu khác nhau về<br />
tình hình phản ứng với thuốc chống lao ở<br />
từng khu vực. Trong nghiên cứu này, chúng<br />
tôi thấy BN phản ứng với thuốc chống lao<br />
thường ở lứa tuổi trung niên trở lên, trung<br />
bình là 46 tuổi; có 32,7% BN là người trên 55<br />
tuổi. Có 25,4% BN có tiền sử điều trị lao<br />
trước, và 41% BN có mắc thêm những bệnh<br />
mạn tính khác, đặc biệt là tình trạng nhiễm<br />
HIV (35,7%). 7,3% BN có tiền sử phản ứng với<br />
thuốc chống lao nhưng vẫn được điều trị lao<br />
với phác đồ có thuốc nghi phản ứng, có thể<br />
do bác sĩ tuyến cơ sở chưa chú ý đến việc khai<br />
thác tiền sử phản ứng với thuốc của người<br />
bệnh trước khi đưa ra chỉ định điều trị. Nhiều<br />
tác giả nhận thấy phản ứng với thuốc chống<br />
lao thường gặp ở người có tiền sử điều trị lao,<br />
<br />
nôn, đau bung…) xuất hiện ở 16,2% BN; các<br />
triệu chứng khác có tỷ lệ ít hơn. Viêm gan gặp<br />
trong 28,3% các BN có phản ứng với thuốc<br />
chống lao nhập viện. Trong số họ, 70% BN có<br />
mức độ viêm gan trung bình và nặng, với các<br />
chỉ số transaminase và bilirubin toàn phần trong<br />
máu tăng hơn 5 lần giới hạn trên của chỉ số bình<br />
thường. Theo Richard Zaleskis, nếu viêm gan<br />
mức độ nhẹ (mức 1), BN không cần thay đổi<br />
điều trị, nhưng cần được theo dõi chặt chẽ,<br />
thường xuyên hơn về lâm sàng và xét nghiệm.<br />
Nếu viêm gan mức độ trung bình (mức 2), nên<br />
ngừng điều trị lao càng sớm càng tốt, và BN cần<br />
nhập viện để đề phòng suy gan cấp. Viêm gan<br />
nặng (mức 3) xảy ra với tần suất khoảng 1/1000<br />
trường hợp điều trị lao, có tỷ lệ suy gan cấp và<br />
tỷ lệ tử vong cao (2,5%)(14). Khi BN có dấu hiệu<br />
viêm gan, rất khó phân biệt nguyên nhân do<br />
thuốc lao hay do BN có tình trang viêm gan hoạt<br />
động do nhiễm siêu vi, nhất là ở khu vực có tần<br />
<br />
219<br />
<br />