BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
-----------------------------
LUẬN VĂN THẠC SĨ
PHÁP LUẬT VỀ BỒI THƯỜNG KHI NHÀ NƯỚC
THU HỒI ĐẤT CỦA CÁC HỘ GIA ĐÌNH, CÁ NHÂN
QUA THỰC TIỄN THI HÀNH TẠI
THÀNH PHỐ HẠ LONG, TỈNH QUẢNG NINH
Ngành: Luật Kinh tế
LÊ TUẤN ANH
Hà Nội - 2019
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
-----------------------------
LUẬN VĂN THẠC SĨ
PHÁP LUẬT VỀ BỒI THƯỜNG KHI NHÀ NƯỚC
THU HỒI ĐẤT CỦA CÁC HỘ GIA ĐÌNH, CÁ NHÂN
QUA THỰC TIỄN THI HÀNH TẠI
THÀNH PHỐ HẠ LONG, TỈNH QUẢNG NINH
Ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 8380107
Học viên Cao học: Lê Tuấn Anh
Người hướng dẫn khoa học: GS.TS. Nguyễn Thị Mơ
Hà Nội - 2019
i
LỜI CẢM KẾT
Tôi xin cam kết luận văn này là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của
tôi. Các tài liệu, số liệu sử dụng trong luận văn có trích nguồn rõ ràng, đầy đủ, các
kết quả nghiên cứu là xác thực và trung thực của tác giả.
Tác giả luận văn
Lê Tuấn Anh
ii
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn trân thành nhất tới sự hướng dẫn hết sức nhiệt tình
của GS. TS Nguyễn Thị Mơ, trường Đại học Ngoại thương
Tôi cũng xin được bày tỏ sự cảm ơn sâu sắc tới các cán bộ, giảng viên của Cơ
sở Quảng Ninh, Khoa Luật, Khoa sau đại học của Nhà trường, về sự tận tình, tận
tâm giúp đỡ tôi trong quá trình học tập và nghiên cứu luận văn.
Do thời gian và trình độ còn hạn chế, tác giả rất mong nhận được sự góp ý của
các thầy cô giáo để luận văn được hoàn thiện hơn.
Trân trọng cảm ơn!
Tác giả luận văn
Lê Tuấn Anh
iii
MỤC LỤC LỜI CẢM KẾT ......................................................................................................... i
LỜI CẢM ƠN ........................................................................................................... ii
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT ................................................................................. vii
DANH MỤC BẢNG .............................................................................................. viii
TÓM TẮT KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU CỦA LUẬN VĂN THẠC SĨ ................ ix
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁP LUẬT BỒI THƯỜNG
KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT CỦA CÁC HỘ GIA ĐÌNH, CÁ NHÂN ....... 8
1.1. Khái niệm về đất đai và phân loại đất đai .................................................... 8
1.1.1. Khái niệm về đất đai ................................................................................ 8
1.1.2. Phân loại đất đai ...................................................................................... 8
1.2. Khái niệm và căn cứ pháp lý để thu hồi đất ............................................... 10
1.2.1. Khái niệm về thu hồi đất ....................................................................... 10
1.2.2. Căn cứ pháp lý để thu hồi đất ............................................................... 11
1.3. Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của việc bồi thường khi Nhà nước thu
hồi đất .................................................................................................................... 13
1.3.1. Khái niệm về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất ............................ 13
1.3.2. Đặc điểm của việc bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất.................... 14
1.3.3. Ý nghĩa của việc bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất ...................... 16
1.4. Khái niệm và đặc điểm và cơ cấu của pháp luật về bồi thường khi Nhà
nước thu hồi đất của các hộ gia đình, cá nhân .................................................. 18
1.4.1. Khái niệm về hộ gia đình, cá nhân ....................................................... 18
1.4.2. Khái niệm pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất của hộ
gia đình, cá nhân ............................................................................................. 20
1.4.3. Đặc điểm của pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất của
hộ gia đình, cá nhân ........................................................................................ 21
1.4.4. Cơ cấu pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất của hộ gia
đình, cá nhân ................................................................................................... 22
iv
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN THỰC THI
PHÁP LUẬT VỀ BỒI THƯỜNG KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT CỦA
CÁC HỘ GIA ĐÌNH, CÁ NHÂN TẠI THÀNH PHỐ HẠ LONG, TỈNH QUẢN
NINH ........................................................................................................................ 26
2.1. Thực trạng pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất của các hộ
gia đình, cá nhân .................................................................................................. 26
2.1.1. Quy định về nguyên tắc bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất của các
hộ gia đình, cá nhân ........................................................................................ 26
2.1.2. Quy định về căn cứ và nội dung bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất
của các hộ gia đình, cá nhân .......................................................................... 28
2.1.3. Quy định về trình tự, thủ tục bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất
của các hộ gia đình, cá nhân .......................................................................... 32
2.1.4. Quy định về giải quyết khiếu nại, tố cáo liên quan đến bồi thường khi
Nhà nước thu hồi đất của các hộ gia đình, cá nhân ..................................... 35
2.2. Thực tiễn thực thi pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất của
các hộ gia đình, cá nhân tại thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh ............... 37
2.2.1. Thực tiễn thi hành các nguyên tắc bồi thường khi Nhà nước thu hồi
đất của các hộ gia đình, cá nhân tại thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh
.......................................................................................................................... 37
2.2.2. Thực tiễn thực thi các quy định về điều kiện và nội dung bồi thường
khi Nhà nước thu hồi đất của các hộ gia đình, cá nhân tại thành phố Hạ
Long, tỉnh Quảng Ninh ................................................................................... 38
2.2.3. Thực tiễn thực thi các quy định về trình tự, thủ tục bồi thường khi
Nhà nước thu hồi đất của các hộ gia đình, cá nhân tại thành phố Hạ Long,
tỉnh Quảng Ninh .............................................................................................. 45
2.2.4. Thực tiễn giải quyết khiếu nại về bồi thường khi Nhà nước thu hồi
đất của các hộ gia đình, cá nhân tại địa bàn thành phố Hạ Long, tỉnh
Quảng Ninh ..................................................................................................... 49
v
2.2.5. Đánh giá về thực tiễn thực thi pháp luật về bồi thường khi Nhà nước
thu hồi đất của các hộ gia đình, cá nhân tại thành phố Hạ Long, tỉnh
Quảng Ninh ..................................................................................................... 52
CHƯƠNG 3: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP
LUẬT VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC THI PHÁP LUẬT VỀ BỒI
THƯỜNG KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT CỦA CÁC HỘ GIA ĐÌNH, CÁ
NHÂN TẠI THÀNH PHỐ HẠ LONG, TỈNH QUẢNG NINH .......................... 55
3.1. Nhu cầu và phương hướng hoàn thiện pháp luật bồi thường khi Nhà
nước thu hồi đất của hộ gi đình, cá nhân từ thực tiễn thành phố Hạ Long ... 55
3.1.1. Sự cần thiết phải hoàn thiện pháp luật bồi thường khi Nhà nước thu
hồi đất của hộ gi đình, cá nhân từ thực tiễn thành phố Hạ Long ................ 55
3.1.2. Phương hướng hoàn thiện pháp luật bồi thường khi Nhà nước thu
hồi đất từ thực tiễn thành phố Hạ Long ........................................................ 57
3.2. Nhóm giải pháp hoàn thiện pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu
hồi đất của các hộ gia đình, cá nhân .................................................................. 60
3.2.1. Tiếp tục sửa đổi Luật Đất đi năm 2013 ................................................ 60
3.2.2. Hoàn thiện khung pháp lý về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất
của HGĐ, CN trên cơ sở đảm bảo tính thống nhất, đồng bộ và tính ổn định
.......................................................................................................................... 62
3.2.3. Bổ sung quy định bồi thường cho HGĐ, CN bị thu hồi đất gắn với an
sinh xã hội, bảo đảm đời sống lâu dài của họ ................................................ 63
3.3. Nhóm giải pháp nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về bồi thường khi
Nhà nước thu hồi đất của các hộ gia đình cá nhân tại thành phố Hạ Long,
tỉnh Quảng Ninh .................................................................................................. 64
3.3.1. Thực hiện quy trình công khai, minh bạch, dân chủ trong công khai
các dự án đầu tư, bồi thường khi thu hồi đất ................................................ 64
3.3.2. Tăng cường tuyên truyền Luật Đất đai 2013 và các quy định pháp luật
về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất ........................................................ 65
3.3.3. Thực hiện các phương thức và nâng cao trách nhiệm của tổ chức và
đội ngũ cán bộ thực thi pháp luật ................................................................... 67
vi
3.3.4. Giải quyết kịp thời các khiếu nại, tố cáo của nhân dân về bồi thường
khi Nhà nước thu hồi đất ................................................................................ 68
3.3.5. Đảm bảo chính sách an sinh xã hội cho người bị thu hồi đất ............ 68
3.4. Một số kiến nghị ............................................................................................ 69
3.4.1. Kiến nghị đối với Trung tâm phát triển quỹ đất thành phố Hạ Long . 69
3.4.2. Kiến nghị đối với các tổ chức trong hệ thống chính trị, truyền thông
và cộng đồng .................................................................................................... 71
3.4.3. Kiến nghị đối với nhà đâu tư hay các tổ chức được giao đất .............. 72
3.4.4. Kiến nghị đối với hộ gia đình, cá nhân bị thu hồi đất ......................... 73
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 74
TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................................... 76
vii
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
Ký hiệu viết tắt Nội dung viết tắt
STT 1 2 3 4 5 6 7 8 10 11 12 HGĐ CN UBND TA NCKH SDĐ SH CSH DS CNH, HĐH CTNC
Hộ gia đình Cá nhân Uỷ ban nhân dân Toà án Nghiên cứu khoa học Sử dụng đất Sở hữu Chủ sở hữu Dân sự Công nghiệp hóa, hiện đại hóa Công trình nghiên cứu
viii
DANH MỤC BẢNG
Bảng 2.1. Bảng giá đất ở, đất thương mại dịch vụ, đất sản xuất kinh doanh ............ 43
phi nông nghiệp tại một số khu vực trên địa bàn thành phố hạ Long ....................... 43
năm 2015 – 2019 ....................................................................................................... 43
Bảng 2.2. Thống kê về các dự án bồi thường, giải phóng mặt bằng trên địa bàn thành phố Hạ ong giai đoạn 2013 - 2017 .................................................................. 47
Bảng 2.3. Khái quát tiến độ bồi thường, giải phóng mặt bằng khi Nhà nước thu hồi đất của các hộ gia đình, cá nhân tại thành phố Hạ Long........................................... 48
Bảng 2.4. Kết quả thực hiện công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng tại Trung tâm phát triển quỹ đất thành phố Hạ Long ................................................................ 49
Bảng 2.5. Kết quả thống kê về các vụ việc khiếu nại về đất đai trong trên địa bàn thành phố Hạ Long giai đoạn 2013 – 2017 ............................................................... 50
ix
TÓM TẮT KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU CỦA LUẬN VĂN THẠC SĨ
Đề tại luận văn: “Pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất của
các hộ gia đình, cá nhân qua thực tế thi hành tại thành phố Hạ Long, tỉnh
Quảng Ninh”.
1. Kết quả đạt được của Luận văn
- Luận văn đã phân tích và làm rõ các vấn đề lý luận liên quan đến các quy
định của pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất như: Khái niệm về đất
phi nông nghiệp; khái niệm và căn cứ để Nhà nước thu hồi đất; khái niệm và đặc
điểm của việc bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất; khái niệm, đặc điểm và nội
dung của pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất của HGĐ, CN.
- Luận văn đã phân tích và làm rõ những nội dung cơ bản của pháp luật về
bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất của các HGĐ, cá nhân, bào gồm: (i). Nguyên
tắc bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất của HGĐ, CN; (ii). Căn cứ để bồi thường
và cách tính tiền bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất của HGĐ, CN; (iii). Trình tự,
thủ tục bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất của HGĐ, CN (iv). Giải quyết khiếu
nại về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất của HGĐ, CN.
- Luận văn đã phân tích và làm rõ thực tiễn thực thi pháp luật về bồi thường
khi Nhà nước thu hồi đất phi nông nghiệp của các HGĐ, CN tại thành phố Hạ Long,
tỉnh Quảng Ninh; chỉ ra những bất cập của pháp luật và những vướng mắc trong quá
trình thực thi pháp luật;
- Luận văn đã đề xuất phương hướng và giải pháp, kiến nghị nhằm hoàn
thiện pháp luật và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về bồi
thường khi Nhà nước thu hồi đất của các HGĐ, CN tại thành phố Hạ Long, tỉnh
Quảng Ninh.
2. Khả năng ứng dụng thực tiễn của Luận văn
- Luận văn là tài liệu tham khảo hữu ích cho các cơ quan, đơn vị, tổ chức
trong quá trình nghiên cứu, xây dựng và hoàn thiện các quy định của pháp luật về
bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất của các HGĐ, CN.
x
- Luận văn là tài liệu có tính ứng dụng trong công tác bồi thường, giải phóng
mặt bằng khi Nhà nước thu hồi đất phi nông nghiệp của các HGD, CN trên địa bàn
thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh nói riêng và cũng là tài liệu tham khảo cho
các cơ quan cấp tỉnh nói chung trong việc lập kế hoạch và tổ chức thực hiện công
tác bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất.
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đất đai có tầm quan trọng to lớn đối với người dân cả về phương diện nơi ở
lẫn tư liệu sản xuất. Ở nước ta, Hiến pháp quy định đất đai là tài sản công thuộc sở
hữu toàn dân và Nhà nước là người quản lý. Dựa vào quy định của pháp luật, Nhà
nước cho dân quyền SDĐ. Từ khi chính thức giao đất cho người dân nói chung và
HGĐ, CN nói riêng, Nhà nước đã tuyên bố bảo hộ quyền SDĐ của họ. Tuy nhiên,
trong quá trình phát triển kinh tế nói chung, CNH, HĐH nói riêng, trên lãnh thổ
nước ta đã, đang và sẽ có hàng ngàn dự án đầu tư xây dựng chiếm đất ở và đất sản
xuất của HGĐ, CN. Sự xuất hiện của các công trình này là tất yếu bởi chúng cần
thiết cho tăng trưởng kinh tế và cải thiện điều kiện chung, nhưng HGĐ, CN bị thu
hồi đất thì bị thiệt thòi và cuộc sống bị xáo trộn.
Để bù đắp cho họ một phần thiệt thòi đó, trong những năm gần đây Nhà
nước ta đã ban hành nhiều chính sách và pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu
hồi đất. Điều này đã giúp cho HGĐ, CN bị thu hồi đất bước đầu ổn định, trở lại
cuộc sống. Mặc dù Luật đất đai và các văn bản hướng dẫn thi hành đã được ban
hành, được sửa đổi thường xuyên trong những năm vừa qua, trên thực tế việc áp
dụng những quy định này đang gặp phải rất nhiều vướng mắc như: Điều kiện được
bồi thường, giá trị được bồi thường về đất, nhà ở và các tài sản trên đất, các vấn đề
về tái định cư tái định cư và điều kiện sinh hoạt của người dân phải di dời, các vấn
đề phát sinh sau khi thực hiện các chính sách hỗ trợ. Bên cạnh đó, việc áp dụng các
quy định của pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất tại nhiều địa phương
trong thời gian qua vẫn còn cứng nhắc, bị động, thiếu sự linh hoạt và thành phố Hạ
Long, tỉnh Quảng Ninh không phải là ngoại lệ.
Nằm trong bối cảnh chung đó, thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh cũng
gặp nhiều khó khăn khi thực hiện pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất.
Tuy công tác bồi thường trong những năm gần đây ở thành phố Hạ Long, tỉnh
Quảng Ninh đã được cải thiện hơn trước rất nhiều, nhưng cả trong nội dung của
pháp luật lẫn trong việc tổ chức thực thi pháp luật vẫn còn nhiều vướng mắc. Tình
2
trạng này nếu như không được khắc phục sẽ ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của
HGĐ, CN có đất bị thu hồi và làm mất lòng tin của họ. Vì thế, việc tìm kiếm các
giải pháp để nâng cao hiệu quả việc thi hành pháp luật về bồi thường khi Nhà nước
thu hồi đất là vấn đề quan trọng đối với thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh. Tuy
nhiên, để có những giải pháp phù hợp thì cần có sự nghiên cứu vấn đề này một cách
cụ thể.
Với ý nghĩa đó, người viết đã chọn vấn đề “Pháp luật về bồi thường khi
Nhà nước thu hồi đất của các hộ gia đình, cá nhân qua thực tế thi hành tại
thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh” để làm đề tài cho luận văn Thạc sĩ Luật
học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Vấn đề bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất của HGĐ, CN đã thu hút được
sự quan tâm của nhiều tác giả nghiên cứu dưới nhiều phương diện khác nhau. Có
thể đề cập đến một số công trình, bài báo tiêu biểu sau đây:
Năm 2007, đề tài NCKH cấp Bộ (do Viện nhiên cứu khoa học pháp lý – Bộ
Tư pháp phối hợp với Bộ Tài nguyên môi trường thực hiện) đã được nghiệm thu với
tiêu đề “Xây dựng cơ chế pháp lý để bảo vệ đất nông nghiệp trong điều kiện công
nghiệp hóa – hiện đại hóa”. Đề tài này phân tích thực trạng cơ chế pháp lý về bảo vệ
đất nông nghiệp với tư cách là một nguồn tài nguyên, từ đó lồng ghép các nhiệm vụ
bảo vệ môi trường đất nông nghiệp trong quá trình quy hoạch, khai thác, sử dụng và
chuyển đổi mục đích sử dụng. Tuy nhiên, đề tài này không đề cập đến vấn đề bồi
thường khi Nhà nước thu hồi đất tại thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh.
Năm 2008, tác giả Phan Thúy Hiền có bài viết đăng trên Tạp chí Nghiên cứu
Lập pháp (số 12/2008) có tên gọi “Cơ sở hiến định về thu hồi đất vì mục đích công
cộng ở Việt Nam”. Trong đó, tác giả này đã phân tích và làm rõ các quy định của
Hiến pháp Việt Nam liên quan đến quyền thu hồi đất vì mục đích công cộng ở Việt
Nam. Mặc dù hiện nay là Hiến pháp năm 2013 nhưng những phân tích về cơ sở về
3
thu hồi đất vì mục đích công cộng vẫn có giá trị về mặt lý luận để người viết thực
hiện luận văn.
Năm 2010, tác giả Nguyễn Thị Nga có bài viết đăng trên Tạp chí Luật học
(số 11/ 2010) với tiêu đề “Pháp luật về trình tự, thủ tục thu hồi đất, bồi thường và
giải phóng mặt bằng và những vướng mắc trong quá trình áp dụng”. Trong đó, tác
giả phân tích nội dung về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nói chung theo quy
định của Luật Đất đai 2003 và chỉ ra những bất cập. Tuy nhiên, đến nay những bất
cập đó đã được sửa đổi trong Luật Đất đai năm 2013.
Năm 2013, đề tài NCKH cấp trường (do TS. Nguyễn Thị Nga làm chủ
nhiệm) về “Pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất –
thực trạng và hướng hoàn thiện”. Đề tài đã cung cấp bức tranh khá sinh động của
những vụ việc phát sinh có thật trong thực tế, đồng thời thể hiện những vướng mắc,
những câu hỏi mà bản thân pháp luật hiện hành chưa có lời giải. Các kinh nghiệm
thực tiễn của quá trình tổ chức thực thi pháp luật cũng được phân tích, làm sáng tỏ
trong đề tài này. Tuy nhiên, đề tài nghiên cứu này phân tích thực trạng pháp luật nói
chung, không phân tích về thực trạng thi hành pháp luật về bồi thường khi Nhà
nước thu hồi đất tại thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh.
Bên cạnh đó, còn có một số bài báo khoa học liên quan đến đề hướng nghiên
cứu của Luận văn được công bố trên các Tạp chí khoa học chuyên ngành như: TS.
Trần Quang Huy với bài viết “Chính sách hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất” đăng
trên Tạp chí Luật học (số 10/2010); TS. Nguyễn Quang Tuyên có bài viết “Công
khai, minh bạch để bảo vệ quyền lợi của người bị thu hồi đất” đăng trên Tạp chí
Luật học (số 3/2012); năm 2013, TS. Doãn Hồng Nhung công bố cuốn sách chuyên
khảo “Pháp luật về định giá đất trong bồi thường, giải phóng mặt bằng ở Việt Nam”
(do NXB Tư pháp xuất bản). Bên cạnh đó còn có các CTNC tiêu biểu như: chuyên
đề “Bình luận và góp ý đối với các uy định bồi thường về đất khi Nhà nước thu hồi
đất trong Dự thảo Luật đất đai sửa đổi” do PGS. TS Nguyễn Quang Tuyến (đăng
trong Hội thảo Khoa học “Góp ý Dự thảo Luật đất đai sửa đổi” (tại Đại học Luật Hà
Nội năm 2013).
4
Các công trình NCKH của các tác giả nói trên là nguồn tài liệu quý giá để tác
giả Luận văn tham khảo khi thực hiện Luận văn này về các vấn đề như: cơ sở lý
luận, các quy định của pháp luật và thực tế áp dụng pháp luật về bồi thường khi Nhà
nước thu hồi đất của HGĐ, CN. Tuy nhiên, chưa có công rình nào nghiên cứu cụ
thể pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất của HGĐ, CN từ thực trạng áp
dụng tại thành phố Hạ Long tỉnh Quảng Ninh. Do đó, đây là Luận văn Thạc sĩ Luật
học đầu tiên nghiên cứu vấn đề này.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1 Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận văn là trên cơ sở làm sáng tỏ một số vấn đề lý
luận của pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất của các HGĐ, CN và
phân tích thực tiễn áp dụng pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất tại địa
bàn thành phố Hạ Long, tỉnh Quản Ninh và đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp
luật và nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất
của các HGD, CN tại thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh.
3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nêu trên, luận văn có nhiệm vụ cụ thể như sau:
- Làm rõ một số vấn đề lý luận về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất và
pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất của các hộ gia đình, cá nhân.
- Phân tích thực trạng pháp luật để chỉ ra những bất cập của pháp luật trong
các quy định về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất của các hộ gia đình, cá nhân.
- Phân tích thực trạng thực thi pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi
đất của các hộ gia đình, cá nhân tại địa bàn thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh.
- Đề xuất phương hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu
quả thực thi pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất của các hộ gia đình,
cá nhân.
5
4. Đối tượng và phạm vị nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề liên quan đến việc Nhà
nước thu hồi đất và việc bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất của các HGĐ, CN.
Đối tượng nghiên cứu của Luận văn còn bao gồm cả các quy định của pháp luật
Việt Nam về bồi thường nói chung và thực tiễn thi hành pháp luật về bồi thường khi
Nhà nước thu hồi đất của HGĐ, CN tại thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh nói
riêng.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: Vấn đề bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất có nội dung rất
rộng, bao gồm vấn đề bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nói chung và bồi thường
khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp. Việc bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất
nông nghiệp có những quy định rất riêng biệt. Do đó, trong phạm vi của Luận văn,
Luận văn chỉ nghiên cứu vấn đề bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất phi nông
nghiệp của HGĐ, CN; không nghiên cứu vấn đề bồi thường khi Nhà nước thu hồi
đất nông nghiệp. Liên quan đến đất phi nông nghiệp, pháp luật đất đai chia ra nhiều
loại đất khác nhau như: Đất ở, đất sử dụng vào mục đích quốc phòng, đất sản xuất,
đất sử dụng vào mục đích công cộng,… và việc thu hồi những loại đất này đều có
những điểm riêng. Tuy nhiên, Luận văn không phân tích từng điểm riêng đó mà chỉ
nghiên cứu vấn đề bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp nói chung.
Khi nghiên cứu pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất phi nông
nghiệp của HGĐ, CN, Luận văn chỉ phân tích 4 vấn đề là: (i). Nguyên tắc bồi
thường khi Nhà nước thu hồi đất của HGĐ, CN; (ii). Căn cứ để bồi thường và cách
tính tiền bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất của HGĐ, CN; (iii). Trình tự, thủ tục
bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất của HGĐ, CN (iv). Giải quyết khiếu nại về bồi
thường khi Nhà nước thu hồi đất của HGĐ, CN.
- Về phạm vi không gian và thời gian: Luận văn nghiên cứu các quy định về
bồi thường cho hộ gia đình, cá nhân khi Nhà nước thu hồi đất qua thực tiễn áp dụng
6
tại địa bàn thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh từ khi Luật đất đai năm 2013 có
hiệu lực đến nay. Khi đề xuất các giải pháp, các giải pháp mà luận văn đề xuất sẽ
được áp dụng từ nay cho đến năm 2025và xu hướng đến năm 2030.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu như: Phương pháp hệ thống
hóa, phương pháp thống kê, phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp. Ngoài
ra, Luận văn còn sử dụng phương pháp so sánh luật học để phân tích các qui phạm
pháp luật nhằm làm rõ nội dung của pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi
đất của HGĐ, CN, từ đó chỉ ra ưu điểm cũng như những bất cập trong pháp luật về
bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất và thực tiễn áp dụng tại thành phố hạ Long,
tỉnh Quảng Ninh. Các phương pháp này được sử dụng cụ thể như sau:
Tại Chương 1, phương pháp hệ thống hóa, phương pháp phân tích, phương
pháp tổng hợp và phương pháp so sánh luật hoc được sử dụng để phân tích các quy
định của pháp luật nhằm làm rõ những vấn đề lý luận về bồi thường khi Nhà nước
thu hồi đất như: Khái niệm về đất phi nông nghiệp; khái niệm và căn cứ để Nhà
nước thu hồi đất; khái niệm và đặc điểm của việc bồi thường khi Nhà nước thu hồi
đất; khái niệm, đặc điểm và nội dung của pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu
hồi đất của HGĐ, CN.
Tại Chương 2, phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp và phương
pháp thống kê được sử dụng để phân tích thực trạng pháp luật và thực tiễn thực thi
pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất của HGĐ, CN tại thành phố Hạ
Long, tỉnh Quảng Ninh.
Tại Chương 3, phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp và phương
pháp hệ thống hóa được sử dụng để luận giải cho phương hướng và giải pháp hoàn
thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về bồi thường khi Nhà nước
thu hồi đất của HGĐ, CN tại thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh.
6. Kết cấu của luận văn
7
Ngoài các phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, nội dung của đề tài gồm
3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất của
các hộ gia đình, cá nhân
Chương 2: Thực trạng pháp luật và thực tiễn thực thi pháp luật về bồi thường
khi Nhà nước thu hồi đất của các hộ gia đình, cá nhân tại thành phố Hạ Long, tỉnh
Quảng Ninh
Chương 3: Phương hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu
quả thực thi pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất của các hộ gia đình
cá nhân tại thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh.
8
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁP LUẬT BỒI THƯỜNG KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT CỦA CÁC HỘ GIA ĐÌNH, CÁ NHÂN
1.1. Khái niệm về đất đai và phân loại đất đai
1.1.1. Khái niệm về đất đai
Đất đai về mặt thuật ngữ khoa học được hiểu theo nghĩa rộng như sau: “Đất
đai là một diện tích cụ thể của bề mặt Trái Đất, gồm tất cả các cấu thành ngay trên
vỏ dưới bề mặt đó bao gồm: khí, thổ nhưỡng, dáng địa hình, mặt nước, các lớp trầm
tích sát bề mặt cùng với nước ngầm và khoáng sản trong lòng đất, tập đoàn động vật
và thực vật, trạng thái định cư của con người, những kết quả của con người trong
quá khử và hiện tại để lại.
Dưới góc độ Luật học, đất đai là một khoảng không gian trải dài vô tận từ
trung tâm trái đất tới vô cực trên trời và liên quan đến nó là một loạt các quyền lợi
khác nhau quyết định những gì có thể thực hiện được với đất. Khoản 1 Điều 3 Luật
Đất đai 2013 đưa ra định nghĩa về thửa đất như sau: “Thửa đất là phần diện tích đất
được giới hạn bởi ranh giới xác định trên thực địa hoặc được mô tả trên hồ sơ”.
1.1.2. Phân loại đất đai
Về phân loại đất đai, căn cứ vào mục đích sử dụng đất Điều 10 Luật Đất đai
năm 2013 phân loại đất thành 3 nhóm dưới đây:
Nhóm đất nông nghiệp: Đất nông nghiệp là đất để phục vụ cho sản xuất nông
nghiệp và một số mục đích khác. Nhóm này bao gồm các loại đất sau đây: (i). Đất
trồng cây hàng năm gồm đất trồng lúa và đất trồng cây hàng năm khác; (ii). Đất
trồng cây lâu năm; (iii). Đất rừng sản xuất; (iv). Đất rừng phòng hộ; đ) Đất rừng đặc
dụng; (v). Đất nuôi trồng thủy sản; (vi). Đất làm muối; (vii). Đất nông nghiệp khác
gồm đất sử dụng để xây dựng nhà kính và các loại nhà khác phục vụ mục đích trồng
trọt, kể cả các hình thức trồng trọt không trực tiếp trên đất; xây dựng chuồng trại
chăn nuôi gia súc, gia cầm và các loại động vật khác được pháp luật cho phép; đất
trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản cho mục đích học tập, nghiên cứu thí
nghiệm; đất ươm tạo cây giống, con giống và đất trồng hoa, cây cảnh;
9
Nhóm đất phi nông nghiệp: Bao gồm các loại đất sau đây: (i). Đất ở gồm đất
ở tại nông thôn, đất ở tại đô thị; (ii). Đất xây dựng trụ sở cơ quan; (iii) Đất sử dụng
vào mục đích quốc phòng, an ninh; (iv) Đất xây dựng công trình sự nghiệp gồm đất
xây dựng trụ sở của tổ chức sự nghiệp; đất xây dựng cơ sở văn hóa, xã hội, y tế,
giáo dục và đào tạo, thể dục thể thao, khoa học và công nghệ, ngoại giao và công
trình sự nghiệp khác; (v) Đất sản xuất, kinh doanh phi nông nghiệp gồm đất khu
công nghiệp, cụm công nghiệp, khu chế xuất; đất thương mại, dịch vụ; đất cơ sở sản
xuất phi nông nghiệp; đất sử dụng cho hoạt động khoáng sản; đất sản xuất vật liệu
xây dựng, làm đồ gốm; (vi). Đất sử dụng vào mục đích công cộng gồm đất giao
thông (gồm cảng hàng không, sân bay, cảng đường thủy nội địa, cảng hàng hải, hệ
thống đường sắt, hệ thống đường bộ và công trình giao thông khác); thủy lợi; đất có
di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh; đất sinh hoạt cộng đồng, khu vui
chơi, giải trí công cộng; đất công trình năng lượng; đất công trình bưu chính, viễn
thông; đất chợ; đất bãi thải, xử lý chất thải và đất công trình công cộng khác; (vii).
Đất cơ sở tôn giáo, tín ngưỡng; (viii). Đất làm nghĩa trang, nghĩa địa, nhà tang lễ,
nhà hỏa táng; i) Đất sông, ngòi, kênh, rạch, suối và mặt nước chuyên dùng; (ix). Đất
phi nông nghiệp khác gồm đất làm nhà nghỉ, lán, trại cho người lao động trong cơ
sở sản xuất; đất xây dựng kho và nhà để chứa nông sản, thuốc bảo vệ thực vật, phân
bón, máy móc, công cụ phục vụ cho sản xuất nông nghiệp và đất xây dựng công
trình khác của người sử dụng đất không nhằm mục đích kinh doanh mà công trình
đó không gắn liền với đất ở;
Nhóm đất chưa sử dụng: Bao gồm các loại đất chưa xác định mục đích sử
dụng.
Như vậy, ở Việt Nam, đất đai được chia thành 3 nhóm như trên, trong đó
nhóm đất nông nghiệp và nhóm đất phi nông nghiệp đã được quy định rõ. Nhóm đất
chưa sử dụng chưa được gọi tên cụ thể nhưng thực tế nếu có bất kỳ loại đất nào phát
sinh mà không thuộc 2 nhóm trên thì sẽ được phân vào nhóm đất chưa sử dụng.
Như đã xác định ở phần phạm vi nghiên cứu, Luận văn không phân tích việc Nhà
nước thu hồi đất thuộc nhóm đất nông nghiệp mà chỉ nghiên cứu việc Nhà nước thu
hồi đất thuộc nhóm đất nông nghiệp.
10
1.2. Khái niệm và căn cứ pháp lý để thu hồi đất
1.2.1. Khái niệm về thu hồi đất
Theo Từ điển Luật học, thu hồi đất được hiểu là việc cơ quan Nhà nước có
thẩm quyền thu hồi quyền SDĐ của người vi phạm quy định về SDĐ để Nhà nước
giao cho người khác sử dụng hoặc trả lại cho chủ SDĐ hợp pháp bị lấn chiếm.
Trường hợp thật cần thiết, Nhà nước thu hồi đất đang sử dụng của người sử dụng
đất để sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công
cộng (Bộ Tư pháp, 2006) . Cách hiểu này chỉ cho biết nội dung của việc Nhà nước
thu hồi đất là khi người SDĐ vi phạm các quy định về SDĐ thì sẽ bị thu hồi quyền
SDĐ. Tuy nhiên, khái niệm này chưa chỉ ra bản chất pháp lý của việc Nhà nước thu
hồi đất.
Luật Đất đai năm 1987 và Luật Đất đai năm 1993 đã đề cập vấn đề thu hồi
đất, nhưng chưa định nghĩa rõ thế nào là thu hồi đất mà chỉ liệt kê các trường hợp bị
thu hồi đất (Điều 14 Luật Đất đai năm 1987 và điều 26 Luật Đất đai năm 1993).
Khái niệm thu hồi đất lần đầu tiên được ghi nhận tại Điều 4 Luật Đất đai
năm 2003: “Thu hồi đất là việc Nhà nước ra quyết định hành chính để thu lại quyền
sử dụng đất hoặc thu lại đất đã giao cho tổ chức, UBND xã, phường, thị trấn quản lý
theo quy định của Luật này”. Điểm mới của khái niệm này là đã nêu ra bản chất
pháp lý của việc Nhà nước thu hồi đất. Đó là quyết định có tính hành chính của Nhà
nước Điều này cũng có nghĩa là việc thu hồi đất cho thấy có bị tác động của Nhà
nước bằng biện pháp hành chính mặc dù vậy, khái niệm này vẫn chưa đầy đủ. Cách
định nghĩa này dẫn đến cách hiểu người SDĐ bị thu hồi chỉ là tổ chức hay UBND
xã, phường, thị trấn. Đồng thời, khái niệm này cũng chưa bao quát được các trường
hợp Nhà nước thu hồi đất trong thực tế.
Khoản 11 Điều 4 Luật Đất đai năm 2013 đưa ra khái niệm về Nhà nước thu
hồi đất như sau: “Nhà nước thu hồi đất là việc Nhà nước quyết định thu lại quyền sử
dụng đất của người được Nhà nước trao quyền sử dụng đất hoặc thu lại đất của
người sử dụng đất vi phạm pháp luật về đất đai”. Khái niệm này có điểm tiến bộ là
nó nêu ra một cách hiểu có tính bao quát, ngắn gọn về việc Nhà nước thu hồi đất,
11
trong đó nhấn mạnh việc Nhà nước thu hồi quyền SDĐ của người vi phạm pháp
luật về đất đai hoặc người được Nhà nước trao quyền SDĐ. Trong khái niệm này
xuất hiện thuật ngữ trao quyền thay cho thuật ngữ giao quyền mà Luật Đất đai năm
2003 đã sử dụng. Tác giả Luận văn cho rằng thuật ngữ trao quyền đã thể hiện rõ bản
chất của việc Nhà nước thu hồi đất là việc Nhà nước lấy lại đất vốn thuộc sở hữu
của toàn dân mà Nhà nước là đại diện CSH mà việc thu hồi là của Nhà nước –
quyền lực công cộng của Nhà nước với tư cách là bộ máy chính trị thay mặt toàn
dân quản lý toàn bộ đất đai.
Từ những nghiên cứu trên, có thể hiểu một cách khái quát về thu hồi đất như
sau: “Thu hồi đất là việc Nhà nước với tư cách là đại diện chủ sở hữu đất đai, thu lại
đất và quyền sử dụng đất đã trao cho các chủ thể sử dụng đất khi các chủ thể này vi
phạm pháp luật hoặc theo các trường hợp khác do pháp luật quy định.”
1.2.2. Căn cứ pháp lý để thu hồi đất
Luật đất đai 2013 quy định các căn cứ để Nhà nước thu hồi đất với từng
nhóm đất thu hồi, cụ thể như sau:
Thứ nhất, đối với các trường hợp thu hồi đất vì mục đích quốc phòng, an
ninh; phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng, căn cứ để Nhà nước
thu hồi đất được Nhà nước quy định tại Điều 63 Luật đất đai 2013, cụ thể là: (i). Dự
án thuộc các trường hợp thu hồi đất quy định tại Điều 61 và Điều 62 của Luật đất
đai 2013 (là các trường hợp mà Nhà nước quy định thuộc trường hợp thu hồi đất vì
mục đích quốc phòng, an ninh; phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công
cộng); (ii). Kế hoạch sử dụng đất, hàng năm của cấp huyện đã được cơ quan nhà
nước có thẩm quyền phê duyệt; (iii). Tiến độ sử dụng đất thực hiện dự án.
Thứ hai, đối với trường hợp thu hồi đất do vi phạm pháp luật về đất đai thì
việc thu hồi đất phải căn cứ vào văn bản, quyết định của cơ quan nhà nước có thấm
quyền xác định hành vi vi phạm pháp luật về đất đai (khoản 2 Điều 64 Luật đất đai
2013).
12
Thứ ba, đối với các trường hợp thu hồi đất do chấm dứt việc SDĐ theo pháp
luật, tự nguyện trả lại đất, có nguy cơ đe dọa tính mạng con người thì theo quy định
tại khoản 2 Điều 65 Luật đất đai 2013, việc thu hồi đất phải dựa trên các căn cứ sau:
(i). Văn bản của cơ quan có thẩm quyền giải quyết đã có hiệu lực pháp luật đối với
trường hợp thu hồi đất quy định tại Điểm a Khoản 1 Điều 65 Luật đất đai 2013 (là
trường hợp tổ chức được Nhà nước giao đất không thu tiền SDĐ, được Nhà nước
giao đất có thu tiền SDĐ mà tiền SDĐ có nguồn gốc từ ngân sách nhà nước bị giải
thể, phá sản, chuyển đi nơi khác, giảm hoặc không còn nhu cầu SDĐ; người SDĐ
thuê của Nhà nước trả tiền thuê đất hàng năm bị giải thể, phá sản, chuyển đi nơi
khác, giảm hoặc không còn nhu cầu SDĐ); (ii). Giấy chứng tử hoặc quyết định
tuyên bố một người là đã chết theo quy định của pháp luật và văn bản xác nhận
không có người thừa kế của UBND cấp xã nơi thường trú của người để thửa kế đã
chết đó đối với trường hợp thu hồi đất quy định tại điểm b khoản 1 Điều 65 Luật đất
đai 2013 (là trường hợp cá nhân SDĐ chết mà không có người thừa kế); (iii). Văn
bản trả lại đất của người sử dụng đất đối với trường hợp quy định tại điểm c khoản
1 Điều 65 Luật đất đai 2013 (là trường hợp người sử dụng đất tự nguyện trả lại đất);
(iv). Quyết định giao đất, quyết định cho thuê đất đối với trường hợp quy định tại
điểm d khoản 1 Điều 65 Luật đất đai 2013 (là trường hợp đất được Nhà nước giao,
cho thuê có thời hạn nhưng không được gia hạn); (v). Văn bản của cơ quan có thẩm
quyền xác định mức độ ô nhiễm môi trường, sạt lở, sụt lún, bị ảnh hưởng bởi hiện
tượng thiên tai khác đe dọa tính mạng con người đối với trường hợp quy định tại
điểm đ và điểm e khoản 1 Điều 65 Luật đất đai 2013 (là trường hợp đất ở trong khi
vực bị ô nhiễm môi trường và đất ở có nguy cơ sạt lở, sụt lún, bị ảnh hưởng bởi hiện
tượng thiên tai khác đe dọa tính mạng con người).
Những quy định trên cho thấy, Luật Đất đai năm 2013 đã cụ thể hóa rất rõ
các trường hợp bị thu hồi đất. Đây là 3 trường hợp thu hồi đất phi nông nghiệp và
trong mỗi trường hợp đó, pháp luật đã chỉ ra căn cứ pháp lý ràng để Nhà nước thu
hồi đất. Vì vậy, HGĐ, CN rơi vào các trường hợp này thì Nhà nước có đủ căn cứ
pháp lý để thu hồi đất. Tuy nhiên, trong các căn cứ để thu hồi đất nói trên, Nhà
nước chỉ bồi thường cho HGĐ, CN khi đất của HGĐ, CN bị thu hồi thuộc căn cứ
13
thứ nhất. Tức là họ chỉ được bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất vì mục đích quốc
phòng, an ninh; phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng.
1.3. Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của việc bồi thường khi Nhà nước thu hồi
đất
1.3.1. Khái niệm về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất
Trong đời sống hàng ngày, “bồi thường” là thuật ngữ được sử dụng trong
trường hợp một người có hành vi gây thiệt hại cho người khác và họ phải có trách
nhiệm bồi thường cho người bị thiệt hại do hành vi của mình gây ra.
Theo Từ điển tiếng Việt thông dụng: “Bồi thường” là “Đền bù những tổn hại
gây ra”. Trong lĩnh vực pháp luật, trách nhiệm bồi thường được đặt ra khi một chủ
thể có hành vi vi phạm pháp luật gây thiệt hại cho chủ thể khác trong xã hội. Trong
lĩnh vực pháp luật đất đai thuật ngữ bồi khi Nhà nước thu hồi đất được sử dụng với
nội dung đặc thù, riêng có.
Theo Khoản 6 Điều 4 Luật đất đai 2003: “Bồi thường khi Nhà nước thu hồi
đất là việc Nhà nước trả lại giá trị quyền sử dụng đất đối với diện tích đất bị thu hồi
cho người bị thu hồi đất”. Khái niệm này chỉ xác định bồi thường về đất, trong khi
đó việc thu hồi đất không chỉ gây thiệt hại về đất, mà còn là những thiệt hại liên
quan đến quyền SDĐ, công trình xây dựng, vật kiến trúc, cây trồng, vật nuôi trên
đất, thậm chí là thiệt hại về sức khỏe do áp lực căng thẳng, lo âu của người SDĐ.
Luật Đất đai năm 2013, (tại Khoản 12 Điều 3) quy định rằng: “Bồi thường về
đất là việc Nhà nước trả lại giá trị quyền sử dụng đất đối với diện tích đất thu hồi
cho người sử dụng đất”. Giá trị quyền SDĐ là giá trị bằng tiền của quyền SDĐ đối
với diện tích đất xác định trong thời hạn SDĐ xác định. Tuy nhiên Luật Đất đai
không đưa ra khái niệm về quyền SDĐ. Khái niệm về quyền SDĐ được quy định
trong BLDS năm 2015 với ý nghĩa là tài sản, quyền tài sản. Theo đó, quyền tài sản
là quyền trị giá được bằng tiền bao gồm quyền tài sản đối với đối tượng, quyền
SHTT, quyền SDĐ và quyền tài sản khác (Điều 115 BLDS 2015).
14
Từ phân tích trên, có thể hiểu một cách đầy đủ về bồi thường khi Nhà nước
thu hồi đất của HGĐ, CN như sau: Bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất của HGĐ,
CN là việc Nhà nước trả lại giá trị bằng tiền quyền SDĐ đối với diện tích đất xác
định mà HGĐ, CN đã sử dụng đất trong một thời hạn đã được xác định nhằm bù
đắp lại những thiệt hại mà HGĐ, CN phải chịu do việc Nhà nước thu hồi đất gây ra.
1.3.2. Đặc điểm của việc bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất
Việc bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất của HGĐ, CN có 4 đặc điểm chủ
yếu như sau:
Thứ nhất, về đối tượng được bồi thường: Là HGĐ, CN có quyền SDĐ. Các
HGĐ, CN có quyền SDĐ là các HGĐ, CN được Nhà nước trao quyền SDĐ thông
qua việc Nhà nước ban hành quyết đinh giao đất để trao quyền SDĐ cho họ khi họ
có nhu cầu SDĐ.
Thứ hai, về căn cứ bồi thường: Chỉ khi Nhà nước thu hồi đất để sử dụng vào
mục đích vì mục đích quốc phòng, an ninh; thu hồi đất để phát triển kinh tế - xã hội
vì lợi ích quốc gia, công cộng; thu hồi đất do chấm dứt việc sử dụng đất theo pháp
luật, tự nguyện trả lại đất, có nguy cơ đe dọa tính mạng con người thì HGĐ,CN sử
dụng đất mới được bồi thường.
Thứ ba, về giá đất bồi thường: Theo Luật Đất đai năm 2013, giá đất là giá trị
quyền SDĐ được tính trên một đơn vị diện tích đất. Và giá trị của quyền SDĐ là giá
trị bằng tiền của quyền SDĐ đối với diện tích đất xác định được sử dụng trong một
thời hạn nhất định.
Nhà nước chủ động trong việc xác định giá đất bồi thường dựa trên các căn
cứ khoa học và tôn trọng giá đất trên thị trường trong điều kiện bình thường của
thửa đất.
Nguyên tắc chung về vấn đề bồi thường trong quá trình giải phóng mặt bằng
của nhà nước theo pháp luật đất đai là nhà nước thu hồi phần nào thì sẽ tiến hành
bồi thường phần đó. Bảng giá bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất sẽ do UBND
15
tỉnh quy định phù hợp với tình hình kinh tế xã hội ở từng địa phương và quy hoạnh
đã được phê duyệt. UBND cấp tỉnh quyết định giá đất cụ thể.
Việc xác định giá đất cụ thể phải dựa trên cơ sở điều tra, thu thập thông tin
về thửa đất, giá đất thị trường và thông tin về giá đất trong cơ sở dữ liệu đất đai; áp
dụng phương pháp định giá đất phù hợp. Căn cứ kết quả tư vấn xác định giá đất, cơ
quan quản lý đất đai cấp tỉnh trình Hội đồng thẩm định giá đất xem xét trước khi
trình UBND cùng cấp quyết định. Hội đồng thẩm định giá đất gồm Chủ tịch UBND
cấp tỉnh làm Chủ tịch và đại diện của cơ quan, tổ chức có liên quan, tổ chức có chức
năng tư vấn xác định giá đất.
Mức bồi thường sẽ được tính dựa trên mục đích sử dụng đất và giá cụ thể của
từng loại đất tại thời điểm có quyết định thu hồi đất. Theo đó, về cơ bản, việc bồi
thường được thực hiện bằng việc giao đất có cùng mục đích sử dụng với loại đất thu
hồi, nếu không có đất để bồi thường thì được bồi thường bằng tiền theo giá đất cụ
thể của loại đất thu hồi do UBND cấp tỉnh quyết định tại thời điểm quyết định thu
hồi đất (tại Khoản 2 Điều 74 Luật Đất đai năm 2013).
Thứ tư, các biện pháp tiến hành: Kết hợp biện pháp hành chính và biện pháp
thỏa thuận, thậm chí cả biện pháp cưỡng chế. Trình tự, thủ tục thực hiện cưỡng chế
thu hồi đất, trước khi tiến hành cưỡng chế, Chủ tịch UBND cấp huyện quyết định
thành lập Ban thực hiện cưỡng chế; Ban thực hiện cưỡng chế vận động, thuyết
phục, đối thoại với HGĐ, CN bị cưỡng chế, nếu HGĐ, CN bị cưỡng chế chấp hành
thì Ban thực hiện cưỡng chế lập biên bản ghi nhận sự chấp hành.
Trường hợp HGĐ, CN bị cưỡng chế không chấp hành quyết định cưỡng chế
thì Ban thực hiện cưỡng chế tổ chức thực hiện cưỡng chế; Ban thực hiện cưỡng chế
có quyền buộc HGĐ, CN bị cưỡng chế và những người có liên quan phải ra khỏi
khu đất cưỡng chế, tự chuyển tài sản ra khỏi khu đất cưỡng chế; nếu không thực
hiện thì Ban thực hiện cưỡng chế có trách nhiệm di chuyển HGĐ, CN bị cưỡng chế
và người có liên quan cùng tài sản ra khỏi khu đất cưỡng chế. Trường hợp HGĐ,
CN bị cưỡng chế từ chối nhận tài sản thì Ban thực hiện cưỡng chế phải lập biên
16
bản, tổ chức thực hiện bảo quản tài sản theo quy định của pháp luật và thông báo
cho người có tài sản nhận lại tài sản.
1.3.3. Ý nghĩa của việc bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất
Trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước, việc đầu tư xây dựng cơ sở
hạ tầng kinh tế - xã hội là việc làm tất yếu khách quan của bất kỳ quốc gia nào. Đặc
biệt đối với Việt Nam sau nhiều năm chiến tranh, Đảng và Nhà nước đang nỗ lực
chấn hưng đất nước, thu hẹp khoảng cách và sớm đuổi kịp các nước trong khu vực.
Để đạt được mục tiêu này, chúng ta phải đầu tư xây dựng đầy đủ, đồng bộ hệ thống
các cơ sở hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội. Muốn vậy, Nhà nước phải có một quỹ
đất cần thiết, phù hợp. Tuy nhiên, Nhà nước không thể có đủ quỹ đất này nếu không
thực hiện việc thu hồi đất của người đang SDĐ trong đó có việc thu hồi của HGĐ,
CN. Song việc thu hồi đất chỉ có thể thực hiện được khi Nhà nước giải quyết tốt vấn
đề bồi thường, cho HGĐ, CN sử dụng đất nhưng bị thu hồi đất. Vì vậy, việc bồi
thường khi Nhà nước thu hồi đất của HGĐ, CN có ý nghĩa rất quan trọng, đó là:
Thứ nhất, pháp luật bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất của HGĐ, CN trước
hết là nhằm bảo đảm lợi ích công cộng
Thu hồi đất là biện pháp của Nhà nước nhằm chấm dứt quan hệ pháp luật về
sử dụng đất giữa một bên là HGĐ, CN được trao quyền SDĐ và một bên là Nhà
nước với tư cách đại diện chủ sở hữu về đất đai. Thông qua việc thu hồi đất, Nhà
nước có được một quỹ đất cần thiết đáp ứng nhu cầu xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế
- xã hội đồng bộ; phát triển các cơ sở kinh tế, công nghiệp, các cơ sở sản xuất - kinh
doanh, khu đô thị. Qua đó, làm tăng tính hấp dẫn của môi trường đầu tư; kêu gọi sự
đầu tư của các nhà đầu tư trong và ngoài nước phục vụ cho sự nghiệp CNH, HĐH
đất nước.
Đồng thời, ở một mức độ nhất định, việc bồi thường khi Nhà nước thu hồi
đất của HGĐ, CN cũng góp phần gián tiếp vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo
hướng giảm tỉ trọng sản xuất nông nghiệp, tăng tỉ trọng sản xuất công nghiệp, dịch
vụ. Khi diện tích đất sản xuất nông nghiệp ngày càng bị thu hẹp, Nhà nước thực
17
hiện các biện pháp hỗ trợ cho người nông dân bị mất đất sản xuất trong việc đào tạo
chuyển đổi nghề nghiệp, tìm kiếm việc làm mới. Qua đó, góp phần rút bớt một lực
lượng lao động ở nông thôn chuyển sang làm việc trong khu vực sản xuất phi nông
nghiệp và dịch vụ.
Thứ hai, bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nhằm bảo đảm giải quyết hài
hòa lợi ích của Nhà nước và lợi ích của HGĐ, CN bị thu hồi đất
Vì lợi ích chung, lợi ích của cả cộng đồng, Nhà nước thực hiện thu hồi đất
của HGĐ, CN sử dụng đất để sử dụng cho các mục đích khác nhau. Điều này sẽ gây
ra những thiệt hại và ảnh hưởng trực tiếp đến cuộc sống của HGĐ, CN bị thu hồi
đất. Nếu không thực hiện tốt việc bồi thường cho HGĐ, CN bị thu hồi đất sẽ dẫn
đến tình trạng là trong khi các công trình phúc lợi được xây dựng trên những diện
tích đất bị thu hồi mang lại lợi ích cho số đông dân chúng trong xã hội thì ở thái cực
ngược lại, HGĐ, CN bị thu hồi đất lại rơi vào tình trạng khó khăn về sản xuất và đời
sống do bị mất đất sản xuất hoặc bị mất nhà ở. Do đó, vấn đề bồi thường khi Nhà
nước thu hồi đất phải giải quyết hài hòa các mối quan hệ về lợi ích của người bị thu
hồi đất với lợi ích của Nhà nước, của xã hội để vừa bảo đảm nhu cầu sử dụng đất
đai phục vụ cho việc thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước;
vừa bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của HGĐ, CN sử dụng đất, bồi hoàn cho họ
những thành quả lao động, kết quả đầu tư bị thiệt hại do việc thu hồi đất gây ra.
Thứ ba, bồi thường góp phần vào việc duy trì ổn định chính trị, trật tự an
toàn xã hội
Cho dù thu hồi đất để sử dụng vào bất kỳ mục đích gì thì đây cũng là hành vi
ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi vật chất của HGĐ,CN sử dụng đất. Chính vì vậy,
thu hồi đất luôn là vấn đề nhạy cảm, tiềm ẩn nhiều nguy cơ mâu thuẫn, tranh chấp
về lợi ích giữa Nhà nước, HGĐ, CN bị thu hồi đất và người được hưởng lợi từ việc
thu hồi đất (chủ đầu tư, các doanh nghiệp hoặc cộng đồng xã hội). Thực tế giải
quyết các tranh chấp, khiếu kiện từ việc thực hiện bồi thường khi Nhà nước thu hồi
đất cho thấy nếu không giải quyết tốt việc bồi thường cho HGĐ, CN bị thu hồi đất
nhằm giúp họ vượt qua khó khăn nhanh chóng ổn định đời sống và sản xuất thì sẽ
18
phát sinh nhiều tranh chấp, khiếu kiện kéo dài, vượt cấp với số đông người dân
tham gia. Đây là nguyên nhân cơ bản làm phát sinh những bất ổn định về chính trị,
trật tự an toàn xã hội và dễ bị kẻ xấu lợi dụng kích động, lôi kéo nhân dân không
đồng thuận với chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về thu hồi đất để thực
hiện các dự án đầu tư, các công trình hạ tầng công cộng. phục vụ lợi ích của cộng
đồng. Do đó, thực hiện tốt bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất có vai trò quan
trọng góp phần duy trì ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội; tránh nguy cơ nảy
sinh các xung đột xã hội.
1.4. Khái niệm và đặc điểm và cơ cấu của pháp luật về bồi thường khi Nhà
nước thu hồi đất của các hộ gia đình, cá nhân
1.4.1. Khái niệm về hộ gia đình, cá nhân
Theo Từ điển Luật học, thì hộ gia đình là “tập hợp nhóm người có quan hệ
hôn nhân, huyết thống và nuôi dưỡng”. Trên khía cạnh pháp lý, hộ gia đình có các
điều kiện sau sẽ có thể là chủ thể quan hệ pháp luật dân sự (vay vốn, mua, bán, thuê,
mượn,…) với đặc điểm: các thành viên có tài sản chung; cùng đóng góp công sức
để hoạt động kinh tế chung trong sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp hoặc một số lĩnh
vực sản xuất, kinh doanh khác do pháp luật quy định.
Bộ luật Dân sự 2015 không đưa ra định nghĩa cụ thể về hộ gia đình. Bộ luật
Dân sự 2005 không định nghĩa trực tiếp thế nào là hộ gia đình, nhưng Điều 106 quy
định như sau: “Hộ gia đình mà các thành viên có tài sản chung, cùng đóng góp công
sức để hoạt động kinh tế chung trong sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp hoặc một số
lĩnh vực sản xuất, kinh doanh khác do pháp luật quy định là chủ thể khi tham gia
quan hệ dân sự thuộc các lĩnh vực này”. Vậy hộ gia đình là chủ thể gồm các thành
viên có tài sản chung, cùng đóng góp để hoạt động kinh tế chung trong sản xuất
nông, lâm, ngư nghiệp, tức không phải mọi hộ gia đình đều là chủ thể trong pháp
luật dân sự, cũng như chủ thể hộ gia đình theo pháp luật dân sự không được tham
gia mọi hoạt động, mà chỉ trong các quan hệ sản xuất kinh doanh.
Bộ luật Dân sự 2015 không quy định tài sản chung của hộ gia đình theo
phương pháp liệt kê như Bộ luật Dân sự 2005 mà quy định tài sản chung của hộ gia
19
đình gồm tài sản do các thành viên đóng góp, cùng nhau tạo lập nên hoặc được tặng
cho chung, được thừa kế chung và tài sản khác được các thành viên thỏa thuận là tài
sản chung. Việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung của các thành viên hộ
gia đình được thực hiện theo thỏa thuận của các thành viên.
Trước đây, Bộ luật Dân sự 2005 quy định: “Việc định đoạt tài sản là tư liệu
sản xuất, tài sản chung có giá trị lớn của hộ gia đình phải được các thành viên từ đủ
15 tuổi trở lên đồng ý; đối với các loại tài sản chung khác phải được đa số thành
viên từ đủ 15 tuổi trở lên đồng ý”. Do không có bất kỳ văn bản hướng dẫn cụ thể tài
sản nào là tư liệu sản xuất và tài sản nào được coi là có giá trị lớn, đã dẫn đến sự áp
dụng pháp luật không thống nhất. Bộ luật Dân sự 2015 quy định hộ gia đình là chủ
thể không có tư cách pháp nhân - đây là vấn đề chưa được xác định rõ tại Bộ luật
Dân sự 2005. Theo đó, các thành viên trong hộ gia đình phải chịu trách nhiệm liên
đới bằng tài sản riêng của mình, trong trường hợp tài sản chung không đủ để thực
hiện nghĩa vụ.
Theo quy định tại khoản 29 Điều 3 Luật Đất đai 2013: “Hộ gia đình sử dụng
đất là những người có quan hệ hôn nhân, huyết thống, nuôi dưỡng theo quy định
của pháp luật về hôn nhân và gia đình, đang sống chung và có quyền sử dụng đất
chung tại thời điểm được nhà nước giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng
đất; nhận chuyển quyền sử dụng đất.” tức hộ gia đình theo Luật Đất đai được xác
định dựa trên sổ hộ khẩu, nhưng phải tại thời điểm được nhà nước giao đất, cho
thuê đất, công nhận quyền sử dụng, nhận chuyển quyền sử dụng đất. Đồng thời
Điều 98 Luật Đất đai 2013 quy định phải ghi đầy đủ tên của những người có chung
quyền sở hữu đối với thửa đất nhiều người có chung quyền sử dụng đất, quyền sở
hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất. Tuy nhiên, thực tế áp dụng pháp luật còn
thiếu đồng nhất, trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài
sản khác gắn liền với đất của hộ gia đình chỉ ghi tên một người đại diện; trong khi
đất là tài sản chung được sử dụng ổn định, lâu dài nên thành viên trong sổ hộ khẩu
có rất nhiều thay đổi. Nếu khi thực hiện giao dịch chỉ căn cứ vào sổ hộ khẩu thì
không hợp lý, nên căn cứ thêm vào quyết định cấp đất, giao đất, cho thuê đất của
nhà nước để xác định những người có quyền sở hữu chung.
20
Bộ Luật Dân sự năm 2005 sử dụng khái niệm cá nhân để phân biệt với khái
niệm pháp nhân. Theo đó, cá nhân bao gồm cả công dân Việt Nam, người nước
ngoài, người không có quốc tịch, trong đó công dân là loại chủ thể cá nhân chủ yếu
của quan hệ pháp luật dân sự. Việc xác định tư cách chủ thể cả cá nhân trong quan
hệ pháp luật dân sự được dựa trên cơ sở năng lực hủ thể của cá nhân bao gồm năng
lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự. Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân có
từ khi người đó sinh ra và chấm dứt khi người đó chết và năng lực hành vi dân sự
của cá nhân là khả năng của cá nhân bằng hành vi của mình xác lập, thực hiện
quyền, nghĩa vụ dân sự, năng lực hành vi dân sự của cá nhân chỉ có được khi đạt độ
tuổi nhất định.
1.4.2. Khái niệm pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất của hộ gia
đình, cá nhân
Pháp luật là những quy tắc điều chỉnh hành vi của con người do Nhà nước
ban hành và có tính cưỡng chế (Nguyễn Thị Mơ, 1995, 14). Chủ nghĩa Mác Lênin
cho rằng pháp luật thể hiện ý chí của giai cấp thống trị, nhưng mặt khác, pháp luật
còn là giá trịnh xác định phổ biến phản ánh thực tại khách quan, là thước đo hành vi
của mọi thành viên trong xã hội. thể chế hóa và bảo đảm lợi ích chung của xã hội
(Nguyễn Văn Manh, 2010, tr.106).
Với cách hiểu về pháp luật nói chung như vậy, pháp luật về bồi thường khi
Nhà nước thu hồi đất của HGĐ, CN có thể được hiểu là các quy tắc điều chỉnh các
quan hệ phát sinh trong quá trình Nhà nước thu hồi đất của HGĐ, CN và việc bồi
thường của Nhà nước cho các HGĐ, CN bị thu hồi đất.
Pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất của HGĐ, CN có tất cả các
đặc điểm của pháp luật nói chung (như pháp luật do Nhà nước ban hành, pháp luật
thể hiện ý chí giai cấp thống trị, pháp luật có tính cưỡng chế, pháp luật do kinh tế
quyết định) đồng thời cũng có những đặc điểm riêng của nó.
21
1.4.3. Đặc điểm của pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất của hộ gia
đình, cá nhân
Pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất của HGĐ, CN có 3 đặc
điểm chủ yếu như sau:
- Về chủ thể:
Chủ thể của pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất của HGĐ, CN
bao gồm Nhà nước và HGĐ, CN. Nhà nước tham gia vào quan hệ pháp luật này với
tư cách là CSH đất đai, tức là đại diện cho toàn dân1 và là người thay mặt CSH đất
đai có thẩm quyền quản lý toàn bộ đất đai. Nghĩa là Nhà nước là chủ thể phải có
nghĩa vụ bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất của HGĐ, CN.
HGĐ, CN là chủ thể có quyền đòi bồi thường. Khi bị Nhà nước thu hồi đất
HGĐ, CN chỉ có quyền đòi bồi thường khi quyền SDĐ của họ bị thu hồi mặc dù họ
không vi phạm pháp luật.
- Về nguồn luật:
Nguồn của pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất của các HGĐ,
CN bao gồm hệ thống các văn bản qui phạm pháp luật có liên quan. Trước tiên là
Hiến pháp năm 2013 với ý nghĩa là đạo luật cơ bản, xuyên suốt có giá trị pháp lý
cao nhất. Tiếp đến là BLDS 2015 với ý nghĩa là bộ luật chung, quy định các vấn đề
về tài sản, về đất đai, về quyền SDĐ, về HGĐ, về cá nhân,… Cuối cùng là các luật
chuyên ngành như Luật Đất đai năm 2013 và các văn bản hướng dẫn thực hiện về
thu hồi đất và bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp.
- Về biện pháp cưỡng chế:
Do việc thu hồi đất của HGĐ, CN đều dựa trên việc ra quyết định thu hồi của
Nhà nước thông qua việc ra quyết định có tính hành chính của các cơ quan có thẩm
quyền, do đó, một khi HGĐ, CN không tuân thủ thì các biện pháp cưỡng chế mang
1 Điều 53, Hiến pháp năm 2013
tính hành chính sẽ được áp dụng. Ngoài ra, việc bồi thường do Nhà nước phải thực
22
hiện dựa trên các qui định của pháp luật về đất đai, do đó, biện páp bồi thường và
cách tính giá trị bồi thường là Nhà nước quy định. Vấn đề xem xét giá trị bồi
thường theo cơ chế thị trường chỉ được áp dụng trong một số trường hợp cụ thể do
pháp luật quy định.
1.4.4. Cơ cấu pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất của hộ gia đình,
cá nhân
Pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất của HGĐ, CN bao gồm
tổng thể các quy phạm pháp luật điều chỉnh những vấn đề liên quan đến bồi thường
khi Nhà nước thu hồi đất của HGĐ, CN. Lĩnh vực pháp luật này được hình thành và
phát triển qua các giai đoạn khác nhau. Nhưng nhìn chung, pháp luật về bồi thường
khi Nhà nước thu hồi đất của HGĐ, CN bao gồm 4 nhóm quy phạm pháp luật cơ
bản sau:
Thứ nhất, nhóm quy phạm quy định về nguyên tắc và điều kiện bồi thường
khi Nhà nước thu hồi đất của HGĐ, CN.
Nguyên tắc bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất được hiểu là những quy
định chung mang tính nền tảng, làm định hướng và tạo cơ sở cho việc thực hiện và
áp dụng các quy định chi tiết về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất của HGĐ,
CN. Thực hiện tốt các nguyên tắc bồi thường sẽ giúp cho công tác bồi thường đảm
bảo công bằng, khách quan và minh bạch. Nhìn chung, việc bồi thường khi Nhà
nước thu hồi đất dựa trên 4 nguyên tắc cơ bản như: (i). Nhà nước chỉ bồi thường khi
HGĐ, CN có đủ các điều kiện theo quy định của pháp luật; (ii). Việc bồi thường của
Nhà nước phải đảm bảo bồi thường đầy đủ các thiệt hại phát sinh; (iii). Việc bồi
thường phải theo giá thị trường; (iv). Việc bồi thường phải đảm bảo công khai,
minh bạch, dân chủ, kịp thời và đúng quy định của pháp luật.
Điều kiện bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất là những yếu tố mà HGĐ,
CN cần phải có để họ được bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất. Những điều kiện
bồi thường cần phải được quy định để đảm bảo cho việc bồi thường được thực hiện
một cách công bằng, hợp lý, vừa phù hợp với thực tiễn SDĐ để bảo vệ tối đa quyền
23
lợi cho HGĐ, CN, vừa đảm bảo sự nghiêm minh chặt chẽ theo quy định pháp luật.
Pháp luật đất đai quy định cụ thể những trường hợp được bồi thường và những
trường hợp không được bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất của HGĐ, CN, đồng
thời cũng xem xét và phân định rõ tình trạng pháp lý của mảnh đất căn cứ vào
nguồn gốc SDĐ và thời điểm SDĐ, để có quy định bồi thường cho phù hợp.
Thứ hai, nhóm quy phạm quy định về nội dung bồi thường đối với HGĐ, CN
bị thu hồi đất.
Nội dung bồi thường đối với HGĐ, CN bị thu hồi đất bao gồm các quy định
cụ thể về phạm vi bồi thường (đó là bồi thường về đất và bồi thường thiệt hại về tài
sản có trên đất); về phương thức bồi thường (có thể bồi thường bằng đất có cùng
mục đích sử dụng với đất bị thu hồi hoặc bồi thường bằng tiền tương ứng với giá trị
quyền SDĐ bị thu hồi); về giá đất tính bồi thường, được tính theo khung giá đất do
Nhà nước quy định tương ứng với loại đất bị thu hồi, tính ở thời điểm thu hồi đất.
Nhóm quy phạm quy định về nội dung bồi thường là cơ sở pháp lý quan trọng giúp
các cơ quan Nhà nước giải quyết hài hòa lợi ích của các chủ thể trong quan hệ bồi
thường khi Nhà nước thu hồi đất của HGĐ, CN, cũng như giúp HGĐ, CN nắm rõ
được các quyền và lợi ích hợp pháp mà họ được Nhà nước bù đắp khi bị thu hồi đất.
Thứ ba, nhóm quy phạm quy định về trình tự, thủ tục bồi thường đối với
HGĐ, CN bị thu hồi đất.
Luật Đất đai quy định những vấn đề tổng quát, mang tính nguyên tắc về trình
tự, thủ tục bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất. Trên cơ sở đó, các văn bản hướng
dẫn thi hành có những quy định cụ thể về từng bước lập, bổ sung, thẩm định, thực
hiện phương án bồi thường, cũng như trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, cá nhân
trong việc bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất của HGD, CN. Tuy nhiên, việc thực
thi các quy định trên phụ thuộc rất nhiều vào chính sách của từng địa phương cũng
như trình độ, năng lực, trách nhiệm của các cơ quan và cán bộ thực thi. Đây cũng là
một lĩnh vực rất nhạy cảm của pháp luật đất đai, có ảnh hưởng không nhỏ đến
quyền lợi của HGĐ, CN có đất bị thu hồi, vì vậy nó thu hút sự quan tâm của dư luận
xã hội nói chung cũng như của chủ thể trực tiếp bị thu hồi đất.
24
Thứ tư, nhóm quy phạm quy định về giải quyết khiếu nại, tố cáo liên quan
đến bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất.
HGĐ, CN bị thu hồi đất nếu không đồng ý với quyết định về bồi thường thì
được quyền khiếu nại, tố cáo đến các cơ quan có thẩm quyền. Khiếu nại, tố cáo về
bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất là một dạng của khiếu nại, tố cáo nói chung.
Vì vậy những quy định pháp luật về vấn đề này được quy định trong Luật Đất đai
năm 2003 và các văn bản hướng dẫn thi hành; trong Luật Khiếu nại, Luật Tố cáo
năm 2011; trong Luật Tố tụng Hành chính năm 2010 và trong Luật Đất đai năm
2013 (Khoản 2, Điều 204 và Khoản 2, Điều 205). Đối với Nhà nước, việc giải quyết
khiếu nại, tố cáo nhằm phát hiện, ngăn ngừa và khắc phục những hành vi sai trái
trong bồi thường khi thu hồi đất. Đối với HGĐ, CN, khiếu nại, tố cáo là phương
thức bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ. Vì vậy, pháp luật quy định cho HGĐ,
CN bị thu hồi đất được quyền khiếu nại, tố cáo không chỉ giúp họ tự bảo vệ quyền
lợi hợp pháp của mình mà thông qua đó, Nhà nước có thể xem xét, đánh giá năng
lực, trình độ, phẩm chất đạo đức và ý thức tuân thủ pháp luật của đội ngũ công chức
Nhà nước.
Kết luận Chương 1
Trong Chương 1 của Luận văn, yacs giả đã làm rõ nội hàm những khái niệm
và phân loại đất đai, khái niệm và căn cứ pháp lý để Nhà nước thu hồi đất. Theo đó,
các căn cứ pháp lý để Nhà nước thu hồi đất của các HGĐ, CN gồm: (i). Thu hồi đất
vì mục đích quốc phòng, an ninh; phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công
cộng; (ii). Thu hồi đất do vi phạm pháp luật về đất đai; (iii). Thu hồi đất do chấm
dứt việc SDĐ theo pháp luật. Bên cạnh đó, tác giả cũng đưa ra khái niệm, đặc điểm
và ý nghĩa của việc bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất. Đồng thời, tại Chương
này, tác giả đã đưa ra khái niệm, đặc điểm và cơ cấu của pháp luật về bồi thường
khi Nhà nước thu hồi đất của các HGĐ, CN. Theo đó, cơ cấu của pháp luật về bồi
thường khi Nhà nước thu hồi đất của các HGĐ, CN bao gồm: (i). Nhóm quy phạm
quy định về nguyên tắc và điều kiện bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất của HGĐ,
CN; (ii). Nhóm quy phạm quy định về nội dung bồi thường đối với HGĐ, CN bị thu
25
hồi đất; (iii). Nhóm quy phạm quy định về trình tự, thủ tục bồi thường đối với
HGĐ, CN bị thu hồi đất; (iv). Nhóm quy phạm quy định về giải quyết khiếu nại, tố
cáo liên quan đến bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất.
26
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN THỰC THI PHÁP LUẬT VỀ BỒI THƯỜNG KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT CỦA CÁC HỘ GIA ĐÌNH, CÁ NHÂN TẠI THÀNH PHỐ HẠ LONG, TỈNH QUẢN NINH
2.1. Thực trạng pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất của các hộ
gia đình, cá nhân
2.1.1. Quy định về nguyên tắc bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất của các hộ
gia đình, cá nhân
Nguyên tắc bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất của HGĐ, CN không thể
thiếu trong pháp luật về bồi thường đất đai. Các nguyên tắc này chính là những định
hướng quan trọng cho công tác bồi thường trên thực tế, được thực hiện đảm bảo sự
công bằng, dân chủ, minh bạch và đúng pháp luật. Nguyên tắc bồi thường khi Nhà
nước thu hồi đất được quy định cụ thể tại Điều 74, Điều 88 Luật Đất Đai 2013.
Theo đó, việc bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất của HGĐ, CN tuân thủ các
nguyên tắc sau:
Thứ nhất, HGĐ, CN bị thu hồi đất có đủ điều kiện theo quy định của pháp
luật thì được bồi thường (Khoản 1 Điều 74 Luật Đất đai năm 2013).
Việc bồi thường được đặt ra khi Nhà nước thu hồi đất của HGĐ,CN để sử
dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng và vào
mục tiêu phát triển kinh tế. Tuy nhiên, đây không phải là điều kiện duy nhất để
HGĐ, CN được bồi thường. HGĐ, CN bị thu hồi đất còn phải thỏa mãn những điều
kiện do pháp luật quy định thì mới được bồi thường. Việc bồi thường được xem như
là sự bù đắp những thiệt hại mà HGĐ, CN sử dụng đất phải gánh chịu do việc thu
hồi đất của Nhà nước gây ra. Trường hợp HGĐ, CN sử dụng đất không đủ điều kiện
được bồi thường thì họ sẽ được xem xét hỗ trợ.
Thứ hai, việc bồi thường được thực hiện bằng việc giao đất có cùng mục
đích sử dụng với loại đất tu hồi, nếu không có đất để bồi thường thì bồi thường bằng
tiền theo giá đất cụ thể của loại đất thu hồi do UBND cấp tỉnh quyết định tại thời
điểm quyết định thu hồi đất (Khoản 2 Điều 74 Luật Đất đai năm 2013).
27
Việc vi phạm mục đích sử dụng đất của HGĐ, CN trong thực tế diễn ra khá
phổ biến. Vì vậy, việc bồi thường theo đúng loại đất có cùng mục đích sử dụng với
đất bị thu hồi chỉ được thực hiện khi HGĐ, CN có đất sử dụng đúng mục đích. Pháp
luật cũng quy định nếu không có đất để bồi thường thì bồi thường bằng tiền theo giá
đất cụ thể của loại đất thu hồi do UBND cấp tỉnh quyết định tại thời điểm quyết
định thu hồi đất. Nguyên tắc này đảm bảo công bằng, khách quan và minh bạch
trong tính giá đất và giải quyết hài hòa lợi ích giữa HGĐ, CN có đất bị thu hồi và
lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng.
Thứ ba, việc bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất phải bảo đảm dân chủ,
khách quan, công bằng, công khai, kịp thời và đúng quy định của pháp luật (Khoản
3 Điều 74 Luật Đất đai năm 2013).
Biểu hiện cụ thể của nguyên tắc này là khi thu hồi đất của HGĐ, CN, Nhà
nước phải đảm bảo sự công bằng về giá đất, về đối tượng thụ hưởng, về địa vị pháp
lý,… giữa các HGĐ, CN có đất bị thu hồi, giữa HGĐ, CN có đất bị thu hồi với Nhà
nước và đối với chủ đầu tư. Bên cạnh đó, Nhà nước cần đảm bảo sự hài hòa về lợi
ích, minh bạch về mọi vấn đề liên quan để HGĐ, CN có đất bị thu hồi dân tự
nguyện giao đất thực hiện dự án, công trình phát triển đô thị, phát triển kinh tế - xã
hội, đảm bảo quốc phòng-an ninh.
Thứ tư, khi Nhà nước thu hồi đất mà HGĐ, CN sở hữu tài sản hợp pháp gắn
liền với đất bị thiệt hại về tài sản hoặc phải ngừng sản xuất, kinh doanh mà có thiệt
hại thì được bồi thường (Điều 88 Luật Đất đai năm 2013).
Đây là một điểm mới của luật đất đai 2013 khi đã bắt đầu xem xét bồi
thường về đất không chỉ với tư cách là tài sản mà còn là tài nguyên và tư liệu sản
xuất. Trên thực tế, ngoài ý nghĩa là tài sản, đất đai còn là tài nguyên thiên nhiên, tư
liệu sản xuất, kinh doanh và nguồn sống của con người. Vì đất là tư liệu sản xuất
của người bị thu hồi đất nên Nhà nước ngoài việc bồi thường giá trị như một tài sản
còn phải bồi thường về thu nhập, sinh kế cho HGĐ, CN có đất bị thu hồi.
28
2.1.2. Quy định về căn cứ và nội dung bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất của
các hộ gia đình, cá nhân
2.1.2.1. Căn cứ bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất của các hộ gia đình, cá
nhân
Một là, Giấy chứng nhận quyền SDĐ (nay là giấy chứng nhận quyền SDĐ,
quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất – sau đây gọi chung là Giấy
chứng nhận quyền SDĐ).
Một trong những bảo đảm quan trọng cho HGĐ, CN sử dụng đất là quyền
được cấp giấy chứng nhận quyền SDĐ, đây là loại giấy thống nhất mẫu do cơ quan
địa chính ở trung ương phát hành nhằm ghi nhận những thông tin về quyền SDĐ
(chủ SDĐ, diện tích, ranh giới thửa đất, mục đích SDĐ, thời hạn SDĐ,…). Xét về
bản chất pháp lý, giấy chứng nhận quyền SDĐ là chứng thư pháp lý xác lập quyền
SDĐ hợp pháp của HGĐ, CN sử dụng đất và là cơ sở để HGĐ, CN sử dụng đất thực
hiện các quyền năng do pháp luật quy định. Trong thu hồi đất, khi có căn cứ pháp lý
xác định HGĐ, CN bị thu hồi đất là chủ SDĐ hợp pháp thì đương nhiên họ sẽ được
bù đắp những thiệt hại do việc thu hồi đất của Nhà nước gây ra.
Hai là, các giấy tờ hợp lệ được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cấp trong
quá trình thực hiện chính sách quản lý đất đai qua các thời kỳ.
Căn cứ vào điều 100 Luật Đất đai năm 2013, diện tích đất đủ điều kiện để
được cấp chứng nhận quyền SDĐ được hiểu là HGĐ, CN sử dụng diện tích đất bị
thu hồi có những giấy tờ sau:
- Những giấy tờ về quyền SDĐ trước ngày 15 tháng 10 năm 1993 do cơ quan
có thẩm quyền cấp trong quá trình thực hiện chính sách đất đai của Nhà nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa, Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt
Nam và Nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
29
- Giấy chứng nhận quyền SDĐ tạm thời được cơ quan Nhà nước có thẩm
quyền cấp hoặc có tên trong Sổ đăng ký ruộng đất, Sổ địa chính trước ngày 15
tháng 10 năm 1993.
- Giấy tờ hợp pháp về thừa kế, tặng cho quyền SDĐ hoặc tài sản gắn liền với
đất, giấy tờ giao nhà tình nghĩa, nhà tình thương gắn liền với đất.
- Giấy tờ chuyển nhượng quyền sử dụng đất, mua bán nhà ở gắn liền với đất
ở trước ngày 15 tháng 10 năm 1993 được UBND cấp có thẩm quyền xác nhận là đã
sử dụng trước ngày 15 tháng 10 năm 1993.
- Giấy tờ thanh lý, hóa giá nhà ở gắn liền với đất ở, giấy tờ mua nhà ở thuộc
sở hữu nhà nước theo quy định của pháp luật.
- Giấy tờ về quyền SDĐ do cơ quan có thẩm quyền thuộc chế độ cũ cấp cho
HGĐ, CN sử dụng đất.
Trường hợp HGĐ, CN đang SDĐ có một trong các loại giấy tờ nêu trên, mà
trên giấy tờ đó ghi tên người khác, kèm theo giấy tờ về chuyển quyền SDĐ có chữ
ký của các bên liên quan, nhưng đến trước ngày Luật Đất đai năm 2013 có hiệu lực
thi hành mà chưa thực hiện thủ tục chuyển quyền SDĐ theo quy định của pháp luật
và đất đó không có tranh chấp.
Trường hợp HGĐ,CN được SDĐ theo bản án hoặc quyết định của Toà án
nhân dân, quyết định thi hành án của cơ quan thi hành án, văn bản công nhận quyết
định hòa giải, quyết định giải quyết tranh chấp, khiếu nại, tố cáo về đất đai của cơ
quan nhà nước có thẩm quyền đã được thi hành thì được cấp Giấy chứng nhận
quyền SDĐ, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất, trường hợp chưa
thực hiện nghĩa vụ tài chính thì phải thực hiện theo quy định của pháp luật.
Trường hợp HGĐ, CN đang SDĐ được Nhà nước giao đất, cho thuê đất từ
ngày 15 tháng 10 năm 1993 đến ngày Luật Đất đai năm 013 có hiệu lực thi hành mà
chưa được cấp Giấy chứng nhận thì được cấp Giấy chứng nhận quyền SDĐ, quyền
30
sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất, trường hợp chưa thực hiện nghĩa vụ
tài chính thì phải thực hiện nghĩa vụ theo quy định của pháp luật.
2.1.2.2. Nội dung bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất của các hộ gia đình,
cá nhân
Thứ nhất, theo quy định tại Điều 79 Luật Đất đai năm 2013, việc bồi thường
về đất khi Nhà nước thu hồi đất ở của HGĐ, CN được quy định như sau:
HGĐ, CN đang sử dụng đất ở, nhà ở gắn liền với quyền SDĐ mà có đủ điều
kiện được bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất thì được bồi thường.
- Trường hợp không còn đất ở, nhà ở nào khác trong địa bàn xã, phường, thị
trấn nơi có đất thu hồi thì được bồi thường bằng đất ở hoặc nhà ở; trường hợp
không có nhu cầu bồi thường bằng đất ở hoặc nhà ở thì Nhà nước bồi thường bằng
tiền; trường hợp còn đất ở, nhà ở trong địa bàn xã, phường, thị trấn nơi có đất thu
hồi thì được bồi thường bằng tiền, đối với địa phương có điều kiện về quỹ đất ở thì
được xem xét để bồi thường bằng đất ở.
- HGĐ, CN khi Nhà nước thu hồi đất gắn liền với nhà ở phải di chuyển chỗ ở
mà không đủ điều kiện được bồi thường về đất ở, nếu không có chỗ ở nào khác thì
được Nhà nước bán, cho thuê, cho thuê mua nhà ở hoặc giao đất ở có thu tiền sử
dụng đất.”
Thứ hai, theo quy định tại Điều 80 Luật Đất đai năm 2013, việc bồi thường
về đất, chi phí đầu tư vào đất còn lại khi Nhà nước thu hồi đất phi nông nghiệp
không phải là đất ở của HGĐ, CN được quy định như sau:
- Nếu HGĐ, CN đang sử dụng đất phi nông nghiệp không phải là đất ở khi
Nhà nước thu hồi đất, nếu có đủ điều kiện được bồi thường thì được bồi thường
bằng đất có cùng mục đích sử dụng; trường hợp không có đất để bồi thường thì
được bồi thường bằng tiền theo thời hạn sử dụng đất còn lại đối với đất sử dụng có
thời hạn.
- Nếu HGĐ, CN đang sử dụng đất phi nông nghiệp không phải là đất ở được
Nhà nước cho thuê đất thu tiền thuê đất hàng năm; cho thuê đất trả tiền thuê đất một
lần cho cả thời gian thuê nhưng được miễn tiền thuê đất, khi Nhà nước thu hồi đất
31
thì không được bồi thường về đất nhưng được bồi thường chi phí đầu tư vào đất còn
lại, trừ trường hợp hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất do thực hiện chính sách đối với
người có công với cách mạng.
- Nếu HGĐ, CN đang sử dụng đất phi nông nghiệp không phải là đất ở khi
Nhà nước thu hồi đất, nếu đủ điều kiện được bồi thường: Đối với đất sử dụng có
thời hạn thì được bồi thường bằng đất có cùng mục đích sử dụng với đất thu hồi;
thời hạn sử dụng đất được bồi thường là thời hạn sử dụng còn lại của đất thu hồi;
nếu không có đất để bồi thường thì được bồi thường bằng tiền. Trường hợp HGĐ,
CN được bồi thường bằng đất mà có nhu cầu sử dụng với thời hạn dài hơn thời hạn
sử dụng còn lại của đất thu hồi thì được cơ quan nhà nước có thẩm quyền tăng thời
hạn sử dụng nhưng HGĐ, CN sử dụng đất phải thực hiện nghĩa vụ tài chính đối với
thời gian được tăng theo quy định của pháp luật về đất đai.
- Nếu HGĐ, CN sử dụng đất phi nông nghiệp không phải là đất ở được Nhà
nước cho thuê đất thu tiền thuê đất hàng năm, cho thuê đất thu tiền thuê đất một lần
cho cả thời gian thuê nhưng được miễn tiền thuê đất thì không được bồi thường về
đất nhưng được bồi thường chi phí đầu tư vào đất còn lại nếu có.
- Nếu hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất phi nông nghiệp không phải là
đất ở được Nhà nước cho thuê đất thu tiền thuê đất một lần cho cả thời gian thuê
nhưng được miễn tiền thuê đất do thực hiện chính sách đối với người có công với
cách mạng thì được bồi thường về đất. Căn cứ vào điều kiện thực tế, quỹ đất tại địa
phương, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quy định cụ thể việc bồi thường. Hộ gia đình, cá
nhân đang sử dụng đất thương mại, dịch vụ, đất cơ sở sản xuất phi nông nghiệp, đất
phi nông nghiệp khác có thời hạn sử dụng ổn định lâu dài mà có đủ điều kiện được
bồi thường theo quy định của pháp luật khi Nhà nước thu hồi đất thì được bồi
thường về đất theo giá đất ở.
32
2.1.3. Quy định về trình tự, thủ tục bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất của các
hộ gia đình, cá nhân
Bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất là hệ quả của việc Nhà nước thu hồi đất
của HGĐ, CN. Trình tư, thủ tục bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất được quy định
trong Luật Đất đai năm 2013 và được hướng dẫn cụ thể tại Nghị định số
43/2014/NĐ-CP ngày 15/05/2014 và Nghị định số 47/2014/NĐ-CP ngày
15/05/2014. Theo đó, trình tư, thủ tục bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất của các
HGĐ, CN được quy định có các bước như sau:
Bước 1: Thông báo thu hồi đất
Trước khi có quyết định thu hồi đất, chậm nhất 180 ngày đối với đất phi
nông nghiệp, cơ quan Nhà nước có thẩm quyền phải thông báo thu hồi đất cho
HGĐ, CN có đất thu hồi biết (Khoản 1 Điều 67 Luật Đất đai năm 2013). Nội dung
thông báo thu hồi đất bao gồm kế hoạch thu hồi đất, điều tra, khảo sát, đo đạc, kiểm
đếm. Thông báo thu hồi đất phải được gửi đến từng HGĐ, CN có đất thu hồi, họp
phổ biến đến người dân trong khu vực có đất thu hồi và thông báo trên phương tiện
thông tin đại chúng, niêm yết tại trụ sở UBND cấp xã, địa điểm sinh hoạt chung của
khu dân cư nơi có đất thu hồi. Sau khi thông báo thu hồi đất theo đúng thủ tục nói
trên, nếu HGĐ, CN sử dụng đất trong khu vực thu hồi đất đồng ý thì UBND cấp có
thẩm quyền có thể ra Quyết định thu hồi đất và thực hiện các chính sách về bồi
thường mà không cần chờ hết thời hạn thông báo (Khoản 2 Điều 67 Luật Đất đai
năm 2013).
Bước 2: Kiểm kê đất đai, tài sản có trên đất
Sau khi có quyết định thu hồi đất của cấp có thẩm quyền, UBND cấp xã có
trách nhiệm phối hợp với Tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng
triển khai thực hiện kế hoạch thu hồi đất, điều tra, khảo sát, đo đạc, kiểm đếm.
HGĐ, CN sử dụng đất có trách nhiệm phối hợp với tổ chức làm nhiệm vụ bồi
thường, giải phóng mặt bằng thực hiện việc điều tra, khảo sát, đo đạc xác định diện
33
tích đất, thống kê nhà ở, tài sản khác gắn liền với đất để lập phương án bồi thường
(Khoản 3 Điều 67 Luật Đất đai năm 2013).
Trường hợp HGĐ, CN sử dụng đất trong khu vực có đất thu hồi không phối
hợp với Tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng trong việc điều tra,
khảo sát, đo đạc, kiểm đếm thì UBND cấp xã, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc cấp xã nơi
có đất thu hồi và Tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng tổ chức
vận động, thuyết phục để HGĐ, CN sử dụng đất thực hiện.
Trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày được vận động, thuyết phục mà HGĐ,
CN sử dụng đất vẫn không phối hợp với Tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải
phóng mặt bằng thì Chủ tịch UBND cấp huyện ban hành quyết định kiểm đếm bắt
buộc. Người có đất thu hồi có trách nhiệm thực hiện quyết định kiểm đếm bắt buộc.
Trường hợp người có đất thu hồi không chấp hành thì Chủ tịch UBND cấp huyện
ban hành quyết định cưỡng chế thực hiện quyết định kiểm đếm bắt buộc và tổ chức
thực hiện cưỡng chế.
Bước 3: Lập phương án bồi thường
Tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng có trách nhiệm lập
phương án bồi thường đối với từng HGĐ, CN bị thu hồi đất, trên cơ sở tổng hợp số
liệu kiểm kê, xử lý các thông tin liên quan của từng trường hợp; áp giá tính giá trị
bồi thường về đất, tài sản trên đất.
Bước 4: Niêm yết công khai phương án lấy ý kiến của HGĐ, CN
Sau khi phương án chi tiết được lập, Tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải
phóng mặt bằng có trách nhiệm phối hợp với UBND cấp xã nơi có đất thu hồi tổ
chức lấy ý kiến của HGĐ, CN bị thu hồi đất. Hình thức lấy ý kiến là tổ chức họp
trực tiếp với HGĐ, CN trong khu vực có đất thu hồi, đồng thời niêm yết công khai
phương án bồi thường tại trụ sở UBND cấp xã, địa điểm sinh hoạt chung của khu
dân cư nơi có đất thu hồi. Việc tổ chức lấy ý kiến phải được lập thành biên bản có
xác nhận của đại diện UBND cấp xã, đại diện Ủy ban Mặt trận Tổ quốc cấp xã, đại
diện HGĐ, CN có đất thu hồi.
34
Tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng có trách nhiệm tổng
hợp ý kiến đóng góp bằng văn bản, ghi rõ số lượng ý kiến đồng ý, số lượng ý kiến
không đồng ý, số lượng ý kiến khác đối với phương án bồi thường phối hợp với
UBND cấp xã nơi có đất thu hồi tổ chức đối thoại đối với trường hợp còn có ý kiến
không đồng ý về phương án bồi thường; hoàn chỉnh phương án trình cơ quan có
thẩm quyền. Trên cơ sở ý kiến góp ý của các HGĐ, CN có đất bị thu hồi, đại diện
chính quyền, đoàn thể ở cơ sở, Tổ chức bồi thường tiếp thu, hoàn chỉnh phương án
chi tiết bồi thường, trình cơ quan chuyên môn thẩm định và trình cấp có thẩm quyền
phê duyệt.
Bước 5: Triển khai thực hiện
Việc quyết định thu hồi đất, phê duyệt và tổ chức thực hiện phương án bồi
thường, hỗ trợ, tái định cư được quy định như sau: UBND cấp có thẩm quyền quyết
định thu hồi đất, quyết định phê duyệt phương án bồi thường trong cùng một ngày.
Tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng có trách nhiệm phối
hợp với UBND cấp xã phổ biến và niêm yết công khai quyết định phê duyệt phương
án bồi thường tại trụ sở UBND cấp xã và địa điểm sinh hoạt chung của khu dân cư
nơi có đất thu hồi; gửi quyết định bồi thường đến từng HGĐ, CN có đất thu hồi,
trong đó ghi rõ về mức bồi thường, thời gian, địa điểm chi trả tiền bồi thường và
thời gian bàn giao đất đã thu hồi cho Tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải phóng
mặt bằng.
Tổ chức thực hiện việc bồi thường theo phương án bồi thường đã được phê
duyệt; trường hợp HGĐ, CN có đất thu hồi không bàn giao đất cho Tổ chức làm
nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng thì UBND cấp xã, Ủy ban Mặt trận Tổ
quốc cấp xã nơi có đất thu hồi và Tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt
bằng tổ chức vận động, thuyết phục để HGĐ, CN có đất thu hồi thực hiện, nếu họ
vẫn không chấp hành việc bàn giao đất thì bị cưỡng chế theo quy định.
Bước 6: Tổ chức chi trả bồi thường
35
Trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày quyết định thu hồi đất của cơ quan Nhà
nước có thẩm quyền có hiệu lực thi hành, cơ quan, tổ chức có trách nhiệm bồi
thường phải chi trả tiền bồi thường cho HGĐ, CN có đất thu hồi.
Trường hợp cơ quan, tổ chức có trách nhiệm bồi thường chậm chi trả thì khi
thanh toán tiền bồi thường, ngoài tiền bồi thường theo phương án bồi thường được
cấp có thẩm quyền phê duyệt thì HGĐ, CN có đất thu hồi còn được thanh toán thêm
một khoản tiền bằng mức tiền chậm nộp theo quy định của Luật Quản lý thuế tính
trên số tiền chậm trả và thời gian chậm trả. Trường hợp HGĐ, CN có đất thu hồi
không nhận tiền bồi thường theo phương án bồi thường được cấp có thẩm quyền
phê duyệt thì tiền bồi thường được gửi vào tài khoản tạm giữ của Kho bạc nhà
nước.
HGĐ, CN sử dụng đất được bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất mà chưa
thực hiện nghĩa vụ tài chính về đất đai đối với Nhà nước theo quy định của pháp
luật thì phải trừ đi khoản tiền chưa thực hiện nghĩa vụ tài chính vào số tiền được bồi
thường để hoàn trả ngân sách Nhà nước. Cụ thể là: khoản tiền chưa thực hiện nghĩa
vụ tài chính về đất đai bao gồm tiền SDĐ, tiền thuê đất phải nộp cho Nhà nước
nhưng đến thời điểm thu hồi đất vẫn chưa nộp; số tiền chưa thực hiện nghĩa vụ tài
chính này được xác định theo quy định của pháp luật về thu tiền SDĐ; thu tiền thuê
đất, thuê mặt nước.
2.1.4. Quy định về giải quyết khiếu nại, tố cáo liên quan đến bồi thường khi Nhà
nước thu hồi đất của các hộ gia đình, cá nhân
Theo quy định tại Điều 204 Luật Đất đai 2013 “Người sử dụng đất, người có
quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến sử dụng đất có quyền khiếu nại, khởi kiện
quyết định hành chính hoặc hành vi hành chính về quản lý đất đai”.
Trình tự, thủ tục giải quyết khiếu nại quyết định hành chính, hành vi hành
chính về đất đai thực hiện theo quy định của pháp luật về khiếu nại. Trình tự, thủ
tục giải quyết khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính về đất đai thực
hiện theo quy định của pháp luật về tố tụng hành chính.
36
Như vậy, trong trường hợp quyết định thu hồi đất, quyết định bồi thường mà
người bị thu hồi có căn cứ cho rằng quyết định đó chưa đúng với thực tế đất bị thu
hồi (loại đất, diện tích, vị trí...) thì có quyền khiếu nại hoặc khởi kiện hành chính.
Thời hiệu khiếu nại là 90 ngày, kể từ ngày nhận được quyết định hành chính hoặc
biết được quyết định hành chính, hành vi hành chính (Điều 9 Luật Khiếu nại 2011).
Trình tự khiếu nại được quy định tai Điều 7 Luật Khiếu nại 2011 như sau:
“Khi có căn cứ cho rằng quyết định hành chính, hành vi hành chính là trái pháp luật,
xâm phạm trực tiếp đến quyền, lợi ích hợp pháp của mình thì người khiếu nại khiếu
nại lần đầu đến người đã ra quyết định hành chính hoặc cơ quan có người có hành
vi hành chính hoặc khởi kiện vụ án hành chính tại Toà án theo quy định của Luật tố
tụng hành chính”.
Trường hợp người khiếu nại không đồng ý với quyết định giải quyết lần đầu
hoặc quá thời hạn quy định mà khiếu nại không được giải quyết thì có quyền khiếu
nại lần hai đến Thủ trưởng cấp trên trực tiếp của người có thẩm quyền giải quyết
khiếu nại lần đầu hoặc khởi kiện vụ án hành chính tại Toà án theo quy định của
Luật tố tụng hành chính. Trường hợp người khiếu nại không đồng ý với quyết định
giải quyết khiếu nại lần hai hoặc hết thời hạn quy định mà khiếu nại không được
giải quyết thì có quyền khởi kiện vụ án hành chính tại Toà án theo quy định của
Luật tố tụng hành chính.
Khi giải quyết khiếu nại của HGĐ,CN bị thu hồi đất thì cơ quan có thẩm
quyền sẽ căn cứ vào hồ sơ, giấy tờ do HGĐ, CN bị thu hồi đất cung cấp và hồ sơ
địa chính được lưu trữ cũng như xác minh lại hiện trạng SDĐ để xác định loại đất
của HGĐ, CN bị thu hồi đất.
37
2.2. Thực tiễn thực thi pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất của
các hộ gia đình, cá nhân tại thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh
2.2.1. Thực tiễn thi hành các nguyên tắc bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất
của các hộ gia đình, cá nhân tại thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh
Về nguyên tắc HGĐ, CN bị thu hồi đất có đủ điều kiện theo quy định của
pháp luật thì được bồi thường: Thực tiễn áp dụng nguyên tắc này tại thành phố Hạ
Long vẫn còn tồn tại nhiều trường hợp HGĐ, CN không cung cấp được các giấy tờ
chứng nhận quyền sử dụng đất hợp pháp, dẫn đến khó khăn trong việc bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của họ.
Về nguyên tắc việc bồi thường được thực hiện bằng việc giao đất có cùng
mục đích sử dụng với loại đất tu hồi, nếu không có đất để bồi thường thì bồi thường
bằng tiền theo giá đất cụ thể của loại đất thu hồi do UBND cấp tỉnh quyết định tại
thời điểm quyết định thu hồi đất: Đối với việc thu hồi đất ở của HGĐ, CN tại thành
phố Hạ Long, việc bồi thường về đất thường là đất có cùng mục đích sử dụng.
Trường hợp bồi thường bằng tiền, giá đất được tính dựa trên giá đất do UBND tỉnh
công bố trong Bảng giá đất và giá thị trường. Trường hợp thu hồi đất phi nông
nghiệp khác thì căn cứ vào quỹ đất thành phố để bồi thường bằng đất có cùng mục
đích sử dụng hoặc bằng tiền.
Về nguyên tắc việc bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất phải bảo đảm dân
chủ, khách quan, công bằng, công khai, kịp thời và đúng quy định của pháp luật:
Việc thục hiện bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất của HGĐ, CN đảm bảo tuân
thủ các quy định về quy trình, thủ tục, điều kiện và nội dung bồi thường khi Nhà
nước thu hồi đất. Việc thực hiện bồi thường cũng đảm công khai, minh bạch, đảm
bảo quyền lợi của các chủ thể có liên quan.
Về nguyên tắc khi Nhà nước thu hồi đất mà HGĐ, CN sở hữu tài sản hợp
pháp gắn liền với đất bị thiệt hại về tài sản hoặc phải ngừng sản xuất, kinh doanh
mà có thiệt hại thì được bồi thường: Việc bồi thường cho các HGĐ, CN trên địa bàn
thành phố Hạ Long thực hiện trên đảm bảo bồi thường đầy đủ các thiệt hại phát
38
sinh. Cách tính thiệt hại về tài sản, thiệt hại do ngừng sản xuất kinh doanh được quy
định cụ thể trong các văn bản hướng dẫn của UBND tỉnh Quảng Ninh.
2.2.2. Thực tiễn thực thi các quy định về điều kiện và nội dung bồi thường khi
Nhà nước thu hồi đất của các hộ gia đình, cá nhân tại thành phố Hạ Long, tỉnh
Quảng Ninh
Bồi thường về đất khi Nhà nước thu hồi đất ở:
Xác định giá đất bồi thường:
Giá đất bồi thường trong bảng giá đất: Giá đất bồi thường, giá các loại đất
thuộc nhóm đất nông nghiệp tại thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh đã được Ủy
ban nhân dân tỉnh Quảng Ninh ban hành kèm theo Quyết định số 3566/2013/QĐ-
của Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Ninh ngày 26/12/2013 về ban hành bảng giá các
loại đất trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh.
Giá đất cụ thể bồi thường: Giá đất cụ thể bồi thường tại thành phố Hạ Long
được áp dụng theo Điều 3 và 4 Thông tư số 74/2015/TT-BTC ngày 15/5/2015 và
Điều 3 Quyết định số 3000/2017/QĐ-UBND của Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng
Ninh, như sau:
Nguyên tắc và phương pháp xác định giá đất cụ thể bồi thường; giá đất, giá
nhà ở tái định cư: Trước khi quyết định thu hồi đất, Ủy ban nhân dân cấp huyện
(nơi có đất thu hồi) tổ chức thực hiện hoặc thuê đơn vị tư vấn thực hiện điều tra,
khảo sát, xây dựng giá đất cụ thể bồi thường; giá đất, giá nhà ở tái định cư cùng thời
điểm và thống nhất về nguyên tắc và phương pháp định giá theo quy định, gửi các
cơ quan có thẩm quyền thẩm định, trình Ủy ban nhân dân tỉnh phê duyệt.
Đối với dự án trọng điểm mà Ủy ban nhân dân tỉnh giao thì Sở Tài nguyên
và Môi trường chủ trì thuê tư vấn thực hiện. Kinh phí thực hiện định giá đất cụ thể
bồi thường; giá đất, giá nhà ở tái định cư quy định tại Khoản này (bao gồm cả
trường hợp thuê tư vấn thực hiện) thực hiện theo Điều 3 Thông tư số 74/2015/TT-
BTC và do Tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, hỗ trợ, tái định cư chi trả.
39
Quy định bồi thường thiệt hại về tài sản, về sản xuất kinh doanh
Bồi thường nhà, công trình xây dựng trên đất khi Nhà nước thu hồi đất:
Điều 21 Quyết định số 3000/2017/QĐ-UBND của Ủy ban nhân dân tỉnh
Quảng Ninh quy định:
Mức bồi thường đối với nhà, công trình xây dựng khác gắn liền với đất quy
định tại Khoản 1 Điều 9 Nghị định số 47/2014/NĐ-CP được xác định như sau:
Mức bồi thường Khoản tiền tính bằng tỷ lệ Giá trị hiện có của nhà, công đối với nhà, = + phần trăm theo giá trị hiện có trình công trình của nhà, công trình
Trong đó:
Giá trị hiện có của nhà, công trình bị thiệt hại bằng (=) tỷ lệ phần trăm chất
lượng còn lại của nhà, công trình đó nhân (x) với giá trị xây dựng mới của nhà,
công trình có tiêu chuẩn kỹ thuật tương đương do bộ quản lý chuyên ngành ban
hành;
Khoản tiền tính bằng tỷ lệ phần trăm theo giá trị hiện có của nhà, công trình
bằng 50% giá trị hiện có của nhà, công trình, nhưng mức bồi thường không quá
100% giá trị xây dựng mới của nhà, công trình có tiêu chuẩn kỹ thuật tương đương
với nhà, công trình bị thiệt hại.
Bồi thường đối với công trình hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội đang sử dụng
gắn liền với đất:
Điều 22 Quyết định số 3000/2017/QĐ-UBND của Ủy ban nhân dân tỉnh
Quảng Ninh quy định:
Đối với công trình hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội đang sử dụng, phải di
chuyển thì mức bồi thường bằng tiền tính bằng giá trị xây dựng mới của công trình
phải phá dỡ có tiêu chuẩn kỹ thuật tương đương theo quy định. Đơn vị quản lý, sử
40
dụng, khai thác công trình có trách nhiệm xây dựng mới, di chuyển công trình; nếu
công trình không còn sử dụng thì không được bồi thường. Trường hợp công trình hạ
tầng đang sử dụng, phải di chuyển mà chưa được xếp loại vào cấp tiêu chuẩn kỹ
thuật thì Sở quản lý chuyên ngành xác định cấp tiêu chuẩn kỹ thuật để tính bồi
thường.
Trường hợp các đơn vị có tài sản có văn bản đề nghị được nhận bồi thường
bằng hoàn trả công trình (thay việc nhận bồi thường bằng tiền theo quy định tại
Khoản 1 Điều này) thì việc hoàn trả bằng công trình được thực hiện như sau:
- Tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng có trách nhiệm lập
hoặc thuê tổ chức có tư cách pháp nhân lập thiết kế dự toán xây dựng công trình
mới có tiêu chuẩn kỹ thuật tương đương, gửi sở quản lý Nhà nước chuyên ngành để
xin ý kiến thẩm tra trước khi trình Ủy ban nhân dân cấp huyện phê duyệt phương án
bồi thường, hỗ trợ;
- Giá trị phương án bồi thường, hỗ trợ được phê duyệt là kinh phí để tổ chức
thực hiện di chuyển, xây dựng công trình và hoàn trả, bàn giao cho đơn vị có tài
sản. Việc tổ chức di chuyển, xây dựng công trình phải thực hiện theo đúng trình tự,
quy định về quản lý dự án đầu tư; tài sản thu hồi không còn dùng, được xử lý theo
đúng các quy định hiện hành;
- Trường hợp đơn vị có tài sản có nhu cầu bổ sung quy mô, công suất và tiêu
chuẩn kỹ thuật thì phần bổ sung tăng thêm đơn vị phải chi trả.
Bồi thường chi phí di chuyển khi Nhà nước thu hồi đất:
Điều 26 Quyết định số 3000/2017/QĐ-UBND của Ủy ban nhân dân tỉnh
Quảng Ninh quy định:
Người sử dụng đất bị thu hồi đất mà phải di chuyển tài sản thì được bồi
thường chi phí để tháo dỡ, di chuyển, lắp đặt. Mức bồi thường 5.000.000 đồng/01
hộ chính chủ.
41
Trường hợp phải di chuyển hệ thống máy móc, dây truyền sản xuất được bồi
thường chi phí để tháo dỡ, di chuyển, lắp đặt và thiệt hại khi tháo dỡ, vận chuyển,
lắp đặt. Tổ chức phát triển quỹ đất lập dự toán chi phí (hoặc thuê đơn vị tư vấn)
trình cơ quan chuyên ngành thẩm tra; Ủy ban nhân dân cấp huyện phê duyệt theo
quy định về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư.
Bồi thường đối với cây trồng, vật nuôi:
Điều 27 Quyết định số 3000/2017/QĐ-UBND của Ủy ban nhân dân tỉnh
Quảng Ninh quy định:
Khi Nhà nước thu hồi đất mà gây thiệt hại đối với cây trồng và vật nuôi thủy
sản thì được bồi thường thiệt hại theo quy định tại Điều 90 Luật Đất đai trừ các
trường hợp sau:
- Cây trồng, vật nuôi thủy sản tạo lập sau thời điểm công bố thông báo thu
hồi đất;
- Các loại cây không được phép trồng trong hành lang bảo vệ an toàn các
công trình đã được công bố, cắm mốc;
- Cây đã héo hoặc đã chết tại thời điểm kiểm đếm.
Đơn giá bồi thường về cây trồng, vật nuôi thủy sản theo Quyết định của Ủy
ban nhân dân tỉnh.
Trong những năm gần đây, tỉnh Quảng Ninh đã coi trọng việc xây dựng
khung giá đất sát với thị trường để kịp thời bồi thường đúng với quy định và đảm
bảo quyền lợi của người dân. Sở Tài nguyên và Môi trường đã phối hợp với Ủy ban
nhân dân các quận, huyện, thành phố tập trung xây dựng phương án giá đất.
Phương án giá đất được xây dựng trên cơ sở tổng hợp kết quả điều tra khảo
sát giá đất và đề xuất của Uỷ ban nhân dân các quận, huyện và thành phố nên cơ
bản đảm bảo hài hoà lợi ích giữa nhà nước, nhân dân và các doanh nghiệp, phù hợp
được mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của từng địa phương. Một số điểm chưa
42
hoàn chỉnh của bảng giá đất đã được điều chỉnh hợp lý, trong đó đã lưu ý tính ổn
định thực hiện quyền và nghĩa vụ trong việc sử dụng đất của người dân. Đặc biệt
việc xây dựng giá đất ở nông thôn đến địa bàn từng xã nhằm các mục đích đảm bảo
phù hợp giữa giá đất các xã của các địa phương có sự khác biệt về tình hình phát
triển hạ tầng giao thông, mức độ đô thị hóa và khả năng sinh lợi.
Giá đất tại thành phố Hạ Long giai đoạn 2015 – 2019 dược công bố trong
quyết định số 3566/2013/QĐ-, Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Ninh ngày 26/12/2013.
Căn cứ vào tình hình thực tế, Uỷ ban nhân dân tỉnh Quảng Ninh đã có một số lần
điều chỉnh giá các loại đất trên địa bàn tỉnh như: Quyết định số 568/2015/QĐ- ngày
27/02/2015 của Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Ninh về việc quy định hệ số điều
chỉnh giá các loại đất trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh; Quyết định số 06/2018/QĐ-
ngày 30/04/2018 của Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Ninh về việc quy định hệ số điều
chỉnh giá các loại đất trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh.
43
Bảng 2.1. Bảng giá đất ở, đất thương mại dịch vụ, đất sản xuất kinh doanh
phi nông nghiệp tại một số khu vực trên địa bàn thành phố hạ Long
Khu vực
Giá đất ở (đ.m2)
Giá đất thương mại, dịch vụ (đ/m2)
Giá đất sản xuất kinh doanh phi nông nghiệp (đ/m2)
Đường Lê Thánh Tông đoạn từ Bến Phà đến hết trụ sở Công ty than Hồng Gai
- Mặt đường chính
22.000.000
13.200.000
11.000.000
- Đường nhánh từ 3m trở lên
8.800.000
5.280.000
4.400.000
- Đường nhánh từ 2m đến dưới 3m
4.400.000
2.640.000
2.200.000
- Đường nhánh nhỏ hơn 2m
1.700.000
1.020.000
850.000
700.000
350.000
- Khu còn lại 420.000 Đường Lê Thánh Tông đoạn từ Cột đồng hồ đến Ngã 5 Kênh Liêm
- Mặt đường chính
32.000.000
19.200.000
16.000.000
- Đường nhánh từ 3m trở lên
12.000.000
7.200.000
6.000.000
- Đường nhánh từ 2m đến dưới 3m
5.500.000
3.300.000
2.750.000
- Đường nhánh nhỏ hơn 2m
2.200.000
1.320.000
1.100.000
450.000
900.000
540.000
- Khu còn lại Đường vào khai trường mỏ Núi Béo đoạn từ đường vào Nhà sàng đến ranh giới khai trường mỏ than Núi Béo - Mặt đường chính
720.000
430.000
360.000
- Đường nhánh từ 3m trở lên
550.000
330.000
280.000
- Đường nhánh từ 2m đến dưới 3m
500.000
300.000
250.000
- Đường nhánh từ 2m đến dưới 3m
450.000
270.000
230.000
- Khu còn lại
400.000
240.000
200.000
năm 2015 – 2019
Nguồn: Quyết định số 3566/2013/QĐ-, Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Ninh,
26/12/2013
Các văn bản quy phạm pháp luật nêu trên đã tạo hành lang pháp lý đồng bộ
cho công tác định giá đất tại địa phương. Tuy nhiên, giá đất bồi thường chủ yếu
thực hiện theo bảng giá nên còn thấp so với giá đất thị trường; còn tình trạng không
thống nhất về cơ chế bồi thường giữa các dự án đầu tư có nguồn vốn trong nước và
dự án từ vốn vay của các ngân hàng nước ngoài. Mặc dù đạt được những thành tựu
cơ bản nhưng chính sách tài chính đất đai còn nhiều mặt hạn chế như: Việc quản lý
44
nhà nước về giá đất còn bất cập, chưa theo sát thị trường. Bảng giá công bố tại các
địa phương chỉ bằng khoảng 50% - 70% so giá thị trường.
Thể chế về việc xác định giá đất còn chưa phù hợp với quy luật của nền kinh
tế thị trường. Việc quy định phạm vi áp dụng khung giá do Nhà nước để xác định
giá bất động sản với phạm vi rộng trong đó có các quan hệ mang bản chất của quan
hệ dân sự như quan hệ giao, cho thuê đất đã ảnh hưởng lớn đến quyền và lợi ích của
các chủ thể khi giá do Nhà nước xác định thấp hơn giá thị trường, đặc biệt khi Nhà
nước thu hồi đất. Đây là một trong những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tình trạng
khiếu kiện, tham nhũng trong lĩnh vực đất đai trong thời gian vừa qua.
Khi bồi thường thu hồi đất nếu giá đất sát giá chuyển nhượng thực tế trên thị
trường trong điều kiện bình thường thì rất thuận lợi. Tuy nhiên, thị trường bất động
sản của thành phố Hạ Long vẫn tồn tại khá nhiều bất thường, hiện tượng đầu cơ khá
phổ biến, giá đất chịu tác động rất lớn từ thông tin quy hoạch, công bố dự án trong
khi đó các công cụ quản lý nhà nước về đất đai còn hạn chế và chưa đồng bộ dẫn
đến việc định giá đất theo sát thị trường đang còn rất khó khăn. Giá đất theo quy
định của cơ quan Nhà nước và giá đất theo thị trường có biên độ dao động rất lớn.
Điều này gây rất nhiều khó khăn cho quản lý nhà nước về đất đai dưới khía cạnh
kinh tế, đặc biệt trong việc áp dụng giá đất để tính bồi thường khi Nhà nước thu hồi
đất.
Việc bồi thường về nhà đất khi Nhà nước thu hồi tại thành phố Hạ Long theo
đánh giá là chưa tương xứng, không thể tính hết các chi phí mà người dân đã bỏ ra.
Giá đất bồi thường hỗ trợ thời gian qua là chưa đảm bảo để người dân phục hồi lại
sản xuất, kinh doanh và tái tạo, ổn định lại cuộc sống như trước khi bị thu hồi đất.
Chính vì vậy, dẫn đến việc người dân không đồng ý với phương án bồi thường,
không tự nguyện chấp hành quyết định thu hồi đất.
Việc áp dụng các quy định bồi thường, hỗ trợ về tài sản, trong những năm
vừa qua thành phố Hạ Long đã áp dụng các quy định bồi thường nhà ở, nhà và các
công trình gắn liền với đất; thực tiễn áp dụng các quy định về bồi thường, hỗ trợ di
45
chuyển mồ mả; thực tiễn áp dụng các quy định bồi thường, hỗ trợ đối với cây trồng.
Về cơ bản việc thực hiện các quy định bồi thường, hỗ trợ về tài sản khi nhà nước
thu hồi đất tại địa bàn thành phố Hạ Long là đúng đắn, đồng bộ và thống nhất theo
tinh thần của Luật Đất đai năm 2003 và 2013, các văn bản quy phạm pháp luật
hướng dẫn thi hành của các cơ quan nhà nước cấp có thẩm quyền và của thành phố
Hạ Long. Mặt khác các quy định bồi thường, hỗ trợ về tài sản hiện hành so với các
quy định trước đây ngày càng được quy định rõ ràng, chi tiết và hoàn thiện hơn.
Qua đó, góp phần bảo vệ càng ngày tốt hơn các quyền lợi và lợi ích hợp pháp của
người bị thu hồi đất và đảm bảo các lợi ích của Nhà nước, của xã hội và của nhà đầu
tư trong quá trình thực hiện việc bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất.
2.2.3. Thực tiễn thực thi các quy định về trình tự, thủ tục bồi thường khi Nhà
nước thu hồi đất của các hộ gia đình, cá nhân tại thành phố Hạ Long, tỉnh
Quảng Ninh
Việc áp dụng các quy định về trình tự, thủ tục bồi thường khi Nhà nước thu
hồi đất của các hộ gia đình, cá nhân tại địa bàn thành phố Hạ Long được thực hiện
theo Điều 67, Khoản 1 Điều 69 Luật Đất đai, Điều 17 Nghị định 43/2014/NĐ-CP
ngày 15/5/2014 và Quyết định số 3000/2017/UBND của UBND tỉnh Quảng Ninh.
Theo đó, trách nhiệm của các cơ quan liên quan bao gồm:
Ủy ban nhân dân thành phố Hạ Long
- Chỉ đạo, tổ chức, điều hành các cơ quan chuyên môn trực thuộc và Trung
tâm phát triển quỹ đất thành phố Hạ Long phối hợp thực hiện nhiệm vụ bồi thường
được quy định theo thẩm quyền.
- Chỉ đạo, tổ chức, tuyên truyền, vận động tổ chức, cá nhân về chính sách bồi
thường và thực hiện giải phóng mặt bằng theo đúng quy định thu hồi đất của cơ
quan Nhà nước có thẩm quyền.
- Chỉ đạo Trung tâm phát triển quỹ đất thành phố Hạ Long lập và tổ chức
thực hiện phương án bồi thường.
46
- Phê duyệt phương án bồi thường đối với trường hợp thu hồi đất theo thẩm
quyền.
- Phối hợp với Sở Lao động, Thương binh và Xã hội lập phương án đào tạo,
chuyển đổi và tìm kiếm việc làm cho người trong độ tuổi lao động tại địa phương;
- Giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân về bồi thường theo thẩm quyền.
- Ra quyết định cưỡng chế và tổ chức cưỡng chế đối với các trường hợp
thuộc thẩm quyền; phối hợp với các cơ quan chức năng tổ chức thực hiện việc
cưỡng chế theo quyết định của cơ quan có thẩm quyền;
- Tổng hợp, báo cáo Uỷ ban nhân dân tỉnh, Sở Tài nguyên và Môi trường
tình hình và kết quả thực hiện thu hồi đất, bồi thường tại địa phương trước ngày 20
tháng 11 hàng năm.
Trung tâm phát triển quý đất thành phố Hạ Long
Trung tâm phát triển quý đất thành phố Hạ Long được thành lập teo Quyết
định số 756/QĐ- ngày 27/06/2010 của Ủy ban nhân dân thành phố Hạ Long. Trung
tâm phát triển quỹ đất thành phố Hạ Long là tổ chức có chức năng tổ chức thực hiện
việc bồi thường, hỗ trợ và tái định cư, tạo quỹ đất để đấu giá quyền sử dụng đất,
phục vụ phát triển kinh tế - xã hội và ổn định thị trường bất động sản.
- Lập kế hoạch tổ chức thực hiện việc thu hồi đất theo kế hoạch sử dụng đất
hàng năm của huyện để bồi thường, hỗ trợ, tái định cư.
- Lập, tổ chức thực hiện phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà
nước thu hồi đất.
- Thực hiện các dịch vụ trong việc bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà
nước thu hồi đất; đấu giá quyền sử dụng đất; dịch vụ tư vấn xác định giá đất, trừ các
trường hợp Nhà nước định giá đất; cung cấp thông tin về địa điểm đầu tư, giá đất và
quỹ đất cho các tổ chức, cá nhân theo yêu cầu.
47
Ủy ban nhân dân các phường
- Tổ chức tuyên truyền về mục đích thu hồi đất, chính sách bồi thường của
dự án.
- Phối hợp với Trung tâm phát triển quỹ đất thành phố Hạ Long thực hiện
xác nhận đất đai, tài sản của người bị thu hồi và chịu trách nhiệm trước pháp luật
trong việc xác nhận điều kiện được bồi thường liên quan đến quyền sử dụng đất,
quyền sở hữu nhà ở của hộ gia đình, cá nhân có đất thu hồi tại địa phương; phối hợp
chặt chẽ với Trung tâm phát triển quỹ đất thành phố Hạ Long quá trình thực hiện
thu hồi đất, bồi thường, giải phóng mặt bằng tại địa phương.
Trong những năm gần đây, hàng năm trên địa bàn thành phố Hạ Long triển
khai từ 70 – 100 dự án, quy mô, diện tích đất thu hồi tăng dần lên theo từng năm.
Trong thời gian gần đây, thành phố Hạ Long đã tập trung giải phóng mặt bằng một
số dự án trọng điểm như Dự án xây dựng tuyến đường cao tốc Hạ Long – Vân Đồn,
Dự án khu hỗn hợp chung cư văn phòng, trung tâm thương mại và nhà ở kết hợp
khu mua sắm phường Bạch Đằng, thành phố Hạ Long; Dự án cải tạo, nâng cấp
Quốc lộ 18 đoạn hạ Long – Mông Dương, Dự án Dự án công viên Đại Dương.
Bảng 2.2 tổng hợp số liệu về các dự án thu hồi đất trên địa bàn thành phố Hạ Long
trong giai đoạn 2013 – 2017.
Bảng 2.2. Thống kê về các dự án bồi thường, giải phóng mặt bằng trên địa bàn
thành phố Hạ ong giai đoạn 2013 - 2017
2013 2015 2014 2016 2017
DVT Dự án ha % 68 843,82 54,9 105 966,33 61,4 75 908,17 58,7 103 866,53 60,6 89 984,52 53,6
18,6 13,1 16,7 15,6 19,5 %
26.5 24.6 25.5 26.9 %
Chỉ tiêu 1. Tổng số dự án 2. Diện tích đất thu hồi tích đất nông Diện nghiệp Diện tích đất phi nông nghiệp Diện tích đất khác 23.8 Nguồn: Báo cáo công tác giải phóng mặt bằng tạo quỹ đất sạch của Trung tâm phát
triển quỹ đất thành phố Hạ Long, 2013 – 2017
48
Từ bảng 2.2 có thể thấy, trong giai đoạn 2013 – 2017, tổng dự án triển khai
và tổng diện tích đất bị thu hồi tại thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh có xu
hướng tăng dần qua các năm. Trong đó, diện tích đất nông nghiệp chiếm tỷ trọng
lớn nhất (hơn 50%) trong tổng diện tích đất bị thu hồi. Đặc biệt, năm 2016, diện tích
đất nông nghiệp bị thu hồi chiếm tới 61,4% tổn diện tích đất bị thu hồi. Diện tích
đất ở bị thu hồi chiếm tỷ trọng thấp nhất qua các năm và nhìn chung có xu hướng
giảm dần trong giai đoạn 2013 – 2017. Điều này xuất phát từ thực tế là việc thu hồi
đất ở ảnh hưởng trực tiếp đến cuộc sống, sinh hoạt của HGĐ, CN có đất bị thu hồi
và đặt ra nhiều khó khăn cho công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng.
Bảng 2.3. Khái quát tiến độ bồi thường, giải phóng mặt bằng khi Nhà nước thu
hồi đất của các hộ gia đình, cá nhân tại thành phố Hạ Long
DVT
% % 2013 68 60,29 26,47 2014 75 64,00 28,00 2016 105 64,76 20,00 2015 89 46,34 31,70 2017 103 68,93 14,76
21,72 11,77 14.29 16,31 5.33 %
0,24 1,47 2,67 0,95 0,00 %
Chỉ tiêu Tổng số dự án bồi thường - Số dự án đúng tiến độ - Số dự án chậm tiến độ < 1 năm - Số dự án chậm tiến độ 1-2 năm Số dự án chậm tiến độ > 2 năm Nguồn: Báo cáo công tác giải phóng mặt bằng tạo quỹ đất sạch của Trung tâm phát
triển quỹ đất thành phố Hạ Long, 2013 – 2017
Số liệu thống kê về tiến độ thực hiện các dự án có thu hồi đất trên địa bàn
thành phố Hạ Long cho thấy tỷ lệ các dự án dúng tiến độ vẫn thấp, trong khi đó tỷ lệ
các dự án chậm tiến độ vẫn còn khá cao. Thực trạng trên xuất phát nguyên nhân
như: sự phối hợp giữa người dân với các cơ quan chức năng và sự phối hợp giữa
các cơ quan chức năng vẫn còn chưa chặt chẽ, dẫn đến sự chậm trễ trong quá trình
nhận tiền bồi thường và bàn giao mặt bằng các dự án. Thêm vào đó, tiến độ lập hồ
sơ, thảm định phương án và phê duyệt phương án bồi thường còn chậm so với yêu
cầu. Thực tế trong những năm vừa qua đã có một số dự án triển khai chậm so với kế
hoạch đề ra, đặc biệt có những dự án lớn. Ngoài ra, một số trường hợp phương án
bồi thường chưa đầy đủ, chưa đúng quy định. Một số trường hợp khác Ủy ban nhân
49
dân phường xác định nguồn gốc sử dụng đất không đầy đủ, không xác định, ghi rõ
loại đất, thời gian sử dụng nên thiếu cơ sở để thẩm định.
Bảng 2.4. Kết quả thực hiện công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng tại
Trung tâm phát triển quỹ đất thành phố Hạ Long
2016 2017
1.372 1.720
577.441.791.000 386.733.843.000
1.720 1.461 8.355 1.916
681.346.817.000
Chỉ tiêu Tổng số phương án phê duyệt trong năm Tổng giá trị phê duyệt trong năm (triệu đồng) Tổng số hộ dân, đơn vị bị ảnh hưởng Tổng số phương án đã chi trả tiền trong năm Tổng số tiền đã chi trả trong năm 717.083.385.000 Nguồn: Báo cáo công tác giải phóng mặt bằng tạo quỹ đất sạch của Trung tâm phát
triển quỹ đất thành phố Hạ Long, 2016 – 2017
Từ Bảng 2.4 có thể thấy, mỗi năm Trung tâm phát triển quỹ đất thành phố
Hạ Long đã xây dựng và thực hiện một lượng khá lớn các phương án bồi thường,
giải phóng mặt bằng (năm 2013 là 1.372 phương án, năm 2017 là 1.720 phương án).
Điều này đặt ra yêu cầu thực tế là trong thời gian tới, Trung tâm phát triển thành
phố Hạ Long cần có sự bổ sung, tăng cường về đội ngũ cán bộ và cơ sở vật chất, kỹ
thuật để đảm bảo thực hiện tốt trách nhiệm của Trung tâm trong bối cảnh mới.
2.2.4. Thực tiễn giải quyết khiếu nại về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất của
các hộ gia đình, cá nhân tại địa bàn thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh
Theo báo cáo kết quả Tiếp công dân, giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo của
UBND thành phố Hạ Long cho thấy, chỉ trong 9 tháng đầu năm 2018, thành phố
tiếp công dân 1.236 lượt với 1389 người. Trong 1.236 vụ việc này có 624 vụ việc
khiếu nại liên quan đất đai, 74 vụ việc khiếu nại chế độ chính sách, 134 vụ việc
khiếu nại về nhà, tài sản, còn lại là phản ảnh, kiến nghị khác. Qua tiếp công dân, có
452 vụ việc chưa được giải quyết, 108 vụ việc chưa có quyết định giải quyết, 655
vụ việc đã có quyết định giải quyết (lần 1, lần 2, cuối cùng), và 21 vụ việc đã có bản
án của Toà.
50
Nhìn chung, các vụ khiếu nại, tố cáo về đất đai chiếm khoảng gần 40% trong
tổng số vụ việc khiếu nại, tố cáo trên địa bàn thành phố Hạ Long trong 5 năm vừa
quà. Trong đó, khiếu nại về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất của các HGĐ, CN
chiếm tỷ trọng khá lớn. Bảng 2.5 dưới đây cho thấy kết quả thống kê về các vụ việc
khiếu nại, tố cáo về đất đai trong trên địa bàn thành phố Hạ Long giai đoạn 2013 –
2017.
Bảng 2.5. Kết quả thống kê về các vụ việc khiếu nại về đất đai trong trên địa
bàn thành phố Hạ Long giai đoạn 2013 – 2017
Chỉ tiêu 2013 2014 2015 2016 2017
Tổng số vụ việc khiếu nại về 651 688 701 792 683
đất đai
Khiếu nại về bồi thường, hỗ 182 193 208 215 178
trợ, tái định cư thu hồi đất
Khiếu nại về tranh chấp đất 181 188 213 236 203
đai
Khiếu nại về cấp, thu hồi 114 126 124 138 109
giấy chứng nhận quyền SDĐ
Khiếu kiện khác 174 181 156 203 193
Nguồn: Báo cáo thường niên về công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo trên địa bàn
thành phố Hạ Long, 2013 - 2017
Số liệu từ Bảng 2.5 cho thấy, tổng số vụ việc khiếu nại về đất đai trên địa
bàn thành phố Hạ Long có xu hướng tăng dần qua các năm từ 2013 đến năm 2017.
Trong đó khiếu nại về tranh chấp đất đai và khiếu nại về bồi thường, hỗ trợ và tái
định cư khi Nhà nước thu hồi đất chiếm tỷ trọng lớn nhất. Số lượng các vụ việc
khiếu nại liên quan đến bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất
trên địa bàn thành phố Hạ Long có sự tăng mạnh trong giai đoạn 2013 – 2016, tuy
nhiên, đến năm 2017 số lượng này bắt đầu giảm khá đáng kể. Điều này cho thấy
những dấu hiệu tích cực trong việc thực hiện bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất
và cần được phát huy trong thời gian tới.
51
Mặc dù vậy, công tác giải quyết các khiếu nại về bồi thường khi Nhà nước
thu hồi đất của các HGĐ, CN trên địa bàn thành phố Hạ Long vẫn còn nhiều vướng
mắc, dẫn đến có những vụ việc khiếu nại kéo dài nhiều năm, ảnh hưởng đến tiến độ
thực hiện các dự án. Nhiều vụ việc mặc dù đã có quyết định giải quyết nhưng không
nhận được sự đồng thuận của người dân khiến cho công tác bồi thường, giải phóng
mặt bằng gặp nhiều khó khăn, phức tạp.
Thực trạng trên xuất phát từ nhiều nguyên nhân, trong đó có các nguyên
nhân chủ yếu như sau:
Một là, do hiểu biết của người dân về pháp luật về thu hồi đất và bồi thường
khi Nhà nước thu hồi đất của HGĐ, CN còn thấp. Nhiều trường hợp do không hiểu
biết về quy định đất đai, người dân tự ý chuyển đổi mục đích sử dụng đất, dẫn đến
việc không được bồi thường đầy đủ các thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất. Bên
cạnh đó, vẫn có tình trạng khiếu kiện vượt cấp, hay việc người dân không hợp tác
với các cơ quan chức năng trong việc giải quyết các mâu thuẫn trong quá trình bồi
thường, giải phóng mặt bằng khi Nhà nước thu hồi đất.
Hai là, Luật Đất đai, Bộ Luật Tố tụng dân sự, Luật Khiếu nại tố cáo còn
chồng chéo, mâu thuẫn, không thống nhất. Chính sách, pháp luật về thu hồi đất và
bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất chưa theo kịp cơ chế kinh tế thị trường. Điều
này dẫn đến những khó khăn cho các cơ quan thực thi pháp luật trong việc giải
quyết các khiếu nại của HGĐ, CN bị thu hồi đất.
Ba là, công tác giải quyết khiếu nại về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất
trên địa bàn thành phố Hạ Long vẫn chưa được quan tâm đúng mức. Công tác thanh
tra trên địa bàn thành phố đối với các vụ việc về bồi thường khi Nhà nước thu hồi
đất chưa được thực hiện thường xuyên, còn thiếu tính chủ động, chưa đáp ứng yêu
cầu thực tiễn. Việc xử lý sau thanh tra của các cơ quan chức năng chưa kiên quyết,
triệt để, kịp thời làm hạn chế hiệu quả hoạt động thanh tra. Việc giải quyết đơn thư
khiếu nại, tố cáo về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn thành phố còn
mang tính chủ quan, nể nang, nặng về mệnh lệnh hành chính; nhiều quyết định giải
quyết chưa thấu tình, đạt lý. Việc tổ chức thực hiện các quyết định giải quyết đã có
52
hiệu lực pháp luật còn thiếu kiên quyết, dẫn đến vụ việc không được giải quyết dứt
điểm, khiếu kiện kéo dài.
2.2.5. Đánh giá về thực tiễn thực thi pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu
hồi đất của các hộ gia đình, cá nhân tại thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh
2.2.5.1. Thành tựu
Thứ nhất, việc ban hành văn bản, chính sách bồi thường khi thu hồi đất theo
Luật Đất đai 2013 và các Nghị định hướng dẫn:
Khi Luật Đất đai năm 2013 và các Nghị định hướng dẫn thi hành, UBND
tỉnh Quảng Ninh đã kịp thời ban hành nhiều văn bản hướng dẫn cụ thể về thực hiện
bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất của HGĐ, CN như: Quyết định số
1766/2014/QĐ- về Ban hành Quy định về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà
nước thu hồi đất theo Luật Đất đai năm 2013 trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh; Quyết
định số 4234/2015/QĐ- về Ban hành Bộ đơn giá bồi thường tài sản gắn liền với đất
khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh; Quyết định số
3000/2017/QĐ- về ban hành quy định về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà
nước thu hồi đất trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh thay thế cho Quyết định số
1766/2014/QĐ-, Quảng Ninh. Các văn bản này đã tạo nên một hệ thống pháp luật
hoàn chỉnh, làm căn cứ cho việc bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất của HGĐ, CN
trên địa bàn thành phố Hạ Long.
Thứ hai, việc thực hiện bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất tại địa bàn thành
phố Hạ Long:
Trong thời gian qua về cơ bản là đúng đắn và thống nhất theo Luật Đất đai
năm 2013, các Nghị định hướng dẫn thi hành và các văn bản hướng dẫn cụ thể của
UBND thành phố. Việc bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất của HGĐ, CN trên địa
bàn thành phố Hạ Long đảm bảo những nguyên tắc cơ bản của pháp luật , đảm bảo
các điều kiện và nội dung bồi thường theo quy định của pháp luật, tuân thủ các quy
trình, thủ tục bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất và chủ động, tích cực trong giải
quyết các khiếu nại về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất của HGĐ, CN.
53
2.2.5.2. Hạn chế
Bên cạnh những kết quả nói trê, việc thực thi pháp luật về bồi thường khi
Nhà nước thu hồi đất của HGĐ, CN trên địa bàn thành phố Hạ Long vẫn tồn tại một
số bất cập như sau:
Thứ nhất, giá bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất còn thấp, chưa sát với giá
thị trường:
Việc định giá đất thị trường mới cơ bản thực hiện được đối với đất ở; còn đất
sản xuất kinh doanh phi nông nghiệp thì hiện nay chưa có phương pháp định giá
phù hợp trong điều kiện của Việt Nam nói chung và thành phố Hạ Long nói riêng.
Do sự phát triển của thị trường bất động sản vận động liên tục và thiếu ổn định đã
làm cho mức giá bị giới hạn trong Khung giá quy định trở nên lạc hậu, thấp xa so
với thị trường, nhất là tại các khu vực có tốc độ đô thị hóa nhanh như thành phố Hạ
Long. Đây cũng là một trong những vấn đề gây ra nhiều khiếu kiện về vấn đề bồi
thường khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn thành phố.
Thứ hai, quy trình, thủ tục bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất vẫn còn
mang tính hình thức, thiếu công khai, minh bạch:
Quá trình thực hiện các dự án phải trải qua nhiều giai đoạn, liên quan đến
nhiều cấp, ban ngành, kéo dài, làm ảnh hưởng đến tiến độ thu hồi đất, bồi thường và
giải phóng mặt bằng cho các dự án bị chậm trễ. Các dự án chậm tiến độ 1 – 2 năm
vẫn còn chiếm tỷ lệ khá cao, cá biệt, có những dự án được thực hiện từ trước khi
Luật Đất đai năm 2013 được ban hành nhưng đến nay mới hoàn thành việc bồi
thường, giải phóng mặt bằng.
Thứ ba, việc tổ chức thực hiện bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất chưa
hiệu quả:
Việc chuẩn bị phương án bồi thường chưa được các cấp chính quyền quan
tâm đúng mức, nhất là phương án giải quyết tạo việc làm mới, chuyển đổi nghề
HGĐ, CN có đất bị thu hồi. Bên cạn đó, vẫn chưa có sự phối hợp chặt chẽ giữa các
54
cấp, các ngành; chưa làm tốt công tác tuyên truyền, vận động, giải thích cho nhân
dân hiểu rõ quy định của pháp luật hoặc né tránh, thiếu cương quyết, không giải
quyết dứt điểm, làm cho việc giải phóng mặt bằng bị kéo dài nhiều năm. Năng lực
của một bộ phận đội ngũ cán bộ làm công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng còn
hạn chế và thiếu chuyên nghiệp.
Thứ tư, vướng mắc về phía người dân bị thu hồi đất khi được bồi thường:
Việc thực thi pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất tại thành phố
Hạ Long vẫn còn nhiều vướng mắc liên quan đến nhận thức của người dân. Một số
trường hợp người dân biểu thị sự không đồng tình và yêu cầu đòi bồi thường giá
cao hơn bằng cách gây áp lực với chính quyền và doanh nghiệp thông qua các hành
động mang tính tiêu cực. Tình trạng tự cơi nới, xây mới nhà cửa, vật kiến trúc; chia
tách hộ, phân chia tài sản chủ yếu là nhà ở, đất ở; ươm cây giống, trồng cây không
đúng mục đích sử dụng đất, vượt mật độ cho phép; chuyển đổi mục đích sử dụng
đất, nâng hạng đất để tăng mức được bồi thường, hỗ trợ chuyển đổi nghề nghiệp…
trong và sau khi có quy hoạch, xác định mốc giới kiểm kê trở thành phổ biến ngày
càng tinh vi và phức tạp hơn.
Kết luận Chương 2
Tại Chương 2 của Luận văn, tác giả tập trung phân tích thực trạng pháp luật
về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất của các HGĐ, CN, bao gồm các nhóm quy
định: (i). Quy định về nguyên tắc bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất của các
HGĐ, CN; (ii). Quy định về căn cứ và nội dung bồi thường khi Nhà nước thu hồi
đất của cácHGĐ, CN; (iii). Quy định về trình tự, thủ tục bồi thường khi Nhà nước
thu hồi đất của cácHGĐ, CN; (iv). Quy định về giải quyết khiếu nại, tố cáo liên
quan đến bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất của các HGĐ, CN. Đồng thời trong
Chương này, tác giả đã phân tích thực trạng thực thi pháp luật về bồi thường khi
Nhà nước thu hồi đất của các HGD, CN tại thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh và
đưa ra những đánh giá về những thành tựu và hạn chế trong quá trình thực thi pháp
luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất của các hộ gia đình, cá nhân tại thành
phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh.
55
CHƯƠNG 3: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC THI PHÁP LUẬT VỀ BỒI THƯỜNG KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT CỦA CÁC HỘ GIA ĐÌNH, CÁ NHÂN TẠI THÀNH PHỐ HẠ LONG, TỈNH QUẢNG NINH
3.1. Nhu cầu và phương hướng hoàn thiện pháp luật bồi thường khi Nhà nước
thu hồi đất của hộ gi đình, cá nhân từ thực tiễn thành phố Hạ Long
3.1.1. Sự cần thiết phải hoàn thiện pháp luật bồi thường khi Nhà nước thu hồi
đất của hộ gi đình, cá nhân từ thực tiễn thành phố Hạ Long
Thu hồi đất, bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất của HGĐ, CN là vấn đề
phức tạp và nhạy cảm, có ảnh hưởng trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp của
HGĐ, CN sử dụng đất. Pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất có vai trò
quan trọng trong việc giải quyết các mâu thuẫn về lợi ích kinh tế giữa Nhà nước,
HGĐ, CN bị thu hồi đất và chủ đầu tư. Lĩnh vực pháp luật này thường xuyên được
sửa đổi, bổ sung nhằm đáp ứng các đòi hỏi của thực tiễn. Tuy nhiên, quá trình áp
dụng các quy định của pháp luật vào bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất của
HGĐ, CN vẫn bộc lộ những tồn tại, bất cập. Điều này đặt ra yêu cầu phải tiếp tục
hoàn thiện các quy định về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất. Hơn nữa, việc
hoàn thiện lĩnh vực pháp luật này còn dựa trên những căn cứ chủ yếu sau đây:
Thứ nhất, bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất cũng bộc lộ những tồn tại,
yếu kém trong quản lý nhà nước về đất đai của các cơ quan Nhà nước có thẩm
quyền như sự thiếu dân chủ, thiếu công bằng, thiên vị, tham nhũng, tiêu cực trong
việc áp dụng các quy định về bồi thường. Để góp phần khắc phục những yếu kém
này, pháp luật về bồi thường phải xây dựng các quy định cụ thể, dự liệu và đưa ra
những phương án phòng ngừa tham nhũng, tiêu cực, thiếu dân chủ và không công
bằng trong thực thi pháp luật của các cơ quan công quyền. Hơn nữa, pháp luật về
bồi thường cần phải xây dựng các chế tài pháp lý nghiêm minh, đủ sức răn đe đối
với những hành vi vi phạm pháp luật về bồi thường; xem xét các yêu cầu này vào
các quy định hiện hành cho thấy pháp luật về bồi thường dường như chưa xác lập
được một cơ chế pháp lý hữu hiệu để ngăn ngừa và xử lý có hiệu quả các hành vi
56
tham nhũng, tiêu cực trong bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất. Đây cũng là một
lý do lý giải cho việc tiếp tục hoàn thiện lĩnh vực pháp luật này.
Thứ hai, Đảng ta xác định giữ vững ổn định chính trị là tiền đề để phát triển
kinh tế, nâng cao đời sống của nhân dân. Bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất là
vấn đề nhạy cảm do đụng chạm trực tiếp đến lợi ích của HGĐ, CN bị thu hồi đất.
Do vậy vấn đề này thường tiềm ẩn nguy cơ trở thành điểm nóng, gây mất ổn định
chính trị nếu không giải quyết công bằng và ổn thỏa các xung đột về lợi ích giữa
Nhà nước, HGĐ, CN bị thu hồi đất và chủ đầu tư. Việc bồi thường khi Nhà nước
thu hồi đất được thực hiện dựa trên các quy định của pháp luật. Do vậy, hoàn thiện
pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất là rất cần thiết góp phần vào việc
duy trì ổn định về chính trị và chống lại những luận điệu xuyên tạc, kích động,
chống phá của các thế lực thù địch.
Thứ ba, trong thời kỳ tiếp tục đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước; chúng ta phải
thực hiện việc thu hồi một diện tích đất không nhỏ để triển khai các dự án đầu tư hệ
thống cơ sở hạ tầng; khu công nghiệp, khu chế xuất, khu đô thị mới. Điều này đặt ra
việc thực hiện bồi thường cho hàng vạn HGĐ, CN bị thu hồi đất. Việc giải quyết tốt
vấn đề này không chỉ có ý nghĩa về mặt chính trị góp phần duy trì sự ổn định chính
trị mà còn tạo điều kiện thuận lợi để thực hiện triển khai các dự án đầu tư đúng tiến
độ, đúng thời gian và nâng cao tính hấp dẫn của môi trường đầu tư ở nước ta. Với ý
nghĩa đó, tiếp tục hoàn thiện các quy định về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất là
việc làm cần thiết.
Thứ tư, xét về bản chất, Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là
Nhà nước do nhân dân lao động thiết lập nên đại diện cho ý chí, nguyện vọng và lợi
ích của nhân dân. Nhà nước ta không ngừng quan tâm và chăm lo bảo vệ quyền và
lợi ích chính đáng của người dân. Vì vậy, khi HGĐ, CN sử dụng đất bị Nhà nước
thu hồi đất để sử dụng vào các mục đích chung thì Nhà nước phải thực hiện việc bồi
thường cho họ trên cơ sở quy định của pháp luật. Việc hoàn thiện pháp luật về bồi
thường khi Nhà nước thu hồi đất là một minh chứng sinh động và cụ thể nhằm thể
hiện bản chất nhân dân của Nhà nước.
57
3.1.2. Phương hướng hoàn thiện pháp luật bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất
từ thực tiễn thành phố Hạ Long
Trên cơ sở phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật về bồi thường khi Nhà
nước thu hồi đất của HGĐ, CN, luận văn đã chỉ ra nhu cầu hoàn thiện lĩnh vực pháp
luật này. Việc hoàn thiện pháp luật bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất của HGĐ,
CN cần dựa trên những định hướng cơ bản sau đây:
3.1.2.1. Hoàn thiện pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất của
HGĐ, CN phải dựa trên quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng về đất đai nói
chung và bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nói riêng
Như đã phân tích, bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất là vấn đề nhạy cảm,
phức tạp liên quan đến lợi ích của nhiều nhóm người trong xã hội. Vì vậy, công tác
này phải được thực hiện dựa trên quan điểm nhất quán. Có như vậy mới đảm bảo sự
công bằng, khách quan và minh bạch. Nhận thức được ý nghĩa và tầm quan trọng
của việc bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất, Đảng ta đã chỉ ra quan điểm, đường
lối về vấn đề này. Những quan điểm, đường lối về bồi thường khi Nhà nước thu hồi
đất được ghi nhận trong các nghị quyết Đại hội Đảng, nghị quyết của Ban Chấp
hành Trung ương. Đây là những định hướng quan trọng cho Nhà nước thể chế hóa
thành các quy định pháp luật làm căn cứ cho việc thực hiện bồi thường. Hơn nữa,
pháp luật là sự thể chế quan điểm, đường lối của Đảng; vì vậy việc hoàn thiện pháp
luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất phải dựa trên quan điểm, chủ trương
của Đảng về vấn đề này được ghi nhận trong Nghị quyết lần thứ 7 Ban Chấp hành
Trung ương khóa IX về tiếp tục đổi mới chính sách, pháp luật đất đai trong thời kỳ
đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước và các nghị quyết trung ương khác.
3.1.2.2. Hoàn thiện pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất phải
dựa trên việc giải quyết mối quan hệ hài hòa về lợi ích kinh tế giữa Nhà nước và
HGĐ, CN bị thu hồi đất, đồng thời chủ động tích cực giải quyết vấn đề chỗ ở, đào
tạo chuyển đổi nghề nghiệp, bảo đảm ổn định cuộc sống cho HGĐ, CN bị thu hồi
đất
58
Thu hồi đất để sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh; lợi ích quốc gia,
lợi ích công cộng là một công việc phức tạp và khó khăn. Tính phức tạp, khó khăn
thể hiện ở việc Nhà nước phải xử lý hài hòa mối quan hệ xung đột về lợi ích kinh tế
của cộng đồng xã hội, của chủ đầu tư và của HGĐ, CN bị thu hồi đất trong việc thu
hồi đất. Kinh nghiệm thực tế cho thấy rằng ở địa phương nào mà giải quyết tốt việc
xử lý hài hòa mối quan hệ này thì việc thu hồi đất được thực hiện nhanh chóng,
thuận lợi không phát sinh những tranh chấp, khiếu kiện kéo dài và nhận được sự
hưởng ứng, đồng thuận của HGĐ, CN bị thu hồi đất. Ngược lại, địa phương nào
không giải quyết hoặc xử lý tốt mối quan hệ này thì công tác thu hồi đất, bồi thường
thực hiện rất chậm chạp, khó khăn và phát sinh các tranh chấp, khiếu kiện về đất đai
kéo dài tiềm ẩn nguy cơ gây mất ổn định.
Xét về bản chất, HGĐ, CN bị Nhà nước thu hồi đất sử dụng vào mục đích
quốc phòng, an ninh; lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng không do lỗi của họ gây ra.
Tuy nhiên, hoạt động này lại gây ra những hậu quả làm đảo lộn cuộc sống và sản
xuất của họ. HGD, CN bị Nhà nước thu hồi đất trong trường hợp này bị mất chỗ ở
hoặc bị mất đất sản xuất rơi vào hoàn cảnh hết sức khó khăn. Do đó, việc giải quyết
vấn đề đào tạo chuyển đổi nghề nghiệp cho HGĐ, CN bị mất đất sản xuất là việc
làm rất cần thiết. Nó không chỉ giúp HGĐ, CN bị thu hồi đất sớm ổn định đời sống,
sinh hoạt và sản xuất mà còn tạo ra sự đồng thuận của cộng đồng xã hội đối với việc
thu hồi đất của Nhà nước; thể hiện bản chất ưu việt của chế độ ta. Với ý nghĩa đó,
hoàn thiện pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất phải dựa trên việc giải
quyết hài hòa mối quan hệ về lợi ích kinh tế giữa Nhà nước và HGĐ, CN bị thu hồi
đất đồng thời quan tâm giải quyết vấn đề chỗ ở, đào tạo chuyển đổi nghề nghiệp,
bảo đảm cuộc sống ổn định cho HGĐ, CN bị thu hồi đất.
3.1.2.3. Hoàn thiện pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất phải
hướng vào việc đổi mới cơ chế thực hiện bồi thường cho phù hợp với điều kiện kinh
tế thị trường; từng bước thực hiện việc xã hội hóa công tác bồi thường
Khung giá đất do Nhà nước xác định thường xuyên được sửa đổi, điều chỉnh
cho sát với giá chuyển nhượng quyền SDĐ thực tế trên thị trường trong điều kiện
59
bình thường. Vì vậy, nguồn kinh phí dành cho công tác bồi thường khi Nhà nước
thu hồi đất là một khoản kinh phí khổng lồ, chiếm từ 30 - 40% tổng giá trị của dự
án; cá biệt có trường hợp chiếm đến 50 -60% tổng giá trị dự án. Đây là khoản tiền
lớn trong điều kiện ngân sách của Nhà nước còn hạn hẹp. Thực tế cho thấy, nếu chi
trả tiền bồi thường thấp thì HGĐ, CN bị thu hồi đất không đồng thuận, cố tình dây
dưa không chịu bàn giao mặt bằng ảnh hưởng đến thời gian, tiến độ thực hiện dự án
và phát sinh các tranh chấp, khiếu kiện đất đai kéo dài. Để khắc phục tình trạng này,
Nhà nước cần đổi mới cơ chế bồi thường và từng bước thực hiện việc xã hội hóa
công tác bồi thường theo hướng:
- Tạo điều kiện cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế có đủ
năng lực, điều kiện được thành lập doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực bồi
thường, giải phóng mặt bằng. Các doanh nghiệp này thực hiện việc làm dịch vụ cho
Nhà nước hoặc các chủ đầu tư trong việc bồi thường theo cơ chế thị trường;
- Thực hiện cơ chế tạo nguồn kinh phí chi trả bồi thường cho người bị thu
hồi đất từ chính việc thu hồi đất. Đối với các dự án đầu tư xây dựng hệ thống cơ sở
hạ tầng, xây dựng khu đô thị, Nhà nước thực hiện thu hồi thêm những phần đất nằm
liền kề với diện tích đất triển khai dự án và tổ chức đấu giá quyền sử dụng những
diện tích đất này để lấy kinh phí chi trả bồi thường cho người bị thu nhồi đất;
- Thực hiện cơ chế tạo điều kiện cho HGĐ, CN bị thu hồi đất được hưởng lợi
từ chính việc thu hồi đất để sử dụng vào mục đích sản xuất - kinh doanh hoặc dự án
xây dựng nhà ở thương mại; theo đó, HGĐ, CN bị thu hồi đất thay vì nhận được
một khoản tiền bồi thường họ được góp vốn bằng giá trị diện tích đất bị thu hồi xác
định theo khung giá bồi thường với chủ đầu tư dự án và hưởng lợi từ việc góp vốn
đó.
3.1.2.4. Hoàn thiện pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất phải
dựa trên việc tiếp tục phát huy dân chủ, huy động sự tham gia của các tổ chức quần
chúng và nâng cao tính công khai, minh bạch, công bằng trong việc thu hồi đất
60
Kinh nghiệm về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất để triển khai các dự án
đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng trên địa bàn thành phố Hạ Long cho thấy, địa phương
đã biết phát huy dân chủ và đảm bảo công khai, minh bạch, công bằng trong việc
bồi thường. Lãnh đạo địa phương đã trực tiếp đối thoại, tuyên truyền, giải thích với
HGĐ, CN bị thu hồi đất; lắng nghe tâm tư và nguyện vọng của họ; đồng thời chỉ
đạo sự vào cuộc của các tổ chức quần chúng; đảm bảo tính công khai, minh bạch và
công bằng trong công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng nên đã nhận được sự
đồng thuận hưởng ứng của HGĐ, CN bị thu hồi đất. Hoàn thiện pháp luật về bồi
thường khi Nhà nước thu hồi đất cần dựa trên việc tiếp tục phát huy dân chủ, huy
động sự tham gia của các tổ chức quần chúng và nâng cao tính công khai, minh
bạch, công bằng trong việc thu hồi đất.
3.2. Nhóm giải pháp hoàn thiện pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi
đất của các hộ gia đình, cá nhân
3.2.1. Tiếp tục sửa đổi Luật Đất đi năm 2013
Vấn đề bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất đã được quy định trong Luật
Đất đai và quá trình thực hiện trong thực tế nhiều năm qua. Xét về bản chất pháp lý
bồi thường đặt ra khi một chủ thể xâm phạm tới những lợi ích của một chủ thể khác
và đảm bảo những điều kiện pháp luật quy định như: có thiệt hại xảy ra, có lỗi, có
hành vi trái pháp luật và có mối quan hệ nhân quả. Việc Nhà nước thu hồi đất dựa
trên cơ sở những căn cứ pháp lý và trình tự, thủ tục pháp luật quy định.
Mặt khác, nhìn nhận dưới góc độ người sử dụng đất không phải là chủ sở
hữu mà chỉ được trao quyền SDĐ, nên khi Nhà nước thu hồi mang tính chất mệnh
lệnh và hệ quả là người sử dụng đất phải được bồi thường. Nhìn nhận dưới khía
cạnh này thực sự chưa thấy giá trị của quyền SDĐ và tài sản trên đất. Mặc dù,
HGĐ, CN có quyền sử dụng nhưng trong các giao dịch dân sự thì quyền SDĐ xác
định là tài sản, đối tượng của các giao dịch (hợp đồng, thừa kế). Do đó cần hiểu và
quy định đúng vấn đề này.
Tuy nhiên, Luật Đất đai lại không đưa ra khái niệm về quyền SDĐ. NLDS
năm 2015 cung không đưa ra khái niệm này. Đây là một bất cập rất rõ trong pháp
61
luật về đất đai. Do đó, người viết đề xuất cần tiếp tục sửa đổi, bổ sung Luật Đất đai
năm 2013, trong đó bổ sung khái niệm về quyền SDĐ.
Ngoài ra, như đã phân tích trong Chương 1 và Chương 2 của Luận văn, khi
Nhà nước thu hồi đất của HGĐ, CN thì HGĐ, CN chỉ được bồi thường thiệt hại khi
Nhà nước thu hồi đất vì lý do quốc phòng, an ninh, phát triển kinh tế - xã hội. Tuy
nhiên giá trị bồi thường lại do Nhà nước quy định. Điều này là bất hợp lý khi nền
kinh tế Nhà nước đang vận hành theo cơ chế thị trường.
Do đó, người viết đề xuất giải pháp là Luật Đất đai năm 2013 nên quy định
rõ là Nhà nước phải bồi thường cho HGĐ, CN theo giá thị trường vì việc thu hồi đất
không do lỗi của họ gây ra.
Do người bị thu hồi đất không đồng thuận với phương án bồi thường của
Nhà nước đã phát sinh khiếu kiện kéo dài làm cho dự án không triển khai đúng tiến
độ và làm lỡ cơ hội đầu tư, kinh doanh của các doanh nghiệp.
Để khắc phục hạn chế này, giải pháp hoàn thiện pháp luật về giá đất được
đưa ra là bổ sung vào Luật Đất đai năm 2013 những quy định sau đây:
- Giá đất được xác định phải theo giá thị trường
- Giá đất được xác định phải dựa trên sự thỏa thuận với người có quyền SDĐ
hợp pháp bị thu hồi vì mục đích quốc phòng, an ninh, phát triển kinh tế - xã hội
Trường hợp không thỏa thuận được về giá thì người bị thu hồi đất có quyền
yêu cầu cơ quan thẩm định giá xác định giá, giá bất động sản xác định theo giá của
cơ quan thẩm định giá. Trường hợp một bên không đồng ý với giá của cơ quan thẩm
định giá đưa ra có quyền yêu cầu tổ chức khác thẩm định lại giá, giá của cơ quan tổ
chức đưa ra là giá để tính đền bù. Để đảm bảo giá của cơ quan thẩm định giá đưa ra
là khách quan, độc lập Nhà nước cần nghiên cứu thành lập cơ quan định giá chuyên
nghiệp, độc lập với địa vị pháp lý rõ ràng và chịu trách nhiệm trước pháp luật về
hoạt động định giá.
62
3.2.2. Hoàn thiện khung pháp lý về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất của
HGĐ, CN trên cơ sở đảm bảo tính thống nhất, đồng bộ và tính ổn định
Để tạo sự thống nhất và tính ổn định cao, Chính phủ và UBND tỉnh cần ban
hành văn bản dưới luật, để hướng dẫn thi hành Luật Đất đai năm 2013, trong đó quy
định cụ thể trách nhiệm pháp lý đối với các trường hợp HGĐ, CN bị thu hồi đất
không thi hành quyết định thu hồi đất của Nhà nước. Đồng thời, đẩy mạnh các giải
pháp thường xuyên rà soát, hệ thống hóa các quy định của pháp luật về thu hồi đất
nhằm kịp thời phát hiện sai sót, bất cập và chồng chéo giữa các quy định về thu hồi
đất theo Luật Đất đai 2013 với các văn bản luật chuyên ngành khác như Luật Nhà ở,
Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư, Luật Xử lý vi phạm hành chính.
Hình thức bồi thường theo pháp luật hiện hành nên tạo sự đồng thuận của
người dân đang dẫn đến khiếu kiện về đất đai ngày càng nhiều. chia sẻ lợi ích để tạo
nguồn vốn phát triển cho địa phương, tạo quan hệ đối tác dài hạn giữa nhà đầu tư và
cộng đồng dân cư địa phương, các nước thường áp dụng cơ chế chia sẻ lợi ích. Do
sự phát triển của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập
quốc tế sâu rộng nên các quy định về thu hồi đất theo Luật Đất đai 2013 vẫn có
nhiều điểm hạn chế, bất cập là chuyện đương nhiên. Song, việc sửa đổi, bổ sung
hoàn thiện các quy định pháp luật về thu hồi đất đảm bảo tính kịp thời, đúng pháp
luật, phù hợp với thực tiễn phát triển đất nước là điều hết sức quan trọng, nó quyết
định hiệu quả, hiệu lực của bộ máy quản lý Nhà nước về đất đai cũng như điều tiết
các mối quan hệ sở hữu và hơn nữa làm hạn chế các tranh chấp, khiếu nại kéo dài,
gây mất an ninh, chính trị ở địa phương.
Nói cách khác, người viết đề xuất giải pháp là cần trao quyền cho người bị
thu hồi đất có quyền yêu cầu cơ quan định giá đất xác định giá đất và giá do cơ
quan định giá đất đưa ra là giá để tính tiền bồi thường. Theo quy định hiện hành,
hiện đang tồn tại cơ chế hai giá đất là giá đất do Nhà nước quy định áp dụng tính
bồi thường trong trường hợp Nhà nước ra quyết định thu hồi đất và giá đất do doanh
nghiệp tự thỏa thuận với người sử dụng đất thông qua hình thức nhận chuyển
nhượng quyền sử dụng đất, nhận góp vốn bằng quyền sử dụng đất để tạo quỹ đất.
63
Việc tồn tại hai loại giá đất là một trong những nguyên nhân gây khiếu nại về giá
đất trong bồi thường, giải phóng mặt bằng, đặc biệt đối với các dự án sử dụng đất
bằng hình thức Nhà nước thu hồi đất.
Như vậy, cần quy định cụ thể khung pháp luật của hoạt động dịch vụ định
giá đất và các trường hợp, khi nào thì dịch vụ định giá đất là bắt buộc; quy định các
cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định về giá đất phải độc lập với các cơ quan
có thẩm quyền quản lý đất đai để đảm bảo tính khách quan trong việc xác định giá
đất, tránh tình trạng UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương vừa có thẩm
quyền thu hồi đất vừa có thẩm quyền xác định bảng giá đất để tính bồi thường cho
người bị thu hồi đất; thiết nghĩ hợp lý nhất là quy định các cơ quan nhà nước có
thẩm quyền quyết định về giá đất được thành lập theo hệ thống ngành dọc trực
thuộc trung ương.
3.2.3. Bổ sung quy định bồi thường cho HGĐ, CN bị thu hồi đất gắn với an sinh
xã hội, bảo đảm đời sống lâu dài của họ
Định hướng tiếp tục đổi mới pháp luật về đất đai đã xác định rõ yêu cầu
trong bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất của HGĐ, CN là phải bảo đảm ổn định
đời sống lâu dài cho HGĐ, CN có đất bị thu hồi. Khi Nhà nước thu hồi đất để triển
khai dự án, HGĐ, CN bị thu hồi đất phải gánh chịu nhiều thiệt hại vô hình như thay
đổi chỗ làm việc, chợ, bệnh viện, trường học xa, môi trường sống, tâm lý bị tác
động; tái định cư tại chỗ thì bị ảnh hưởng về tiếng ồn, khói bụi, nước ngập khi chủ
đầu tư thi công dự án, nhà cửa thấp hơn mặt đường, cây cối mất năng suất, không
chăn nuôi được; để tạo dựng ngôi nhà mới, người dân không chỉ phải sử dụng số
tiền bồi thường từ Nhà nước mà đòi hỏi phải lo thủ tục xây dựng, tính toán vật liệu,
quản lý công trình, bỏ bê công việc. Vì vậy, đòi hỏi để được bồi thường các thiệt hại
vô hình đối với HGĐ, CN bị thu hồi đất là xác đáng và đã được nhiều cơ quan, nhà
nghiên cứu đặt ra. Do vậy, trong việc bồi thường, pháp luật cần làm rõ các quy định
sau đây:
64
Một là, đối với bồi thường bằng quyền SDĐ phải xây dựng quy hoạch khu
dân cư cho HGĐ, CN sử dụng đất đạt mức chuẩn tối thiểu so với khi họ đang sinh
sống tại nơi đất bị thu hồi (có cơ sở hạ tầng và các điều kiện sinh hoạt khác).
Hai là, xem xét những thiệt hại vô hình khi HGĐ, CN bị thu hồi số bằng
nguồn thu nhập chính trên đất đó (kinh doanh, cho thuê, hoa lợi) thì xem xét tạo
nguồn cho họ học nghề, cơ hội nghề nghiệp khác để sinh sống đảm bảo an sinh của
các đối tượng bị thu hồi đất.
Ba là, những trường hợp thu hồi đất đẩy người bị thu hồi đất vào tình trạng
mất công cụ sản suất và trở nên thất nghiệp, đói nghèo sau khi đã tiêu hết tiền bồi
thường thì phải bồi thường đất nông nghiệp để họ ổn định sản suất (theo định mức
tối thiểu pháp luật đất đai quy định).
3.3. Nhóm giải pháp nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về bồi thường khi
Nhà nước thu hồi đất của các hộ gia đình cá nhân tại thành phố Hạ Long, tỉnh
Quảng Ninh
3.3.1. Thực hiện quy trình công khai, minh bạch, dân chủ trong công khai các dự
án đầu tư, bồi thường khi thu hồi đất
Một trong những nguyên nhân lớn làm phát sinh các tranh chấp, khiếu kiện
về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất là do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền
không công khai, minh bạch trong quá trình tổ chức thực hiện nên không nhận được
sự đồng thuận của người dân. Ở nhiều nơi, việc thu hồi, bồi thường diễn ra không rõ
ràng, minh bạch; yếu tố công khai, minh bạch dường như chỉ dừng lại ở quy định
pháp luật, hiệu quả thực tế thấp. Cơ quan nhà nước có thẩm quyền thường không
thực hiện đúng các quy định, quy trình về thông báo cho người sử dụng đất biết lý
do thu hồi, thời gian và kế hoạch di chuyển, phương án tổng thể về bồi thường. Vị
trí, vai trò của người dân tham gia vào quá trình thu hồi đất bị xem nhẹ, người dân
bị hạn chế quyền đề xuất, thể hiện tâm tư nguyện vọng của mình khi Nhà nước thu
hồi đất. Chính những điều này đã gây nên những nghi ngờ về sự không công tâm
của các cán bộ thực thi. Việc bồi thường không công khai và thiếu sự minh bạch
65
cũng là nguyên nhân làm phát sinh tham nhũng, tiêu cực, bớt xén trong công tác bồi
thường.
Phát huy dân chủ, công khai minh bạch chính là định hướng chung về cải
cách hành chính, tư pháp của Đảng và Nhà nước ta. Vì vậy, quá trình thực hiện quy
định pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất cần đảm bảo minh bạch,
công khai ở tất cả các khâu, các công đoạn. Yêu cầu công khai, dân chủ, minh bạch
đòi hỏi phải xuyên suốt từ quá trình lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất; thông báo
thu hồi đất; phương án bồi thường; quyết định thu hồi đất; giải quyết khiếu nại, tố
cáo. Luật Đất đai 2013 đã có nhiều sửa đổi theo hương tăng cường vai trò của người
dân tham gia vào quá trình thu hồi đất của Nhà nước. Yêu cầu đặt ra là hiện thực
hóa các quy định của pháp luật vào thực tiễn đời sống. Thực hiện tốt những vấn đề
trên, sẽ đảm bảo tốt nhất quyền lợi của các bên có liên quan, làm giảm thiểu tranh
chấp và khiếu kiện về bồi thường; đồng thời giúp ngăn ngừa tham nhũng, tiêu cực
trong lĩnh vực bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất.
Ở thành phố Hạ Long, trong thời gia đã ban hành các văn bản triển khai thực
hiện các quy định của pháp luật nhưng vấn đề thực thi cần được quan tâm hơn. Vấn
đề phản biện xã hội đối với các dự án đầu tư (nhất là các dự án phát triển kinh tế)
cần được công khai trước khi phê duyệt để đảm bảo tính hợp lý, tính đồng thuận của
người bị thu hồi đất.
3.3.2. Tăng cường tuyên truyền Luật Đất đai 2013 và các quy định pháp luật về
bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất
Tình hình khiếu nại, tố cáo liên quan vấn đề thu hồi đất thời gian nói chung
và trên địa bàn thành phố Hạ Long nói riêng diễn biến hết sức đa dạng và phức tạp.
Có những khiếu nại, tố cáo có cơ sở và đúng quy định pháp luật, cũng có những
khiếu nại, tố cáo không có cơ sở, không theo trình tự pháp luật, do thiếu nhận thức,
bị kích động nhất thời của người sử dụng đất. Đặc biệt, một số người bị thu hồi đất
do hạn chế về kiến thức pháp luật đất đai, nên đã bị các phần tử xấu dụ dỗ, xúi giục,
kích động làm đơn khiếu nại vượt cấp hoặc khiếu nại tập thể hoặc cố tình không
hợp tác với cơ quan, tổ chức và cá nhân có thẩm quyền trong quá trình thực hiện
66
việc bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất. Thực trạng này không được giải quyết
thỏa đáng, dứt điểm và đúng pháp luật không chỉ gây mất ổn định về chính trị, trật
tự an toàn xã hội tại địa phương; làm chậm tiến độ, tăng chi phí của các dự án mà
còn ảnh hưởng đến tâm lý, lòng tin của người dân đối với chính sách và pháp luật
về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất, gây ảnh hưởng không tốt đến môi trường
đầu tư của địa phương và của cả nước.
Luật Đất đai 2013 quy định cụ thể quy trình bồi thường khi thu hồi đất
nhưng để pháp luật thực sự đi vào cuộc sống, việc tăng cường công tác tuyên
truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật đất đai cho người dân, đặc biệt là pháp luật về
bồi thường, khi Nhà nước thu hồi đất là đòi hỏi tất yếu. Trong các dự án thu hồi đất
vì mục đích phát triển kinh tế, mối quan hệ lợi ích càng yêu cầu được giải quyết
thỏa đáng, tránh tình trạng đất đai của người dân bị thu hồi chủ yếu đem lại lợi
nhuận cho nhà đầu tư. Vì vậy, việc thông tin, giải thích cho người dân hiểu được
mục đích, ý nghĩa của việc thu hồi đất là cơ sở xoá bỏ tâm lý hoài nghi của người
dân, giúp người dân tin tưởng vào sự công bằng và đúng đắn của pháp luật từ đó
đồng tình, ủng hộ quyết định thu hồi đất của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Để tạo sự đồng thuận từ phía người dân đối với công tác thu hồi đất nói
chung và thu hồi đất phục vụ phát triển kinh tế nói riêng thì vấn đề quan trọng đầu
tiên chính là xóa bỏ những nghi ngại của người dân trong công tác thu hồi đất phục
vụ cho việc phát triển kinh tế nước nhà. Hay nói cách khác cần phải thay đổi nhận
thức của người dân thông qua việc đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo
dục pháp luật về thu hồi đất.
Ở thành phố Hạ Long, để thực hiện được nội dung này thì cần phải áp dụng
những biện pháp như:
- Tổ chức các buổi tuyên truyền, giảng dạy pháp luật trực tiếp nhằm nâng cao
hiểu biết cho người dân.
- Hợp tác với các cơ quan báo chí để phổ biến pháp luật cần có các chuyên
mục định kỳ về pháp luật đất đai.
67
- Lập nên các trang thông tin điện tử phổ biến pháp luật về đất đai. Phát hành
các tài liệu hướng dẫn pháp luật phù hợp với trình độ nhận thức của người dân ở
từng vùng, địa phương khác nhau và hợp tác với các tổ chức xã hội để phổ biến đến
tận tay người dân;
- Tổ chức hệ thống trợ giúp pháp lý miễn phí hoặc chi phí thấp để giúp đỡ
cho người dân khi họ có nhu cầu.
Việc tuyên truyền, phổ biến pháp luật đất đai trong đó có pháp luật thu hồi
đất phục vụ cho phát triển kinh tế không những nâng cao được hiệu quả pháp luật,
giúp cho pháp luật dễ dàng đi vào cuộc sống mà còn tạo điều kiện cho họ nhận thức
được mục đích, ý nghĩa cũng như lợi ích về nhiều mặt từ việc thu hồi đất. Từ đó, để
mọi người dân hiểu và chấp hành pháp luật, làm tốt công tác di dân về khu tái định
cư, đảm bảo các nguyên tắc, thể chế quy định, tăng cường hiệu lực quản lý Nhà
nước và pháp chế xã hội chủ nghĩa. Thông qua đó nhằm thực hiện quyền làm chủ
của nhân dân, bảo vệ lợi ích Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân,
giúp cho người dân tin tưởng vào sự công bằng và tính đúng đắn của pháp luật về
thu hồi đất.
3.3.3. Thực hiện các phương thức và nâng cao trách nhiệm của tổ chức và đội
ngũ cán bộ thực thi pháp luật
Về phương thức: Thực hiện theo phương thức kiểm tra chéo. Đối với mỗi dự
án có ít nhất hai tổ công tác khác nhau kiểm tra thực địa và đối chiếu kết quả đảm
bảo sự chính xác tương đối.
Đội ngũ: Trình độ, năng lực của tổ chức, đội ngũ cán bộ thực thi pháp luật
còn hạn chế, để xảy ra tình trạng sai sót, tiêu cực, nhũng nhiễu, tham nhũng… trong
thực tế là nguyên nhân gây mất lòng tin của nhân dân, phát sinh khiếu nại, khiếu
kiện phức tạp. Do vậy, đối với đội ngũ cán bộ này cần phải tăng cường cả về
chuyên môn lẫn phẩm chất đạo đức, nhất là các cán bộ triển khai đo đạc, kiểm đếm
tài sản và lập phương án bồi thường.
68
3.3.4. Giải quyết kịp thời các khiếu nại, tố cáo của nhân dân về bồi thường khi
Nhà nước thu hồi đất
Khiếu nại, tố cáo của người dân khi bị thu hồi đất đang diễn ra phức tạp và
phổ biến tại các dự án có thu hồi đất, nhất là các dự án phát triển kinh tế, thu lợi
nhuận cho nhà đầu tư. Khiếu nại, tố cáo trong thu hồi đất có thể xuất phát từ nhận
thức, đòi hỏi vô lý từ người dân; cũng có thể xuất phát từ bất cập của cơ chế, năng
lực của cán bộ thực hiện hay tiêu cực, tham nhũng trong các cơ quan chức năng.
Cần thống nhất nhận thức là một mặt phải hoàn thiện pháp luật, tuyên truyền tốt,
thực hiện tốt để hạn chế đơn thư khiếu nại tố cáo; đồng thời tránh tâm lý né tránh
khiếu nại, tố cáo làm cho vấn đề ngày càng phức tạp, khó giải quyết.
Vấn đề đặt ra là khi có đơn thư khiếu nại, tố cáo thì các cấp có thẩm quyền
phải tập trung tích cực giải quyết khẩn trương, đúng đắn, nghiêm túc, dựa trên nền
tảng trách nhiệm: công khai lợi ích (lợi ích Nhà nước, lợi ích địa phương, lợi ích
của doanh nghiệp, lợi ích của người dân bị thu hồi đất); giải quyết hài hòa các lợi
ích trước, trong và sau giải phóng mặt bằng cho người dân. Đồng thời đề cao tính
công khai, minh bạch trong giải quyết khiếu nại, tố cáo; kiên quyết xử lý các tiêu
cực, vi phạm pháp luật của cán bộ cơ quan chức năng trong thực thi công vụ nhằm
đảm bảo sự công minh của pháp luật, đem lại lòng tin của nhân dân. Luật Đất đai
2013 đã quy định trình tự, thủ tục giải quyết khiếu nại, khiếu kiện về đất đai thống
nhất theo quy định của pháp luật về khiếu nại và pháp luật tố tụng hành chính
(Khoản 2, Điều 204 Luật Đất đai 2013). Đây là tiền đề quan trọng để triển khai thực
hiện hiệu quả công tác giải quyết khiếu nại tố cáo về Luật Đất đai nói chung và
pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất vì mục đích kinh tế.
Ở thành phố Hạ Long, cần tăng cường sự phối hợp các cơ quan trong việc
giải quyết khiếu nại, tố cáo; trong đó cơ quan thanh tra là chủ chốt thực hiện giải
quyết kịp thời các khúc mắc của người bị thu hồi đất.
3.3.5. Đảm bảo chính sách an sinh xã hội cho người bị thu hồi đất
Ổn định đời sống lâu dài cho người bị thu hồi đất là biện pháp căn cơ đảm
bảo cho ổn định xã hội, tạo đà phát triển kinh tế. Trong điều kiện phát triển kinh tế -
69
xã hội hiện nay thì nhu cầu giải phòng mặt bằng cho các dự án ngày càng tăng, đặc
biệt là các dự án phát triển kinh tế - xã hội. Việc ổn định cuộc sống cho người dân
không chỉ đối với những người bị thu hồi đất phải di chuyển chỗ ở mà còn cả đối
với những người dân sở tại. Khi Nhà nước thu hồi đất thì cần phải xem xét, quan
tâm đến các vấn đề về sinh hoạt, nhà ở, thu nhập, an ninh, lương thực, nơi làm việc,
phát triển sản xuất, giao thông tránh những rủi ro do di dân, tái định cư gây nên.
Chính quyền thành phố Hạ Long cần có các cơ chế, chính sách quan tâm đào
tạo, chuyển đổi, giải quyết việc làm cho người bị thu hồi đất bằng việc nghiên cứu,
đánh giá đúng nhu cầu, thực trạng việc làm và lao động ở từng địa bàn, dự án; khả
năng thu hút, đáp ứng việc làm của các ngành nghề, doanh nghiệp nhằm đảm bảo
tính hiệu quả trong thực tiễn.
Pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất quy định các chính sách ổn
định, đảm bảo đời sống cho người bị thu hồi đất chủ yếu giao quyền chủ động cho
chính quyền địa phương trên cơ sở điều kiện, đặc thù của từng nơi.
3.4. Một số kiến nghị
3.4.1. Kiến nghị đối với Trung tâm phát triển quỹ đất thành phố Hạ Long
Trung tâm phát triển quỹ đất thành phố Hạ Long là đơn vị chịu trách nhiệm
lập kế hoạch và tổ chức bồi thường và giải phóng mặt bằng trên địa bàn thành phố.
Để nâng cao hiệu quả bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất của các hộ gia đình, cá
nhân, Trung tâm cần:
Thứ nhất, tính toán kỹ càng và xác định rõ ràng mối quan hệ giữa quy hoạch
sử dụng đất với quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội và quy hoạch xây dựng đô thị
nhằm tránh hiện tượng mâu thuẫn, chồng chéo giữa các loại quy hoạch; tránh lãng
phí nguồn tài nguyên đất đai, đặc biệt là đất trồng lúa khi lập và thực hiện quy
hoạch, kế hoạch sử dụng đất. Hạn chế tối đa và tiến tới chấm dứt việc điều chỉnh
hoặc quyết định xem xét lại dự án, qua đó góp phần nâng cao hiệu quả thực hiện
quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất cũng như trách nhiệm của các cơ quan trong việc
thực thi công việc này.
70
Thứ hai, khi lập quy hoạch, cần có cái nhìn tổng thể và tầm nhìn dài hạn,
chắc chắn về nhu cầu sử dụng đất (từ 10 năm trở lên) vì quy hoạch chính là việc dự
đoán khả năng ứng dụng trong tương lai, trên cơ sở đó sẽ giúp Nhà nước chuẩn bị
được quỹ đất để chủ động trong việc phân phối lại đất đai. Việc lập quy hoạch, kế
hoạch sử dụng đất phải tính đến các yếu tố kinh tế - xã hội, môi trường, các yếu tố
liên kết đa ngành, đa lĩnh vực tại địa bàn thực hiện; đồng thời tính toán, xem xét
tính tổng thể trên phạm vi cả nước.
Thứ ba, thực hiện việc công bố công khai và đảm bảo tính khách quan, minh
bạch của quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch xây dựng đô thị, quy hoạch chi tiết các
dự án chuẩn bị triển khai thực hiện trên các phương tiện thông tin truyền thông hoặc
niêm yết công khai (tại trụ sở cơ quan, đơn vị lập quy hoạch, Ủy ban nhân dân cấp
xã nơi có đất, trừ trường hợp quy hoạch liên quan đến an ninh, quốc phòng) và tiến
hành cắm mốc giới theo quy hoạch, xác định đường chỉ giới xây dựng trên thực địa
một cách rõ ràng, cụ thể.
Thứ tư, thực hiện thanh tra, kiểm tra và giám sát việc lập quy hoạch, kế
hoạch sử dụng đất tại các địa phương một cách thường xuyên nhằm thực hiện
nghiêm túc v đảm bảo tính thống nhất về quy hoạch giữa cấp trên và cấp dưới, giữa
trung ương và địa phương. Trong trường hợp thực sự cần thiết phải điều chỉnh quy
hoạch, kế hoạch sử dụng đất thì phải kiểm tra lại kỹ càng lý do điều chỉnh và giám
sát chặt chẽ quá trình thực hiện, nhằm tránh hiện tượng điều chỉnh nhiều lần hoặc
“quy hoạch một đằng, làm một nẻo” hoặc quy hoạch khập khiễng, chắp vá. Trong
quá trình thực hiện dự án, phải thường xuyên thanh tra, kiểm tra và giám sát việc
thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất của cấp cơ sở, của chủ dự án đầu tư,
nhằm đảm bảo việc khai thác và sử dụng đất đạt hiệu quả cao, tránh tình trạng dự án
sử dụng sai mục đích hoặc dự án không thực hiện.
Thứ năm, chuẩn bị những điều kiện cần thiết cho việc tiến tới xây dựng Luật
quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất nhằm đảm bảo tính thống nhất, tính khả thi, tính
đồng bộ và ổn định trong công tác lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất cũng như
triển khai thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất; bởi quy hoạch, kế hoạch sử
71
dụng đất thực sự là một công cụ quan trọng không thể thiếu trong quá trình Nhà
nước thực hiện chức năng quản lý nhà nước về đất đai.
3.4.2. Kiến nghị đối với các tổ chức trong hệ thống chính trị, truyền thông và
cộng đồng
Các tổ chức trong hệ thống chính trị có vai trò quan trọng trong giám sát thực
thi các quy định pháp luật nói chung và trong bồi thường khi thu hồi đất nói riêng.
Do đó, sự tham gia của những tổ chức này, không chỉ trong quy trình, thủ tục mà
phải tham gia trực tiếp như một cơ chế giám sát việc bồi thường khi Nhà nước thu
hồi đất của các hộ gia đình, cá nhân.
Thứ nhất, tăng cường thanh tra, kiểm tra (định kỳ hoặc đột xuất) các cơ quan
có thẩm quyền thu hồi đất và các cơ quan có liên quan trong quá trình thực hiện các
quy định về trình tự thủ tục thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ và tái định cư nhằm phát
hiện, chấn chỉnh kịp thời những yếu kém, sai phạm và xử lý nghiêm minh các vi
phạm về trình tự, thủ tục bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp. Bên
cạnh đó, nhanh chóng tìm ra những thiếu sót, bất cập giữa pháp luật và thực tiễn, để
kịp thời sửa đổi, bổ sung hoặc thay thế các quy định pháp luật trong lĩnh vực này
cho phù hợp với yêu cầu của thực tiễn.
Thứ hai, thực hiện việc giám sát thi hành thông qua Hội đồng nhân dân các
cấp, Mặt trận Tổ quốc tại địa phương, nhất là vai trò giám sát xã hội của các cơ
quan truyền thông, các tổ chức xã hội và người dân, đối với việc tuân thủ pháp luật
đất đai nói chung cũng như các quy định về trình tự, thủ tục thu hồi đất, bồi thường
của các cơ quan có thẩm quyền thu hồi đất, tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải
phóng mặt bằng, chính quyền cấp cơ sở, nhà đầu tư, các cơ quan có liên quan được
giao nhiệm vụ thực hiện công việc bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất. Điều này
sẽ giúp cơ quan nhà nước có thẩm quyền nhanh chóng có được các thông tin khách
quan, chính xác về các vi phạm pháp luật trong quá trình thu hồi đất, bồi thường khi
Nhà nước thu hồi đất.
72
Thứ ba, thanh tra, kiểm tra việc giải quyết các khiếu nại, tố cáo về bồi
thường khi Nhà nước thu hồi đất và các khiếu nại, tố cáo liên quan đến trình tự thủ
tục thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ khi thu hồi đất của các cơ quan, cá nhân có thẩm
quyền khi thực thi nhiệm vụ. Để một mặt nhằm phát hiện, chấn chỉnh kịp thời
những khuất tất, sai phạm và xử lý nghiêm minh các vi phạm của các cơ quan, cá
nhân có thẩm quyền khi giải quyết khiếu nại, tố cáo; mặt khác đảm bảo các khiếu
nại, tố cáo trong lĩnh vực thu hồi đất, bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất được giải
quyết kịp thời, dứt điểm và đúng pháp luật.
3.4.3. Kiến nghị đối với nhà đâu tư hay các tổ chức được giao đất
Đối với thu hồi đất phát triển kinh tế, xã hội thì người sử dụng đất sau khi
thu hồi là nhà đầu tư. Tuy nhiên, nhiều trường hợp nhà đầu tư lợi dụng tình trạng
bồi thường thấp, bán giá cao để thu lợi gây bức xúc cho người bị thu hồi đất. Mặt
khác, nhiều trường hợp chính quyền bắt tay với nhà đầu tư để áp dụng mệnh lệnh
hành chính bồi thường giá thấp nhất. Do đó, để đảm bảo hài hòa lợi ích phát triển
kinh tế xã hội, nhà đầu tư cần:
- Công khai dự án phát triển kinh tế xã hội cần phải thu hồi đất (mục đích,
tính hiệu quả, môi trường,...) và có sự cam kết của nhà đầu tư sau khi thu hồi để
phản biện.
- Nhà đầu tư phải chủ động thỏa thuận với người bị thu hồi đất, Nhà nước
với vai trò hỗ trợ nhà đầu tư trong việc thỏa thuận với người dân về giá bồi thường.
- Nhà đầu tư phải thực sự cân nhắc vè hiệu quả về tiền bồi thường (chi phí
đầu vào) và đầu ra (lợi nhuận thu được) để quyết định đầu tư hay không, tránh
trường hợp sau khi bồi thường sau giữa đất em sang nhượng lại giá cao hơn.
Các dự án trên chậm tiến độ nhưng Ủy ban nhân dân thành phố vẫn chưa
thực hiện việc thu hồi theo quy định vì chưa tìm được đối tác có khả năng mua lại
các dự án đầu tư dở dang này. Đây là hệ quả việc phê duyệt các dự án đầu tư tràn
lan, thiếu tính khả thi. Do vậy, các dự án đầu tư nếu có quy trình phản biện xã hội,
phản biện của nhà khoa học và cơ chế trưng mua thì sẽ không dẫn đến hậu quả này.
73
3.4.4. Kiến nghị đối với hộ gia đình, cá nhân bị thu hồi đất
Người bị thu hồi đất luôn có tâm lý được bồi thường cao nhất nên ít khi thỏa
mãn với giá bồi thường. Mặt khác, khi nghe thông tin dự án đầu tư thì người thu hồi
đất thường tạo ra những tài sản mới trên đất như xây dựng thêm công trình, trồng
thêm cây để được bôi thường thêm. Tuy nhiên, khi cơ quan chức năng tiến hành đo
đạc, kiểm đếm tài sản thì những công trình, cây trồng này không được tính vào thiệt
hại bồi thường do trái với những quy định của pháp luật, từ đó dẫn đến những thiệt
hại không đáng có cho người bị thu hồi đất. Mặt khác, để bảo vệ quyền lợi chính
đáng của mình, người bị thu hồi đất cần chủ động trong việc tìm hiểu các quy định
về đất đai để có sự chuẩn bị tốt các giấy tờ, thủ tục cần thiết để được bồi thường.
Kết luận Chương 3
Tại Chương 3 của Luận văn, tác giả phân tích nhu cầu và phương hướng
hoàn thiện pháp luật bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất của HGĐ, CN từ thực tiễn
thành phố Hạ Long. Đồng thời, tác giả đề xuất nhóm giải pháp hoàn thiện pháp luật
về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất của các hộ gia đình, cá nhân, bao gồm: (i).
Tiếp tục sửa đổi Luật Đất đi năm 2013; (ii). Hoàn thiện khung pháp lý về bồi
thường khi Nhà nước thu hồi đất của HGĐ, CN trên cơ sở đảm bảo tính thống nhất,
đồng bộ và tính ổn định; (iii). Bổ sung quy định bồi thường cho HGĐ, CN bị thu
hồi đất gắn với an sinh xã hội, bảo đảm đời sống lâu dài của họ và nhóm giải pháp
nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất của các
HGĐ, CN tại thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh. Cuối cùng, tác giả đề xuất một
số kiến nghị đối với địa phương để nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về bồi
thường khi Nhà nước thu hồi đất của các HGĐ, CN.
74
KẾT LUẬN
Đất đai có tầm quan trọng to lớn đối với người dân cả về phương diện nơi ở
lẫn tư liệu sản xuất. Tuy nhiên, trong quá trình phát triển kinh tế nói chung, CNH,
HĐH nói riêng, trên lãnh thổ nước ta đã, đang và sẽ có hàng ngàn dự án đầu tư xây
dựng chiếm đất ở và đất sản xuất của HGĐ, CN. Sự xuất hiện của các công trình
này là tất yếu bởi chúng cần thiết cho tăng trưởng kinh tế và cải thiện điều kiện
chung, nhưng HGĐ, CN bị thu hồi đất thì bị thiệt thòi và cuộc sống bị xáo trộn.
Điều này đặt ra thách thức đối với Nhà nước trong việc bồi thường đối với HGĐ,
CN bị thu hồi đất để hài hòa lợi ích giữa các chủ thể.
Luận văn đã xây dựng một số các khái niệm cơ bản để làm cơ sở cho việc
nghiên cứu pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất của HGĐ, CN và thực
tiễn thực thi. Hệ thống pháp luật về bồi thường khi thu hồi đất nhìn chung đã hoàn
thiện, đảm bảo lợi ích của HGĐ, CN bị thu hồi đất, trong đó quan tâm tới giá đất về
cơ bản theo giá thị trường. Trình tự, thủ tục thu hồi đất và bồi thường khi Nhà nước
thu hồi đất của HGĐ, CN đã minh bạch công khai, có sự giám sát của hệ thống
chính trị và của cộng đồng. Bên cạnh đó, việc giải quyết khiếu nại, tố cáo về bồi
thường khi Nhà nước thu hồi đất cũng được quy định cụ thể trong pháp luật đất đai
hiện hành.
Thực tiễn thực thi pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất của
HGĐ, CN tại thành phố Hạ Long tỉnh Quảng Ninh đảm bảo tuân thủ các quy định
pháp luật về nguyên tắc bồi thường, điều kiện bồi thường, nội dung bồi thường,
trình tự thủ tục bồi thường và giải quyết khiếu nại tố cáo liên quan đến bồi thường
khi Nhà nước thu hồi đất. Tuy nhiên, việc bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất của
HGĐ, CN tại thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh vẫn còn một số bất cập, đặc biệt
là việc tính giá đất bồi thường, xác định thời điểm tính giá đất bồi thường cũng như
xác định điều kiện bồi thường của HGĐ, CN có đất bị thu hồi.
Luận văn đã đưa ra định hướng và các giải pháp trong đó có các giải pháp
hoàn thiện pháp luật, giải pháp nâng cao khả năng thực thi pháp luật về bồi thường
khi Nhà nước thu hồi đất của HGĐ, CN tại thành phố Hạ Long. Về hoàn thiện pháp
luật, cần bổ sung, sửa đồi các quy định của quy định về quyền SDĐ, cách tính giá
75
đất bồi thường trong Luật Đất đai 2013 và ban hành các văn bản hướng dẫn chi tiết.
Ngoài ra, để nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu
hồi đất của HGĐ, CN tại thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh thì cần có sụ phối
hợp chặt chẽ hơn nữa giữa các chủ thể có liên quan như UBND thành phố Hạ Long,
Trung tâm phát triển quỹ đất thành phố Hạ Long à các HGĐ, CN có đất bị thu hồi.
76
TÀI LIỆU THAM KHẢO
I. Các văn bản quy phạm pháp luật
1. Quốc hội (2013), Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013,
Hà Nội.
2. Quốc hôi (2005), Bộ luật Dân sự năm 2005, Hà Nội.
3. Quốc hôi (2015), Bộ luật Dân sự năm 2015, Hà Nội.
4. Quốc hôi (1993), Luật Đất đai năm 1993, Hà Nội.
5. Quốc hôi (2003), Luật Đất đai năm 2003, Hà Nội.
6. Quốc hôi (2013), Luật Đất đai năm 2013, Hà Nội.
7. Quốc hôi (2011), Luật Khiếu nại năm 2011, Hà Nội.
8. Chính phủ (2004), Nghị định số 197/2004/NĐ-CP về Quy định bồi thường, hỗ trợ
và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất, Hà Nội
9. Chính phủ (2009), Nghị định số 69/2009/NĐ-CP về Quy định bổ sung về quy
hoạch sử dụng đất, giá đất, thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ và tái định cư, Hà Nội.
10. Chính phủ (2014), Nghị định 47/2014/NĐ-CP về Quy định bồi thường, hỗ trợ và
tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất, Hà Nội.
11. Chính phủ (2014), Nghị định 43/2014/NĐ-CP về Quy định chi tiết thi hành một số
điều của Luật Đất đai, Hà Nội.
12. Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Ninh (2004), Quyết định số 4005/2004/QĐ- về Ban
hành Bộ đơn giá bồi thường thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn tỉnh
Quảng Ninh, Quảng Ninh.
13. Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Ninh (2010), Quyết định số 499/2010/QĐ- về Ban
hành Quy định về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất trên
địa bàn tỉnh Quảng Ninh, Quảng Ninh.
14. Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Ninh (2014), Quyết định số 1766/2014/QĐ- về Ban
hành Quy định về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất theo
Luật Đất đai năm 2013 trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh, Quảng Ninh.
15. Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Ninh (2015), Quyết định số 4234/2015/QĐ- về Ban
hành Bộ đơn giá bồi thường tài sản gắn liền với đất khi Nhà nước thu hồi đất trên
địa bàn tỉnh Quảng Ninh, Quảng Ninh.
77
16. Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Ninh (2017), Quyết định số 3000/2017/QĐ- về ban
hành quy định về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất trên
địa bàn tỉnh Quảng Ninh thay thế cho Quyết định số 1766/2014/QĐ-, Quảng Ninh.
17. Trung tâm phát triển quỹ đất thành phố Hạ Long (2013), Báo cáo công tác giải
phóng mặt bằng tạo quỹ đất sạch năm 2013 và kế hoạch năm 2014, TP. Hạ Long.
18. Trung tâm phát triển quỹ đất thành phố Hạ Long (2014), Báo cáo công tác giải
phóng mặt bằng tạo quỹ đất sạch năm 2014 và kế hoạch năm 2015, TP. Hạ Long.
19. Trung tâm phát triển quỹ đất thành phố Hạ Long (2015), Báo cáo công tác giải
phóng mặt bằng tạo quỹ đất sạch năm 2015 và kế hoạch năm 2016, TP. Hạ Long.
20. Trung tâm phát triển quỹ đất thành phố Hạ Long (2016), Báo cáo công tác giải
phóng mặt bằng tạo quỹ đất sạch năm 2016 và kế hoạch năm 2017, TP. Hạ Long.
21. Trung tâm phát triển quỹ đất thành phố Hạ Long (2017), Báo cáo công tác giải
phóng mặt bằng tạo quỹ đất sạch năm 2017 và kế hoạch năm 2018, TP. Hạ Long.
II. Các sách tham khảo, luận án, bài viết
22. Viện Khoa học pháp lý (2006), Từ điển Luật học, Nhà xuất bản Từ điển Bách
khoa.
23. TS. Doãn Hồng Nhung (2013), Pháp luật về định giá đất trong bồi thường, giải
phóng mặt bằng ở Việt Nam, NXB Tư pháp.
24. Phan Thúy Hiền (2008), Cơ sở hiến định về thu hồi đất vì mục đích công cộng ở
Việt Nam, Tạp chí nghiên cứu Lập pháp (số 12/2008).
25. TS. Trần Quang Huy (2010), Chính sách hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất, Tạp chí
Luật học (số 10/2010).
26. Nguyễn Thị Nga (2010), Pháp luật về trình tự, thủ tục thu hồi đất, bồi thường và
giải phóng mặt bằng và những vướng mắc trong quá trình áp dụng, Tạp chí Luật
học (số 11/ 2010).
27. Nguyễn Quang Tuyên (2012), Công khai, minh bạch để bảo vệ quyền lợi của
người bị thu hồi đất, Tạp chí Luật học (số 3/2012).
28. TS. Nguyễn Thị Nga (2013), Pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà
nước thu hồi đất – thực trạng và hướng hoàn thiện, Hà Nội.
78
29. PGS. TS Nguyễn Quang Tuyến (2013), Bình luận và góp ý đối với các uy định bồi
thường về đất khi Nhà nước thu hồi đất trong dự thảo Luật đất đai sửa đổi, Đại học
Luật Hà Nội.
30. Viện nhiên cứu khoa học pháp lý (2007), Xây dựng cơ chế pháp lý để bảo vệ đất
nông nghiệp trong điều kiện công nghiệp hóa – hiện đại hóa, Bộ Tư pháp phối hợp
với Bộ Tài nguyên môi trường.
31. Bộ Tư pháp (2012), Tổng hợp ý kiến của các đơn vị trong Bộ về Dự thảo Luật Đất
đai sửa đổi, tr.10.