BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
-----------------------------
LUẬN VĂN THẠC SĨ
PHÁP LUẬT VỀ BỒI THƯỜNG KHI NHÀ NƯỚC
THU HỒI ĐẤT NÔNG NGHIỆP CỦA HỘ GIA ĐÌNH,
CÁ NHÂN QUA THỰC TIỄN THI HÀNH TRÊN ĐỊA BÀN
THÀNH PHỐ HẠ LONG, TỈNH QUẢNG NINH
Ngành: Luật Kinh tế
NGUYỄN VĂN LONG
Hà Nội - 2019
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
-----------------------------
LUẬN VĂN THẠC SĨ
PHÁP LUẬT VỀ BỒI THƯỜNG KHI NHÀ NƯỚC
THU HỒI ĐẤT NÔNG NGHIỆP CỦA HỘ GIA ĐÌNH,
CÁ NHÂN QUA THỰC TIỄN THI HÀNH TRÊN ĐỊA BÀN
THÀNH PHỐ HẠ LONG, TỈNH QUẢNG NINH
Ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 8380107
Học viên Cao học: Nguyễn Văn Long
Người hướng dẫn khoa học: GS.TS. Nguyễn Thị Mơ
Hà Nội - 2019
i
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn thạc sỹ này là công trình nghiên cứu khoa học độc
lập của tôi. Các nội dung nghiên cứu và kết quả, các số liệu nêu trong luận văn là
trung thực có nguồn gốc rõ ràng và đáng tin cậy.
Tác giả
Nguyễn Văn Long
ii
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc về sự giúp đỡ hết sức nhiệt tình và hiệu
quả của Người hướng dẫn khoa học: GS, TS. Nguyễn Thị Mơ.
Tôi cũng xin chân thành cảm ơn tới tập thể cán bộ, giảng viên Cơ sở Quảng
Ninh, Khoa Luật, Khoa Sau đại học Trường Đại học Ngoại thương đã giúp đỡ tôi
trong thời gian học tập và hoàn thành khóa học tại Nhà trường.
Tôi xin cảm ơn đồng nghiệp, bàn bè, cơ quan và gia đình đã tạo mọi điều
kiện giúp đỡ tôi trong thời gian qua để tôi hoàn thành nhiệm vụ học tập của mình.
Trân trọng cảm ơn!
Tác giả luận văn
Nguyễn Văn Long
iii
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ...................................................................................................... i
LỜI CẢM ƠN ........................................................................................................... ii
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT .................................................................................... v
DANH MỤC BẢNG BIỂU ..................................................................................... vi
TÓM TẮT KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU CỦA LUẬN VĂN THẠC SĨ ............... vii
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁP LUẬT BỒI THƯỜNG
KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT NÔNG NGHIỆP CỦA HỘ GIA ĐÌNH, CÁ
NHÂN TẠI VIỆT NAM ............................................................................................ 8
1.1. Khái niệm và đặc điểm của đất nông nghiệp ................................................... 8
1.1.1. Khái niệm về đất nông nghiệp .............................................................. 8
1.1.2. Đặc điểm của đất nông nghiệp ........................................................... 10
1.2. Khái niệm và căn cứ pháp lý để thu hồi đất nông nghiệp ............................ 12
1.2.1. Khái niệm về thu hồi đất nông nghiệp ............................................... 12
1.2.2. Căn cứ pháp lý để Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp ..................... 14
1.3. Pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp của các hộ
gia đình, cá nhân ..................................................................................................... 16
1.3.1. Khái niệm về hộ gia đình, cá nhân ..................................................... 16
1.3.2. Khái niệm và đặc điểm của pháp luật về bồi thường khi Nhà nước
thu hồi đất nông nghiệp của hộ gia đình, cá nhân ...................................... 18
1.3.3. Nội dung của pháp luật về thu hồi đất nông nghiệp ......................... 21
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN THỰC THI
PHÁP LUẬT VỀ BỒI THƯỜNG KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT NÔNG
NGHIỆP CỦA HỘ GIA ĐÌNH, CÁ NHÂN TẠI THÀNH PHỐ HẠ LONG,
TỈNH QUẢNG NINH ............................................................................................. 24
2.1. Một số nét về thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh ................................... 24
2.1.1. Vị trí địa lý ........................................................................................... 24
2.1.2. Đất nông nghiệp .................................................................................. 24
iv
2.1.3. Các văn bản hướng dẫn bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất trên
địa bàn thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh. .......................................... 25
2.2. Thực trạng pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp
của hộ gia đình, cá nhân ......................................................................................... 26
2.2.1. Nguyên tắc bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp của
hộ gia đình, cá nhân...................................................................................... 26
2.2.2. Điều kiện bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp của hộ
gia đình, cá nhân ........................................................................................... 29
2.2.3. Cách tính thiệt hại để được bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất
nông nghiệp của hộ gia đình, cá nhân ......................................................... 31
2.2.4. Trình tự, thủ tục bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp
của hộ gia đình, cá nhân............................................................................... 32
2.2.5. Giải quyết khiếu nại, tố cáo về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất
nông nghiệp ................................................................................................... 36
2.3. Thực tiễn thực thi pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông
nghiệp của hộ gia đình, cá nhân tại thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh ...... 37
2.3.1. Thực tiễn thi hành các nguyên tắc bồi thường khi Nhà nước thu hồi
đất nông nghiệp của hộ gia đình, cá nhân trên địa bàn thành phố Hạ
Long, tỉnh Quảng Ninh ................................................................................. 37
2.3.2. Thực tiễn thực thi các quy định về điều kiện bồi thường khi Nhà
nước thu hồi đất nông nghiệp của hộ gia đình, cá nhân trên địa bàn thành
phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh ................................................................... 38
2.3.3. Thực tiễn thực thi quy định về trình tự, thủ tục bồi thường khi Nhà
nước thu hồi đất nông nghiệp của hộ gia đình, cá nhân trên địa bàn thành
phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh ................................................................... 39
2.3.4. Cách tính thiệt hại để bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông
nghiệp của hộ gia đình, cá nhân tại thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh
........................................................................................................................ 47
v
2.3.5. Thực trạng giải quyết khiếu nại, tố cáo về bồi thường khi Nhà nước
thu hồi đất nông nghiệp của hộ gia đình, cá nhân tại thành phố Hạ Long,
tỉnh Quảng Ninh ........................................................................................... 50
2.3.6. Đánh giá thực tiễn thực thi pháp luật về bồi thường khi Nhà nước
thu hồi đất nông nghiệp của HGĐ, cá nhân tại thành phố Hạ Long, tỉnh
Quảng Ninh ................................................................................................... 51
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NÂNG CAO KHẢ
NĂNG THỰC THI PHÁP LUẬT VỀ BỒI THƯỜNG KHI NHÀ NƯỚC THU
HỒI ĐẤT NÔNG NGHIỆP CỦA HỘ GIA ĐÌNH, CÁ NHÂN TRÊN ĐỊA BÀN
THÀNH PHỐ HẠ LONG, TỈNH QUẢNG NINH ............................................... 56
3.1. Phương hướng hoàn thiện pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi
đất nông nghiệp của hộ gia đình, cá nhân ............................................................. 56
3.2. Kinh nghiệm của một số nước trên thế giới về bồi thường khi Nhà nước
thu hồi đất nông nghiệp của hộ gia đình, cá nhân ............................................... 59
3.2.1. Kinh nghiệm từ Trung Quốc .............................................................. 60
3.2.2. Kinh nghiệm từ Hàn Quốc ................................................................. 61
3.2.3. Kinh nghiệm từ Singapore .................................................................. 62
3.3. Các giải pháp cụ thể ......................................................................................... 63
3.3.1. Nhóm giải pháp về hoàn thiện pháp luật về bồi thường khi Nhà
nước thu hồi đất nông nghiệp của hộ gia đình, cá nhân ............................ 63
3.3.2. Nhóm giải pháp nâng cao khả năng thực thi pháp luật về bồi thường
khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp của hộ gia đình, cá nhân tại thành
phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh ................................................................... 69
và nhân dân .................................................................................................... 71
3.4. Một số kiến nghị ............................................................................................... 73
3.4.1. Đối với UBND thành phố Hạ Long .................................................... 73
3.4.2. Kiến nghị đối với Phòng TN&MT, phòng QLĐT và Trung tâm
PTQĐ thành phố Hạ Long… ........................................................................ 74
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 77
TÀI LIỆU THAM KHẢO
v
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
Nội dung viết tắt
Ký hiệu viết tắt BLDS HGĐ, CN CNH FAO HĐH KTQT SDĐ UBND Bộ Luật Dân sự Hộ gia đình, Cá nhân Công nghiệp hóa Tổ chức Nông lương của Liên hợp quốc Hiện đại hóa Kinh tế quốc tế Sử dụng đất Uỷ ban nhân dân
STT 1 2 3 4 5 6 7 8
vi
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1. Thống kê về các dự án bồi thường, giải phóng mặt bằng trên địa bàn
thành phố Hạ Long giai đoạn 2013 - 2017 ................................................................ 45
Bảng 2.2. Kết quả thực hiện công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng tại Trung
tâm phát triển quỹ đất thành phố Hạ Long ................................................................ 45
Bảng 2.3. Tiến độ bồi thường, giải phóng mặt bằng khi Nhà nước thu hồi đất nông
nghiệp của hộ gia đình, cá nhân tại thành phố Hạ Long ........................................... 47
Bảng 2.4. Đơn giá các loại đất nông nghiệp trên địa bàn thành phố hạ Long năm
2014 ........................................................................................................................... 48
vii
TÓM TẮT KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU CỦA LUẬN VĂN THẠC SĨ
Đề tài luận văn: “Pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông
nghiệp của hộ gia đình, cá nhân qua thực tiễn thi hành trên địa bàn thành phố
Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh”.
1. Kết quả đạt được của Luận văn
- Luận văn đã phân tích và làm rõ các vấn đề lý luận liên quan đến các quy
định của pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp như: khái
niệm và đặc điểm của đất nông nghiệp, khái niệm của HGĐ, CN có quyền SDĐ
nông nghiệp, khái niệm và đặc điểm của pháp luật về Nhà nước thu hồi đất nông
nghiệp và vấn đề bồi thường;
- Luận văn đã phân tích và làm rõ những nội dung cơ bản của pháp luật về
bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp của HGĐ, cá nhân, bào gồm: (i).
Nguyên tắc bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp của HGĐ, CN; (ii).
Điều kiện bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp của HGĐ, CN; (iii).
Cách tính thiệt hại để được bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp của
HGĐ, CN; (iv). Trình tự, thủ tục bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp
của HGĐ, CN; (v). Giải quyết khiếu nại, tố cáo về bồi thường khi Nhà nước thu hồi
đất nông nghiệp;
- Luận văn đã phân tích và làm rõ thực tiễn thực thi pháp luật về bồi thường
khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp của HGĐ, CN tại thành phố Hạ Long, tỉnh
Quảng Ninh; chỉ ra những bất cập của pháp luật và những vướng mắc trong quá
trình thực thi pháp luật;
- Luận văn đã đề xuất một số giải pháp, kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật và
giải pháp nhằm nâng cao khả năng thực thi pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu
hồi đất nông nghiệp của HGĐ, CN tại thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh.
2. Khả năng ứng dụng thực tiễn của Luận văn
- Luận văn là tài liệu tham khảo hữu ích cho các cơ quan, đơn vị, tổ chức
trong quá trình nghiên cứu, xây dựng và hoàn thiện các quy định của pháp luật về
bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp của HGĐ, CN.
viii
- Luận văn là tài liệu có tính ứng dụng trong công tác bồi thường, giải phóng
mặt bằng khi Nhà nước thu hồi đất của HGD, CN trên địa bàn thành phố Hạ Long,
tỉnh Quảng Ninh nói riêng và cũng là tài liệu tham khảo cho các cơ quan cấp tỉnh
nói chung trong việc lập kế hoạch và tổ chức thực hiện công tác bồi thường khi Nhà
nước thu hồi đất nông nghiệp.
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Việt Nam đang trong giai đoạn hội nhập KTQT và trong quá trình CNH,
HĐH đất nước. Do yêu cầu phát triển hạ tầng kinh tế - xã hội, đẩy mạnh CNH,
HĐH và hội nhập sâu vào nền kinh tế thế giới, việc xây dựng các khu công nghiệp,
khu chế xuất, khu đô thị... nhằm đáp ứng các nhu cầu phát triển là một thực tế khách
quan. Tuy nhiên, quá trình trên cũng đã và đang làm nảy sinh nhiều vấn đề kinh tế,
xã hội rất bức xúc ở các địa phương, nhất là ở những nơi có tốc độ CNH và đô thị
hoá diễn ra nhanh chóng. Mặt khác, nước ta là một trong những nước đi đầu về tăng
trưởng kinh tế nông nghiệp, nhất là cây lương thực. Từ một nước phải nhập khẩu
1/3 lương thực mỗi năm đã vươn lên đứng thứ 2 về xuất khẩu lúa gạo (Bộ Công
Thương, 2017). Với một nước nông nghiệp như nước ta, lấy sản xuất lúa nước làm
chính, với hơn 70% số dân sống ở nông thôn, 23% là hộ nghèo, 57% lực lượng xã
hội làm trong ngành nông nghiệp, thì thành tựu này có ý nghĩa to lớn về mặt xã hội.
Nhưng trước thách thức về đất đai nông nghiệp ngày càng thu hẹp, vấn đề việc làm
của người nông dân sau khi bị thu hồi đất nhưng không được bồi thường thỏa đáng
được coi là vấn đề bức xúc nhất. Đây cũng là thách thức lớn đối với chiến lược phát
triển nông nghiệp, nông thôn nói riêng và phát triển đất nước nói chung.
Nhận thức được vấn đề này, trong những năm vừa qua, Đảng và Nhà nước
đã có nhiều chính sách và ban hành các văn bản pháp luật về bồi thường khi Nhà
nước thu hồi đất nông nghiệp của HGĐ, CN nhằm giải quyết hài hòa lợi ích của
người sử dụng đất, lợi ích của Nhà nước và lợi ích của nhà đầu tư. Mặc dù vậy, việc
thi hành các quy định về đất đai nói chung và thi hành các quy định của pháp luật về
bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nói riêng vẫn còn nhiều hạn chế. Theo Thanh
tra Chính phủ, khiếu kiện về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất vẫn chiếm 70%
tổng số các vụ khiếu kiện về đất đai (Tổng cục quản lý đất đai, 2017). Điều này có
nguyên nhân là do các quy định của pháp luật Việt Nam về bồi thường khi Nhà
nước thu hồi đất nông nghiệp vẫn còn nhiều bất cập và cũng có cả các nguyên nhân
do công tác thu hồi đất nói chung và bồi thường đối với việc thu hồi đất nông
2
nghiệp nói riêng còn nhiều yếu kém. Tình trạng này tồn tại ở khắp các tỉnh, địa
phương trong cả nước, trong đó có thành phố Hạ Long tỉnh Quảng Ninh.
Thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh là địa bàn có tốc độ đô thị hóa và
CNH tương đối nhanh. Cùng với đó là việc thu hồi đất nông nghiệp để phát triển
kinh tế - xã hội cũng diễn ra mạnh mẽ. Thực tế này đã dẫn đến nhiều hạn chế,
vướng mắc trong thực thi pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông
nghiệp của HGĐ, CN tại thành phố Hạ Long. Trong bối cảnh đó, việc nghiên cứu
các quy định pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp trên
thực tiễn là cần thiết, nhằm góp phần tìm ra giải pháp khắc phục những tồn tại, thiếu
sót nói trên và nâng cao khả năng áp dụng các quy định của pháp luật về bồi thường
khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp trên địa bàn thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng
Ninh. Với ý nghĩa đó, tác giả đã chọn vấn đề “Pháp luật về bồi thường khi Nhà
nước thu hồi đất nông nghiệp của hộ gia đình, cá nhân qua thực tiễn thi hành
trên địa bàn thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh” làm đề tài cho Luận văn Thạc
sĩ Luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Do tầm quan trọng, tính phức tạp của việc bồi thường khi Nhà nước thu hồi
đất nông nghiệp của HGĐ, CN, vấn đề này đã được các nhà nghiên cứu phân tích từ
nhiều góc độ. Cụ thể:
Báo cáo về “Tình hình thu hồi đất của nông dân, thực hiện công nghiệp hóa,
hiện đại hóa” được Bộ Tài nguyên và Môi trường công bố vào năm 2007. Báo cáo
này đã đưa ra những số liệu rất cơ bản về tình hình thu hồi đất của nông dân, về
những kết quả đạt được cũng như những tồn tại, hạn chế cần khắc phục trong đó đề
cập vấn đề giải quyết việc làm cho nông dân sau khi thu hồi đất. Tuy nhiên, do được
tiến hành từ năm 2007 nên cho đến nay nhiều số liệu trong Báo cáo đã không còn
cập nhật. Ngoài ra, Báo cáo này cũng không đề cập đến vấn đề bồi thường khi Nhà
nước thu hồi đất nông nghiệp của HGĐ, CN tại thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng
Ninh.
3
Bài viết “Bình luận và góp ý đối với các quy định bồi thường về đất khi Nhà
nước thu hồi đất trong dự thảo Luật đất đai sửa đổi” của PGS. TS Nguyễn Quang
Tuyến (2013) đăng trong Hội thảo Khoa học có tên gọi “Góp ý dự thảo Luật đất đai
sửa đổi” tại Đại học Luật Hà Nội. Bài viết đã làm rõ những quy định của pháp luật
về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất, những hạn chế trong dự thảo Luật đất đai
sửa đổi và nêu ra các định hướng để khắc phục những hạn chế này. Tuy nhiên, bài
viết chưa phân tích thực trạng thu hồi đất nông nghiệp và bồi thường đối với việc
thu hồi đất nông nghiệp của HGĐ, CN nói chung và tại thành phố Hạ Long, tỉnh
Quảng Ninh nói riêng.
Năm 2012, Luận văn Thạc sĩ của tác giả Hoàng Thị Thu Trang về “Pháp
luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất của hộ gia đình, cá nhân và thực tiễn
áp dụng tại Nghệ An” đã làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến
việc bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất, thực trạng áp dụng các quy định này tại
tỉnh Nghệ An và đưa ra một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao
hiệu quả áp dụng pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất của HGĐ, CN.
Năm 2014, tác giả Phạm Thu Thủy đã bảo vệ thành công Luận án Tiến sĩ
(Đại học Luật Hà Nội) với đề tài “Pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất
nông nghiệp ở Việt Nam”. Luận án đã trình bày cơ sở lý luận về pháp luật về bồi
thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp ở Việt Nam, thực trạng áp dụng các
quy định này ở Việt Nam và đề ra các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng
cao hiệu quả áp dụng pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp
ở Việt Nam. Tuy nhiên, luận án không phân tích vấn đề bồi thường khi Nhà nước
thu hồi đất nông nghiệp đối với HGĐ, CN tại thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh.
Năm 2017, tác giả Lê Ngọc Thạnh đã bảo vệ Luận án tiến sĩ Luật học với đề
tài “Pháp luật về thu hồi đất nông nghiệp ở Việt Nam” (Đại học Luật TP. Hồ Chí
Minh). Trong luận án, tác giả này đã phân tích vấn đề bồi thường khi Nhà nước thu
hồi đất nông nghiệp và chỉ ra những điểm mới của Dự thảo Luật Đất đai năm 2013,
so sánh với những quy định có liên quan trong Luật Đất đai năm 2003. Tuy nhiên,
Luận án này không phân tích vấn đề bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông
nghiệp của HGĐ, CN tại thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh.
4
Ngoài ra, có thể kể đến một số bài viết có liên quan đến thu hồi đất, thu hồi
đất nông nghiệp…, như “Chính sách hỗ trợ khi nhà nước thu hồi đất” của TS. Trần
Quang Huy (Tạp chí Luật học số 10/2010); “Vấn đề xung quanh khái niệm bồi
thường xung quanh khái niệm bồi thường khi thu hồi đất” của PGS. TS. Nguyễn
Quang Tuyến (Tạp chí Luật học số 01/2009); bài viết “Pháp luật về hỗ trợ khi nhà
nước thu hồi đất nông nghiệp” Th.S. Lê Ngọc Thạnh đăng trên Tạp chí Dân chủ và
Pháp luật tháng 4/2013,…
Các nghiên cứu trên đã làm rõ cơ sở lý luận của pháp luật về bồi thường khi
Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp và đánh giá thực trạng áp dụng trên phạm vi cả
nước. Tuy nhiên, chưa có nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề này khi Luật đất
đai năm 2013 có hiệu lực cũng như chưa có công trình nghiên cứu nào về thực tiễn
thi hành pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp của HGĐ,
CN trên địa bàn thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh. Điều này cho thấy tính mới
của đề tài nghiên cứu của Luận văn Thạc sĩ này.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở làm rõ những quy định của pháp luật về bồi thường khi Nhà nước
thu hồi đất nông nghiệp của HGĐ, CN và chỉ ra những bất cập của pháp luật cùng
những khó khăn trong thực tiễn thi hành trên địa bàn thành phố Hạ Long, tỉnh
Quảng Ninh, đề tài đề xuất giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao khả
năng thực thi pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp của
HGĐ, CN tại thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích trên luận văn có nhiệm vụ cụ thể sau đây:
- Phân tích để làm rõ các vấn đề lý luận liên quan đến các quy định của pháp
luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp như: Khái niệm và đặc
điểm của đất nông nghiệp; khái niệm của HGĐ, CN có quyền SDĐ nông nghiệp,
khái niệm và đặc điểm của pháp luật về Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp và vấn
đề bồi thường;
5
- Chỉ ra những nội dung cơ bản của pháp luật về bồi thường khi Nhà nước
thu hồi đất nông nghiệp của HGĐ, CN;
- Đánh giá thực trạng pháp luật và thực tiễn thực thi pháp luật về bồi thường
khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp của HGĐ, CN tại thành phố Hạ Long, tỉnh
Quảng Ninh; chỉ ra những bất cập của pháp luật và những vướng mắc trong quá
trình thực thi pháp luật;
- Đề xuất giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và giải pháp nhằm nâng cao
khả năng thực thi pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp
của HGĐ, CN tại thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh.
4. Đối tượng và phạm vị nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề liên quan đến thu hồi đất
nông nghiệp và bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp của HGĐ, CN.
Đối tượng nghiên cứu của luận văn còn bao gồm các văn bản pháp luật có liên quan
đến bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp của HGĐ, CN cũng như thực
tiễn thi hành trên địa bàn thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu về nội dung: Về nội dung, phạm vi của luận văn bao
gồm 5 vấn đề: (1). Nguyên tắc bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp
của HGĐ, CN; (2). Phạm vi, điều kiện bồi thường; (3). Trình tự, thủ tục bồi thường;
(4). Cách tính thiệt hại để được bồi thường; (5). Giải quyết khiếu nại khi bồi
thường.
Phạm vi nghiên cứu về không gian: Luận văn nghiên cứu pháp luật về bồi
thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp của HGĐ, CN nói chung và thực tiễn
thi hành trên địa bàn thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh nói riêng.
Phạm vi nghiên cứu về thời gian: Khi đánh giá thực trạng pháp luật về bồi
thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp của HGĐ, CN và thực tiễn thi hành
trên địa bàn thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh, luận văn lấy mốc là năm 1987 -
6
năm ban hành Luật Đất đai đầu tiên của Việt Nam, đặc biệt nhấn mạnh từ năm 2013
- năm ban hành Luật Đất đai mới cho đến nay.
Khi đề xuất giải pháp, luận văn đề xuất giải pháp hoàn thiện pháp luật về bồi
thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp và giải pháp nâng cao khả năng thực
thi pháp luật tại thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh từ nay cho đến năm 2023.
5. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu, luận văn sử dụng kết hợp các phương pháp phân
tích, phương pháp hệ thống hóa, phương pháp tổng hợp, phương pháp thống kê, kết
hợp giữa lý luận và thực tiễn để tìm hiểu vấn đề nghiên cứu. Đặc biệt, phương pháp
so sánh luật học được sử dụng để so sánh các quy định có liên quan đến bồi thường
khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp qua các thời kỳ ở việt Nam. Cụ thể:
- Phương pháp hệ thống hóa, phương pháp phân tích luật học được sử dụng
trong Chương 1 khi nghiên cứu những vấn đề lý luận về pháp luật về bồi thường khi
Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp tại Việt Nam nhằm làm rõ các khái niệm về đất
nông nghiệp, về nội dung của pháp luật về thu hồi đất nông nghiệp, về căn cứ và
các cơ sở đề Nhà nước và về nghĩa vụ bồi thường của Nhà nước trong trường hợp
Nhà nước thu hồi đất của HGĐ, CN. Tại Chương này, phương pháp so sánh luật
học cũng được áp dụng để phân tích các qui phạm pháp luật nhằm so sánh, đối
chiếu để thấy được những thay đổi của pháp luật khi quy định về bồi thường khi
Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp tại thành phố Hạ Long, Quảng Ninh.
- Phương pháp tổng hợp, phương pháp phân tích, phương pháp so sánh luật
học được sử dụng trong Chương 2 khi nghiên cứu thực trạng các quy định của pháp
luật về 5 nội dung được nghiên cứu trong Luận văn và thực trạng thực thi pháp luật
và thực tiễn áp dụng pháp luật về bồi thường khi nhà nước thu hồi đất nông nghiệp
của HGĐ, CN tại thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh.
- Phương pháp luận giải và phương pháp hệ thống hóa được sử dụng trong
Chương 3 khi nghiên cứu để lập luận cho các giải pháp hoàn thiện pháp luật và giải
pháp nâng cao khả năng thực thi pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất
nông nghiệp của HGĐ, CN tại thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh.
7
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài các phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn
gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về pháp luật bồi thường khi Nhà nước thu
hồi đất nông nghiệp của hộ gia đình, cá nhân tại Việt Nam
Chương 2: Thực trạng pháp luật và thực tiễn thực thi pháp luật về bồi thường
khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp của hộ gia đình, cá nhân tại thành phố Hạ
Long, tỉnh Quảng Ninh
Chương 3: Giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao khả năng thực thi
pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp của hộ gia đình, cá
nhân trên địa bàn thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh
8
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁP LUẬT BỒI THƯỜNG
KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT NÔNG NGHIỆP CỦA HỘ GIA ĐÌNH, CÁ
NHÂN TẠI VIỆT NAM
1.1. Khái niệm và đặc điểm của đất nông nghiệp
1.1.1. Khái niệm về đất nông nghiệp
Theo cách hiểu truyền thống của người Việt Nam, đất nông nghiệp thường
được coi là đất trồng lúa, trồng cây hoa màu như ngô, khoai, sắn và những loại cây
được coi là lương thực. Tuy nhiên, trên thực tế việc sử dụng đất nông nghiệp khá
phong phú, không chỉ đơn thuần là trồng lúa, hoa màu mà còn được sử dụng để
trồng các loại cây lâu năm hay dùng vào mục đích chăn nuôi gia súc, gia cầm, nuôi
trồng thủy sản.
Theo Từ điển Luật học của Viện Khoa học Pháp lý (Bộ Tư pháp): “Đất nông
nghiệp là tổng thể các loại đất được xác định là tư liệu sản xuất chủ yếu phục vụ cho
việc trồng trọt và chăn nuôi, nghiên cứu thí nghiệm về trồng trọt và chăn nuôi, bảo
vệ môi trường sinh thái, cung ứng sản phẩm cho các ngành công nghiệp và dịch vụ”
( Viện khoa học pháp lý năm 2006).
FAO không đưa ra khái niệm về đất nông nghiệp mà chỉ phân chia đất nông
nghiệp thành 4 loại như sau:
(i). Đất canh tác như đất trồng cây hàng năm, chẳng hạn như: ngũ cốc, bông,
khoai tây, dưa hấu, loại hình này cũng bao gồm cả đất sử dụng được trong nông
nghiệp nhưng tạm thời bỏ hoang (đất hoang hóa, đất thoái hóa).
(ii). Vườn cây ăn quả và những vườn nho hay cánh đồng nho (thông dụng ở
Châu Âu).
(ii). Đất trồng cây lâu năm ví dụ như cây ăn quả
(iv). Cánh đồng, thửa ruộng và đồng cỏ tự nhiên cho chăn thả gia súc
Tùy thuộc vào việc sử dụng hệ thống tưới tiêu nhân tạo, đất nông nghiệp
được chia thành đất có tưới tiêu và đất không có tưới tiêu (không thường xuyên). Ở
9
các nước đang khô hạn và bán khô hạn, đất nông nghiệp thường được giới hạn trong
phạm vi đất tưới tiêu.
Cùng với sự phát triển kinh tế và vai trò của đất nông nghiệp ngày càng quan
trọng, vì vậy tại Việt Nam, đất nông nghiệp là một thuật ngữ được sử dụng phổ biến
trong các văn bản pháp luật đất đai ở nước ta. Điều 42 Luật Đất đai 1993 quy định
về đất nông nghiệp như sau: “Đất nông nghiệp là đất được xác định chủ yếu để sử
dụng vào sản xuất nông nghiệp như trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản hoặc
nghiên cứu thí nghiệm về nông nghiệp”. Với quy định của Luật Đất đai năm 1993,
đất đai ở Việt Nam được chia làm 6 loại: Đất nông nghiệp, đất lâm nghiệp, đất
chuyên dùng, đất đô thị, đất khu dân cư nông thôn và đất chưa sử dụng, căn cứ vào
mục đích sử dụng chủ yếu của các loại đất.
Theo sự phân loại này, đất nông nghiệp, đất lâm nghiệp được tách riêng
thành hai loại đất trong số 6 loại đất thuộc vốn đất quốc gia và được định nghĩa theo
Điều 42 và Điều 43 của Luật Đất đai năm 1993. Với quy định về đất nông nghiệp
trong Luật Đất đai năm 1993, ở nước ta quan niệm đất nông nghiệp dựa vào tiêu chí
mục đích sử dụng chủ yếu (mục đích chính, mục đích cơ bản nhất do Nhà nước với
tư cách đại diện chủ sở hữu toàn dân về đất đai xác định và được ghi rõ trong quyết
định giao đất, cho thuê đất của cơ quan nhà nước có thẩm quyền). Điều 13 Luật Đất
đai năm 2003 cũng căn cứ vào mục đích sử dụng để chia đất đai thành 3 nhóm:
Nhóm đất nông nghiệp, nhóm đất phi nông nghiệp và nhóm đất chưa sử dụng.
Căn cứ vào mục đích sử dụng, Luật Đất đai năm 2003 đưa ra khái niệm về
đất nông nghiệp rộng hơn với tên gọi “nhóm đất nông nghiệp”, theo đó, nhóm đất
nông nghiệp bao gồm 8 nhóm là: (i). Đất trồng cây hàng năm bao gồm đất trồng lúa,
đất đồng cỏ dùng vào chăn nuôi, đất trồng cây hàng năm khác; (ii). Đất trồng cây
lâu năm; (iii). Đất rừng sản xuất; (iv). Đất rừng phòng hộ; (v) Đất rừng đặc dụng;
(vi.) Đất nuôi trồng thủy sản; (vii). Đất làm muối: (viii). Đất nông nghiệp khác theo
quy định của Chính phủ.
Luật Đất đai năm 2013 tiếp tục giải thích đất nông nghiệp dưới dạng nhóm
đất, bao gồm các loại đất: (i). Đất trồng cây hàng năm gồm đất trồng lúa và đất
10
trồng cây hàng năm khác; (ii). Đất trồng cây lâu năm; (iii). Đất rừng sản xuất; (iv).
Đất rừng phòng hộ; (v). Đất rừng đặc dụng; (vi). Đất nuôi trồng thủy sản; (vii). Đất
làm muối; (viii). Đất nông nghiệp khác gồm đất sử dụng để xây dựng nhà kính và
các loại nhà khác phục vụ mục đích trồng trọt, kể cả các hình thức trồng trọt không
trực tiếp trên đất; xây dựng chuồng trại chăn nuôi gia súc, gia cầm và các loại động
vật khác được pháp luật cho phép; đất trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản cho
mục đích học tập, nghiên cứu thí nghiệm; đất ươm tạo cây giống, con giống và đất
trồng hoa, cây cảnh (Điều 10 Luật Đất đai năm 2013).
Như vậy, về cơ bản, cách hiểu về đất nông nghiệp theo Luật Đất đai năm
2013 không có nhiều điểm khác biệt so với năm 2003. Chỉ có điểm khác biệt so với
Luật Đất đai năm 2003 là Luật Đất đai năm 2013 Luật hóa quy định về đất nông
nghiệp khác để tránh cách hiểu hạn hẹp, không bao quát được hết các loại đất nông
nghiệp. Theo đó, cách hiểu về đất nông nghiệp khác không còn mang nặng ảnh
hưởng về địa lý, đó không chỉ là các loại đất chỉ có ở nông thôn mà còn là đất có
xây dựng công trình để trồng trọt, chăn nuôi ở cả đô thị và nông thôn.
Từ phân tích ở trên, người viết cho rằng có thể hiểu về đất nông nghiệp như
sau: Đất nông nghiệp là tập hợp các loại đất phù hợp với sản xuất vào mục đích
nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thủy sản, làm muối được cơ quan Nhà nước có
thẩm quyền quyết định mục đích sử dụng thông qua công cụ quy hoạch sử dụng đất.
Ở Việt Nam, đất nông nghiệp chiếm một tỷ lệ tương đối lớn trong vốn đất
đai và được phân bố rộng khắp trên phạm vi cả nước. Việc quan niệm đất nông
nghiệp ở phạm vi rộng như trên là cần thiết và phù hợp với thực tế khai thác và sử
dụng của các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân. Điều đó có ý nghĩa quan trọng trong
thực tế khi xác định đất bị thu hồi là loại đất nào trong nhóm đất nông nghiệp để
làm cơ sở cho việc xác định cách thức và mức bồi thường.
1.1.2. Đặc điểm của đất nông nghiệp
Ngoài những đặc điểm chung của đất đai, như đất đai thuộc sở hữu toàn dân
do Nhà nước là đại diện của chủ sở hữu đất đai (Điều 53, Hiến pháp năm 2013) là
11
tài sản không do con người tạo ra, có tính cố định và không thể di dời,… đất nông
nghiệp còn có những đặc điểm riêng cơ bản sau đây:
Thứ nhất, đất nông nghiệp là loại đất mà giá trị sử dụng phụ thuộc chủ yếu
vào chất lượng đất đai, độ màu mỡ phì nhiêu của đất.
Giá trị của đất đô thị, đất ở hay một số loại đất chuyên dùng khác phụ thuộc
chủ yếu vào các yếu tố như vị trí địa lý của khu đất đó, khả năng sinh lợi, mức độ
hoàn thiện của hệ thống cơ sở hạ tầng, hướng, hình thể, kích thước, diện tích,… Đối
với đất nông nghiệp, do sử dụng làm tư liệu sản xuất, nên giá trị của loại đất này lại
phụ thuộc vào các yếu tố nông, hóa, thổ nhưỡng như độ phì nhiêu, tầng dày của lớp
đất mặt, độ dốc, độ PH (độ chua),… Độ phì hay độ màu mỡ là một thuộc tính tự
nhiên của đất nông nghiệp và là yếu tố quyết định chất lượng của đất. Đây là một
đặc trưng của đất nông nghiệp, thể hiện khả năng cung cấp thức ăn, nước cho cây
trồng trong quá trình phát triển.
Đặc điểm này của đất nông nghiệp đã cho thấy rõ vì sao trong các quy định
của pháp luật hiện hành về quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, về các trường hợp thu
hồi đất, về chuyển mục đích sử dụng đất thì đối với loại đất nông nghiệp có giá trị
cao, đặc biệt là đất trồng lúa nước - loại đất mà nguồn sống và thu nhập của gần
70% dân số trông chờ vào đó, được Nhà nước quy định hết sức nghiêm ngặt, với
chủ trương hạn chế thu hồi để đảm bảo đời sống cho họ và cao hơn là vì sự an toàn
lương thực của quốc gia.
Thứ hai, đất nông nghiệp được sử dụng làm tư liệu sản xuất trực tiếp và
không thể thay thế được trong lĩnh vực nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thủy
sản và làm muối.
Như đã đề cập trong phần khái niệm đất nông nghiệp, đất nông nghiệp là
tổng thể của nhiều loại đất được sử dụng trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp. Có
loại đất được sử dụng cho mục đích sản xuất, kinh doanh nông nghiệp, có loại đất
được sử dụng không vì mục đích kinh doanh nhưng nó là địa bàn, nền tảng để tạo ra
các sản phẩm nông nghiệp; có loại đất được sử dụng cho mục đích ngắn hạn hoặc
trồng các loại cây hàng năm, có loại đất được sử dụng cho mục đích dài hạn và
12
trồng các loại cây lâu năm. Tuy nhiên, trong thực tế khai thác và sử dụng đất của
các tổ chức, HGĐ, CN, có những loại đất mà khởi nguồn chúng được sử dụng cho
mục đích chính là sản xuất nông nghiệp như: Trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thủy
sản, trồng các loại cây ăn quả hay các loại cây lâu năm, song do nhu cầu tự thân của
mỗi chủ thể muốn thay đổi mục đích sử dụng nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng đất,
hoặc trong nhiều trường hợp vì lợi ích của những loại đất sử dụng cho mục đích
khác có giá trị cao hơn so với đất nông nghiệp mà họ đang sử dụng nên các chủ thể
đã tự ý thay đổi mục đích so với ban đầu - và chúng trở thành đất phi nông nghiệp.
Sự thay đổi mục đích này có thể Nhà nước kiểm soát được và cho phép, song
cũng có trường hợp Nhà nước không kiểm soát được. Trong trường hợp này, mục
đích sử dụng đất trong hồ sơ, giấy tờ là đất nông nghiệp, song trên thực tế họ lại sử
dụng cho mục đích phi nông nghiệp như: Sử dụng đất vườn ao để làm nhà ở, sử
dụng đất nông nghiệp tiếp giáp với trục giao thông để làm địa điểm kinh doanh phi
nông nghiệp, chuyển từ loại đất trồng cây hàng năm sang loại đất trồng cây lâu
năm,… Với những trường hợp này, việc nghiên cứu đặc điểm của đất nông nghiệp
là loại đất được sử dụng cho mục đích "chủ yếu" là sản xuất nông nghiệp sẽ có ý
nghĩa vô cùng quan trọng trong việc xác định loại đất được bồi thường và mức bồi
thường khi Nhà nước thu hồi đất. Điều này cũng có ý nghĩa quan trọng trong việc
ngăn ngừa các sai phạm của người có đất bị thu hồi, cố tình kê khai gian dối loại đất
có giá trị cao hơn, để được bồi thường nhiều hơn khi Nhà nước thu hồi đất.
1.2. Khái niệm và căn cứ pháp lý để thu hồi đất nông nghiệp
1.2.1. Khái niệm về thu hồi đất nông nghiệp
Theo Từ điển giải thích thuật ngữ Luật học, thu hồi đất được hiểu là việc cơ
quan Nhà nước có thẩm quyền thu hồi quyền sử dụng đất của người vi phạm quy
định về sử dụng đất để Nhà nước giao cho người khác sử dụng hoặc trả lại cho chủ
sử dụng đất hợp pháp bị lấn chiếm. Trường hợp thật cần thiết, Nhà nước thu hồi đất
đang sử dụng của người sử dụng đất để sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh,
lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng (Viện khoa học pháp lý năm 2006).
13
Trong Luật Đất đai năm 1987 và Luật Đất đai năm 1993, đã đề cập vấn đề
thu hồi đất, nhưng chưa định nghĩa rõ thế nào là thu hồi đất mà chỉ liệt kê các
trường hợp bị thu hồi đất (Điều 14 Luật Đất đai năm 1987 và điều 26 Luật Đất đai
năm 1993).
Khái niệm thu hồi đất lần đầu tiên được ghi nhận tại Điều 4 Luật Đất đai
năm 2003: “Thu hồi đất là việc Nhà nước ra quyết định hành chính để thu lại quyền
sử dụng đất hoặc thu lại đất đã giao cho tổ chức, Ủy ban nhân dân xã, phường, thị
trấn quản lý theo quy định của Luật này”. Khái niệm này cho thấy 3 nội dung quan
trọng (i). Người có quyền thu hồi đất là Nhà nước và quyết định thu hồi đất là quyết
định mang tính hành chính; (ii). Đối tượng bị thu hồi đất là người sử dụng đất chứ
không phải đất; (iii). Người bị thu hồi đất là tổ chức, hộ gia đình, cá nhân có quyền
SDĐ nhưng sử dụng sai mục đích. Điểm bất cập trong quy định này là sẽ dẫn đến
cách hiểu người sử dụng đất bị thu hồi chỉ là tổ chức hay Ủy ban nhân dân xã,
phường, thị trấn. Ngoài ra, khái niệm này cũng chưa bao quát được các trường hợp
bị Nhà nước thu hồi đất.
Khoản 11 Điều 4 Luật Đất đai năm 2013 đưa ra khái niệm về thu hồi đất như
sau: “Nhà nước thu hồi đất là việc Nhà nước quyết định thu lại quyền sử dụng đất
của người được Nhà nước trao quyền sử dụng đất hoặc thu lại đất của người sử
dụng đất vi phạm pháp luật về đất đai”. Người viết cho rằng khái niệm này có tính
bao quát hơn, tiến bộ hơn vì nó loại bỏ được bất cập trong Luật Đất đai năm 2003
và ghi rõ cả trường hợp người SDĐ vi phạm pháp luật về đất đai.
Từ những nghiên cứu ở trên, có thể đưa ra khái niệm về thu hồi đất nông
nghiệp như sau: “Thu hồi đất nông nghiệp là việc Nhà nước quyết định thu lại
quyền sử dụng đất nông nghiệp đã trao cho các chủ thể sử dụng đất nông nghiệp
theo quy định của pháp luật đất đai”.
Thu hồi đất nông nghiệp gây ra những hậu quả tiêu cực cho người bị thu hồi
đất. Họ bị mất tư liệu sản xuất, không có công ăn việc làm dẫn đến đời sống gặp
nhiều khó khăn. Vì vậy, việc thu hồi đất nông nghiệp cho dù là Nhà nước quyết
14
định thu hồi nhưng việc thu hồi đất nông nghiệp cũng phải dựa trên các căn cứ pháp
lý cụ thể của pháp luật quy định.
1.2.2. Căn cứ pháp lý để Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp
Nếu như giao đất, cho thuê đất là cơ sở để làm phát sinh quan hệ pháp luật
đất đai, phát sinh quyền SDĐ của người được Nhà nước trao quyền sử dụng thì thu
hồi đất là một biện pháp làm chấm dứt quan hệ pháp luật đất đai bằng một quyết
định hành chính của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Thông qua những hoạt động
này, Nhà nước thể hiện rất rõ quyền định đoạt đất đai với tư cách là đại diện chủ sở
hữu đối với đất đai.
Sau khi Luật Đất đai năm 2003 ra đời, với đặc thù chế độ sở hữu toàn dân
mà Nhà nước là đại diện sở hữu, có khá nhiều bàn luận khác nhau về căn cứ pháp lý
này. Có quan điểm cho rằng thu hồi đất chỉ thực sự phù hợp trong trường hợp Nhà
nước thu hồi đất do có hành vi vi phạm pháp luật đất đai và thu hồi do chấm dứt
việc sử dụng đất theo pháp luật đất đai hoặc tự nguyện, bởi lẽ Nhà nước giao đất,
mặc dù người dân không có quyền sở hữu nhưng đã được xác lập quyền chiếm hữu
và quyền sử dụng, họ có quyền định đoạt quyền sử dụng đất hợp pháp của mình.
Tuy nhiên, theo quy định của Hiến pháp năm 2013, căn cứ để thu hồi đất nói chung
đã được thể hiện tại Điều 54 Khoản 3 theo đó “Nhà nước thu hồi đất do tổ chức, cá
nhân đang sử dụng trong trường hợp thật cần thiết do luật định vì mục đích quốc
phòng, an ninh; phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng”.b
Như vậy, căn cứ để Nhà nước thu hồi đất trong đó có đất nông nghiệp là trong
trường hợp thật cần thiết do pháp luật quy định. Đối với đất nông nghiệp, Luật Đất đai
năm 2013 quy định 3 trường hợp thu hồi đất, đó là: (1). Thu hồi đất vì mục đích quốc
phòng, an ninh; phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng; (2). Thu hồi
đất do vi phạm pháp luật về đất đai; (3). Thu hồi đất do chấm dứt việc sử dụng đất theo
pháp luật, tự nguyện trả lại đất, có nguy cơ đe dọa tính mạng con người.
Để cụ thể hóa 3 căn cứ thu hồi đất nói chung, thu hồi đất nông nghiệp nói
riêng, Luật Đất đai năm 2013 cũng làm rõ các căn cứ này tại các điều từ Điều 61
đến Điều 65.
15
Sở dĩ, quy định về các căn cứ để thu hồi đất là quy định có tính Hiến định và
còn được cụ thể hóa trong Luật Đất đai năm 2013 là bởi vì hệ quả của thu hồi đất
nông nghiệp cũng giống như thu hồi các loại đất khác đó là làm chấm dứt quyền sử
dụng đất của tổ chức, cá nhân, hộ gia đình sử dụng thửa đất. Như đã phân tích, vai
trò của đất nông nghiệp là tư liệu sản xuất, là nguồn sống, là truyền thống của người
dân, hệ quả của việc thu hồi đất nông nghiệp là rất lớn đặc biệt là ảnh hưởng tới đời
sống của người nông dân. Nói cách khác, hệ quả của việc thu hồi đất nông nghiệp là
khá nghiêm trọng, đó là:
Thứ nhất, xét về mặt tài sản, người có đất nông nghiệp bị thu hồi sẽ mất đi
quyền SDĐ, chịu thiệt hại về các kết quả đầu tư đã bỏ công sức xây dựng như công
trình hạ tầng, cây cối, thiệt hại do không được khai thác hoa lợi, lợi tức phát sinh từ
đất. So với các loại đất khác thì khi thu hồi đất nông nghiệp, thiệt hại về công trình
hạ tầng, công trình kiến trúc không lớn như đất ở, các loại đất phi nông nghiệp khác
nhưng đất nông nghiệp với vai trò tư liệu sản xuất chính trong nông nghiệp, những
thiệt hại về cây cối, nông sản, hoa lợi, lợi tức trong tương lai lại vô cùng lớn.
Thứ hai, thiệt hại về chi phí đầu tư vào đất. Giá trị của đất nông nghiệp chủ
yếu phụ thuộc vào độ màu mỡ, phì nhiêu của từng loại đất. Con người không những
chỉ sử dụng độ màu mỡ tự nhiên của đất mà còn có khả năng tăng thêm độ màu mỡ
của đất. Để sử dụng hiệu quả đất nông nghiệp, người sử dụng phải đầu tư điều chỉnh
độ màu mỡ, giá trị dinh dưỡng của đất nông nghiệp cho phù hợp với các loại hình
chăn nuôi, sản xuất nông nghiệp. Có thể nói, các chi phí đầu tư vào đất mà người sử
dụng đất nông nghiệp bỏ ra như phí san lấp, phí cải tạo đất,… là không hề nhỏ. Khi
thu hồi đất nông nghiệp, cần có sự xem xét chính xác các chi phí đầu tư này dựa
trên các hồ sơ, chứng cứ chứng minh.
Thứ ba, thiệt hại do ngừng việc sản xuất, kinh doanh nông nghiệp khi người
sử dụng bị thu hồi đất nông nghiệp là rất lớn. Thu hồi đất nông nghiệp chính là thu
hồi tư liệu sản xuất của người nông dân, họ sẽ bị mất cơ hội lao động, mất nguồn
sống. So với việc thu hồi đất khác, thu hồi đất nông nghiệp không chỉ gây thiệt hại
trước mắt mà còn ảnh hưởng lâu dài do khó có sự thay đổi, chuyển đổi việc làm cho
người nông dân.
16
Chính vì vậy, pháp luật không chỉ quy định về các căn cứ để thu hồi đất nông
nghiệp mà còn quy định về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp.
1.3. Pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp của các hộ
gia đình, cá nhân
1.3.1. Khái niệm về hộ gia đình, cá nhân
Theo Từ điển Luật học, thì hộ gia đình là “tập hợp nhóm người có quan hệ
hôn nhân, huyết thống và nuôi dưỡng” (Viện Khoa học pháp lý 2006, Từ điển Luật
học, NXB Từ điển Bách khóa).
Điều 106 BLDS 2005 quy định như sau: “Hộ gia đình mà các thành viên có
tài sản chung, cùng đóng góp công sức để hoạt động kinh tế chung trong sản xuất
nông, lâm, ngư nghiệp hoặc một số lĩnh vực sản xuất, kinh doanh khác do pháp luật
quy định là chủ thể khi tham gia quan hệ dân sự thuộc các lĩnh vực này”. BLDS
năm 2015 không đưa ra khái niệm HGĐ mà chỉ ghi nhận HGĐ không phải là pháp
nhân, do đó vừa xác định chủ thể của quan hệ dân sự có sự tham gia của HGĐ sử
dụng đất được thực hiện theo quy định của Luật Đất đai (Điều 101 BLDS năm
2015).
Trên khía cạnh pháp lý, hộ gia đình có các điều kiện sau sẽ có thể là chủ thể
quan hệ pháp luật dân sự (vay vốn, mua, bán, thuê, mượn,…) với đặc điểm: Các
thành viên có tài sản chung; cùng đóng góp công sức để hoạt động kinh tế chung
trong sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp hoặc một số lĩnh vực sản xuất, kinh doanh
khác do pháp luật quy định.
Bộ luật Dân sự 2015 không quy định tài sản chung của HGĐ theo phương
pháp liệt kê như Bộ luật Dân sự 2005 mà quy định tài sản chung của HGĐ gồm tài
sản do các thành viên đóng góp, cùng nhau tạo lập nên hoặc được tặng cho chung,
được thừa kế chung và tài sản khác được các thành viên thỏa thuận là tài sản chung.
Việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung của các thành viên HGĐ được
thực hiện theo thỏa thuận của các thành viên.
Bộ luật Dân sự 2005 quy định: “Việc định đoạt tài sản là tư liệu sản xuất, tài
sản chung có giá trị lớn của hộ gia đình phải được các thành viên từ đủ 15 tuổi trở
17
lên đồng ý; đối với các loại tài sản chung khác phải được đa số thành viên từ đủ 15
tuổi trở lên đồng ý”. Do không có bất kỳ văn bản hướng dẫn cụ thể tài sản nào là tư
liệu sản xuất và tài sản nào được coi là có giá trị lớn, đã dẫn đến sự áp dụng pháp
luật không thống nhất. Bộ luật Dân sự 2015 quy định HGĐ là chủ thể không có tư
cách pháp nhân - đây là vấn đề chưa được xác định rõ tại Bộ luật Dân sự 2005.
Theo đó, các thành viên trong HGĐ phải chịu trách nhiệm liên đới bằng tài sản
riêng của mình, trong trường hợp tài sản chung không đủ để thực hiện nghĩa vụ.
Theo quy định tại khoản 29 Điều 3 Luật Đất đai 2013: “Hộ gia đình sử dụng
đất là những người có quan hệ hôn nhân, huyết thống, nuôi dưỡng theo quy định
của pháp luật về hôn nhân và gia đình, đang sống chung và có quyền sử dụng đất
chung tại thời điểm được nhà nước giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng
đất; nhận chuyển quyền sử dụng đất.” tức HGĐ theo Luật Đất đai được xác định
dựa trên sổ hộ khẩu, nhưng phải tại thời điểm được Nhà nước giao đất, cho thuê đất,
công nhận quyền sử dụng, nhận chuyển quyền sử dụng đất. Đồng thời Điều 98 Luật
Đất đai 2013 quy định phải ghi đầy đủ tên của những người có chung quyền sở hữu
đối với thửa đất nhiều người có chung quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài
sản khác gắn liền với đất. Tuy nhiên, thực tế áp dụng pháp luật còn thiếu đồng nhất,
trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn
liền với đất của HGĐ chỉ ghi tên một người đại diện; trong khi đất là tài sản chung
được sử dụng ổn định, lâu dài nên thành viên trong sổ hộ khẩu có rất nhiều thay đổi.
Nếu khi thực hiện giao dịch chỉ căn cứ vào sổ hộ khẩu thì không hợp lý, nên căn cứ
thêm vào quyết định cấp đất, giao đất, cho thuê đất của nhà nước để xác định những
người có quyền sở hữu chung.
BLDS năm 2005 và BLDS năm 2015 sử dụng khái niệm cá nhân để phân
biệt với khái niệm pháp nhân. Theo đó, cá nhân bao gồm cả công dân Việt Nam,
người nước ngoài, người không có quốc tịch, trong đó công dân là loại chủ thể cá
nhân chủ yếu của quan hệ pháp luật dân sự. Việc xác định tư cách chủ thể cả cá
nhân trong quan hệ pháp luật dân sự được dựa trên cơ sở năng lực chủ thể của cá
nhân bao gồm năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự. Năng lực pháp luật
dân sự của cá nhân có từ khi người đó sinh ra và chấm dứt khi người đó chết và
18
năng lực hành vi dân sự của cá nhân là khả năng của cá nhân bằng hành vi của mình
xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự, năng lực hành vi dân sự của cá nhân chỉ
có được khi đạt độ tuổi nhất định.
1.3.2. Khái niệm và đặc điểm của pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi
đất nông nghiệp của hộ gia đình, cá nhân
Theo Từ điển tiếng Việt, bồi thường là đền bù những tổn hại đã gây ra cho
người khác. Trong cuộc sống thường ngày, bồi thường được sử dụng trong trường
hợp một người có hành vi gây thiệt hại cho người khác và phải đền bù cho người bị
thiệt hại những tổn thất do hành vi của mình gây ra.
Trong quan hệ pháp luật, trách niệm bồi thường được đặt ra khi một chủ thể
có hành vi vi phạm pháp luật gây thiệt hại cho chủ thể khác. Đó có thể là bồi thường
thiệt hại dân sự hay bồi thường do vi phạm hành chính, bồi thường do vi phạm pháp
luật Hình sự,…
Trong quan hệ pháp luật đất đai, khái niệm bồi thường đã được đề cập đến từ
rất sớm. Tuy nhiên, khi Luật Đất đai 1987 ra đời, Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính
phủ) đã ban hành Quyết định số 186/HĐBT ngày 31/05/1990 quy định “Về đền bù
thiệt hại đất nông nghiệp, đất có rừng khi chuyển sang sử dụng vào mục đích khác”,
thuật ngữ bồi thường được thay thế bằng thuật ngữ đền bù thiệt hại. Khi Luật Đất
đai được sửa đổi năm 2001, bổ sung một số điều của Luật Đất đai năm 1993 được
Quốc hội ban hành, thuật ngữ bồi thường được sử dụng và tiếp tục xuất hiện trong
Luật Đất đai năm 2003. Theo đó, “Bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất là việc Nhà
nước trả lại giá trị quyền sử dụng đất đối với diện tích đất bị thu hồi cho người bị
thu hồi đất”(Khoản 6 Điều 4 Luật Đất đai năm 2003).
Khái niệm này chưa thật toàn diện, bởi lẽ nếu quy định bồi thường là việc
Nhà nước trả lại giá trị quyền SDĐ là không đúng. Giá trị của đất, đặc biệt là đất
nông nghiệp không bao giờ giữ nguyên giá trị ban đầu mà luôn tăng thêm do có sự
cải tạo, đầu tư của con người. Bên cạnh việc bồi thường giá trị quyền sử dụng đất,
Nhà nước còn có các chính sách bồi thường với tài sản trên đất, những chi phí đầu
tư vào đất.
19
Nhằm có cách hiểu rõ ràng hơn về định nghĩa này, tách bạch rõ bồi thường
về đất và bồi thường về tài sản, Luật Đất đai năm 2013 tại Khoản 12 Điều 3 đã giải
thích rõ: “Bồi thường về đất là việc Nhà nước trả lại giá trị quyền sử dụng đất đối
với diện tích đất thu hồi cho người sử dụng đất” còn những vấn đề bồi thường tài
sản gắn liền với đất, những chi phí đầu tư vào đất được quy định cụ thể hơn tại các
điều luật khác. Từ khái niệm này có thể thấy vấn đề bồi thường khi Nhà nước thu
hồi đất về cơ bản có những đặc điểm sau:
- Bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp của HGĐ, CN là hậu quả
pháp lý trực tiếp do hành vi thu hồi đất của Nhà nước, nó chỉ phát sinh sau khi có
quyết định hành chính về thu hồi đất của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền;
- Bồi thường là trách nhiệm của Nhà nước nhằm bù đắp tổn thất về quyền và
lợi ích hợp pháp của người sử dụng đất nông nghiệp do bị thu hồi;
- HGĐ, CN bị Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp không chỉ được bồi thường
về đất mà còn được bồi thường về tài sản trên đất, và còn được xem xét giải quyết
các vấn đề mang tính xã hội như ổn định sản xuất giải quyết việc làm.
- Việc bồi thường của Nhà nước chỉ áp dụng đối với các đối tượng bị thu hồi
đất nông nghiệp là HGĐ, CN đáp ứng những điều kiện nhất định theo quy định của
pháp luật.
Từ những phân tích ở trên, có thể hiểu đầy đủ về bồi thường khi Nhà nước
thu hồi đất nông nghiệp của HGĐ, CN là việc Nhà nước bù đắp những thiệt hại về
đất và tài sản, bao gồm cả các chi phí đầu tư vào đất nông nghiệp do việc thu hồi đất
nông nghiệp gây ra cho HGĐ, CN sử dụng đất khi HGĐ, CN đáp ứng các quy định
của pháp luật về đất đai.
Pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp của HGĐ, CN
là tổng hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong quá trình
Nhà nước bồi thường về đất, tài sản, chi phí đầu tư trên đất khi Nhà nước thu hồi
đất nông nghiệp.
Pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp của HGĐ, CN
có 3 đặc điểm chủ yếu như sau:
20
- Về chủ thể: Tham gia vào quan hệ pháp luật ở lĩnh vực này có Nhà nước –
Nhà nước là chủ thể có thẩm quyền giao đất nông nghiệp, cho thuê đất nông nghiệp.
Tuy nhiên, khi thực hiện quyền này của Nhà nước, Nhà nước trao lại cho các cơ
quan Nhà nước có thẩm quyền thực hiện quyền hạn và trách nhiệm trong việc bồi
thường cho HGĐ, CN bị thu hồi đất.
Tham gia vào quan hệ pháp luật này còn có HGĐ và cá nhân – những chủ
thể được trao quyền SDĐ nông nghiệp là những đối tượng thuộc diện bị thu hồi đất
nông nghiệp.
- Về nguồn luật: Nguồn của pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi
đất nông nghiệp của HGĐ, CN bao gồm hệ thống các văn bản qui phạm pháp luật
có liên quan. Trước tiên là Hiến pháp năm 2013 với ý nghĩa là đạo luật cơ bản,
xuyên suốt có giá trị pháp lý cao nhất. Tiếp đến là BLDS 2015 với ý nghĩa là bộ luật
chung, quy định các vấn đề về tài sản, về đất đai, về quyền sử dụng đất, về HGĐ, về
CN,… Cuối cùng là các luật chuyên ngành như Luật Đất đai năm 2013 và các văn
bản hướng dẫn thực hiện về thu hồi đất nông nghiệp và bồi thường khi Nhà nước
thu hồi đất nông nghiệp.
- Vê cách thức tính tiền bồi thưởng khi Nhà nước thu hồi đất của HGĐ, CN:
Do đất nông nghiệp cũng là đất công do Nhà nước thống nhất quản lý và việc thu
hồi đất nông nghiệp cũng phải căn cứ theo những quy định của pháp luật nên cách
tính tiền bồi thường cũng là một đặc điểm riêng có.
Pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp là một lĩnh
vực chịu sự chi phối bởi hình thức sở hữu toàn dân về đất đai còn có những đặc
trưng riêng như: Cơ sở để bồi thường khi thu hồi đất nông nghiệp không chỉ dựa
trên những thiệt hại thực tế mà người nông dân phải gánh chịu ngay tại thời điểm
thu hồi đất mà còn tính đến cả những thiệt hại trong tương lai bởi vai trò không thể
thay thế được của đất nông nghiệp đối với người nông dân, khác với chủ thể khác,
các loại đất khác, đất nông nghiệp là tư liệu sản xuất chính của người nông dân.
Ngoài ra, pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp áp dụng
chủ yếu với cá nhân, hộ nông dân ở nông thôn, là sự kết hợp đan xen nhiều biện
21
pháp khác nhau như: Biện pháp hành chính, biện pháp kinh tế, biện pháp tuyết phục
và cưỡng chế. Đặc biệt, ở mỗi địa phương khác nhau khi thực hiện về bồi thường
đối với người nông dân khi bị thu hồi đất thì bên cạnh việc tuân thủ các quy định
chung của pháp luật cần chú trọng đặc điểm vùng miền, đặc điểm của các loại đất
để có những định hướng giải quyết phù hợp. Nội dung này sẽ được phân tích cụ thể
ở Chương 2 của Luận văn.
1.3.3. Nội dung của pháp luật về thu hồi đất nông nghiệp
Thu hồi đất nông nghiệp có liên quan đến nhiều chế định pháp luật, quy định
về cơ sở pháp lý để thu hồi đất, các nội dung đảm bảo thẩm quyền của Nhà nước và
quyền lợi của người có đất bị thu hồi. Các nội dung cơ bản của pháp luật về thu hồi
đất nông nghiệp bao gồm:
(i) Quy định về quy định sử dụng đất, kế hoạch sử dụng đất nông nghiệp – cơ
sở pháp luật thu hồi đất nông nghiệp;
Thứ nhất, quy hoạch đất đai là việc tính toán, phân bổ đất đai cụ thể về số
lượng, chất lượng, vị trí, không gian cho các mục tiêu phát triển kinh tế xã hội, đảm
bảo cơ sở khoa học và mục tiêu kinh tế xã hội để việc sử dụng đất phù hợp với các
điều kiện về đất đai, khí hậu, thổ nhưỡng và từng ngành sản xuất.
Thứ hai, quy hoạch sử dụng đất có thể hiểu là việc xác định mục đích sử
dụng của các loại đất trên những tính toán khoa học và dựa trên nhu cầu thực tế
kinh tế xã hội.
Thứ ba, theo quan điểm của các nhà lập pháp lần đầu tiên được đưa ra tại
Khoản 2 Điều 3 Luật Đất đai năm 2013 với giải thích:
Quy hoạch sử dụng đất là việc phân bổ và khoanh vùng đất đai theo không
gian sử dụng cho các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, bảo
vệ môi trường và thích ứng biến đổi khí hậu trên cơ sở tiềm năng đất đai và nhu cầu
sử dụng đất của các ngành, lĩnh vực đối với từng vùng kinh tế - xã hội và đơn vị
hành chính trong một khoảng thời gian xác định.
22
Kế hoạch sử dụng đất là việc phân chia quy hoạch sử dụng đất theo thời gian
để thực hiện trong kỳ quy hoạch sử dụng đất.
(ii) Quy định về nội dung, trình tự, thủ tục sử dụng đất nông nghiệp;
Về quy phạm nội dung, các trường hợp thu hồi đất phải được xem xét, xuất
phát từ lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng hay phát triển kinh tế để Nhà nước có
cách ứng xử phù hợp.
Về quy phạm hình thức, tức là những quy định về trình tự, thủ tục khi thu hồi
đất nông nghiệp, cách thức thực hiện thẩm quyền của từng cơ quan Nhà nước, cá
nhân được trao quyền và trách nhiệm của người sử dụng đất phải tuân theo để đảm
bảo cho các quy phạm nội dung được thực hiện hiệu quả đáp ứng các yêu cầu thực tế.
(ii) Quy định về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp;
Hiến pháp nước ta hiện nay đã khẳng định quyền sử dụng đất được pháp luật
bảo hộ và việc thu hồi đất phải công khai, minh bạch và được bồi thường theo quy
định của pháp luật. Pháp luật về thu hồi đất nông nghiệp phải đảm bảo đáp ứng
quyền lợi của người bị thu hồi đất nông nghiệp, quyền lợi của Nhà nước với tư cách
là chủ sở hữu trong việc thực hiện quyền điều tiết phần giá trị gia tăng từ đất mà
không do đầu tư của người sử dụng đất mang lại và đảm bảo cho khả năng sinh lợi
của nhà đầu tư khi bỏ vốn thực hiện dự án.
(iv) Quy định về khiếu nại khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp;
Ngoài việc đáp ứng nhu cầu khôi phục quyền và lợi ích hợp pháp của người
khiếu nại khi bị xâm phạm, hoạt động áp dụng pháp luật về khiếu nại khi Nhà nước
thu hồi đất cần hướng đến: (i) Việc kiểm soát hoạt động của bộ máy hành chính
nhằm hạn chế sự tha hóa quyền lực, (ii) Phát hiện những bất cập, hạn chế, xung đột
trong hệ thống pháp luật, (ii) Tuyên truyền ý thức pháp luật đối với đội ngũ cán bộ,
công chức, viên chức, người lao động và nhân dân trong việc thực hiện quyền lợi và
nghĩa vụ của mình.
23
Kết luận Chương 1
Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận liên quan đến đất nông nghiệp, thu
hồi đất nông nghiệp và bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp, luận văn
đã luận giải để làm sáng tỏ khái niệm về HGĐ, CN là đối tượng bị thu hồi đất nông
nghiệp và những tác động tiêu cực đối với họ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp
vì mục đích Công.
Luận văn cũng nêu rõ rằng Nhà nước chỉ bồi thường cho HGĐ, CN khi đất
nông nghiệp bị thu hồi trong những trường hợp và theo những căn cứ pháp lý do
Luật đất đai quy định.
Luận văn cũng đưa ra khái niệm về đất nông nghiệp, khái niệm pháp luật về
thu hồi đất nông nghiệp; đặc điểm và nội dung của Pháp luật về bồi thường khi Nhà
nước thu hồi đất nông nghiệp của HGĐ, CN. Do tính đa dạng về nội dung của Pháp
luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp nên luận văn đã lựa chọn 5
nội dung của Pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp của
HGĐ, CN. Đó là nguyên tắc bồi thường; phạm vi bồi thường; trình tự, thủ tục bồi
thường; cách tính thiệt hại để được bồi thường và giải quyết khiếu nại về bồi thường
khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp.
24
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN THỰC THI
PHÁP LUẬT VỀ BỒI THƯỜNG KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT NÔNG
NGHIỆP CỦA HỘ GIA ĐÌNH, CÁ NHÂN TẠI THÀNH PHỐ HẠ LONG,
TỈNH QUẢNG NINH
2.1. Một số nét về thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh
2.1.1. Vị trí địa lý
Thành phố Hạ Long ở trung tâm của tỉnh Quảng Ninh, có diện tích đất là
27.195,03 ha, có quốc lộ 18A chạy qua tạo thành chiều dài của thành phố, có cảng
biển, có bờ biển dài 50km, có vịnh Hạ Long được UNESCO công nhận là Di sản
thiên nhiên của thế giới với diện tích 434km2. Với vị trí địa lý thuận lợi và nhiều
điều kiện tự nhiên để phát triển kinh tế - xã hôi, giao lưu văn hóa, trong những năm
vừa qua thành phố Hạ Long đã có nhiều bước phát triển vượt bậc, trở thành trung
tâm kinh tế - văn hóa của tỉnh Quảng Ninh. Cơ cấu kinh tế của thành phố được xác
định là: công nghiệp - du lịch, dịch vụ, thương mại, nông - lâm nghiệp và thủy sản.
Năm 2015, GDP của thành phố đạt 22.000 tỷ đồng chiếm 41% toàn tỉnh (trong đó
công nghiệp và xây dựng chiếm 31%, dịch vụ và du lịch chiếm 53%), chiếm 69,3%
trong tổng thu ngân sách toàn tỉnh Quảng Ninh. Tốc độ tăng trưởng GDP của thành
phố bình quân là 12%/năm (Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Quảng Ninh 2015).
2.1.2. Đất nông nghiệp
Với mục tiêu phát triển kinh tế theo hướng tập trung phát triển các ngành
dịch vụ, đặc biệt là ngành dịch vụ du lịch, trong những năm vừa qua, cơ cấu đất đai
của thành phố Hạ Long có sự thay đổi rõ rệt. Theo thống kê, năm 2009, thành phố
Hạ Long có tổng diện tích đất tự nhiên là 27.195,03 ha, bao gồm các loại đất sau:
đất nông nghiệp 9.544,86 ha; Đất phi nông nghiệp 16.254,92 ha, đất chưa sử dụng
1.395,25 ha. Đến năm 2017, tổng diện tích đất tự nhiên là 27.558 ha bao gồm: đất
sản xuất nông nghiệp (1.860ha), đất lâm nghiệp (6.907ha), đất chuyên dùng
(11.099ha), đất ở (1.049ha). Có thể thấy, diện tích đất nông nghiệp của thành phố đã
giảm còn 1/5 trong vòng 8 năm vừa qua. Trong đó, một phần được quy hoạch để
25
phát triển đô thị, một phần được thu hồi để thực hiện các dự án phát triển kinh tế -
xã hội, an ninh quốc phòng và các mục đích khác.
Đất nông nghiệp đóng vai trò quan trọng trong kinh tế nông nghiệp, vì vậy
để đảm bảo phát triển, là vành đai kinh tế quan trọng đồng thời ổn định đời sống
cho người nông dân là một vấn đề lớn đối với chính quyền thành phố Hạ Long. Nếu
không thực hiện tốt việc bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp không
chỉ ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống kinh tế, chính trị của địa phương mà còn có
nhiều ảnh hưởng đến dân số, việc làm, an ninh xã hội của tỉnh Quảng Ninh. Chính
vì vậy, công tác thu hồi, bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nói chung và đất nông
nghiệp nói riêng luôn được thành phố Hạ Long quan tâm thực hiện.
2.1.3. Các văn bản hướng dẫn bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn
thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh.
Trước khi Luật Đất đai năm 2013 được ban hành, việc bồi thường, hỗ trợ khi
Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn thành phố Hạ Long được áp dụng. Trên cơ sở
Luật Đất đai năm 2003 cùng các văn bản hướng dẫn như Quyết định số
4005/2004/QĐ ngày 04/11/2004 của Uỷ ban nhân dân tỉnh Quảng Ninh về việc ban
hành Bộ đơn giá bồi thường thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn tỉnh
Quảng Ninh; Quyết định số 499/2010/QĐ của Uỷ ban nhân dân tỉnh Quảng Ninh
ngày 11/02/2010 về việc ban hành quy định về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi
Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh.
Ngày 29/11/2013, Quốc hội thông qua Luật Đất dai năm 2013 và có hiệu lực
thi hành kể từ ngày 01/7/2014, để thực hiện đồng bộ các quy định của Luật Đất đai
năm 2013 trên phạm vi cả nước, trên cơ sở các văn bản hướng dẫn, tỉnh Quảng
Ninh đã ban hành quy định hướng dẫn cụ thể về bồi thường khi Nhà nước thu hồi
đất: Quyết định số 1766/2014/QĐ của Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Ninh ngày
13/8/2014 về việc ban hành quy định về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà
nước thu hồi đất theo Luật Đất đai năm 2013 trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh; (i)
Quyết định số 4234/2015/QĐ của Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Ninh ngày
28/12/2015 về ban hành bộ đơn giá bồi thường tài sản gắn liền với đất khi Nhà nước
26
thu hồi đất trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh;; (ii) Quyết định số 3000/2017/QĐ của Ủy
ban nhân dân tỉnh Quảng Ninh ngày 02/8/2017 về việc ban hành quy định về bồi
thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh
thay thế cho Quyết định số 1766/2014/QĐ nêu trên.
Về cơ bản, các quy định về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp
tại tỉnh Quảng Ninh có sự thống nhất với các quy định chung của pháp luật. Các
quy định này là sự chi tiết các quy định chung của pháp luật về bồi thường khi Nhà
nước thu hồi đất nói chung, trong đó thể hiện sự phù hợp với tình hình trên địa bàn
tỉnh. Tuy nhiên, các quy định này vẫn còn khá chung chung, mang tính nguyên tắc,
đa phần nhắc lại các quy định của các văn bản có hiệu lực pháp lý cao hơn mà thiếu
đi những quy định riêng. Ngoài ra, Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Ninh cũng chưa có
những quy định cụ thể các mức hỗ trợ khác nhau với hoàn cảnh của từng địa
phương về chỗ ở, ổn định đời sống và sản xuất của người dân có đất bị thu hồi.
2.2. Thực trạng pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp
của hộ gia đình, cá nhân
2.2.1. Nguyên tắc bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp của hộ gia
đình, cá nhân
Việc bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp phải đảm bảo những
nguyên tắc nhất định. Nếu như quy định về nguyên tắc bồi thường khi Nhà nước thu
hồi đất nói chung, đất nông nghiệp nói riêng nằm rải rác trong các văn bản hướng
dẫn thi hành Luật Đất đai năm 2003 (Điều 14, Nghị định số 69/2009/NĐ-CP ngày
13/08/2009 và Điều 18 Nghị định số 197/2004/NĐ-CP ngày 03/12/2004) thì Luật
Đất đai năm 2013 đã luật hóa những nguyên tắc này, đồng thời tách nguyên tắc bồi
thường về đất và nguyên tắc bồi thường thiệt hại về tài sản, ngừng sản xuất kinh
doanh khi Nhà nước thu hồi đất thành hai điều riêng biệt (Điều 74 và Điều 88 Luật
Đất đai năm 2013). Theo đó, về cơ bản, khi bồi thường thì Nhà nước phải tuân thủ
các nguyên tắc sau đây:
Thứ nhất, Nhà nước chỉ bồi thường khi HGĐ, CN có đủ các điều kiện theo
quy định của pháp luật.
27
Theo nguyên tắc này, việc bồi thường được đặt ra khi Nhà nước thu hồi đất
sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng và
vào mục tiêu phát triển kinh tế. Tuy nhiên, để được bồi thường thì HGĐ, CN bị thu
hồi đất phải thỏa mãn những điều kiện do pháp luật quy định. Khoản 1 Điều 72
Luật Đất đai năm 2013 khẳng định nguyên tắc: “Người sử dụng đất khi Nhà nước
thu hồi đất nếu có đủ điều kiện được bồi thường quy định tại Điều 75 của Luật này
thì được bồi thường”.
Thứ hai, việc bồi thường của Nhà nước phải đảm bảo bồi thường đầy đủ các
thiệt hại phát sinh.
Khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp, HGĐ, CN không chỉ chịu thiệt hại về
đất mà còn chịu thiệt hại về các tài sản trên đất, các hoa lợi, lợi tức thu được do việc
sử dụng đất. Nguyên tắc bồi thường đầy đủ các thiệt hại mở rộng sang phạm vi bồi
thường không chỉ dừng lại ở đất bị thu hồi mà còn có bồi thường những tài sản sản
xuất, kinh doanh. Luật Đất đai năm 2013 quy định cụ thể nguyên tắc bồi thường về
đất và về tài sản nhằm bảo vệ lợi ích chính đáng của người có đất nông nghiệp bị
thu hồi.
Nguyên tắc này được quy định: “Việc bồi thường được thực hiện bằng việc
giao đất có cùng mục đích sử dụng với loại đất thu hồi, nếu không có đất để bồi
thường thì bồi thường bằng tiền theo giá đất cụ thể của loại đất thu hồi do Ủy ban
nhân dân cấp tỉnh quyết định tại thời điểm quyết định thu hồi đất” (Khoản 2 Điều
74 Luật Đất đai năm 2013).
Nguyên tắc này tạo sự linh hoạt khi cho phép cơ quan có thẩm quyền cũng
như HGĐ, CN bị thu hồi đất nông nghiệp lựa chọn được phương án bồi thường phù
hợp. Việc bồi thường đất có cùng mục đích sử dụng cho người sử dụng đất khi Nhà
nước thu hồi đất nông nghiệp được coi là quy định tích cực nhằm tạo điều kiện cho
người bị thu hồi đất nông nghiệp tiếp tục kinh doanh, sản xuất nông nghiệp. Ngoài
ra, để tránh những tiêu cực hay tranh chấp trong việc bồi thường khi Nhà nước thu
hồi đất nông nghiệp, pháp luật quy định rõ người sử dụng đất nông nghiệp theo quy
28
định của pháp luật nhưng tự ý sử dụng làm đất phi nông nghiệp thì chỉ được bồi
thường theo đất nông nghiệp.
Đối với bồi thường về tài sản, Điều 88 Luật Đất đai năm 2013 quy định rõ
nguyên tắc: “Khi Nhà nước thu hồi đất mà chủ sở hữu tài sản hợp pháp gắn liền với
đất bị thiệt hại về tài sản thì được bồi thường.”
Nếu chỉ bồi thường về giá trị sử dụng của đất mà bỏ qua những thiệt hại về
tài sản gắn liền với đất và thiệt hại do ngừng sản xuất, kinh doanh sẽ là một tiếu sót
trong pháp luật về bồi thường. Việc bồi thường tài sản gắn liền với đất được xem
xét khi chủ sở hữu tài sản đó hợp pháp. Việc bồi thường trong sản xuất, kinh doanh
được đặt ra khi người có đất bị thu hồi phải ngừng sản xuất kinh doanh mà có thiệt
hại.
Thứ ba, việc bồi thường phải theo giá thị trường.
Nguyên tắc này là cơ sở để đảm bảo lợi ích cho người có đất nông nghiệp bị
thu hồi. Đối với trường hợp bồi thường về đất, Luật Đất đai năm 2013 quy định:
“được bồi thường bằng tiền theo giá đất cụ thể của loại đất bị thu hồi do Ủy ban
nhân dân tỉnh quyết định tại thời điểm quyết định thu hồi” (Khoản 2 Điều 74). Nghị
định 47/2014/NĐ-CP cũng quy định: “Chi phí đầu tư vào đất còn lại được tính phải
phù hợp với giá thị trường tại thời điểm có quyết định thu hồi đất”.
Thứ tư, việc bồi thường phải đảm bảo công khai, minh bạch, dân chủ, kịp
thời và đúng quy định của pháp luật.
Nguyên tắc này được ghi nhận tại Khoản 3 Điều 71 Luật Đất đai năm 2013:
“Việc bồi thường phải đảm bảo công khai, minh bạch, dân chủ, kịp thời và đúng
quy định của pháp luật”. Việc tuân thủ nguyên tắc này là một đòi hỏi khách quan
trong quá trình thực thi các quy định của pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu
hồi đất và là cơ chế giám sát hoạt động này. Xét về khía cạnh thực tế, bồi thường
cho HGĐ, CN bị thu hồi đất nông nghiệp thực chất là một giao dịch, cân bằng lợi
ích giữa người có đất nông nghiệp bị thu hồi và Nhà nước. Người bị thu hồi đất
nông nghiệp chỉ chấp nhận chấm dứt quyền sử dụng đất nông nghiệp khi các lợi ích
29
của mình được giải quyết một cách minh bạch, dân chủ, kịp thời và đúng quy định
của pháp luật.
2.2.2. Điều kiện bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp của hộ gia
đình, cá nhân
Luật Đất đai năm 2003 quy định 12 trường hợp thu hồi đất, Luật Đất đai năm
2013 quy định rất rõ ràng từ Điều 61 đến Điều 65 như: Thu hồi đất vì mục đích
quốc phòng, an ninh; thu hồi đất vì mục đích phát triển kinh tế, xã hộ, vì lợi ích
quốc gia, công cộng; thu hồi đất không vi phạm pháp luật về đất đai; thu hồi đất do
chấm dứt việc sử dụng đất theo pháp luật, tự nguyện trả lại đất, có nguy cơ đe dọa
tính mạng con người. Theo quy định của Luật Đất đai năm 2013 và các nghị định
hướng dẫn, Nhà nước chỉ xem xét việc bồi thường khi thu hồi đất vì mục đích quốc
phòng, an ninh, phát triển kinh tế xã hội, vì lợi ích quốc gia, công cộng. Ngoài ra,
bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất chỉ được thực hiện trong trường hợp HGĐ, CN
bị thu hồi đất nông nghiệp có quyền SDĐ nông nghiệp hợp pháp. Căn cứ pháp lý để
xác định quyền sử dụng đất hợp pháp là phải có các giấy tờ sau:
Một là, Giấy chứng nhận quyền SDĐ (nay là giấy chứng nhận quyền SDĐ,
quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất – sau đây gọi chung là Giấy
chứng nhận quyền SDĐ). Đây là giấy tờ có giá trị pháp lý cao nhất, là cơ sở để
người SDĐ nông nghiệp thực hiện các quyền do pháp luật quy định.
Hai là, các giấy tờ hợp lệ được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp trong
quá trình thực hiện chính sách quản lý đất đai qua các thời kỳ.
Căn cứ vào điều 100 Luật Đất đai năm 2013, diện tích đất đủ điều kiện để
được cấp chứng nhận quyền SDĐ được hiểu là người sử dụng diện tích đất bị thu
hồi có những giấy tờ sau:
- Những giấy tờ về quyền SDĐ trước ngày 15 tháng 10 năm 1993 do cơ quan
có thẩm quyền cấp trong quá trình thực hiện chính sách đất đai của Nhà nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa, Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt
Nam và Nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
30
- Giấy chứng nhận quyền SDĐ tạm thời được cơ quan Nhà nước có thẩm
quyền cấp hoặc có tên trong Sổ đăng ký ruộng đất, Sổ địa chính trước ngày 15
tháng 10 năm 1993.
- Giấy tờ hợp pháp về thừa kế, tặng cho quyền SDĐ hoặc tài sản gắn liền với
đất, giấy tờ giao nhà tình nghĩa, nhà tình thương gắn liền với đất.
- Giấy tờ chuyển nhượng quyền sử dụng đất, mua bán nhà ở gắn liền với đất
ở trước ngày 15 tháng 10 năm 1993 được UBND cấp có thẩm quyền xác nhận là đã
sử dụng trước ngày 15 tháng 10 năm 1993.
- Giấy tờ thanh lý, hóa giá nhà ở gắn liền với đất ở, giấy tờ mua nhà ở thuộc
sở hữu nhà nước theo quy định của pháp luật.
- Giấy tờ về quyền SDĐ do cơ quan có thẩm quyền thuộc chế độ cũ cấp cho
người SDĐ.
Bên cạnh đó, còn có các trường hợp có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
Hộ gia đình, cá nhân đang SDĐ có một trong các loại giấy tờ nêu trên, mà
trên giấy tờ đó ghi tên người khác, kèm theo giấy tờ về chuyển quyền SDĐ có chữ
ký của các bên liên quan, nhưng đến trước ngày Luật Đất đai năm 2013 có hiệu lực
thi hành mà chưa thực hiện thủ tục chuyển quyền SDĐ theo quy định của pháp luật
và đất đó không có tranh chấp.
Hộ gia đình cá nhân được SDĐ theo bản án hoặc quyết định của Toà án nhân
dân, quyết định thi hành án của cơ quan thi hành án, văn bản công nhận quyết định
hòa giải, quyết định giải quyết tranh chấp, khiếu nại, tố cáo về đất đai của cơ quan
nhà nước có thẩm quyền đã được thi hành thì được cấp Giấy chứng nhận quyền
SDĐ, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất, trường hợp chưa thực
hiện nghĩa vụ tài chính thì phải thực hiện theo quy định của pháp luật.
Hộ gia đình, cá nhân đang SDĐ được Nhà nước giao đất, cho thuê đất từ
ngày 15 tháng 10 năm 1993 đến ngày Luật Đất đai năm 2013 có hiệu lực thi hành
mà chưa được cấp Giấy chứng nhận thì được cấp Giấy chứng nhận quyền SDĐ,
31
quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất, trường hợp chưa thực hiện
nghĩa vụ tài chính thì phải thực hiện nghĩa vụ theo quy định của pháp luật.
Ngoài ra, pháp luật về đất đai cũng quy định về các trường hợp Nhà nước thu
hồi đất nông nghiệp mà không được bồi thường về đất bao gồm những trường hợp
không đủ điều kiện nêu trên, đất được Nhà nước giao quản lý, đất thu hồi do vi
phạm quy định về đất đai theo Điều 64 Luật Đất đai năm 2013, do chấm dứt việc sử
dụng đất theo pháp luật, do tự nguyện trả lại đất (theo Điểm a, b, c, d Khoản 1 Điều
65 Luật Đất đai năm 2013)
2.2.3. Cách tính thiệt hại để được bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông
nghiệp của hộ gia đình, cá nhân
Để tính tiền bồi thường, Luật Đất đai năm 2013 quy định hai loại giá đất là
giá đất theo bảng giá đất và giá đất cụ thể. Bảng giá đất được xây dựng 05 năm một
lần và công bố công khai vào ngày 01/01 năm đầu kỳ. Do tính ổn định của bảng giá
đất nên nó được sử dụng để tính các nghĩa vụ tài chính của người SDĐ. Giá đất cụ
thể được xác định ở một thời điểm nhất định, dựa trên cơ sở điều tra, thu thập thông
tin về thửa đất, giá đất theo giá thị trường và thông tin về giá đất trong cơ sở dữ liệu
đất đai. Giá đất cụ thể được lấy làm căn cứ tính tiền bồi thường khi Nhà nước thu
hồi đất đai.
Việc tính giá đất cụ thể nhằm tính tiền bồi thường phải đảm bảo 5 nguyên tắc
sau: (i). Theo mục đích sử dụng đất hợp pháp tại thời điểm tính giá; (ii). Theo thời
hạn sử dụng đất; (iii). Phù hợp với giá đất phổ biến trên thị trường của loại đất có
cùng mục đích sử dụng đã chuyển nhượng; (iv). Giá trúng đấu giá quyền sử dụng
đất những nơi có đấu giá quyền sử dụng đất hoặc thu thập từ việc sử dụng đất; (v).
Cùng một thời điểm, các thửa đất liền kề nhau có cùng mục đích sử dụng, khả năng
sinh lợi, thu nhập từ việc sử dụng đất tương tự như nhau thì có mức giá như nhau.
Theo quy định của Luật Đất đai năm 2013, Chính phủ ban hành khung giá
đất định kỳ 05 năm một lần đối với từng loại đất theo từng vùng, trong đó có khung
giá đất với các loại đất thuộc nhóm đất nông nghiệp. Khi giá đất phổ biến trên thị
trường tăng từ 20% trở lên so với giá đất tối đa, hoặc giảm từ 20% trở lên so với giá
32
đất tối thiểu trong khung giá đất trong khoảng thời gian 180 ngày trở lên thì Chính
phủ điều chỉnh bằng giá đất. Quy định giá đất nông nghiệp trong bảng giá đất được
tính như sau:
- Giá đất trong bảng giá đất quy định theo nguyên tắc đất thuộc loại đất nào
thì áp dụng theo khung giá đất của loại đất đó;
- Đối với đất nông nghiệp trong khu dân cư, trong địa giới hành chính
phường thì căn cứ vào thực tế tại địa phương, UBND cấp tỉnh được quy định mức
giá đất cao hơn nhưng không quá 50% so với mức giá tối đa của từng loại đất trong
khung giá đất.
- Đối với đất rừng phòng hộ, rừng đặc dụng UBND cấp tỉnh căn cứ vào giá
đất rừng sản xuất tại khu vực lân cận đã quy định trong bảng giá đất và căn cứ vào
phương pháp tính giá đất để quy định mức giá đất.
- Đối với loại đất nông nghiệp khác, UBND căn cứ vào giá các loại đất nông
nghiệp tại khu vực lân cận đã quy định trong bảng giá đất để quy định mức giá đất.
Trên cơ sở bảng giá đất, giá đất cụ thể được xác định theo trình tự, thủ tục
sau: (i). Xác định mục đích định giá đất cụ thể; (ii). Điều tra, tổng hợp, phân tích
thông tin về thửa đất, giá đất thị trường; Áp dụng phương án tính giá đất; (iii). Xây
dựng phương án tính giá đất trình UBND cấp tỉnh; (iv). Thẩm định phương án giá
đất; (v). Hoàn thiện dự thảo phương án giá đất trình UBND cấp tỉnh quyết định;
UBND cấp tỉnh quyết định giá đất. Cơ quan quản lý đất đai cấp tỉnh có trách nhiệm
giúp UBND cấp tỉnh tổ chức việc xác định giá đất cụ thể. Trong quá trình thực hiện,
cơ quan quản lý đất đai cấp tỉnh được thuê tổ chức có chức năng tư vấn, xác định
giá đất để tư vấn, xác định giá đất cụ thể.
2.2.4. Trình tự, thủ tục bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp của hộ
gia đình, cá nhân
Trình tự, thủ tục bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất theo Luật Đất đai năm
2013 được quy định tại Điều 69 và được hướng dẫn cụ thể tại một số văn bản như:
Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/05/2014; Nghị định số 47/2014/NĐ-CP ngày
15/05/2014 và Thông tư 37/2014/TT-BTNMT ngày 30/06/2014. Theo đó, trình tự,
33
thủ tục bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp của HGĐ, cá nhân được
quy định có 6 bước là:
Bước 1: Xây dựng phương án bồi thường
Sau khi dự án đầu tư theo quy định của Điều 61, Điều 62 Luật Đất đai năm
2013 được xét duyệt hoặc chấp nhận, tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải phóng
mặt bằng bao gồm tổ chức dịch vụ công về đất đai, Hội đồng bồi thường có trách
nhiệm lập phương án và trình phương án về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất
nông nghiệp. Căn cứ quy mô thu hồi đất để thực hiện dự án đầu tư, cơ quan có thẩm
quyền phê duyệt dự án đầu tư có thể quyết định tách nội dung bồi thường thành tiểu
dự án riêng và tổ chức độc lập. Đặc biệt, đối với dự án đầu tư do Quốc hội quyết
định chủ trương đầu tư, Thủ tướng Chính phủ chấp thuận chủ trương đầu tư thì Bộ
ngành có dự án đầu tư có trách nhiệm chủ trì, phối hợp với UBND cấp tỉnh nơi có
đất thu hồi xây dựng khung chính sách về bồi thường trình Chính phủ xem xét
quyết định và phải đảm bảo kinh phí cho việc bồi thường theo quy định.
Tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng có trách nhiệm lập
phương án bồi thường đối với từng tổ chức, HGĐ, CN bị thu hồi đất, trên cơ sở
tổng hợp số liệu kiểm kê, xử lý các thông tin liên quan của từng trường hợp, áp giá
tính giá trị bồi thường về đất, tài sản trên đất.
UBND cấp xã có nhiệm vụ phối hợp với tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường,
giải phóng mặt bằng triển khai thực hiện kế hoạch thu hồi đất, điều tra, khảo sát, đo
đạc, kiểm đếm. HGD, CN có nhiệm vụ phối hợp với tổ chức làm nhiệm vụ bồi
thường, giải phóng mặt bằng thực hiện việc điều tra, khảo sát, đo đạc, xác định diện
tích đất, thống kê nhà ở, tài sản khác gắn liền với đất để lập phương án bồi thường.
Trường hợp người sử dụng đất không phối hợp, UBND cấp xã nơi có đất bị thu hồi
và tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng tổ chức vận động, thuyết
phục.
Trong thời gian 10 ngày kể từ ngày được vận động, thuyết phục mà người sử
dụng đất vẫn không phối hợp thì Chủ tịch UBND cấp huyện ban hành quyết định
kiểm đếm bắt buộc. HGĐ, CN có trách nhiệm thực hiện quyết định kiểm đếm bắt
34
buộc. Trường hợp HGĐ, CN không chấp hành thì Chủ tịch UBND cấp huyện ban
hành quyết định cưỡng chế thực hiện quyết định kiểm đếm bắt buộc theo quy định
của Điều 70 Luật Đất đai năm 2013.
Bước 2: Lấy ý kiến về phương án bồi thường
Sau khi phương án chi tiết được lập, tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải
phóng mặt bằng có nhiệm vụ phối hợp với UBND cấp xã nơi có đất bị thu hồi tổ
chức lấy ý kiến của nhân dân, đặc biệt là HGĐ, CN có đất bị thu hồi. Hình thức lấy
ý kiến là họp trực tiếp với người dân trong khu vực có đất thu hồi, đồng thời niêm
yết công khai phương án bồi thường tại trụ sở UBND cấp xã, địa điểm sinh hoạt
chung khu dân cư nơi có đất bị thu hồi.
Việc lấy ý kiến phải được lập thành biên bản, có xác nhận của đại diện
UBND cấp xã, đại diện Ủy ban Mặt trận tổ quốc Việt Nam cấp xã, đại diện những
người có đất bị thu hồi. Tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng có
nhiệm vụ tổng hợp ý kiến bằng văn bản ghi rõ số lượng ý kiến đồng ý, số lượng ý
kiến không đồng ý, số lượng ý kiến khác đối với phương án bồi thường và phối hợp
với UBND cấp xã tổ chức đối thoại đối với trường hợp có ý kiến không đồng ý để
hoàn thiện phương án trình cơ quan có thẩm quyền.
Bước 3: Hoàn chỉnh phương án bồi thường
Trên cơ sở ý kiến của HGĐ, CN có đất bị thu hồi, đại diện chính quyền đoàn
thể ở cơ sở, tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng tiếp thu, hoàn
chỉnh phương án chi tiết bồi thường trình cơ quan chuyên môn thẩm định và trình
cấp có thẩm quyền phê duyệt.
Bước 4: Thẩm định, phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ
Sở Tài nguyên và Môi trường, Phòng Tài nguyên và Môi trường có trách
nhiệm chủ trì, phối hợp với các cơ quan có liên quan thực hiện thẩm định phương
án bồi thường trước khi UBND cùng cấp phê duyệt (Theo Điều 13 Thông tư
37/2014/TT-BTNMT ngày 30/6/2014). Việc quyết định thu hồi đất, phê duyệt và tổ
chức thực hiện được quy định như sau: UBND cấp có thẩm quyền quy định tài Điều
35
66 Luật Đất đai năm 2013 quyết định thu hồi đất, quyết định phê duyệt phương án
bồi thường trong cùng một ngày.
Bước 5: Công khai phương án bồi thường
Tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng có trách nhiệm phối
hợp với UBND cấp xã công khai quyết định phê duyệt phương án bồi thường tại trụ
sở UBND cấp xã và tại địa điểm sinh hoạt chung của khu dân cư nơi có đất thu hồi,
gửi quyết định bồi thường tới từng HGĐ, CN có đất bị thu hồi, trong đó ghi rõ về
mức bồi thường, thời gian, địa điểm trả tiền bồi thường và thời gian bàn giao đất thu
hồi cho tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng.
Bước 6: Thực hiện bồi thường
Tổ chức thực hiện bồi thường theo phương án bồi thường đã được phê duyệt;
trường hợp người có đất bị thu hồi không bàn giao đất cho tổ chức làm nhiệm vụ
bồi thường, giải phóng mặt bằng thì cấp xã, Ủy ban Mặt trận tổ quốc Việt Nam cấp
xã phối hợp với Tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng tổ chức
vận động, thuyết phục để người có đất bị thu hồi thực hiện, nếu họ vẫn không chấp
hành bàn giao đất thì bị cưỡng chế theo quy định Điều 71 Luật Đất đai năm 2013.
Theo quy định của Điều 93 Luật Đất đai năm 2013, trong thời hạn 30 ngày
kể từ ngày quyết định thu hồi đất của cơ quan nhà nước có thẩm quyền có hiệu lực
thi hành, cơ quan, tổ chức có trách nhiệm bồi thường phải chi trả tiền bồi thường
cho người có đất bị thu hồi. Trường hợp cơ quan, tổ chức chậm chi trả thì khi thanh
toán tiền bồi thường, ngoài tiền bồi thường theo phương án bồi thường thì người có
đất bị thu hồi còn được thanh toán thêm một khoản tiền bằng mức tiền chậm nộp
theo quy định của Luật Quản lý thuế năm 2012 tính theo số tiền chậm trả và thời
gian chậm trả. Trường hợp HGĐ, CN có đất bị thu hồi không nhận tiền bồi thường
thì tiền bồi thường được gửi vào tài khoản tạm giữ của Kho bạc nhà nước. Trường
hợp HGĐ, CN được bồi thường chưa thực hiện nghĩa vụ tài chính về đất đai với
Nhà nước thì trừ khoản tiền chưa thực hiện nghĩa vụ tài chính vào số tiền được bồi
thường để hoàn trả ngân sách nhà nước.
36
Nhìn chung, trong Luật Đất đai năm 2013, trình tự, thủ tục thu hồi đất vì mục
đích quốc phòng, an ninh, phát triển kinh tế, xã hội vì mục đích quốc gia, công cộng
được quy định chi tiết và theo hướng tăng cường hơn sự tham gia của người dân
trong việc đo đạc, kiểm đếm đất đai, tài sản gắn liền với đất và xây dựng phương án
bồi thường đồng thời cũng quy định trách nhiệm đối thoại và giải trình của cơ quan
nhà nước có thẩm quyền khi người dân chưa có ý kiến đồng thuận. Đồng thời, Luật
Đất đai năm 2013 cũng quy định rõ quy trình cưỡng chế thực hiện quyết định kiểm
điểm bắt buộc và cưỡng chế thực hiện quyết định thu hồi đất trong trường hợp có đủ
điều kiện thực hiện việc cưỡng chế theo quy định của pháp luật.
2.2.5. Giải quyết khiếu nại, tố cáo về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông
nghiệp
Khiếu nại, tố cáo là một trong những quyền cơ bản của công dân được quy
định tại Khoản 1 Điều 30 Hiến pháp năm 2013. Khiếu nại, tố cáo về thu hồi đất, bồi
thường khi Nhà nước thu hồi đất là một trong những dạng khiếu nại, tố cáo của
công dân.
Pháp luật về quản lý đất đai nói chung qua các thời kỳ đều có sự ghi nhận về
quyền khiếu nại, tố cáo của người dân. Tuy nhiên, trước khi Luật Đất đai năm 2013
được ban hành, những quy định trước đó trong Luật Đất đai năm 2003 và các văn
bản hướng dẫn thi hành đã có sự mâu thuẫn so với Luật Khiếu nại năm 2011, Luật
Tố tụng Hành chính năm 2010 như các quy định về thời hiệu khiếu nại, khiếu kiện.
Thời hạn khiếu nại về đất đai theo hướng dẫn thi hành Luật Đất đai năm 2003 đã bị
rút xuống chỉ còn 1/3 so với Luật Khiếu nại năm 2011. Không những thế, thời hiệu
khiếu nại lại được tính kể từ ngày Uỷ ban nhân dân tỉnh “ban hành quyết định hành
chính” thay vì kể từ ngày “đương sự nhận được quyết định hành chính” hoặc “biết
được quyết định hành chính, hành vi hành chính” như quy định của Luật Khiếu nại
năm 2011. Luật Đất đai năm 2013 đã quy định theo hướng áp dụng giải quyết khiếu
nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai theo pháp luật chuyên ngành.
37
2.3. Thực tiễn thực thi pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông
nghiệp của hộ gia đình, cá nhân tại thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh
2.3.1. Thực tiễn thi hành các nguyên tắc bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất
nông nghiệp của hộ gia đình, cá nhân trên địa bàn thành phố Hạ Long, tỉnh
Quảng Ninh
Về nguyên tắc Nhà nước chỉ bồi thường khi HGĐ, CN có đủ các điều kiện
theo quy định của pháp luật: Thực tiễn áp dụng nguyên tắc này tại thành phố Hạ
Long vẫn còn tồn tại nhiều trường hợp HGĐ, CN không cung cấp được các giấy tờ
chứng nhận quyền sử dụng đất nông nghiệp, dẫn đến khó khăn trong việc bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của họ.
Về nguyên tắc thứ hai, việc bồi thường của Nhà nước phải đảm bảo bồi
thường đầy đủ các thiệt hại phát sinh: Trong quá trình thu hồi đất nông nghiệp tại
thành phố Hạ Long, Trung tâm phát triển quỹ đất thành phố đã đảm bảo tính toán
đầy đủ các thiệt hại phát sinh ngoài tiền bồi thường theo giá đất như chi phí đầu tư
vào đất còn lại, thiệt hại về sản xuất, kinh doanh. Tuy nhiên việc HGĐ, CN sử dụng
đất nông nghiệp sai mục đích thì những thiệt hại đó sẽ không được bồi thường.
Về nguyên tắc bồi thường phải theo giá thị trường: Trên thực tế triển khai tại
thành phố Hạ Long, có khó khăn là người bị thu hồi đất nông nghiệp không được
nhận tiền bồi thường ngay tại thời điểm có quyết định thu hồi đất mà phải sau một
thời gian, có khi phải từ 3 – 5 năm do việc thực hiện các quy trình, thủ tục, điều này
dẫn đến những bức xúc của người dân có đất bị thu hồi.
Về nguyên tắc việc bồi thường phải đảm bảo công khai, minh bạch, dân chủ,
kịp thời và đúng quy định của pháp luật: Phương án bồi thường, giải phóng mặt
bằng được UBND các phường thông báo công khai trên các phương tiện thông tin,
đại chúng. HGĐ, CN có đất nông nghiệp bị thu hồi cũng tham gia đóng góp ý kiến
trong quá trình xây dựng và hoàn thiện phương án bồi thường.
38
2.3.2. Thực tiễn thực thi các quy định về điều kiện bồi thường khi Nhà nước thu
hồi đất nông nghiệp của hộ gia đình, cá nhân trên địa bàn thành phố Hạ Long,
tỉnh Quảng Ninh
Phạm vi bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp trên địa bàn thành
phố Hạ Long được áp dụng theo quy định của Luật Đất đai năm 2013, Nghị định
47/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2004 của Thủ tướng Chính phủ, Quyết định số
3000/2017/QĐ- ngày 02/8/2017 của UBND tỉnh Quảng Ninh, cụ thể: Nhà nước chỉ
xem xét việc bồi thường khi thu hồi đất vì mục đích quốc phòng, an ninh, phát triển
kinh tế xã hội, vì lợi ích quốc gia, công cộng.
Nhìn chung những quy định về điều kiện bồi thường khi Nhà nước thu hồi
đất nông nghiệp của hộ gia đình, cá nhân tại thành phố Hạ Long đều dựa trên tinh
thần của Luật Đất đai năm 2013 và được cụ thể hóa qua các văn bản hướng dẫn thi
hành của Chính phủ và UBND tỉnh Quảng Ninh. Theo đó, để được bồi thường khi
Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp, HGĐ, CN phải có những giấy tờ sau:
- Những giấy tờ về quyền SDĐ trước ngày 15 tháng 10 năm 1993 do cơ quan
có thẩm quyền cấp trong quá trình thực hiện chính sách đất đai của Nhà nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa, Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt
Nam và Nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
- Giấy chứng nhận quyền SDĐ tạm thời được cơ quan Nhà nước có thẩm
quyền cấp hoặc có tên trong Sổ đăng ký ruộng đất, Sổ địa chính trước ngày 15
tháng 10 năm 1993.
- Giấy tờ hợp pháp về thừa kế, tặng cho quyền SDĐ hoặc tài sản gắn liền với
đất, giấy tờ giao nhà tình nghĩa, nhà tình thương gắn liền với đất.
- Giấy tờ chuyển nhượng quyền sử dụng đất, mua bán nhà ở gắn liền với đất
ở trước ngày 15 tháng 10 năm 1993 được UBND cấp có thẩm quyền xác nhận là đã
sử dụng trước ngày 15 tháng 10 năm 1993.
- Giấy tờ thanh lý, hóa giá nhà ở gắn liền với đất ở, giấy tờ mua nhà ở thuộc
sở hữu nhà nước theo quy định của pháp luật.
39
- Giấy tờ về quyền SDĐ do cơ quan có thẩm quyền thuộc chế độ cũ cấp cho
người SDĐ...
2.3.3. Thực tiễn thực thi quy định về trình tự, thủ tục bồi thường khi Nhà nước
thu hồi đất nông nghiệp của hộ gia đình, cá nhân trên địa bàn thành phố Hạ
Long, tỉnh Quảng Ninh
Trình tư, thủ tục bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất theo Luật Đất đai năm
2013 được quy định tại Điều 69 và được ghi nhận tại một số điều của các văn bản
như Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014; Nghị định số 47/2014/NĐ-CP
ngày 15/5/2014 và Thông tư 37/2014/TT-BTNMT ngày 30/6/2014. Trình tự, thủ tục
bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp của HGĐ, CN trên địa bàn thành
phố Hạ Long dựa trên những căn cứ pháp lý nói trên và được cụ thể hóa trong Điều
28 của Quyết định số 3000/2017/QĐ- ngày 02/8/017 của Ủy ban nhân dân tỉnh
Quảng Ninh.
Về thông báo thu hồi đất
Theo đó, trước khi có quyết định thu hồi đất, chậm nhất là 90 ngày đối với
đất nông nghiệp và 180 ngày đối với đất phi nông nghiệp, thành phố Hạ Long sẽ ra
thông báo thu hồi đất theo ranh giới thu hồi đất của dự án hoặc phân kỳ dự án theo
tiến độ dự án cho HGĐ, CN có đất thu hồi biết. Trường hợp HGĐ, CN sử dụng đất
trong khu vực thu hồi đất đồng ý thu hồi đất trước thời hạn quy định thì UBND
thành phố Hạ Long sẽ xem xét quyết định thu hồi đất mà không phải chờ hết thời
hạn thông báo thu hồi đất.
Sau khi có thông báo thu hồi đất thì tổ chức, cá nhân phải giữ nguyên hiện
trạng (không được phép xây dựng nhà ở, công trình khác xây dựng trên đất, trồng
cây cối hoa màu trên đất đã có thông báo thu hồi); phối hợp với Trung tâm phát
triển quỹ đất thành phố Hạ Long thực hiện đo đạc, kiểm đếm lập phương án bồi
thường, hỗ trợ, tái định cư. Trung tâm phát triển quỹ đất thành phố Hạ Long được
thành lập theo Quyết định số 756/QĐ- ngày 27/6/2010 của UBND thành phố Hạ
Long. Trung tâm phát triển quỹ đất thành phố Hạ Long là tổ chức có chức năng tổ
chức thực hiện việc bồi thường, hỗ trợ và tái định cư, tạo quỹ đất để đấu giá quyền
40
sử dụng đất, phục vụ phát triển kinh tế - xã hội và ổn định thị trường bất động sản,
nhận chuyển nhượng quyền sử dụng, đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng các khu tái
định cư, đấu giá quyền sử dụng đất, đấu thầu các dự án có sử dụng đất; quản lý quỹ
đất đã thu hồi, đã nhận chuyển nhượng, đã tạo lập phát triển và thực hiện dịch vụ
trong lĩnh vực bồi thường, giải phóng mặt bằng.
Về căn cứ ban hành thông báo thu hồi đất gồm: Kế hoạch sử dụng đất hàng
năm của thành phố Hạ Long được phê duyệt. Trường hợp các dự án chưa có trong
kế hoạch sử dụng đất hàng năm của thành phố thì phải có ý kiến của Hội đồng nhân
dân tỉnh Quảng Ninh thông qua danh mục dự án cần thu hồi đất, trước khi thông
báo thu hồi đất; Quy hoạch chi tiết tổng mặt bằng công trình, dự án thành phố Hạ
Long phê duyệt.
Về Nội dung thông báo thu hồi đất: Nội dung thông báo thu hồi đất theo
Điều 17 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ, trong đó kế
hoạch thu hồi đất, điều tra, khảo sát, đo đạc, kiểm đếm được phê duyệt đồng thời
với thông báo thu hồi đất. Việc thông báo thu hồi đất được thực hiện 01 lần theo
phạm vi dự án hoặc theo phân kỳ đầu tư của dự án. Sau khi thông báo thu hồi đất
được gửi đến từng người có đất thu hồi trong phạm vi dự án; Trung tâm phát triển
quỹ đất thành phố Hạ Long phối hợp với các cấp phường nơi có đất bị thu hồi họp
phổ biến đến từng người trong khu vực có đất thu hồi và thông báo trên phương tiện
thông tin đại chúng, niêm yết tại trụ sở UBND phường, địa điểm sinh hoạt chung
của khu dân cư nơi có đất thu hồi. Trường hợp thông báo thu hồi đất thuộc thẩm
quyền của UBND tỉnh Quảng Ninh thì UBND thành phố Hạ Long xây dựng kế
hoạch thu hồi đất, điều tra, khảo sát, đo đạc, kiểm đếm gửi Sở Tài nguyên và Môi
trường thẩm định trình UBND tỉnh ban hành thông báo thu hồi đất.
Về thực hiện kế hoạch thu hồi đất, điều tra, khảo sát, đo đạc, kiểm đếm
Sau khi có thông báo thu hồi đất, Trung tâm phát triển quỹ đất thành phố Hạ
Long trực tiếp điều hành toàn diện các nội dung về công tác bồi thường. UBND các
phường có trách nhiệm phối hợp với Trung tâm phát triển quỹ đất và người sử dụng
đất thực hiện kế hoạch thu hồi đất, điều tra, khảo sát, đo đạc, kiểm đếm để lập
41
phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư. Trường hợp người bị thu hồi đất không
phối hợp thì UBND các phường, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc các phường nơi có đất
thu hồi và Trung tâm phát triển quỹ đất vận động, thuyết phục để người sử dụng đất
thực hiện.
Trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày được vận động, thuyết phục mà người sử
dụng đất vẫn không phối hợp thì Chủ tịch UBND thành phố Hạ Long sẽ ban hành
quyết định kiểm đếm bắt buộc. Trường hợp người có đất thu hồi không chấp hành
thì Chủ tịch UBND thành phố Hạ Long ra quyết định cưỡng chế kiểm đếm bắt buộc
và tổ chức cưỡng chế theo Điều 70 Luật Đất đai. Trung tâm phát triển quỹ đất và ủy
ban nhân dân phường vận động, thuyết phục, đối thoại với người bị cưỡng chế;
trường hợp người bị cưỡng chế chấp hành thì lập biên bản ghi nhận sự chấp hành và
thực hiện điều tra, khảo sát, đo đạc, kiểm đếm. Trường hợp người bị cưỡng chế
không chấp hành thì thi hành quyết định cưỡng chế.
Về lập phương án bồi thường
Sau khi khảo sát, đo đạc, kiểm đếm thực tế, Trung tâm phát triển quỹ đất
thành phố Hạ Long tiến hành lập phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư đối với
từng tổ chức, HGĐ cá nhân bị thu hồi đất theo các nội dung quy định tại Khoản 1
Điều 28 Nghị định số 47/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ. UBND
thành phố Hạ Long lập và thực hiện dự án tái định cư. Khu tái định cư phải đủ điều
kiện giao đất tái định cư trước khi quyết định thu hồi đất.
Về niêm yết công khai phương án bồi thường, lấy ý kiến HGĐ, CN bị thu hồi
đất
Sau khi lập phương án bồi thường, Trung tâm phát triển quỹ đất thành phố
Hạ Long phối hợp với UBND phường nơi có đất thu hồi tổ chức lấy ý kiến về
phương án bồi thường của HGĐ, CN bị thu hồi đất theo hình thức tổ chức họp trực
tiếp với người dân trong khu vực có đất thu hồi; đồng thời niêm yết công khai
phương án dự thảo bồi thường tại trụ sở UBND cấp phường, địa điểm sinh hoạt
chung của khu dân cư nơi có đất thu hồi trong thời hạn ít nhất là 20 ngày. Việc tổ
42
chức lấy ý kiến được lập thành biên bản có xác nhận của đại diện UBND phường,
Ủy ban Mặt trận Tổ quốc cấp phường và đại diện những người có đất thu hồi.
Sau khi tiến hành lấy ý kiến của người dân có đất bị thu hồi, Trung tâm phát
triển quỹ đất thành phố Hạ Long tiến hành tổng hợp ý kiến đóng góp bằng văn bản,
ghi rõ số lượng ý kiến đồng ý, không đồng ý và ý kiến khác đối với phương án bồi
thường; phối hợp với UBND phường nơi có đất thu hồi tổ chức đối thoại đối với
trường hợp còn có ý kiến không đồng ý; hoàn chỉnh phương án bồi thường và trình
lên UBND thành phố Hạ Long phê duyệt phương án bồi thường.
Về thẩm định, phê duyệt phương án bồi thường
Trên cơ sở ý kiến góp ý của HGĐ, CN có đất bị thu hồi, đại diện chính
quyền, đoàn thể ở cơ sở, Trung tâm phát triển quỹ đất thành phố Hạ Long tiếp thu,
hoàn chỉnh phương án chi tiết bồi thường và trình UBND thành phố phê duyệt.
UBND thành phố Hạ Long xem xét phương án bồi thường và ra quyết định thu hồi
đất, quyết định phê duyệt phương án bồi thường trong cùng một ngày.
Sau khi phương án bồi thường được phê duyệt, Trung tâm phát triển quỹ đất
thành phố Hạ Long có trách nhiệm phối hợp với UBND phường phổ biến và niêm
yết công khai quyết định phê duyệt phương án bồi thường tại trụ sở UBND phường
và địa điểm sinh hoạt chung của khu dân cư nơi có đất thu hồi, đồng thời gửi đến
người có đất thu hồi; xác định thời gian, địa điểm chi trả tiền bồi thường và thời
gian bàn giao đất. Trường hợp người có đất thu hồi không bàn giao đất thì UBND
phường, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc cấp phường nơi có đất thu hồi và Trung tâm phát
triển quỹ đất thành phố Hạ Long tổ chức vận động, thuyết phục. Trường hợp không
chấp hành bàn giao đất thì tổ chức cưỡng chế theo quy định tại Điều 71 của Luật
Đất đai.
Về tổ chức chi trả bồi thường
Trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày quyết định thu hồi đất có hiệu lực thi
hành cơ quan, Trung tâm phát triển quỹ đất thành phố Hạ Long phối hợp với UBND
phường, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc cấp phường chi trả tiền bồi thường, hỗ trợ cho
người có đất thu hồi. Trường hợp bồi thường chậm thì người có đất thu hồi còn
43
được trả thêm một khoản tiền bằng mức tiền chậm nộp theo quy định của Luật
Quản lý thuế, tính trên số tiền và thời gian chậm trả. Trường hợp người có đất thu
hồi không nhận tiền bồi thường, hỗ trợ thì số tiền này được gửi vào tài khoản tạm
giữ của Kho bạc nhà nước.
Người sử dụng đất được bồi thường mà chưa thực hiện nghĩa vụ tài chính về
đất đai đối với Nhà nước theo quy định của pháp luật thì phải trừ vào số tiền được
bồi thường. Khoản tiền chưa thực hiện nghĩa vụ tài chính về đất đai bao gồm tiền sử
dụng đất, tiền thuê đất phải nộp được xác định theo quy định của pháp luật về thu
tiền sử dụng đất; thu tiền thuê đất, thuê mặt nước. Trường hợp số tiền chưa thực
hiện nghĩa vụ tài chính đến thời điểm có quyết định thu hồi đất lớn hơn số tiền được
bồi thường, hỗ trợ thì HGĐ, CN tiếp tục được ghi nợ số tiền chênh lệch đó.
Trường hợp diện tích đất thu hồi đang có tranh chấp về quyền sử dụng đất
mà chưa giải quyết xong thì tiền bồi thường, hỗ trợ đối với phần diện tích đất đang
tranh chấp đó được chuyển vào Kho bạc Nhà nước chờ sau khi cơ quan nhà nước có
thẩm quyền giải quyết xong thì trả cho người có quyền sử dụng đất.
Về cưỡng chế thực hiện quyết định thu hồi đất
Trường hợp HGĐ, CN có đất bị thu hồi không bàn giao mặt bằng thì UBND
thành phố tổ chức cưỡng chế thu hồi đất (đối với cả tổ chức và hộ gia đình, cá nhân)
khi có đủ các điều kiện sau: HGĐ, CN có đất thu hồi không chấp hành quyết định
thu hồi đất sau khi Ủy ban nhân dân phường, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc phường nơi
có đất thu hồi và Trung tâm phát triển quỹ đất thành phố đã vận động, thuyết phục;
Quyết định cưỡng chế đã được niêm yết công khai tại trụ sở UBND phường, địa
điểm sinh hoạt chung của khu dân cư nơi có đất thu hồi và đã có hiệu lực thi hành;
HGĐ, CN bị cưỡng chế đã nhận được quyết định cưỡng chế. Trường hợp HGĐ, CN
bị cưỡng chế từ chối không nhận hoặc vắng mặt khi giao quyết định cưỡng chế thì
UBND phường lập biên bản.
UBND thành phố chịu trách nhiệm tổ chức thực hiện việc cưỡng chế, giải
quyết khiếu nại liên quan đến việc cưỡng chế theo quy định của pháp luật về khiếu
nại; thực hiện phương án tái định cư trước khi thực hiện cưỡng chế; bảo đảm điều
44
kiện, phương tiện cần thiết phục vụ cho việc cưỡng chế; bố trí kinh phí cưỡng chế
thu hồi đất;
Trung tâm phát triển quỹ đất thành phố có trách nhiệm lập phương án cưỡng
chế và dự toán kinh phí cho hoạt động cưỡng chế trình UBND thành phố phê duyệt;
thực hiện cưỡng chế theo phương án đã được phê duyệt; bàn giao đất cho tổ chức
làm nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng. Trường hợp trên đất thu hồi có tài
sản thì ban thực hiện cưỡng chế phải bảo quản tài sản; chi phí bảo quản tài sản đó
do chủ sở hữu chịu trách nhiệm thanh toán;
UBND phường nơi có đất thu hồi có trách nhiệm phối hợp với cơ quan, đơn
vị có liên quan tổ chức thực hiện việc giao, niêm yết công khai quyết định cưỡng
chế thu hồi đất; tham gia thực hiện cưỡng chế; phối hợp với Trung tâm phát triển
quỹ đất thành phố niêm phong, di chuyển tài sản của người bị cưỡng chế thu hồi
đất;
Kết quả đạt được
Trong giai đoạn 2013 – 2017, hàng năm trên địa bàn thành phố Hạ Long
triển khai từ 70 – 100 dự án, quy mô, diện tích đất thu hồi tăng dần lên theo từng
năm. Trong thời gian gần đây, thành phố Hạ Long đã tập trung giải phóng mặt bằng
một số dự án trọng điểm như Dự án xây dựng tuyến đường cao tốc Hạ Long – Vân
Đồn, Dự án khu hỗn hợp chung cư văn phòng, trung tâm thương mại và nhà ở kết
hợp khu mua sắm phường Bạch Đằng, thành phố Hạ Long; Dự án cải tạo, nâng cấp
Quốc lộ 18 đoạn hạ Long – Mông Dương, Dự án Dự án công viên Đại Dương;…
Các dự án khi triển khai đa phần đều liên quan đến thu hồi đất nông nghiệp. Tỷ lệ
đất nông nghiệp bị thu hồi để phục vụ cho các dự án ở thành phố Hạ Long trong
những năm qua chiếm tỷ lệ lớn trong diện tích đất phải thu hồi. Đặc biệt năm 2016
và năm 2017, tỷ lệ đất nông nghiệp bị thu hồi trong tổng diện tích đất bị thu hồi
chiếm gần 60% (Xem bảng 2.1).
45
Bảng 2.1. Thống kê về các dự án bồi thường, giải phóng mặt bằng trên địa bàn
thành phố Hạ Long giai đoạn 2013 - 2017
Chỉ tiêu ĐVT 2013 2014 2015 2016 2017
1. Tổng số dự án Dự án 68 75 89 105 103
2. Diện tích đất thu hồi ha 843,82 908,17 984,52 966,33 866,53
Diện tích đất nông % 54,9 58,7 53,6 61,4 60,6
nghiệp
Diện tích đất phi nông % 18,6 16,7 19,5 13,1 15,6
nghiệp
Diện tích đất khác % 26.5 24.6 26.9 25.5 23.8
Nguồn: Trung tâm phát triển quỹ đất thành phố Hạ Long (báo cáo kết quả
thực hiện công tác giải phóng mặt bằng năm 2013 – 2017)
Số liệu ở Bảng 2.1 cho thấy tỷ trọng đất nông nghiệp bị thu hồi tăng dần qua các
năm từ năm 2013 đến năm 2016. Tuy nhiên, đến năm 2017, tỷ trọng đất nông nghiệp bị
thu hồi đã giảm 0,8% so với năm 2016. Kết quả thực hiện bồi thường, giải phóng mặt
bằng năm 2016, 2017 tại thành phố Hạ Long được thể hiện qua Bảng 2.2.
Bảng 2.2. Kết quả thực hiện công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng tại
Trung tâm phát triển quỹ đất thành phố Hạ Long
2016 2017 Chỉ tiêu
Tổng số phương án phê duyệt trong 1.372 1.720
năm
Tổng giá trị phê duyệt trong năm 577.441.791.000 386.733.843.000
(triệu đồng)
Tổng số hộ dân, đơn vị bị ảnh hưởng 1.720 8.355
Tổng số phương án đã chi trả tiền 1.461 1.916
trong năm
Tổng số tiền đã chi trả trong năm 681.346.817.000 717.083.385.000
Nguồn: Trung tâm phát triển quỹ đất thành phố Hạ Long (báo cáo kết quả
thực hiện công tác giải phóng mặt bằng năm 2016 – 2017)
46
Từ Bảng 2.2 có thể thấy, Trung tâm phát triển quỹ đất thành phố Hạ Long đã
thực hiện tốt công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng trong năm 2016 và năm
2017 với số phương án bồi thường được phê duyệt và số phương án bồi thường đã
được chi trả trong năm là khá nhiều và có sự tăng trưởng qua các năm.
Hoạt động tuyên truyền cho người dân về thu hồi đất, bồi thường giải phóng
mặt bằng đã được các cấp chính quyền thành phố thực hiện khá tốt, nhưng sự phối
hợp giữa người dân với các cơ quan chức năng và sự phối hợp giữa các cơ quan
chức năng có lúc còn chưa chặt chẽ, dẫn đến sự chậm trễ trong quá trình nhận tiền
bồi thường và bàn giao mặt bằng các dự án. Số liệu thống kê về tiến độ thực hiện
các dự án có thu hồi đất nông nghiệp trên địa bàn thành phố Hạ Long cho thấy tỷ lệ
các dự án đúng tiến độ vẫn thấp, trong khi đó tỷ lệ các dự án chậm tiến độ vẫn còn
khá cao. Thực trạng trên xuất phát nguyên nhân như:
Thứ nhất, tiến độ lập hồ sơ, thẩm định phương án và phê duyệt phương án
bồi thường còn chậm so với yêu cầu. Thực tế trong những năm vừa qua đã có một
số dự án triển khai chậm so với kế hoạch đề ra, đặc biệt có những dự án lớn.
Thứ hai, đơn thư khiếu nại, tố cáo liên quan đến công tác bồi thường, giải
phóng mặt bằng còn nhiều, phức tạp và kéo dài không chỉ ảnh hưởng trực tiếp đến
dự án cần giải phóng mặt bằng mà còn ảnh hưởng đến an ninh, kinh tế, chính trị, xã
hội tại địa phương.
Ngoài ra, một số trường hợp phương án bồi thường chưa đầy đủ, còn phải
chỉnh sửa bổ sung nhiều lần. Một số trường hợp khác UBND phường xác định
nguồn gốc sử dụng đất chưa đầy đủ, không xác định, ghi rõ loại đất, thời gian sử
dụng nên thiếu cơ sở để thẩm định. Bên cạnh đó, hệ thống bản đồ đo đạc địa chính
còn thiếu, công tác lập, trích lục hoặc chính đo bản đồ địa chính của các dự án đầu
tư còn có sự sai khác, dẫn đến phải chỉnh sửa mất nhiều thời gian. Đây không chỉ là
vướng mắc riêng của thành phố Hạ Long mà cũng là vướng mắc chung của một số
địa phương khác.
47
Bảng 2.3. Tiến độ bồi thường, giải phóng mặt bằng khi Nhà nước thu hồi đất
nông nghiệp của hộ gia đình, cá nhân tại thành phố Hạ Long
Chỉ tiêu ĐVT 2013 2014 2015 2016 2017
Tổng số dự án bồi thường 34 36 41 47 45
- Số dự án đúng tiến độ % 47,05 52,78 46,34 48,93 53,33
-Số dự án chậm tiến độ < 1 năm % 19,72 30,55 31,70 34,04 20,00
- Số dự án chậm tiến độ 1-2 năm % 23,52 16,72 21,72 17,03 26,65
Số dự án chậm tiến độ > 2 năm % 0,03 0,00 0,24 0,00 0,02
Nguồn: Trung tâm phát triển quỹ đất thành phố Hạ Long (Báo cáo kết quả thực
thực hiện công tác giải phóng mặt bằng năm 2013 – 2017).
Từ Bảng 2.3 có thể thấy, mặc dù số dự án bồi thường, giải phóng mặt bằng đúng
tiến độ vẫn chiếm đa số nhưng tỷ trọng này vẫn chưa cao (chỉ khoảng 50% tổng số
dự án qua các năm). Trong khi đó, dù có xu hướng giảm qua các năm nhưng tỷ lệ
các dự án chậm tiến độ 1- 2 năm vẫn còn khá cao trong tổng số dự án bồi thường,
giải phóng mặt bằng khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp của hộ gia đình, cá nhân
trên địa bàn thành phố Hạ Long.
2.3.4. Cách tính thiệt hại để bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp
của hộ gia đình, cá nhân tại thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh
Về xác định giá đất bồi thường:
Giá đất cụ thể bồi thường: Về nguyên tắc và phương pháp xác định, trước
khi quyết định thu hồi đất, Trung tâm phát triển quỹ đất thành phố Hạ Long phối
hợp điều tra, khảo sát, xây dựng giá đất cụ thể bồi thường cùng thời điểm và thống
nhất về nguyên tắc và phương pháp định giá theo quy định, gửi UBND thành phố
Hạ Long và các cơ quan có thẩm quyền xem xét và phê duyệt.
Giá đất bồi thường trong bảng giá đất: Giá đất bồi thường, giá các loại đất
thuộc nhóm đất nông nghiệp tại thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh đã được
UBND tỉnh Quảng Ninh ban hành kèm theo Quyết định số 3566/2013/QĐ của
48
UBND tỉnh Quảng Ninh ngày 26/12/2013 về ban hành bảng giá các loại đất trên địa
bàn tỉnh Quảng Ninh năm 2014 (Xem Bảng 2.4).
Bảng 2.4. Đơn giá các loại đất nông nghiệp trên địa bàn thành phố hạ Long
năm 2014
STT Loại đất Giá đất khu vực
Vùng trung du Vùng miền núi
1 Đất chuyên trồng lúa nước 67.000/64.000 64.000/53.000
2 Đất trồng cây hàng năm còn lại 65.000/62.000 62.000/51.000
3 Đất trồng cây lâu năm 56.000/53.000 53.000/43.000
4 Đất rừng sản xuất 5.200/4.600 5.200/4.600
5 Đất nuôi trồng thủy sản
Đất bãi triều 1.500
Đầm ven biển 6.000
Hồ, đầm nội địa 44.000/42.000 43.000/34.000
Nguồn: Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Ninh (Quyết định số 3566/2013/QĐ-UBND,
ngày 26 tháng 12 năm 2013)
Từ Bảng 2.4 cho thấy, mức giá này đã được thay đổi và nâng lên mức giá
cao hơn so với mức giá trong thời gian dài trước đó (từ năm 2009 cho đến năm
2014) và khá cao so với mặt bằng chung của nhiều địa phương. Tuy nhiên, trong
quá trình áp dụng giá đất bồi thường vẫn có ý kiến cho rằng mức giá trên chưa sát
với mức giá thực tế trên thị trường chuyển nhượng. Mức giá đất áp dụng từng dự
án, việc bồi thường vẫn còn dựa trên các quy định chung, mà thiếu đi sự căn cứ vào
tình hình cụ thể. Căn cứ Luật đất đai 2013 (có hiệu lực 01/7/2014) UBND tỉnh
Quảng Ninh ban hành Quyết định số 3238/2014/QĐ-UBND ngày 26/12/2014 về
việc quy định giá các loại đất trên địa bàn tỉnh thực hiện từ ngày 01/01/2015 đến
31/12/2019 và đã có một số lần điều chỉnh giá các loại đất trên địa bàn tỉnh như:
Quyết định số 568/2015/QĐ ngày 27/02/2015 của UBND tỉnh Quảng Ninh về việc
49
quy định hệ số điều chỉnh giá các loại đất trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh; Quyết định
số 06/2018/QĐ ngày 30/4/2018 của UBND tỉnh Quảng Ninh về việc quy định hệ số
điều chỉnh giá các loại đất trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh;…
Sau khi xác định giá đất cụ thể trên thị trường và căn cứ vào bảng giá đất do
Ủy ban nhân dân tỉnh công bố, Trung tâm phát triển quỹ đất thành phố Hạ Long sẽ
phối hợp tham mưu trình cấp thẩm quyền phê duyệt giá đất làm cơ sở lập phương
án bồi thường cụ thể cho từng trường hợp khác nhau.
Về bồi thường chi phí đầu tư vào đất còn lại:
Trường hợp chi phí đầu tư vào đất còn lại không có hồ sơ, chứng từ chứng
minh theo quy định tại Điểm a Khoản 3 Điều 3 Nghị định số 47/2014/NĐ-CP và
Khoản 3 Điều 3 Thông tư số 37/2014/TT-BTNMT thì phải được Ủy ban nhân dân
phường xác nhận đã đầu tư vào đất. Mức bồi thường chi phí đầu tư vào đất tại thành
phố Hạ Long áp dụng như sau:
- Đối với HGĐ, cá nhân: Được bồi thường bằng 30% giá đất theo bảng giá
đất do Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Ninh quy định.
- Đối với doanh nghiệp và tổ chức: Căn cứ tình hình thực tế thành phố Hạ
Long đề xuất việc bồi thường, hỗ trợ đối với từng dự án cụ thể.
- Trường hợp đã được bồi thường về đất thì không được bồi thường chi phí
đầu tư vào đất còn lại.
Về bồi thường đối với cây trồng, vật nuôi:
Điều 27 Quyết định số 3000/2017/QĐ của UBND tỉnh Quảng Ninh quy định
rõ: Khi Nhà nước thu hồi đất mà gây thiệt hại đối với cây trồng và vật nuôi thủy sản
thì được bồi thường thiệt hại theo quy định tại Điều 90 Luật Đất đai trừ các trường
hợp sau: cây trồng, vật nuôi thủy sản tạo lập sau thời điểm công bố thông báo thu
hồi đất; các loại cây không được phép trồng trong hành lang bảo vệ an toàn các
công trình đã được công bố, cắm mốc; cây đã héo hoặc đã chết tại thời điểm kiểm
đếm.
50
Đơn giá bồi thường về cây trồng, vật nuôi thủy sản theo Quyết định số
14/2017/QĐ- ngày 19/5/2017 của UBND tỉnh Quảng Ninh. Việc phân chia tiền bồi
thường cho HGĐ, CN nhận khoán với tổ chức giao khoán trồng, quản lý, chăm sóc,
bảo vệ rừng được thực hiện theo hợp đồng giao khoán. Trường hợp không có hợp
đồng giao khoán hoặc trong hợp đồng giao khoán không xác định rõ tỷ lệ phân chia
thì căn cứ vào các quy định của pháp luật về bảo vệ và phát triển rừng tại thời điểm
giao khoán để xác định tỷ lệ phân chia cho HGĐ, CN nhận khoán với tỷ lệ cao nhất.
2.3.5. Thực trạng giải quyết khiếu nại, tố cáo về bồi thường khi Nhà nước thu hồi
đất nông nghiệp của hộ gia đình, cá nhân tại thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng
Ninh
Nhìn chung, tổ chức và cơ chế giải quyết khiếu nại, tố cáo về bồi thường khi
Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp trên địa bàn thành phố Hạ Long vẫn còn thiếu ổn
định và bất cập so với yêu cầu thực tế. Giải quyết một vụ khiếu nại đòi hỏi phải có
các bước điều tra, nghiên cứu, kết luận và thi hành kết luận, do đó cần một đội ngũ
những người am hiểu pháp luật, có nghiệp vụ chuyên sâu và làm việc chuyên trách.
Nhưng hiện nay, hầu hết cán bộ làm công tác giải quyết khiếu nại chủ yếu là kiêm
nhiệm. Chủ tịch các cấp là người chủ trì, chịu trách nhiệm chính về quyết định giải
quyết khiếu nại nhưng lại phải giải quyết rất nhiều công việc khác nhau của địa
phương nên khó có điều kiện chuyên tâm về việc này. Đây là nguyên nhân chủ yếu
dẫn đến tình trạng giải quyết khiếu nại chậm, thiếu dứt điểm, chất lượng chưa cao,
dẫn đến tình trạng khiếu kiện hoặc khiếu kiện vượt cấp.
Trong tổ chức thực hiện pháp luật về giải quyết khiếu nại, tố cáo về bồi
thường, khi Nhà nước thu hồi đất tại thành phố Hạ Long, việc tiếp dân, nhận đơn,
hướng dẫn cụ thể theo pháp luật về việc nộp đơn vẫn chưa thực hiện tốt dẫn đến
tình trạng người đi khiếu kiện lúng túng, mất nhiều thời gian, công sức. Khi phát
sinh khiếu kiện, cấp ủy, chính quyền vẫn còn chậm trong việc tập trung chỉ đạo giải
quyết kịp thời, có lúc có nơi vẫn còn hiện tượng né tránh, đùn đẩy. Có vụ việc đã có
quyết định giải quyết cuối cùng nhưng việc tổ chức thi hành quyết định chưa
nghiêm; cơ quan ra quyết định thiếu kiểm tra, đôn đốc kịp thời để giải quyết dứt
51
điểm; một số vụ việc không có tính khả thi trong tổ chức thi hành dẫn tới phát sinh
những khiếu kiện mới phức tạp hơn.
Công tác thanh tra trên địa bàn thành phố đối với các vụ việc về bồi
thường khi Nhà nước thu hồi đất chưa được thực hiện thường xuyên, còn thiếu tính
chủ động, chưa đáp ứng yêu cầu thực tiễn. Việc xử lý sau thanh tra của các cơ quan
chức năng chưa kiên quyết, triệt để, kịp thời làm hạn chế hiệu quả hoạt động thanh
tra. Việc giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo về bồi thường khi Nhà nước thu hồi
đất nông nghiệp trên địa bàn thành phố còn mang tính chủ quan, nể nang, nặng về
mệnh lệnh hành chính... Việc tổ chức thực hiện các quyết định giải quyết đã có hiệu
lực pháp luật còn thiếu kiên quyết, dẫn đến vụ việc không được giải quyết dứt điểm,
khiếu kiện kéo dài. Hình thức văn bản giải quyết một số vụ việc chưa bảo đảm theo
quy định của pháp luật như việc ban hành công văn, thông báo... để thay thế quyết
định giải quyết khiếu nại, tố cáo về đất đai.
2.3.6. Đánh giá thực tiễn thực thi pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi
đất nông nghiệp của HGĐ, cá nhân tại thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh
*/ Thành tựu
Qua những phân tích ở trên, có thể thấy việc áp dụng pháp luật về bồi thường
khi Nhà nước thu hồi đất của HGĐ, CN đã được tỉnh Quảng Ninh nói chung và
thành phố Hạ Long nói riêng dành sự quan tâm. Các văn bản hướng dẫn đã quy
định khá đầy đủ, chi tiết, đã bổ sung những quy định rất quan trong như: Quy định
giá đất bồi thường không áp dụng theo bảng giá đất mà áp dụng giá đất cụ thể do
UBND tỉnh quyết định tại thời điểm quyết định thu hồi đất, Quy định cụ thể điều
kiện được bồi thường về đất, bồi thường chi phí đầu tư vào đất còn lại, bồi thường
tài sản gắn liền với đất, bồi thường khi thu hồi đối với từng loại đất và từng đối
tượng cụ thể.
Hội đồng bồi thường thực hiện khá nghiêm túc đầy đủ, linh hoạt theo quy
định của UBND tỉnh phối hợp với Trung ương, cụ thể:
Thứ nhất, về công tác tổ chức và trình tự thực hiện: Các dự án đều thực hiện
theo quy định Nghị định số 47/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ, Quyết
52
định số 1766/2014/QĐ ngày 13/8/2014 của UBND tỉnh Quảng Ninh, Quyết định số
3000/2017/QĐ ngày 02/8/2017 của UBND tỉnh Quảng Ninh. Do tính chất và mục
đích thu hồi, đặc thù các loại đất thu hồi khác nhau nên tiến độ thực hiện cũng khác
nhau.
Thứ hai, về việc xác định đối tượng và điều kiện được bồi thường: Khi tiến
hành giải phóng mặt bằng, Hội đồng bồi thường, giải phóng mặt bằng đã xem xét
hồ sơ pháp lý, xác định nguồn gốc thửa đất, loại đất và tiến hành giải phóng mặt
bằng theo quy định của pháp luật.
Thứ ba, về giá bồi thường: Các thiệt hại về đất, các tài sản gắn liền với đất,
đã được xem xét và tính giá trị bồi thường đã phù hợp với các quy định của UBND
tỉnh Quảng Ninh và các căn cứ pháp lý về mức bồi thường giá đất và tài sản, cây
cối, hoa màu trên đất.
Thứ tư, các chính sách bồi thường ban đầu đã thể hiện sự quan tâm của chính
quyền địa phương đến đời sống sản xuất và sinh hoạt của người nông dân có đất bị
thu hồi. Đây là một điểm tiến bộ trong quy định của pháp luật nói chung và của tỉnh
Quảng Ninh nói riêng và cần được hoàn thiện hơn nữa trong thời gian tới.
*/ Hạn chế
Tuy nhiên, từ thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật về bồi thường khi
Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp của HGĐ, CN tại thành phố Hạ Long, vẫn còn
một số hạn chế như sau:
Thứ nhất, về quy trình, thủ tục: Nhìn chung, quá trình thực hiện các dự án
phải trải qua nhiều giai đoạn, liên quan đến nhiều cấp, ban ngành, kéo dài, làm ảnh
hưởng đến tiến độ thu hồi đất, bồi thường và giải phóng mặt bằng cho các dự án bị
chậm trễ. Các dự án chậm tiến độ 1 – 2 năm vẫn còn chiếm tỷ lệ khá cao, cá biệt, có
những dự án được thực hiện từ trước khi Luật Đất đai năm 2013 được ban hành
nhưng đến nay mới hoàn thành việc bồi thường, giải phóng mặt bằng.
Thứ hai, về bồi thường luôn gặp một số vướng mắc trong quá trình thực
hiện, cụ thể:
53
- Giá bồi thường vẫn còn thấp, chưa sát với giá thị trường tại thời điểm bồi
thường, Giá do UBND tỉnh Quảng Ninh công bố có thời điểm chỉ bằng 40 - 50%
giá thị trường. Mặc dù trong giai đoạn 2015 - 2019, UBND tỉnh Quảng Ninh đã có
sự điều chỉnh tăng giá đất, cùng với đó là một số văn bản điều chỉnh hệ số tính giá
đất bồi thường, song theo thực tế triển khai thì mức giá này vẫn chưa phù hợp với
thị trường. Điều đó dẫn đến vẫn còn nhiều trường hợp khiếu nại, tố cáo làm chậm
tiến độ triển khai của dự án.
- Tại thời điểm thu hồi đất thì việc bồi thường áp giá theo khung giá chung 5
năm/lần do Ủy ban nhân dân tỉnh công bố (theo Luật Đất đai năm 2013). Tuy nhiên
giá cả chuyển nhượng trên thị trường luôn có sự biến đổi. Hơn nữa, để thực hiện các
dự án thông thường theo nhiều giai đoạn và kéo dài từ năm này sang năm khác.
Điều này dễ tạo ra sự chênh lệch về giá bồi thường và giá chuyển nhượng trên thị
trường, ngoài ra còn có sự chênh lệch giữa các dự án với nhau. Đặc biệt, khi Luật
Đất đai năm 2013 bắt đầu có hiệu lực đã có sự so bì giữa các hộ dân có đất nông
nghiệp bị thu hồi trong thời gian này với các hộ dân có đất nông nghiệp bị thu hồi
trước ngày 01/7/2014.
Nguyên nhân của những hạn chế này trước hết bắt nguồn từ các quy định của
pháp luật: Các văn bản điều chỉnh về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nói
chung và đất nông nghiệp nói riêng còn thiếu sự đồng bộ, thống nhất. Khi Luật Đất
đai năm 2013 có hiệu lực một số văn bản hướng dẫn luật đã được ban hành, song
các văn bản hướng dẫn cụ thể thuộc trách nhiệm quản lý của nhiều bộ ngành vẫn
chưa được ban hành kịp thời hoặc ban hành rời rạc. Nhiều địa phương đã ban hành
các văn bản hướng dẫn nhưng còn khá bị động, mới dừng lại ở các quy định chung,
chưa cụ thể hóa được các quy định chung của pháp luật và có các quy định phù hợp
với thực tế địa phương.
Bên cạnh đó, những vướng mắc về mặt thể chế. Những quy định pháp luật
còn chưa phù hợp với thực tế hoặc chưa có những quy định thể rõ ràng thì việc
chuẩn bị phương án bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất vẫn còn những hạn chế,
chưa đầy đủ và phù hợp với thực tế khiến cho tiến độ giải phóng mặt bằng của các
dự án còn chậm. Thêm vào đó, sự phối hợp giữa các cơ quan chức năng vẫn chưa
54
thực sự chặt chẽ và việc tuyên truyền hiểu biết kiến thức pháp luật của người dân về
thu hồi đất, bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất vẫn chưa được quan tâm đúng
mức. Hơn nữa, việc chia tách, sáp nhập về địa giới hành chính dẫn đến việc quản lý
hồ sơ đất đai của các cấp còn nhiều tiếu sót.
Những quy định của UBND tỉnh Quảng Ninh nói chung và thành phố Hạ
Long nói riêng nhìn chung cũng đã đáp ứng một phần những đòi hỏi thực tế của địa
phương. Tuy nhiên, nhiều quy định vẫn còn mang tính nguyên tắc chưa phù hợp với
đặc thù của địa phương. Những phân tích kể trên là cơ sở quan trọng để tác giả
nghiên cứu đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao khả năng
thực thi pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp của HGĐ, cá
nhân tại thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh.
55
Kết luận Chương 2
Tại chương 2, khi phân tích thực trạng Pháp luật về bồi thường khi Nhà nước
thu hồi đất nông nghiệp của HGĐ, CN, luận văn đã chỉ ra những thành tựu và
những bất cập trong các quy định của Pháp luật về 5 vấn đề liên quan đến nguyên
tắc bồi thường; điều kiện bồi thường; trình tự, thủ tục bồi thường; cách tính tiền bồi
thường và giải quyết khiếu nại và khiếu tố khi Nhà nước bồi thường đất nông
nghiệp của HGĐ, CN.
Luận văn đã chỉ ra một số khó khăn khi thực thi pháp luật liên quan đến 5
nội dung trên về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp trên địa bàn
thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh, trong đó đặc biệt là khó khăn liên quan đến
việc người bị thu hồi đất nông nghiệp không được nhận tiền bồi thường ngay tại
thời điểm có quyết định thu hồi đất mà có khi có những dự án phải chờ đợi đến 2, 3
năm do thủ tục rườm rà… Điều này gây thiệt hại cho HGĐ, CN có đất nông nghiệp
bị thu hồi và cũng là nguyên nhân gia tăng khiếu nại và khiếu tố.
Luận văn nêu ra những khó khăn của cơ quan thi hành pháp luật trên địa bàn
thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh, do nguồn Pháp luật chưa có hướng dẫn cụ thể
và kịp thời cách tính tiền bồi thường theo cơ chế thị trường hiện nay.
Luận văn cũng phân tích những nỗ lực, cố gắng của thành phố Hạ Long, tỉnh
Quảng Ninh trong việc thực thi pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất
nông nghiệp của HGĐ, CN.
56
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NÂNG CAO KHẢ
NĂNG THỰC THI PHÁP LUẬT VỀ BỒI THƯỜNG KHI NHÀ NƯỚC THU
HỒI ĐẤT NÔNG NGHIỆP CỦA HỘ GIA ĐÌNH, CÁ NHÂN TRÊN ĐỊA BÀN
THÀNH PHỐ HẠ LONG, TỈNH QUẢNG NINH 3.1. Phương hướng hoàn thiện pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi
đất nông nghiệp của hộ gia đình, cá nhân
Trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lý luận về bồi thường khi Nhà nước thu
hồi đất nông nghiệp của HGĐ, CN và đánh giá thực trạng pháp luật về bồi thường
khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp, tác giả cho rằng việc hoàn thiện lĩnh vực
pháp luật này cần dựa trên những định hướng chủ yếu sau đây:
Thứ nhất, việc hoàn thiện pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất
nông nghiệp của HGĐ, CN phải căn cứ vào quan điểm, đường lối, chủ trương của
Đảng về tiếp tục đổi mới chính sách, pháp luật đất đai trong thời kỳ đẩy mạnh toàn
diện công cuộc đổi mới, tạo nền tảng để nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp
theo hướng hiện đại.
Xét về mặt lý luận, quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng là linh hồn
của pháp luật hay nói cách khác pháp luật là sự thể chế hóa quan điểm, đường lối,
chính sách của Đảng. Việc hoàn thiện pháp luật nói chung và pháp luật về bồi
thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp của HGĐ, CN nói riêng phải dựa trên
quan điểm, đường lối của Đảng về vấn đề này nhằm đảm bảo sự định hướng chính
trị trong xây dựng pháp luật.
Thứ hai, hoàn thiện pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông
nghiệp phải dựa trên nguyên tắc giải quyết hài hòa lợi ích của Nhà nước, lợi ích của
xã hội và lợi ích của HGĐ, CN bị thu hồi đất.
Khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp của HGĐ, CN sử dụng vào mục đích
quốc phòng, an ninh; lợi ích quốc gia; lợi ích công cộng và vào mục đích kinh tế
(gọi chung là các mục đích chung) đã để lại những hậu quả rất khác nhau đối với
HGĐ, CN có liên quan. Sự xung đột về lợi ích giữa các bên là điều không thể tránh
khỏi, cụ thể: HGĐ, CN bị thu hồi đất nông nghiệp không những bị thiệt hại về cây
cối, hoa màu và các tài sản khác trên đất mà còn bị mất tư liệu sản xuất, không có
57
công ăn việc làm rơi vào tình trạng đời sống gặp nhiều khó khăn; Nhà nước có được
diện tích đất nông nghiệp để sử dụng cho các mục đích chung; doanh nghiệp hoặc
chủ đầu tư có đất để sử dụng vào mục đích sản xuất - kinh doanh, thương mại
(Phạm Duy Nghĩa, 2004).
Bên cạnh đó, trong một số trường hợp, lợi ích chung của xã hội cũng chưa
được đảm bảo do việc giải phóng mặt bằng có nhiều ách tắc, nhiều dự án đầu tư
phải chờ đất do người dân nói chung và HGĐ, CN nói riêng không hợp tác, dẫn đến
tiến độ triển khai chậm hoặc dừng không thời hạn, điều đó cũng ảnh hưởng không
nhỏ đến các nhà đầu tư. Tuy nhiên, đánh giá một cách tổng thể, trong thu hồi đất
nông nghiệp, sự thiệt hại hay ảnh hưởng tiêu cực thường rơi về phía HGĐ, CN bị
thu hồi đất và dường như tác động tích cực hay lợi ích lại nằm ở phía những đối
tượng được tiếp cận đất đai (doanh nghiệp, chủ đầu tư). Sự bồi thường của Nhà
nước cho người bị mất đất nông nghiệp để sử dụng vào mục đích chung (đặc biệt là
sử dụng vào mục đích phát triển kinh tế) chỉ bù đắp một phần thiệt hại do việc thu
hồi đất gây ra nên thường không nhận được sự đồng thuận từ phía HGĐ, CN sử
dụng đất.
Vì vậy, lợi ích của HGĐ, CN có đất bị thu hồi phải được đặt ngang bằng với
lợi ích của chủ đầu tư. Phải coi quyền SDĐ không chỉ là quyền tài sản bình thường
mà còn là một loại vật quyền, tồn tại cùng với quyền sở hữu toàn dân về đất đai. Chỉ
trên một thái độ coi trọng quyền của HGĐ, CN sử dụng đất như vậy, thì Nhà nước
mới có thể có cách ứng xử phù hợp với người có đất bị thu hồi, mới không thu hồi
đất nông nghiệp một cách tùy tiện và khi buộc phải thu hồi, thì phải bồi thường một
cách thỏa đáng cho HGĐ, CN có đất bị thu hồi. Tuy nhiên cũng cần phải thấy rằng,
giá trị tăng thêm của đất được quyết định bởi ba yếu tố: Điều kiện thuận lợi do tự
nhiên mang lại; sự đầu tư.
Thứ ba, hoàn thiện pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông
nghiệp phải đặt trong mối quan hệ hữu cơ với việc hoàn thiện pháp luật đất đai nói
riêng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam nói chung.
58
Chế định bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp của HGĐ, CN là
một chế định cơ bản của pháp luật đất đai. Chế định này có mối quan hệ mật thiết
với các quy định khác của pháp luật đất đai như quy định về những trường hợp thu
hồi đất; quy định về thẩm quyền, trình tự, thủ tục thu hồi đất; quy định về giá đất
bồi thường, trình tự, thủ tục bồi thường. Vì vậy, việc hoàn thiện Pháp luật bồi
thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp của HGĐ, CN không thể tách rời với
việc hoàn thiện pháp luật đất đai nói chung; bởi lẽ, hoàn thiện chế định này mà
không đặt trong mối quan hệ với các quy định khác có liên quan của pháp luật đất
đai sẽ không đảm bảo tính thống nhất, tương thích, đồng thời sẽ tạo nên những rào
cản, khó khăn cho quá trình thực thi. Mặt khác, bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất
nông nghiệp của HGĐ, CN còn là khu vực giao thoa giữa các quy định của pháp
luật đất đai với các đạo luật khác có liên quan như: Luật Dân sự, Luật Nhà ở, Luật
Xây dựng, Luật Khiếu nại, Luật Tố cáo, Luật Tố tụng hành chính, Luật về xử lý vi
phạm hành chính, Luật Bảo vệ và phát triển rừng, Luật đầu tư và Luật doanh
nghiệp,…
Thứ tư, hoàn thiện pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông
nghiệp của HGĐ, CN phải gắn liền với việc dứt điểm hoàn thành cấp giấy chứng
nhận quyền SDĐ đi đôi với HĐH hệ thống bản đồ địa chính, hồ sơ địa chính.
Với tư cách là đại diện chủ sở hữu đối với đất đai, Nhà nước trao quyền sử
dụng đất cho người sử dụng thông qua hình thức giao đất, cho thuê đất, công nhận
quyền sử dụng đất đối với người đang sử dụng đất ổn định. Hình thức pháp lý xác
lập quyền sử dụng đất hợp pháp là việc Nhà nước cấp giấy chứng nhận chứng nhận
quyền sử dụng đất cho người sử dụng đất. Điều này có nghĩa là khi người sử dụng
đất được Nhà nước cấp chứng nhận quyền sử dụng đất; họ sẽ được pháp luật bảo hộ
quyền và lợi ích hợp pháp trong sử dụng đất đai. Để Luật Đất đai hoàn chỉnh thì
toàn bộ quỹ đất tự nhiên trên cả nước phải được lập hồ sơ ô thửa, đánh số, cấp giấy
chứng nhận, thuận lợi trong công tác quản lý Nhà nước về đất đai cũng như minh
bạch về quyền lợi kinh tế của HGĐ, CN đang sử dụng đất. Trong điều kiện người
sử dụng đất đã được cấp giấy chứng nhận quyền SDĐ thì việc tính toán bồi thường
về đất cho họ khi Nhà nước thu hồi đất sẽ trở nên thuận lợi hơn rất nhiều.
59
Thứ năm, hoàn thiện pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông
nghiệp của HGĐ, CN cần xem xét, tham khảo kinh nghiệm và thực tiễn pháp lý của
các nước trên thế giới về lĩnh vực này.
Quá trình hội nhập quốc tế sâu rộng hiện nay đặt ra yêu cầu Việt Nam phải
cam kết tuân thủ luật lệ của các tổ chức này. Muốn vậy, hệ thống pháp luật nói
chung và pháp luật đất đai nói riêng của nước ta phải tương thích với các quy tắc và
luật lệ chung của thế giới. Mặt khác, việc xây dựng và thực thi pháp luật về bồi
thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp ở nước ta dựa trên chế độ sở hữu toàn
dân về đất đai do Nhà nước đại diện chủ sở hữu trong điều kiện kinh tế thị trường là
một điều khá đặc trưng ở Việt Nam và chưa có tiền lệ trên thế giới. Hơn nữa, thực
tiễn thi hành lĩnh vực pháp luật này cho thấy đây là vấn đề rất khó khăn, phức tạp
do nó trực tiếp động chạm đến lợi ích thiết thực của các bên có liên quan. Vì vậy,
chúng ta phải từng bước xây dựng, sửa đổi và hoàn thiện nhằm đáp ứng đòi hỏi của
quá trình phát triển đất nước đặt trong bối cảnh kinh tế thị trường. Việc nghiên cứu,
tìm hiểu và tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm và thực tiễn pháp lý của các nước trên
thế giới là rất cần thiết. Điều này không chỉ giúp chúng ta lựa chọn, tiếp thu những
kinh nghiệm bổ ích để vận dụng sáng tạo vào quá trình hoàn thiện pháp luật về bồi
thường khi Nhà nước thu hồi đất và làm cho lĩnh vực này tương thích với pháp luật
của các nước, mà còn giúp nước ta tránh lặp lại những sai lầm mà các nước đã gặp
phải trong quá trình phát triển đất nước dưới tác động của toàn cầu hóa.
3.2. Kinh nghiệm của một số nước trên thế giới về bồi thường khi Nhà nước
thu hồi đất nông nghiệp của hộ gia đình, cá nhân
Để tìm hiểu kinh nghiệm nước ngoài, tác giả lựa chọn 3 nước là Trung Quốc,
Hàn Quốc và Singapore.
Lý do lựa chọn Trung Quốc vì Trung Quốc là nước có thể chế chính trị
tương đồng với Việt Nam. Vì vậy, kinh nghiệm từ Trung Quốc sẽ rất cần tham khảo
đối với Việt Nam.
Việc lựa chọn Singapore vì Singapore cũng là một nước thuộc khu vực Đông
Nam Á giống Việt Nam, cũng gia nhập WTO nhưng hiện nay Singapore được coi là
60
một nước phát triển trong khu vực Đông Nam Á. Những kinh nghiệm từ Singapore
sẽ rất cần thiết với Việt Nam trong thời gian tới.
Việc lựa chọn Hàn Quốc bởi vì Hàn Quốc cũng là một nước Châu Á giống
Việt Nam nhưng có xuất phát điểm là một nước tư sản, dựa trên nền tảng sở hữu tư
nhân về đất đai. Vì vậy, kinh nghiệm từ Hàn Quốc cũng rất hữu ích cho Việt Nam.
3.2.1. Kinh nghiệm từ Trung Quốc
Việt Nam và Trung Quốc là hai nước láng giềng gần nhau, có nhiều nét
tương đồng về chính trị và văn hóa. Về chế độ sở hữu và sử dụng đất, Trung Quốc
có chế độ sở hữu toàn dân và chế độ sở hữu tập thể. Theo quy định của luật quản lý
Nhà nước về đất đai Trung Quốc năm 1998 thì Nhà nước trao quyền sử dụng đất
cho tổ chức, cá nhân theo hình thức là cấp đất, xuất nhượng đất, cho thuê đất. Nhà
nước giao đất cho các đối tượng theo những thời hạn nhất định, tùy vào thời hạn cụ
thể. Trong trường hợp cần thu hồi đất vì mục đích quốc gia, lợi ích công cộng thì
Nhà nước có chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư cho người có đất bị thu
hồi.
Tại Trung Quốc, thẩm quyền thu hồi đất thuộc về Quốc vụ viện và Chính
quyền tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Quốc vụ viện có thẩm quyền thu hồi
đất nông nghiệp có diện tích từ 35ha trở lên và 70ha trở lên với các loại đất khác.
Còn dưới hạn mức này thì thẩm quyền thuộc về Chính quyền tỉnh hoặc thành phố
trực thuộc Trung ương.
Về trách nhiệm bồi thường, theo quy định của pháp luật Trung Quốc thì
người nào sử dụng đất thì người đó có trách nhiệm bồi thường. Tiền bồi thường bao
gồm: lệ phí sử dụng đất nộp cho Nhà nước và các khoản tiền trả cho người có đất bị
thu hồi.
Về nguyên tắc bồi thường, pháp luật Trung Quốc quy định khoản tiền bồi
thường cho giải phóng mặt bằng phải đảm bảo cho người có đất bị thu hồi những
điều kiện bằng hoặc cao hơn điều kiện sống trước đó của họ (Nguyễn Quang Tuyến,
Nguyễn Ngọc Minh, 2010).
61
Nhìn chung, ở Trung Quốc Nhà nước đã dành sự quan tâm đáng kể đến
người dân có đất nông nghiệp bị thu hồi, đảm bảo cho họ được hưởng những thành
quả từ quá trình CNH, đô thị hóa.
3.2.2. Kinh nghiệm từ Hàn Quốc
Tại Hàn Quốc, đất đai thuộc sở hữu tư nhân. Tuy vậy, căn cứ vào Luật các
trường hợp thu hồi đất năm 1962, Luật các trường hợp đặc biệt thu hồi đất vì mục
đích công và bồi thường thiệt hại năm 1975; Luật thu hồi đất cho các dự án công và
bồi thường năm 2000; Đạo luật thu hồi đất cho các công trình công cộng năm 2009,
Nhà nước vẫn có quyền thu hồi đất và có trách nhiệm bồi thường.
Ở Hàn Quốc, việc bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất được thực hiện theo
phương thức tham vấn và cưỡng chế. Hình thức tham vấn được thực hiện khi các cơ
quan công quyền thỏa thuận với người bị thu hồi đất về phương án, cách thức bồi
thường. Trong trường hợp tham vấn không đạt được kết quả, Nhà nước sử dụng đến
hình thức cưỡng chế.
Về nguyên tắc bồi thường, khi Nhà nước thu hồi đất cần phải tuân thủ các
nguyên tắc sau: Thứ nhất, Nhà nước thu hồi đất việc bồi thường sẽ do chủ dự án
thực hiện; Thứ hai, phải bồi thường cho chủ đất trước khi thực hiện dự án; Thứ ba,
bồi thường cho chủ đất bằng tiền mặt; Thứ tư, thực hiện bồi thường đất cho từng cá
nhân; Thứ năm, thực hiện bồi thường trọn gói.
Về thời điểm xác định giá bồi thường, trường hợp thu hồi đất thông qua hình
thức tham vấn thì thời điểm xác định giá bồi thường là thời điểm các bên đạt được
sự đồng thuận về phương án bồi thường. Trường hợp thu hồi đất thông qua hình
thức cưỡng chế thì thời điểm xác định giá đất bồi thường là thời điểm cơ quan nhà
nước ra quyết định cưỡng chế.
Về xác định mức giá bồi thường, việc này không do chủ đầu tư dự án quyết
định mà được thực hiện bởi cơ quan định giá đất. Đây là các tổ chức tư vấn về giá
đất hoạt động độc lập theo hình thức doanh nghiệp (thường là công ty cổ phần) có
các chức năng về tư vấn đất đai (Phương Thảo, 2013).
62
Như vậy, mặc dù Hàn Quốc có chế độ sở hữu tư nhân về đất đai nhưng trong
trường hợp cần thiết đất đai vẫn được Nhà nước thu hồi. Tuy vậy, Nhà nước luôn
đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của người có đất bị thu hồi và có nhiều chính
sách hỗ trợ để họ ổn định cuộc sống.
3.2.3. Kinh nghiệm từ Singapore
Singapore vừa có chế độ sở hữu nhà nước, vừa có chế độ sở hữu tư nhân về
đất đai. Đất nông nghiệp ở Singapore chỉ chiếm khoảng 2% tổng diện tích đất tự
nhiên, vì thế việc thu hồi đất nông nghiệp để chuyển sang mục đích khác là không
đáng kể.
Ở Singapore, Nhà nước có thẩm quyền thu hồi đất và người dân có trách
nhiệm chấp hành quyết định thu hồi đất của Nhà nước. Nhưng việc thu hồi đất phải
tuân thủ các nguyên tắc nhất định, không tùy tiện. Trường hợp người bị thu hồi đất
không thực hiện quyết định thu hồi đất thì sẽ bị cưỡng chế thu hồi hoặc bị phạt theo
quy định của pháp luật.
Trong chính sách bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất của Singapore, mức
bồi thường thực tế được áp dụng là giá trị hiện tại của bất động sản của chủ sở hữu.
Trong quá trình bồi thường, Nhà nước cũng có chính sách hỗ trợ tối đa về thiệt hại,
tạo công ăn việc làm cho người nông dân sau khi bị thu hồi đất. Người dân có
quyền chuyển nhượng đất nhưng phải thông qua Nhà nước chứ không được chuyển
nhượng trực tiếp cho chủ đầu tư dự án. Một trong những điểm nổi bật về chính sách
bồi thường của Singapore đó là việc người dân có quyền khiếu nại về giá trị bồi
thường và có một cơ quan có thẩm quyền quyết định về vấn đề này. Trong trường
hợp không đồng ý với giá bồi thường thì người dân có quyền khiếu nại ra Toà án
thượng thẩm (Nguyễn Quang Tuyến, Nguyễn Ngọc Minh, 2010).
Qua những phân tích kể trên của Trung Quốc, Hàn Quốc và Singapore, ta có
thể rút ra một số kinh nghiệm để Việt Nam hoàn thiện chế định bồi thường khi Nhà
nước thu hồi đất nông nghiệp như sau:
Cần phải gắn quyền lợi với trách nhiệm của người sử dụng đất. Điều này có
nghĩa là người nào sử dụng đất thì người đó có trách nhiệm bồi thường để có sự
63
công bằng trong việc thu hồi đất. Bên cạnh đó, khi quy định về số tiền bồi thường,
Luật Đất đai của Việt Nam nên quy định rõ hai khoản tiền: lệ phí sử dụng đất phải
nộp cho Nhà nước và các khoản phải trả cho người có đất bị thu hồi. Đây là quy
định mà Trung Quốc đã áp dụng từ lâu và khá hiệu quả.
Ngoài ra, khi thực hiện công tác bồi thường cần chú trọng đến việc giải quyết
các vấn đề xã hội trong thu hồi đất nông nghiệp. Ví dụ như trợ cấp cho nông dân,
hay giải quyết vấn đề về việc làm cho người nông dân.
3.3. Các giải pháp cụ thể
3.3.1. Nhóm giải pháp về hoàn thiện pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu
hồi đất nông nghiệp của hộ gia đình, cá nhân
3.3.1.1. Bổ sung quy định về thời điểm tính giá bồi thường đất theo thời điểm
bồi thường trên thực tế
Quy định thời điểm tính giá bồi thường là thời điểm có quyết định thu hồi đất
là chưa hợp lý và chưa phù hợp với thực tế, vì các lý do sau đây:
Một là, trong việc bồi thường, giải phóng mặt bằng, đa số các khiếu nại của
người dân liên quan đến mức giá đất bồi thường. Theo quy định hiện hành, người
dân được bồi thường theo phương án do cơ quan nhà nước phê duyệt khi có quyết
định thu hồi đất. Tuy nhiên, từ lúc có quyết định thu hồi đất cho đến khi cơ quan
chức năng hoàn thành thủ tục để người dân nhận tiền bồi thường kéo dài trong một
khoảng thời gian, thậm chí có khi là 3 năm hoặc 5 năm. Khi đó, giá đất tại thời điểm
nhận tiền bồi thường đã khác xa so với giá đất tại thời điểm có quyết định thu hồi
đất. Vì vậy, người bị thu hồi đất luôn chịu thiệt thòi. Trong những năm đó, giá đất
và cả chính sách bồi thường về đất đai đã thay đổi, đồng tiền giảm giá trị, cơ hội
đầu tư kinh doanh hay có nhà ở của người dân cũng bị mất.
Hai là, việc thu hồi đất nông nghiệp chuyển sang sử dụng vào mục đích phi
nông nghiệp (đặc biệt là xây dựng các khu đô thị, xây dựng khu nhà ở thương mại);
người bị thu hồi đất chỉ được bồi thường theo giá đất nông nghiệp (thông thường
giá đất này rất thấp chỉ vài chục ngàn đến vài trăm ngàn đồng/m2). Sau đó, diện tích
đất này được giao cho các công ty kinh doanh xây dựng nhà ở. Họ tiến hành san lấp
nền và xây dựng nhà ở để bán. Mỗi m2 đất lúc này có giá trị lên đến vài triệu hoặc
64
vài chục triệu đồng. Sự chênh lệch về địa tô được tạo ra từ sự thay đổi mục đích sử
dụng đất không được điều tiết vào ngân sách nhà nước mà rơi vào túi của chủ đầu
tư và làm cho họ giàu lên một cách nhanh chóng. Điều này góp phần làm gia tăng
khoảng cách giàu - nghèo trong xã hội.
Để khắc phục những bất cập trên, cần sửa đổi quy định về vấn đề này theo
hướng sau đây: Quy định việc tính giá bồi thường theo thời điểm trả tiền bồi thường
trên thực tế. Khi thu hồi đất để thực hiện các dự án đầu tư, Nhà nước cần phải dự
liệu được lợi ích sẽ thu được để thực hiện bồi thường cho hợp lý và công bằng
(tránh tình trạng lợi ích chỉ thuộc về các nhà đầu tư, còn người dân bị mất đất lại
không được hưởng lợi ích của sự phát triển đó), như thực hiện chính sách thuế đối
với doanh nghiệp, điều tiết nguồn lợi thu được cho người bị thu hồi đất thông qua
mức bồi thường và hỗ trợ thỏa đáng.
3.3.1.2. Xây dựng cơ chế xác định giá đất bồi thường hợp lý hơn khi Nhà nước
thu hồi đất nông nghiệp của hộ gia đình, cá nhân
Đất nông nghiệp là nguồn sống của người nông dân là HGĐ, CN khi thu hồi
đất nông nghiệp, mức giá đất dùng làm cơ sở để chi trả bồi thường lại có sự chênh
lệch khá lớn giữa các địa phương và giữa mức giá do Nhà nước quy định với mức
giá thực tế trên thị trường bất động sản dẫn đến việc người dân không đồng ý giao
mặt bằng. Do đó cần có những quy định về xác định giá đất bồi thường hợp lý hơn.
Luật Đất đai năm 2013 đã có những quy định nhằm khắc phục những hạn
chế nói trên như việc quy định xác định hai loại giá đất theo bảng giá đất và theo giá
đất cụ thể đồng thời quy định nguyên tắc “xác định giá đất sát với giá thị trường” đã
được thay bằng nguyên tắc “xác định giá đất phù hợp với giá đất phổ biến trên thị
trường”, tuy nhiên xác định giá đất cụ thể như thế nào, từ thời điểm xác định giá đất
đến khi người dân nhận được tiền bồi thường trong khoảng thời gian bao lâu để đảm
bảo giá đất bồi thường được chính xác, phù hợp với thực tế. Điều này liên quan đến
quy định, tổ chức xác định giá đất đòi hỏi pháp luật phải có những quy định rõ ràng,
cụ thể hơn.
Bên cạnh đó, nước ta vẫn chưa có cơ quan chuyên trách định giá đất ở cấp
trung ương cũng như ở các địa phương nên rất khó theo dõi sát, nắm bắt kịp thời
65
những diễn biến của giá đất trong quá trình biến động của thị trường. Pháp luật đất
đai quy định Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh vừa là cơ quan có thẩm quyền thu hồi đất
vừa là cơ quan xây dựng khung giá đất làm căn cứ để tính bồi thường cho các đối
tượng mà mình ra quyết định thu hồi đất. Đây là điều không hợp lý vì nó tạo ra tình
trạng thiếu công bằng trong thực thi pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi
đất.
Từ những lý do nêu trên, tác giả đề xuất kiến nghị sau đây:
Thứ nhất, Nhà nước cần xây dựng cơ chế đồng bộ, thống nhất về đào tạo, bồi
dưỡng trình độ chuyên môn và nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ định giá đất đi đôi với
việc thành lập những tổ chức tư vấn, định giá đất chuyên nghiệp. Cần xác lập một
cơ chế pháp lý rõ ràng cho một nghề nghiệp mới là định giá đất đai - bất động sản ở
nước ta, để chuyên nghiệp hóa hoạt động định giá bất động sản; đào tạo có chất
lượng (cả chuyên môn và đạo đức nghề nghiệp) cho đội ngũ các nhà định giá đất đai
- bất động sản một cách bài bản về tất cả các vấn đề có liên quan đến định giá, đồng
thời cấp chứng chỉ hành nghề cho các nhà định giá đất.
Thứ hai, pháp luật trong thời gian tới cần có quy định cụ thể, rõ ràng và chi
tiết việc giải quyết trong trường hợp có sự phát sinh chênh lệch giữa giá bồi thường
tại thời điểm phê duyệt với giá bồi thường tại thời điểm chi trả tiền bồi thường cho
dân. Theo đó, cần phân biệt rõ các trường hợp cụ thể và nguyên nhân của sự chênh
lệch đó xuất phát từ đâu để quy trách nhiệm tương ứng cho từng trường hợp, tránh
tình trạng tất cả đều quy về trách nhiệm cho nhà đầu tư (đối với các dự án vì mục
tiêu phát triển kinh tế).
3.3.1.3. Cần bổ sung, chỉnh sửa để hoàn thiện các quy định về trình tự, thủ tục
thu hồi và bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp
Đối với giải pháp này, tác giả đề xuất 3 kiến nghị sau đây:
Thứ nhất, cần quy định chặt chẽ hơn đối với diện tích đất nông nghiệp Nhà
nước thu hồi
Hiện nay tốc độ chuyển đất nông nghiệp sang đất phi nông nghiệp để thực
hiện các dự án là rất đáng báo động, chúng ta đã lãng phí đất nông nghiệp quá
66
nhiều. Là một nước đông dân và có tốc độ tăng dân số nhanh, với hơn 70% dân số
làm nghề nông; Việt Nam cần phải xác định rõ vai trò của đất nông nghiệp trong
việc bảo đảm vấn đề an ninh lương thực quốc gia. Vì vậy, cần phải quy định những
điều kiện chặt chẽ cho diện tích đất nông nghiệp bị thu hồi ngay từ bước đầu khi
giới thiệu địa điểm thực hiện dự án, phải nhận thức sâu sắc rằng, muốn cho nông
nghiệp nước ta phát triển bền vững thì trong thời kỳ CNH đừng để mất quá nhiều
đất nông nghiệp, đặc biệt là đất trồng lúa, hơn thế nữa còn bảo vệ thành quả dựng
nước và giữ nước mà cha ông ta từ bao đời vun đắp, hãy đừng để thế hệ mai sau
phải trả giá quá lớn vì những sai lầm, hời hợt của quá trình phát triển hôm nay.
Khi quy hoạch đất nông nghiệp, đặc biệt là đất lúa để chuyển sang sử dụng
vào mục đích khác, cần phải có những nguyên tắc quán triệt như hạn chế tối đa việc
chuyển đất chuyên trồng lúa sang mục đích khác và phải tận dụng những loại đất
không sử dụng được cho mục đích nông nghiệp hoặc sử dụng không hiệu quả để lấy
đất cho các dự án. Dù rằng hiện nay trong Nghị định 42/2012/NĐ-CP của Chính
phủ về quản lý, sử dụng đất trồng lúa đã ghi nhận một số nguyên tắc như hạn chế tối
đa việc chuyển đất chuyên trồng lúa nước sang sử dụng vào mục đích phi nông
nghiệp; hay khi lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, chỉ cho phép chuyển đất
chuyên trồng lúa nước sang sử dụng vào các mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích
quốc gia, lợi ích công cộng và phải được cơ quan nhà nước có thẩm quyền xét
duyệt. Tuy nhiên, chưa xác định rõ trách nhiệm pháp lý của các cơ quan nhà nước
hay tổ chức, cá nhân vi phạm vấn đề này thì sẽ như thế nào. Mặt khác, những quy
định này cần phải được ghi nhận đồng bộ trong Luật Đất đai, trong những văn bản
hướng dẫn thi hành về trình tự, thủ tục thu hồi đất. Có như vậy những nguyên tắc
này mới có giá trị pháp lý cao và thực sự đi vào đời sống.
Ngoài ra, về việc Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền sẽ thông báo thu hồi
đất ngay sau khi giới thiệu địa điểm đầu tư. Người viết cho rằng, việc trao đổi, bàn
bạc giữa Nhà nước, người sử dụng đất và chủ đầu tư là việc làm cần thiết và phải
được thực hiện từ lúc quyết định thu hồi đất, chính vì vậy, vấn đề này phải được ghi
nhận bằng quy định pháp luật trong trình tự, thủ tục thu hồi đất. Điều đó thể hiện sự
tôn trọng và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người có đất bị thu hồi. Có như vậy
67
mới tạo được sự đồng thuận cao khi thu hồi đất, giải phóng mặt bằng. Không những
thế, việc làm này sẽ giúp cơ quan nhà nước có thẩm quyền nâng cao ý thức trách
nhiệm, cân nhắc kỹ càng giữa cái được và cái mất trước khi phê duyệt các dự án,
xem xét tính khả thi của các dự án, cũng như đánh giá được tác động của việc sử
dụng đất làm dự án đến môi trường và xã hội, để từ đó cẩn trọng hơn trong việc thu
hồi đất của nông dân; đồng thời thực hiện một cách nghiêm túc việc công khai hóa
các quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất. Chính vì vậy, trong những quy định về trình
tự, thủ tục thu hồi và bồi thường, nên có những quy định về việc lấy ý kiến của
người dân có đất bị thu hồi ngay ở Bước 1 của quá trình thực hiện.
Thứ hai, trong những trường hợp thật sự cần thiết phải điều chỉnh, bổ sung
quy hoạch sử dụng đất như việc điều chỉnh để tăng diện tích cây xanh, không gian
công cộng, trường học thì cần phải tuân thủ các nguyên tắc, các quy chuẩn, tiêu
chuẩn về quy hoạch đất đai, quy hoạch xây dựng. Vì vậy việc điều chỉnh, bổ sung
quy hoạch sử dụng đất chi tiết trong quá trình thực hiện dự án cần phải được quy
định chặt chẽ, có tiêu chí rõ ràng cho phép những trường hợp chủ đầu tư có thể xin
điều chỉnh, bổ sung quy hoạch sử dụng đất so với dự án đã được phê duyệt lúc ban
đầu, điều này chưa được thể hiện trong các quy định pháp luật hiện nay. Thực tế đã
chứng minh vấn đề này nếu không được quy định rõ ràng và giám sát chặt chẽ thì sẽ
gây nên những hậu quả khó lường.
Thứ ba, về cơ chế chuyển dịch đất đai, với hai cơ chế chuyển dịch đất đai bắt
buộc và tự nguyện như hiện nay, việc thực hiện cơ chế nào cũng có những ưu,
nhược điểm, đặc biệt là với mặt trái của nó, cần xem xét để có giải pháp hoàn thiện.
Với cơ chế chuyển dịch đất đai bắt buộc - đó là việc dựa trên một quyết định hành
chính của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền để thu hồi đất nông nghiệp của người
đang sử dụng giao cho nhà đầu tư để thực hiện dự án, người bị Nhà nước lấy đất
được bồi thường về đất và tài sản gắn liền. Các địa phương hay dựa vào quyền lực
hành chính, thông báo quyết định đến dân như một mệnh lệnh, tạo nên sự không
đồng thuận.
68
3.3.1.4. Hoàn thiện các quy định của pháp luật về giải quyết khiếu nại, tố cáo
về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp của hộ gia đình, cá nhân
Trong pháp luật Việt Nam, có sự khác biệt về thời hiệu khiếu nại trong Luật
Khiếu nại với Luật Đất đai và các văn bản hướng dẫn thi hành. Cần thống nhất các
văn bản quy phạm pháp luật theo hướng Luật Khiếu nại phải được tôn trọng. Đây là
đạo luật tiến bộ thể chế hóa Điều 74 Hiến pháp năm 1992 và hiện nay là điều 30,
Hiến pháp năm 2013, ghi nhận các quyền năng của chủ thể chịu sự quản lý, vốn
được coi là chủ thể cần được bảo vệ. Hơn nữa, nếu đã pháp điển hóa một Luật
Khiếu nại dành cho quản lý hành chính nhà nước thì các đạo luật và các văn bản
dưới luật khác nên tôn trọng quy chuẩn chung về khiếu nại này. Nếu đạo luật nào
cũng đặt ra ngoại lệ cho riêng mình và sử dụng Luật Khiếu nại, tố cáo như một đạo
luật phòng hộ khi không có quy định, thì hệ thống pháp luật chắc chắn sẽ mâu
thuẫn, chồng chéo và Luật Khiếu nại, tố cáo trong một chừng mực nhất định sẽ bị
vô hiệu hóa.
Để khắc phục tồn tại này, Luật Đất đai năm 2013 ra đời đã khẳng định việc
giải quyết khiếu nại trong lĩnh vực đất đai được thực hiện theo quy định chung của
pháp luật về khiếu nại. Điều này đã tạo nên sự nhất quán và đảm bảo pháp chế trong
thực thi pháp luật về vấn đề này. Tuy nhiên, trong Nghị định số 43/2014/NĐ-CP
ngày 15/5/2014 về Hướng dẫn chi tiết thi hành một số điều của Luật Đất đai lại cụ
thể hóa những quy định mang tính nguyên tắc trong luật về khiếu nại, đồng thời quy
định rõ về thời hiệu khiếu nại, khiếu kiện cho phù hợp với các văn bản pháp luật có
liên quan, để đảm bảo tổ chức thực thi có hiệu quả trên thực tế vấn đề này.
Thời gian tới, pháp luật cần quy định quyền khiếu nại, tố cáo của người dân
được thực hiện ở tất cả các công đoạn của quá trình thu hồi đất; Đồng thời, cũng cần
quy định việc giải quyết khiếu nại ở giai đoạn nào thì phải được giải quyết dứt điểm
ngay ở giai đoạn đó theo đúng thời hạn luật định. Làm như vậy, một mặt vừa bảo
đảm quyền khiếu nại của công dân được tôn trọng, mặt khác cũng nâng cao ý thức
trách nhiệm của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong việc tổ chức thực thi
nhiệm vụ của mình, đồng thời đảm bảo tính minh bạch, công khai và sự tôn nghiêm
của pháp luật trong thực tiễn áp dụng. Ngoài ra, việc giải quyết các bức xúc, khiếu
69
nại của người bị thiệt hại do việc thu hồi đất gây ra phải được quan tâm giải quyết
đúng và kịp thời, có cơ sở pháp lý rõ ràng. Nên chăng nhà đầu tư dự án cũng phải
cung cấp những chi phí để trợ giúp, hướng dẫn người bị thiệt hại thực hiện quyền
khiếu nại của mình, việc trợ giúp này sẽ giúp làm giảm đi lượng bức xúc, khiếu kiện
của người bị thu hồi đất.
3.3.2. Nhóm giải pháp nâng cao khả năng thực thi pháp luật về bồi thường khi
Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp của hộ gia đình, cá nhân tại thành phố Hạ
Long, tỉnh Quảng Ninh
Ban hành một hệ thống pháp luật đồng bộ, hoàn chỉnh, điều chỉnh có hiệu
quả các quan hệ đất đai đã là điều không dễ, song việc tổ chức thực thi trên thực tế
một cách nghiêm minh, khách quan và minh bạch là một công việc còn khó hơn
nhiều. Để có thể nâng cao khả năng thực thi pháp luật trong lĩnh vực bồi thường,
Nhà nước và chính quyền tỉnh Quảng Ninh nói chung và thành phố Hạ Long nói
riêng cần tập trung vào một số giải pháp cơ bản sau:
3.3.2.1. Chính quyền tỉnh Quảng Ninh cần đẩy mạnh việc công khai hóa, minh
bạch hóa quá trình thực thi pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông
nghiệp
Thực tiễn thi hành pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông
nghiệp tại thành phố Hạ Long cho thấy rằng, trong nhiều trường hợp, nguyên nhân
chủ yếu phát sinh các tranh chấp, khiếu kiện về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất
nông nghiệp là do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền chưa công khai, minh bạch nên
không nhận được sự đồng thuận của người dân. Vì vậy, cần lưu ý rằng, minh bạch,
công khai về bồi thường phải đảm bảo ở tất cả các khâu, các công đoạn của quá
trình thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ và giải phóng mặt bằng:
- Minh bạch, công khai về quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, đặc biệt là kế
hoạch sử dụng đất chi tiết hàng năm thông qua việc công bố và niêm yết rộng rãi
theo đúng quy định của pháp luật để người dân được biết, được tìm hiểu và được
kiểm chứng;
70
- Minh bạch, công khai việc sửa đổi, bổ sung và điều chỉnh quy hoạch, kế
hoạch sử dụng đất để người dân được theo dõi và chủ động trong việc sử dụng đất
của mình;
- Minh bạch, công khai về việc thu hồi đất, bao gồm: diện tích bị thu hồi,
phạm vi, ranh giới bị thu hồi, đối tượng thuộc diện thu hồi, mục đích của việc thu
hồi, thời gian và kế hoạch di chuyển; công khai các dự án đầu tư, chủ đầu tư thực
hiện trong phạm vi đất thu hồi; tiến độ thực hiện dự án;
- Minh bạch, công khai dự thảo về bồi thường, hỗ trợ để người dân bị thu hồi
đất được biết và tham gia đóng góp ý kiến;
- Minh bạch, công khai về quyết định (phê duyệt) cuối cùng của cơ quan nhà
nước có thẩm quyền về phương án bồi thường, hỗ trợ, cho người dân được kiểm
chứng và biết được quyền lợi của mình khi thu hồi đất;
- Minh bạch, công khai các quy trình, thủ tục mà các cơ quan, các cán bộ có
thẩm quyền thực hiện trên cơ sở các quy định của luật, từ khâu thông báo chủ
trương thu hồi đất, đến quá trình tổ chức thực hiện việc bồi thường, giải phóng mặt
bằng và cả ở quy trình, thủ tục giải quyết các khiếu nại, tố cáo và cưỡng chế. Những
khiếu nại, tố cáo của người dân xung quanh việc bồi thường, hỗ trợ cần phải được
giải quyết kịp thời, thấu đáo và thông báo công khai, rộng rãi để người dân được
biết. Nếu thực hiện tốt những điều này, sẽ đảm bảo được tốt nhất quyền lợi của các
bên có liên quan, làm giảm thiểu những tranh chấp và khiếu kiện về bồi thường;
đồng thời giúp ngăn ngừa những tham nhũng, tiêu cực trong lĩnh vực bồi thường
khi Nhà nước thu hồi đất.
3.3.2.2. Cơ quan có thẩm quyền cần đẩy nhanh tiến độ và nâng cao chất
lượng của công tác cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
Khi người sử dụng đất được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, họ sẽ
được pháp luật bảo hộ các quyền và lợi ích hợp pháp trong quá trình sử dụng đất.
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cũng là cơ sở pháp lý để người sử dụng đất
được bồi thường khi bị thu hồi đất, việc tính toán bồi thường cho người sử dụng đất
sẽ thuận lợi hơn rất nhiều khi họ đã được cấp giấy chứng nhận. Có thể nói, giấy
71
chứng nhận quyền sử dụng đất có ý nghĩa quan trọng trong công tác quản lý Nhà
nước về đất đai nói chung và trong công tác bồi thường nói riêng. Vì vậy, cần phải
đẩy nhanh tiến độ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và hoàn thành dứt điểm
công tác này, trên cơ sở tất cả mọi chủ thể được Nhà nước cho phép sử dụng đất,
đều được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, với phương châm cấp đúng, cấp
đủ. Để làm được điều này, cần phải lưu ý các khía cạnh sau:
Rà soát kỹ càng tình hình hiện trạng sử dụng đất ở địa phương, thực hiện
khẩn trương việc đăng ký sử dụng đất, tiến hành kê khai, đo đạc đất đai một cách
đồng bộ, điều này cần phải được thực hiện với sự chỉ đạo quyết liệt của các cấp
chính quyền; Cải cách thủ tục hành chính trong việc cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất, để hạn chế thời gian và thủ tục phiền hà khi được cấp giấy; Đầu tư cơ sở
vật chất, ứng dụng công nghệ thông tin, xây dựng cơ sở dữ liệu điện tử để phục vụ
cho việc quản lý thuận tiện, thống nhất đối với hồ sơ địa chính trên phạm vi cả
nước.
3.3.2.3. Tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật như
pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất cho cán bộ và nhân dân
Thực tế áp dụng tại thành phố Hạ Long cho thấy rằng, có những khiếu nại, tố
cáo của người dân là hoàn toàn có cơ sở và đúng quy định pháp luật. Tuy nhiên,
cũng có những khiếu nại, tố cáo không có cơ sở, không theo trình tự pháp luật, do
chỉ là sự a dua và kích động nhất thời của người sử dụng đất. Đặc biệt, một số người
bị thu hồi đất do hạn chế về kiến thức pháp luật đất đai, nên đã bị một số phần tử bất
mãn dụ dỗ, xúi giục, kích động làm đơn khiếu nại vượt cấp hoặc khiếu nại tập thể
hoặc cố tình không hợp tác với cơ quan, tổ chức và cá nhân có thẩm quyền trong
quá trình thực hiện việc bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất.
Tuy nhiên, cũng cần phải thấy rằng, việc HGĐ, CN sử dụng đất không tuân
thủ quyết định của Nhà nước xuất phát từ nhiều nguyên nhân khách quan và chủ
quan, mà trước hết, không thể phủ nhận là do những bất cập trong cơ chế thu hồi và
bồi thường đất; mặt khác, cũng do một thời gian dài, người dân sống trong chế độ
bao cấp, nên có tư tưởng ỷ lại, trông chờ vào Nhà nước, họ dường như ít quan tâm
72
đến việc tìm hiểu và tuân thủ pháp luật. Vì vậy, để chính sách, pháp luật đi vào thực
tiễn và tạo ra sự đồng thuận của người dân đối với vấn đề bồi thường khi Nhà nước
thu hồi đất, thì các cấp chính quyền địa phương phải có những phương án tổ chức
tốt công tác tuyên truyền, phổ biến về chính sách, pháp luật bồi thường cho người
có đất bị thu hồi để họ hiểu mà cùng phối hợp cho tốt. Do đó, tác giả đề xuất các
kiến nghị dưới đây:
Thứ nhất, việc phổ biến pháp luật phải được thực hiện một cách thường
xuyên với nội dung và hình thức phù hợp với đông đảo quần chúng nhân dân. Đó là
sự phối kết hợp của các cấp, các ngành từ cấp tỉnh đến cấp huyện, cấp phường, nhất
là đến từng khu phố, tổ dân bằng nhiều hình thức khác nhau như: tuyên truyền, giáo
dục, thuyết phục nhân dân trên các phương tiện thông tin đại chúng của địa phương
hoặc tiếp xúc trực tiếp với nhân dân (tại các cuộc họp tổ dân phố, thôn, làng hoặc
các cuộc họp khác của địa phương hoặc các cuộc tiếp xúc cử tri,…).
Thứ hai, cần tăng cường tổ chức các buổi tập huấn, phổ biến những văn bản
quy phạm pháp luật mới, những cơ chế, chính sách mới; nhất là trong giai đoạn hiện
nay, khi các văn bản quy phạm pháp luật về đất đai nói chung, về bồi thường khi
Nhà nước thu hồi đất nói riêng, có sự thay đổi liên tục. Từ đó góp phần nâng cao
trình độ chuyên môn, kiến thức pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất và
kinh nghiệm giải quyết thực tiễn cho đội ngũ cán bộ làm công tác bồi thường, hỗ
trợ, tái định cư tại địa phương.
Thứ ba, UBND tỉnh Quảng Ninh cần thành lập tổ công tác thường trực để
giải quyết các kiến nghị đối với mỗi dự án cụ thể được triển khai trên thực tế. Khi
thực hiện quá trình bồi thường, giải phóng mặt bằng, cần phải có tổ công tác thường
trực để xử lý và giải quyết trực tiếp hoặc báo cáo, kiến nghị giải quyết kịp thời và
thỏa đáng các tình huống phát sinh, các thắc mắc, đòi hỏi từ phía người dân. Thành
phần của tổ công tác này nên lựa chọn những cán bộ giỏi về chuyên môn, có tư cách
đạo đức nghề nghiệp và có kinh nghiệm trong công tác dân vận, đây là những người
đại diện cho chính quyền địa phương và nhà đầu tư.
73
3.4. Một số kiến nghị
3.4.1. Đối với UBND thành phố Hạ Long
Để góp phần nâng cao khả năng thực thi pháp luật về thu hồi đất và bồi
thường, tác giả đề xuất 3 kiến nghị đối với UBND thành phố Hạ Long như sau:
Thứ nhất, UBND thành phố Hạ Long cần tăng cường thanh tra, kiểm tra
(định kỳ hoặc đột xuất) các cơ quan có thẩm quyền thu hồi đất và các cơ quan có
liên quan trong quá trình thực hiện các quy định về trình tự thủ tục thu hồi đất, bồi
thường, hỗ trợ và tái định cư nhằm phát hiện, chấn chỉnh kịp thời những yếu kém,
sai phạm và xử lý nghiêm minh các vi phạm về trình tự, thủ tục bồi thường khi Nhà
nước thu hồi đất nông nghiệp. Bên cạnh đó, nhanh chóng tìm ra những thiếu sót, bất
cập giữa pháp luật và thực tiễn, để kịp thời sửa đổi, bổ sung hoặc thay thế các quy
định pháp luật trong lĩnh vực này cho phù hợp với yêu cầu của thực tiễn.
Thứ hai, UBND thành phố Hạ Long cần thực hiện việc giám sát thi hành
thông qua Hội đồng nhân dân các cấp, Mặt trận Tổ quốc tại địa phương, nhất là vai
trò giám sát xã hội của các cơ quan truyền thông, các tổ chức xã hội và người dân,
đối với việc tuân thủ pháp luật đất đai nói chung cũng như các quy định về trình tự,
thủ tục thu hồi đất, bồi thường của các cơ quan có thẩm quyền thu hồi đất, tổ chức
làm nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng, chính quyền cấp cơ sở, nhà đầu tư,
các cơ quan có liên quan được giao nhiệm vụ thực hiện công việc bồi thường khi
Nhà nước thu hồi đất. Điều này sẽ giúp cơ quan nhà nước có thẩm quyền nhanh
chóng có được các thông tin khách quan, chính xác về các vi phạm pháp luật trong
quá trình thu hồi đất, bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất.
Thứ ba, UBND thành phố Hạ Long cần thanh tra, kiểm tra việc giải quyết
các khiếu nại, tố cáo về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất và các khiếu nại, tố
cáo liên quan đến trình tự thủ tục thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ khi thu hồi đất của
các cơ quan, cá nhân có thẩm quyền khi thực thi nhiệm vụ. Để một mặt nhằm phát
hiện, chấn chỉnh kịp thời những khuất tất, sai phạm và xử lý nghiêm minh các vi
phạm của các cơ quan, cá nhân có thẩm quyền khi giải quyết khiếu nại, tố cáo; mặt
74
khác đảm bảo các khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực thu hồi đất, bồi thường khi Nhà
nước thu hồi đất được giải quyết kịp thời, dứt điểm và đúng pháp luật.
3.4.2. Kiến nghị đối với Phòng TN&MT, phòng QLĐT và Trung tâm PTQĐ
thành phố Hạ Long…
Một trong những công cụ quan trọng và không thể thiếu của công tác quản lý
sử dụng đất đai đó là quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất. Trong công tác bồi thường
khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp, không thể xem nhẹ vai trò của quy hoạch, kế
hoạch sử dụng đất, việc quy hoạch sử dụng đất nông nghiệp cho mục đích phi nông
nghiệp cần phải được cân nhắc kỹ càng, chứ không thể thực hiện một cách xô bồ.
Vì thế, cũng cần nhìn nhận một cách nghiêm túc hạn chế của vấn đề này trong thực
tiễn hiện nay để hoàn thiện, đó là việc lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất chủ yếu
xuất phát từ nhu cầu sử dụng đất trước mắt của các cấp hành chính, các ngành, vì
vậy khó tránh khỏi lợi ích cục bộ của địa phương, của ngành trong việc lập quy
hoạch, kế hoạch sử dụng đất, đồng thời làm cho chất lượng quy hoạch, kế hoạch sử
dụng đất thấp, thiếu đồng bộ, thiếu tính bền vững, chưa dự báo sát với tình hình
thực tế nên bị động khi triển khai quy hoạch vào cuộc sống.
Thứ nhất, cần tính toán kỹ càng và xác định rõ ràng mối quan hệ giữa quy
hoạch sử dụng đất với quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội và quy hoạch xây dựng
đô thị nhằm tránh hiện tượng mâu thuẫn, chồng chéo giữa các loại quy hoạch; tránh
lãng phí nguồn tài nguyên đất đai, đặc biệt là đất trồng lúa khi lập và thực hiện quy
hoạch, kế hoạch sử dụng đất. Hạn chế tối đa và tiến tới chấm dứt việc điều chỉnh
hoặc quyết định xem xét lại dự án, qua đó góp phần nâng cao hiệu quả thực hiện
quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất cũng như trách nhiệm của các cơ quan trong việc
thực thi công việc này.
Thứ hai, khi lập quy hoạch, cần có cái nhìn tổng thể và tầm nhìn dài hạn,
chắc chắn về nhu cầu sử dụng đất (từ 10 năm trở lên) vì quy hoạch chính là việc dự
đoán khả năng ứng dụng trong tương lai, trên cơ sở đó sẽ giúp Nhà nước chuẩn bị
được quỹ đất để chủ động trong việc phân phối lại đất đai. Việc lập quy hoạch, kế
hoạch sử dụng đất phải tính đến các yếu tố kinh tế - xã hội, môi trường, các yếu tố
75
liên kết đa ngành, đa lĩnh vực tại địa bàn thực hiện; đồng thời tính toán, xem xét
tính tổng thể trên phạm vi cả nước.
Thứ ba, cần thực hiện việc công bố công khai và đảm bảo tính khách quan,
minh bạch của quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch xây dựng đô thị, quy hoạch chi
tiết các dự án chuẩn bị triển khai thực hiện trên các phương tiện thông tin truyền
thông hoặc niêm yết công khai (tại trụ sở cơ quan, đơn vị lập quy hoạch, Ủy ban
nhân dân cấp xã nơi có đất, trừ trường hợp quy hoạch liên quan đến an ninh, quốc
phòng) và tiến hành cắm mốc giới theo quy hoạch, xác định đường chỉ giới xây
dựng trên thực địa một cách rõ ràng, cụ thể.
Thứ tư, Đề nghị UBND tỉnh Quảng Ninh cần tăng cường công tác kiểm tra
và giám sát việc lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất tại các địa phương một cách
thường xuyên nhằm thực hiện nghiêm túc và đảm bảo tính thống nhất về quy hoạch
giữa cấp trên và cấp dưới, giữa trung ương và địa phương. Trong trường hợp thực
sự cần thiết phải điều chỉnh quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất thì phải kiểm tra lại kỹ
càng lý do điều chỉnh và giám sát chặt chẽ quá trình thực hiện, nhằm tránh hiện
tượng điều chỉnh nhiều lần hoặc “quy hoạch một đằng, làm một nẻo” hoặc quy
hoạch khập khiễng, chắp vá. Trong quá trình thực hiện dự án, phải thường xuyên
thanh tra, kiểm tra và giám sát việc thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất của
cấp cơ sở, của chủ dự án đầu tư, nhằm đảm bảo việc khai thác và sử dụng đất đạt
hiệu quả cao, tránh tình trạng dự án sử dụng sai mục đích hoặc dự án không thực
hiện.
Thứ năm, các cơ quan có liên quan chuẩn bị những điều kiện cần thiết cho
việc tiến tới xây dựng Luật quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất nhằm đảm bảo tính
thống nhất, tính khả thi, tính đồng bộ và ổn định trong công tác lập quy hoạch, kế
hoạch sử dụng đất cũng như triển khai thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất;
bởi quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất thực sự là một công cụ quan trọng không thể
thiếu trong quá trình Nhà nước thực hiện chức năng quản lý nhà nước về đất đai.
76
Kết luận Chương 3
Tại chương 3, luận văn đã xác định 5 phương hướng hoàn thiện Pháp luật về
bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp của HGĐ, CN và phân tích kinh
nghiệm của 3 nước là Singapore, Trung Quốc và Hàn Quốc trong việc bồi thường
khi Nhà nước thu hồi đất. Tại mỗi nước này luận văn đã chỉ ra bài học kinh nghiệm
cho Việt nam trong việc xác định tiền bồi thường hoặc trong việc xây dựng phương
pháp tính tiền bồi thường theo giá thị trường sao cho vừa đảm bảo vai trò quản lý vĩ
mô của Nhà nước vừa tôn trọng ý kiến của người có đất bị thu hồi.
Trên cơ sở đó luận văn đã đề xuất 2 nhóm giải pháp là giải pháp hoàn thiện
pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp của HGĐ, CN và
nhóm giải pháp để thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh tăng cường thực thi tốt
Pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp của HGĐ, CN tại
tỉnh Quảng Ninh và đưa ra một số kiến nghị đối với UBND thành phố Hạ Long và
một số cơ quan quản lý.
77
KẾT LUẬN
Có thể thấy, phát triển hạ tầng kinh tế - xã hội, đẩy mạnh CNH, HĐH và hội
nhập sâu vào nền kinh tế thế giới, việc thu hồi đất nông nghiệp của HGĐ, CN để
xây dựng các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu đô thị... nhằm đáp ứng các nhu
cầu phát triển là một thực tế khách quan. Khi đất đai nông nghiệp ngày càng thu
hẹp, vấn đề việc làm của người nông dân sau khi bị thu hồi đất nhưng không được
bồi thường thỏa đáng đang là thách thức lớn đối với chiến lược phát triển nông
nghiệp, nông thôn nói riêng và phát triển đất nước nói chung.
Luận văn đã xây dựng một số các khái niệm cơ bản để làm cơ sở cho việc
nghiên cứu pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp của
HGĐ, CN và thực tiễn thực thi. Các khái niệm được nghiên cứu trên cơ sở các quy
định pháp luật hiện hành và các quan điểm về thu hồi đất nông nghiệp và bồi
thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp của HGĐ, CN. Hệ thống pháp luật về
bồi thường khi thu hồi đất nông nghiệp nhìn chung đã hoàn thiện, đảm bảo lợi ích
của HGĐ, CN bị thu hồi đất, trong đó quan tâm tới giá đất về cơ bản theo giá thị
trường. Thủ tục bồi thường đã minh bạch công khai, có sự giám sát của hệ thống
chính trị và của cộng đồng.
Thực tiễn thực thi pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông
nghiệp của HGĐ, CN tại thành phố Hạ Long tỉnh Quảng Ninh đảm bảo tuân thủ các
quy định pháp luật về nguyên tắc bồi thường, điều kiện bồi thường, nội dung bồi
thường, trình tự thủ tục bồi thường và giải quyết khiếu nại tố cáo liên quan đến bồi
thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp. Tuy nhiên, việc bồi thường khi Nhà
nước thu hồi đất nông nghiệp của HGĐ, CN tại thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng
Ninh vẫn còn một số bất cập, đặc biệt là sự hài hòa lợi ích giữa Nhà nước, nhà đầu
tư và HGĐ, CN bị thu hồi đất nông nghiệp trong xây dựng phương án bồi thường,
tính giá đất cũng như thực hiện bồi thường, giải phóng mặt bằng.
Luận văn đã đưa ra định hướng và các giải pháp trong đó có các giải pháp
hoàn thiện pháp luật, giải pháp nâng cao khả năng thực thi pháp luật về bồi thường
khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp của HGĐ, CN tại thành phố Hạ Long. Về
78
hoàn thiện pháp luật, cần bổ sung quy định về thời điểm tính giá bồi thường đất, xây
dựng cơ chế xác định giá đất bồi thường hợp lý hơn và sửa đổi, bổ sung các quy
định về trình tự, thủ tục bồi thường. Ngoài ra, để nâng cao khả năng thực thi pháp
luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp của HGĐ, CN tại thành
phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh thì cần có sự phối hợp chặt chẽ hơn nữa giữa các
chủ thể có liên quan như UBND thành phố Hạ Long, Trung tâm phát triển quỹ đất
thành phố Hạ Long và HGĐ, CN có đất nông nghiệp bị thu hồi.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
I. Các văn bản quy phạm pháp luật
1. Quốc hội (2013), Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm
2013, Hà Nội.
2. Quốc hội (1993), Bộ luật Dân sự năm 2005, Hà Nội.
3. Quốc hội (1993), Bộ luật Dân sự năm 2015, Hà Nội.
4. Quốc hội (1993), Luật Đất đai năm 1993, Hà Nội.
5. Quốc hội (2003), Luật Đất đai năm 2003, Hà Nội.
6. Quốc hội (2013), Luật Đất đai năm 2013, Hà Nội.
7. Quốc hội (2011), Luật Khiếu nại năm 2011, Hà Nội.
8. Chính phủ (2004), Nghị định số 197/2004/NĐ-CP về Quy định bồi thường, hỗ
trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất, Hà Nội
9. Chính phủ (2009), Nghị định số 69/2009/NĐ-CP về Quy định bổ sung về quy
hoạch sử dụng đất, giá đất, thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ và tái định cư, Hà
Nội.
10. Chính phủ (2014), Nghị định 47/2014/NĐ-CP về Quy định bồi thường, hỗ trợ
và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất, Hà Nội.
11. Chính phủ (2014), Nghị định 43/2014/NĐ-CP về Quy định chi tiết thi hành
một số điều của Luật Đất đai.
12. Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Ninh (2004), Quyết định số 4005/2004/QĐ- về
Ban hành Bộ đơn giá bồi thường thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất trên địa
bàn tỉnh Quảng Ninh.
13. Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Ninh (2010), Quyết định số 499/2010/QĐ- về
Ban hành Quy định về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi
đất trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh.
14. Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Ninh (2014), Quyết định số 1766/2014/QĐ- về
Ban hành Quy định về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi
đất theo Luật Đất đai năm 2013 trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh.
15. Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Ninh (2015), Quyết định số 4234/2015/QĐ- về
Ban hành Bộ đơn giá bồi thường tài sản gắn liền với đất khi Nhà nước thu hồi
đất trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh.
16. Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Ninh (2017), Quyết định số 3000/2017/QĐ- về
ban hành quy định về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi
đất trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh thay thế cho Quyết định số 1766/2014/QĐ-,
Quảng Ninh.
17. Bộ Tài nguyên và Môi trường (2007), Tình hình thu hồi đất của nông dân,
thực hiện CNH, hiện đại hóa, Hà Nội.
18. Trần Quang Huy (2010), Chính sách hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất, Tạp chí
Luật học số 10/2010.
19. Phạm Duy Nghĩa (2004), Một số bình luận về Luật Đất đai năm 2003 dưới
khía cạnh chính sách pháp luật, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, (số 6).
20. Lê Ngọc Thạnh (2017), Pháp luật về thu hồi đất nông nghiệp ở Việt Nam,
Luận án tiến sĩ Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh.
21. Phạm Thu Thủy 2014), Pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất
nông nghiệp ở Việt Nam, Luận án Tiến sĩ Đại học Luật Hà Nội.
22. Nguyễn Quang Tuyến (2013), Bình luận và góp ý đối với các quy định bồi
thường về đất khi Nhà nước thu hồi đất trong dự thảo Luật đất đai sửa đổi, Hội
thảo Khoa học Góp ý dự thảo Luật đất đai sửa đổi Đại học Luật Hà Nội.
23. Nguyễn Quang Tuyến (2009), Vấn đề xung quanh khái niệm bồi thường xung
quanh khái niệm bồi thường khi thu hồi đất, Tạp chí Luật học số 01/2009.
31. Nguyễn Quang Tuyến và Nguyễn Ngọc Minh (2010), Pháp luật về bồi thường,
tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất của Singapore và Trung Quốc - Những
gợi mở cho Việt Nam trong hoàn thiện pháp luật về bồi thường, tái định cư khi
Nhà nước thu hồi đất, Tạp chí Luật học tháng 10/2010.
25. Hoàng Thị Thu Trang (2012), Pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi
đất của các HGĐ, CN và thực tiễn áp dụng tại Nghệ An, Luận văn Thạc sĩ Đại
học Luật Hà Nội.
II. Các sách tham khảo, luận án, bài viết
26. Trung tâm phát triển quỹ đất thành phố Hạ Long (2013), Báo cáo công tác giải
phóng mặt bằng tạo quỹ đất sạch năm 2013 và kế hoạch năm 2014, TP. Hạ
Long, tỉnh Quảng Ninh.
27. Trung tâm phát triển quỹ đất thành phố Hạ Long (2014), Báo cáo công tác giải
phóng mặt bằng tạo quỹ đất sạch năm 2014 và kế hoạch năm 2015, TP. Hạ
Long, tỉnh Quảng Ninh.
28. Trung tâm phát triển quỹ đất thành phố Hạ Long (2015), Báo cáo công tác giải
phóng mặt bằng tạo quỹ đất sạch năm 2015 và kế hoạch năm 2016, TP. Hạ
Long, tỉnh Quảng Ninh.
29. Trung tâm phát triển quỹ đất thành phố Hạ Long (2016), Báo cáo công tác giải
phóng mặt bằng tạo quỹ đất sạch năm 2016 và kế hoạch năm 2017, TP. Hạ
Long, tỉnh Quảng Ninh.
30. Trung tâm phát triển quỹ đất thành phố Hạ Long (2017), Báo cáo công tác giải
phóng mặt bằng tạo quỹ đất sạch năm 2017 và kế hoạch năm 2018, TP. Hạ
Long, tỉnh Quảng Ninh.
31. Viện Khoa học pháp lý (2006), Từ điển Luật học, Nhà xuất bản Từ điển Bách
khoa.
III. Tài liệu từ các Website
32. Phương Thảo (2013), Kinh nghiệm thu hồi đất của một số quốc gia trên thế
giới, Trang thông tin tổng hợp ban nội chính Trung ương.