BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
LUẬN VĂN THẠC SĨ
PHÁP LUẬT VỀ BỒI THƯỜNG HỖ TRỢ,
TÁI ĐỊNH CƯ KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT
CHO DỰ ÁN CẢI TẠO, NÂNG CẤP QUỐC LỘ 18A
TẠI THÀNH PHỐ UÔNG BÍ- THỰC TRẠNG VÀ
KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN
Ngành: Luật kinh tế
HOÀNG THỊ HIỂN
HÀ NỘI – 2019
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
LUẬN VĂN THẠC SĨ
PHÁP LUẬT VỀ BỒI THƯỜNG HỖ TRỢ,
TÁI ĐỊNH CƯ KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT
CHO DỰ ÁN CẢI TẠO, NÂNG CẤP QUỐC LỘ 18A
TẠI THÀNH PHỐ UÔNG BÍ- THỰC TRẠNG VÀ
KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN
Ngành: Luật kinh tế
Mã số: 8380107
Học viên: Hoàng Thị Hiển
Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Minh Thư
HÀ NỘI – 2019
i
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của riêng tôi.
Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo quy định.
Tác giả luận văn
Hoàng Thị Hiển
ii
LỜI CẢM ƠN
Trong suốt thời gian học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận văn, tôi đã nhận
được sự hướng dẫn, chỉ bảo tận tình của các thầy cô giáo, sự giúp đỡ, động viên của
bạn bè, đồng nghiệp và gia đình.
Nhân dịp hoàn thành luận văn, cho phép tôi được bày tỏ lòng kính trọng và
biết ơn sâu sắc đến Tiến sĩ Nguyễn Minh Thư đã tận tình hướng dẫn, dành nhiều
công sức, thời gian và tạo điều kiện cho tôi trong suốt quá trình học tập và thực hiện
đề tài.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành tới Khoa sau đại học, Khoa Luật kinh tế
trường Đại học Ngoại Thương Hà Nội đã tận tình giúp đỡ tôi trong quá trình học tập,
thực hiện đề tài và hoàn thành luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn tập thể lãnh đạo, cán bộ viên chức Phòng Tài nguyên
và Môi trường thành phố Uông Bí, Phòng Tài chính và Kế hoạch thành phố Uông Bí,
trung tâm phát triển quỹ đất Thành phố Uông Bí, Chi cục thống kê thành phố Uông
Bí, đã giúp đỡ và tạo điều kiện cho tôi trong suốt quá trình thực hiện đề tài.
Xin chân thành cảm ơn gia đình, người thân, bạn bè, đồng nghiệp đã tạo mọi điều
kiện thuận lợi và giúp đỡ tôi về mọi mặt, động viên khuyến khích tôi hoàn thành luận
văn./.
Tác giả luận văn
Hoàng Thị Hiển
iii
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ...................................................................................................... i
LỜI CẢM ƠN ........................................................................................................... ii
MỤC LỤC ................................................................................................................ iii
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT..................................................................... vi
DANH MỤC BẢNG – SƠ ĐỒ............................................................................... vii
TÓM TẮT KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU CỦA LUẬN VĂN ................................ viii
LỜI MỞ ĐẦU ............................................................................................................ 1
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁP LUẬT BỒI THƯỜNG,
HỖ TRỢ, TÁI ĐỊNH CƯ KHI NHÀ NƯỚC THU HÔI ĐẤT ............................. 9
1.1. Khái quát về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất
............................................................................................................................ 9
1.1.1. Khái niệm về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi nhà nước thu
hồi đất .......................................................................................................... 9
1.1.2. Mục đích, ý nghĩa của việc bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi
Nhà nước thu hồi đất ................................................................................ 10
1.1.3. Đặc điểm của công tác bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà
nước thu hồi đất ........................................................................................ 12
1.1.4. Một số nguyên tắc bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước
thu hồi đất ................................................................................................. 13
1.2. Lịch sử hình thành và phát triển của pháp luật về bồi thường, hỗ trợ,
tái định cư khi nhà nước thu hồi đất ............................................................ 16
1.2.1. Giai đoạn sau năm 1975 đến trước khi ra đời Luật đất đai năm
1993............................................................................................................ 16
1.2.2. Giai đoạn sau khi ban hành Luật đất đai 1993 đến khi Luật đất
đai 2003 có hiệu lực. ................................................................................. 16
1.2.3. Pháp luật về Bồi thường khi nhà nước khi thu hồi đất quy định
theo Hiến pháp 2013 và Luật Đất đai năm 2013. .................................... 18
iv
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ BÒI THƯỜNG,
HỖ TRỢ, TÁI ĐỊNH CƯ KHI NHÀ NƯỚC THU HÒI ĐẤT CHO DỰ ÁN
CẢI TẠO, NÂNG CẤP QUỐC LỘ 18A TẠI THÀNH PHỐ UÔNG BÍ ........... 21
2.1. Khái quát về dự án cải tạo, nâng cấp quốc lộ 18A tại thành phố Uông
Bí ...................................................................................................................... 21
2.1.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội của thành phố Uông Bí ......... 21
2.1.2. Khái quát về dự án cải tạo nâng cấp quốc lộ 18A tại thành phố
Uông Bí ...................................................................................................... 28
2.2. Thực tiễn áp dụng pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi
nhà nước thu hồi đất cho dự án cải, nâng cấp quốc lộ 18A tại địa bàn
thành phố Uông Bí từ năm 2015 đến hết năm 2017. ................................... 29
2.2.1. Bồi thường về đất ............................................................................ 29
2.2.2. Bồi thường về tài sản ...................................................................... 44
2.2.3. Quy trình áp dụng pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi
đất cho dự án. ............................................................................................ 46
2.2.4. Tình hình áp dụng pháp luật về bồi thường hỗ trợ về đất đai, tài
sản trên thực tế .......................................................................................... 57
2.2.5. Đánh giá chung thực tiễn áp dụng pháp luật về bồi thường, hỗ
trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất cho dự án cải, nâng cấp quốc
lộ 18A tại địa bàn thành phố Uông Bí ..................................................... 60
CHƯƠNG 3: KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ BỒI THƯỜNG,
HỖ TRỢ, TÁI ĐỊNH CƯ KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT CHO DỰ ÁN
CẢI TẠO, NÂNG CẤP QUỐC LỘ 18A TẠI THÀNH PHỐ UÔNG BÍ, TỈNH
QUẢNG NINH. ....................................................................................................... 68
3.1. Định hướng chính sách về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi nhà
nước thu hồi đất cho dự án cải tạo, nâng cấp quốc lộ 18A tại thành phố
Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh. ............................................................................ 68
3.2. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư
khi nhà nước thu hồi đất cho dự án cải tạo, nâng cấp quốc lộ 18A tại
thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh ........................................................... 71
v
3.2.1. Tăng cường chỉ đạo công tác quy hoạch , KH SDĐ ..................... 71
3.2.2. Hoàn thiện về đào tạo nghề, việc làm ............................................ 72
3.2.3. Phổ biến, giáo dục pháp luật về đất đai ......................................... 77
3.3.4. Giải quyết tranh chấp về đất đai, giải quyết khiếu nại tố cáo các vi
phạm trong việc quản lý và sử dụng đất đai ............................................ 78
3.3. Hoàn thiện môi trường đầu tư, thực hiện các chính sách thu hút đầu
tư ...................................................................................................................... 79
3.4. Hoàn thiện chính sách hỗ trợ tín dụng cho người nông dân tìm và tự
tạo việc làm ...................................................................................................... 80
3.5. Tạo điều kiện để người dân được góp vốn vào các dự án bằng giá trị
đất bị thu hồi ................................................................................................... 81
3.6. Kiến nghị hoàn thiện công tác bồi thường hỗ trợ, tái định cư khi nhà
nước thu hồi đất tại tỉnh Quảng Ninh .......................................................... 81
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 84
TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................................... 86
vi
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Tên đầy đủ Tên viết tắt
Bồi thường hỗ trợ BTHT
Điều Đ
Giải phóng mặt bằng GPMB
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất GCNQSDĐ
Quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất QHKHSDĐ
Sử dụng đất SDĐ
Tái định cư TĐC
Thành phố TP
Thu hồi đất THĐ
Trang Tr
Ủy ban nhân dân UBND
Bồi thường hỗ trợ và tái định cư BTHT&TĐC
Sản xuất kinh doanh SXKD
vii
DANH MỤC BẢNG – SƠ ĐỒ
Bảng 2.1: Bảng hiện trạng sử dụng đất tại thành phố Uông Bí ................................ 24
Bảng 2.1: Tình hình dân số thành phố Uông Bí ........................................................ 26
Bảng 2.1: Bảng Cơ cấu lao động trong độ tuổi của thành phố Uông Bí ................... 26
Bảng 2.2: Bảng tổng hợp kinh phí bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất thực
hiện dự án cải tạo, nâng cấp Quốc lộ 18A tại thành phố Uông Bí. ........................... 56
Bảng 2.2: Bảng giá đất ở, đất trồng cây lâu năm trên địa bàn thành phố Uông Bí,
tỉnh Quảng Ninh. ....................................................................................................... 56
Sơ đồ 2.1: Bản đồ Hành chính thành phố Uông Bí ................................................... 22
viii
TÓM TẮT KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU CỦA LUẬN VĂN
Tên luận văn: Pháp luật về bồi thường hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi
đất cho dự án cải tạo nâng cấp quốc lộ 18A tại thành phố Uông Bí - Thực trạng và
kiến nghị hoàn thiện.
Luận văn đã đạt được kết quả như sau:
- Nghiên cứu các quy định pháp luật hiện hành và Luật đất đai năm 2013 và
các văn bản hướng dẫn thi hành.
- Luận văn nghiên cứu các quy định hiện hành của Ủy ban nhân dân tỉnh
Quảng Ninh trong quá trình tổ chức, thực hiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái
định cư khi nhà nước thu hồi từ thực tiễn tại thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh
để từ đó góp phần tìm ra những giải pháp nhằm hoàn thiện hơn các quy định đó.
- Nghiên cứu thực trạng áp dụng các quy định pháp luật về bồi thường khi
nhà nước thu hồi từ thực tiễn tại thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh
- Nghiên cứu chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước ta và
cách lãnh đạo, chỉ đạo, triển khai các quy định pháp luật về bồi thường khi nhà
nước thu hồi tại thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh
1
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết
Đất đai luôn là nguồn tài nguyên quý giá của mọi quốc gia, bởi lẽ đó là tư liệu
sản xuất quan trọng để sản xuất ra của cải vật chất cho sự tồn tại và phát triển của
xã hội loài người; đồng thời, đất đai là nguồn tài nguyên có hạn về số lượng, nên
việc quản lý, sử dụng đất đai có hiệu quả nhất luôn là vấn đề mà Chính phủ của các
quốc gia quan tâm và được bảo vệ chặt chẽ bằng luật pháp.
Trên con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, để đưa đất đai thực
sự trở thành nguồn vốn, nguồn thu hút cho các nhà đầu tư phát triển thì việc thu hồi
đất chuyển mục đích sử dụng đất để xây dựng các khu, cụm công nghiệp, khu đô thị
tập trung nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng đất, xây dựng cơ cấu đất đai hợp lý thực
sự cần thiết. Tuy nhiên, qua thực tế việc thu hồi đất để thực hiện các dự án cho thấy
công tác bồi thường đất đai, giải phóng mặt bằng, hỗ trợ và tái định cư đang là một
vấn đề rất nhạy cảm và phức tạp, ảnh hưởng đến mọi mặt của đời sống kinh tế -
chính trị - xã hội.
Thực hiện Nghị quyết của Đảng, Nhà nước là phát triển kinh tế nhiều thành
phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa để đưa đất nước tiến lên theo hướng công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Từ khi đất nước đổi mới đến nay nhiều khu đô
thị mới, khu công nghiệp, khu kinh tế, khu du lịch, nhiều tuyến đường... được hình
thành. Dựa trên nguồn vốn nội lực cùng với ngoại lực trợ giúp, Việt Nam đang dần
chuyển mình thay đổi với rất nhiều dự án được xét duyệt và thi công. Một trong
những những vấn đề được quan tâm hàng đầu là vấn đề bồi thường, giải phóng mặt
bằng khi Nhà nước thu hồi đất để thực hiện dự án. Làm thế nào để đảm bảo lợi ích
giữa Người dân - Nhà nước - Nhà đầu tư và sự phát triển bền vững của quốc gia.
Việc bồi thường, hỗ trợ và tái định cư để giải phóng mặt bằng là lĩnh vực hết
sức nhạy cảm và phức tạp. Nó liên quan trực tiếp đến quyền lợi của chủ sử dụng
đất, chủ sử dụng tài sản, nó tác động đến mọi mặt của đời sống kinh tế - chính trị - xã
hội hiện nay.
2
Trong điều kiện quỹ đất ngày càng hạn hẹp, nhận thức của người dân ngày
một cao, giá trị sinh lời của đất ngày càng tăng cùng với tốc độ phát triển kinh tế thì
việc giải phóng mặt bằng để tạo ra quỹ đất sạch triển khai dự án theo đúng tiến độ
ngày càng trở nên cấp thiết và quan trọng bởi không có đất sạch thì không thể triển
khai dự án theo đúng tiến độ đề ra. Tuy nhiên, vì quyền lợi của người dân và vì
nhận thức luôn phải có lợi cho mình của người dân lúc nào cũng đòi hỏi phải được
bồi thường thỏa đáng nhưng nếu việc giải phóng mặt bằng không theo quy định của
pháp luật, không tuân theo đúng chế độ chính sách của Nhà nước thì cơ quan thực
hiện việc giải phóng mặt bằng sẽ không bao giờ đáp ứng được đầy đủ theo đúng
nguyện vọng của nhân dân. Do vậy, để giải quyết hài hòa mối quan hệ trên trong
công tác giải phóng mặt bằng thì cần phải xác định đúng các nguyên nhân của
những tồn tại, qua đó xây dựng những giải pháp thực hiện nhằm đảm bảo quyền lợi
của người dân cũng như việc đảm bảo tiến độ của công tác giải phóng mặt bằng nói
riêng và tiến độ thực hiện của các dự án cần thu hồi đất nói chung.
Trong công cuộc đổi mới đất nước nhu cầu phát triển hạ tầng luôn đặt ra và
Nhà nước cũng phải bảo đảm các quyền và lợi ích hợp pháp của người dân do vậy
để đáp ứng việc thực thi pháp luật Nhà nước ban hành các Nghị định, Thông tư,
Quyết định thường xuyên phải sửa đổi, bổ sung để đáp ứng với tình hình thực trạng
đang diễn ra trong xã hội. Tuy có Nghị định, có Thông tư, có Quyết định nhưng với
đặc thù của từng địa phương, từng dự án có sự khác biệt nên đây cũng là lý do để
chủ sử dụng đất, chủ sử dụng tài sản lợi dụng để đòi hỏi.
Để nâng cao năng lực thể chế trong công tác bồi thường, hỗ trợ và tái định cư,
Luật Đất đai 2013 đã có nhiều nội dung sửa đổi, bổ sung phù hợp với thực tế nhằm
điều chỉnh các mối quan hệ pháp luật đối với các chủ thể quản lý, sử dụng đất khi
Nhà nước thu hồi đất, sử dụng đất phục vụ phát triển kinh tế - xã hội.
Những năm gần đây, với tốc độ đô thị hóa nhanh, đất đai ở thành phố Uông Bí
được chuyển mục đích sử dụng khá nhiều, đồng nghĩa với việc áp dụng những
chính sách của Nhà nước trong việc thu hồi, bồi thường giải phóng mặt bằng và hỗ
trợ đối với người dân mất đất sản xuất nông nghiệp. Tuy nhiên, công tác này còn
gặp nhiều khó khăn, vướng mắc, hiệu quả thấp, kể cả việc thu hồi đất để xây dựng
3
cơ sở hạ tầng phục vụ cho chính cộng đồng dân cư bị thu đất. Điều chỉnh quy hoạch
sử dụng đất, sửa đổi thiết kế dự án, chờ đợi do không giải phóng được mặt bằng
hoặc do cơ sở hạ tầng không đảm bảo là những nguyên nhân làm ảnh hưởng đến
tiến độ các dự án, gây thiệt hại lớn về kinh tế của các doanh nghiệp, các nhà đầu tư
và nhà nước, làm mất ổn định chính trị xã hội ở địa phương. Xuất phát từ thực tiễn
nói trên, tôi tiến hành thực hiện đề tài “Pháp luật về bồi thường hỗ trợ, tái định
cư khi nhà nước thu hồi đất cho dự án cải tạo nâng cấp quốc lộ 18A tại thành
phố Uông Bí - Thực trạng và kiến nghị hoàn thiện”.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong góc độ lý luận và thực tiễn Pháp luật về đất đai nói chung và pháp luật
về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nói riêng luôn được sự quan tâm và đầu tư
nghiên cứu của nhiều tác giả. Nhiều người làm công tác giảng dạy và nghiên cứu
luôn tìm tòi, sáng tạo và có những công trình khoa học về vấn đề này. Có thể kể đến
một số các công trình nghiên cứu sau đây:
- Pháp luật đất đai trong hoạt động của luật sư của tác giả Nguyễn Minh
Hằng, NXB Thông tin và truyền thông, Hà Nội năm 2013.
- Giao dịch về quyền sử dụng đất vô hiệu pháp luật và thực tiễn xét xử của
các tác giả Nguyễn Văn Cường, Nguyễn Minh Hằng, NXBThông tin và truyền
thông.
- Pháp luật về hỗ trợ, tái định cư người có đất bị thu hồi trong giải phóng mặt
bằng - Thực trạng và giải pháp hoàn thiện, Luận văn thạc sĩ luật học của tác giả Đỗ
Phương Linh, Trường Đại học Hà Nội, Năm 2012.
- Đánh giá thực trạng và giải pháp tăng cường hiệu quả của công tác bồi
thường GPMB trên địa bàn thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh, Luận văn thạc sỹ
quản lý đất đai của tác giả Lê Thanh Hải, Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên,
2014.
- Pháp Luật về bồi thường khi nhà nước thu hồi đất từ thực tiễn tại tỉnh
Quảng Ninh, Luận văn thạc sỹ Luật kinh tế của tác giả Lê Thị Thùy Dương,
Viện Đại học mở Hà Nội, Năm 2015.
4
- Về khái niệm bồi thường khi nhà nước thu hồi đất trong luật đất đai năm
2003 của tác giả Nguyễn Quang Tuyến, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, Số 7/2008,
tr. 45 - 49.
- Về chính sách bồi thường, hỗ trợ tái định cư khi nhà nước thu hồi đất của
tác giả Nguyễn Thị Phượng, Tạp chí Quản lý nhà nước, Số 9/2010, tr. 32 - 36.
- Chính sách hỗ trợ khi nhà nước thu hồi đất của tác giả Trần Quang Huy,
Tạp chí Luật học, Số 10/2010, tr. 29 - 36.
Việc bồi thường, hỗ trợ và tái định cư để giải phóng mặt bằng là lĩnh vực hết
sức nhạy cảm và phức tạp. Nó liên quan trực tiếp đến quyền lợi của chủ sử dụng
đất, chủ sử dụng tài sản, nó tác động đến mọi mặt của đời sống kinh tế - chính trị - xã
hội hiện nay.
Pháp luật về bồi thường hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất dự án cải
tạo nâng cấp quốc lộ 18A tại thành phố Uông Bí. Trên cơ sở đó đề xuất một số giải
pháp đẩy nhanh tiến độ bồi thường, hỗ trợ thực hiện các dự án đầu tư trên địa bàn
nghiên cứu.
3. Phạm vi nghiên cứu đề tài
Dự án Cải tạo, nâng cấp Quốc lộ 18A chạy qua thành phố Uông Bí, tỉnh
Quảng Ninh, tạo nên 1 diện mạo mới, khang trang, đồng thời góp phần vào nét đẹp
hiện đại, văn minh của Thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh.
Tuyến đường có tổng chiều dài là 2.96 km, quy mô dự án là đường cấp III
đồng bằng có 04 làn xe, bề rộng mặt đường là 16.5 m; tốc độ thiết kế 80 km/h; tổng
diện tích thu hồi đất để thực hiện dự án là 2,19 ha (chủ yếu là đất hành lang bảo vệ
công trình giao thông đường bộ; đất trồng cây lâu năm, đất ở, không ảnh hưởng đến
nhà ở của người dân); tổng số hộ gia đình, cá nhân bị ảnh hưởng là 318 hộ (không
có đất của các tổ chức). Tổng kinh phí xây dựng tuyến đường lên tới
84.843.443.908 tỉ đồng.
Thời gian thực hiện dự án nghiên cứu từ năm 2015 đến năm 2017.
Thời gian thu thập số liệu từ năm 2015 đến năm 2017.
5
Địa bàn nghiên cứu: Tại địa bàn thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh.
Đây là một nội dung nghiên cứu tương đối phức tạp, nhạy cảm và liên quan
đến các vấn đề chính trị, kinh tế, xã hội của thành phố Uông Bí nói riêng, tỉnh
Quảng Ninh nói chung. Tuy nhiên, trong phạm vi nghiên cứu nhất định, luận văn
chỉ tập trung nghiên cứu một số vấn đề cơ bản sau:
Thứ nhất: Nghiên cứu các quy định pháp luật hiện hành và Luật đất đai năm
2013 và các văn bản hướng dẫn thi hành.
Thứ hai: Luận văn nghiên cứu các quy định hiện hành của Ủy ban nhân dân
tỉnh Quảng Ninh trong quá trình tổ chức, thực hiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ,
tái định cư khi nhà nước thu hồi đất cho dự án cải tạo nâng cấp Quốc lộ 18A để từ
đó góp phần tìm ra những giải pháp nhằm hoàn thiện hơn các quy định đó.
Thứ ba: Nghiên cứu thực trạng áp dụng các quy định pháp luật về bồi
thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi từ thực tiễn tại thành phố Uông Bí,
tỉnh Quảng Ninh.
Thứ tư: Nghiên cứu chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước
ta và cách lãnh đạo, chỉ đạo, triển khai các quy định pháp luật về bồi thường, hỗ trợ,
tái định cư khi nhà nước thu hồi để thực hiện cho dự án cải tạo, nâng cấp Quốc lộ
18A tại thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh .
4. Mục đích nghiên cứu
- Mục đích:
Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà
nước thu hồi đất cho dự án cải tạo, nâng cấp quốc lộ 18A tại thành phố Uông Bí.
- Nhiệm vụ:
Một số vấn đề chung của pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà
nước thu hồi đất.
Thực trạng áp dụng pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước
thu hồi đất cho dự án cải tạo, nâng cấp Quốc lộ 18A tại thành phố Uông Bí.
6
Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà
nước thu hồi đất cho dự án cải tạo, nâng cấp Quốc lộ 18A tại thành phố Uông Bí.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu đề tài
Cơ sở phương pháp luận của việc nghiên cứu đề tài là chủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử; tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối của Đảng
và Nhà nước về đất đai như phương pháp điều tra thu thập số liệu, phương pháp
điều tra số liệu, phương pháp tổng hợp....
5.1. Phương pháp điều tra thu thập số liệu
- Thu thập các tài liệu, số liệu, các văn bản, chính sách có liên quan đến công
tác BTHT&TĐC, GPMB tại Trung tâm phát triển quỹ đất thành phố Uông Bí,
UBND các phường có liên quan, đơn giá bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất của
dự án như khung giá đất của Chính phủ, giá quy định của Nhà nước và giá bồi thường
được áp dụng đối với các dự án trên đại bàn thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh;
- Tìm hiểu quy trình thực hiện, kế hoạch và thực trạng triển khai dự án cải
tạo, nâng cấp Quốc lộ 18A tại thành phố Uông Bí;
- Thu thập các tài liệu, số liệu liên quan từ các đơn vị, phòng, ban chuyên
môn của thành phố và UBND các phường thuộc thành phố Uông Bí.
5.2. Phương pháp điều tra số liệu
- Phương pháp điều tra số liệu sơ cấp: Thu thập theo phương pháp phỏng vấn
trực tiếp các hộ có đất bị thu hồi theo phiếu điều tra. Sử dụng phiếu điều tra để thu
thập các thông tin phục vụ cho nghiên cứu đề tài gồm: Số liệu về đánh giá của
người dân đối với việc xác định đối tượng được BTHT&TĐC,...
- Phương pháp thu thập số liệu thứ cấp: Số liệu về điều kiện tự nhiên, kinh tế
- Xã hội thu thập tại Chi cục Thống kê thành phố Uông Bí; Số liệu về tình hình
quản lý đất đai và hiện trạng sử dụng đất tổng hợp trên cơ sở số liệu báo cáo các
năm được thu thập tại Phòng Tài nguyên và môi trường, UBND thành phố Uông Bí,
UBND các xã, phường; Số liệu về bảng giá đất của UBND tỉnh ban hành, giá quy
định của Nhà nước và giá bồi thường được áp dụng cho thành phố Uông Bí được
7
thu thập tại Phòng Tài nguyên và Môi trường, Phòng Tài chính – Kế hoạch thành
phố Uông Bí.
5.3. Phương pháp tổng hợp, phân tích và xử lý số liệu
Phân tích số liệu được tổng hợp, đánh giá số liệu theo các chỉ tiêu hàng năm
5.4. Phương pháp so sánh
Dùng để so sánh các số liệu thu thập được, từ đó thấy được sự giống nhau và
khác nhau trong việc thực hiện công tác bồi thường GPMB ở dự án với các quy
định về chính sách BTHT&TĐC của Nhà nước.
So sánh giá bồi thường về đất, công trình vật liệu kiến trúc, cây cối hoa
màu...của dự án qua từng giai đoạn.
Đánh giá các số liệu điều tra về các vấn đề bồi thường, hỗ trợ, tái định cư;
công ăn việc làm, ổn định đời sống sản xuất, vấn đề xã hội, môi trường.
6. Những điểm mới của luận văn
Kết quả nghiên cứu của Luận văn là tập hợp, hệ thống hóa cơ sở lý luận và
thực tiễn của việc xây dựng và áp dụng trên thực tế các quy định pháp luật về bồi
thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất. Đồng thời, đánh giá được thực
trạng áp dụng các quy định pháp luật về vấn đề này trong điều kiện đặc thù của
thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh.
Qua việc phân tích và tổng hợp so sánh các quy định về bồi thường trong các
thời kỳ để tìm ra những thành công, ưu điểm và tồn tại, hạn chế trong thực tiễn áp
dụng tại thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh.
Luận văn cũng đã đưa ra một số giải pháp, kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy
định của pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất phù
hợp với thu hồi đất phù hợp với Hiến pháp 2013, Luật đất đai 2013 và thực tiễn áp
dụng. Qua đó, nhằm nâng cao nhận thức, hiểu biết về lĩnh vực bồi thường khi nhà
nước thu hồi đất để phục vụ thiết thực cho công việc đang phụ trách.
8
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề chung của pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định
cư khi nhà nước thu hồi đất
Chương 2: Thực trạng áp dụng pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư
khi nhà nước thu hồi đất cho dự án cải tạo, nâng cấp Quốc lộ 18A tại thành phố
Uông Bí.
Chương 3: Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư
khi nhà nước thu hồi đất cho dự án cải tạo, nâng cấp Quốc lộ 18A tại thành phố
Uông Bí.
9
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁP LUẬT BỒI THƯỜNG,
HỖ TRỢ, TÁI ĐỊNH CƯ KHI NHÀ NƯỚC THU HÔI ĐẤT 1.1. Khái quát về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất
1.1.1. Khái niệm về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi nhà nước thu hồi đất
1.1.1.1. Bồi thường
Theo từ điển Tiếng Việt: “Bồi thường” có nghĩa là trả lại tương xứng giá trị
hoặc công lao động cho một chủ thể nào đó bị thiệt hại vì một hành vi của chủ thể
khác (Viện Ngôn ngữ học, 2002). Điều này có nghĩa là: Không phải mọi khoản đều
bồi thường bằng tiền; Sự mất mát của người bị thu hồi đất không chỉ là về mặt vật
chất mà nhiều trường hợp còn mất mát cả về tinh thần nhất là khi phải TĐC; Về mặt
hành chính thì đây là một quá trình không tự nguyện, có tính cưỡng chế và vốn là
điều hoà sự “hi sinh” không chỉ là một sự bồi thường ngang giá tuyệt đối.
Việc bồi thường có thể vô hình (xin lỗi) hoặc hữu hình (bồi thường bằng
tiền, bằng vật chất khác), có thể do các quy định của pháp luật điều tiết, hoặc do
thỏa thuận giữa các chủ thể (Viện Ngôn ngữ học, 2002).
Theo Luật đất đai 2003: “Bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất là việc Nhà nước trả lại
giá trị QSDĐ đối với diện tích đất bị thu hồi cho người bị thu hồi đất”.
Theo Điều 3, Luật Đất đai 2013: “Bồi thường về đất là việc Nhà nước trả lại giá trị
quyền sử dụng đất đối với diện tích đất thu hồi cho người sử dụng đất”.
1.1.1.2. Hỗ trợ khi nhà nước thu hồi đất
Theo Luật đất đai 2003: “Hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất là việc Nhà nước
giúp đỡ người bị thu hồi đất thông qua đào tạo nghề mới, bố trí việc làm mới, cấp
kinh phí để di dời đến địa điểm mới”.
Theo Điều 3, Luật Đất đai 2013: “Hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất là việc Nhà
nước trợ giúp cho người có đất thu hồi để ổn định đời sống, sản xuất và phát triển”.
1.1.1.3. Tái định cư
Theo Từ điển Tiếng Việt: Tái định cư được hiểu là đến một nơi nhất định để
sinh sống lần thứ hai (lại một lần nữa) (Viện Ngôn ngữ học, 2002).
10
Mặc dù thuật ngữ tái định cư được pháp luật đất đai đề cập nhưng lại chưa
có quy định nào giải thích cụ thể nội hàm của khái niệm này. Luật Đất đai năm
2003 chỉ quy định: “Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương lập và
thực hiện các dự án tái định cư trước khi thu hồi đất để bồi thường bằng nhà ở, đất ở
cho người bị thu hồi đất mà phải di chuyển chỗ ở,… Trường hợp không có khu tái
định cư thì người bị thu hồi đất được bồi thường bằng tiền và được ưu tiên mua
hoặc thuê nhà ở thuộc sở hữu Nhà nước đối với khu vực đô thị; bồi thường bằng đất
ở đối với khu vực nông thôn,… Chính phủ quy định việc bồi thường, tái định cư cho
người có đất bị thu hồi và việc hỗ trợ để thực hiện thu hồi đất” (Luật Đất đai, 2003).
Từ quy định trên của pháp luật đất đai hiện hành, chúng ta có thể tạm đưa ra
quan niệm về tái định cư như sau: Tái định cư đó là những chính sách, biện pháp
của Nhà nước nhằm thông qua các hoạt động để ổn định cuộc sống của những
người bị thu hồi đất nằm trong diện phải di dời khi có dự án đầu tư, đến nơi ở mới
được ổn định đời sống, ổn định sản xuất để phát triển kinh tế xã hội.
1.1.1.4. Dự án cải tạo nâng cấp quốc lộ
Quốc lộ 18A là tuyến giao thông huyết mạch kết nối tỉnh Quảng Ninh với
các tỉnh lân cận, đi qua 3 tỉnh Bắc Ninh, Hải Dương và Quảng Ninh. Việc nâng cấp
cải tạo, mở rộng là việc làm hết sức cần thiết với mục tiêu phát triển kinh tế - xã
hội, đồng thời đảm bảo an ninh trật tự, an toàn giao thông. Dự án "cải tạo, nâng cấp
Quốc lộ 18A đoạn Uông Bí" là dự án quốc gia, công trình giao thông trọng điểm
nhằm đáp ứng nhu cầu đi lại sinh hoạt, vận tải phục vụ phát triển kinh tế - xã hội
của tỉnh Quảng Ninh nói riêng và vùng Đông Bắc nói chung.
1.1.2. Mục đích, ý nghĩa của việc bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước
thu hồi đất
1.1.2.1. Mục đích
Để thực hiện mục tiêu phát triển đất nước, nền kinh tế của một quốc gia, đặc
biệt là các dự án phát triển đô thị, dự án sản xuất, kinh doanh cần sử dụng đất đai
như một nguồn lực đầu vào tạo mặt bằng sản xuất. Khi đó, Nhà nước phải thu hồi
đất của nhân dân và thực hiện việc BTHT&TĐC cho các hộ bị thu hồi đất.
11
Công tác BTHT&TĐC trong tình hình hiện tại không đơn thuần là bồi
thường về vật chất mà còn phải đảm bảo được lợi ích của người dân phải di chuyển.
Do đó, mục đích chính của công tác BTHT&TĐC là:
- Bồi thường đúng với đất đai bị thu hồi và tài sản bị thiệt hại, đảm bảo cho
người dân khôi phục sản xuất và đời sống sau khi GPMB hoặc tại nơi tái định cư.
- Chỗ ở ổn định, có điều kiện sống bằng hoặc tốt hơn nơi ở cũ, công tác hỗ
trợ đảm bảo ổn định đời sống, sản xuất, hỗ trợ đào tạo chuyển đổi nghề nghiệp để
tạo điều kiện cho người dân sống và ổn định.
- Tái định cư đảm bảo tái thiết lại cơ sở hạ tầng, các điều kiện cho hoạt động
sản xuất kinh doanh và đời sống, thực hiện mục tiêu cuối cùng là tạo lại nguồn thu
nhập và các văn hóa truyền thống, các hoạt động khám chữa bệnh, thể dục thể thao, giáo dục,… và sinh hoạt cộng đồng cho người dân.
1.1.2.2. Ý nghĩa
Thu hồi đất không chỉ làm chấm dứt quan hệ pháp luật về đất đai (làm chấm
dứt quyền sử dụng đất của tổ chức, hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất) mà còn
“đụng chạm” đến lợi ích hợp pháp của các bên có liên quan: Lợi ích của người bị
thu hồi đất; lợi ích của Nhà nước, của xã hội; lợi ích của người hưởng lợi từ việc thu
hồi đất (các nhà đầu tư, doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức, cá nhân…). Do vậy, trên
thực tế việc giải quyết hậu quả của việc thu hồi đất (thực chất là xử lý hài hòa lợi
ích kinh tế giữa các bên) gặp rất nhiều khó khăn, phức tạp. Việc giải quyết tốt vấn
đề BTHT&TĐC khi Nhà nước thu hồi đất sẽ mang lại ý nghĩa to lớn trên nhiều
phương diện:
- Về phương diện chính trị: Giải quyết tốt nhất vấn đề BTHT&TĐC là thực
hiện tốt chính sách để phát triển kinh tế - xã hội góp phần vào việc duy trì, củng cố
sự ổn định về chính trị và đảm bảo các quyền, lợi ích hợp pháp của Nhà nước, nhà
đầu tư và người sử dụng đất.
- Về phương diện kinh tế - xã hội: Thực hiện tốt công tác BTHT&TĐC khi Nhà nước thu hồi đất là điều kiện để người dân nhanh chóng ổn định cuộc sống và doanh nghiệp sớm có mặt bằng triển khai các dự án đầu tư góp phần vào việc thúc
đẩy tăng trưởng của nền kinh tế.
12
1.1.3. Đặc điểm của công tác bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu
hồi đất
Để thực hiện được dự án theo đúng tiến độ, thì trước hết các chủ đầu tư cần
phải giải phóng mặt bằng (GPMB); đó là công việc trọng tâm, hết sức quan trọng,
nhưng phức tạp, tốn kém nhiều thời gian, công sức và tiền của. Ngày nay, việc giải
phóng mặt bằng ngày càng trở nên khó khăn hơn do đất đai ngày càng có giá trị và
khan hiếm. GPMB liên quan đến lợi ích của nhiều cá nhân, tập thể và của cả cộng động dân cư trên một địa bàn nhất định với những đặc điểm chủ yếu như sau:
- Tính đa dạng: Mỗi dự án được tiến hành trên một vùng đất khác nhau với
điều kiện tự nhiên kinh tế, xã hội và trình độ dân trí khác nhau. Tính đa dạng của
đối tượng GPMB dẫn đến quá trình thực hiện công tác BTGPMB có những đặc
điểm khó khăn, phức tạp khác nhau, đòi hỏi việc thực hiện GPMB và giá đất tính
BTHT cũng được tiến hành với những đặc điểm riêng biệt đối với từng địa bàn.
- Tính phức tạp: Ở khu vực nông thôn, dân cư chủ yếu sống nhờ vào hoạt
động sản xuất nông nghiệp mà đất đai lại là tư liệu sản xuất quan trọng trong khi
trình độ sản xuất của nông dân thấp, khả năng chuyển đổi nghề nghiệp khó khăn do
đó tâm lý dân cư vùng này là giữ được đất để sản xuất, thậm chí họ cho thuê đất còn
được lợi nhuận cao hơn là sản xuất nhưng họ vẫn không cho thuê; tình hình đó đã
dẫn đến công tác tuyên truyền, vận động dân cư tham gia di chuyển là rất khó khăn
và việc hỗ trợ chuyển nghề nghiệp là điều cần thiết để đảm bảo đời sống dân cư sau
này. Ở khu vực đô thị, việc thu hồi đất, bồi thường GPMB liên quan đến đất ở lại
càng phức tạp hơn do đất ở là tài sản có giá trị lớn, gắn bó trực tiếp với đời sống và
sinh hoạt của người dân mà tâm lý, tập quán là ngại di chuyển chỗ ở; nguồn gốc sử
dụng đất phức tạp, tình trạng lấn chiếm, xây dựng nhà trái phép chưa được xử lý
dẫn đến việc phân tích hồ sơ đất đai và áp giá phương án bồi thường gặp rất nhiều
khó khăn. Tình trạng chung thiếu quỹ đất dành cho xây dựng khu tái định cư cũng
như chất lượng khu tái định cư thấp chưa đảm bảo được yêu cầu,... Sự tồn tại cơ chế 2 giá với sự chênh lệch lớn giữa giá đất Nhà nước và giá thị trường làm cho việc áp dụng giá đất ở để tính bồi thường không được sự đồng thuận của những người dân.
13
1.1.4. Một số nguyên tắc bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi
đất
1.1.4.1. Nguyên tắc bồi thường.
Nguyên tắc bồi thường Các chế định bồi thường về đất, hỗ trợ và tái định cư
khi Nhà nước thu hồi đất trong Luật Đất đai năm 2013 được quy định tại 3 điều
(Điều 41, 42 và 43) và trên thực tế không thể thể chế, truyền tải hết các quy định
mang tính nguyên tắc để thực hiện thống nhất khi xử lý những vấn đề phức tạp phát
sinh trong thực tiễn thu hồi đất, bồi thường về đất, hỗ trợ và tái định cư tại các địa
phương, các bộ, ngành. Khắc phục hạn chế này, Luật Đất đai năm 2013 đã tách
nguyên tắc bồi thường về đất và nguyên tắc bồi thường thiệt hại về tài sản, ngừng
sản xuất, kinh doanh khi Nhà nước thu hồi đất thành 02 điều riêng biệt (Điều 74 và
Điều 88). Trong đó quy định cụ thể các nguyên tắc bồi thường về đất và các nguyên
tắc bồi thường thiệt hại về tài sản gắn liền với đất khi Nhà nước thu hồi đất để các
bộ, ngành, địa phương và người thu hồi đất căn cứ vào đó thống nhất thực hiện. Nội
dung cụ thể nguyên tắc bồi thường như sau:“Điều 74. Nguyên tắc bồi thường về đất
khi Nhà nước thu hồi đất"
1. Người sử dụng đất khi Nhà nước thu hồi đất nếu có đủ điều kiện được bồi
thường quy định tại Điều 75 của Luật này thì được bồi thường.
2. Việc bồi thường được thực hiện bằng việc giao đất có cùng mục đích sử
dụng với loại đất thu hồi, nếu không có đất để bồi thường thì được bồi thường bằng
tiền theo giá đất cụ thể của loại đất thu hồi do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định
tại thời điểm quyết định thu hồi đất.
3. Việc bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất phải bảo đảm dân chủ, khách
quan, công bằng, công khai, kịp thời và đúng quy định của pháp luật”. Nguyên tắc
trên thể hiện khi nhà nước lấy đi phần lợi ích của người dân mà người dân có đầy
đủ điều kiện được bồi thường thì Nhà nước có trách nhiệm phải bồi thường thiệt
hại. Quy định trên phù hợp với nguyên tắc dân sự được quy định trong Luật dân sự
2015. Khi Nhà nước lấy đất thì bồi thường bằng đất cùng loại, nếu không có đất
cùng loại thì bồi thường bằng tiền với giá trị tương đương. Cách tiếp cận này xuất
phát từ quan niệm coi đất đai là tài sản có thể được trả thay bằng tiền bồi thường để
14
mua được một thửa đất tương đương. Quy định này cũng nhằm ngăn ngừa tình
trạng người bị THĐ đòi hỏi giá bồi thường quá cao do giá trị của đất đai tăng lên từ
việc chuyển mục đích SDĐ hoặc do sự đầu tư của Nhà nước mang lại. Việc bồi
thường phải dân chủ khách quan, tức là phải đảm bảo khi người dân bị thu hồi đất
mà có các đủ điều kiện nhận bồi thường, họ phải được bồi thường. Đây là quyền
liên quan tới lợi ích chính đáng mà không một ai hay tổ chức cá nhân nào không
cho họ thực hiện. Điều 88 đã quy định cụ thể các Nguyên tắc bồi thường thiệt hại về
tài sản sản xuất, kinh doanh khi Nhà nước thu hồi đất, đó là: “Khi Nhà nước thu hồi
đất mà chủ sở hữu tài sản hợp pháp gắn liền với đất bị thiệt hại về tài sản thì được
bồi thường” và “khi Nhà nước thu hồi đất mà tổ chức, hộ gia đình, cá nhân, người
Việt Nam định cư ở nước ngoài, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài phải
ngừng sản xuất, kinh doanh mà có thiệt hại thì được bồi thường thiệt hại”.
Có thể nói, đây là một điểm mới và có sự tiến bộ vượt bậc của luật đất đai
2013 khi đã bắt đầu xem xét bồi thường về đất không chỉ với tư cách là tài sản mà
còn là tài nguyên và tư liệu sản xuất. Trên thực tế, ngoài ý nghĩa là tài sản, đất đai
còn là tài nguyên thiên nhiên, tư liệu sản xuất và nguồn sống của con người. Vì đất
là tư liệu sản xuất của người bị thu hồi đất nên nhà đầu tư ngoài việc bồi thường giá
trị như một tài sản còn phải bồi thường về thu nhập, sinh kế cho người mất đất. Nếu
chỉ là khoản hỗ trợ trong một thời gian nhất định thì coi như đã phó mặc việc tìm
sinh kế mới cho người mất đất. Do đó, thay vì phó mặc gánh nặng hỗ trợ đào tạo
nghề đối với người mất đất cho Nhà nước, nhà đầu tư cần phải được yêu cầu cùng
bàn bạc với người mất đất về cơ hội tìm sinh kế mới cho họ; đồng thời, nhà đầu tư
phải chi trả cho người mất đất một khoản tiền tương ứng với mức thu từ sử dụng đất trước đây cho tới khi người bị mất đất có nguồn thu nhập mới và theo nguyên tắc, càng để lâu, chi phí bồi thường càng lớn để bắt buộc nhà đầu tư không thể trì hoãn. Theo nguyên tắc này, nhà đầu tư cần nghiên cứu rất kỹ lưỡng đất đai trong bài toán
đầu tư để chi phí ít nhất, chính quyền địa phương cũng khó đánh đổi mọi giá cho sự phát triển, như vậy chắc chắn sẽ giảm được tham nhũng từ đất đai và bảo vệ được nguồn lực đất đai.
1.1.4.2. Nguyên tắc hỗ trợ, tái định cư .
Đây cũng được coi là một điểm mới của Luật Đất đai năm 2013. Khoản 1,
Điều 83 quy định về nguyên tắc hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất. Cụ thể như sau:
15
Về nguyên tắc hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất:
a) Người sử dụng đất khi Nhà nước thu hồi đất ngoài việc được bồi thường
theo quy định của Luật này còn được Nhà nước xem xét hỗ trợ;
b) Việc hỗ trợ phải bảo đảm khách quan, công bằng, kịp thời, công khai và
đúng quy định của pháp luật.”
Thứ nhất, quy định về hỗ trợ đào tạo, chuyển đổi nghề và tìm kiếm việc làm
cho hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp khi Nhà nước thu hồi đất
nông nghiệp mà không có đất nông nghiệp để bồi thường.
Thứ hai, quy định về hỗ trợ đào tạo, chuyển đổi nghề và tìm kiếm việc làm
cho hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất ở kết hợp kinh doanh, dịch vụ mà nguồn thu
nhập chính từ hoạt động kinh doanh dịch vụ khi Nhà nước thu hồi đất ở mà phải di
chuyển chổ ở.
Thứ ba, một trong các hình thức hỗ trợ là hỗ trợ về chỗ ở, tái định cư. Nhằm
khắc phục tình trạng một số khu vực tái định cư chất lượng còn thấp, không đồng
bộ về cơ sở hạ tầng, chưa đảm bảo tiêu chí có điều kiện phát triển bằng hoặc tố hơn
nơi ở cũ. Nhiều địa phương chưa lập khu tái định cư chung cho các dự án tại địa
bàn nên nhiều dự án chưa có khu tái định cư đã thực hiện thu hồi đất ở, thậm chí có
những dự án mà người có đất bị thu hồi phải đi thuê nhà để ở nhiều năm mà vẫn
chưa được bồ trí vào khu tái định cư, Luật Đất đai năm 2013 đã quy định về lập và
thực hiện dự án tái định cư, bố trí tái định cư cho người bị thu hồi đất ở mà phải di
chuyển chỗ ở.
Luật đất đai 2013 đã thể hiện tính dân chủ, công bằng, kịp thời, công khai và đúng quy định của pháp luật: Ở cả trong nguyên tắc về bồi thường cũng như hỗ trợ
khi nhà nước thu hồi đất đều đề cập tới tính bảo đảm khách quan, công bằng, kịp
thời, công khai minh bạch, dân chủ, đúng pháp luật. Đây là một đòi hỏi khách quan trong quá trình thực thi các quy định của pháp luật về bồi thường hỗ trợ tái định cư khi nhà nước thu hồi đất, vừa là cơ chế để kiểm soát hoạt động này. Bởi tất cả nội dung, phạm vi, giới hạn, trình tự, thủ tục…bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất đều do pháp luật quy định.
16
1.2. Lịch sử hình thành và phát triển của pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái
định cư khi nhà nước thu hồi đất
1.2.1. Giai đoạn sau năm 1975 đến trước khi ra đời Luật đất đai năm 1993.
Trên cơ sở Hiến pháp năm 1980 quy định đất đai thuộc sở hữu toàn dân, do
Nhà nước thống nhất quản lý. Vì vậy, việc thực hiện đền bù về đất không được thực
hiện mà chỉ thực hiện đền bù về tài sản gắn liền với đất hoặc những thiệt hại do việc
thu hồi đất gây nên. Ngày 01/7/1980 Hội đồng Chính phủ ra Quyết định số 201/CP
về việc: Không được phát canh thu tô, cho thuê, cầm cố hoặc bán nhượng đất với
bất kỳ hình thức nào, không được dùng để thu những khoản lợi nhuận không do thu
nhập mà có, trừ trường hợp do Nhà nước quy định”. Quan hệ đất đai thời kỳ này
đơn thuần chỉ là quan hệ “giao-thu” giữa Nhà nước và người sử dụng. Ngày
31/5/1990, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Nghị định 186/HĐBT về việc đền bù thiệt
hại đất Nông nghiệp, đất có rừng khi chuyển sang mục đích khác phải đền bù thiệt
hại về đất nông nghiệp, đất có rừng cho Nhà nước. Tiền bồi thường tài sản trên mặt
đất và tài sản trong lòng đất cho chủ sử dụng không phụ thuộc vào các khoản đền
bù về đất. Khung giá đền bù thiệt hại do Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố, đặc khu
trực thuộc trung ương quy định cụ thể. Mức bồi thường đối với quận, huyện, thành
phố thuộc tỉnh sát với giá đất địa phương, nhưng không được thấp hơn hoặc cao hơn
giá quy định của Chính phủ.
1.2.2. Giai đoạn sau khi ban hành Luật đất đai 1993 đến khi Luật đất đai 2003 có
hiệu lực.
Luật Đất đai năm 1993 có hiệu lực từ ngày 15/10/1993 thay thế cho Luật Đất
đai năm 1988. Đây là văn bản pháp luật quan trọng nhất đối với việc thu hồi đất và
bồi thường thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất. Tại Điều 27 quy định: “Trong trường
hợp thật cần thiết, Nhà nước thu hồi đất sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng thì người thu hồi đất được đền bù thiệt hại”.
Hiến pháp 1992 ra đời thay thế Hiến pháp năm 1980 đã quy định: “Nhà
nước phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự
quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa”. Điều 18 Hiến pháp năm
1992 quy định: “Các tổ chức và cá nhân được Nhà nước giao đất sử dụng lâu dài và
được chuyển nhượng quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật”. Luật Đất đai
17
được Quốc hội thông qua ngày 26/11/2003, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2004.
Luật Đất đai ra đời với những quy định tiến bộ, phù hợp có ý nghĩa cũng như tác
động quan trọng đến đời sống xã hội, góp phần phát triển kinh tế xã hội, nâng cao
hiệu lực quản lý đất đai, khuyến khích việc sử dụng hợp lý và có hiệu quả nguồn lực
đất đai. Mặt khác, những quy định tại Luật Đất đai năm 2003 có ý nghĩa đặc biệt
quan trọng trong việc bảo vệ các quyền của người sử dụng đất. Có thể nói, Luật đất
đai năm 1993 đã những quy định vượt bậc và hết sức phù hợp với thực tế đối với
chính sách thu hồi đất và đền bù thiệt hại cho người có đất bị thu hồi. Luật đất đai
năm 1993 đã quy định rõ hơn về quyền của người được giao đất bao gồm: quyền
chuyển đổi, chuyển nhượng, thừa kế, cho thuê, thế chấp. Đồng thời, Chính phủ quy
định khung giá cho từng loại đất, từng vùng và theo thời gian. Sau khi Luật đất đai
1993 có hiệu lực, Chính phủ ban hành Nghị định số 90/CP-NĐ ngày 17/8/1994 để
cụ thể hóa chính sách bồi thường. Tuy nhiên, có thể nói chính sách bồi thường của
Nghị định này vẫn còn rất nhiều hạn chế như: Chưa bù đắp được một cách đầy đủ
những thiệt hại gây ra từ việc thu hồi đất, chỉ bồi thường thiệt hại từ đất và bồi
thường thiệt hại về tài sản cho nên người bị thu hồi đất gặp nhiều khó khăn, không
đủ khả năng tái tại lại cuộc sống so với trước khi bị thu hồi. Hơn nữa, quyền và
nghĩa vụ của họ chưa được quan tâm một cách đầy đủ. Đến năm 1998, Chính phủ
ban hành Nghị định số 22/1998 ngày 24/4/1998 để thay thế Nghị định 90/CP, chính
sách bồi thường đã thay đổi và có sự mở rộng phạm vi bồi thường để bù đắp một
phần nào đó cho người bị thu hồi đất nhưng vẫn chưa bảo đảm hết thiệt hại. Đặc
biệt, với sự ra đời của Luật đất đai năm 2003, đã khắc phục được những thiếu sót và
bất cập trong công tác bồi thường. Trong đó có những quy định cụ thể về việc tính
bồi thường về đất, điều kiện nơi tái định cư đối với các trường hợp được áp dụng cơ
chế chuyển đổi đất đai bắt buộc. Trong thời gian này, Nhà nước ban hành rất nhiều
các văn bản dưới Luật như: Nghị định, Thông tư và các văn bản pháp quy khác về
quản lý đất đai nhằm cụ thể hóa các điều luật, trong đó có những quy định chi tiết
về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất để giải phóng mặt bằng.
Nghị định 69/2009/NĐ-CP quy định cụ thể về quy hoạch sử dụng đất, giá đất, bồi thường bỗ trợ , tái định cư; trình tự, thủ tục thu hồi đất, giao đất và cho thuê
18
đất; phát triển quỹ đất, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, sử dụng đất công
trình ngầm và gia hạn sử dụng đất. Nghị định đã góp phần giải quyết nhiều khó
khăn, vướng mắc trong quản lý, sử dụng đất đai. Với nhiều thay đổi tích cực và
thông thoáng về các quy trình thủ tục trong các khâu như: Quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất.
1.2.3. Pháp luật về Bồi thường khi nhà nước khi thu hồi đất quy định theo Hiến
pháp 2013 và Luật Đất đai năm 2013.
Đất đai là vấn đề lớn, phức tạp và rất nhạy cảm, tác động trực tiếp đến kinh
tế, chính trị, xã hội, sự ổn định và phát triển của đất nước. Sau 10 năm thi hành Luật
Đất đai 2003 đã góp phần tích cực vào sự phát triển kinh tế, giữ vững ổn định chính
trị, đảm bảo an sinh xã hội; đã thu hẹp sự phân biệt giữa nhà đầu tư trong nước và
nước ngoài trong việc tiếp cận đất đai; khắc phục những bất cập về bồi thường, hỗ
trợ khi Nhà nước thu hồi đất; đổi mới công tác giải quyết tranh chấp, khiếu nại về
đất đai.đã góp phần quan trọng vào sự nghiệp công hóa, hiện đại hóa đất nước.
Tuy nhiên, trước biến động không ngừng của nền kinh tế, đặc biệt là các giao
dịch bất động sản đã bộc lộ dần những hạn chế, trong đó có quyền sử dụng đất còn
bộc lộ những yếu kém, không ổn định, phát triển thiếu lành mạnh, giao dịch “ngầm”
khá phổ biến Những bất cập của Luật Đất đai năm 2003 biểu hiện ở một số nội
dung cơ bản sau:
Thứ nhất: Các quy định của pháp luật chưa làm rõ cơ chế thực hiện các
quyền định đoạt của Nhà nước với vai trò là đại diện chủ sở hữu đất đai, chưa giải
quyết hài hòa về lợi ích giữa Nhà nước, người sử dụng đất và nhà đầu tư. Quyền và
nghĩa vụ của người sử dụng đất chưa được quy định đầy đủ, nhất là điều kiện thực
hiện các quyền.
Thứ hai: Các quy định về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu
hồi đất thường xuyên thay đổi đã dẫn tới tình trạng bị so bì, khiếu nại của người có
đất bị thu hồi qua các dự án hoặc trong một dự án nhưng thực hiện thu hồi đất qua
nhiều năm, mặt khác giá đất bồi thường chủ yếu thực hiện theo khung giá nhà nước
quy định nên còn thấp so với giá đất thị trường, điều này dẫn đến những phản ứng
gay gắt của người sử dụng đất.
19
Thứ ba: Các quy định của pháp luật chưa làm rõ cơ chế thực hiện các quyền
định đoạt của Nhà nước với vai trò là đại diện chủ sở hữu đất đai, chưa giải quyết
hài hòa về lợi ích giữa Nhà nước, người sử dụng đất và nhà đầu tư. Quyền và nghĩa
vụ của người sử dụng đất chưa được quy định đầy đủ, nhất là điều kiện thực hiện
các quyền.
Thứ tư: Việc thực hiện cơ chế tự thỏa thuận đã tạo điều kiện cho nhà đầu tư
chủ động quỹ đất thực hiện dự án, rút ngắn thời gian giải phóng mặt bằng, đồng thời
giảm tải công việc cho các cơ quan nhà nước trong việc thu hồi đất. Tuy nhiên, đã
tạo ra sự chênh lệch lớn về giá đất so với dự án do Nhà nước thu hồi trong cùng khu
vực, hơn nữa, có nhiều dự án, người bị thu hồi đất đòi hỏi giá đất cao hơn, không
hợp tác với nhà đầu tư, khiến dự án bị chậm tiến độ do đó rất khó hoàn thành việc
giải phóng mặt bằng (27, tr.66).
Thứ năm: Việc chuẩn bị phương án bồi thường, hỗ trợ chưa được các cấp
chính quyền quan tâm đúng mức, nhất là phương án giải quyết việc làm cho người
nông dân bị thu hồi đất nông nghiệp, chưa có một chế tài đủ mạnh khiến cho các
chủ đầu tư phải có ý thức trách nhiệm trong việc sắp xếp việc làm cho người bị thu
hồi đất. Nhằm đảm bảo tốt hơn quyền và lợi ích hợp pháp cho người bị thu hồi đất,
khắc phục bất cập và điều tiết một cách hài hòa lợi ích giữa Nhà nước, người sử
dụng đất và nhà đầu tư, đồng thời nhằm giảm khiếu kiện trong bồi thường, giải
phóng mặt bằng, Luật Đất đai năm 2013 có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/7/2014
vừa tiếp tục kế thừa, luật hóa những quy định còn phù hợp của pháp luật đất đai
năm 2003, nhưng đồng thời sửa đổi, bổ sung một số quy định mới nhằm tháo gỡ
những hạn chế, bất cập, đưa chính sách về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư đi vào
cuộc sống. Quy định cụ thể về bồi thường chi phí đầu tư vào đất còn lại (Điều 76),
cho một số trường hợp không được bồi thường về đất. Đối vớinhững trường hợp
được bồi thường chi phí đầu tư vào đất còn lại khi Nhà nước thu hồi đất bao gồm:
Đất được Nhà nước giao không thu tiền sử dụng đất, trừ trường hợp đất nông
nghiệp được Nhà nước giao cho hộ gia đình, cá nhân quy định tại khoản 1 Điều 54
của Luật này; đất được Nhà nước giao cho tổ chức thuộc trường hợp có thu tiền sử
dụng đất nhưng được miễn tiền sử dụng đất; đất được Nhà nước cho thuê trả tiền
20
thuê đất hàng năm; đất thuê trả tiền thuê đất một lần cho cả thời gian thuê nhưng
được miễn tiền thuê đất, trừ trường hợp hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất thuê do
thực hiện chính sách đối với người có công với cách mạng; đất nông nghiệp thuộc
quỹ đất công ích của xã, phường, thị trấn; đất nhận khoán để sản xuất nông lâm
nghiệp, nuôi trồng thủy sản, làm muối. Luật đất đai năm 2013 cũng đã bổ sung quy
định về việc bồi thường, hỗ trợ, tái định cư đối với các trường hợp đặc biệt (Điều
87). Bổ sung trường hợp thu hồi đất ở trong khu vực bị ô nhiễm môi trường có nguy
cơ đe dọa tính mạng con người, đất ở có nguy cơ sạt lở, sụt lún, bị ảnh hưởng bởi
hiện tượng thiên tai khác đe dọa tính mạng con người thì người có đất thu hồi được
bồi thường, hỗ trợ, tái định cư để ổn định đời sống, sản xuất theo quy định của
Chính phủ. Đối với dự án đầu tư do Quốc hội quyết định chủ trương đầu tư, Thủ
tướng Chính phủ chấp thuận chủ trương đầu tư mà phải di chuyển cả cộng đồng dân
cư, làm ảnh hưởng đến toàn bộ đời sống, kinh tế - xã hội, truyền thống văn hóa của
cộng đồng, các dự án thu hồi đất liên quan đến nhiều tỉnh, thành phố trực thuộc
trung ương thì Thủ tướng Chính phủ quyết định khung chính sách bồi thường, hỗ
trợ, tái định cư. Đối với dự án sử dụng vốn vay của các tổ chức quốc tế, nước ngoài
mà Nhà nước Việt Nam có cam kết về khung chính sách bồi thường, hỗ trợ, tái định
cư thì thực hiện theo khung chính sách đó. Nhằm hướng dẫn thi hành những quy
định của Luật Đất đai năm 2013 liên quan đến vấn đề bồi thường, hỗ trợ, tái định cư
khi Nhà nước thu hồi đất, ngày 15/5/2014 Chính phủ đã ban hành Nghị định số
47/2014/NĐ-CP “Quy định về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi
đất” (thay thế Nghị định số 197/2004/NĐ-CP); cũng trong ngày 15/5/2014 Chính
phủ đã ban hành Nghị định số 44/2014/NĐ-CP “Quy định về giá đất” (thay thế
Nghị định số 188/2004/NĐ-CP; Nghị định 123/2007/NĐ-CP…). Đây là những cơ
sở pháp lý quan trọng để thực hiện việc bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước
thu hồi đất trong thời gian tới.
21
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ BÒI THƯỜNG,
HỖ TRỢ, TÁI ĐỊNH CƯ KHI NHÀ NƯỚC THU HÒI ĐẤT CHO DỰ ÁN
CẢI TẠO, NÂNG CẤP QUỐC LỘ 18A TẠI THÀNH PHỐ UÔNG BÍ
2.1. Khái quát về dự án cải tạo, nâng cấp quốc lộ 18A tại thành phố Uông Bí
2.1.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội của thành phố Uông Bí
2.1.1.1. Điều kiện tự nhiên
a. Vị trí địa lý
Thành phố Uông Bí nằm ở phía Tây Nam của tỉnh Quảng Ninh cách thành
phố Hạ Long 45 km, cách Hà Nội 120 km, cách Hải Phòng 30 km. Tổng diện tích
tự nhiên là 25546,40 ha chiếm 4,03% tổng diện tích tự nhiên của tỉnh Quảng Ninh.
Vị trí địa lý của Uông Bí nằm trong khoảng từ 21000’ đến 21010’ Vĩ độ Bắc và từ
106040’đến 106052’ kinh độ Đông:
- Phía Bắc giáp huyện Sơn Động - tỉnh Bắc Giang;
- Phía Nam giáp Thị xã Quảng Yên và thành phố Hải Phòng;
- Phía Đông giáp huyện Hoành Bồ;
- Phía Tây giáp huyện Đông Triều.
Thành phố Uông Bí nằm cách không xa hai khu trung tâm kinh tế lớn Hải
Phòng và Hạ Long, có đường Quốc lộ 18, đường Quốc lộ 10 và tuyến đường sắt Hà
Nội - Kép - Bãi Cháy chạy qua đã tạo cho Uông Bí một vị trí thuận lợi trong giao
lưu kinh tế - văn hoá - xã hội, thu hút vốn đầu tư trong nước và nước ngoài. Uông
Bí là một trong những địa bàn quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội
của tỉnh Quảng Ninh.
Với vị trí và những lợi thế, Uông Bí có điều kiện phát triển nhanh kinh tế -
xã hội, thực hiện đô thị hoá, công nghiệp hoá, hiện đại hoá trở thành động lực quan
trọng thúc đẩy phát triển các vùng xung quanh và tỉnh Quảng Ninh trong tam giác
phát triển kinh tế Bắc Bộ là Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh.
22
Sơ đồ 2.1: Bản đồ Hành chính thành phố Uông Bí
(Nguồn: Phòng Tài nguyên và Môi trường thành phố)
b. Khí hậu, thủy văn
Do vị trí địa lý và địa hình nằm trong cánh cung Đông Triều - Móng Cái, có
nhiều dãy núi cao ở phía Bắc và thấp dần xuống phía Nam đã tạo cho Uông Bí một
chế độ khí hậu đa dạng, phức tạp vừa mang tính chất khí hậu miền núi vừa mang
tính chất khí hậu miền duyên hải.
Dãy núi Bình Hương với độ cao 384 - 358 m nằm giữa vùng núi Yên Tử và
23
núi Bảo Đài đã tạo nên dải thung lũng dài, hẹp và vùng đất thấp làm cho khí hậu
Uông Bí phân thành nhiều tiểu vùng khác nhau: vùng núi cao phía Bắc đường 18B
có khí hậu miền núi lạnh và mưa vừa; vùng núi cao dọc đường 18B có khí hậu
thung lũng, ít mưa, mùa hè nóng, mùa đông lạnh; vùng núi nằm giữa phía Nam
đường 18B và phía Bắc đường 18 kéo dài đến hạ lưu sông Đá Bạc có tích chất khí
hậu miền duyên hải.
Hệ thống sông suối của Thành phố phần lớn là các sông nhỏ, diện tích lưu
vực hẹp, nguồn nước và lưu lượng không lớn. Sông lớn nhất và có ảnh hưởng mạnh
tới chế độ thuỷ văn của Thành phố là sông Đá Bạc, đoạn chảy qua Thành phố
(thuộc địa phận các xã, phường Phương Nam, Phương Đông, Yên Thanh và Quang
Trung) có chiều dài 12 km, rộng trung bình 400 m, độ sâu lúc thủy triều lên đảm
bảo cho tàu 5.000 tấn và xà lan 400 - 500 tấn ra vào cảng; là đường thủy liên tỉnh,
tàu bè và thuyền lớn có thể đi lại vận chuyển vật tư, hàng hóa đi Hải Dương, Hải
Phòng và ngược lại.
Ngoài sông Đá Bạc, Thành phố còn có các con sông khác như Vàng Danh,
sông Uông và sông Sinh. Sông Vàng Danh là thượng nguồn của sông Uông, là
nguồn cung cấp nước chủ yếu cho Uông Bí. Sông Uông được tiếp nối từ sông Vàng
Danh, kết thúc ở phần đất phường Quang Trung, là ranh giới giữa vùng nước ngọt
và nước mặn, có đập tràn để lấy nước làm mát nhà máy điện Uông Bí. Sông Sinh
bắt nguồn từ vùng núi phía tây bắc Uông Bí chảy qua trung tâm Thành phố (giữa
phường Yên Thanh và phường Quang Trung), cắt trục đường 18 với chiều dài 15
km, sông này có khả năng cung cấp nước cho sản xuất nông nghiệp. Các sông đều
xuất phát từ các dãy núi cao chảy qua Thành phố và đổ vào sông Đá Bạc.
c. Tài nguyên đất.
Uông Bí có diện tích đất tự nhiên là 25546,40 ha; trong đó 4420,56 ha là
diện tích đất sản xuất nông nghiệp, bằng 17,30% diện tích đất tự nhiên; 13554,58 ha
là diện tích đất lâm nghiệp, bằng 53,66% diện tích đất tự nhiên; 4965,17 ha là diện
tích đất ở, đất chuyên dùng, bằng 19,44% diện tích đất tự nhiên; 1020,75 ha là diện
tích đất chưa sử dụng, bằng 3,99% diện tích đất tự nhiên; còn lại đất nuôi trồng thủy
24
sản và đất nông nghiệp khác.
Bảng 2.1: Bảng hiện trạng sử dụng đất tại thành phố Uông Bí
Cơ cấu diện tích Tổng diện loại đất so với tổng STT LOẠI ĐẤT Mã
tích các loại đất diện tích trong đơn vị hành chính
(1) (2) (3) (4) (5)
Tổng diện tích đất tự nhiên 25546,40 100,00 (1+2+3)
NNP 1 Nhóm đất nông nghiệp 19560,49 76,57
SXN 1.1 Đất sản xuất nông nghiệp 4420,56 17,30
CHN 1.1.1 Đất trồng cây hàng năm 1985,72 7,77
CLN 1.1.2 Đất trồng cây lâu năm 2434,84 9,53
LNP 1.2 Đất lâm nghiệp 13554,58 53,06
RSX 1.2.1 Đất rừng sản xuất 9671,41 37,86
RPH 1.2.2 Đất rừng phòng hộ 1494,18 5,85
RDD 1.2.3 Đất rừng đặc dụng 2389,00 9,35
NTS 1.3 Đất nuôi trồng thuỷ sản 1570,29 6,15
LMU 1.4 Đất làm muối
NKH 1.5 Đất nông nghiệp khác 15,05 0,06
PNN 2 Nhóm đất phi nông nghiệp 4965,17 19,44
OCT 2.1 Đất ở 545,73 2,14
ONT 2.1.1 Đất ở tại nông thôn 51,45 0,20
ODT 2.1.2 Đất ở tại đô thị 494,28 1,93
CDG 2.2 Đất chuyên dùng 2911,19 11,40
TON 2.3 Đất cơ sở tôn giáo 37,90 0,15
TIN 2.4 Đất cơ sở tín ngưỡng 0,57
NTD 2.5 Đất nghĩa trang, nghĩa địa 47,86 0,19
2.6 Đất sông, ngòi, kênh, rạch, suối SON 1201,24 4,70
2.7 Đất có mặt nước chuyên dùng MNC 219,78 0,86
2.8 Đất phi nông nghiệp khác PNK 0,89
25
Cơ cấu diện tích Tổng diện loại đất so với tổng STT LOẠI ĐẤT Mã tích các loại diện tích trong đơn đất vị hành chính
(4) (5) (1) (2) (3)
1020,75 3,99 3 Nhóm đất chưa sử dụng CSD
402,99 1,58 3.1 Đất bằng chưa sử dụng BCS
437,92 1,71 3.2 Đất đồi núi chưa sử dụng DCS
179,83 0,70 3.3 Núi đá không có rừng cây NCS
2.1.1.1. Tình hình phát triển kinh tế - xã hội thành phố Uông Bí
(Nguồn: Phòng Tài nguyên và Môi trường thành phố Uông Bí năm 2017)
a. Tình hình dân số - lao động
Hiện trạng dân số:Theo báo cáo điều tra dân số tại Phòng thống kê
Thành phố Uông Bí đến năm 2017, toàn thành phố có 123.601 người (trong đó
nam có 64.288 người chiếm 52%, nữ có 59.314 người chiếm 48%) và tiếp tục
gia tăng trong năm 2018.
Thành phố có 11 đơn vị hành chính gồm 09 phường, 2 xã; 101 thôn, khu;
gồm 5 dân tộc là: Kinh, Dao, Tày, Sán Dìu, Hoa. Mật độ dân số của thành phố
Uông Bí năm 2016 là 484 người/km2.
26
Bảng 2.1: Tình hình dân số thành phố Uông Bí
Đơn vị tính: Người
Phân theo giới tính Phân theo thành thị, nông thôn Tiêu chí Tổng số
Nam Nữ Thành thị Nông thôn
I. Dân số (Người)
2015 2016 2017 118.328 120.933 123.602 61.249 62.703 64.288 57.079 58.230 59.314 110.531 113.110 115.625 7.797 7.823 7.977
II. Tốc độ tăng (%)
2015 2016 2017 102,2 102,2 102,2 102,5 102,0 101,9 102,2 102,3 102,2 102,2 100,3 102,0
102,0 102,4 102,5
(Nguồn: Phòng Thống kê thành phố năm 2015-2017)
Nghiên cứu bảng trên ta thấy tỉ lệ dân số qua các năm và ở hai khu vực thành
thị và nông thôn không biến động nhiều.
Hiện trạng nguồn nhân lực: Trong giai đoạn 2015 - 2017, lực lượng lao động
của thành phố Uông Bí tăng bình quân 2%/năm. Năm 2017, lực lượng lao động thành
phố có gần 77.000 người. Xét về cơ cấu, giai đoạn 2015 - 2017 lực lượng lao động
công nghiệp, xây dựng; lao động thương mại - dịch vụ tăng, trong khi đó, lao động hoạt
động trong lĩnh vực Nông - Lâm - Ngư nghiệp giảm, điều này hoàn toàn phù hợp với
xu hướng phát triển chung của thành phố.
Bảng 2.1: Bảng Cơ cấu lao động trong độ tuổi của thành phố Uông Bí
Giới tính (người) Năm
Nữ
2015 2016 2017 Trong tuổi lao động (người) Nam 36.955 39.174 42.092 Nam 61.249 57.079 62.703 58.230 64.288 59.314 19.285 18.520 17.868 Cơ cấu lao động (%) NLN nghiệp CN-XD DVTM 15.375 15.835 17.109 28.420 29.845 31.330
Nữ 32.533 33.949 34.845 (Nguồn: Phòng Thống kê thành phố năm 2015-2017)
b. Tình hình tăng trưởng kinh tế và cơ cấu kinh tế
27
Trong những năm qua, thành phố Uông Bí đã có tốc độ tăng trưởng kinh tế
cao, bền vững; đời sống nhân dân được cải thiện đáng kể cả về vật chất lẫn tinh
thần.
Trong giai đoạn từ năm 2015-2017, tốc độ tăng trường kinh tế bình quân 5
năm của Thành phố Uông Bí đạt 12%, các ngành kinh tế trọng điểm như công nghiệp
(khai thác than, sản xuất vật liệu xây dựng, nhiệt điện, xi măng, cơ khí, chế tạo…),
dịch vụ thương mại, du lịch có bước phát triển về quy mô, chất lượng, hiệu quả. Cơ
cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực, tỷ trọng khu vực I (nông lâm ngư
nghiệp), khu vực II (công nghiệp-xây dựng) giảm dần từ 11% năm 2015 xuống
7,54% năm 2017, công nghiệp - xây dựng giảm dần từ 53,97% xuống còn 51,51%
năm 2017. Tỷ trọng khu vực III (dịch vụ-du lịch-thương mại) tăng từ 35,03% năm
2015 lên 40,95% năm 2017. Các ngành dịch vụ, du lịch, thương mại của thành phố có
bước phát triển mạnh, đa dạng, đạt mức tăng trưởng khá, giá trị kinh doanh dịch vụ,
thương mại, du lịch tăng trưởng bình quân là 21,2% .
c. Tình hình phát triển một số ngành, lĩnh vực chủ yếu
- Về thương mại, dịch vụ, du lịch:
+ Thương mại - dịch vụ: các ngành dịch vụ, thương mại trên địa bàn phát
triển đa dạng, tốc độ cao. Hàng năm Thành phố đều tổ chức tốt hội chợ thương mại
quốc tế Uông Bí; mức lưu chuyển hàng hoá tăng 15% năm.
+ Du lịch: Thành phố tập trung đầu tư phát triển 2 loại hình: du lịch tâm linh
và du lịch sinh thái tại Yên Tử, Ba Vàng, Hang Son, Lựng Xanh và Hồ Yên trung.
Lượng khách tham quan du lịch về Uông Bí tăng nhanh từ 1,7 triệu lượt khách năm
2014 lên 2,56 triệu lượt khách năm 2016.
+ Tài chính: Các lĩnh vực tài chính, ngân hàng, bảo hiểm phát triển nhanh về
số lượng mạng lưới, đa dạng về loại hình phục vụ tốt sự phát triển của các ngành
kinh tế tại địa phương. Đến nay, trên địa bàn Thành phố đã có 19 ngân hàng thương
mại.
- Công nghiệp, xây dựng:
28
Trên địa bàn Thành phố có trên 421 doanh nghiệp Trung ương và địa
phương. Sản xuất kinh doanh cơ bản ổn định, duy trì tốc độ tăng trưởng khá.
Giá trị sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp hàng năm tăng trên
10%/năm.
- Nông, lâm, thủy sản:Thành phố đã xây dựng quy hoạch 07 vùng sản xuất
nông nghiệp tập trung, cho 5 sản phẩm nông nghiệp được cấp chứng nhận thương
hiệu: vải chín sớm Phương Nam, Thanh long ruột đỏ, Mai vàng Yên Tử, nhựa thông, rượu mơ Yên Tử, ngoài ra còn có vùng nuôi trồng thủy sản, vùng sản xuất
hoa cao cấp và rau an toàn. Từ đó tạo ra nhiều thuận lợi cho việc quảng bá sản
phẩm, mở rộng thị trường tiêu thụ; tích cực ứng dụng, chuyển giao tiến bộ kỹ thuật
về giống, chăm sóc, nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm. Ngành lâm nghiệp chiếm 10,0% trong cơ cấu giá trị sản xuất nông - lâm - ngư nghiệp. Ngành Nuôi
trồng thuỷ sảnsản chiếm 9,5% trong cơ cấu ngành nông nghiệp, sử dụng 1570,29 ha
mặt nước.
2.1.2. Khái quát về dự án cải tạo nâng cấp quốc lộ 18A tại thành phố Uông Bí
Quốc lộ 18A đoạn Uông Bí được nâng cấp đầu tư, mở rộng từ những năm
1997-2004 theo tiêu chuẩn đường cấp III đồng bằng 2 làn xe với bề rộng nền đường
Bn=12m, Bm =11m; đoạn đầu tuyến từ ngã 3 cầu Sến tới ngã 3 Biểu Nghi là đường
nội thị của Uông Bí . Hiện tại, do lưu lượng các phương tiện tham gia giao thông đi
qua tuyến đường Uông Bí ngày càng cao, đặc biệt trong mùa du lịch, gây ùn tắc
giao thông trên đoạn tuyến này. Do vậy việc đầu tư,cải tạo, nâng cấp Quốc lộ 18A
đoạn Thành phố Uông Bí là rất cần thiết. Dự án cải tạo, nâng cấp Quốc lộ theo được
triển khai trên phạm vi các địa phương trong đó có Thành phố Uông Bí, tổng chiều
dài đoạn tuyến 2.96km. Dự án do Chính phủ giao cho Công ty cổ phần phát triển
Đại Dương làm chủ đầu tư được vay từ vốn ODA của Nhật Bản. Theo phương án
thiết kế của chủ đầu tư, phạm vi của dự án có điểm đầu từ ngã ba giao Quốc lộ 18
với Quốc lộ 10, Thành phố Uông Bí (KM77+262.60m- QL 18); toàn tuyến sẽ được
đầu tư xây dựng theo tiêu chuẩn đường cấp 2 đồng bằng, 4 làn xe.
29
2.2. Thực tiễn áp dụng pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà
nước thu hồi đất cho dự án cải, nâng cấp quốc lộ 18A tại địa bàn thành phố
Uông Bí từ năm 2015 đến hết năm 2017.
2.2.1. Bồi thường về đất
2.2.1.1. Điều kiện dược bồi thường
Trong trường hợp Nhà nước thu hồi đất, người có đất bị thu hồi được bồi
thường khi thỏa mãn đồng thời ba nhóm điều kiện sau: (i) lý do thu hồi đất; (ii)
người bị thu hồi đất phải có căn cứ chứng minh quyền sử dụng đất bị thu hồi thuộc
quyền sử dụng hợp pháp của mình; (iii) nguồn gốc sử dụng đất phải thuộc các
trường hợp được bồi thường. Trong từng nhóm có những điều kiện khác nhau mà
người sử dụng đất chỉ cần đáp ứng một trong các điều kiện đó là đủ điều kiện được
bồi thường.
Thứ nhất, về lý do thu hồi đất. Theo quy định của Luật Đất đai 2003, có tất
cả 12 trường hợp thu hồi đất cụ thể (14, Đ 38). Các trường hợp này có thể phân
thành các nhóm sau: (i) Nhà nước thu hồi đất để sử dụng cho chính nhu cầu sử dụng
đất của Nhà nước trong các trường hợp: Nhà nước sử dụng đất vào mục đích quốc
phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng; Nhà nước thu hồi đất vì mục
đích phát triển kinh tế. (ii) Nhà nước thu hồi đất khi người sử dụng đất không có
nhu cầu, khả năng tiếp tục sử dụng đất. (iii) Nhà nước thu hồi đất khi hết thời hạn
sử dụng đất mà không được gia hạn. (iv) Nhà nước thu hồi đất khi người sử dụng
đất có hành vi vi phạm pháp luật đất đai. (14, Đ 38) Mặc dù Nhà nước có quyền thu
hồi đất trong nhiều trường hợp khác nhau nhưng không phải tất cả các trường hợp
thu hồi đất nêu trên Nhà nước đều phải bồi thường cho người sử dụng đất mà theo
quy định của Luật Đất đai 2003 Nhà nước chỉ bồi thường khi thu hồi đất để sử dụng
cho chính nhu cầu sử dụng đất của Nhà nước thuộc nhóm (i) vừa nêu trên. Vì tại
thời điểm thực hiện hoạt động thu hồi đất thì giữa Nhà nước và người sử dụng đất
còn tồn tại mối quan hệ liên quan đến quyền sử dụng đất trong đó người bị thu hồi
đất đã bỏ ra một khoản tiền để có được quyền sử dụng đất hoặc tuy họ không bỏ ra
khoản tiền nào nhưng được Nhà nước ưu đãi về tài chính như trường hợp giao đất
không thu tiền sử dụng đất. Như vậy, quyền sử dụng đất được xem như là một
30
quyền tài sản của người sử dụng đất nên Nhà nước phải bồi thường khi thu hồi đất.
Ngoài ra trong trường hợp này người bị thu hồi đất cũng không vi phạm pháp luật
đất đai. Đối với các trường hợp thu hồi đất khác, Nhà nước không có nghĩa vụ phải
bồi thường vì hoạt động thu hồi đất trong những trường hợp này xuất phát từ chính
bản thân người sử dụng đất, như người sử dụng đất không còn khả năng tiếp tục sử
dụng đất trong trường hợp tổ chức bị giải thể, phá sản, người sử dụng đất chết mà
không có người thừa kế….hoặc do người sử dụng đất vi phạm pháp luật đất đai và
việc Nhà nước thu hồi đất là một chế tài được áp dụng đối với họ. Hiện nay, so với
Luật Đất đai 2003, Luật Đất đai 2013 đã có một số thay đổi và bổ sung đáng chú ý.
Cụ thể: (i) Luật Đất đai 2013 đã luật hóa và quy định chi tiết các trường hợp Nhà
nước thu hồi đất vì mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công
cộng, phát triển kinh tế. (ii) Thông qua việc luật hóa này, Luật Đất đai 2013 đã thu
hẹp các trường hợp Nhà nước thu hồi đất để phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích
quốc gia, công cộng. Theo đó, ngoài các dự án đã được Quốc hội quyết định chủ
trương đầu tư, dự án được Thủ tướng Chính phủ chấp thuận, quyết định đầu tư, các
trường hợp còn lại phải được xem xét về sự cần thiết phải thu hồi của Hội đồng
nhân dân cấp tỉnh. Có thể thấy việc thu hẹp các trường hợp thu hồi đất vì mục đích
kinh tế như vậy là hợp lý. Vì, các trường hợp này chủ yếu phục vụ cho mục tiêu lợi
nhuận của các nhà đầu tư, còn người sử dụng đất thì thiệt hại nghiêm trọng. Chẳng
hạn, nếu Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp để giao cho nhà đầu tư xây dựng khu
chung cư, sau đó nhà đầu tư bán với giá rất cao, trong khi đó người dân được bồi
thường bởi mức giá quá thấp mà nhà nước quy định, rõ ràng đây là một bất cập quá
lớn gây nên tình trạng bất mãn và khiếu kiện kéo dài của người có đất bị thu hồi. Có
lẽ, Luật Đất đai 2013 không những phải hạn chế mà còn cần phải loại bỏ trường hợp
thu hồi đất loại này. Thay vào đó là áp dụng triệt để cơ chế chuyển dịch đất đai tự
nguyện giữa người dân và chủ đầu tư thông qua việc thỏa thuận về mức giá bồi
thường trên cơ sở sự quản lý của nhà nước. Luật Đất đai 2013 cũng bổ sung thêm
trường hợp thu hồi đất ở khu vực có nguy cơ đe dọa tính mạng con người (20, Đ
65). Đối với trường hợp này tuy Nhà nước không có nhu cầu sử dụng đất nhưng vì
lý do an toàn tính mạng, sức khỏe của người dân như đất bị ô nhiễm nghiêm trọng,
31
hoặc bị sạt lở, sụt lún… thì Nhà nước tiến hành hoạt động thu hồi và người sử dụng
đất vẫn được bồi thường.
Thứ hai, người bị thu hồi đất phải có căn cứ chứng minh quyền sử dụng đất
bị thu hồi thuộc quyền sử dụng hợp pháp của mình. Việc chứng minh quyền sử
dụng đất là hợp pháp phải dựa vào một trong các căn cứ sau: GCN (Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất); Nếu
không có GCN thì phải thuộc trường hợp đủ điều kiện để được cấp GCN theo quy
định của Luật Đất đai 2003 (14, Đ 50). GCN là căn cứ quan trọng nhất để chứng
minh quyền sử dụng đất hợp pháp của người sử dụng đất bởi GCN là “chứng thư
pháp lý xác lập mối quan hệ hợp pháp giữa Nhà nước và NSDĐ” (21, Mục I). Tuy
nhiên,“trước tháng 11/2004, cùng lúc tồn tại cả 3 mẫu GCN hợp pháp do 3 cơ quan
khác nhau chịu trách nhiệm phát hành và tổ chức thực hiện cấp cho NSDĐ, gồm:
GCNQSDĐ – giấy đỏ, thuộc ngành Tài nguyên và Môi trường; Giấy chứng nhận
quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở - giấy hồng, thuộc ngành Xây dựng;
Giấy chứng nhận quyền quản lý, sử dụng nhà, đất, trụ sở làm việc thuộc sở hữu nhà
nước – giấy tím, thuộc ngành Tài chính” (47, tr.33). Việc quy định quá nhiều loại
giấy tờ cho cùng một thửa đất như trên không những đã gây ra sự chồng chéo trong
thẩm quyền mà còn gây rất nhiều phiền hà cho NSDĐ. Đến tháng 9/2009 Quốc hội
đã hợp nhất 3 loại giấy tờ trên bằng quy định tại khoản 1 Điều 8 Luật sửa đổi, bổ
sung Luật Đất đai năm 2009: “Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu
nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất được cấp cho người có quyền sử dụng đất,
quyền sở hữu nhà ở và quyền tài sản khác gắn liền với đất theo một loại thống nhất
trong cả nước do Bộ Tài nguyên và Môi trường phát hành; đối với nhà ở, tài sản
khác gắn liền với đất thì cơ quan nhà nước có thẩm quyền chỉ xác nhận quyền sở
hữu và Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn
liền với đất quy định tại khoản này khi có yêu cầu của chủ sở hữu”. Để bảo đảm
công bằng, Luật Đất đai sửa đổi 2009 cũng cho phép các loại giấy tờ như
GCNQSDĐ, Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở, Giấy chứng nhận quyền sở hữu
công trình xây dựng được cấp theo quy định của pháp luật đất đai, pháp luật về nhà
ở, pháp luật về xây dựng và pháp luật dân sự trước ngày 01/8/2009 vẫn có giá trị
32
pháp lý và không phải đổi sang GCN (18, Đ 48). Vì nguyên nhân này mà hiện nay
bên cạnh GCN vẫn còn tồn tại nhiều loại giấy tờ khác cũng có thể chứng minh
quyền sử dụng đất hợp pháp. Thủ tục xin cấp GCN được quy định tại Nghị định
84/2007/NĐ-CP và Nghị định 88/2009/NĐ-CP về cấp GCN, quyền sở hữu nhà và
tài sản khác gắn liền với đất (6, Mục 2). Tuy nhiên, quy định trong hai nghị định
trên còn khá chung chung điều này dẫn đến tình trạng mỗi địa phương lại tự quy
định về các loại giấy tờ trong hồ sơ để được cấp GCN. Vì thế, thủ tục để được cấp
GCN trên thực tế hiện nay còn rất nhiều vướng mắc cần phải được tháo gỡ. Tóm lại,
GCN là một căn cứ quan trọng để chứng minh QSDĐ, quyền sở hữu nhà ở và công
trình xây dựng gắn liền với đất của NSDĐ. GCN không chỉ là cơ sở để thực hiện
các giao dịch về QSDĐ, đồng thời nó còn là bằng chứng đề chứng minh quyền
được bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất. Tuy nhiên, do một số lý do vừa nêu ra ở
trên, mà hiện nay còn rất nhiều NSDĐ chưa có GCN, trong trường hợp này pháp
luật đất đai cho phép NSDĐ chưa được cấp GCN được bồi thường nếu đáp ứng một
trong các trường hợp được quy định tại Điều 50 Luật đất đai năm 2003.
Hộ gia đình, cá nhân không có GCN nhưng đang sử dụng đất ổn định, được
UBND xã, phường, thị trấn xác nhận không có tranh chấp và có một trong các loại
giấy sau:
- Những giấy tờ về quyền được sử dụng đất đai trước ngày 15 tháng 10 năm
1993 do cơ quan có thẩm quyền cấp trong quá trình thực hiện chính sách đất đai của
Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hoà
miền Nam Việt Nam và Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam;
- Giấy chứng nhận QSDĐ tạm thời được cơ quan nhà nước có thẩm quyền
cấp hoặc có tên trong sổ đăng ký ruộng đất, sổ địa chính;
- Giấy tờ hợp pháp về thừa kế, tặng cho QSDĐ hoặc tài sản gắn liền với đất;
giấy tờ giao nhà tình nghĩa gắn liền với đất;
- Giấy tờ chuyển nhượng QSDĐ, mua bán nhà ở gắn liền với đất ở trước
ngày 15 tháng 10 năm 1993, nay được UBND xã, phường, thị trấn xác nhận là đã sử
dụng trước ngày 15 tháng 10 năm 1993;
33
- Giấy tờ về thanh lý, hoá giá nhà ở gắn liền với đất ở theo quy định của pháp
luật;
- Giấy tờ do cơ quan có thẩm quyền thuộc chế độ cũ cấp cho người sử dụng
đất. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất có một trong các loại giấy tờ nêu trên
mà trên giấy tờ đó ghi tên người khác, kèm theo giấy tờ về việc chuyển QSDĐ có
chữ ký của các bên có liên quan, nhưng đến trước ngày Luật này có hiệu lực thi
hành chưa thực hiện thủ tục chuyển QSDĐ theo quy định của pháp luật, nay được
UBND xã, phường, thị trấn xác nhận là đất không có tranh chấp. Hộ gia đình, cá
nhân đang sử dụng đất có hộ khẩu thường trú tại địa phương và trực tiếp sản xuất
nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản, làm muối tại vùng có điều kiện kinh
tế - xã hội khó khăn ở miền núi, hải đảo, nay được UBND xã nơi có đất xác nhận là
người đã sử dụng đất ổn định, không có tranh chấp.
Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất không có các loại giấy chứng minh
QSDĐ nhưng đất đã được sử dụng ổn định từ trước ngày 15 tháng 10 năm 1993,
nay được UBND xã, phường, thị trấn xác nhận là đất không có tranh chấp. (5, Đ 44)
Hộ gia đình, cá nhân được sử dụng đất theo bản án hoặc quyết định của Toà
án nhân dân, quyết định thi hành án của cơ quan thi hành án, quyết định giải quyết
tranh chấp đất đai của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã được thi hành.
Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất không có các loại giấy tờ chứng minh
QSDĐ những đất đã được sử dụng từ ngày 15/10/1993 đến thời điểm có quyết định
thu hồi đất, mà tại thời điểm sử dụng không vi phạm quy hoạch; không vi phạm
hành lang bảo vệ các công trình được cấp có thẩm quyền phê duyệt và công bố công
khai, cắm mốc; không phải là đất lấn chiếm trái phép và được UBND cấp xã nơi có
đất bị thu hồi xác nhận đất đó không có tranh chấp (5, Đ 45).
Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất mà trước đây Nhà nước đã có quyết
định quản lý trong quá trình thực hiện chính sách đất đai của Nhà nước, nhưng
trong thực tế Nhà nước chưa quản lý, mà Hộ gia đình, cá nhân đó vẫn sử dụng.
Nghị định 84/2007/NĐ-CP Quy định bổ sung về việc cấp Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất, thu hồi đất, thực hiện quyền sử dụng đất và giải quyết khiếu nại
34
về đất (sau đây gọi tắt là Nghị định 84/2007/NĐ-CP) cũng bổ sung thêm đối với đất
được giao không đúng thẩm quyền trước ngày 01/7/2004 nhưng đã nộp tiền sử dụng
đất mà chưa được cấp GCN thì cũng được bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất (5,
Đ 56). Đối với trường hợp này, mặc dù việc sử dụng đất là không hợp pháp nhưng
NSDĐ không có lỗi trong việc sử dụng đất không hợp pháp mà lỗi đó thuộc về cơ
quan nhà nước có thẩm quyền giao đất.
Thứ ba, về nguồn gốc đất mà NSDĐ đang sử dụng. Xác định nguồn gốc sử
dụng đất của một chủ thể sử dụng đất tức là xác định xem chủ thể đó có được
QSDĐ thông qua cách thức nào. Theo quy định của pháp luật đất đai thì có nhiều
cách thức khác nhau để một chủ thế xác lập QSDĐ như được Nhà nước giao đất,
cho thuê đất hoặc thông qua các giao dịch về QSDĐ, tặng cho, thừa kế QSDĐ…
Những cách thức trên tạo ra cho NSDĐ những quyền năng nhất định đối với QSDĐ
của mình. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa cách thức nào cũng tạo cho NSDĐ
quyền được bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất. Luật Đất đai 2003 quy định để
được bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất thì nguồn gốc mà NSDĐ có được phải
thông qua quyết định giao đất của Nhà nước dưới hình thức giao đất có thu tiền sử
dụng đất, giao đất không thu tiền sử dụng đất đối với Hộ gia đình, cá nhân được
Nhà nước giao đất nông nghiệp hoặc thông qua các giao dịch QSDĐ, tặng cho, thừa
kế QSDĐ, hoặc được Nhà nước công nhận QSDĐ hợp pháp. Đối với các trường
hợp trên để có được QSDĐ thì NSDĐ đã phải bỏ ra một khoản tiền nên việc Nhà
nước bồi thường cho họ khi thu hồi đất là đương nhiên. Riêng đối với Hộ gia đình,
cá nhân mặc dù họ không phải nộp tiền sử dụng đất nhưng đây là những trường hợp
được hưởng ưu đãi tài chính về sử dụng đất (24, tr.137), vì vậy Hộ gia đình, cá nhân
sử dụng đất nông nghiệp dưới hình thức giao đất không thu tiền sử dụng đất vẫn
được bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất.
Về hình thức sử dụng đất, Luật Đất đai 2003 chỉ quy định về bồi thường đối
với trường hợp sử dụng đất dưới hình thức giao đất có thu tiền sử dụng đất và giao
đất không thu tiền sử dụng đất đối với đất nông nghiệp của Hộ gia đình, cá nhân mà
không có quy định nào đề cập đến việc bồi thường cho NSDĐ dưới hình thức thuê
đất trả tiền một lần cho cả thời gian thuê. Đồng thời Luật Đất đai 2003 cũng quy
35
định Nhà nước sẽ không bồi thường về đất trong trường hợp đất sử dụng là đất thuê
(14, Đ 43). Điều đó có nghĩa NSDĐ nếu sử dụng đất dưới hình thức thuê đất trả tiền
một lần cho cả thời gian thuê sẽ không được bồi thường về đất khi Nhà nước thu hồi
đất. Điều 7 Nghị định 197/2004/NĐ-CP hướng dẫn chi tiết về các trường hợp thu
hồi đất mà không được bồi thường quy định tại Điều 43 Luật Đất đai 2003, tuy
nhiên điều luật này lại chỉ quy định Nhà nước sẽ không bồi thường về đất trong
trường hợp đất được Nhà nước cho thuê trả tiền thuê đất hàng năm nhưng lại không
nói rõ nếu là đất thuê trả tiền một lần cho cả thời gian thuê có được bồi thường hay
không. Điều này đã làm cho vấn đề trở nên mập mờ và khó xác định. Vì vậy, trên
thực tế đối với loại đất này không được bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất mà chỉ
được hoàn trả chi phí đầu tư vào đất. Có nhiều ý kiến cho rằng điều này là không
hợp lý. Bởi: (i) về bản chất, hình thức giao đất có thu tiền sử dụng đất và thuê đất
trả tiền một lần cho cả thời gian thuê không có gì khác nhau vì “người thuê đất nếu
chọn cách thức trả tiền thuê một lần thì số tiền thuê đất phải nộp cũng được tính
bằng với số tiền sử dụng đất phải nộp như trường hợp giao đất có thu tiền sử dụng
đất, có cùng mục đích sử dụng đất và cùng thời hạn sử dụng đất” (31, tr.10). (ii) quy
định này sẽ tạo nên sự bất bình đẳng giữa các chủ thể sử dụng đất khi pháp luật đất
đai cũng quy định tổ chức, cá nhân nước ngoài không được sử dụng đất dưới hình
thức giao đất, đặc biệt đối với hoạt động kinh doanh nhà ở để bán, tổ chức, cá nhân
nước ngoài buộc phải sử dụng đất dưới hình thức trả tiền một lần cho cả thời gian
thuê, nếu họ bị thu hồi đất như với trường hợp này mà không bồi thường cho họ thì
rất không công bằng. Hiện nay, Luật Đất đai 2013 đã khắc phục bất cập này bằng
việc đưa vào quy định về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất đối với đất sử dụng
dưới hình thức thuê đất trả tiền thuê đất một lần cho cả thời gian thuê của Người
Việt Nam định cư ở nước ngoài, tổ chức kinh tế, tổ chức người ngoài có chức năng
ngoại giao, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (20, Đ 75).
Như vậy, nguồn gốc đất là một trong những căn cứ để xác định chủ thể có đủ điều kiện bồi thường hay không. Nhưng, cần lưu ý không phải chủ thể sử dụng đất dưới hình thức giao đất có thu tiền sử dụng đất hoặc có QSDĐ thông qua chuyển nhượng thì đều được bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất mà phải xét nguồn gốc khoản tiền đã bỏ ra để có được QSDĐ đó xuất phát từ đâu. Cụ thể đối với các tổ
36
chức sử dụng đất dưới hình thức giao đất có thu tiền sử dụng đất hoặc nhận chuyển
nhượng QSDĐ nhưng tiền sử dụng đất hoặc tiền nhận chuyển nhượng có nguồn gốc
từ ngân sách Nhà nước thì không được bồi thường.
2.2.1.2 . Căn cứ để xác định giá trị bồi thường
Thứ nhất: Loại đất bồi thường.
Việc xác định loại đất làm căn cứ để tính bồi thường là rất cần thiết vì các
loại đất khác nhau có mức giá chênh lệch nhau rất lớn. Theo quy định của pháp luật
đất đai để xác định loại đất bồi thường có thể dựa vào các căn cứ sau đây (2, Đ 6):
- Căn cứ nội dung ghi trên GCN. Như đã trình bày, GCN là căn cứ quan
trọng nhất để chứng minh quyền sử dụng đối với thửa đất của NSDĐ. Vì vậy, trên
GCN luôn phải ghi rõ mục đích sử dụng. Nội dung ghi trên GCN là căn cứ để xác
định mục đích sử dụng đất, thông qua đó xác định loại đất bồi thường khi Nhà nước
thu hồi đất. Như vậy, nếu NSDĐ đã được cấp GCN thì việc xác định giá trị bồi
thường sẽ dựa vào nội dung ghi trên GCN mà không phải quan tâm vào các căn cứ
khác.
- Căn cứ vào các giấy tờ hợp lệ quy định tại khoản 1 Điều 50 Luật Đất đai
2003 trong trường hợp NSDĐ chưa được cấp GCN hoặc quyết định giao đất, cho
thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất của cơ quan nhà nước có thẩm
quyền. Mặc dù GCN là căn cứ quan trong nhất nhưng không phải NSDĐ nào cũng
đã được cấp GCN. Trường hợp này việc xác định loại đất bồi thường được dựa trên
nội dung ghi trên các giấy tờ hợp lệ quy định tại khoản 1 Điều 50 Luật Đất đai
2003. Mặt khác, hoạt động giao đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử
dụng đất của UBND được thực hiện thông qua một quyết định hành chính cá biệt
mà trên nội dung quyết định này phải ghi rõ mục đích sử dụng đất của thửa đất
được giao, cho thuê hoặc cho phép chuyển mục đích sử dụng. Vì vậy, đây cũng là
căn cứ để xác định loại đất bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất.
- Căn cứ theo đăng ký chuyển mục đích sử dụng đất đối với trường hợp
không phải xin phép chuyển mục đích sử dụng đất. Điều 36 Luật Đất đai 2003 cho
phép NSDĐ được chuyển mục đích sử dụng đất từ đất chuyên trồng lúa nước sang
37
đất trồng cây lâu năm, đất trồng rừng, đất nuôi trồng thủy sản; từ đất rừng đặc dụng,
đất phòng hộ sang đất sử dụng vào mục đích khác; từ đất nông nghiệp sang đất phi
nông nghiệp; Chuyển đất phi nông nghiệp được Nhà nước giao đất không thu tiền
sử dụng đất sang đất phi nông nghiệp được Nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng
đất hoặc thuê đất; Chuyển đất phi nông nghiệp không phải là đất ở sang đất ở. Việc
chuyển đổi trong các trường hợp này NSDĐ phải làm thủ tục xin phép cơ quan có
thẩm quyền. Ngoài các trường hợp nêu trên thì NSDĐ không phải xin phép cơ quan
nhà nước có thẩm quyền, nhưng phải đăng ký với Văn phòng đăng ký QSD Đ hoặc
UBND xã nơi có đất. Khi xác định loại đất đã thu hồi để làm căn cứ tính giá trị bồi
thường, cơ quan có thẩm quyền sẽ căn cứ vào mục đích sử dụng mà người sử dụng
đất đã đăng ký tại các cơ quan vừa kể trên.
- Căn cứ vào hiện trạng sử dụng đất. Hiện trạng sử dụng đất là mục đích sử
dụng thửa đất trên thực tế. Tuy nhiên, việc xác định loại đất dựa vào hiện trạng sử
dụng đất thì không phải chỉ căn cứ vào việc sử dụng đất trên thực tế của NSDĐ mà
còn phải căn cứ vào thời gian và tính ổn định của mục đích sử dụng đất. Hiện trạng
sử dụng đất là căn cứ để xác định loại đất sử dụng trong trường hợp NSDĐ không
có GCN hoặc các căn cứ khác đã nêu ra ở trên.
Thứ hai: Đơn giá bồi thường.
Có hai loại giá đất có thể được sử dụng làm căn cứ tính tiền bồi thường là
giá đất thị trường và giá đất do Nhà nước quy định. Việc xác định giá đất nào để
tính tiền bồi thường là một vấn đề phức tạp mà hiện nay ngay cả khi đã có Luật Đất
đai 2013 và Nghị định số 44/2014/NĐ-CP của Chính phủ ban hành ngày 15/5/2014
Quy định về giá đất cũng chưa tháo gỡ được. Theo quy định của pháp luật đất đai,
giá đất được sử dụng để tính tiền bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất là giá đất do
Nhà nước quy định dựa trên Bảng giá đất do UBND cấp tỉnh ban hành hàng năm
trên cơ sở khung giá đất của Chính phủ (3, Đ 2) theo nguyên tắc phù hợp với giá thị
trường.
Thứ ba: Diện tích đất được tính bồi thường.
38
Diện tích đất bị thu hồi là một trong những căn cứ để tính giá trị bồi thường
khi Nhà nước thu hồi đất. Hoạt động bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất được
thực hiện dựa trên nguyên tắc bồi thường đầy đủ các thiệt hại, nhưng điều đó không
có nghĩa là Nhà nước thu hồi bao nhiêu diện tích đất thì phải bồi thường toàn bộ
diện tích đó, điều này phụ thuộc vào việc NSDĐ có đáp ứng đầy đủ ba nhóm điều
kiện hay không.
Vấn đề xác định diện tích bồi thường hiện nay là tương đối phức tạp bởi
không phải trường hợp nào diện tích ghi trên các giấy tờ về QSDĐ đều đúng với
diện tích đo đạc trên thực tế. Trước đây vấn đề này được quy định cụ thể tại Thông
tư 116/2004/TT-BTC hướng dẫn thực hiện Nghị định 197/2004/NĐ-CP tuy nhiên
Thông tư này đã bị bãi bỏ bởi Thông tư 14/2009/TT-BTNMT quy định chi tiết về
bồi thường, hỗ trợ, tái định cư và trình tự, thủ tục thu hồi đất, giao đất, cho thuê đất.
Hiện nay, cách thức xác định diện tích đất bồi thường trong trường hợp có sự khác
nhau giữa diện tích ghi trên giấy tờ về QSD Đ với diện tích đo đạc trên thực tế
được quy định tương đối chi tiết tại Điều 47 Nghị định 84/2007/NĐ-CP.
Trước đây các quy định này không được tìm thấy trong Luật Đất đai 2003
mà nó nằm rãi rác trong cả ba Nghị định hướng dẫn là Nghị định 197/2004/NĐ-CP,
Nghị định 84/2007/NĐ-CP và Nghị định 69/2009/NĐ-CP. Luật Đất đai 2013 đã tập
hợp hóa các quy định trên tại Điều 75 và Điều 77. Vấn đề xác định diện tích đất bồi
thường trong trường hợp có sự khác nhau giữa diện tích ghi trên giấy tờ về QSDĐ
và diện tích đo đạc trên thực tế tuy không được Luật Đất đai 2013 quy định những
nó đã được ghi nhận tại Điều 12 Nghị định 47/2014/NĐ-CP quy định về bồi
thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất.
2.2.1.3 . Trình tự, thủ tục tổ chức thực hiện
Trình tự, thủ tục là “những việc cụ thể phải làm theo một trật tự quy định để
tiến hành một công việc có tính chất chính thức” (22, tr.906). Như vậy, có thể hiểu
trình tự, thủ tục bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất là những bước mà cơ quan nhà
nước có thẩm quyền phải thực hiện theo một trật tự do pháp luật quy định trong
hoạt động bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất. Hoạt động thu hồi đất nói chung và
bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nói riêng là rất phức tạp nên cần thiết phải thực
39
hiện theo một trình tự, thủ tục rõ ràng để tránh việc thực hiện tùy tiện, cảm tính dẫn
đến nguy cơ xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của người bị thu hồi đất.
Theo quy định tại Điều 69 Luật đất đai số 45/2013/QH13 ngày 29/11/2013 thì trình
tự, thủ tục thu hồi đất còn có nhiều điểm bất hợp lý. Có một số điểm không hợp lý
sau: (i) Luật quy định phải lấy ý kiến của người dân về phương án bồi thường, hỗ
trợ, tái định cư nhưng lại không hề có quy định nào nói về giá trị của các ý kiến, nên
việc lấy ý kiến của người dân chỉ tồn tại như một thủ tục mang tính hình thức. (ii)
Trong các bước tiến hành vẫn tồn tại nhiều bước mà luật chưa quy định thời gian tối
đa để thực hiện. Điều này dẫn đến một tình trạng là từ thời điểm có quyết định bồi
thường đến lúc thực nhận tiền bồi thường là một khoảng thời gian rất dài, có khi lên
đến vài năm và trong khoảng thời gian đó giá đất đã tăng lên rất nhiều lần. Chính từ
đây gây nên tình trạng khiếu kiện, so bì của người bị thu hồi đất. (iii) Trường hợp
phương án bồi thường đã được phê duyệt, có quyết định thu hồi đất nhưng đến lúc
chi trả tiền bồi thường thì người bị thu hồi đất lại không chịu nhận tiền bồi thường
do còn đang tranh chấp hoặc khiếu kiện thì luật chưa quy định cách xử lý trường
hợp này. Vấn đề này trước đây được quy định tại Nghị định 84/2007/NĐ-CP:
“Trường hợp người bị thu hồi đất không nhận tiền chi trả bồi thường, hỗ trợ, không
nhận nhà hoặc đất tái định cư thì Tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt
bằng chuyển khoản tiền chi trả vào tài khoản riêng mở tại ngân hàng và giữ nguyên
nhà hoặc đất tái định cư để làm căn cứ cho việc giải quyết khiếu nại sau này (nếu
có)” (5, Đ 58). Đến tháng 10 năm 2009 quy định này đã bị bãi bỏ bởi Nghị định
69/2009/NĐ-CP. Tuy nhiên, điều đáng nói ở đây là dù đã bãi bỏ quy định trên
nhưng chính Nghị định này lại không có quy định nào thay thế, điều này rõ ràng là
một bất cập. Phải đến gần đây khi Luật Đất đai 2013 ra đời, vấn đề này mới được
quy định trở lại: “Trong trường hợp người có đất thu hồi không nhận tiền bồi
thường, hỗ trợ, tái định cư được cấp có thẩm quyền phê duyệt thì tiền bồi thường,
hỗ trợ được gửi vào tài khoản tạm giữ của Kho bạc nhà nước” (47, Đ 93). (iv) Về
vấn đề trả lãi do chậm chi trả tiền bồi thường. Trước đây các quy định của pháp luật
đất đai hầu như không đề cập đến vấn đề này, đây là một thiếu sót, bởi trong trong
thực tế hoạt động bồi thường không phải lúc nào cũng được tiến hành kịp thời và
40
đúng thời gian quy định. Điều này có tác động tiêu cực đến việc đảm bảo quyền lợi
chính đáng cho người bị thu hồi đất. Luật Đất đai 2013 đã khắc phục bất cập này
bằng quy định: “Trường hợp cơ quan, tổ chức có trách nhiệm bồi thường chậm chi
trả thì khi thanh toán tiền bồi thường, hỗ trợ cho người có đất thu hồi, ngoài tiền bồi
thường, hỗ trợ theo phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư được cấp có thẩm
quyền phê duyệt thì người có đất thu hồi còn được thanh toán thêm một khoản tiền
bằng mức tiền chậm nộp theo quy định của Luật quản lý thuế tính trên số tiền chậm
trả và thời gian chậm trả.” (47, Đ 93).
Hiện tại, trình tự thực hiện BTGPMB khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn
thành phố Uông Bí được thực hiện theo Quyết định số 1766/2014/QĐ-UBND ngày
13/8/2014 của UBND Tỉnh . Cụ thể như sau:
Bước 1. Thông báo thu hồi đất.
Có văn bản đề nghị Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền thu hồi đất ban hành
thông báo thu hồi đất (theo Điều 67 Luật Đất đai 2013).
- Thẩm quyền thu hồi đất: quy định tại Điều 66 Luật Đất đai 2013 và Điều 29
Quyết định số 1766/2014/QĐ-UBND ngày 13/8/2014 của UBND tỉnh Quảng Ninh.
- Thời gian, nội dung Thông báo thu hồi đất: quy định tại khoản 1 Điều 67
Luật Đất đai 2013.
- Thông báo thu hồi đất được gửi đến từng người có đất thu hồi, họp phổ biến
đến người dân trong khu vực có đất thu hồi và thông báo trên phương tiện thông tin
đại chúng, niêm yết tại trụ sở Ủy ban nhân dân cấp xã, địa điểm sinh hoạt chung của
khu dân cư nơi có đất thu hồi.
Bước 2. Xây dựng giá đất cụ thể bồi thường.
Có văn bản đề nghị UBND Thành phố giao các phòng ban chuyên môn xây
dựng giá đất cụ thể bồi thường (theo quy định tại Điểm đ Khoản 4 Điều 114 Luật
Đất đai 2013; Điểm b Khoản 2 Điều 18 Nghị định 44/2014/NĐ-CP và Điều 3 Quyết
định số 1766/2014/QĐ-UBND ngày 13/8/2014 của UBND Tỉnh).
Bước 3. Điều tra, khảo sát, đo đạc, kiểm đếm.
41
Trường hợp người sử dụng đất không phối hợp để điều tra, khảo sát, đo đạc,
kiểm đếm thì thực hiện theo quy định tại Điểm d Khoản 1 Điều 69 và các Khoản
Điều 70 Luật Đất đai 2013 (Cưỡng chế thực hiện quyết định kiểm đếm bắt buộc).
Bước 4. Hoàn thiện hồ sơ chuyển cho UBND xã, phường tổ chức xác định
nguồn gốc, thời điểm, mục đích sử dụng đất; nhân khẩu sống phụ thuộc vào thu
nhập từ sản xuất nông nghiệp; phần trăm diện tích đất nông nghiệp bị thu
hồi…(theo quy định tại Khoản 11 Điều 30 Quyết định số 1766/2014/QĐ-UBND
ngày 13/8/2014 của UBND Tỉnh).
Bước 5. Lập và thẩm định nội bộ phương án bồi thường, hỗ trợ.
Bước 6. Đề nghị phòng Tài nguyên và Môi trường thẩm định phương án bồi
thường, hỗ trợ trước khi niêm yết để tránh sai sót.
Bước 7. Niêm yết công khai phương án bồi thường, hỗ trợ.
- Thời gian niêm yết: Ít nhất 20 ngày kể từ ngày niêm yết (Theo quy định tại
Khoản 2 Điều 28 Nghị định số 47/2014/NĐ-CP).
- Địa điểm niêm yết: Tại Trụ sở UBND cấp xã, địa điểm sinh hoạt chung của
khu dân cư nơi có đất bị thu hồi (Theo quy định tại Khoản 2 Điều 69 Luật Đất đai
2013) và gửi đến từng người có đất bị thu hồi kèm theo Giấy lấy ý kiến.
- Lập Biên bản niêm yết công khai phường án bồi thường, hỗ trợ có xác nhận
của UBND, UBMTTQ cấp xã và khu dân cư nơi có đất bị thu hồi.
Bước 8. Tổ chức lấy ý kiến về phương án bồi thường, hỗ trợ.
- Hết thời hạn niêm yết, thu hồi Giấy lấy ý kiến và đơn thư (nếu có) để tiếp
nhận ý kiến, kiến nghị của nhân dân.
- Tổng hợp ý kiến, kiến nghị, lập Biên bản có xác nhận của đại diện UBND,
UBMTTQ cấp xã, đại diện những người có đất thu hồi (Theo quy định tại Điểm a
Khoản 2 Điều 69 Luật Đất đai 2013), trong đó: ghi rõ số lượng ý kiến đồng ý, số
lượng ý kiến không đồng ý, số lượng ý kiến khác.
42
- Phối hợp với UBND cấp xã tổ chức đối thoại với trường hợp không đồng ý
về phương án bồi thường, hỗ trợ (Lập Biên bản đối thoại chi tiết).
Lưu ý: Đối với những Dự án quan trọng, cần tiến độ, phải hướng dẫn đối
tượng bị thu hồi đất có Đơn đồng ý thu hồi đất trước thời hạn (Đối với đất nông
nghiệp là 90 ngày và đất phi nông nghiệp là 180 ngày kể từ ngày có Thông báo thu
hồi đất) để trình cấp có thẩm quyền ban hành Quyết định thu hồi đất và Quyết định
phê duyệt phương án, đảm bảo đúng quy định.
Bước 9. Hoàn thiện phương án bồi thường, hỗ trợ đề nghị phòng Tài nguyên
và Môi trường thẩm định, trình UBND cấp có thẩm quyền quyết định thu hồi đất và
quyết định phê duyệt phương án bồi thường hỗ trợ cùng một ngày (theo quy định tại
Điểm a Khoản 3 Điều 69 Luật Đất đai 2013).
Lưu ý: Quyết định thu hồi đất phải ban hành sau khi có Thông báo thu hồi đất
ít nhất 90 ngày đối với đất nông nghiệp và 180 ngày đối với đất phi nông nghiệp
(Theo quy định tại Khoản 1 Điều 67 Luật Đất đai 2013).
Bước 10. Phối hợp với UBND cấp xã phổ biến, niêm yết công khai quyết định
thu hồi đất và quyết định phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ tại trụ sở UBND
cấp xã, địa điểm sinh hoạt chung của khu dân cư nơi có đất thu hồi và gửi đến từng
người có đất bị thu hồi (theo quy định tại Điểm b Khoản 3 Điều 69 Luật Đất đai
2013).
Bước 11. Đề nghị Chủ đầu tư chuyển kinh phí bồi thường, hỗ trợ theo Quyết
định phê duyệt của cấp có thẩm quyền.
Bước 12. Thông báo chi trả tiền bồi thường, hỗ trợ: Ghi rõ mức bồi thường, hỗ
trợ; bố trí nhà hoặc đất tái định cư (nếu có); thời gian, địa điểm chi trả tiền bồi
thường, hỗ trợ; thời gian bố trí nhà hoặc đất tái định cư (nếu có) và thời gian bàn
giao đất đã thu hồi (Theo quy định tại Điểm b Khoản 3 Điều 69 Luật Đất đai 2013).
Có thể Thông báo một hoặc nhiều lần, nhiều cấp tùy tính chất và tiến độ dự án.
Bước 13. Tổ chức chi trả tiền bồi thường, hỗ trợ và nhận bàn giao đất đối với
những trường hợp chấp hành nhận tiền và bàn giao mặt bằng.
43
Bước 14. Nếu người có đất thu hồi không nhận tiền thì phải gửi vào tài khoản
tạm giữ tại Kho bạc nhà nước (theo quy định Khoản 3 Điều 93 Luật Đất đai 2013).
Bước 15. Các đơn vị có liên quan phải có mặt đúng thời gian tại thực địa để lập Biên bản nhận bàn giao đất theo Thông báo trên của UBND Thành phố Uông Bí. Thực hiện công tác quản lý nhà nước về lĩnh vực đất đai, thời gian qua
UBND thành phố Uông Bí luôn chú trọng tăng cường chức năng quản lý nhà nước
trong việc quy hoạch và sử dụng đất đảm bảo đúng mục đích, cùng với đó là việc
ban hành các quyết định hành chính về đất đai như: giao đất, cho thuê đất, thu hồi
đất, trưng dụng đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất, bồi thường, hỗ trợ, giải
phóng mặt bằng và tái định cư để thực hiện các dự án; việc cấp mới, cấp đổi giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất, gia hạn việc sử dụng đất... theo đúng quy định của
pháp luật.
Trên cơ sở đồ án quy hoạch chung xây dựng thành phố Uông Bí đến năm
2020 đã được UBND tỉnh Quảng Ninh phê duyệt năm 2009, Thành phố đã có
những hướng phát triển mới, khắc phục việc tập trung phát triển đô thị ven đường
quốc lộ 18A, đầu tư tuyến giao thông đối ngoại được chuyển xuống phía Nam,
nhằm gắn kết các tuyến đối ngoại không làm ảnh hưởng đến nội đô. Những chuyển
động tích cực của thành phố Uông Bí trong những năm gần đây để khai thác tiềm
năng, lợi thế này trở thành vùng kinh tế năng động của khu vực phía Bắc, thúc đẩy
sự phát triển chung của toàn vùng.
Sau khi có các căn cứ pháp lý do cấp có thẩm quyền phê duyệt để thực hiện
dự án, trong tháng 3 năm 2015 UBND thành phố đã tổ chức công khai quy hoạch,
phổ biến chính sách liên quan đến công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng thực
hiện dự án để các tổ chức, cá nhân, các hộ dân nằm trong diện thu hồi đất thực hiện
dự án.
Tổng diện tích đất bị thu hồi để thực hiện dự án là: 2.19 ha.
Số hộ bị ảnh hưởng là: 318 hộ.
Tổng số tiền chi trả bồi thường là: 84.843.443.908 đ. Trong đó:
+ Đền bù về đất, kiến trúc, cây cối hoa mà: 56.563.215.408đ.
44
+ Di chuyển hạ tầng: 27.381.969.000đ.
+ Chi phí cưỡng chế: 898.259.500đ.
2.2.2. Bồi thường về tài sản
2.2.2.1. Điều kiện được bồi thường
Khác với đất đai, tài sản có trên đất đại đa số là thuộc sở hữu của NSDĐ chứ
không phải thuộc sở hữu của Nhà nước, vì vậy Nhà nước không thể thu hồi chúng
mà chỉ có thể trưng mua theo quy định của Luật Trưng mua, trưng dụng tài sản năm
2008 (17, Đ 13). Nhưng theo quy định tại Nghị định 197/2004/NĐ-CP thì tài sản
gắn liền với đất cũng được bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nếu đáp ứng được
các điều kiện sau:
(i) Tài sản phải được hình thành trước thời điểm có quy hoạch, kế hoạch sử
dụng đất. Việc xây dựng nhà cửa hoặc làm bất cứ việc gì mà không vi phạm pháp
luật là quyền của người sử dụng đất. Tuy nhiên, vì lợi ích chung thì QSDĐ của
người sử dụng đấtsẽ bị Nhà nước giới hạn khi thửa đất thuộc quyền sử dụng của họ
nằm trong khu vực đã có quy hoạch và kế hoạch sử dụng đất được công bố. Đối với
những trường hợp tài sản hình thành sau thời điểm này sẽ không được bồi thường,
nhưng có thể được xem xét hỗ trợ trong một số trường hợp cụ thể được quy định tại
Điều 20 Nghị định 197/2004/NĐ-CP.
(ii) Tài sản phải được hình thành hợp pháp. Chẳng hạn Nhà, công trình xây
dựng không phép thì không được bồi thường, không được hỗ trợ. Người có công
trình xây dựng trái phép buộc phải tự tháo dỡ và tự chịu trách nhiệm chi phí phá dỡ
trong trường hợp cơ quan thẩm quyền phá dỡ. (4, Đ 20)
Những tài sản được hình thành trong các trường hợp sau đây thì được xem
là hợp pháp:
Thứ nhất, tài sản được hình thành trên đất đủ điều kiện bồi thường theo quy
định tại Điều 8 Nghị định 197/2004/NĐ-CP;
Thứ hai, Tài sản được hình thành theo đúng quy định của pháp luật như đối
với nhà, công trình khác được phép xây dựng theo quy định của Luật Nhà ở và Luật
Xây dựng. Tuy nhiên, có một ngoại lệ là đối với nhà, công trình xây dựng khác
45
không được phép xây dựng trên đất đủ điều kiện bồi thường về đất nhưng được xây
dựng trước ngày 01/7/2004 thì vẫn được bồi thường theo quy định tại Điều 24 Nghị
định 69/2009/NĐ-CP (1, Đ 10). Các trường hợp còn lại thì tùy theo mức độ và tính
chất hợp pháp của đất, nhà và công trình thì không được bồi thường nhưng có thể
được hỗ trợ theo quy định của pháp luật (4, Đ 20).
2.2.2.2. Loại tài sản được bồi thường
Những loại tài sản sau sẽ được Nhà nước bồi thường khi thu hồi đất:
Một là: nhà ở, công trình xây dựng. Luật Xây dựng 2003 quy định: “Công
trình xây dựng là sản phẩm được tạo thành bởi sức lao động của con người, vật liệu
xây dựng, thiết bị lắp đặt vào công trình, được liên kết định vị với đất, có thể bao
gồm phần dưới mặt đất, phần trên mặt đất, phần dưới mặt nước và phần trên mặt
nước, được xây dựng theo thiết kế. Công trình xây dựng bao gồm công trình xây
dựng công cộng, nhà ở, công trình công nghiệp, giao thông, thủy lợi , năng lượng và
các công trình khác” (15, Đ 3). Như vậy, dù Luật Đất đai có sự tách biệt giữa nhà ở
và công trình xây dựng nhưng 35 có thể thấy công trình xây dựng đã bao gồm nhà ở
và công trình khác xây dựng trên đất. Loại tài sản này gắn liền với đất, khi di dời
không thể mang theo mà buộc phải tháo dỡ nên người bị thu hồi đất sẽ được Nhà
nước bồi thường. Cách tính giá trị bồi thường đối được thực hiện như sau (7, Đ 24):
Đối với nhà ở, công trình phục vụ sinh hoạt của Hộ gia đình, cá nhân, được bồi
thường bằng giá trị xây dựng mới của nhà, công trình có tiêu chuẩn kỹ thuật tương
đương do Bộ Xây dựng ban hành. Giá trị xây dựng mới của nhà, công trình được
tính theo diện tích xây dựng của nhà, công trình nhân với đơn giá xây dựng mới của
nhà, công trình do UBND cấp tỉnh ban hành theo quy định của Chính phủ. Đối với
nhà, công trình xây dựng khác không thuộc đối tượng trên thì được bồi thường như
sau:
- Mức bồi thường nhà, công trình bằng tổng giá trị hiện có của nhà, công
trình bị thiệt hại và khoản tiền tính bằng tỷ lệ phần trăm theo giá trị hiện có của nhà,
công trình. Trong đó, giá trị hiện có của nhà, công trình bị thiệt hại được xác định
bằng tỷ lệ phần trăm chất lượng còn lại của nhà, công trình nhân với giá trị xây mới
của nhà, công trình có tiêu chuẩn kỹ thuật tương đương do Bộ quản lý chuyên
46
ngành ban hành. Khoản tiền tính bằng tỷ lệ phần trăm theo giá trị hiện có của nhà,
công trình do UBND cấp tỉnh quy định, nhưng mức bồi thường tối đa không lớn
hơn 100% giá trị xây mới của nhà, công trình có tiêu chuẩn kỹ thuật tương đương
với nhà, công trình thiệt hại.
- Đối với nhà, công trình xây dựng khác bị phá dỡ một phần, mà phần còn
lại không còn sử dụng được thì bồi thường cho toàn bộ nhà, công trình; trường hợp
nhà, công trình xây dựng khác bị phá dỡ một phần, nhưng vẫn tồn tại và sử dụng
được phần còn lại thì được bồi thường phần giá trị công trình bị pháp dỡ và chi phí
để sữa chửa, hoàn thiện phần còn lại theo tiêu chuẩn kỹ thuật tương đương của nhà,
công trình khác bị phá dỡ.
Hai là: cây trồng, vật nuôi.
Cây trồng, vật nuôi là loại tài sản mà sự sinh trưởng của chúng gắn liền với
đất nên trong nhiều trường hợp khi Nhà nước thu hồi đất không thể di dời được dẫn
đến phải khai thác sớm gây thiệt hại đến lợi ích của người bị thu hồi đất. Điều 24
Nghị định 197/2004/NĐ-CP quy định mức bồi thường đối với cây trồng phụ thuộc
vào từng loại cây khác nhau:
Mức bồi thường đối với cây hàng năm được tính bằng giá trị sản lượng của
vụ thu hoạch đó. Giá trị sản lượng của vụ thu hoạch được tính theo năng suất của vụ
cao nhất trong 3 năm trước liền kề của cây trồng chính tại địa phương và giá trung
bình tại thời điểm thu hồi.
2.2.3. Quy trình áp dụng pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất cho
dự án.
* Căn cứ pháp lý:
+ Ngày 17/5/2011 Bộ Giao thông Vận tải đã ban hành Quyết định số
996/QĐ-BGTVT Về việc phê duyệt Dự án cải tạo, nâng cấp Quốc lộ 18 đoạn thành
phố Uông Bí .
+ Quyết định số 253/QĐ-UBND ngày 07/02/2012 của Ủy ban nhân dân tỉnh
Về việc phê duyệt mặt bằng và ranh giới GPMB tỷ lệ 1/1000 Dự án: Cải tạo, nâng
cấp Quốc lộ 18 đoạn thành phố Uông Bí theo hình thức BOT;
47
+ Quyết định số 629/QĐ-UBND Ngày 21/3/2012 của Ủy ban nhân dân tỉnh
Quảng Ninh Về việc phê duyệt phương án tổng thể bồi thường, hỗ trợ và tái định cư
khi nhà nước thu hồi đất thực hiện Dự án.
Căn cứ Luật Đất đai năm 2013 ngày 29/11/2013;
Căn cứ Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 quy định chi tiết thi
hành một số điều của Luật Đất đai năm 2013;
Căn cứ Nghị định số 44/2014/NĐ-CP ngày 15/05/2014 của Chính Phủ Quy
định về giá;
Căn cứ Nghị định số 47/2014/NĐ-CP ngày 15/05/2014 của Chính Phủ Quy
định về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất;
Căn cứ Nghị định số 01/2017/NĐ-CP ngày 6/1/2017 sửa đổi, bổ sung một số
Nghị định quy định chi tiết thi hành Luật Đất đai;
Căn cứ Quyết định số 1766/QĐ-UBND ngày 13/8/2014 của UBND tỉnh
Quảng Ninh về việc ban hành Quy định về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi nhà
nước thu hồi đất theo Luật Đất đai năm 2013 trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh;
Căn cứ Quyết định số 3238/2014/QĐ-UBND ngày 26/12/2014 của UBND
tỉnh Quảng Ninh về việc quy định giá các loại đất trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh;
Căn cứ Quyết định số 4234/2015/QĐ-UBND ngày 28/12/2015 của UBND
tỉnh Quảng Ninh về Ban hành Bộ đơn giá bồi thường tài sản gắn liền với đất khi
Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh;
Ngày 26/6/2015, UBND Tỉnh có Quyết định số 1813/QĐ-UBND về việc phê
duyệt giá đất ở cụ thể để làm căn cứ tính giá trị bồi thường, hỗ trợ giải phóng mặt
bằng để thực hiện dự án.
Thành ủy, UBND thành phố Uông Bí đã tập trung chỉ đạo cả hệ thống chính
trị vào cuộc nhằm đẩy nhanh tiến độ dự án. Bên cạnh việc thành lập các Tổ công tác
tuyên truyền, vận động đến từng hộ dân chấp hành, ủng hộ dự án, UBND thành phố
Uông Bí đã tổng hợp báo cáo UBND tỉnh Quảng Ninh về những khó khăn vướng
mắc. Trong năm 2015 các hộ gia đình bị ảnh hưởng nằm trong dự án đã được
48
UBND thành phố Uông Bí phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ theo Quyết định
1813/QĐ-UBND, ngày 26/6/2015 của UBND Tỉnh. Do sự thay đổi về chính sách
bồi thường, hỗ trợ theo Luật đất đai năm 2013 (không còn hỗ trợ 50% giá đất ở đối
với diện tích đất vườn liền kề đất ở bị thu hồi áp dụng theo Luật đất đai năm 2003)
nên các hộ không đồng tình ủng hộ.
Để giải quyết những khó khăn, vướng mắc trên, ngày 31/12/2015 UBND
Tỉnh đã có Công văn số 8091/UBND-QLĐĐ1 giao Sở Tài nguyên và Môi trường
làm việc xin ý kiến tham vấn của Tổng cục đất đai- Bộ Tài nguyên và Môi trường
để giải quyết những vướng mắc về bồi thường đối với diện tích bị thu hồi nằm trong
hành lang bảo vệ công trình giao thông đường bộ tại dự án.
Ngày 04/4/2016 Tổng cục Quản lý đất đai- Bộ Tài nguyên và Môi trường có
Công văn số 415/TCQLĐĐ- CKTPTQĐ "Về việc hướng dẫn giải quyết vướng mắc
trong bồi thường, hỗ trợ và tái định cư", trong đó đồng ý áp dụng cơ chế hỗ trợ khác
theo quy định tại Điều 25 Nghị định số 47/2014/NĐ-CP của Chính phủ là có căn cứ
và thuộc thẩm quyền của UBND tỉnh Quảng Ninh.
Ngày 07/12/2016 UBND tỉnh đã ban hành Quyết định số 4114/QĐ-UBND
"Về việc áp dụng biện pháp hỗ trợ khác theo quy định tại Điều 25 Nghị định số
47/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ đối với diện tích đất trong hành
lang giao thông của các hộ dân bị thu hồi để thực hiện dự án Cải tạo, nâng cấp Quốc
lộ 18A trên địa bàn thành phố Uông Bí", trong đó có quyết định mức hỗ trợ bằng
50% giá đất ở (có điều kiện bắt buộc kèm theo).
Ngày 13/12/2016 UBND Tỉnh tiếp tục ban hành Quyết định số 4166/QĐ-
UBND Về việc thành lập Đoàn công tác rà soát, thẩm định phương án bồi thường,
hỗ trợ đối với các hộ dân thuộc GPMB thực hiện Dự án cải tạo, nâng cấp Quốc lộ
18A trên thành phố Uông Bí. Sau khi rà soát, Đoàn công tác của Tỉnh đã báo cáo
kiến nghị với UBND tỉnh điều chỉnh điều kiện được hỗ trợ khác tại Quyết định số
4114/QĐ-UBND ngày 07/12/2016 của UBND Tỉnh.
Ngày 17/2/2017 UBND Tỉnh đã ban hành Quyế định số 500/QĐ-UBND sử
đổi khoản 1, Điều 1, Quyết định số 4114/QĐ-UBND ngày 07/12/2016 của UBND
49
tỉnh về việc áp dụng biện pháp hỗ trợ khác theo quy định tại Điều 25 Nghị định số
47/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ đối với diện tích đất trong hành
lang giao thông của các hộ dân bị thu hồi để thực hiện dự án Cải tạo, nâng cấp
Quốc lộ 18A trên địa bàn thành phố Uông Bí, theo đó điều kiện được hưởng hỗ trợ
khác cho các hộ dân đã phù hợp với thực tế sử dụng đất của các hộ dân, cơ bản các
hộ dân sử dụng đất có nhà ở trước ngày 18/12/1980 đều được hưởng mức hỗ trợ
bằng 50% giá đất ở tại vị trí tương ứng. Sau khi có Quyết định số 500/QĐ-UBND
ngày 17/02/2017 của UBND tỉnh Quảng Ninh, UBND thành phố đã phê duyệt
phương án bồi thường, hỗ trợ cho 318/318 hộ gia đình và cá nhân.
Trong quá trình thực hiện, UBND thành phố, các phường có dự án đi qua đã
cầu thị, lắng nghe ý kiến của các hộ dân nhiều lần thông qua các cuộc tiếp xúc gặp
gỡ đối thoại trực tiếp. Xin ý kiến của các Bộ ngành Trung ương để vận dụng ban
hành các quyết định hỗ trợ đền bù giải phóng mặt bằng trên cơ sở có lợi nhất cho
người dân, đúng với quy định của pháp luật. Thành ủy, UBND thành phố Uông Bí
đã chỉ đạo các Tổ công tác gồm Trung tâm phát triển quỹ đất, UBND phường,
UBMTTQ, các ban ngành đoàn thể xuống từng hộ dân giải thích chính sách, tuyên
truyền, vận động nhân dân nhận tiền đền bù và bàn giao mặt bằng cho Chủ đầu tư
thực hiện theo đúng tiến độ.
Trong quá trình triển khai thực hiện dự án, một số hộ dân không đồng tình
với chính sách bồi thường, hỗ trợ của Nhà nước, có tư tưởng chống đối, thường
xuyên tụ tập kích động, gây mất an ninh trật tự nhằm gây áp lực với chính quyền
đòi áp dụng đơn giá bồi thường bằng giá đất ở (không đồng ý hỗ trợ bằng 50% giá
đất ở); kể cả các hộ không đủ điều kiện hỗ trợ theo Quyết định số 500/QĐ-UBND
ngày 17/02/2017 của UBND tỉnh Quảng Ninh. Cụ thể như sau:
Trường hợp 1: Gia đình ông Đặng Thanh Hồng cư trú tại khu Bí Trung 2,
phường Phương Đông, thành phố Uông Bí, có đơn đề nghị UBND phường Phương
Đông xác định loại đất và nguồn gốc đất không đúng không đúng với Luật đất đai,
mặc dù gia đình ông đã được UBND phường Phương Đông và UBND thành phố
Uông Bí đã tổ chức tuyên truyền vận động; đối thoại trực tiếp nhưng gia đình ông
vẫn tiếp tục kiến nghị đến các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Ngày 15/7/2017
50
UBND thành phố Uông Bí đã ban hành Quyết định số 374/QĐ-UBND Về việc giải
quyết đơn đề nghị của ông Đặng Thanh Hồng cư trú tại khu Bí Trung 2, phường
Phương Đông, thành phố Uông Bí.Với nội dung như sau:
Năm 1998, ông Đặng Thanh Hồng được UBND thị xã Uông Bí cấp Giấy
CNQSDĐ (số vào sổ cấp giấy 77) ngày 15/10/1998 thuộc thửa đất số 93 tờ bản đồ
số 17 mang tên ông Đặng Thanh Hồng với tổng diện tích 139m2, trong đó: đất ở tại
đô thị: 46 m2, đất trồng cây lâu năm: 93m2; thửa đất thuộc khu Bí Trung 2, phường
Phương Đông.
Năm 2015, khi GPMB thực hiện dự án Cải tạo, nâng cấp Quốc lộ 18A tại
thành phố Uông Bí đã chiếm dụng một phần diện tích đất phía trước cửa nhà của gia
đình ông Đặng Thanh Hồng (nằm ngoài Giấy CNQSDĐ được cấp).
Tại Biên bản xác định ranh giới, mốc giới và diện tích thửa đất do Công ty
cổ phần tư vấn và xây dựng Phương Đông lập ngày 30/5/2015 do bà Đặng Thị Lan
Anh (bà Anh là vợ ông Hồng), thuộc thửa đất số 18, tờ bản đồ GPMB số 5, khu Bí
Trung 2, phường Phương Đông: tổng diện tích là: 210,0m2, diện tích đất GPMB:
17,7m2, diện tích đất còn lại: 192,3m2.
- Kết quả xét duyệt nguồn gốc đất (lần 1) của UBND phường Phương Đông
ngày 7/8/2015 xác định như sau:
+ Trong tổng diện tích đất theo biên bản xác nhận ranh giới, mốc giới và diện
tích thửa đất GPMB tại thửa số 18, tờ bản đồ GPMB số 05, khu Bí trung 2 tổng diện
tích: 210m2, diện tích đất GPMB: 17,7m2, diện tích đất còn lại: 192,3m2. (trong tổng
số: 17,7m2; có 5,2m2 đất đã GPMB, diện tích còn lại chưa GPMB: 12,5m2)
+ Loại đất phải GPMB: là đất trồng cây lâu năm, nằm ngoài giấy chứng nhận
QSD đất.
+ Nguồn gốc thửa đất: Đất ông Vũ Văn Vân sử dụng ổn định trước
15/10/1993 ông Vân chuyển nhượng cho ông Hồng, ông Hồng đã được UBND
thành phố Uông Bí cấp giấy chứng nhận QSD đất (số vào sổ cấp giấy 77) ngày
15/10/1998,
51
- Kết quả xét duyệt nguồn gốc đất (lần 2) của phường Phương Đông ngày
25/2/2017 xác định như sau:
+ Trong tổng diện tích đất theo biên bản xác nhận ranh giới, mốc giới và diện
tích thửa đất GPMB tại thửa số 18, tờ bản đồ GPMB số 05, khu Bí trung 2 tổng diện
tích: 210m2, diện tích đất GPMB: 17,7m2, diện tích đất còn lại: 192,3m2. (trong tổng
số: 17,7m2; có 5,2m2 đất đã GPMB, diện tích còn lại chưa GPMB: 12,5m2)
+ Loại đất phải GPMB: là đất trồng cây lâu năm, nằm ngoài giấy chứng nhận
QSD đất.
- Nguồn gốc và quá trình sử dụng: Đất ông Số sử dụng có nhà ở từ trước ngày
18/12/1980 nhưng gia đình ông Số không có giấy tờ về quyền sử dụng đất được cơ
quan có thẩm quyền cấp, ông Số cho bà Luân, bà Luân tặng cho ông Vân, năm 1998
ông Vân chuyển nhượng cho ông Hồng. Ông Hồng được UBND thị xã Uông Bí
(nay là thành phố Uông Bí) cấp giấy chứng nhận QSD đất (số vào sổ cấp giấy 77)
ngày 15/10/1998.
- Thửa đất ông Hồng được bồi thường được tách ra từ thửa đất có nhà ở hình
thành trước ngày 18/12/1980 của ông Số (năm 1992 bản đồ giải thửa đã xác lập tên
ông Vũ Văn Vân thuộc thửa đất số 93 tờ bản đồ số 17).
Năm 1992, UBND thị xã Uông Bí (nay là thành phố Uông Bí) đo vẽ bản đồ
giải thửa, thực hiện nghị định 203- HĐBT ngày 21/12/1982 của Hội đồng Bộ
trưởng đã tách thửa đất của hộ dân đang quản lý sử dụng thành 02 thửa (phần diện
tích đất gia đình ông Hồng quản lý sử dụng ổn định nằm ngoài hành lang ATGT
thửa đất số 93 được cấp giấy chứng nhận QSD đất; phần diện tích đất các hộ quản
lý sử dụng ổn định nằm trong HL ATGT thửa đất số 94 không được cấp giấy chứng
nhận QSD đất nhưng trên thực tế gia đình ông Hồng vẫn sử dụng đến thời điểm thu
hồi đất với mục đích làm công trình phục vụ kinh doanh sân, lối đi, trồng cây bóng
mát...)
Căn cứ Quyết định số 500/QĐ-UBND ngày 17/2/2017 của UBND tỉnh
Quảng Ninh "về việc hỗ trợ khác đối với hộ gia đình sử dụng đất trước ngày
18/12/1980" thì ông Đặng Thanh Hồng ngoài việc được bồi thường về đất còn được
52
hưởng hỗ trợ khác bằng 50% giá đất ở tại Điều 1 Quyết định số 500/QĐ-UBND
ngày 17/2/2017 về việc sửa đổi khoản 1, Điều 1 Quyết định số 4114/QĐ-UBND
ngày 7/12/2016 của UBND tỉnh Quảng Ninh: Điều kiện được hưởng khoản hỗ trợ
khác đối với các hộ đang được bồi thường đất nông nghiệp trồng cây lâu năm nằm
trong phạm vi hành lang bảo vệ Quốc Lộ 18A.
Căn cứ quá trình sử dụng đất của ông Đặng Thanh Hồng và Giấy CNQSDĐ
(vào sổ cấp giấy số 77) mang tên ông Đặng Thanh Hồng đã được UBND thị xã
Uông Bí (nay là thành phố Uông Bí) cấp ngày 15/10/1998 cho thấy diện tích đất
GPMB chưa chiếm dụng hết phần đất thuộc hành lang theo giấy chứng nhận QSD
đất của ông Đặng Thanh Hồng được cấp là 15m. UBND phường Phương Đông xác
định diện tích, loại đất, nguồn gốc sử dụng đất của ông Đặng Thanh Hồng còn lại
phải GPMB là: 12,5m2; loại đất là: đất trồng cây lâu năm nằm GCN QSD đất là
đúng quy định.
Từ căn cứ trên UBND phường Phương Đông, thành phố Uông Bí xác định
trong tổng diện tích đất GPMB của gia đình ông Đặng Thanh Hồng: 17,7m2; có
5,2m2 đất do nhà nước quản lý (Diện tích đất trên nằm trong khoảng từ tim đường
18A mới trở vào 7,0m); Diện tích còn lại chưa GPMB: 12,5m2; (Diện tích đất trên
được xác định nằm trong khoảng từ 7,0m trở vào đến ranh giới GPMB) là đúng quy
định.
Từ những nhận định và căn cứ trên, không chấp nhận nội dung khiếu nại của
ông Đặng Thanh Hồng về việc đề nghị UBND phường Phương Đông xác định loại
đất, nguồn gốc sử dụng đất để bồi thường, hỗ trợ GPMB là đất ở. Nội dung khiếu
nại của ông Đặng Thanh Hồng là không có cơ sở giải quyết. Như vậy từ những căn
cứ pháp lý trên thì UBND thành phố đã làm đúng trình tự và đúng các quy định của
1 Căn cứ Quyết định số 374/QĐ-UBND ngày 15/7/2017 UBND thành phố Uông Bí "Về việc giải quyết đơn
đề nghị của ông Đặng Thanh Hồng cư trú tại khu Bí Trung 2, phường Phương Đông, thành phố Uông Bí"
pháp luật.1
53
Trường hợp 2: Ông Đỗ Đức Thắng, thường trú tại Khu Nam Trung, phường
Nam Khê, yêu cầu Tòa án tỉnh Quảng Ninh hủy Quyết định số: 3094/QĐ-UBND
ngày 29/5/2017 của Chủ tịch UBND thành phố Uông Bí về việc giải quyết khiếu nại
của ông Đỗ Đức Thắng trú tại tổ 1, khu Nam Trung, phường Nam Khê, thành phố
Uông Bí . Với nội dung như sau:
Dự án “Cải tạo, nâng cấp Quốc lộ 18A trên địa bàn thành phố Uông Bí theo
hình thức BOT” đã sử dụng 35,1m2 đất tại vị trí phía trước cửa nhà ông Đỗ Đức Thắng
tại tổ 1 khu Nam Trung, phường Nam Khê thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh.
Ngày 03/8/2015 Hội đồng đăng ký đất đai của phường xét duyệt nguồn gốc
đất đối với hộ gia đình ông Đỗ Đức Thắng thì tổng diện tích đất tại thửa đất số 17 tờ
bản đồ GPMB số 5 là: 387,4m2 diện tích thu hồi 35,1 m2; diện tích còn lại là 352,3
m2; nguồn gốc sử dụng đất phải thu hồi căn cứ GCNQSDĐ số P 137153 vào sổ cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 04 QSDĐ do UBND thị xã Uông Bí cấp
ngày 11/5/1998 mang tên ông Đỗ Đức Thắng: trong tổng diện tích thu hồi 35,1 m2
có 29,77m2 đất hành lang đường và 5,33 m2 đất hành lang suối.
Căn cứ vào kết quả xét duyệt nguồn gốc đất của phường Nam Khê, Trung
tâm phát triển quỹ đất đã lập phương án bồi thường, hỗ trợ cho hộ ông Đỗ Đức
Thắng theo quy trình và trình UBND thành phố phê duyệt, đã thông báo cho hộ gia
đình ông Đỗ Đức Thắng nhận tiền và bàn giao mặt bằng để thi công.
Không nhất trí với việc xác định nguồn gốc đất của UBND phường Nam
Khê, ông Đỗ Đức Thắng cung cấp thêm hồ sơ Phương án đền bù di chuyển tài sản
GPMB quốc lộ 18 số DB1992U mang tên ông Đỗ Đức Thắng, được lập năm 1997,
cùng các hồ sơ tài liệu khác và gửi đơn khiếu nại đến Ủy ban nhân dân thành phố
Uông Bí khiếu nại về việc xác định nguồn gốc đất của gia đình ông khi thực hiện dự
án cải tạo nâng cấp quốc lộ 18A giai đoạn 2015 - 2017 là chưa đúng. Ngày
21/12/2016, Chủ tịch UBND phường Nam Khê đã ban hành Quyết định số 184/QĐ-
CTUBND để giải quyết (lần đầu) khiếu nại của ông Đỗ Đức Thắng.
54
Ông Đỗ Đức Thắng tiếp tục khiếu nại đến Chủ tịch UBND Thành phố, với nội
dung khiếu nại Quyết định số 184/QĐ-CTUBND ngày 21/12/2016 của Chủ tịch
UBND phường Nam Khê.
Ngày 23/3/2017, Chủ tịch UBND thành phố Uông Bí ban hành quyết định số
1144/QĐ-UBND ngày 23/3/2017 của UBND thành phố Uông Bí về việc xác minh
nội dung khiếu nại của ông Đỗ Đức Thắng, cư trú tại tổ 1, khu Nam Trung, phường
Nam Khê, thành phố Uông Bí.
Theo Bản đồ hiện trạng GPMB tỷ lệ 1/500 (lập tháng 2/2015) và bản vẽ trích
lục thửa đất kèm theo "Biên bản xác nhận ranh giới, mốc giới và diện tích thửa đất
GPMB (theo hiện trạng sử dụng đất)" do Trung tâm Phát triển quỹ đất thuộc Sở Tài
nguyên và Môi trường lập, thì phạm vi và ranh giới GPMB thuộc thửa đất số 17 tờ
bản đồ số 05 có chữ ký của ông Thắng được xác định cụ thể:
- Mặt trước giáp đường phía Đông cách tim đường 12,08m.
- Mặt trước giáp đường phía Tây cách tim đường 12,25m.
Trong quá trình thực hiện giải phóng mặt bằng ông Đỗ Đức Thắng cung cấp
giấy CNQSDĐ số P 137153 vào sổ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 04
QSDĐ do UBND thị xã Uông Bí cấp ngày 11/5/1998, ngoài ra không cung cấp giấy tờ
nào khác.
- Theo Giấy CNQSDĐ số P 137153 vào sổ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất số 04 QSDĐ do UBND thị xã Uông Bí cấp ngày 11/5/1998 (ranh giới thửa đất cách
tim đường 15m), thì ranh giới GPMB còn cách ranh giới thửa đất là:
+ Mặt trước giáp đường phía Đông khoảng cách là: (15m – 12,08m) =
2,92m.
+ Mặt trước giáp đường phía Tây khoảng cách là: (15m – 12.25m) = 2,75m.
Như vậy chỉ giới GPMB của dự án chưa chiếm dụng vào ranh giới thửa đất
theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã được cấp.
Trong “Biên bản xác định khối lượng đền bù GPMB (đất ở, đất vườn, ao bị
đường 18 chiếm dụng)” do Ban GPMB Quốc lộ 18 lập ngày 10/10/1997, có chữ ký
55
xác nhận của ông Đỗ Đức Thắng, có ghi nội dung: “Các giấy tờ liên quan do chủ hộ
cung cấp gồm: Giấy xác nhận của UBND, UBMTTQ”. Như vậy việc khảo sát, đo vẽ
khi thực hiện dự án Nâng cấp cải tạo Quốc lộ 18A giai đoạn 1996 - 2000 đã căn cứ
vào chiều rộng nền đường hiện trạng và đối chiếu với ranh giới quy định trong Giấy
Giấy xác nhận của UBND, UBMTTQ xã Nam Khê (thời điểm 1996-1997) để xác
định ranh giới thửa đất và diện tích bị chiếm dụng tạm thời của gia đình ông Thắng.
Việc xác định ranh giới GPMB để thực hiện dự án “Cải tạo, nâng cấp Quốc
lộ 18A trên địa bàn thành phố Uông Bí theo hình thức BOT” giai đoạn năm 2015 -
2017 không chiếm dụng vào ranh giới đất của ông Đỗ Đức Thắng theo GCNQSDĐ
số P 137153 vào sổ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 04 QSDĐ do UBND
thị xã Uông Bí cấp ngày 11/5/1998, mang tên Đỗ Đức Thắng và cũng chưa chiếm
dụng vào phần diện tích đất mượn (đất ở) 32m2 trên hồ sơ bồi thường do Ban
GPMB Quốc lộ 18A lập năm 1997 khi thực hiện dự án Nâng cấp mở rộng Quốc lộ
18A giai đoạn 1996 - 2000.
Trên cơ sở tài liệu chứng cứ thu thập được, căn cứ các quy định pháp luật đã
được viện dẫn, việc ông Đỗ Đức Thắng khởi kiện yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh
Quảng Ninh hủy Quyết định số: 3094/QĐ-UBND ngày 29/5/2017 của Chủ tịch
UBND thành phố Uông Bí về việc giải quyết khiếu nại của ông Đỗ Đức Thắng trú
tại tổ 1, khu Nam Trung, phường Nam Khê, thành phố Uông Bí (lần 2) và các quyết
định trái pháp luật có liên quan là không có căn cứ pháp lý.
Ngày 20/11/2017 Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh bác đơn khởi kiện của
ông Đỗ Đức Thắng đối với các yêu cầu trên.
Căn cứ vào Luật đất đai năm 2013 và các văn bản hướng dẫn pháp luật về
bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi nhà nước thu hồi đất cho dự án cải tạo, nâng
cấp Quốc lộ 18A tại thành phố Uông Bí đã làm theo đúng trình tự và đúng theo quy
2 Căn cứ Quyết định số: 3094/QĐ-UBND ngày 29/5/2017 của Chủ tịch UBND thành phố Uông Bí "về việc
giải quyết khiếu nại của ông Đỗ Đức Thắng trú tại tổ 1, khu Nam Trung, phường Nam Khê, thành phố Uông Bí (lần 2)"
định của pháp Luật.2
56
Bảng 2.2: Bảng tổng hợp kinh phí bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất
thực hiện dự án cải tạo, nâng cấp Quốc lộ 18A tại thành phố Uông Bí.
STT Tên công việc
Đền bù về đất, kiến trúc, cây cối hoa mà: Di chuyển hạ tầng Kinh phí bồi thường, hỗ trợ (triệu đồng) 56.563.215.408. 27.381.969.000 1 2
Chi phí cưỡng chế 898.259.500 3
Tổng cộng 84.843.443.908
(Nguồn: Trung tâm phát triển quỹ đất thành phố Uông Bí)
Bảng 2.2: Bảng giá đất ở, đất trồng cây lâu năm trên địa bàn thành phố Uông
Bí, tỉnh Quảng Ninh.
Tên đoạn đường Đơn giá đồng/m2
8.100.000 STT A I 1
7.500.000 2
3.100.000 3
6.800.000 II 1
4.800.000 6.800.000 9.000.000 2 III 1 IV 1
Đất ở Phường Phương Đông Đoạn từ cầu Sến đến hết khu quy hoạch dân cư của Công Ty Hà Khánh Anh. Đoạn từ tiếp theo khu quy hoạch dân cư của Công Ty Hà Khánh Anh đến cầu Cảnh Nghi Đoạn từ tiếp theo cầu Cảnh Nghi đến giáp địa phận huyện Đông Triều. Phường Nam Khê Đoạn từ giáp địa phận phường Trưng Vương đến cầu Chạp Khê II Đoạn từ cầu Chạp Khê II đến giáp thị xã Quảng Yên Phường Trưng Vương Các vị trí bám mặt đường 18A mới Phường Yên Thanh Các vị trí bám mặt đường Quốc lộ 18A mới, đoạn từ ngã ba vườn hoa đến cầu Sông Sinh mới Các vị trí bám mặt đường Trần Nhân Tông Phường Quang Trung Các vị trí bám mặt đường 18A mới Đất trồng cây lâu năm 10.400.000 8.400.000 50.000 2 V 1 B
(Nguồn: Quyết định số 3238/QĐ-UBND ngày 26/12/2014 của UBND Tỉnh)
57
2.2.4. Tình hình áp dụng pháp luật về bồi thường hỗ trợ về đất đai, tài sản trên
thực tế
Trong những năm qua, thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh đều có chủ
trương nhất quán áp dụng theo quy định của Luật đất đai qua các thời kỳ và các văn
bản hướng dẫn thi hành trong công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng. Trong quá
trình áp dụng pháp luật về bồi thường, hỗ trợ đối với trường hợp Nhà nước thu hồi
đất đang sử dụng để phục vụ cho mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia,
lợi ích công cộng, khi thu hồi đất, Nhà nước sẽ phê duyệt phương án bồi thường, hỗ
trợ, tái định cư cho người có đất bị thu hồi để giải phóng mặt bằng. Trong quá trình
phát triển kinh tế của Thành phố, nhu cầu phát triển kết cấu hạ tầng kỹ thuật, cơ sở
hạ tầng xã hội, phát triển công nghiệp và dịch vụ... đòi hỏi quỹ đất khá lớn mà Nhà
nước cần thu hồi .Khẳng định vị thế là một trong những thành phố đầu tàu trong
chiến lược phát triển kinh tế xã hội, từ năm 2006 tỉnh đã điều chỉnh, bổ sung “Quy
hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2010, tầm nhìn đến năm 2020”
nhằm khai thác các nguồn lực một cách hiệu quả để phục vụ phát triển kinh tế - xã
hội. Thành phố cũng đã bắt đầu chuyển dịch dần khỏi việc phụ thuộc vào ngành
khai thác than, hệ thống giao thông kết nối vùng được tập trung đầu tư, các Khu
kinh tế, Khu công nghiệp được tập trung thu hút các nhà đầu tư như Khu Công
nghiệp AMATA, khu đô thị Công thành, khu nghỉ dưỡng Hồ Yên Trung…
Để đảm bảo quyền lợi cho người dân có đất bị thu hồi, hàng năm UBND
Thành phố điều tra, khảo sát giá các loại đất trên địa bàn thành phố, báo cáo UBND
tỉnh Quảng Ninh ban hành khung giá các loại đất do Nhà nước quy định bảo đảm
nguyên tắc: sát với giá chuyển nhượng quyền sử dụng đất thực tế trên thị trường
trong điều kiện bình thường; các thửa đất liền kề nhau, có điều kiện tự nhiên, kinh
tế, xã hội, kết cấu hạ tầng như nhau, có cùng mục đích sử dụng hiện tại, cùng mục
đích sử dụng theo quy hoạch thì mức giá như nhau; đất tại khu vực giáp ranh giữa
các phường, huyện thị trên địa bàn Tỉnh, có điều kiện tự nhiên, kết cấu hạ tầng như
nhau, có cùng mục đích sử dụng hiện tại, cùng mục đích sử dụng theo quy hoạch thì
mức giá như nhau theo đúng quy định tại Ðiều 56 Luật đất đai 2003; giá trị bồi
thường cho người có đất bị thu hồi được tính theo giá đất do Nhà nước quy định
58
theo các nguyên tắc trên tạo nên tính nhất quán về mặt giá trị. Khi thực hiện việc
thu hồi đất, bồi thường, giải phóng mặt bằng sau khi quy hoạch, kế hoạch sử dụng
đất được công bố hoặc khi dự án đầu tư có nhu cầu sử dụng đất phù hợp quy hoạch,
kế hoạch sử dụng đất được cơ quan nhà nước có thẩm quyền xét duyệt theo tinh
thần tại Ðiều 39 Luật đất đai 2003. Việc thu hồi đất, bồi thường, giải phóng mặt
bằng theo dự án, công trình sẽ được hạn chế dần mà thay chủ yếu bằng cơ chế thực
hiện việc thu hồi đất, bồi thường, giải phóng mặt bằng sau khi quy hoạch, kế hoạch
sử dụng đất được công bố để tránh tình trạng coi đất nông nghiệp là đất phi nông
nghiệp theo dự án. Nhất quán với chủ trương người bị thu hồi loại đất nào thì được
bồi thường bằng việc giao đất mới có cùng mục đích sử dụng, nếu không có đất để
bồi thường thì được bồi thường bằng giá trị quyền sử dụng đất tại thời điểm có
quyết định thu hồi. Trên thực tế cũng có thể thấy, có nhiều hộ dân chây ỳ không
phối hợp trong công tác giải phóng mặt bằng, khi có chính sách mới lại được bồi
thường cao hơn với những người đã tự nguyện chấp hành....Chính vì vậy, đã nảy
sinh nhiều khiếu kiện của người dân về mức bồi thường, hỗ trợ, đồng thời tạo nên
tâm lý nặng nề đối với nhà đầu tư khi thực hiện bồi thường, hỗ trợ, tái định cư để
giải phóng mặt bằng. Có thể nói rằng, cơ chế thực hiện công tác bồi thường khi Nhà
nước thu hồi đất để phát triển kinh tế trong những năm qua trên địa bàn thành phố
Uông Bí nói riêng và UBND tỉnh Quảng Ninh nói chung gặp một số khó khăn do
các quy định của pháp luật đất đai vẫn còn bộc lộ một số hạn chế nhất định. Bên
cạnh đó, vấn đề xác định giá đất để tính bồi thường cho người bị thu hồi đất chưa
được quy định theo một chuẩn mực nhất quán; có nhiều quyết định của Uỷ ban
nhân dân tỉnh về giá đất để tính bồi thường còn thiếu cơ sở. Mặt bằng chung người
bị thu hồi đất nông nghiệp thường chịu thiệt thòi, người bị thu hồi đất phi nông
nghiệp thường được lợi. Việc không bảo đảm công bằng trong những người sử
dụng đất chung quanh dự án, công trình đang triển khai. Trên thực tế vẫn còn nhiều
quỹ đất sử dụng không đúng mục đích gây lãng phí tiền ngân sách nhà nước, ảnh
hưởng đến niềm tin của người dân và các cơ quan nhà nước trong quá trình thực
hiện các phương án bồi thường và thu hồi đất.
59
Công tác bồi thường, hỗ trợ và tái định cư luôn được thành phố quan tâm chỉ
đạo tổ chức thực hiện công khai, dân chủ và đúng trình tự, thủ tục theo quy định của
pháp luật. Đặc biệt, việc thực hiện dự án với sự tập trung, thống nhất cao về chủ
trương và đề ra các giải pháp tổ chức thực hiện tương đối đồng bộ, chặt chẽ, có hiệu
quả. Có thể kể đến như dự án đường Uông Bí - Hoành Bồ; đường Yên Tử, Ba
Vàng, Khu đô Thị Tân Thành, Việt Long…
Mặc dù, những quy định của Luật Đất đai 2013 đã đi vào cuộc sống, bước
đầu phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của thành phố nhưng theo đồng
chí Vũ Văn Đát, Phó giám đốc Sở TN&MT thì trong quá trình thực hiện nảy sinh
một số vướng mắc, một số quy định còn chồng chéo, chưa thống nhất; việc chuyển
tiếp giữa Luật Đất đai 2003 và Luật Đất đai 2013 đã gây ra một số khó khăn cho các
địa phương trong thực hiện thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước
thu hồi đất để thực hiện các dự án đầu tư (đặc biệt là chính sách hỗ trợ đối với đất
nông nghiệp khác nhau). Bất cập giữa thực hiện chính sách bồi thường, hỗ trợ, tái
định cư với chính sách cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Đối với dự án khi Nhà nước thu hồi đất thực hiện dự án mới với số lượng hộ
gia đình và tổ chức sử dụng đất bị ảnh hưởng lớn thì Luật Đất đai năm 2013 quy
định việc quyết định thu hồi đất và phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ và tái
định cư trong cùng một ngày là hết sức khó khăn khi thực hiện. Hoặc với những
trường hợp vi phạm pháp luật đất đai như chậm tiến độ sử dụng đất thì không được
xem xét đến việc bồi thường hoặc hỗ trợ tài sản đã đầu tư chính đáng trên khu đất bị
thu hồi. Trên thực tế, khi thực hiện lại nảy sinh vướng mắc vì có những hạng mục
công trình nhà đầu tư đã đầu tư đúng nhưng chỉ chậm tiến độ.
Không chỉ vậy, qua việc xử lý đơn thư và tiếp công dân hằng tháng trên địa
bàn thành phố Uông Bí, hầu hết những khiếu nại tố cáo liên quan đến bồi thường,
hỗ trợ, tái định cư ở nhiều trường hợp vẫn chưa giải quyết được vấn đề là đảm bảo
hài hòa lợi ích giữa nhà nước, nhà đầu tư và người sử dụng đất. Trong quá trình
thực hiện bồi thường, hỗ trợ tái định cư khi nhà nước thu hồi đất cũng gặp phải
những tồn tại, khó khăn vướng mắc như: Việc hỗ trợ đối với đất vườn ao trong cùng
thửa đất có nhà ở, theo Luật Đất đai năm 2003 thì khi nhà nước thu hồi đất vườn ao
60
trong cùng thửa đất có nhà ở, việc được bồi thường theo giá đất nông nghiệp,
còn được hỗ trợ theo giá đất ở bằng 30-70% giá đất ở thửa đất đó, diện tích hỗ trợ
không quá 5 lần hạn mức giao đất ở tại địa phương. Đối với Quảng Ninh quy định
khoản hỗ trợ đó bằng 50% giá thửa đất ở bị thu hồi theo quy định của Luật đất đai
năm 2003.
Hiện nay, Luật Đất đai 2013 quy định chỉ được bồi thường theo giá đất nông
nghiệp, không còn khoản hỗ trợ bằng 50% giá đất ở. Trong khi việc chuyển đổi mục
đích sử dụng đất đối với hộ gia đình cá nhân từ đất vườn ao trong cùng thửa đất có
nhà ở theo quy định tại khoản 2 điều 5 Nghị định số 45/2014/NĐ-CP ngày
15/5/2014 của Chính phủ quy định về thu tiền sử dụng đất thì thu tiền bằng 50%
chênh lệch giữa tiền sử dụng đất theo giá đất ở với tiền sử dụng đất tính theo giá đất
nông nghiệp. Điều này gây mâu thuẫn về lợi ích, gây khó khăn trong việc GPMB….
Những vướng mắc trong Luật Đất đai 2013 còn tồn tại trong việc cấp giấy
CNQSDĐ, trong quá trình thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, giao đất, cho
thuế đất, chuyển mục đích sử dụng đất…
Phải khẳng định rằng đất đai luôn là lĩnh vực nóng, nếu không kịp thời tháo
gỡ các vướng mắc, sẽ ảnh hưởng tới môi trường đầu tư. Mới đây, tại buổi làm việc
của Bộ TN&MT tại Quảng Ninh, tỉnh cũng đã đề xuất, kiến nghị những vướng mắc
trong việc thực thi Luật Đất đai 2013 để Bộ tổng hợp báo cáo Chính phủ trong thời
gian tới. Tin tưởng rằng những vướng mắc sẽ được thao gỡ để Luật thực sự đi vào
cuộc sống.
2.2.5. Đánh giá chung thực tiễn áp dụng pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định
cư khi nhà nước thu hồi đất cho dự án cải, nâng cấp quốc lộ 18A tại địa bàn
thành phố Uông Bí
2.2.5.1. Những kết quả đạt được
Năm 2015, Uông Bí xác định nhiệm vụ trọng tâm “Phát huy sức mạnh tổng hợp
của cả hệ thống chính trị tập trung làm tốt công tác giải phóng mặt bằng, thu hút các
nguồn lực để đầu tư nâng cấp cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội”.
Ban Thường vụ thành phố đã có Quyết định số 1098-QĐ/TU về việc kiện
61
toàn Ban chỉ đạo đền bù GPMB do đồng chí Chủ tịch UBND thành phố làm Trưởng
ban; 11/11 xã, phường cũng đã thành lập Ban chỉ đạo đền bù GPMB cấp cơ sở.
Hàng tháng, UBND thành phố tổ chức họp giao ban công tác bồi thường,
GPMB.
Thành phố tập trung chỉ đạo quyết liệt công tác GPMB phục vụ cho đầu tư,
phát triển. Huy động cả hệ thống chính trị tham gia thực hiện công tác GPMB với
phương châm: Đảng lãnh đạo, Chính quyền tổ chức thực hiện, các đoàn thể quần
chúng phối hợp tham gia. Trong đó tích cực tập trung chỉ đạo thực hiện công tác
GPMB các dự án lớn đặc biệt là dự án cải tạo, nâng cấp Quốc lộ 18A tại thành phố
Uông Bí. Công tác vận động, tuyên truyền tại dự án luôn được chú trọng, đặc biệt là
tại những trường hợp có vướng mắc, thiếu hợp tác của người dân.
Hệ thống các văn bản liên quan đến công tác thu hồi đất, GPMB,
BTHT&TĐC cơ bản được ban hành kịp thời, đầy đủ, góp phần xây dựng chặt chẽ
các phương án BTHT nhằm nâng cao hiệu quả công tác GPMB tại dự án.
Hội đồng BTHT&TĐC đã áp dụng đầy đủ, công khai, minh bạch và chặt chẽ
các chế độ chính sách về BTHT&TĐC theo quy định của Nhà nước trong quá trình
tổ chức thực hiện dự án.
Có chế độ thưởng cho các tổ chức, cá nhân và hộ gia đình bàn giao mặt bằng
sớm, đúng tiến độ.
Mặc dù có nhiều nguyên nhân khác nhau làm ảnh hưởng rất lớn đến việc xác
định giá đất, nguồn gốc sử dụng đất của các hộ dân, diện tích đất để bồi thường…
dẫn đến tiến độ giải phóng mặt bằng bị ảnh hưởng, phát sinh đơn thư khiếu nại, kiến
nghị của người dân có đất bị thu hồi song dưới sự tập trung chỉ đạo của cả hệ thống
chính trị vào cuộc đã đẩy nhanh tiến độ của sự án đảm bảo minh bạch, công khai
theo đúng quy định của pháp luật.
Việc thực hiện các nội dung xung quanh vấn đề bồi thường, hỗ trợ GPMB
khi Nhà nước thu hồi đất cơ bản thực hiện theo đúng Nghị định số 47/2014/NĐ-CP
và các quy định của UBND tỉnh Quảng Ninh.
62
Việc bồi thường GPMB được thực hiện theo đúng trình tự quy định. Bồi
thường GPMB được triển khai trước khi có quyết định thu hồi đất của cơ quan Nhà
nước có thẩm quyền, tạo điều kiện có sẵn đất sạch để giao cho doanh nghiệp thực
hiện dự án khi Nhà nước có quyết định giao đất.
Đối tượng và điều kiện để được bồi thường hỗ trợ được xem xét, cân nhắc
kỹ lưỡng, có lý, có tình và tuân thủ chặt chẽ các quy định của pháp luật.
Đối với hoa màu và tài sản, chính sách bồi thường nhìn chung là thỏa
đáng.
Chính sách hỗ trợ thực hiện theo đúng quy định của Chính phủ và quy định
của địa phương.
2.2.5.2. Những vướng mắc và nguyên nhân
- Về khách quan:
+ Một số vị trí đất khó khăn trong việc xác định nguồn gốc cùng với việc
một số cán bộ thuyên chuyển công tác khiến cho công tác điều tra, lập và thẩm định
phương án BTHT bị chậm trễ.
+ Các văn bản pháp lý có nhiều sự thay đổi trong khi sự án kéo dài đến quá
trình xây dựng phương án BTHT&TĐC cũng phải thay đổi theo làm ảnh hưởng đến
tiến độ của dự án.
+ Mặc dù có sự điều chỉnh về giá đất cho các phương án đã phê duyệt. Tuy
nhiên sự chênh lệch giá BTHT trước khi thực hiện điều chỉnh diễn ra trong thời gian
dài (từ 2015-2017) làm ảnh hưởng đến tâm lý người dân do sự chênh lệch về quyền
lợi qua các lần điều chỉnh giá đất, cũng bởi nguyên nhân này mà một bộ phận người
dân thiếu sự hợp tác trong quá trình xây dựng phương án BTGPMB.
+ Việc xác định giá đất thị trường làm căn cứ xây dựng bảng giá đất bồi
thường không thực hiện được dù thành phố đã chỉ đạo thuê đơn vị tư vấn thực hiện
công việc này. Nguyên nhân bởi thời gian này các giao dịch bất động sản được xác
định trên hồ sơ lưu trữ tại Chi cục thuế đều theo giá Nhà nước quy định. Do vậy,
63
việc điều chỉnh giá đất cho phù hợp gặp khó khăn và chậm trễ, qua đó khiến cho
nhiều phương án BTHT phải tạm dừng để chờ đơn giá điều chỉnh.
+ Chế độ chính sách về bồi thường thường xuyên thay đổi, có quá nhiều
văn bản quy định điều chỉnh công tác GPMB dẫn đến khó hiểu, khó áp dụng và
đối với nhân dân do không hiểu dẫn đến không chấp hành, dễ bị kích động, lôi
cuốn. Nhiều dự án áp dụng hai chính sách, dẫn đến khiếu kiện, tụ tập đông
người.
+ Sự phối kết hợp của các cơ quan liên quan trong công tác GPMB còn nhiều
hạn chế, cán bộ đoàn thể làm công tác tuyên truyền vận động nhân dân nhưng hiểu
biết về chính sách GPMB còn rất nhiều hạn chế, không có chính kiến dẫn đến công
tác tuyên truyền vận động không có hiệu quả, nhiều khi còn có tác dụng ngược lại.
+ Một số phương án sử dụng vốn ngân sách Nhà nước khi phương án được
phê duyệt Chủ đầu tư giải quyết kinh phí để chi trả còn chậm, khi có kinh phí thì giá
cả bồi thường thay đổi phải lập lại phương án.
- Về chủ quan:
+ Một số cán bộ công chức còn thiếu kinh nghiệm chuyên môn, năng lực
lãnh đạo, chưa cương quyết, đùn đẩy và lẩn tránh trách nhiệm trong công việc.
+ Do một bộ phận không nhỏ người dân có tâm lý ngại thay đổi đối với yêu
cầu phát triển xã hội nên thiếu hợp tác trong việc bàn giao mặt bằng.
+ Việc vận dụng các chế độ chính sách BTHT về đất đai chưa được linh
hoạt, đôi khi còn cứng nhắc làm ảnh hưởng đến quyền lợi của người bị thu hồi đất,
nên không nhận được sự ủng hộ của một bộ phận người dân bị thu hồi đất.
+ Tuy đã có sự phối hợp giữa các ngành, các cấp nhưng còn chưa được chặt
chẽ nên xảy ra tình trạng người dân hợp tác, ủng hộ và muốn thực hiện bàn giao
nhanh mặt bằng nhưng vẫn phải chờ đợi việc xây dựng, thẩm định, thay đổi phương
án trong thời gian khá dài.
+ Việc xác định diện tích đất đã bồi thường khi cải tạo, nâng cấp Quốc lộ 18
giai đoạn 1996-2000; Bồi thường đất hành lang đường khi cấp giấy chứng nhận
64
quyền sử dụng đất cho các hộ dân bị trừ đi, nhưng thực tế người dân vẫn quản lý sử
dụng; Bồi thường đất thuộc hành lang đường giao thông; Bồi thường về chênh lệch
cốt; Bồi thường công trình ngoài mốc giới GPMB… Ủy ban nhân dân tỉnh và các
sở: Tài chính, Tài nguyên và Môi trường, Xây dựng, trong phạm vi trách nhiệm và
quyền hạn của mình đã có những văn bản chỉ đạo cụ thể để UBND thành phố Uông
Bí căn cứ tổ chức thực hiện. Đồng chí Phó chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh và lãnh
đạo các sở, ngành của tỉnh cũng đã nhiều lần xuống kiểm tra, làm việc với các địa
phương, chỉ đạo xử lý cụ thể tại hiện trường và tập trung chỉ đạo tháo gỡ những
vướng mắc phát sinh trong quá trình tổ chức thực hiện GPMB.
+ Các quy định về bồi thường, hỗ trợ đất nông nghiệp xen kẽ trong khu dân
cư, tỷ lệ hỗ trợ đất nông nghiệp trong địa giới hành chính phường, hạn mức tính hỗ
trợ đất nông nghiệp trong khu dân cư còn khó khăn trong việc triển khai thực hiện;
việc xác định giá trị hỗ trợ theo tỷ lệ phần trăm giá đất ở đôi khi không đảm bảo sự
công bằng, cùng một loại đất nông nghiệp như nhau, trong cùng một dự án nhưng
mức hỗ trợ khác nhau, chênh lệch lớn gây tâm lý so sánh, bức xúc cho người dân.
Việc tính giá đất ở trung bình theo văn bản số 310/BTNMT-TCQLĐĐ ngày
29/9/2010 của Bộ Tài nguyên và môi trường còn bất cập do việc xác định giá đất
trung bình trong trường hợp ranh giới dự án có đất ở và dự án không có đất ở đối
với dự án trên cùng một phường sẽ khác nhau.
+ Công tác thu hồi đất, bồi thường GPMB, gồm: xác định giá đất, xác định
loại đất, lập phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư, giải quyết việc làm… có lúc,
có nơi làm chưa đảm bảo theo quy định, chưa chính sách, có khi còn để xảy ra thiếu
sót, sai phạm hoặc thực hiện thiếu công khai, dân chủ, công bằng, dẫn đến công dân
không chấp nhận, phát sinh khiếu nại đòi quyền lợi, có trường hợp còn bức xúc dẫn
đến tố cáo việc làm sai của cán bộ hoặc tập hợp đông người khiếu nại gay gắt.
+ Việc thu hồi đất, giao đất, cho thuê đất cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất còn để xảy ra sai sót: sai diện tích, sai vị trí, cấp chồng chéo hay không đúng chủ sở
hữu, không theo quy hoạch…
65
+ Việc quản lý nhà nước về đất đai, hồ sơ địa chính, bản đồ lưu trữ không
đầy đủ, thiếu cập nhật thường xuyên dẫn đến tình trạng lấn chiếm đất công, chuyển
đổi mục đích sử dụng đất không đúng quy định, xây dựng nhà ở, công trình trái
phép nhưng không được kiểm tra, xử lý kịp thời.
+ Công tác quản lý đất đai từ những giai đoạn trước (trước năm 1992 khi
các địa phương chưa tiến hành đo vẽ trích lục, giải thửa và quy chủ đất đai) còn
thiếu chặt chẽ, hồ sơ quản lý của cơ quan chức năng (sổ địa chính, bản đồ địa chính,
bản đồ giải thửa…) không được cập nhật, thất thoát và không đầy đủ vì vậy gây
nhiều khó khăn trong việc xác minh nguồn gốc hình thành, sử dụng đất. Việc giao
đất cho các hộ dân trước đây để sản xuất nông nghiệp theo Nghị định số
64/1993/NĐ-CP ngày 27/9/1993 của Chính phủ chưa được thực hiện tốt, thực tế đất
nông nghiệp do người dân quản lý, sử dụng nhưng chưa được cấp giấy chứng nhận
mà tồn tại hình thức Hợp tác xã quản lý, do vậy gặp khó khăn khi thực hiện bồi
thường GPMB. Ở một số địa phương việc thực hiện chức năng quản lý nhà nước về
đất đai còn thiếu chặt chẽ, có dấu hiệu buông lỏng, biểu hiện rõ nhất là chính quyền
cấp huyện, xã không nắm được tình hình đất giao cho các dự án. Công tác kiểm tra,
thanh tra về quản lý, sử dụng đất đai giao cho các dự án chưa được quan tâm đúng
mức. Những bất cập và yếu kém trong công tác quản lý, sử dụng đất đai đã khiến
cho việc phát huy tiềm năng đất đai bị hạn chế, ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế
- xã hội.
+ Công tác quy hoạch, quản lý sử dụng đất còn hạn chế: Từ năm 1997, tỉnh
Quảng Ninh đã triển khai lập quy hoạch sử dụng đất và đến khi hoàn thành lập quy
hoạch chi tiết cấp xã đã kéo dài đến 10 năm. Vì vậy nhiều chỉ tiêu định hướng trước
đây không còn phù hợp, quy hoạch sử dụng đất phải điều chỉnh để phù hợp với tình
hình của địa phương. Mặt khác, tiến độ lập quy hoạch, chất lượng quy hoạch, kế
hoạch sử dụng đất còn chậm so với yêu cầu. Công tác giao đất, cho thuê đất, thu hồi
đất bồi thường, GPMB ở nhiều địa phương còn yếu kém, nhiều nơi còn sai phạm. Ở
một số địa phương, công tác lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện các chủ trương,
đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước chưa được thường xuyên, đồng bộ.
Việc công bố quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất chưa thực hiện theo quy định của
66
pháp luật đất đai; chưa thực sự quan tâm, thực hiện đúng các chỉ tiêu quy hoạch, kế
hoạch sử dụng đất đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt.
+ Khi thực hiện Luật Đất đai năm 2003, chính sách pháp luật về đất đai có
nhiều bất cập, chậm được bổ sung, sửa đổi, có nhiều văn bản dưới luật để hướng
dẫn thi hành Luật Đất đai năm 2003 nhưng còn nhiều vấn đề chưa rõ, còn chồng
chéo, mâu thuẫn. Ví dụ như xác định các giấy tờ theo khoản 1 điều 50 Luật Đất đai
năm 2003 đôi lúc còn khó áp dụng trong thực tiễn. Chính sách pháp luật về quản lý,
sử dụng đất đai qua các thời kỳ có nhiều thay đổi, thiếu tính ổn định, chưa đồng bộ,
có những quy định chưa sát thực tế, thiếu cụ thể. Việc xác định các loại giấy tờ theo
quy định tại khoản 1, điều 50, Luật Đất đai năm 2003 xác định các khoản tiền người
sử dụng đã nộp có tương đương với tiền sử dụng đất hay không trước thời điểm
Luật Đất đai năm 1993 có hiệu lực thi hành, hay là việc xác định giá đất thị trường,
chính sách hỗ trợ đất nông nghiệp xen kẽ trong khu dân cư... Riêng trong lĩnh vực
GPMB, từ sau khi có Luật Đất đai năm 2003, Chính phủ đã ban hành 04 Nghị định
quy định chi tiết (Nghị định số 197/2004/NĐ-CP ngày 03/12/2004 của Chính phủ
Quy định về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất; Nghị định
số 17/2006/NĐ-CP ngày 27/01/2006 của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung một số điều
của các Nghị định hướng dẫn thi hành Luật Đất đai và Nghị định số 187/2004/NĐ-
CP về việc chuyển công ty nhà nước thành công ty cổ phần; Nghị định số
84/2004/NĐ-CP ngày 25/5/2007 của Chính phủ Quy định bổ sung về việc cấp giấy
CNQSD đất, thu hồi đất, thực hiện quyền sử dụng đất, trình tự, thủ tục bồi thường,
hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất và giải quyết khiếu nại về đất đai; Nghị
định 69/2009/NĐ-CP ngày 13/8/2009 của Chính phủ về quy hoạh sử dụng đất, giá
đất, thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ và tái định cư). Tuy văn bản hướng dẫn ban hành
nhiều, nhưng một số nội dung còn gây khó khăn trong việc thực hiện, chính sách
sau ban hành có lợi nhiều hơn trước dẫn đến khó khăn trong xử lý bồi thường
chuyển tiếp giữa chính sách cũ và mới. Giá đất bồi thường tại nhiều nơi chưa sát giá
thị trường; có sự chênh lệch lớn, có một số nơi chênh lệch quá lớn. Bên cạnh đó
trình tự, thủ tục thu hồi đất, giao đất, cấp GCNQSDĐ, bồi thường, hỗ trợ tái định cư
khi nhà nước thu hồi đất còn quá "nhiêu khê" rườm rà, nhiều thủ tục chưa đồng bộ
67
với các thủ tục về đầu tư, xây dựng, thủ tục hành chính đã làm hao phí thời gian của
các chủ đầu tư, ảnh hưởng đến hoạt động trong lĩnh vực đầu tư và quản lý đất đai.
Chính sự bất cập này đã làm cho các cơ quan quản lý Nhà nước khó áp dụng, gây
khó khăn cho việc quản lý, sử dụng đất đai.
+ Quá trình thực hiện dự án chưa làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục vận
động thuyết phục ngay từ cơ sở, thực hiện chưa tốt, chưa tập trung giải quyết khiếu
kiện ngay từ đầu. Sự chỉ đạo của một số cấp ủy Đảng, chính quyền, sự phối hợp
giữa chính quyền, các cơ quan chức năng, các tổ chức đoàn thể có lúc, có nơi còn
chưa chặt chẽ dẫn đến khiếu kiện của công dân chậm được giải quyết hoặc giải
quyết nhưng còn có lúc, có nơi chưa thấu tình đạt lý.
68
CHƯƠNG 3: KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ BỒI THƯỜNG,
HỖ TRỢ, TÁI ĐỊNH CƯ KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT CHO DỰ ÁN
CẢI TẠO, NÂNG CẤP QUỐC LỘ 18A TẠI THÀNH PHỐ UÔNG BÍ, TỈNH
QUẢNG NINH.
3.1. Định hướng chính sách về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi nhà nước
thu hồi đất cho dự án cải tạo, nâng cấp quốc lộ 18A tại thành phố Uông Bí, tỉnh
Quảng Ninh.
Việc xây dựng chính sách về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu
hồi đất cần có một quá trình nghiên cứu toàn diện, sâu sát. Nội dung chính sách cần
được quy định rõ ràng, dễ hiểu. Trình tự, thủ tục thực hiện bồi thường, hỗ trợ phải được
quy định chặt chẽ. Quyền và nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân thực hiện bồi thường, hỗ trợ
và của người được bồi thường, hỗ trợ phải được phân định rạch ròi. Lợi ích của người
bị thu hồi đất phải được đảm bảo công bằng.
Hoàn thiện quy định xác định giá đất, giá tài sản tính bồi thường, hỗ trợ. Cụ
thể cần hoàn thiện quy định xác định giá đất, giá tài sản để tính bồi thường, hỗ trợ
sao cho giá áp dụng sát với thị trường thực hiện tốt vấn đề này sẽ đẩy nhanh được
tiến độ, tránh khiếu kiện. Ngoài ra, cần thuê tổ chức định giá độc lập để tiến hành
xác định giá đất, giá tài sản bồi thường, giá của tổ chức độc lập sẽ được cơ quan
chuyên môn về giá thẩm định, thực hiện được vấn đề này sẽ tạo được sự minh bạch,
giá áp dụng sẽ thực tế và giảm bớt công đối với người trực tiếp thực hiện bồi
thường, hỗ trợ. Đảm bảo kinh phí thực hiện bồi thường, hỗ trợ, tái định cư: Nâng
cao kinh phí hỗ trợ cho người trực tiếp thực hiện bồi thường, hỗ trợ, tái định cư và
kèm theo đó là gắn với trách nhiệm thực hiện, có chế độ thưởng phạt rõ ràng đối với
từng công tác, từng nhiệm vụ.
Theo quy định của chính sách bồi thường, hỗ trợ hiện hành thì trong thực tế
đang diễn ra tình trạng bất công: trên cùng một địa bàn, với cùng một loại đất nông
nghiệp bị thu hồi nhưng đơn giá bồi thường, hỗ trợ của các dự án khác nhau lại có
sự chênh lệch rất lớn, thậm chí có thể hơn kém nhau đến 10 lần. Đặc biệt nhưng lại
có 2 chính sách khác nhau (Do quy định của nhà nước mới thay thế quy định cũ),
người nhận tiền đền bù trước thì bị thiệt thòi hơn những người nhận tiền đền bù sau
69
dẫn đến mâu thuẫn, khiếu kiện kéo dài. Để khắc phục tình trạng này nên quy định
đơn giá bồi thường, hỗ trợ đất nông nghiệp bằng từ 6 - 10 lần tổng giá trị sản phẩm
nông nghiệp trong 1 năm và áp dụng chung cho đất nông nghiệp tại tất cả các địa
phương.
Giá bồi thường về đất cần được khảo sát kỹ lưỡng, sát với giá thị trường.
Ngoài tiền bồi thường, hỗ trợ theo quy định cần nghiên cứu chính sách hỗ
trợ thêm chuyển nghề nghiệp và tạo công ăn việc làm để người dân ổn định cuộc
sống sau khi bị thu hồi đất. Đây là bài toán mà các cấp chính quyền cần đặt ra đối
với mỗi dự án thu hồi đất. Vấn đề này được thực hiện tốt sẽ tạo ra sự phát triển ổn
định bền vững. Bên cạnh đó, cần xây dựng nhiều phương án hỗ trợ cụ thể, lấy ý
kiến của người dân trong diện bị thu hồi đất để có phương án hỗ trợ phù hợp nhất và
được sự đồng ý của nhân dân. Tuy nhiên, một dự án có thể sử dụng nhiều phương
án hỗ trợ nếu có tỷ lệ tán thành của nhân dân cao và phù hợp với quy định của pháp
luật.
Chính sách về chuyển đổi nghề và tạo việc làm cho người dân bị thu hồi đất
cần được thực hiện đồng bộ. Đối với những địa phương có kế hoạch thu hồi đất
nhiều như ở Uông Bí cần có đề án mang tính chiến lược trong chuyển đổi nghề và
tạo việc làm nhằm góp phần ổn định đời sống cho những người trực tiếp sản xuất
nông nghiệp. Nguồn thu từ đấu giá quyền sử dụng đất cần ưu tiên đầu tư xây dựng
các công trình phúc lợi công cộng phục vụ người dân ngay trên địa bàn có đất bị thu
hồi.
Nhà nước cần có quy định cụ thể cho người dân tham gia góp vốn bằng đất
vào các dự án đầu tư và thành lập quỹ hỗ trợ giải quyết việc làm, ổn định đời sống
khi Nhà nước thu hồi đất.
Cần thực hiện nghiêm túc theo quy định của Nhà nước về việc xây dựng các
khu tái định cư đồng bộ và hoàn chỉnh về cơ sở hạ tầng trước khi bàn giao cho các
hộ gia đình bị thu hồi đất.
Xây dựng hoàn chỉnh hệ thống chính sách liên quan đến thu hồi, bồi thường
giải phóng mặt bằng và tái định cư mang tính chất ổn định lâu dài. Tránh tình trạng
70
trong cùng 1 dự án thu hồi đất nhưng có nhiều văn bản chồng chéo, điều này ảnh
hưởng lớn đến tiến độ thu hồi, giải phóng mặt bằng, tâm lý nhà đầu tư và người bị
thu hồi đất.
Do giá đất bồi thường, giá đền bù tài sản hiện nay là còn thấp (đặc biệt là đất
nông nghiệp, nhà ở) nên cần phải điều chỉnh cho phù hợp với thực tế để người dân
bị thu hồi đất đỡ thiệt thòi; nâng cao mức hỗ trợ đào tạo nghề đối với các hộ bị thu
hồi đất và có chính sách cụ thể đến từng đối tượng lao động trong một hộ gia đình,
đặc biệt là những hộ bị thu hồi đất nông nghiệp (vì đất nông nghiệp là tư liệu sản xuất
không thể thiếu đối với người nông dân). Đối với những hộ gia đình bị thu hồi đất nông
nghiệp ngoài những hỗ trợ về vật chất, cần có những chính sách đào tạo nghề, chuyển
đổi cơ cấu lao động, điều này sẽ giúp cho đời sống của người dân được ổn định và đảm
bảo nguồn thu nhập sau khi thu hồi đất.
Ngoài tiền bồi thường, hỗ trợ theo quy định cần nghiên cứu chính sách hỗ trợ
thêm chuyển nghề nghiệp và tạo công ăn việc làm để người dân ổn định cuộc sống
sau khi bị thu hồi đất. Đây là bài toán mà các cấp chính quyền cần đặt ra đối với
mỗi dự án thu hồi đất. Vấn đề này được thực hiện tốt sẽ tạo ra sự phát triển ổn định
bền vững. Bên cạnh đó, cần xây dựng nhiều phương án hỗ trợ cụ thể, lấy ý kiến của
người dân trong diện bị thu hồi đất để có phương án hỗ trợ phù hợp nhất và được sự
đồng ý của nhân dân. Tuy nhiên, một dự án có thể sử dụng nhiều phương án hỗ trợ
nếu có tỷ lệ tán thành của nhân dân cao và phù hợp với quy định của pháp luật.
Cần thực hiện nghiêm túc theo quy định của Nhà nước về việc xây dựng các
khu tái định cư đồng bộ và hoàn chỉnh về cơ sở hạ tầng trước khi bàn giao cho các
hộ gia đình bị thu hồi đất.
Xây dựng hoàn chỉnh hệ thống chính sách liên quan đến thu hồi, bồi thường
giải phóng mặt bằng và tái định cư mang tính chất ổn định lâu dài. Tránh tình trạng
trong cùng 1 dự án thu hồi đất nhưng có nhiều văn bản chồng chéo, điều này ảnh
hưởng lớn đến tiến độ thu hồi, giải phóng mặt bằng, tâm lý nhà đầu tư và người bị
thu hồi đất.
71
3.2. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi
nhà nước thu hồi đất cho dự án cải tạo, nâng cấp quốc lộ 18A tại thành phố
Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh
3.2.1. Tăng cường chỉ đạo công tác quy hoạch , KH SDĐ
Thực tiễn những năm qua cho thấy, công tác dự báo, quy hoạch, kế hoạch
phát triển đô thị, các khu công nghiệp có ý nghĩa cực kỳ quan trọng. Do công tác dự
báo, quy hoạch và kế hoạch chưa tốt nên việc đảm bảo việc làm cho người dân có
đất bị thu hồi trong những năm qua được thực hiện một cách thụ động.
Về dài hạn và trên tổng thể nền kinh tế cân phải có sự gắn kết giữa chiến
lược phát triển kinh tế - xã hội thành phố nói chung, chiến lược phát triển các ngành
kinh tế kỹ thuật, các vùng kinh tế, các khu công nghiệp, khu đô thị với chiến lược
phát triển, phân bố và sử dụng nguồn nhân lực, chiến lược đào tạo ngành nghề để
chuẩn bị một đội ngũ lao động phù hợp với yêu câu của việc thu hồi đất ở từng địa
phương.
Cần nắm rõ thực trạng tình hình lao động, việc làm ở những phường, xã có
đất bị thu hồi, từ đó xây dựng kế hoạch đào tạo lao động thật chi tiết, cụ thể. Cần
xây dựng đề án phát triển nguồn nhân lực dài hạn cho đến năm 2025 để tạo việc làm
cho dân cư.
Cần xây dựng những quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch phát triển các khu
công nghiệp khu đô thị một cách dài hạn để địa phương và người nông dân sớm có
kế hoạch chuyển dịch cơ cấu lao động sớm hơn, dài hạn hơn và bền vững hơn. Các
quy hoạch cần được niêm yết công khai để toàn dân được biết. Ở các xã, phường
cần thành lập ban giám sát thực hiện quy hoạch. Bên cạnh đó đẩy mạnh công tác
tuyên truyền về công tác quy hoạch và vận động nhân dân thực hiện đúng các quy
hoạch đã được phê duyệt.
Khắc phục tình trạng "quy hoạch treo", đất đã được thu hồi nhưng không
triển khai dự án theo đúng tiến độ, hoặc chủ đầu tư nhận đất nhưng cũng không triển
khai xây dựng dẫn đến dân mất đất không có việc làm, còn doanh nghiệp cũng không
thu hút được lao động vào làm việc. Đây là hiện tượng phổ biến và gây làng phí lớn,
dân rất bất bình. Để khắc phục tình trạng quy hoạch treo, quy hoạch sử dụng đất cần
phải được nâng cao về chất lượng, có tính đồng bộ và khả thi. Phương án quy hoạch
cần sát với dự báo tình hình, khắc phục tính chủ quan duy ý chí, áp đặt, quy hoạch theo
phong trào. Hơn nữa, giữa quy hoạch phát triển KT-XH, quy hoạch sử dụng đất, quy
72
hoạch xây dựng phải được xây dựng đồng bộ, không còn vùng lấn, vùng trắng và phải
trở thành một hệ thống quy hoạch phát triển thống nhất của địa phương. Tại địa
phương, việc quy hoạch các khu công nghiệp cần được xem xét đồng bộ gắn với quy
hoạch phát triển đô thị, khu dân cư, hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội và công tác bảo vệ
môi trường hướng tới phát triển bền vững.
Gắn quy hoạch sử dụng đất nông nghiệp với kế hoạch đào tạo nghề và sử
dụng lao động ở khu vực chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp; chỉ đạo,
hướng dẫn, kiểm tra các địa phương trong việc xây dựng và thực hiện quy hoạch, kế
hoạch đồng bộ với quy hoạch xây dựng hạ tầng kỹ thuật ngoài hàng rào khu công
nghiệp, hạ tầng xã hội (y tế, văn hoá, giáo dục...), quy hoạch xây dựng đô thị. Các
địa phương cần nghiên cứu giải pháp giúp người nông dân sử dụng những khoản
tiền đền bù một cách có hiệu quả, giúp người lao động có được nghề nghiệp chuyên
môn cần thiết để đáp ứng nhu cầu của doanh nghiệp, có cơ hội để được tuyển dụng
làm việc lâu dài.
3.2.2. Hoàn thiện về đào tạo nghề, việc làm
Để phấn đấu trở thành Thành phố công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm
2020 thì yêu cầu chuyển đổi mục đích từ đất nông nghiệp thành đất phi nông nghiệp
trong vài năm tới sẽ là rất lớn. Vấn đề giải quyết việc làm cũng từ đó trở thành một
đòi hỏi cấp bách đặt ra không chỉ đối với các chủ đầu tư, của các cấp chính quyền
mà còn là của cả hệ thống chính trị.
Để giải quyết vấn đề này Thành phố cần có Đề án chuyển đổi nghề và tạo
việc làm một cách thiết thực, tích cực, hiệu quả mang tính chiến lược, tránh tình
trạng như hiện nay, việc hỗ trợ đào tạo chuyển đổi nghề chủ yếu là bằng tiền.
Cần có kế hoạch đào tạo, chuyển đổi nghề cho số lao động nông nghiệp bị thu hồi
đất.
Thành phố Uông Bí là trung tâm công nghiệp than - điện. Uông Bí cũng có
nhiều cơ sở công nghiệp xây dựng, sản xuất xi măng, cơ khí, giầy da, ... với nhu cầu sử
dụng lao động rất lớn. Thành phố cần bám sát yêu cầu và điều kiện tuyển dụng để có
định hướng đào tạo và chuyển đổi nghề cho lao động nông nghiệp một cách hợp lý;
phối hợp với các doanh nghiệp trên địa bàn để có chính sách ưu tiên tuyển dụng lao
73
động đối với những người bị thu hồi đất; có chính sách tín dụng, vay vốn ưu đãi đối với
trường hợp có khó khăn về vốn trong quá trình chuyển đổi việc làm.
Việc đào tạo nghề phải luôn bám sát cầu của thị trường lao động. Loại hình
đào tạo phải thiết thực, phù hợp với từng nhóm đối tượng lao động (nhóm còn trong
độ tuổi đi học, nhóm lao động trẻ dưới 35 tuổi, nhóm lao động trên 35 tuổi có trình
độ học vấn thấp, ...)
Đối với những hộ gia đình bị thu hồi đất nông nghiệp ngoài những hỗ trợ về vật
chất, cần có những chính sách đào tạo nghề, chuyển đổi cơ cấu lao động, điều này sẽ
giúp cho đời sống của người dân được ổn định và đảm bảo nguồn thu nhập sau khi thu
hồi đất.
Ngoài việc thu hút lao động vào các doanh nghiệp cần tăng cường đầu tư
phát triển các ngành dịch vụ, khuyến khích phát triển nghề trồng rau sạch, trồng
hoa, cây Thanh Long ruột đỏ ... phục vụ nhu cầu của công nhân các khu công
nghiệp.
Khi thực hiện công tác bồi thường GPMB cần lựa chọn những cán bộ có đủ
phẩm chất, năng lực, trình độ để thi hành công vụ. Những người làm công tác bồi
thường GPMB phải thường xuyên được giáo dục về phẩm chất, ý thức trách nhiệm
và tinh thần phục vụ. Kiện toàn bộ máy làm việc chuyên trách của các tổ chức tham
gia thực hiện công tác bồi thường, hỗ trợ và tái định cư đảm bảo đội ngũ cán bộ có
kinh nghiệm, năng lực về công tác GPMB.
Rà soát và kiến nghị thu hồi đối với các dự án đầu tư đã thực hiện xong việc
GPMB nhưng chậm thực hiện, gây lãng phí trong sử dụng đất.
Có chế tài nghiêm ngặt nhằm xử lý các chủ đầu không chấp hành chính sách
bồi thường GPMB và những cam kết với người dân bị thu hồi đất.
Quá trình giải quyết phải đảm bảo đúng trình tự quy định của pháp luật được
quy định cụ thể tại các văn bản pháp lý hiện hành từ bước lập quy hoạch, thu hồi đất
và thực hiện bồi thường, hỗ trợ và niêm yết công khai phải đảm bảo minh bạch.
74
Công tác điều tra, xác minh phải chặt chẽ đảm bảo đúng đối tượng để áp
dụng chính sách cho phù hợp và không làm ảnh hưởng quyền lợi của người bị thu
hồi đất.
Tăng cường các cuộc đối thoại, chất vấn giữa lãnh đạo, cơ quan chuyên môn
với các hộ bị thu hồi đất để giải thích về chế độ chính sách và ý kiến thắc mắc của
hộ gia đình. Chính quyền các địa phương phải trực tiếp tổ chức các cuộc họp, lấy ý
kiến của người dân bị thu hồi đất để tìm ra những vướng mắc mà họ đang quan tâm.
Các hộ dân cố tình không chấp hành quyết định thu hồi đất sau khi thực hiện
đầy đủ các bước theo trình tự thì phải có biện pháp kiên quyết xử lý phù hợp với
quy định của pháp luật thể hiện tính công bằng và minh bạch của pháp luật.
Nghiêm khắc xử lý những đơn vị, cá nhân vi phạm trong việc làm sai lệch hồ
sơ, thiếu trách nhiệm trong việc điều tra, xác minh làm ảnh hưởng đến quyền lợi của
Nhân dân và Nhà nước.
Tuyên truyền sâu rộng đến người dân về chủ trương phát triển, những lợi ích
mang lại từ những dự án thu hồi đất và vai trò của người ở đó. Thường xuyên tổ
chức lấy ý kiến của nhân dân về vấn đề giải phóng mặt bằng, lắng nghe những thắc
mắc của họ để từ đó có những giải pháp khắc phục phù hợp.
Nâng cao năng lực và hiệu quả làm việc của cán bộ thực hiện công tác bồi
thường, hỗ trợ, tái định cư: Công tác bồi thường, hỗ trợ tái định cư là một trong
những công tác nhạy cảm nhất hiện nay trong hệ thống chính trị của Nước ta, do
vậy đội ngũ thực hiện công tác này cần phải có trình độ chuyên môn cao, trình độ
nhận thức pháp luật, phải có trách nhiệm và đạo đức nghề nghiệp cao. Tình hình
thực tế hiện nay trên địa bàn thành phố Uông Bí là thiếu đội ngũ thực hiện công tác
bồi thường, hỗ trợ và tái định cư chuyên nghiệp, trình độ nghiệp vụ và trách nhiệm
thực hiện của các cán bộ chưa cao do vậy cần phải thực hiện một số giải pháp sau:
Xây dựng một hệ thống tổ chức bộ máy chuyên trách làm công tác GPMB là cần
thiết để giúp các cấp chính quyền thực hiện tốt nhiệm vụ quản lý hành chính Nhà
nước đối với lĩnh vực công tác này. Ngoài ra, tổ chức bộ máy phải được kiện toàn
để có đủ đội ngũ cán bộ, công chức có kiến thức và năng lực công tác phù hợp, làm
75
việc mang tính nghề nghiệp chuyên trách và ổn định.Hơn nữa cần tổ chức tập huấn,
bồi dưỡng kiến thức quản lý Nhà nước về đất đai và các chế độ chính sách liên quan
đến bồi thường, hỗ trợ và tái định cư cho đội ngũ cán bộ chuyên trách làm công tác
từ cấp trung ương đến cấp cơ sở.
Tăng cường công tác quản lý đất đai: Chỉ đạo tăng cường công tác quản lý đất
đai, cập nhật chỉnh lý các biến động kịp thời. UBND thành phố nên xây dựng cơ sở
dữ liệu đất đai dạng số và cập nhật thường xuyên, thực hiện tốt công tác này việc
xác định điều kiện, đối tượng được bồi thường, hỗ trợ sẽ tiến hành nhanh chóng dễ
dàng. Công tác này cũng làm giảm sự chồng chéo về hỗ trợ cho hộ gia đình có đất
bị thu hồi tại các dự án có cùng thời điểm thực hiện.
Kiện toàn bộ máy làm việc chuyên trách của các tổ chức tham gia thực hiện
công tác bồi thường, hỗ trợ và tái định cư đảm bảo đội ngũ cán bộ có kinh nghiệm,
năng lực về công tác GPMB.
Quá trình giải quyết phải đảm bảo đúng trình tự quy định của pháp luật được
quy định cụ thể tại các văn bản pháp lý hiện hành từ bước lập quy hoạch, thu hồi đất
và thực hiện bồi thường, hỗ trợ và niêm yết công khai phải đảm bảo minh bạch.
Công tác điều tra, xác minh phải chặt chẽ đảm bảo đúng đối tượng để áp
dụng chính sách cho phù hợp và không làm ảnh hưởng quyền lợi của người bị thu
hồi đất.
Một trong những đặc điểm của lao động nông nghiệp là trình độ học vấn và
tay nghề thấp. Điều này đã trở thành rào cản lớn đối với người lao động nông
nghiệp sau thu hồi đất trong việc tự tìm kiếm việc làm, chuyển đổi nghề nghiệp và
hoà nhập cuộc sống mới. Chính vì vậy, TP cần phải có giải pháp nhằm nâng cao
trình độ học vấn và tay nghề cho đối tượng này.
Để nâng cao hiệu quả của công tác đào tạo nghề cho nông dân sau thu hồi
đất, trong những năm tới cần tập trung vào thực hiện các biện pháp:
+ Thành phố cần tiến hành điều tra trình độ học vấn của người lao động bị
thu hồi đất, đồng thời khuyến khích, vận động hỗ trợ học tập, đào tạo nghề và việc
làm đối với các hộ dân thuộc diện thu hồi đất nông nghiệp.
76
+ Xác định số lao động bị ảnh hưởng do thu hồi đất nông nghiệp để có kế
hoạch đào tạo, sử dụng: số hộ gia đình bị thu hồi đất nông nghiệp chia theo diện tích
đất nông nghiệp bị thu hồi, lao động chia theo độ tuổi trình độ, giới tính, tình trạng
việc làm, nhu cầu đào tạo lao động và nhu cầu tuyển dụng của các doanh nghiệp
trên địa bàn...
+ Trong quá trình thực hiện các dự án có thu hồi đất nông nghiệp, cần bảo
đảm có một cơ sở đào tạo nghề để thu hút người lao động và con em họ vào học
nghề. Nội dung đào tạo lao động cần chú ý đến sự hiểu biết của học viên về Luật
pháp, Luật Lao động, quan hệ lao động, kỷ luật lao động... Cần đưa cả kỹ năng sống
vào chương trình giảng dạy, giúp họ có được tác phong làm việc nghiêm túc, tuân
thủ kỷ luật lao động và có khả năng làm việc nhóm.
+ Tăng cường sự liên kết giữa cơ sở dạy nghề với doanh nghiệp: Thành phố
cần khuyến khích các doanh nghiệp và các trường dạy nghề chủ động xây dựng kế
hoạch đào tạo đối với các nghề mới. Đồng thời, đẩy mạnh hoạt động đào tạo nghề
theo hướng tăng nhanh về quy mô và nâng cao chất lượng, trong đó tập trung vào
các ngành kinh tế mũi nhọn, các lĩnh vực quan trọng của thành phố như: du lịch,
thương mại, công nghiệp...
+ Tăng cường đầu tư nâng cấp cơ sở vật chất, trang thiết bị giảng dạy phù
hợp với công nghệ hiện đại, tiếp cận với thiết bị mà các cơ sở sản xuất đang sử dụng
cho các cơ sở dạy nghề. Ngoài việc đào tạo về tay nghề, các nội dung liên quan tới
ý thức kỷ luật, tác phong công việc, quyền lợi và trách nhiệm của người lao động
cũng dần được đưa vào hoạt động đào tạo.
+ Không chỉ đào tạo nghề cho những nơi đã đền bù giải toả mà phải chủ
động có kế hoạch đào tạo đối với những vùng dự kiến chuyển mục đích sử dụng đất
từ nông nghiệp sang phi nông nghiệp.
Sự tham gia hỗ trợ, giúp đỡ của nhà nước cũng như chính quyền các cấp chỉ
ở một mức độ nhất định. Nhu cầu giải quyết việc làm thì nhiều, song nhà nước và
chính quyền các cấp chỉ có thể giải quyết được một phần nhu cầu đó. Nếu cứ ỷ lại,
trông chờ vào nhà nước thì vấn đề việc làm cho nông dân bị thu hồi đất sẽ trở nên
nan giải hơn rất nhiều. Tâm lý trông chờ, ỷ lại vào sự hỗ trợ của nhà nước đã làm
giảm đi tính tích cực, chủ động của người lao động bị thu hồi đất trong chuyển đổi
77
nghề nghiệp, tìm kiếm việc làm mới. Điều này đã gây ra nhiều khó khăn cho các cấp
chính quyền trong việc giải quyết việc làm cho người lao động. Nếu các cấp chính
quyền cố gắng, tích cực, năng động triển khai chính sách giải quyết việc làm nhưng
bản thân người lao động thiếu tích cực, chủ động thì cũng không thể mang lại hiệu quả
cao. Để thực hiện tốt giải pháp này cần:
Thứ nhất, các cấp chính quyền, các tổ chức đoàn thể thường xuyên vận động,
giáo dục lao động bị thu hồi đất thấy được tính đúng đắn trong các chủ trương,
chính sách phát triển công nghiệp, dịch vụ, xây dựng các công trình công cộng...
mục đích là để phát triển kinh tế, mang lại cuộc sống tốt hơn cho nhân dân, trong đó
có bản thân người lao động bị thu hồi đất.
Thứ hai, các cơ quan, tổ chức như phòng Lao đông Thương binh và Xã hội,
Hội Nông dân, Hội Phụ nữ... cần có các giải pháp có tính định hướng để hướng dẫn
cho các hộ dân bị thu hồi đất nông nghiệp sử dụng tiền đền bù, tiền hỗ trợ vào đúng
mục đích như học nghề, đầu tư kinh doanh... khuyến khích người lao động bị thu
hồi đất nông nghiệp tích cực, chủ động tự tìm kiếm việc làm thông qua các sàn giao
dịch việc làm, qua bạn bè, người thân và qua các phương tiện thông tin đại chúng.
Thứ ba, người dân cần tận dụng quỹ đất nông nghiệp còn lại chuyển sang
phát triển sản xuất nông nghiệp công nghệ cao, áp dụng tiến bộ khoa học tăng giá trị
sản xuất trên một đơn vị diện tích theo hướng thâm canh, hiện đại, mang lại thu
nhập cao từ nông nghiệp
Thứ tư, đối với những lao động không còn đất sản xuất phải chuyển đổi sang
các ngành nghề phi nông nghiệp. Lao động cần nâng cao ý thức đào tạo, hướng
nghiệp, nhất là đào tạo nghề tại chỗ. Sử dụng tiền đền bù cho mình và con em mình
học nghề, chuyển đổi nghề nghiệp.
3.2.3. Phổ biến, giáo dục pháp luật về đất đai
Thường xuyên tuyên truyền phổ biến pháp luật về đất đai được thực hiện với
nhiều hình thức đa dạng thông qua tổ chức hội nghị, tọa đàm, hội thi, cấp phát tài
liệu, tủ sách pháp luật, hòa giải, tiếp công dân... Bên cạnh đó, UBND thành phố, các
xã, phường thường xuyên chỉ đạo cán bộ, công chức làm công tác tiếp công dân
phải tiếp cận, tìm hiểu những chủ trương, quy định mới của Đảng, Nhà nước về
pháp luật đất đai. Trong quá trình tiếp công dân, cần chú trọng tuyên truyền, giải
thích, phổ biến chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước tới người
78
dân nhằm tạo sự đồng thuận của người dân trong việc chấp hành và tuân thủ pháp
luật.
Tăng cường tuyên truyền pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư. Tích cực
tăng cương tuyên truyền phổ biến pháp luật nói chung và các quy định về công tác
bồi thường, hỗ trợ và tái định cư nói riêng. Bằng cách sử dụng loa truyền thanh của
phường truyền tải đến người dân những quy định của pháp luật, thực hiện các buổi
nói chuyện trực tiếp giữa các cán bộ phụ trách chuyên môn của phòng tài nguyên và
môi trường về quy định của pháp luật trong công tác bồi thường, hỗ trợ và tái định
cư đến người dân. Nhằm tạo điều kiện cho các tầng lớp nhân dân có đầy đủ thông
tin, nhận thức rõ ràng, đúng đắn về pháp luật, chủ trương, chính sách của Nhà nước,
của tỉnh cũng như ý nghĩa quan trọng của các dự án được đầu tư trên địa bàn. Công
khai, dân chủ hóa trong công tác bồi thường, hỗ trợ và tái định cư thông qua dán các
thông báo về thu hồi đất, phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư; công khai giá
đất; công khai quy hoạch; công khai tổng vốn đầu tư của dự án để tăng cường tính
minh bạch. Hạn chế những vấn đề tiêu cực, giảm bớt phiền hà tạo điều kiện cho
người dân tham gia giám sát và thực hiện chính sách được công bằng thực tế. Giải
pháp tuyên truyền về việc sử dụng tiền bồi thường, hỗ trợ đến người dân, tạo cho họ
phân chia nguồn tiền để sử dụng sau khi mất đất sản xuất, làm sao nâng cao được
hiệu quả của tiền bồi thường, hỗ trợ.
Cần tăng cường công tác phổ biến, tuyên truyền, giáo dục chính sách, pháp
Luật Đất đai đến các cấp ủy Đảng, chính quyền và toàn thể người dân.
3.3.4. Giải quyết tranh chấp về đất đai, giải quyết khiếu nại tố cáo các vi phạm
trong việc quản lý và sử dụng đất đai
Để giải quyết được dứt điểm các vụ tranh chấp ngay từ cơ sở, đối với cấp
thành phố trong những năm vừa qua đã sắp xếp, bố trí cán bộ có trình độ chuyên
môn giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân. Việc tuyển chọn cán bộ công chức
địa chính xã, phường phải là những người nhiệt tình có trình độ chuyên môn cơ bản
về địa chính, thường xuyên mở các lớp bồi dưỡng về chuyên môn nghiệp vụ nhằm
xây dựng đội ngũ cán bộ địa chính thống nhất có trình độ nghiệp vụ và nắm chắc
các nguyên tắc, nội dung cơ bản trong việc quản lý tài nguyên đất đai, tham mưu
79
cho các cấp chính quyền giải quyết tốt vấn đề tranh chấp, khiếu nại, tố cáo về đất
đai để tránh những sai phạm gây lãng phí đất trong việc quản lý và sử dụng đất ở cơ
sở. Cần tiếp tục phát huy trong những năm tới.
3.3. Hoàn thiện môi trường đầu tư, thực hiện các chính sách thu hút đầu tư
Một trong những biện pháp tạo công ăn việc làm cho người lao động thuộc
diện bị thu hồi đất để phát triển khu đô thị và khu công nghiệp chính là thu hút đầu
tư SXKD làm mở rộng quy mô sản xuất, kinh doanh, từ đó nhu cầu về lao động của
các nhà sản xuất tăng cao, lượng lao động bị mất việc làm do bị thu hồi đất canh
tác, sản xuất có thể chuyển qua các lĩnh vực này.
Việc xây dựng, đầu tư phát triển các ngành nghề tại các cơ sở công nghiệp
mang độ trễ về thời gian do vậy để có thể giải quyết việc làm cho những người lao
động thuộc diện bị thu hồi đất trong thời gian ngắn nhất thì thành phố nên tập trung
phát triển các ngành nghề như sản xuất hàng may mặc, giầy da, dịch vụ, phục vụ
bởi các ngành nghề này có thời gian chuẩn bị ngắn, hơn nữa không cần trình độ tay
nghề cao, có thể thông qua đào tạo nghề để tăng khả năng tìm việc cho người lao
động bị thu hồi đất trong những ngành nghề này.
Để thu hút được các nhà đầu tư phát triển các ngành nghề ưu tiên như trên,
chính quyền địa phương cần có những biện pháp cụ thể như:
- Tích cực đẩy mạnh cải cách hành chính, thực hiện công khai các thủ tục
hành chính tại trụ sở cơ quan và các phòng chuyên môn, để qua đó giảm đáng kể
thời gian, thủ tục, chi phí cho doanh nghiệp trong quá trình thực hiện các quy định
của Nhà nước.
- Ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp: Miễn giảm thuế thu nhập doanh
nghiệp theo Luật thuế thu nhập doanh nghiệp số 14/2008/QH12 ngày 03/6/2008,
Nghị định số 124/2008/NĐ-CP ngày 11/12/2008 của Chính phủ quy định chi tiết thi
hành một số điều của Luật thuế thu nhập doanh nghiệp.
- Ưu đãi về thuế nhập khẩu: Miễn thuế nhập khẩu hàng hoá nhập khẩu để tạo
tài sản cố định, gồm: thiết bị, máy móc; nguyên vật liệu, vật tư nhập khẩu để chế tạo
thiết bị, máy móc, bộ phận rời, phụ tùng, gá lắp, khuôn mẫu, phụ kiện đi kèm với
thiết bị, máy móc trong dây chuyền công nghệ; vật tư xây dựng mà Việt Nam chưa
sản xuất được...
- Các nhà đầu tư đăng ký thuê đất sớm sẽ có cơ hội lựa chọn vị trí, diện tích
và có nhiều ưu đãi thuận lợi như: hỗ trợ, tư vấn lựa chọn lao động địa phương; được
80
tạo điều kiện về hành lang pháp lý...
Phát triển các dịch vụ hỗ trợ nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư
khi tiến hành đầu tư. Các dịch vụ cần được hỗ trợ trong thời gian ngắn nhất với mức
chi phí hợp lý, gồm: tư vấn thành lập doanh nghiệp và xin giấy phép đầu tư; dịch vụ
quản lý kinh doanh; dịch vụ tài chính và kế toán doanh nghiệp; dịch vụ thiết kế và
xây dựng; dịch vụ xuất nhập khẩu; dịch vụ bảo hiểm, thủ tục hải quan và lưu trữ
hàng hoá; dịch vụ vận chuyển hàng hoá; dịch vụ lưu trú cho chuyên gia.
3.4. Hoàn thiện chính sách hỗ trợ tín dụng cho người nông dân tìm và tự tạo
việc làm
Cơ sở của giải pháp chính sách xuất phát từ thực trạng quy mô các nguồn
vốn hỗ trợ việc làm còn nhỏ bé, mức vốn cho vay còn khiêm tốn, hạn chế, khó lòng
để giúp họ học được một nghề, tìm được việc làm hay tự mở doanh nghiệp, cơ sở
sản xuất kinh doanh của riêng mình; xuất phát điểm thu nhập của đối tượng nông
dân vùng thu hồi đất rất thấp so với mặt bằng các đối tượng khác ở vùng đô thị nên
họ gặp khó khăn về tài chính trong quá trình học nghề và tự tạo việc làm; do trình độ
hạn chế nên họ cũng khó khăn trong tiếp cận và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn
vay để phát triển sản xuất kinh doanh; điều kiện, thủ tục hành chính để vay vốn còn khá
rườm rà, khiến người nông dân khó tiếp cận với các nguồn vốn. Vì vậy rất cần có giải
pháp hỗ trợ tín dụng để người nông dân có thể tiếp cận và sử dụng có hiệu quả vốn
vay trong quá trình tìm và tự tạo việc làm.
Hỗ trợ tín dụng trong khi học nghề: đổi mới chính sách hỗ trợ tín dụng cho
người nông dân trong khi học nghề theo hướng giảm dần tính bình quân hoá kinh
phí dạy nghề và thay đổi hình thức hỗ trợ nhằm sử dụng nguồn vốn hỗ trợ một cách
hiệu quả. Cụ thể, xác định rõ từng loại đối tượng được hỗ trợ và định mức hỗ trợ
tương ứng đồng thời hình thức hỗ trợ cần được thay đổi phù hợp với từng đối tượng
(bao gồm cả hiện vật, tiền mặt...) đảm bảo cung cấp được đầy đủ các hỗ trợ cần
thiết để đưa được người nông dân đến với các chương trình đào tạo nghề.
Hỗ trợ cho người học trong thời gian học nghề để chi trả các chi phí cho việc
học tập, sinh hoạt trong thời gian theo học tại cơ sở dạy nghề (bao gồm: học phí, chi
phí mua sắm sách vở, phương tiện học tập, chi phí ăn, ở, đi lại). Tùy thuộc vào điều
kiện, hoàn cảnh của từng nhóm đối tượng để xác định mức hỗ trợ, phương thức hỗ
81
trợ cho phù hợp.
3.5. Tạo điều kiện để người dân được góp vốn vào các dự án bằng giá trị đất bị
thu hồi
Do yêu cầu công nghiệp hóa, đô thị hóa, Nhà nước cần lấy đi một phần đất
nông nghiệp để xây dựng các khu công nghiệp, khu đô thị mới và xây dựng kết cấu
hạ tầng phục vụ cho phát triển kinh tế chung của thành phố. Đó là một yêu cầu
khách quan và còn có xu hướng phát triển trong tương lai. Khi bị thu hồi đất, hộ
nông dân ngoài việc nhận tiền bồi thường hỗ trợ khi giải phóng mặt bằng còn có thể
góp vốn bằng đất bị thu hồi vào dự án. Đối tượng, điều kiện và thủ tục góp vốn
bằng quyền sử dụng đất này được đã được quy định tại các văn bản pháp luật liên
quan: Luật doanh nghiệp năm 2005 và các văn bản hướng dẫn thi hành; Luật đất đai
2013; Nghị định 43/2014/NĐ-CP về thi hành luật đất đai; Nghị định 47/2014/NĐ-
CP quy định về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất.
Chủ trương này đã được nêu ra từ Hội nghị Ban Chấp hành (BCH) rung
ương lần thứ 5 khoá IX, phù hợp với Luật Đất đai hiện hành, nhưng đến nay vẫn
chưa được nhiều địa phương và các dự án thực hiện.
Các hướng dẫn cụ thể để thực hiện chủ trương này cần được triển khai để
người dân có đất bị thu hồi có điều kiện tiếp tục duy trì vị thế làm chủ đối với một
tư liệu sản xuất mới là các dự án mới được đưa vào hoạt động. Theo như kết quả
khảo sát ở trên, đa số người dân bị thu hồi đất trên địa bàn thành phố, sau khi nhận
được tiền đền bù, thường tiêu dùng cho nhiều mục đích khác nhau, ít người nghĩ
đến việc phải tìm cho mình một công việc mới sau khi không còn đất để canh tác
nông nghiệp. Giải pháp này nếu được thực hiện, sẽ tạo điều kiện cho người dân góp
vốn vào những dự án có triển vọng đạt hiệu quả cao, từ đó có điều kiện đảm bảo
cuộc sống ổn định một cách tương đối cùng với hoạt động của các dự án. Mặt khác,
nhà đầu tư (người sử dụng đất), không phải bỏ ra nhiều tiền để đền bù, mà lại phát
hành được cổ phiếu cho chính chủ đất cũ.
Đối với những người không có nguyện vọng được góp vốn bằng giá trị đất bị
thu hồi, vẫn được nhận tiền đền bù theo quy định của từng dự án để có phương án
đầu tư phù hợp.
3.6. Kiến nghị hoàn thiện công tác bồi thường hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước
thu hồi đất tại tỉnh Quảng Ninh
82
Để thực hiện mục tiêu công nghiệp hóa - hiện đại hóa, đáp ứng yêu cầu phát triển
kinh tế - xã hội của địa phương đồng thời đảm bảo giải quyết việc làm, thu nhập và
điều kiện sống cho người dân bị thu hồi đất, góp phần giữ vững ổn định chính trị tại địa
phương, tác giả kiến nghị một số vấn đề sau:
Cần có sự đầu tư nghiên cứu, khảo sát trên diện rộng những tác động của
việc thu hồi đất đến đời sống, việc làm của người dân để xây dựng, hoàn thiện chính
sách bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất.
Chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất cần
phải được quy định cụ thể, rõ ràng, dễ hiểu, đầy đủ và chặt chẽ để nhân dân hiểu rõ
và nghiêm chỉnh chấp hành.
Giá bồi thường về đất phải được xây dựng trên cơ sở khảo sát toàn diện,
khoa học, đảm bảo giá bồi thường sát với giá thị trường chuyển nhượng. Chính sách
bồi thường GPMB phải đảm bảo tính công bằng, hợp lý và thống nhất giữa các dự
án trên cùng một địa bàn, giữa địa phương này với địa phương khác.
Chính quyền địa phương và nhà đầu tư cần điều tra, đánh giá tỉ mỉ những tác
động của việc thu hồi đất đến đời sống, việc làm của người dân trước khi quyết định
thu hồi đất, qua đó có những giải pháp để hạn chế tối đa những tác động tiêu cực.
Cần thực hiện tốt việc công khai quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất và định hướng
cho nhân dân để họ chủ động tự học nghề, chuyển đổi nghề và tìm kiếm việc làm.
Thành phố Uông Bí cần có đề án đào tạo nghề và chuyển đổi nghề cho người
dân có đất nông nghiệp bị thu hồi một cách thiết thực, khả thi mang tính chiến lược,
phù hợp với nhu cầu sử dụng lao động của các doanh nghiệp trên địa bàn.
Việc thu hồi đất để phục vụ xây dựng và phát triển Thành phố cần được đặt
trong mối quan hệ hài hòa với vấn đề giải quyết việc làm, nâng cao thu nhập và ổn
định đời sống cho người dân có đất bị thu hồi, đảm bảo sự phát triển bền vững của
địa phương.
Hoàn thiện chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi
đất theo hướng có lợi cho người dân. Trong đó chú trọng công tác hỗ trợ ổn định
đời sống, đào tạo nghề và tái định cư.
83
Đẩy nhanh công tác lập và quản lý quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất các cấp;
đặc biệt là quy hoạch sử dụng đất chi tiết cấp cơ sở. Thực hiện công khai quy hoạch,
kế hoạch sử dụng đất đã được xét duyệt theo quy định của pháp Luật Đất đai để các
cấp, các ngành cùng toàn thể người dân thống nhất tổ chức thực hiện, cùng kiểm tra,
Chú trọng kiện toàn bộ máy tổ chức làm nhiệm vụ GPMB; trong đó đặc biệt
giám sát thực hiện.
quan tâm cán bộ tại các phường (xã) và tổ dân phố (thôn).
Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở kết hợp giữa nghiên cứu lý luận và
thực tiễn. Tuy nhiên, nội dung luận văn và phạm vi nghiên cứu mới chỉ được nhìn
nhận từ thực tiễn tại thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh, do đó, những vấn đề nêu
ra trong luận văn không tránh khỏi những thiếu sót, hạn chế nhất định. Học viên rất
mong nhận được sự đóng góp ý kiến, phê bình của các nhà khoa học để công trình
được hoàn thiện hơn, qua đó học viên tiếp tục có những đóng góp tốt hơn cho công
tác thực thi pháp luật về đất đai trên chính quê hương mình./.
84
KẾT LUẬN
Đất đai được xác định là tài sản quý giá của Quốc gia, thuộc sở hữu toàn dân,
do Nhà nước thống nhất quản lý. Đất đai được xem là nguồn tư liệu sản xuất đặc
biệt và là một trong những nguồn lực chủ yếu để phát triển kinh tế đất nước trong
thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đặc biệt trong quá trình toàn cầu
hóa hiện nay. Đất đai có vai trò vô cùng quan trọng đối với đời sống kinh tế, chính
trị, xã hội của một đất nước nói chung và của Việt Nam nói riêng. Chính vì tầm
quan trọng của đất đai như vậy nên Đảng và Nhà nước ta luôn có những chủ trương
và đề ra nhiều chính sách ở từng giai đoạn, thời kỳ khác nhau nhằm quản lý và sử
dụng một cách hiệu quả nhất nguồn tài nguyên đất đai. Để tiếp tục phát huy được
vai trò của đất đai trong đời sống xã hội hiện tại thì cần phải tăng cường thực thi
chính sách, pháp luật và quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với đất đai nhiều hơn
nữa.
Uông Bí là một đô thị nằm ở phía Tây Nam của tỉnh Quảng Ninh, nằm trên trục
đường Quốc Lộ 18A nối Hà Nội, Hải Dương, Hải Phòng với Quảng Ninh, với nhiều
tiềm năng về công nghiệp, du lịch, dịch vụ, Uông Bí trở thành một trong những đô thị
trung tâm của vùng trọng điểm kinh tế phía Bắc. Ngày 25/02/2011, Chính phủ đã có
Nghị quyết số 12/NQ-CP về việc thành lập thành phố Uông Bí trực thuộc tỉnh Quảng
Ninh. Chính vì vậy, trong những năm qua, tốc độ phát triển các khu công nghiệp, khu
đô thị, việc xây dựng kết cấu hạ tầng xã hội, các công trình công cộng và lợi ích quốc
gia diễn ra rất nhanh, quá trình đó đi liền với việc thu hồi đất, bao gồm cả đất nông
nghiệp của một bộ phận dân cư. Giải quyết việc làm, ổn định và từng bước nâng cao
đời sống cho người bị thu hồi đất là nhiệm vụ của cấp ủy Đảng, chính quyền và nhân
dân thành phố Uông Bí; tuy nhiên cũng như nhiều địa phương khác trong cả nước,
Uông Bí cũng gặp phải nhiều khó khăn trong việc thực hiện chính sách bồi thường, hỗ
trợ và tái định cư đến đời sống, việc làm của người dân khi Nhà nước thu hồi đất.
Trong những năm gần đây, cùng với sự phát triển của đất nước, đẩy mạnh nền kinh
tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, nhiều dự án phát triển kinh tế - xã hội đòi
hỏi phải thu hồi đất của các tập thể, cá nhân để thực hiện dự án, đơn giá bồi thường thấp,
không phù hợp... việc nghiên cứu vấn đề áp dụng pháp luật trong việc đền bù hỗ trợ và
85
tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất. Tuy nhiên, để giải quyết tận gốc, triệt để vấn đề thì
cán bộ làm công tác đền bù GPMB cần phải quan tâm nhiều hơn nữa đến những bất hợp
lý trong quản lý nhà nước về đất đai, việc áp dụng chế độ, chính sách khi thực hiện thu
hồi đất và bồi thương giải phóng mặt bằng... để có những kiến nghị kịp thời đối với cơ
quan nhà nước có thẩm quyền ban hành chính sách cho phù hợp với thực tiễn.
Với dự án cải tạo, nâng cấp Quốc lộ 18A có tổng chiều dài là 2.96 km, tổng
diện tích thu hồi đất để thực hiện dự án là 2,19 ha; tổng số hộ gia đình, cá nhân bị
ảnh hưởng là 318 hộ (không có đất của các tổ chức). Tổng kinh phí xây dựng tuyến
đường lên tới 84.843.443.908 tỉ đồng.
Việc xác định được nguồn gốc đất còn khó khăn do vậy việc xác định đối
tượng, điều kiện được bồi thường còn nhiều vướng mắc; Giá đất áp dụng tính bồi
thường, hỗ trỡ chưa hợp lý, chưa sát với giá thị trường, kinh phí hỗ trợ cho người
trực tiếp thực hiện chưa phù hợp; Cán bộ trực tiếp làm công tác bồi thường, hỗ trọ,
tái định cư chuyên môn chưa cao, chưa chuyên nghiệp.
Để đẩy nhanh tiến độ thực hiện công tác bồi thường, hỗ trợ cần thực hiện đồng
bộ các giải pháp sau: Tăng cường công tác quản lý đất đai; Hoàn thiện quy định xác
định giá đất, giá tài sản tính bồi thường, hỗ trợ; Đảm bảo kinh phí thực hiện BT,
HT, TĐC; Nâng cao năng lực và hiệu quả làm việc của cán bộ thực hiện công tác
BT, HT, TĐC.
Việc thực thi pháp luật về thu hồi, bồi thường và tái định cư khi nhà nước
thu hồi đất tại thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh trong thời gian qua đã góp phần
ổn định chính trị - xã hội, bảo vệ được quyền, lợi ích hợp pháp của công dân và cả
lợi ích của Nhà nước. Trước những yêu cầu thực tế hiện nay đòi hỏi thành phố
Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh cần coi công tác đền bù GPMB là một trong những
nhiệm vụ trọng tâm của cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương.
86
TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Bộ Tài chính, Thông tư số 57/2010/TT-BTC ngày 16 tháng 4 năm 2010 quy định
việc lập dự toán, sử dụng và quyết toán kinh phí tổ chức thực hiện bồi thường,
hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất, Hà Nội 2010.
2. Bộ Tài nguyên và Môi trường, Thông tư số 14/2009/TT-BTNMT ngày 01/10/2009
quy định chi tiết về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư và trình tự, thủ tục thu hồi đất,
giao đất, cho thuê đất, Hà Nội 2009.
3. Bộ Tài nguyên và Môi trường, Thông tư số 37/2014/TT – BTNMT của Bộ Tài
nguyên và Môi trường ngày 30/6/2014 quy định chi tiết về bồi thường, hỗ trợ,
tái định cư khi nhà nước thu hồi đất, Hà Nội 2014.
4. Chính phủ, Nghị định số 90/CP ngày 17/9/1994, Ban hành quy định về việc đền
bù thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất để sử dụng vào mục đích quốc phòng, an
ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng, Hà Nội 1994.
5. Chính phủ, Nghị định số 188/2004/NĐ-CP ngày 16/11/2004, Về phương pháp
xác định giá đất và khung giá các loại đất, Hà Nội 2004.
6. Chính phủ, Nghị định số 197/2004/NĐ-CP ngày 03/12/2004, Về bồi thường
thiệt hại và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất, Hà Nội 2004.
7. Chính phủ, Nghị định số 84/2007/NĐ-CP ngày 25/5/2007, Quy định bổ sung về
việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, thu hồi đất, thực hiện quyền sử
dụng đất, trình tự thủ tục bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi
đất và giải quyết khiếu nại về đất đai, Hà Nội 2007.
8. Chính phủ, Nghị định số 123/2007/NĐ-CP ngày 27/7/2007, Sửa đổi bổ sung một
số điều của Nghị định số 188/2004/NĐ-CP ngày 16/11/2004 về phương pháp
xác định giá đất và khung giá các loại đất, Hà Nội 2007.
9. Chính phủ, Nghị định số 69/2009/NĐ-CP ngày 13 tháng 8 năm 2009, quy định
bổ sung về quy hoạch sử dụng đất, giá đất, thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ tái
định cư, Hà Nội 2009.
87
10. Chính phủ, Nghị định số 47/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014, Về bồi thường thiệt
hại và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất, Hà Nội 2017.
11. Đào Trung Chính, Đặng Hùng Võ và Nguyễn Thanh Trà, Đánh giá thực tiễn
triển khai công tác thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư theo quy định của
pháp luật. Tạp chí khoa học và phát triển Hà Nội 2013, 11(3).tr. 328-336.
12. Đào Trung Chính, Nghiên cứu thực trạng và đề xuất đổi mới pháp luật về thu
hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư. Luận án tiến sĩ, Trường Đại học Nông
nghiệp Hà Nội.tr.13-21, Hà Nội 2015.
13. Tôn Gia Huyên, Thu hồi, đền bù, tổ chức tái định cư đối với đất nông nghiệp và
nông dân. Chuyên đề 2, Hội thảo Chính sách pháp luật đất đai liên quan đến
nông nghiệp, nông dân và nông thôn, Hà Nội 2009.
14. UBND thành phố Uông Bí, Báo cáo kết quả công tác bồi thường, giải phóng
mặt bằng giai đoạn 2015 – 2017, Uông Bí 2017.
15. Trung tâm phát triển quỹ đất thành phố, Trình tự thu hồi, giải phóng mặt bằng
khi Nhà nước thu hồi đất, Uông Bí 2015.
16. Lê Thị Thùy Dương, Luận văn thạc sỹ, Luật kinh tế, Pháp Luật về bồi thường
khi nhà nước thu hòi đất từ thực tiễn tại tỉnh Quảng Ninh, Hà Nội 2015.
17. Quốc hội, Luật Đất đai năm 2013, Hà Nội 2013.
18. Chính Phủ, Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 quy định chi tiết thi
hành một số điều của Luật Đất đai năm 2013, Hà Nội 2013.
19. Chính phủ, Nghị định số 44/2014/NĐ-CP Quy định về giá, Hà Nội 2014.
20. Chính phủ, Nghị định số 47/2014/NĐ-CP ngày 15/05/2014 của Chính Phủ Quy
định về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất.
21. Chính phủ, Nghị định số 01/2017/NĐ-CP ngày 6/1/2017 sửa đổi, bổ sung một
số Nghị định quy định chi tiết thi hành Luật Đất đai.
88
22. UBND tỉnh Quảng Ninh, Quyết định số 629/QĐ-UBND Ngày 21/3/2012 của Ủy
ban nhân dân tỉnh Quảng Ninh Về việc phê duyệt phương án tổng thể bồi thường,
hỗ trợ và tái định cư khi nhà nước thu hồi đất thực hiện Dự án.
23. UBND tỉnh Quảng Ninh, Quyết định số 1766/QĐ-UBND ngày 13/8/2014 của
UBND tỉnh Quảng Ninh về việc ban hành Quy định về bồi thường, hỗ trợ và tái
định cư khi nhà nước thu hồi đất theo Luật Đất đai năm 2013 trên địa bàn tỉnh
Quảng Ninh, Quảng Ninh 2014.
24. UBND tỉnh Quảng Ninh, Quyết định số 3238/2014/QĐ-UBND ngày 26/12/2014
của UBND tỉnh Quảng Ninh về việc quy định giá các loại đất trên địa bàn tỉnh
Quảng Ninh, Quảng Ninh 2014.
25. UBND tỉnh Quảng Ninh, Quyết định số 4234/2015/QĐ-UBND ngày 28/12/2015
của UBND tỉnh Quảng Ninh về Ban hành Bộ đơn giá bồi thường tài sản gắn liền
với đất khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh, Quảng Ninh 2015.
26. UBND thành phố Uông Bí, Quyết định số 374/QĐ-UBND Về việc giải quyết
đơn đề nghị của ông Đặng Thanh Hồng cư trú tại khu Bí Trung 2, phường Phương
Đông, thành phố Uông Bí, Uông Bí 15/7/2017.
27. UBND thành phố Uông Bí, Quyết định số 3094/QĐ-UBND của Chủ tịch UBND
thành phố Uông Bí về việc giải quyết khiếu nại của ông Đỗ Đức Thắng trú tại tổ 1,
khu Nam Trung, phường Nam Khê, thành phố Uông Bí (lần 2). Uông Bí ngày
29/5/2017.