BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ

PHÁP LUẬT VỀ BỒI THƯỜNG HỖ TRỢ,

TÁI ĐỊNH CƯ KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT

CHO DỰ ÁN CẢI TẠO, NÂNG CẤP QUỐC LỘ 18A

TẠI THÀNH PHỐ UÔNG BÍ- THỰC TRẠNG VÀ

KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN

Ngành: Luật kinh tế

HOÀNG THỊ HIỂN

HÀ NỘI – 2019

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ

PHÁP LUẬT VỀ BỒI THƯỜNG HỖ TRỢ,

TÁI ĐỊNH CƯ KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT

CHO DỰ ÁN CẢI TẠO, NÂNG CẤP QUỐC LỘ 18A

TẠI THÀNH PHỐ UÔNG BÍ- THỰC TRẠNG VÀ

KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN

Ngành: Luật kinh tế

Mã số: 8380107

Học viên: Hoàng Thị Hiển

Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Minh Thư

HÀ NỘI – 2019

i

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của riêng tôi.

Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo quy định.

Tác giả luận văn

Hoàng Thị Hiển

ii

LỜI CẢM ƠN

Trong suốt thời gian học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận văn, tôi đã nhận

được sự hướng dẫn, chỉ bảo tận tình của các thầy cô giáo, sự giúp đỡ, động viên của

bạn bè, đồng nghiệp và gia đình.

Nhân dịp hoàn thành luận văn, cho phép tôi được bày tỏ lòng kính trọng và

biết ơn sâu sắc đến Tiến sĩ Nguyễn Minh Thư đã tận tình hướng dẫn, dành nhiều

công sức, thời gian và tạo điều kiện cho tôi trong suốt quá trình học tập và thực hiện

đề tài.

Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành tới Khoa sau đại học, Khoa Luật kinh tế

trường Đại học Ngoại Thương Hà Nội đã tận tình giúp đỡ tôi trong quá trình học tập,

thực hiện đề tài và hoàn thành luận văn.

Tôi xin chân thành cảm ơn tập thể lãnh đạo, cán bộ viên chức Phòng Tài nguyên

và Môi trường thành phố Uông Bí, Phòng Tài chính và Kế hoạch thành phố Uông Bí,

trung tâm phát triển quỹ đất Thành phố Uông Bí, Chi cục thống kê thành phố Uông

Bí, đã giúp đỡ và tạo điều kiện cho tôi trong suốt quá trình thực hiện đề tài.

Xin chân thành cảm ơn gia đình, người thân, bạn bè, đồng nghiệp đã tạo mọi điều

kiện thuận lợi và giúp đỡ tôi về mọi mặt, động viên khuyến khích tôi hoàn thành luận

văn./.

Tác giả luận văn

Hoàng Thị Hiển

iii

MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN ...................................................................................................... i

LỜI CẢM ƠN ........................................................................................................... ii

MỤC LỤC ................................................................................................................ iii

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT..................................................................... vi

DANH MỤC BẢNG – SƠ ĐỒ............................................................................... vii

TÓM TẮT KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU CỦA LUẬN VĂN ................................ viii

LỜI MỞ ĐẦU ............................................................................................................ 1

CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁP LUẬT BỒI THƯỜNG,

HỖ TRỢ, TÁI ĐỊNH CƯ KHI NHÀ NƯỚC THU HÔI ĐẤT ............................. 9

1.1. Khái quát về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất

............................................................................................................................ 9

1.1.1. Khái niệm về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi nhà nước thu

hồi đất .......................................................................................................... 9

1.1.2. Mục đích, ý nghĩa của việc bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi

Nhà nước thu hồi đất ................................................................................ 10

1.1.3. Đặc điểm của công tác bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà

nước thu hồi đất ........................................................................................ 12

1.1.4. Một số nguyên tắc bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước

thu hồi đất ................................................................................................. 13

1.2. Lịch sử hình thành và phát triển của pháp luật về bồi thường, hỗ trợ,

tái định cư khi nhà nước thu hồi đất ............................................................ 16

1.2.1. Giai đoạn sau năm 1975 đến trước khi ra đời Luật đất đai năm

1993............................................................................................................ 16

1.2.2. Giai đoạn sau khi ban hành Luật đất đai 1993 đến khi Luật đất

đai 2003 có hiệu lực. ................................................................................. 16

1.2.3. Pháp luật về Bồi thường khi nhà nước khi thu hồi đất quy định

theo Hiến pháp 2013 và Luật Đất đai năm 2013. .................................... 18

iv

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ BÒI THƯỜNG,

HỖ TRỢ, TÁI ĐỊNH CƯ KHI NHÀ NƯỚC THU HÒI ĐẤT CHO DỰ ÁN

CẢI TẠO, NÂNG CẤP QUỐC LỘ 18A TẠI THÀNH PHỐ UÔNG BÍ ........... 21

2.1. Khái quát về dự án cải tạo, nâng cấp quốc lộ 18A tại thành phố Uông

Bí ...................................................................................................................... 21

2.1.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội của thành phố Uông Bí ......... 21

2.1.2. Khái quát về dự án cải tạo nâng cấp quốc lộ 18A tại thành phố

Uông Bí ...................................................................................................... 28

2.2. Thực tiễn áp dụng pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi

nhà nước thu hồi đất cho dự án cải, nâng cấp quốc lộ 18A tại địa bàn

thành phố Uông Bí từ năm 2015 đến hết năm 2017. ................................... 29

2.2.1. Bồi thường về đất ............................................................................ 29

2.2.2. Bồi thường về tài sản ...................................................................... 44

2.2.3. Quy trình áp dụng pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi

đất cho dự án. ............................................................................................ 46

2.2.4. Tình hình áp dụng pháp luật về bồi thường hỗ trợ về đất đai, tài

sản trên thực tế .......................................................................................... 57

2.2.5. Đánh giá chung thực tiễn áp dụng pháp luật về bồi thường, hỗ

trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất cho dự án cải, nâng cấp quốc

lộ 18A tại địa bàn thành phố Uông Bí ..................................................... 60

CHƯƠNG 3: KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ BỒI THƯỜNG,

HỖ TRỢ, TÁI ĐỊNH CƯ KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT CHO DỰ ÁN

CẢI TẠO, NÂNG CẤP QUỐC LỘ 18A TẠI THÀNH PHỐ UÔNG BÍ, TỈNH

QUẢNG NINH. ....................................................................................................... 68

3.1. Định hướng chính sách về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi nhà

nước thu hồi đất cho dự án cải tạo, nâng cấp quốc lộ 18A tại thành phố

Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh. ............................................................................ 68

3.2. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư

khi nhà nước thu hồi đất cho dự án cải tạo, nâng cấp quốc lộ 18A tại

thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh ........................................................... 71

v

3.2.1. Tăng cường chỉ đạo công tác quy hoạch , KH SDĐ ..................... 71

3.2.2. Hoàn thiện về đào tạo nghề, việc làm ............................................ 72

3.2.3. Phổ biến, giáo dục pháp luật về đất đai ......................................... 77

3.3.4. Giải quyết tranh chấp về đất đai, giải quyết khiếu nại tố cáo các vi

phạm trong việc quản lý và sử dụng đất đai ............................................ 78

3.3. Hoàn thiện môi trường đầu tư, thực hiện các chính sách thu hút đầu

tư ...................................................................................................................... 79

3.4. Hoàn thiện chính sách hỗ trợ tín dụng cho người nông dân tìm và tự

tạo việc làm ...................................................................................................... 80

3.5. Tạo điều kiện để người dân được góp vốn vào các dự án bằng giá trị

đất bị thu hồi ................................................................................................... 81

3.6. Kiến nghị hoàn thiện công tác bồi thường hỗ trợ, tái định cư khi nhà

nước thu hồi đất tại tỉnh Quảng Ninh .......................................................... 81

KẾT LUẬN .............................................................................................................. 84

TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................................... 86

vi

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

Tên đầy đủ Tên viết tắt

Bồi thường hỗ trợ BTHT

Điều Đ

Giải phóng mặt bằng GPMB

Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất GCNQSDĐ

Quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất QHKHSDĐ

Sử dụng đất SDĐ

Tái định cư TĐC

Thành phố TP

Thu hồi đất THĐ

Trang Tr

Ủy ban nhân dân UBND

Bồi thường hỗ trợ và tái định cư BTHT&TĐC

Sản xuất kinh doanh SXKD

vii

DANH MỤC BẢNG – SƠ ĐỒ

Bảng 2.1: Bảng hiện trạng sử dụng đất tại thành phố Uông Bí ................................ 24

Bảng 2.1: Tình hình dân số thành phố Uông Bí ........................................................ 26

Bảng 2.1: Bảng Cơ cấu lao động trong độ tuổi của thành phố Uông Bí ................... 26

Bảng 2.2: Bảng tổng hợp kinh phí bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất thực

hiện dự án cải tạo, nâng cấp Quốc lộ 18A tại thành phố Uông Bí. ........................... 56

Bảng 2.2: Bảng giá đất ở, đất trồng cây lâu năm trên địa bàn thành phố Uông Bí,

tỉnh Quảng Ninh. ....................................................................................................... 56

Sơ đồ 2.1: Bản đồ Hành chính thành phố Uông Bí ................................................... 22

viii

TÓM TẮT KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU CỦA LUẬN VĂN

Tên luận văn: Pháp luật về bồi thường hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi

đất cho dự án cải tạo nâng cấp quốc lộ 18A tại thành phố Uông Bí - Thực trạng và

kiến nghị hoàn thiện.

Luận văn đã đạt được kết quả như sau:

- Nghiên cứu các quy định pháp luật hiện hành và Luật đất đai năm 2013 và

các văn bản hướng dẫn thi hành.

- Luận văn nghiên cứu các quy định hiện hành của Ủy ban nhân dân tỉnh

Quảng Ninh trong quá trình tổ chức, thực hiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái

định cư khi nhà nước thu hồi từ thực tiễn tại thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh

để từ đó góp phần tìm ra những giải pháp nhằm hoàn thiện hơn các quy định đó.

- Nghiên cứu thực trạng áp dụng các quy định pháp luật về bồi thường khi

nhà nước thu hồi từ thực tiễn tại thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh

- Nghiên cứu chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước ta và

cách lãnh đạo, chỉ đạo, triển khai các quy định pháp luật về bồi thường khi nhà

nước thu hồi tại thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh

1

LỜI MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết

Đất đai luôn là nguồn tài nguyên quý giá của mọi quốc gia, bởi lẽ đó là tư liệu

sản xuất quan trọng để sản xuất ra của cải vật chất cho sự tồn tại và phát triển của

xã hội loài người; đồng thời, đất đai là nguồn tài nguyên có hạn về số lượng, nên

việc quản lý, sử dụng đất đai có hiệu quả nhất luôn là vấn đề mà Chính phủ của các

quốc gia quan tâm và được bảo vệ chặt chẽ bằng luật pháp.

Trên con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, để đưa đất đai thực

sự trở thành nguồn vốn, nguồn thu hút cho các nhà đầu tư phát triển thì việc thu hồi

đất chuyển mục đích sử dụng đất để xây dựng các khu, cụm công nghiệp, khu đô thị

tập trung nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng đất, xây dựng cơ cấu đất đai hợp lý thực

sự cần thiết. Tuy nhiên, qua thực tế việc thu hồi đất để thực hiện các dự án cho thấy

công tác bồi thường đất đai, giải phóng mặt bằng, hỗ trợ và tái định cư đang là một

vấn đề rất nhạy cảm và phức tạp, ảnh hưởng đến mọi mặt của đời sống kinh tế -

chính trị - xã hội.

Thực hiện Nghị quyết của Đảng, Nhà nước là phát triển kinh tế nhiều thành

phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa để đưa đất nước tiến lên theo hướng công

nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Từ khi đất nước đổi mới đến nay nhiều khu đô

thị mới, khu công nghiệp, khu kinh tế, khu du lịch, nhiều tuyến đường... được hình

thành. Dựa trên nguồn vốn nội lực cùng với ngoại lực trợ giúp, Việt Nam đang dần

chuyển mình thay đổi với rất nhiều dự án được xét duyệt và thi công. Một trong

những những vấn đề được quan tâm hàng đầu là vấn đề bồi thường, giải phóng mặt

bằng khi Nhà nước thu hồi đất để thực hiện dự án. Làm thế nào để đảm bảo lợi ích

giữa Người dân - Nhà nước - Nhà đầu tư và sự phát triển bền vững của quốc gia.

Việc bồi thường, hỗ trợ và tái định cư để giải phóng mặt bằng là lĩnh vực hết

sức nhạy cảm và phức tạp. Nó liên quan trực tiếp đến quyền lợi của chủ sử dụng

đất, chủ sử dụng tài sản, nó tác động đến mọi mặt của đời sống kinh tế - chính trị - xã

hội hiện nay.

2

Trong điều kiện quỹ đất ngày càng hạn hẹp, nhận thức của người dân ngày

một cao, giá trị sinh lời của đất ngày càng tăng cùng với tốc độ phát triển kinh tế thì

việc giải phóng mặt bằng để tạo ra quỹ đất sạch triển khai dự án theo đúng tiến độ

ngày càng trở nên cấp thiết và quan trọng bởi không có đất sạch thì không thể triển

khai dự án theo đúng tiến độ đề ra. Tuy nhiên, vì quyền lợi của người dân và vì

nhận thức luôn phải có lợi cho mình của người dân lúc nào cũng đòi hỏi phải được

bồi thường thỏa đáng nhưng nếu việc giải phóng mặt bằng không theo quy định của

pháp luật, không tuân theo đúng chế độ chính sách của Nhà nước thì cơ quan thực

hiện việc giải phóng mặt bằng sẽ không bao giờ đáp ứng được đầy đủ theo đúng

nguyện vọng của nhân dân. Do vậy, để giải quyết hài hòa mối quan hệ trên trong

công tác giải phóng mặt bằng thì cần phải xác định đúng các nguyên nhân của

những tồn tại, qua đó xây dựng những giải pháp thực hiện nhằm đảm bảo quyền lợi

của người dân cũng như việc đảm bảo tiến độ của công tác giải phóng mặt bằng nói

riêng và tiến độ thực hiện của các dự án cần thu hồi đất nói chung.

Trong công cuộc đổi mới đất nước nhu cầu phát triển hạ tầng luôn đặt ra và

Nhà nước cũng phải bảo đảm các quyền và lợi ích hợp pháp của người dân do vậy

để đáp ứng việc thực thi pháp luật Nhà nước ban hành các Nghị định, Thông tư,

Quyết định thường xuyên phải sửa đổi, bổ sung để đáp ứng với tình hình thực trạng

đang diễn ra trong xã hội. Tuy có Nghị định, có Thông tư, có Quyết định nhưng với

đặc thù của từng địa phương, từng dự án có sự khác biệt nên đây cũng là lý do để

chủ sử dụng đất, chủ sử dụng tài sản lợi dụng để đòi hỏi.

Để nâng cao năng lực thể chế trong công tác bồi thường, hỗ trợ và tái định cư,

Luật Đất đai 2013 đã có nhiều nội dung sửa đổi, bổ sung phù hợp với thực tế nhằm

điều chỉnh các mối quan hệ pháp luật đối với các chủ thể quản lý, sử dụng đất khi

Nhà nước thu hồi đất, sử dụng đất phục vụ phát triển kinh tế - xã hội.

Những năm gần đây, với tốc độ đô thị hóa nhanh, đất đai ở thành phố Uông Bí

được chuyển mục đích sử dụng khá nhiều, đồng nghĩa với việc áp dụng những

chính sách của Nhà nước trong việc thu hồi, bồi thường giải phóng mặt bằng và hỗ

trợ đối với người dân mất đất sản xuất nông nghiệp. Tuy nhiên, công tác này còn

gặp nhiều khó khăn, vướng mắc, hiệu quả thấp, kể cả việc thu hồi đất để xây dựng

3

cơ sở hạ tầng phục vụ cho chính cộng đồng dân cư bị thu đất. Điều chỉnh quy hoạch

sử dụng đất, sửa đổi thiết kế dự án, chờ đợi do không giải phóng được mặt bằng

hoặc do cơ sở hạ tầng không đảm bảo là những nguyên nhân làm ảnh hưởng đến

tiến độ các dự án, gây thiệt hại lớn về kinh tế của các doanh nghiệp, các nhà đầu tư

và nhà nước, làm mất ổn định chính trị xã hội ở địa phương. Xuất phát từ thực tiễn

nói trên, tôi tiến hành thực hiện đề tài “Pháp luật về bồi thường hỗ trợ, tái định

cư khi nhà nước thu hồi đất cho dự án cải tạo nâng cấp quốc lộ 18A tại thành

phố Uông Bí - Thực trạng và kiến nghị hoàn thiện”.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài

Trong góc độ lý luận và thực tiễn Pháp luật về đất đai nói chung và pháp luật

về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nói riêng luôn được sự quan tâm và đầu tư

nghiên cứu của nhiều tác giả. Nhiều người làm công tác giảng dạy và nghiên cứu

luôn tìm tòi, sáng tạo và có những công trình khoa học về vấn đề này. Có thể kể đến

một số các công trình nghiên cứu sau đây:

- Pháp luật đất đai trong hoạt động của luật sư của tác giả Nguyễn Minh

Hằng, NXB Thông tin và truyền thông, Hà Nội năm 2013.

- Giao dịch về quyền sử dụng đất vô hiệu pháp luật và thực tiễn xét xử của

các tác giả Nguyễn Văn Cường, Nguyễn Minh Hằng, NXBThông tin và truyền

thông.

- Pháp luật về hỗ trợ, tái định cư người có đất bị thu hồi trong giải phóng mặt

bằng - Thực trạng và giải pháp hoàn thiện, Luận văn thạc sĩ luật học của tác giả Đỗ

Phương Linh, Trường Đại học Hà Nội, Năm 2012.

- Đánh giá thực trạng và giải pháp tăng cường hiệu quả của công tác bồi

thường GPMB trên địa bàn thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh, Luận văn thạc sỹ

quản lý đất đai của tác giả Lê Thanh Hải, Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên,

2014.

- Pháp Luật về bồi thường khi nhà nước thu hồi đất từ thực tiễn tại tỉnh

Quảng Ninh, Luận văn thạc sỹ Luật kinh tế của tác giả Lê Thị Thùy Dương,

Viện Đại học mở Hà Nội, Năm 2015.

4

- Về khái niệm bồi thường khi nhà nước thu hồi đất trong luật đất đai năm

2003 của tác giả Nguyễn Quang Tuyến, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, Số 7/2008,

tr. 45 - 49.

- Về chính sách bồi thường, hỗ trợ tái định cư khi nhà nước thu hồi đất của

tác giả Nguyễn Thị Phượng, Tạp chí Quản lý nhà nước, Số 9/2010, tr. 32 - 36.

- Chính sách hỗ trợ khi nhà nước thu hồi đất của tác giả Trần Quang Huy,

Tạp chí Luật học, Số 10/2010, tr. 29 - 36.

Việc bồi thường, hỗ trợ và tái định cư để giải phóng mặt bằng là lĩnh vực hết

sức nhạy cảm và phức tạp. Nó liên quan trực tiếp đến quyền lợi của chủ sử dụng

đất, chủ sử dụng tài sản, nó tác động đến mọi mặt của đời sống kinh tế - chính trị - xã

hội hiện nay.

Pháp luật về bồi thường hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất dự án cải

tạo nâng cấp quốc lộ 18A tại thành phố Uông Bí. Trên cơ sở đó đề xuất một số giải

pháp đẩy nhanh tiến độ bồi thường, hỗ trợ thực hiện các dự án đầu tư trên địa bàn

nghiên cứu.

3. Phạm vi nghiên cứu đề tài

Dự án Cải tạo, nâng cấp Quốc lộ 18A chạy qua thành phố Uông Bí, tỉnh

Quảng Ninh, tạo nên 1 diện mạo mới, khang trang, đồng thời góp phần vào nét đẹp

hiện đại, văn minh của Thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh.

Tuyến đường có tổng chiều dài là 2.96 km, quy mô dự án là đường cấp III

đồng bằng có 04 làn xe, bề rộng mặt đường là 16.5 m; tốc độ thiết kế 80 km/h; tổng

diện tích thu hồi đất để thực hiện dự án là 2,19 ha (chủ yếu là đất hành lang bảo vệ

công trình giao thông đường bộ; đất trồng cây lâu năm, đất ở, không ảnh hưởng đến

nhà ở của người dân); tổng số hộ gia đình, cá nhân bị ảnh hưởng là 318 hộ (không

có đất của các tổ chức). Tổng kinh phí xây dựng tuyến đường lên tới

84.843.443.908 tỉ đồng.

Thời gian thực hiện dự án nghiên cứu từ năm 2015 đến năm 2017.

Thời gian thu thập số liệu từ năm 2015 đến năm 2017.

5

Địa bàn nghiên cứu: Tại địa bàn thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh.

Đây là một nội dung nghiên cứu tương đối phức tạp, nhạy cảm và liên quan

đến các vấn đề chính trị, kinh tế, xã hội của thành phố Uông Bí nói riêng, tỉnh

Quảng Ninh nói chung. Tuy nhiên, trong phạm vi nghiên cứu nhất định, luận văn

chỉ tập trung nghiên cứu một số vấn đề cơ bản sau:

Thứ nhất: Nghiên cứu các quy định pháp luật hiện hành và Luật đất đai năm

2013 và các văn bản hướng dẫn thi hành.

Thứ hai: Luận văn nghiên cứu các quy định hiện hành của Ủy ban nhân dân

tỉnh Quảng Ninh trong quá trình tổ chức, thực hiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ,

tái định cư khi nhà nước thu hồi đất cho dự án cải tạo nâng cấp Quốc lộ 18A để từ

đó góp phần tìm ra những giải pháp nhằm hoàn thiện hơn các quy định đó.

Thứ ba: Nghiên cứu thực trạng áp dụng các quy định pháp luật về bồi

thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi từ thực tiễn tại thành phố Uông Bí,

tỉnh Quảng Ninh.

Thứ tư: Nghiên cứu chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước

ta và cách lãnh đạo, chỉ đạo, triển khai các quy định pháp luật về bồi thường, hỗ trợ,

tái định cư khi nhà nước thu hồi để thực hiện cho dự án cải tạo, nâng cấp Quốc lộ

18A tại thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh .

4. Mục đích nghiên cứu

- Mục đích:

Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà

nước thu hồi đất cho dự án cải tạo, nâng cấp quốc lộ 18A tại thành phố Uông Bí.

- Nhiệm vụ:

Một số vấn đề chung của pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà

nước thu hồi đất.

Thực trạng áp dụng pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước

thu hồi đất cho dự án cải tạo, nâng cấp Quốc lộ 18A tại thành phố Uông Bí.

6

Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà

nước thu hồi đất cho dự án cải tạo, nâng cấp Quốc lộ 18A tại thành phố Uông Bí.

5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu đề tài

Cơ sở phương pháp luận của việc nghiên cứu đề tài là chủ nghĩa duy vật biện

chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử; tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối của Đảng

và Nhà nước về đất đai như phương pháp điều tra thu thập số liệu, phương pháp

điều tra số liệu, phương pháp tổng hợp....

5.1. Phương pháp điều tra thu thập số liệu

- Thu thập các tài liệu, số liệu, các văn bản, chính sách có liên quan đến công

tác BTHT&TĐC, GPMB tại Trung tâm phát triển quỹ đất thành phố Uông Bí,

UBND các phường có liên quan, đơn giá bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất của

dự án như khung giá đất của Chính phủ, giá quy định của Nhà nước và giá bồi thường

được áp dụng đối với các dự án trên đại bàn thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh;

- Tìm hiểu quy trình thực hiện, kế hoạch và thực trạng triển khai dự án cải

tạo, nâng cấp Quốc lộ 18A tại thành phố Uông Bí;

- Thu thập các tài liệu, số liệu liên quan từ các đơn vị, phòng, ban chuyên

môn của thành phố và UBND các phường thuộc thành phố Uông Bí.

5.2. Phương pháp điều tra số liệu

- Phương pháp điều tra số liệu sơ cấp: Thu thập theo phương pháp phỏng vấn

trực tiếp các hộ có đất bị thu hồi theo phiếu điều tra. Sử dụng phiếu điều tra để thu

thập các thông tin phục vụ cho nghiên cứu đề tài gồm: Số liệu về đánh giá của

người dân đối với việc xác định đối tượng được BTHT&TĐC,...

- Phương pháp thu thập số liệu thứ cấp: Số liệu về điều kiện tự nhiên, kinh tế

- Xã hội thu thập tại Chi cục Thống kê thành phố Uông Bí; Số liệu về tình hình

quản lý đất đai và hiện trạng sử dụng đất tổng hợp trên cơ sở số liệu báo cáo các

năm được thu thập tại Phòng Tài nguyên và môi trường, UBND thành phố Uông Bí,

UBND các xã, phường; Số liệu về bảng giá đất của UBND tỉnh ban hành, giá quy

định của Nhà nước và giá bồi thường được áp dụng cho thành phố Uông Bí được

7

thu thập tại Phòng Tài nguyên và Môi trường, Phòng Tài chính – Kế hoạch thành

phố Uông Bí.

5.3. Phương pháp tổng hợp, phân tích và xử lý số liệu

Phân tích số liệu được tổng hợp, đánh giá số liệu theo các chỉ tiêu hàng năm

5.4. Phương pháp so sánh

Dùng để so sánh các số liệu thu thập được, từ đó thấy được sự giống nhau và

khác nhau trong việc thực hiện công tác bồi thường GPMB ở dự án với các quy

định về chính sách BTHT&TĐC của Nhà nước.

So sánh giá bồi thường về đất, công trình vật liệu kiến trúc, cây cối hoa

màu...của dự án qua từng giai đoạn.

Đánh giá các số liệu điều tra về các vấn đề bồi thường, hỗ trợ, tái định cư;

công ăn việc làm, ổn định đời sống sản xuất, vấn đề xã hội, môi trường.

6. Những điểm mới của luận văn

Kết quả nghiên cứu của Luận văn là tập hợp, hệ thống hóa cơ sở lý luận và

thực tiễn của việc xây dựng và áp dụng trên thực tế các quy định pháp luật về bồi

thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất. Đồng thời, đánh giá được thực

trạng áp dụng các quy định pháp luật về vấn đề này trong điều kiện đặc thù của

thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh.

Qua việc phân tích và tổng hợp so sánh các quy định về bồi thường trong các

thời kỳ để tìm ra những thành công, ưu điểm và tồn tại, hạn chế trong thực tiễn áp

dụng tại thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh.

Luận văn cũng đã đưa ra một số giải pháp, kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy

định của pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất phù

hợp với thu hồi đất phù hợp với Hiến pháp 2013, Luật đất đai 2013 và thực tiễn áp

dụng. Qua đó, nhằm nâng cao nhận thức, hiểu biết về lĩnh vực bồi thường khi nhà

nước thu hồi đất để phục vụ thiết thực cho công việc đang phụ trách.

8

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của

luận văn gồm 3 chương:

Chương 1: Một số vấn đề chung của pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định

cư khi nhà nước thu hồi đất

Chương 2: Thực trạng áp dụng pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư

khi nhà nước thu hồi đất cho dự án cải tạo, nâng cấp Quốc lộ 18A tại thành phố

Uông Bí.

Chương 3: Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư

khi nhà nước thu hồi đất cho dự án cải tạo, nâng cấp Quốc lộ 18A tại thành phố

Uông Bí.

9

CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁP LUẬT BỒI THƯỜNG,

HỖ TRỢ, TÁI ĐỊNH CƯ KHI NHÀ NƯỚC THU HÔI ĐẤT 1.1. Khái quát về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất

1.1.1. Khái niệm về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi nhà nước thu hồi đất

1.1.1.1. Bồi thường

Theo từ điển Tiếng Việt: “Bồi thường” có nghĩa là trả lại tương xứng giá trị

hoặc công lao động cho một chủ thể nào đó bị thiệt hại vì một hành vi của chủ thể

khác (Viện Ngôn ngữ học, 2002). Điều này có nghĩa là: Không phải mọi khoản đều

bồi thường bằng tiền; Sự mất mát của người bị thu hồi đất không chỉ là về mặt vật

chất mà nhiều trường hợp còn mất mát cả về tinh thần nhất là khi phải TĐC; Về mặt

hành chính thì đây là một quá trình không tự nguyện, có tính cưỡng chế và vốn là

điều hoà sự “hi sinh” không chỉ là một sự bồi thường ngang giá tuyệt đối.

Việc bồi thường có thể vô hình (xin lỗi) hoặc hữu hình (bồi thường bằng

tiền, bằng vật chất khác), có thể do các quy định của pháp luật điều tiết, hoặc do

thỏa thuận giữa các chủ thể (Viện Ngôn ngữ học, 2002).

Theo Luật đất đai 2003: “Bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất là việc Nhà nước trả lại

giá trị QSDĐ đối với diện tích đất bị thu hồi cho người bị thu hồi đất”.

Theo Điều 3, Luật Đất đai 2013: “Bồi thường về đất là việc Nhà nước trả lại giá trị

quyền sử dụng đất đối với diện tích đất thu hồi cho người sử dụng đất”.

1.1.1.2. Hỗ trợ khi nhà nước thu hồi đất

Theo Luật đất đai 2003: “Hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất là việc Nhà nước

giúp đỡ người bị thu hồi đất thông qua đào tạo nghề mới, bố trí việc làm mới, cấp

kinh phí để di dời đến địa điểm mới”.

Theo Điều 3, Luật Đất đai 2013: “Hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất là việc Nhà

nước trợ giúp cho người có đất thu hồi để ổn định đời sống, sản xuất và phát triển”.

1.1.1.3. Tái định cư

Theo Từ điển Tiếng Việt: Tái định cư được hiểu là đến một nơi nhất định để

sinh sống lần thứ hai (lại một lần nữa) (Viện Ngôn ngữ học, 2002).

10

Mặc dù thuật ngữ tái định cư được pháp luật đất đai đề cập nhưng lại chưa

có quy định nào giải thích cụ thể nội hàm của khái niệm này. Luật Đất đai năm

2003 chỉ quy định: “Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương lập và

thực hiện các dự án tái định cư trước khi thu hồi đất để bồi thường bằng nhà ở, đất ở

cho người bị thu hồi đất mà phải di chuyển chỗ ở,… Trường hợp không có khu tái

định cư thì người bị thu hồi đất được bồi thường bằng tiền và được ưu tiên mua

hoặc thuê nhà ở thuộc sở hữu Nhà nước đối với khu vực đô thị; bồi thường bằng đất

ở đối với khu vực nông thôn,… Chính phủ quy định việc bồi thường, tái định cư cho

người có đất bị thu hồi và việc hỗ trợ để thực hiện thu hồi đất” (Luật Đất đai, 2003).

Từ quy định trên của pháp luật đất đai hiện hành, chúng ta có thể tạm đưa ra

quan niệm về tái định cư như sau: Tái định cư đó là những chính sách, biện pháp

của Nhà nước nhằm thông qua các hoạt động để ổn định cuộc sống của những

người bị thu hồi đất nằm trong diện phải di dời khi có dự án đầu tư, đến nơi ở mới

được ổn định đời sống, ổn định sản xuất để phát triển kinh tế xã hội.

1.1.1.4. Dự án cải tạo nâng cấp quốc lộ

Quốc lộ 18A là tuyến giao thông huyết mạch kết nối tỉnh Quảng Ninh với

các tỉnh lân cận, đi qua 3 tỉnh Bắc Ninh, Hải Dương và Quảng Ninh. Việc nâng cấp

cải tạo, mở rộng là việc làm hết sức cần thiết với mục tiêu phát triển kinh tế - xã

hội, đồng thời đảm bảo an ninh trật tự, an toàn giao thông. Dự án "cải tạo, nâng cấp

Quốc lộ 18A đoạn Uông Bí" là dự án quốc gia, công trình giao thông trọng điểm

nhằm đáp ứng nhu cầu đi lại sinh hoạt, vận tải phục vụ phát triển kinh tế - xã hội

của tỉnh Quảng Ninh nói riêng và vùng Đông Bắc nói chung.

1.1.2. Mục đích, ý nghĩa của việc bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước

thu hồi đất

1.1.2.1. Mục đích

Để thực hiện mục tiêu phát triển đất nước, nền kinh tế của một quốc gia, đặc

biệt là các dự án phát triển đô thị, dự án sản xuất, kinh doanh cần sử dụng đất đai

như một nguồn lực đầu vào tạo mặt bằng sản xuất. Khi đó, Nhà nước phải thu hồi

đất của nhân dân và thực hiện việc BTHT&TĐC cho các hộ bị thu hồi đất.

11

Công tác BTHT&TĐC trong tình hình hiện tại không đơn thuần là bồi

thường về vật chất mà còn phải đảm bảo được lợi ích của người dân phải di chuyển.

Do đó, mục đích chính của công tác BTHT&TĐC là:

- Bồi thường đúng với đất đai bị thu hồi và tài sản bị thiệt hại, đảm bảo cho

người dân khôi phục sản xuất và đời sống sau khi GPMB hoặc tại nơi tái định cư.

- Chỗ ở ổn định, có điều kiện sống bằng hoặc tốt hơn nơi ở cũ, công tác hỗ

trợ đảm bảo ổn định đời sống, sản xuất, hỗ trợ đào tạo chuyển đổi nghề nghiệp để

tạo điều kiện cho người dân sống và ổn định.

- Tái định cư đảm bảo tái thiết lại cơ sở hạ tầng, các điều kiện cho hoạt động

sản xuất kinh doanh và đời sống, thực hiện mục tiêu cuối cùng là tạo lại nguồn thu

nhập và các văn hóa truyền thống, các hoạt động khám chữa bệnh, thể dục thể thao, giáo dục,… và sinh hoạt cộng đồng cho người dân.

1.1.2.2. Ý nghĩa

Thu hồi đất không chỉ làm chấm dứt quan hệ pháp luật về đất đai (làm chấm

dứt quyền sử dụng đất của tổ chức, hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất) mà còn

“đụng chạm” đến lợi ích hợp pháp của các bên có liên quan: Lợi ích của người bị

thu hồi đất; lợi ích của Nhà nước, của xã hội; lợi ích của người hưởng lợi từ việc thu

hồi đất (các nhà đầu tư, doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức, cá nhân…). Do vậy, trên

thực tế việc giải quyết hậu quả của việc thu hồi đất (thực chất là xử lý hài hòa lợi

ích kinh tế giữa các bên) gặp rất nhiều khó khăn, phức tạp. Việc giải quyết tốt vấn

đề BTHT&TĐC khi Nhà nước thu hồi đất sẽ mang lại ý nghĩa to lớn trên nhiều

phương diện:

- Về phương diện chính trị: Giải quyết tốt nhất vấn đề BTHT&TĐC là thực

hiện tốt chính sách để phát triển kinh tế - xã hội góp phần vào việc duy trì, củng cố

sự ổn định về chính trị và đảm bảo các quyền, lợi ích hợp pháp của Nhà nước, nhà

đầu tư và người sử dụng đất.

- Về phương diện kinh tế - xã hội: Thực hiện tốt công tác BTHT&TĐC khi Nhà nước thu hồi đất là điều kiện để người dân nhanh chóng ổn định cuộc sống và doanh nghiệp sớm có mặt bằng triển khai các dự án đầu tư góp phần vào việc thúc

đẩy tăng trưởng của nền kinh tế.

12

1.1.3. Đặc điểm của công tác bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu

hồi đất

Để thực hiện được dự án theo đúng tiến độ, thì trước hết các chủ đầu tư cần

phải giải phóng mặt bằng (GPMB); đó là công việc trọng tâm, hết sức quan trọng,

nhưng phức tạp, tốn kém nhiều thời gian, công sức và tiền của. Ngày nay, việc giải

phóng mặt bằng ngày càng trở nên khó khăn hơn do đất đai ngày càng có giá trị và

khan hiếm. GPMB liên quan đến lợi ích của nhiều cá nhân, tập thể và của cả cộng động dân cư trên một địa bàn nhất định với những đặc điểm chủ yếu như sau:

- Tính đa dạng: Mỗi dự án được tiến hành trên một vùng đất khác nhau với

điều kiện tự nhiên kinh tế, xã hội và trình độ dân trí khác nhau. Tính đa dạng của

đối tượng GPMB dẫn đến quá trình thực hiện công tác BTGPMB có những đặc

điểm khó khăn, phức tạp khác nhau, đòi hỏi việc thực hiện GPMB và giá đất tính

BTHT cũng được tiến hành với những đặc điểm riêng biệt đối với từng địa bàn.

- Tính phức tạp: Ở khu vực nông thôn, dân cư chủ yếu sống nhờ vào hoạt

động sản xuất nông nghiệp mà đất đai lại là tư liệu sản xuất quan trọng trong khi

trình độ sản xuất của nông dân thấp, khả năng chuyển đổi nghề nghiệp khó khăn do

đó tâm lý dân cư vùng này là giữ được đất để sản xuất, thậm chí họ cho thuê đất còn

được lợi nhuận cao hơn là sản xuất nhưng họ vẫn không cho thuê; tình hình đó đã

dẫn đến công tác tuyên truyền, vận động dân cư tham gia di chuyển là rất khó khăn

và việc hỗ trợ chuyển nghề nghiệp là điều cần thiết để đảm bảo đời sống dân cư sau

này. Ở khu vực đô thị, việc thu hồi đất, bồi thường GPMB liên quan đến đất ở lại

càng phức tạp hơn do đất ở là tài sản có giá trị lớn, gắn bó trực tiếp với đời sống và

sinh hoạt của người dân mà tâm lý, tập quán là ngại di chuyển chỗ ở; nguồn gốc sử

dụng đất phức tạp, tình trạng lấn chiếm, xây dựng nhà trái phép chưa được xử lý

dẫn đến việc phân tích hồ sơ đất đai và áp giá phương án bồi thường gặp rất nhiều

khó khăn. Tình trạng chung thiếu quỹ đất dành cho xây dựng khu tái định cư cũng

như chất lượng khu tái định cư thấp chưa đảm bảo được yêu cầu,... Sự tồn tại cơ chế 2 giá với sự chênh lệch lớn giữa giá đất Nhà nước và giá thị trường làm cho việc áp dụng giá đất ở để tính bồi thường không được sự đồng thuận của những người dân.

13

1.1.4. Một số nguyên tắc bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi

đất

1.1.4.1. Nguyên tắc bồi thường.

Nguyên tắc bồi thường Các chế định bồi thường về đất, hỗ trợ và tái định cư

khi Nhà nước thu hồi đất trong Luật Đất đai năm 2013 được quy định tại 3 điều

(Điều 41, 42 và 43) và trên thực tế không thể thể chế, truyền tải hết các quy định

mang tính nguyên tắc để thực hiện thống nhất khi xử lý những vấn đề phức tạp phát

sinh trong thực tiễn thu hồi đất, bồi thường về đất, hỗ trợ và tái định cư tại các địa

phương, các bộ, ngành. Khắc phục hạn chế này, Luật Đất đai năm 2013 đã tách

nguyên tắc bồi thường về đất và nguyên tắc bồi thường thiệt hại về tài sản, ngừng

sản xuất, kinh doanh khi Nhà nước thu hồi đất thành 02 điều riêng biệt (Điều 74 và

Điều 88). Trong đó quy định cụ thể các nguyên tắc bồi thường về đất và các nguyên

tắc bồi thường thiệt hại về tài sản gắn liền với đất khi Nhà nước thu hồi đất để các

bộ, ngành, địa phương và người thu hồi đất căn cứ vào đó thống nhất thực hiện. Nội

dung cụ thể nguyên tắc bồi thường như sau:“Điều 74. Nguyên tắc bồi thường về đất

khi Nhà nước thu hồi đất"

1. Người sử dụng đất khi Nhà nước thu hồi đất nếu có đủ điều kiện được bồi

thường quy định tại Điều 75 của Luật này thì được bồi thường.

2. Việc bồi thường được thực hiện bằng việc giao đất có cùng mục đích sử

dụng với loại đất thu hồi, nếu không có đất để bồi thường thì được bồi thường bằng

tiền theo giá đất cụ thể của loại đất thu hồi do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định

tại thời điểm quyết định thu hồi đất.

3. Việc bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất phải bảo đảm dân chủ, khách

quan, công bằng, công khai, kịp thời và đúng quy định của pháp luật”. Nguyên tắc

trên thể hiện khi nhà nước lấy đi phần lợi ích của người dân mà người dân có đầy

đủ điều kiện được bồi thường thì Nhà nước có trách nhiệm phải bồi thường thiệt

hại. Quy định trên phù hợp với nguyên tắc dân sự được quy định trong Luật dân sự

2015. Khi Nhà nước lấy đất thì bồi thường bằng đất cùng loại, nếu không có đất

cùng loại thì bồi thường bằng tiền với giá trị tương đương. Cách tiếp cận này xuất

phát từ quan niệm coi đất đai là tài sản có thể được trả thay bằng tiền bồi thường để

14

mua được một thửa đất tương đương. Quy định này cũng nhằm ngăn ngừa tình

trạng người bị THĐ đòi hỏi giá bồi thường quá cao do giá trị của đất đai tăng lên từ

việc chuyển mục đích SDĐ hoặc do sự đầu tư của Nhà nước mang lại. Việc bồi

thường phải dân chủ khách quan, tức là phải đảm bảo khi người dân bị thu hồi đất

mà có các đủ điều kiện nhận bồi thường, họ phải được bồi thường. Đây là quyền

liên quan tới lợi ích chính đáng mà không một ai hay tổ chức cá nhân nào không

cho họ thực hiện. Điều 88 đã quy định cụ thể các Nguyên tắc bồi thường thiệt hại về

tài sản sản xuất, kinh doanh khi Nhà nước thu hồi đất, đó là: “Khi Nhà nước thu hồi

đất mà chủ sở hữu tài sản hợp pháp gắn liền với đất bị thiệt hại về tài sản thì được

bồi thường” và “khi Nhà nước thu hồi đất mà tổ chức, hộ gia đình, cá nhân, người

Việt Nam định cư ở nước ngoài, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài phải

ngừng sản xuất, kinh doanh mà có thiệt hại thì được bồi thường thiệt hại”.

Có thể nói, đây là một điểm mới và có sự tiến bộ vượt bậc của luật đất đai

2013 khi đã bắt đầu xem xét bồi thường về đất không chỉ với tư cách là tài sản mà

còn là tài nguyên và tư liệu sản xuất. Trên thực tế, ngoài ý nghĩa là tài sản, đất đai

còn là tài nguyên thiên nhiên, tư liệu sản xuất và nguồn sống của con người. Vì đất

là tư liệu sản xuất của người bị thu hồi đất nên nhà đầu tư ngoài việc bồi thường giá

trị như một tài sản còn phải bồi thường về thu nhập, sinh kế cho người mất đất. Nếu

chỉ là khoản hỗ trợ trong một thời gian nhất định thì coi như đã phó mặc việc tìm

sinh kế mới cho người mất đất. Do đó, thay vì phó mặc gánh nặng hỗ trợ đào tạo

nghề đối với người mất đất cho Nhà nước, nhà đầu tư cần phải được yêu cầu cùng

bàn bạc với người mất đất về cơ hội tìm sinh kế mới cho họ; đồng thời, nhà đầu tư

phải chi trả cho người mất đất một khoản tiền tương ứng với mức thu từ sử dụng đất trước đây cho tới khi người bị mất đất có nguồn thu nhập mới và theo nguyên tắc, càng để lâu, chi phí bồi thường càng lớn để bắt buộc nhà đầu tư không thể trì hoãn. Theo nguyên tắc này, nhà đầu tư cần nghiên cứu rất kỹ lưỡng đất đai trong bài toán

đầu tư để chi phí ít nhất, chính quyền địa phương cũng khó đánh đổi mọi giá cho sự phát triển, như vậy chắc chắn sẽ giảm được tham nhũng từ đất đai và bảo vệ được nguồn lực đất đai.

1.1.4.2. Nguyên tắc hỗ trợ, tái định cư .

Đây cũng được coi là một điểm mới của Luật Đất đai năm 2013. Khoản 1,

Điều 83 quy định về nguyên tắc hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất. Cụ thể như sau:

15

Về nguyên tắc hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất:

a) Người sử dụng đất khi Nhà nước thu hồi đất ngoài việc được bồi thường

theo quy định của Luật này còn được Nhà nước xem xét hỗ trợ;

b) Việc hỗ trợ phải bảo đảm khách quan, công bằng, kịp thời, công khai và

đúng quy định của pháp luật.”

Thứ nhất, quy định về hỗ trợ đào tạo, chuyển đổi nghề và tìm kiếm việc làm

cho hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp khi Nhà nước thu hồi đất

nông nghiệp mà không có đất nông nghiệp để bồi thường.

Thứ hai, quy định về hỗ trợ đào tạo, chuyển đổi nghề và tìm kiếm việc làm

cho hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất ở kết hợp kinh doanh, dịch vụ mà nguồn thu

nhập chính từ hoạt động kinh doanh dịch vụ khi Nhà nước thu hồi đất ở mà phải di

chuyển chổ ở.

Thứ ba, một trong các hình thức hỗ trợ là hỗ trợ về chỗ ở, tái định cư. Nhằm

khắc phục tình trạng một số khu vực tái định cư chất lượng còn thấp, không đồng

bộ về cơ sở hạ tầng, chưa đảm bảo tiêu chí có điều kiện phát triển bằng hoặc tố hơn

nơi ở cũ. Nhiều địa phương chưa lập khu tái định cư chung cho các dự án tại địa

bàn nên nhiều dự án chưa có khu tái định cư đã thực hiện thu hồi đất ở, thậm chí có

những dự án mà người có đất bị thu hồi phải đi thuê nhà để ở nhiều năm mà vẫn

chưa được bồ trí vào khu tái định cư, Luật Đất đai năm 2013 đã quy định về lập và

thực hiện dự án tái định cư, bố trí tái định cư cho người bị thu hồi đất ở mà phải di

chuyển chỗ ở.

Luật đất đai 2013 đã thể hiện tính dân chủ, công bằng, kịp thời, công khai và đúng quy định của pháp luật: Ở cả trong nguyên tắc về bồi thường cũng như hỗ trợ

khi nhà nước thu hồi đất đều đề cập tới tính bảo đảm khách quan, công bằng, kịp

thời, công khai minh bạch, dân chủ, đúng pháp luật. Đây là một đòi hỏi khách quan trong quá trình thực thi các quy định của pháp luật về bồi thường hỗ trợ tái định cư khi nhà nước thu hồi đất, vừa là cơ chế để kiểm soát hoạt động này. Bởi tất cả nội dung, phạm vi, giới hạn, trình tự, thủ tục…bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất đều do pháp luật quy định.

16

1.2. Lịch sử hình thành và phát triển của pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái

định cư khi nhà nước thu hồi đất

1.2.1. Giai đoạn sau năm 1975 đến trước khi ra đời Luật đất đai năm 1993.

Trên cơ sở Hiến pháp năm 1980 quy định đất đai thuộc sở hữu toàn dân, do

Nhà nước thống nhất quản lý. Vì vậy, việc thực hiện đền bù về đất không được thực

hiện mà chỉ thực hiện đền bù về tài sản gắn liền với đất hoặc những thiệt hại do việc

thu hồi đất gây nên. Ngày 01/7/1980 Hội đồng Chính phủ ra Quyết định số 201/CP

về việc: Không được phát canh thu tô, cho thuê, cầm cố hoặc bán nhượng đất với

bất kỳ hình thức nào, không được dùng để thu những khoản lợi nhuận không do thu

nhập mà có, trừ trường hợp do Nhà nước quy định”. Quan hệ đất đai thời kỳ này

đơn thuần chỉ là quan hệ “giao-thu” giữa Nhà nước và người sử dụng. Ngày

31/5/1990, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Nghị định 186/HĐBT về việc đền bù thiệt

hại đất Nông nghiệp, đất có rừng khi chuyển sang mục đích khác phải đền bù thiệt

hại về đất nông nghiệp, đất có rừng cho Nhà nước. Tiền bồi thường tài sản trên mặt

đất và tài sản trong lòng đất cho chủ sử dụng không phụ thuộc vào các khoản đền

bù về đất. Khung giá đền bù thiệt hại do Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố, đặc khu

trực thuộc trung ương quy định cụ thể. Mức bồi thường đối với quận, huyện, thành

phố thuộc tỉnh sát với giá đất địa phương, nhưng không được thấp hơn hoặc cao hơn

giá quy định của Chính phủ.

1.2.2. Giai đoạn sau khi ban hành Luật đất đai 1993 đến khi Luật đất đai 2003 có

hiệu lực.

Luật Đất đai năm 1993 có hiệu lực từ ngày 15/10/1993 thay thế cho Luật Đất

đai năm 1988. Đây là văn bản pháp luật quan trọng nhất đối với việc thu hồi đất và

bồi thường thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất. Tại Điều 27 quy định: “Trong trường

hợp thật cần thiết, Nhà nước thu hồi đất sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng thì người thu hồi đất được đền bù thiệt hại”.

Hiến pháp 1992 ra đời thay thế Hiến pháp năm 1980 đã quy định: “Nhà

nước phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự

quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa”. Điều 18 Hiến pháp năm

1992 quy định: “Các tổ chức và cá nhân được Nhà nước giao đất sử dụng lâu dài và

được chuyển nhượng quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật”. Luật Đất đai

17

được Quốc hội thông qua ngày 26/11/2003, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2004.

Luật Đất đai ra đời với những quy định tiến bộ, phù hợp có ý nghĩa cũng như tác

động quan trọng đến đời sống xã hội, góp phần phát triển kinh tế xã hội, nâng cao

hiệu lực quản lý đất đai, khuyến khích việc sử dụng hợp lý và có hiệu quả nguồn lực

đất đai. Mặt khác, những quy định tại Luật Đất đai năm 2003 có ý nghĩa đặc biệt

quan trọng trong việc bảo vệ các quyền của người sử dụng đất. Có thể nói, Luật đất

đai năm 1993 đã những quy định vượt bậc và hết sức phù hợp với thực tế đối với

chính sách thu hồi đất và đền bù thiệt hại cho người có đất bị thu hồi. Luật đất đai

năm 1993 đã quy định rõ hơn về quyền của người được giao đất bao gồm: quyền

chuyển đổi, chuyển nhượng, thừa kế, cho thuê, thế chấp. Đồng thời, Chính phủ quy

định khung giá cho từng loại đất, từng vùng và theo thời gian. Sau khi Luật đất đai

1993 có hiệu lực, Chính phủ ban hành Nghị định số 90/CP-NĐ ngày 17/8/1994 để

cụ thể hóa chính sách bồi thường. Tuy nhiên, có thể nói chính sách bồi thường của

Nghị định này vẫn còn rất nhiều hạn chế như: Chưa bù đắp được một cách đầy đủ

những thiệt hại gây ra từ việc thu hồi đất, chỉ bồi thường thiệt hại từ đất và bồi

thường thiệt hại về tài sản cho nên người bị thu hồi đất gặp nhiều khó khăn, không

đủ khả năng tái tại lại cuộc sống so với trước khi bị thu hồi. Hơn nữa, quyền và

nghĩa vụ của họ chưa được quan tâm một cách đầy đủ. Đến năm 1998, Chính phủ

ban hành Nghị định số 22/1998 ngày 24/4/1998 để thay thế Nghị định 90/CP, chính

sách bồi thường đã thay đổi và có sự mở rộng phạm vi bồi thường để bù đắp một

phần nào đó cho người bị thu hồi đất nhưng vẫn chưa bảo đảm hết thiệt hại. Đặc

biệt, với sự ra đời của Luật đất đai năm 2003, đã khắc phục được những thiếu sót và

bất cập trong công tác bồi thường. Trong đó có những quy định cụ thể về việc tính

bồi thường về đất, điều kiện nơi tái định cư đối với các trường hợp được áp dụng cơ

chế chuyển đổi đất đai bắt buộc. Trong thời gian này, Nhà nước ban hành rất nhiều

các văn bản dưới Luật như: Nghị định, Thông tư và các văn bản pháp quy khác về

quản lý đất đai nhằm cụ thể hóa các điều luật, trong đó có những quy định chi tiết

về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất để giải phóng mặt bằng.

Nghị định 69/2009/NĐ-CP quy định cụ thể về quy hoạch sử dụng đất, giá đất, bồi thường bỗ trợ , tái định cư; trình tự, thủ tục thu hồi đất, giao đất và cho thuê

18

đất; phát triển quỹ đất, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, sử dụng đất công

trình ngầm và gia hạn sử dụng đất. Nghị định đã góp phần giải quyết nhiều khó

khăn, vướng mắc trong quản lý, sử dụng đất đai. Với nhiều thay đổi tích cực và

thông thoáng về các quy trình thủ tục trong các khâu như: Quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất.

1.2.3. Pháp luật về Bồi thường khi nhà nước khi thu hồi đất quy định theo Hiến

pháp 2013 và Luật Đất đai năm 2013.

Đất đai là vấn đề lớn, phức tạp và rất nhạy cảm, tác động trực tiếp đến kinh

tế, chính trị, xã hội, sự ổn định và phát triển của đất nước. Sau 10 năm thi hành Luật

Đất đai 2003 đã góp phần tích cực vào sự phát triển kinh tế, giữ vững ổn định chính

trị, đảm bảo an sinh xã hội; đã thu hẹp sự phân biệt giữa nhà đầu tư trong nước và

nước ngoài trong việc tiếp cận đất đai; khắc phục những bất cập về bồi thường, hỗ

trợ khi Nhà nước thu hồi đất; đổi mới công tác giải quyết tranh chấp, khiếu nại về

đất đai.đã góp phần quan trọng vào sự nghiệp công hóa, hiện đại hóa đất nước.

Tuy nhiên, trước biến động không ngừng của nền kinh tế, đặc biệt là các giao

dịch bất động sản đã bộc lộ dần những hạn chế, trong đó có quyền sử dụng đất còn

bộc lộ những yếu kém, không ổn định, phát triển thiếu lành mạnh, giao dịch “ngầm”

khá phổ biến Những bất cập của Luật Đất đai năm 2003 biểu hiện ở một số nội

dung cơ bản sau:

Thứ nhất: Các quy định của pháp luật chưa làm rõ cơ chế thực hiện các

quyền định đoạt của Nhà nước với vai trò là đại diện chủ sở hữu đất đai, chưa giải

quyết hài hòa về lợi ích giữa Nhà nước, người sử dụng đất và nhà đầu tư. Quyền và

nghĩa vụ của người sử dụng đất chưa được quy định đầy đủ, nhất là điều kiện thực

hiện các quyền.

Thứ hai: Các quy định về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu

hồi đất thường xuyên thay đổi đã dẫn tới tình trạng bị so bì, khiếu nại của người có

đất bị thu hồi qua các dự án hoặc trong một dự án nhưng thực hiện thu hồi đất qua

nhiều năm, mặt khác giá đất bồi thường chủ yếu thực hiện theo khung giá nhà nước

quy định nên còn thấp so với giá đất thị trường, điều này dẫn đến những phản ứng

gay gắt của người sử dụng đất.

19

Thứ ba: Các quy định của pháp luật chưa làm rõ cơ chế thực hiện các quyền

định đoạt của Nhà nước với vai trò là đại diện chủ sở hữu đất đai, chưa giải quyết

hài hòa về lợi ích giữa Nhà nước, người sử dụng đất và nhà đầu tư. Quyền và nghĩa

vụ của người sử dụng đất chưa được quy định đầy đủ, nhất là điều kiện thực hiện

các quyền.

Thứ tư: Việc thực hiện cơ chế tự thỏa thuận đã tạo điều kiện cho nhà đầu tư

chủ động quỹ đất thực hiện dự án, rút ngắn thời gian giải phóng mặt bằng, đồng thời

giảm tải công việc cho các cơ quan nhà nước trong việc thu hồi đất. Tuy nhiên, đã

tạo ra sự chênh lệch lớn về giá đất so với dự án do Nhà nước thu hồi trong cùng khu

vực, hơn nữa, có nhiều dự án, người bị thu hồi đất đòi hỏi giá đất cao hơn, không

hợp tác với nhà đầu tư, khiến dự án bị chậm tiến độ do đó rất khó hoàn thành việc

giải phóng mặt bằng (27, tr.66).

Thứ năm: Việc chuẩn bị phương án bồi thường, hỗ trợ chưa được các cấp

chính quyền quan tâm đúng mức, nhất là phương án giải quyết việc làm cho người

nông dân bị thu hồi đất nông nghiệp, chưa có một chế tài đủ mạnh khiến cho các

chủ đầu tư phải có ý thức trách nhiệm trong việc sắp xếp việc làm cho người bị thu

hồi đất. Nhằm đảm bảo tốt hơn quyền và lợi ích hợp pháp cho người bị thu hồi đất,

khắc phục bất cập và điều tiết một cách hài hòa lợi ích giữa Nhà nước, người sử

dụng đất và nhà đầu tư, đồng thời nhằm giảm khiếu kiện trong bồi thường, giải

phóng mặt bằng, Luật Đất đai năm 2013 có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/7/2014

vừa tiếp tục kế thừa, luật hóa những quy định còn phù hợp của pháp luật đất đai

năm 2003, nhưng đồng thời sửa đổi, bổ sung một số quy định mới nhằm tháo gỡ

những hạn chế, bất cập, đưa chính sách về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư đi vào

cuộc sống. Quy định cụ thể về bồi thường chi phí đầu tư vào đất còn lại (Điều 76),

cho một số trường hợp không được bồi thường về đất. Đối vớinhững trường hợp

được bồi thường chi phí đầu tư vào đất còn lại khi Nhà nước thu hồi đất bao gồm:

Đất được Nhà nước giao không thu tiền sử dụng đất, trừ trường hợp đất nông

nghiệp được Nhà nước giao cho hộ gia đình, cá nhân quy định tại khoản 1 Điều 54

của Luật này; đất được Nhà nước giao cho tổ chức thuộc trường hợp có thu tiền sử

dụng đất nhưng được miễn tiền sử dụng đất; đất được Nhà nước cho thuê trả tiền

20

thuê đất hàng năm; đất thuê trả tiền thuê đất một lần cho cả thời gian thuê nhưng

được miễn tiền thuê đất, trừ trường hợp hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất thuê do

thực hiện chính sách đối với người có công với cách mạng; đất nông nghiệp thuộc

quỹ đất công ích của xã, phường, thị trấn; đất nhận khoán để sản xuất nông lâm

nghiệp, nuôi trồng thủy sản, làm muối. Luật đất đai năm 2013 cũng đã bổ sung quy

định về việc bồi thường, hỗ trợ, tái định cư đối với các trường hợp đặc biệt (Điều

87). Bổ sung trường hợp thu hồi đất ở trong khu vực bị ô nhiễm môi trường có nguy

cơ đe dọa tính mạng con người, đất ở có nguy cơ sạt lở, sụt lún, bị ảnh hưởng bởi

hiện tượng thiên tai khác đe dọa tính mạng con người thì người có đất thu hồi được

bồi thường, hỗ trợ, tái định cư để ổn định đời sống, sản xuất theo quy định của

Chính phủ. Đối với dự án đầu tư do Quốc hội quyết định chủ trương đầu tư, Thủ

tướng Chính phủ chấp thuận chủ trương đầu tư mà phải di chuyển cả cộng đồng dân

cư, làm ảnh hưởng đến toàn bộ đời sống, kinh tế - xã hội, truyền thống văn hóa của

cộng đồng, các dự án thu hồi đất liên quan đến nhiều tỉnh, thành phố trực thuộc

trung ương thì Thủ tướng Chính phủ quyết định khung chính sách bồi thường, hỗ

trợ, tái định cư. Đối với dự án sử dụng vốn vay của các tổ chức quốc tế, nước ngoài

mà Nhà nước Việt Nam có cam kết về khung chính sách bồi thường, hỗ trợ, tái định

cư thì thực hiện theo khung chính sách đó. Nhằm hướng dẫn thi hành những quy

định của Luật Đất đai năm 2013 liên quan đến vấn đề bồi thường, hỗ trợ, tái định cư

khi Nhà nước thu hồi đất, ngày 15/5/2014 Chính phủ đã ban hành Nghị định số

47/2014/NĐ-CP “Quy định về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi

đất” (thay thế Nghị định số 197/2004/NĐ-CP); cũng trong ngày 15/5/2014 Chính

phủ đã ban hành Nghị định số 44/2014/NĐ-CP “Quy định về giá đất” (thay thế

Nghị định số 188/2004/NĐ-CP; Nghị định 123/2007/NĐ-CP…). Đây là những cơ

sở pháp lý quan trọng để thực hiện việc bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước

thu hồi đất trong thời gian tới.

21

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ BÒI THƯỜNG,

HỖ TRỢ, TÁI ĐỊNH CƯ KHI NHÀ NƯỚC THU HÒI ĐẤT CHO DỰ ÁN

CẢI TẠO, NÂNG CẤP QUỐC LỘ 18A TẠI THÀNH PHỐ UÔNG BÍ

2.1. Khái quát về dự án cải tạo, nâng cấp quốc lộ 18A tại thành phố Uông Bí

2.1.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội của thành phố Uông Bí

2.1.1.1. Điều kiện tự nhiên

a. Vị trí địa lý

Thành phố Uông Bí nằm ở phía Tây Nam của tỉnh Quảng Ninh cách thành

phố Hạ Long 45 km, cách Hà Nội 120 km, cách Hải Phòng 30 km. Tổng diện tích

tự nhiên là 25546,40 ha chiếm 4,03% tổng diện tích tự nhiên của tỉnh Quảng Ninh.

Vị trí địa lý của Uông Bí nằm trong khoảng từ 21000’ đến 21010’ Vĩ độ Bắc và từ

106040’đến 106052’ kinh độ Đông:

- Phía Bắc giáp huyện Sơn Động - tỉnh Bắc Giang;

- Phía Nam giáp Thị xã Quảng Yên và thành phố Hải Phòng;

- Phía Đông giáp huyện Hoành Bồ;

- Phía Tây giáp huyện Đông Triều.

Thành phố Uông Bí nằm cách không xa hai khu trung tâm kinh tế lớn Hải

Phòng và Hạ Long, có đường Quốc lộ 18, đường Quốc lộ 10 và tuyến đường sắt Hà

Nội - Kép - Bãi Cháy chạy qua đã tạo cho Uông Bí một vị trí thuận lợi trong giao

lưu kinh tế - văn hoá - xã hội, thu hút vốn đầu tư trong nước và nước ngoài. Uông

Bí là một trong những địa bàn quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội

của tỉnh Quảng Ninh.

Với vị trí và những lợi thế, Uông Bí có điều kiện phát triển nhanh kinh tế -

xã hội, thực hiện đô thị hoá, công nghiệp hoá, hiện đại hoá trở thành động lực quan

trọng thúc đẩy phát triển các vùng xung quanh và tỉnh Quảng Ninh trong tam giác

phát triển kinh tế Bắc Bộ là Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh.

22

Sơ đồ 2.1: Bản đồ Hành chính thành phố Uông Bí

(Nguồn: Phòng Tài nguyên và Môi trường thành phố)

b. Khí hậu, thủy văn

Do vị trí địa lý và địa hình nằm trong cánh cung Đông Triều - Móng Cái, có

nhiều dãy núi cao ở phía Bắc và thấp dần xuống phía Nam đã tạo cho Uông Bí một

chế độ khí hậu đa dạng, phức tạp vừa mang tính chất khí hậu miền núi vừa mang

tính chất khí hậu miền duyên hải.

Dãy núi Bình Hương với độ cao 384 - 358 m nằm giữa vùng núi Yên Tử và

23

núi Bảo Đài đã tạo nên dải thung lũng dài, hẹp và vùng đất thấp làm cho khí hậu

Uông Bí phân thành nhiều tiểu vùng khác nhau: vùng núi cao phía Bắc đường 18B

có khí hậu miền núi lạnh và mưa vừa; vùng núi cao dọc đường 18B có khí hậu

thung lũng, ít mưa, mùa hè nóng, mùa đông lạnh; vùng núi nằm giữa phía Nam

đường 18B và phía Bắc đường 18 kéo dài đến hạ lưu sông Đá Bạc có tích chất khí

hậu miền duyên hải.

Hệ thống sông suối của Thành phố phần lớn là các sông nhỏ, diện tích lưu

vực hẹp, nguồn nước và lưu lượng không lớn. Sông lớn nhất và có ảnh hưởng mạnh

tới chế độ thuỷ văn của Thành phố là sông Đá Bạc, đoạn chảy qua Thành phố

(thuộc địa phận các xã, phường Phương Nam, Phương Đông, Yên Thanh và Quang

Trung) có chiều dài 12 km, rộng trung bình 400 m, độ sâu lúc thủy triều lên đảm

bảo cho tàu 5.000 tấn và xà lan 400 - 500 tấn ra vào cảng; là đường thủy liên tỉnh,

tàu bè và thuyền lớn có thể đi lại vận chuyển vật tư, hàng hóa đi Hải Dương, Hải

Phòng và ngược lại.

Ngoài sông Đá Bạc, Thành phố còn có các con sông khác như Vàng Danh,

sông Uông và sông Sinh. Sông Vàng Danh là thượng nguồn của sông Uông, là

nguồn cung cấp nước chủ yếu cho Uông Bí. Sông Uông được tiếp nối từ sông Vàng

Danh, kết thúc ở phần đất phường Quang Trung, là ranh giới giữa vùng nước ngọt

và nước mặn, có đập tràn để lấy nước làm mát nhà máy điện Uông Bí. Sông Sinh

bắt nguồn từ vùng núi phía tây bắc Uông Bí chảy qua trung tâm Thành phố (giữa

phường Yên Thanh và phường Quang Trung), cắt trục đường 18 với chiều dài 15

km, sông này có khả năng cung cấp nước cho sản xuất nông nghiệp. Các sông đều

xuất phát từ các dãy núi cao chảy qua Thành phố và đổ vào sông Đá Bạc.

c. Tài nguyên đất.

Uông Bí có diện tích đất tự nhiên là 25546,40 ha; trong đó 4420,56 ha là

diện tích đất sản xuất nông nghiệp, bằng 17,30% diện tích đất tự nhiên; 13554,58 ha

là diện tích đất lâm nghiệp, bằng 53,66% diện tích đất tự nhiên; 4965,17 ha là diện

tích đất ở, đất chuyên dùng, bằng 19,44% diện tích đất tự nhiên; 1020,75 ha là diện

tích đất chưa sử dụng, bằng 3,99% diện tích đất tự nhiên; còn lại đất nuôi trồng thủy

24

sản và đất nông nghiệp khác.

Bảng 2.1: Bảng hiện trạng sử dụng đất tại thành phố Uông Bí

Cơ cấu diện tích Tổng diện loại đất so với tổng STT LOẠI ĐẤT Mã

tích các loại đất diện tích trong đơn vị hành chính

(1) (2) (3) (4) (5)

Tổng diện tích đất tự nhiên 25546,40 100,00 (1+2+3)

NNP 1 Nhóm đất nông nghiệp 19560,49 76,57

SXN 1.1 Đất sản xuất nông nghiệp 4420,56 17,30

CHN 1.1.1 Đất trồng cây hàng năm 1985,72 7,77

CLN 1.1.2 Đất trồng cây lâu năm 2434,84 9,53

LNP 1.2 Đất lâm nghiệp 13554,58 53,06

RSX 1.2.1 Đất rừng sản xuất 9671,41 37,86

RPH 1.2.2 Đất rừng phòng hộ 1494,18 5,85

RDD 1.2.3 Đất rừng đặc dụng 2389,00 9,35

NTS 1.3 Đất nuôi trồng thuỷ sản 1570,29 6,15

LMU 1.4 Đất làm muối

NKH 1.5 Đất nông nghiệp khác 15,05 0,06

PNN 2 Nhóm đất phi nông nghiệp 4965,17 19,44

OCT 2.1 Đất ở 545,73 2,14

ONT 2.1.1 Đất ở tại nông thôn 51,45 0,20

ODT 2.1.2 Đất ở tại đô thị 494,28 1,93

CDG 2.2 Đất chuyên dùng 2911,19 11,40

TON 2.3 Đất cơ sở tôn giáo 37,90 0,15

TIN 2.4 Đất cơ sở tín ngưỡng 0,57

NTD 2.5 Đất nghĩa trang, nghĩa địa 47,86 0,19

2.6 Đất sông, ngòi, kênh, rạch, suối SON 1201,24 4,70

2.7 Đất có mặt nước chuyên dùng MNC 219,78 0,86

2.8 Đất phi nông nghiệp khác PNK 0,89

25

Cơ cấu diện tích Tổng diện loại đất so với tổng STT LOẠI ĐẤT Mã tích các loại diện tích trong đơn đất vị hành chính

(4) (5) (1) (2) (3)

1020,75 3,99 3 Nhóm đất chưa sử dụng CSD

402,99 1,58 3.1 Đất bằng chưa sử dụng BCS

437,92 1,71 3.2 Đất đồi núi chưa sử dụng DCS

179,83 0,70 3.3 Núi đá không có rừng cây NCS

2.1.1.1. Tình hình phát triển kinh tế - xã hội thành phố Uông Bí

(Nguồn: Phòng Tài nguyên và Môi trường thành phố Uông Bí năm 2017)

a. Tình hình dân số - lao động

Hiện trạng dân số:Theo báo cáo điều tra dân số tại Phòng thống kê

Thành phố Uông Bí đến năm 2017, toàn thành phố có 123.601 người (trong đó

nam có 64.288 người chiếm 52%, nữ có 59.314 người chiếm 48%) và tiếp tục

gia tăng trong năm 2018.

Thành phố có 11 đơn vị hành chính gồm 09 phường, 2 xã; 101 thôn, khu;

gồm 5 dân tộc là: Kinh, Dao, Tày, Sán Dìu, Hoa. Mật độ dân số của thành phố

Uông Bí năm 2016 là 484 người/km2.

26

Bảng 2.1: Tình hình dân số thành phố Uông Bí

Đơn vị tính: Người

Phân theo giới tính Phân theo thành thị, nông thôn Tiêu chí Tổng số

Nam Nữ Thành thị Nông thôn

I. Dân số (Người)

2015 2016 2017 118.328 120.933 123.602 61.249 62.703 64.288 57.079 58.230 59.314 110.531 113.110 115.625 7.797 7.823 7.977

II. Tốc độ tăng (%)

2015 2016 2017 102,2 102,2 102,2 102,5 102,0 101,9 102,2 102,3 102,2 102,2 100,3 102,0

102,0 102,4 102,5

(Nguồn: Phòng Thống kê thành phố năm 2015-2017)

Nghiên cứu bảng trên ta thấy tỉ lệ dân số qua các năm và ở hai khu vực thành

thị và nông thôn không biến động nhiều.

Hiện trạng nguồn nhân lực: Trong giai đoạn 2015 - 2017, lực lượng lao động

của thành phố Uông Bí tăng bình quân 2%/năm. Năm 2017, lực lượng lao động thành

phố có gần 77.000 người. Xét về cơ cấu, giai đoạn 2015 - 2017 lực lượng lao động

công nghiệp, xây dựng; lao động thương mại - dịch vụ tăng, trong khi đó, lao động hoạt

động trong lĩnh vực Nông - Lâm - Ngư nghiệp giảm, điều này hoàn toàn phù hợp với

xu hướng phát triển chung của thành phố.

Bảng 2.1: Bảng Cơ cấu lao động trong độ tuổi của thành phố Uông Bí

Giới tính (người) Năm

Nữ

2015 2016 2017 Trong tuổi lao động (người) Nam 36.955 39.174 42.092 Nam 61.249 57.079 62.703 58.230 64.288 59.314 19.285 18.520 17.868 Cơ cấu lao động (%) NLN nghiệp CN-XD DVTM 15.375 15.835 17.109 28.420 29.845 31.330

Nữ 32.533 33.949 34.845 (Nguồn: Phòng Thống kê thành phố năm 2015-2017)

b. Tình hình tăng trưởng kinh tế và cơ cấu kinh tế

27

Trong những năm qua, thành phố Uông Bí đã có tốc độ tăng trưởng kinh tế

cao, bền vững; đời sống nhân dân được cải thiện đáng kể cả về vật chất lẫn tinh

thần.

Trong giai đoạn từ năm 2015-2017, tốc độ tăng trường kinh tế bình quân 5

năm của Thành phố Uông Bí đạt 12%, các ngành kinh tế trọng điểm như công nghiệp

(khai thác than, sản xuất vật liệu xây dựng, nhiệt điện, xi măng, cơ khí, chế tạo…),

dịch vụ thương mại, du lịch có bước phát triển về quy mô, chất lượng, hiệu quả. Cơ

cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực, tỷ trọng khu vực I (nông lâm ngư

nghiệp), khu vực II (công nghiệp-xây dựng) giảm dần từ 11% năm 2015 xuống

7,54% năm 2017, công nghiệp - xây dựng giảm dần từ 53,97% xuống còn 51,51%

năm 2017. Tỷ trọng khu vực III (dịch vụ-du lịch-thương mại) tăng từ 35,03% năm

2015 lên 40,95% năm 2017. Các ngành dịch vụ, du lịch, thương mại của thành phố có

bước phát triển mạnh, đa dạng, đạt mức tăng trưởng khá, giá trị kinh doanh dịch vụ,

thương mại, du lịch tăng trưởng bình quân là 21,2% .

c. Tình hình phát triển một số ngành, lĩnh vực chủ yếu

- Về thương mại, dịch vụ, du lịch:

+ Thương mại - dịch vụ: các ngành dịch vụ, thương mại trên địa bàn phát

triển đa dạng, tốc độ cao. Hàng năm Thành phố đều tổ chức tốt hội chợ thương mại

quốc tế Uông Bí; mức lưu chuyển hàng hoá tăng 15% năm.

+ Du lịch: Thành phố tập trung đầu tư phát triển 2 loại hình: du lịch tâm linh

và du lịch sinh thái tại Yên Tử, Ba Vàng, Hang Son, Lựng Xanh và Hồ Yên trung.

Lượng khách tham quan du lịch về Uông Bí tăng nhanh từ 1,7 triệu lượt khách năm

2014 lên 2,56 triệu lượt khách năm 2016.

+ Tài chính: Các lĩnh vực tài chính, ngân hàng, bảo hiểm phát triển nhanh về

số lượng mạng lưới, đa dạng về loại hình phục vụ tốt sự phát triển của các ngành

kinh tế tại địa phương. Đến nay, trên địa bàn Thành phố đã có 19 ngân hàng thương

mại.

- Công nghiệp, xây dựng:

28

Trên địa bàn Thành phố có trên 421 doanh nghiệp Trung ương và địa

phương. Sản xuất kinh doanh cơ bản ổn định, duy trì tốc độ tăng trưởng khá.

Giá trị sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp hàng năm tăng trên

10%/năm.

- Nông, lâm, thủy sản:Thành phố đã xây dựng quy hoạch 07 vùng sản xuất

nông nghiệp tập trung, cho 5 sản phẩm nông nghiệp được cấp chứng nhận thương

hiệu: vải chín sớm Phương Nam, Thanh long ruột đỏ, Mai vàng Yên Tử, nhựa thông, rượu mơ Yên Tử, ngoài ra còn có vùng nuôi trồng thủy sản, vùng sản xuất

hoa cao cấp và rau an toàn. Từ đó tạo ra nhiều thuận lợi cho việc quảng bá sản

phẩm, mở rộng thị trường tiêu thụ; tích cực ứng dụng, chuyển giao tiến bộ kỹ thuật

về giống, chăm sóc, nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm. Ngành lâm nghiệp chiếm 10,0% trong cơ cấu giá trị sản xuất nông - lâm - ngư nghiệp. Ngành Nuôi

trồng thuỷ sảnsản chiếm 9,5% trong cơ cấu ngành nông nghiệp, sử dụng 1570,29 ha

mặt nước.

2.1.2. Khái quát về dự án cải tạo nâng cấp quốc lộ 18A tại thành phố Uông Bí

Quốc lộ 18A đoạn Uông Bí được nâng cấp đầu tư, mở rộng từ những năm

1997-2004 theo tiêu chuẩn đường cấp III đồng bằng 2 làn xe với bề rộng nền đường

Bn=12m, Bm =11m; đoạn đầu tuyến từ ngã 3 cầu Sến tới ngã 3 Biểu Nghi là đường

nội thị của Uông Bí . Hiện tại, do lưu lượng các phương tiện tham gia giao thông đi

qua tuyến đường Uông Bí ngày càng cao, đặc biệt trong mùa du lịch, gây ùn tắc

giao thông trên đoạn tuyến này. Do vậy việc đầu tư,cải tạo, nâng cấp Quốc lộ 18A

đoạn Thành phố Uông Bí là rất cần thiết. Dự án cải tạo, nâng cấp Quốc lộ theo được

triển khai trên phạm vi các địa phương trong đó có Thành phố Uông Bí, tổng chiều

dài đoạn tuyến 2.96km. Dự án do Chính phủ giao cho Công ty cổ phần phát triển

Đại Dương làm chủ đầu tư được vay từ vốn ODA của Nhật Bản. Theo phương án

thiết kế của chủ đầu tư, phạm vi của dự án có điểm đầu từ ngã ba giao Quốc lộ 18

với Quốc lộ 10, Thành phố Uông Bí (KM77+262.60m- QL 18); toàn tuyến sẽ được

đầu tư xây dựng theo tiêu chuẩn đường cấp 2 đồng bằng, 4 làn xe.

29

2.2. Thực tiễn áp dụng pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà

nước thu hồi đất cho dự án cải, nâng cấp quốc lộ 18A tại địa bàn thành phố

Uông Bí từ năm 2015 đến hết năm 2017.

2.2.1. Bồi thường về đất

2.2.1.1. Điều kiện dược bồi thường

Trong trường hợp Nhà nước thu hồi đất, người có đất bị thu hồi được bồi

thường khi thỏa mãn đồng thời ba nhóm điều kiện sau: (i) lý do thu hồi đất; (ii)

người bị thu hồi đất phải có căn cứ chứng minh quyền sử dụng đất bị thu hồi thuộc

quyền sử dụng hợp pháp của mình; (iii) nguồn gốc sử dụng đất phải thuộc các

trường hợp được bồi thường. Trong từng nhóm có những điều kiện khác nhau mà

người sử dụng đất chỉ cần đáp ứng một trong các điều kiện đó là đủ điều kiện được

bồi thường.

Thứ nhất, về lý do thu hồi đất. Theo quy định của Luật Đất đai 2003, có tất

cả 12 trường hợp thu hồi đất cụ thể (14, Đ 38). Các trường hợp này có thể phân

thành các nhóm sau: (i) Nhà nước thu hồi đất để sử dụng cho chính nhu cầu sử dụng

đất của Nhà nước trong các trường hợp: Nhà nước sử dụng đất vào mục đích quốc

phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng; Nhà nước thu hồi đất vì mục

đích phát triển kinh tế. (ii) Nhà nước thu hồi đất khi người sử dụng đất không có

nhu cầu, khả năng tiếp tục sử dụng đất. (iii) Nhà nước thu hồi đất khi hết thời hạn

sử dụng đất mà không được gia hạn. (iv) Nhà nước thu hồi đất khi người sử dụng

đất có hành vi vi phạm pháp luật đất đai. (14, Đ 38) Mặc dù Nhà nước có quyền thu

hồi đất trong nhiều trường hợp khác nhau nhưng không phải tất cả các trường hợp

thu hồi đất nêu trên Nhà nước đều phải bồi thường cho người sử dụng đất mà theo

quy định của Luật Đất đai 2003 Nhà nước chỉ bồi thường khi thu hồi đất để sử dụng

cho chính nhu cầu sử dụng đất của Nhà nước thuộc nhóm (i) vừa nêu trên. Vì tại

thời điểm thực hiện hoạt động thu hồi đất thì giữa Nhà nước và người sử dụng đất

còn tồn tại mối quan hệ liên quan đến quyền sử dụng đất trong đó người bị thu hồi

đất đã bỏ ra một khoản tiền để có được quyền sử dụng đất hoặc tuy họ không bỏ ra

khoản tiền nào nhưng được Nhà nước ưu đãi về tài chính như trường hợp giao đất

không thu tiền sử dụng đất. Như vậy, quyền sử dụng đất được xem như là một

30

quyền tài sản của người sử dụng đất nên Nhà nước phải bồi thường khi thu hồi đất.

Ngoài ra trong trường hợp này người bị thu hồi đất cũng không vi phạm pháp luật

đất đai. Đối với các trường hợp thu hồi đất khác, Nhà nước không có nghĩa vụ phải

bồi thường vì hoạt động thu hồi đất trong những trường hợp này xuất phát từ chính

bản thân người sử dụng đất, như người sử dụng đất không còn khả năng tiếp tục sử

dụng đất trong trường hợp tổ chức bị giải thể, phá sản, người sử dụng đất chết mà

không có người thừa kế….hoặc do người sử dụng đất vi phạm pháp luật đất đai và

việc Nhà nước thu hồi đất là một chế tài được áp dụng đối với họ. Hiện nay, so với

Luật Đất đai 2003, Luật Đất đai 2013 đã có một số thay đổi và bổ sung đáng chú ý.

Cụ thể: (i) Luật Đất đai 2013 đã luật hóa và quy định chi tiết các trường hợp Nhà

nước thu hồi đất vì mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công

cộng, phát triển kinh tế. (ii) Thông qua việc luật hóa này, Luật Đất đai 2013 đã thu

hẹp các trường hợp Nhà nước thu hồi đất để phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích

quốc gia, công cộng. Theo đó, ngoài các dự án đã được Quốc hội quyết định chủ

trương đầu tư, dự án được Thủ tướng Chính phủ chấp thuận, quyết định đầu tư, các

trường hợp còn lại phải được xem xét về sự cần thiết phải thu hồi của Hội đồng

nhân dân cấp tỉnh. Có thể thấy việc thu hẹp các trường hợp thu hồi đất vì mục đích

kinh tế như vậy là hợp lý. Vì, các trường hợp này chủ yếu phục vụ cho mục tiêu lợi

nhuận của các nhà đầu tư, còn người sử dụng đất thì thiệt hại nghiêm trọng. Chẳng

hạn, nếu Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp để giao cho nhà đầu tư xây dựng khu

chung cư, sau đó nhà đầu tư bán với giá rất cao, trong khi đó người dân được bồi

thường bởi mức giá quá thấp mà nhà nước quy định, rõ ràng đây là một bất cập quá

lớn gây nên tình trạng bất mãn và khiếu kiện kéo dài của người có đất bị thu hồi. Có

lẽ, Luật Đất đai 2013 không những phải hạn chế mà còn cần phải loại bỏ trường hợp

thu hồi đất loại này. Thay vào đó là áp dụng triệt để cơ chế chuyển dịch đất đai tự

nguyện giữa người dân và chủ đầu tư thông qua việc thỏa thuận về mức giá bồi

thường trên cơ sở sự quản lý của nhà nước. Luật Đất đai 2013 cũng bổ sung thêm

trường hợp thu hồi đất ở khu vực có nguy cơ đe dọa tính mạng con người (20, Đ

65). Đối với trường hợp này tuy Nhà nước không có nhu cầu sử dụng đất nhưng vì

lý do an toàn tính mạng, sức khỏe của người dân như đất bị ô nhiễm nghiêm trọng,

31

hoặc bị sạt lở, sụt lún… thì Nhà nước tiến hành hoạt động thu hồi và người sử dụng

đất vẫn được bồi thường.

Thứ hai, người bị thu hồi đất phải có căn cứ chứng minh quyền sử dụng đất

bị thu hồi thuộc quyền sử dụng hợp pháp của mình. Việc chứng minh quyền sử

dụng đất là hợp pháp phải dựa vào một trong các căn cứ sau: GCN (Giấy chứng

nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất); Nếu

không có GCN thì phải thuộc trường hợp đủ điều kiện để được cấp GCN theo quy

định của Luật Đất đai 2003 (14, Đ 50). GCN là căn cứ quan trọng nhất để chứng

minh quyền sử dụng đất hợp pháp của người sử dụng đất bởi GCN là “chứng thư

pháp lý xác lập mối quan hệ hợp pháp giữa Nhà nước và NSDĐ” (21, Mục I). Tuy

nhiên,“trước tháng 11/2004, cùng lúc tồn tại cả 3 mẫu GCN hợp pháp do 3 cơ quan

khác nhau chịu trách nhiệm phát hành và tổ chức thực hiện cấp cho NSDĐ, gồm:

GCNQSDĐ – giấy đỏ, thuộc ngành Tài nguyên và Môi trường; Giấy chứng nhận

quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở - giấy hồng, thuộc ngành Xây dựng;

Giấy chứng nhận quyền quản lý, sử dụng nhà, đất, trụ sở làm việc thuộc sở hữu nhà

nước – giấy tím, thuộc ngành Tài chính” (47, tr.33). Việc quy định quá nhiều loại

giấy tờ cho cùng một thửa đất như trên không những đã gây ra sự chồng chéo trong

thẩm quyền mà còn gây rất nhiều phiền hà cho NSDĐ. Đến tháng 9/2009 Quốc hội

đã hợp nhất 3 loại giấy tờ trên bằng quy định tại khoản 1 Điều 8 Luật sửa đổi, bổ

sung Luật Đất đai năm 2009: “Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu

nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất được cấp cho người có quyền sử dụng đất,

quyền sở hữu nhà ở và quyền tài sản khác gắn liền với đất theo một loại thống nhất

trong cả nước do Bộ Tài nguyên và Môi trường phát hành; đối với nhà ở, tài sản

khác gắn liền với đất thì cơ quan nhà nước có thẩm quyền chỉ xác nhận quyền sở

hữu và Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn

liền với đất quy định tại khoản này khi có yêu cầu của chủ sở hữu”. Để bảo đảm

công bằng, Luật Đất đai sửa đổi 2009 cũng cho phép các loại giấy tờ như

GCNQSDĐ, Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở, Giấy chứng nhận quyền sở hữu

công trình xây dựng được cấp theo quy định của pháp luật đất đai, pháp luật về nhà

ở, pháp luật về xây dựng và pháp luật dân sự trước ngày 01/8/2009 vẫn có giá trị

32

pháp lý và không phải đổi sang GCN (18, Đ 48). Vì nguyên nhân này mà hiện nay

bên cạnh GCN vẫn còn tồn tại nhiều loại giấy tờ khác cũng có thể chứng minh

quyền sử dụng đất hợp pháp. Thủ tục xin cấp GCN được quy định tại Nghị định

84/2007/NĐ-CP và Nghị định 88/2009/NĐ-CP về cấp GCN, quyền sở hữu nhà và

tài sản khác gắn liền với đất (6, Mục 2). Tuy nhiên, quy định trong hai nghị định

trên còn khá chung chung điều này dẫn đến tình trạng mỗi địa phương lại tự quy

định về các loại giấy tờ trong hồ sơ để được cấp GCN. Vì thế, thủ tục để được cấp

GCN trên thực tế hiện nay còn rất nhiều vướng mắc cần phải được tháo gỡ. Tóm lại,

GCN là một căn cứ quan trọng để chứng minh QSDĐ, quyền sở hữu nhà ở và công

trình xây dựng gắn liền với đất của NSDĐ. GCN không chỉ là cơ sở để thực hiện

các giao dịch về QSDĐ, đồng thời nó còn là bằng chứng đề chứng minh quyền

được bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất. Tuy nhiên, do một số lý do vừa nêu ra ở

trên, mà hiện nay còn rất nhiều NSDĐ chưa có GCN, trong trường hợp này pháp

luật đất đai cho phép NSDĐ chưa được cấp GCN được bồi thường nếu đáp ứng một

trong các trường hợp được quy định tại Điều 50 Luật đất đai năm 2003.

Hộ gia đình, cá nhân không có GCN nhưng đang sử dụng đất ổn định, được

UBND xã, phường, thị trấn xác nhận không có tranh chấp và có một trong các loại

giấy sau:

- Những giấy tờ về quyền được sử dụng đất đai trước ngày 15 tháng 10 năm

1993 do cơ quan có thẩm quyền cấp trong quá trình thực hiện chính sách đất đai của

Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hoà

miền Nam Việt Nam và Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam;

- Giấy chứng nhận QSDĐ tạm thời được cơ quan nhà nước có thẩm quyền

cấp hoặc có tên trong sổ đăng ký ruộng đất, sổ địa chính;

- Giấy tờ hợp pháp về thừa kế, tặng cho QSDĐ hoặc tài sản gắn liền với đất;

giấy tờ giao nhà tình nghĩa gắn liền với đất;

- Giấy tờ chuyển nhượng QSDĐ, mua bán nhà ở gắn liền với đất ở trước

ngày 15 tháng 10 năm 1993, nay được UBND xã, phường, thị trấn xác nhận là đã sử

dụng trước ngày 15 tháng 10 năm 1993;

33

- Giấy tờ về thanh lý, hoá giá nhà ở gắn liền với đất ở theo quy định của pháp

luật;

- Giấy tờ do cơ quan có thẩm quyền thuộc chế độ cũ cấp cho người sử dụng

đất. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất có một trong các loại giấy tờ nêu trên

mà trên giấy tờ đó ghi tên người khác, kèm theo giấy tờ về việc chuyển QSDĐ có

chữ ký của các bên có liên quan, nhưng đến trước ngày Luật này có hiệu lực thi

hành chưa thực hiện thủ tục chuyển QSDĐ theo quy định của pháp luật, nay được

UBND xã, phường, thị trấn xác nhận là đất không có tranh chấp. Hộ gia đình, cá

nhân đang sử dụng đất có hộ khẩu thường trú tại địa phương và trực tiếp sản xuất

nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản, làm muối tại vùng có điều kiện kinh

tế - xã hội khó khăn ở miền núi, hải đảo, nay được UBND xã nơi có đất xác nhận là

người đã sử dụng đất ổn định, không có tranh chấp.

Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất không có các loại giấy chứng minh

QSDĐ nhưng đất đã được sử dụng ổn định từ trước ngày 15 tháng 10 năm 1993,

nay được UBND xã, phường, thị trấn xác nhận là đất không có tranh chấp. (5, Đ 44)

Hộ gia đình, cá nhân được sử dụng đất theo bản án hoặc quyết định của Toà

án nhân dân, quyết định thi hành án của cơ quan thi hành án, quyết định giải quyết

tranh chấp đất đai của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã được thi hành.

Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất không có các loại giấy tờ chứng minh

QSDĐ những đất đã được sử dụng từ ngày 15/10/1993 đến thời điểm có quyết định

thu hồi đất, mà tại thời điểm sử dụng không vi phạm quy hoạch; không vi phạm

hành lang bảo vệ các công trình được cấp có thẩm quyền phê duyệt và công bố công

khai, cắm mốc; không phải là đất lấn chiếm trái phép và được UBND cấp xã nơi có

đất bị thu hồi xác nhận đất đó không có tranh chấp (5, Đ 45).

Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất mà trước đây Nhà nước đã có quyết

định quản lý trong quá trình thực hiện chính sách đất đai của Nhà nước, nhưng

trong thực tế Nhà nước chưa quản lý, mà Hộ gia đình, cá nhân đó vẫn sử dụng.

Nghị định 84/2007/NĐ-CP Quy định bổ sung về việc cấp Giấy chứng nhận

quyền sử dụng đất, thu hồi đất, thực hiện quyền sử dụng đất và giải quyết khiếu nại

34

về đất (sau đây gọi tắt là Nghị định 84/2007/NĐ-CP) cũng bổ sung thêm đối với đất

được giao không đúng thẩm quyền trước ngày 01/7/2004 nhưng đã nộp tiền sử dụng

đất mà chưa được cấp GCN thì cũng được bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất (5,

Đ 56). Đối với trường hợp này, mặc dù việc sử dụng đất là không hợp pháp nhưng

NSDĐ không có lỗi trong việc sử dụng đất không hợp pháp mà lỗi đó thuộc về cơ

quan nhà nước có thẩm quyền giao đất.

Thứ ba, về nguồn gốc đất mà NSDĐ đang sử dụng. Xác định nguồn gốc sử

dụng đất của một chủ thể sử dụng đất tức là xác định xem chủ thể đó có được

QSDĐ thông qua cách thức nào. Theo quy định của pháp luật đất đai thì có nhiều

cách thức khác nhau để một chủ thế xác lập QSDĐ như được Nhà nước giao đất,

cho thuê đất hoặc thông qua các giao dịch về QSDĐ, tặng cho, thừa kế QSDĐ…

Những cách thức trên tạo ra cho NSDĐ những quyền năng nhất định đối với QSDĐ

của mình. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa cách thức nào cũng tạo cho NSDĐ

quyền được bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất. Luật Đất đai 2003 quy định để

được bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất thì nguồn gốc mà NSDĐ có được phải

thông qua quyết định giao đất của Nhà nước dưới hình thức giao đất có thu tiền sử

dụng đất, giao đất không thu tiền sử dụng đất đối với Hộ gia đình, cá nhân được

Nhà nước giao đất nông nghiệp hoặc thông qua các giao dịch QSDĐ, tặng cho, thừa

kế QSDĐ, hoặc được Nhà nước công nhận QSDĐ hợp pháp. Đối với các trường

hợp trên để có được QSDĐ thì NSDĐ đã phải bỏ ra một khoản tiền nên việc Nhà

nước bồi thường cho họ khi thu hồi đất là đương nhiên. Riêng đối với Hộ gia đình,

cá nhân mặc dù họ không phải nộp tiền sử dụng đất nhưng đây là những trường hợp

được hưởng ưu đãi tài chính về sử dụng đất (24, tr.137), vì vậy Hộ gia đình, cá nhân

sử dụng đất nông nghiệp dưới hình thức giao đất không thu tiền sử dụng đất vẫn

được bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất.

Về hình thức sử dụng đất, Luật Đất đai 2003 chỉ quy định về bồi thường đối

với trường hợp sử dụng đất dưới hình thức giao đất có thu tiền sử dụng đất và giao

đất không thu tiền sử dụng đất đối với đất nông nghiệp của Hộ gia đình, cá nhân mà

không có quy định nào đề cập đến việc bồi thường cho NSDĐ dưới hình thức thuê

đất trả tiền một lần cho cả thời gian thuê. Đồng thời Luật Đất đai 2003 cũng quy

35

định Nhà nước sẽ không bồi thường về đất trong trường hợp đất sử dụng là đất thuê

(14, Đ 43). Điều đó có nghĩa NSDĐ nếu sử dụng đất dưới hình thức thuê đất trả tiền

một lần cho cả thời gian thuê sẽ không được bồi thường về đất khi Nhà nước thu hồi

đất. Điều 7 Nghị định 197/2004/NĐ-CP hướng dẫn chi tiết về các trường hợp thu

hồi đất mà không được bồi thường quy định tại Điều 43 Luật Đất đai 2003, tuy

nhiên điều luật này lại chỉ quy định Nhà nước sẽ không bồi thường về đất trong

trường hợp đất được Nhà nước cho thuê trả tiền thuê đất hàng năm nhưng lại không

nói rõ nếu là đất thuê trả tiền một lần cho cả thời gian thuê có được bồi thường hay

không. Điều này đã làm cho vấn đề trở nên mập mờ và khó xác định. Vì vậy, trên

thực tế đối với loại đất này không được bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất mà chỉ

được hoàn trả chi phí đầu tư vào đất. Có nhiều ý kiến cho rằng điều này là không

hợp lý. Bởi: (i) về bản chất, hình thức giao đất có thu tiền sử dụng đất và thuê đất

trả tiền một lần cho cả thời gian thuê không có gì khác nhau vì “người thuê đất nếu

chọn cách thức trả tiền thuê một lần thì số tiền thuê đất phải nộp cũng được tính

bằng với số tiền sử dụng đất phải nộp như trường hợp giao đất có thu tiền sử dụng

đất, có cùng mục đích sử dụng đất và cùng thời hạn sử dụng đất” (31, tr.10). (ii) quy

định này sẽ tạo nên sự bất bình đẳng giữa các chủ thể sử dụng đất khi pháp luật đất

đai cũng quy định tổ chức, cá nhân nước ngoài không được sử dụng đất dưới hình

thức giao đất, đặc biệt đối với hoạt động kinh doanh nhà ở để bán, tổ chức, cá nhân

nước ngoài buộc phải sử dụng đất dưới hình thức trả tiền một lần cho cả thời gian

thuê, nếu họ bị thu hồi đất như với trường hợp này mà không bồi thường cho họ thì

rất không công bằng. Hiện nay, Luật Đất đai 2013 đã khắc phục bất cập này bằng

việc đưa vào quy định về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất đối với đất sử dụng

dưới hình thức thuê đất trả tiền thuê đất một lần cho cả thời gian thuê của Người

Việt Nam định cư ở nước ngoài, tổ chức kinh tế, tổ chức người ngoài có chức năng

ngoại giao, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (20, Đ 75).

Như vậy, nguồn gốc đất là một trong những căn cứ để xác định chủ thể có đủ điều kiện bồi thường hay không. Nhưng, cần lưu ý không phải chủ thể sử dụng đất dưới hình thức giao đất có thu tiền sử dụng đất hoặc có QSDĐ thông qua chuyển nhượng thì đều được bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất mà phải xét nguồn gốc khoản tiền đã bỏ ra để có được QSDĐ đó xuất phát từ đâu. Cụ thể đối với các tổ

36

chức sử dụng đất dưới hình thức giao đất có thu tiền sử dụng đất hoặc nhận chuyển

nhượng QSDĐ nhưng tiền sử dụng đất hoặc tiền nhận chuyển nhượng có nguồn gốc

từ ngân sách Nhà nước thì không được bồi thường.

2.2.1.2 . Căn cứ để xác định giá trị bồi thường

Thứ nhất: Loại đất bồi thường.

Việc xác định loại đất làm căn cứ để tính bồi thường là rất cần thiết vì các

loại đất khác nhau có mức giá chênh lệch nhau rất lớn. Theo quy định của pháp luật

đất đai để xác định loại đất bồi thường có thể dựa vào các căn cứ sau đây (2, Đ 6):

- Căn cứ nội dung ghi trên GCN. Như đã trình bày, GCN là căn cứ quan

trọng nhất để chứng minh quyền sử dụng đối với thửa đất của NSDĐ. Vì vậy, trên

GCN luôn phải ghi rõ mục đích sử dụng. Nội dung ghi trên GCN là căn cứ để xác

định mục đích sử dụng đất, thông qua đó xác định loại đất bồi thường khi Nhà nước

thu hồi đất. Như vậy, nếu NSDĐ đã được cấp GCN thì việc xác định giá trị bồi

thường sẽ dựa vào nội dung ghi trên GCN mà không phải quan tâm vào các căn cứ

khác.

- Căn cứ vào các giấy tờ hợp lệ quy định tại khoản 1 Điều 50 Luật Đất đai

2003 trong trường hợp NSDĐ chưa được cấp GCN hoặc quyết định giao đất, cho

thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất của cơ quan nhà nước có thẩm

quyền. Mặc dù GCN là căn cứ quan trong nhất nhưng không phải NSDĐ nào cũng

đã được cấp GCN. Trường hợp này việc xác định loại đất bồi thường được dựa trên

nội dung ghi trên các giấy tờ hợp lệ quy định tại khoản 1 Điều 50 Luật Đất đai

2003. Mặt khác, hoạt động giao đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử

dụng đất của UBND được thực hiện thông qua một quyết định hành chính cá biệt

mà trên nội dung quyết định này phải ghi rõ mục đích sử dụng đất của thửa đất

được giao, cho thuê hoặc cho phép chuyển mục đích sử dụng. Vì vậy, đây cũng là

căn cứ để xác định loại đất bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất.

- Căn cứ theo đăng ký chuyển mục đích sử dụng đất đối với trường hợp

không phải xin phép chuyển mục đích sử dụng đất. Điều 36 Luật Đất đai 2003 cho

phép NSDĐ được chuyển mục đích sử dụng đất từ đất chuyên trồng lúa nước sang

37

đất trồng cây lâu năm, đất trồng rừng, đất nuôi trồng thủy sản; từ đất rừng đặc dụng,

đất phòng hộ sang đất sử dụng vào mục đích khác; từ đất nông nghiệp sang đất phi

nông nghiệp; Chuyển đất phi nông nghiệp được Nhà nước giao đất không thu tiền

sử dụng đất sang đất phi nông nghiệp được Nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng

đất hoặc thuê đất; Chuyển đất phi nông nghiệp không phải là đất ở sang đất ở. Việc

chuyển đổi trong các trường hợp này NSDĐ phải làm thủ tục xin phép cơ quan có

thẩm quyền. Ngoài các trường hợp nêu trên thì NSDĐ không phải xin phép cơ quan

nhà nước có thẩm quyền, nhưng phải đăng ký với Văn phòng đăng ký QSD Đ hoặc

UBND xã nơi có đất. Khi xác định loại đất đã thu hồi để làm căn cứ tính giá trị bồi

thường, cơ quan có thẩm quyền sẽ căn cứ vào mục đích sử dụng mà người sử dụng

đất đã đăng ký tại các cơ quan vừa kể trên.

- Căn cứ vào hiện trạng sử dụng đất. Hiện trạng sử dụng đất là mục đích sử

dụng thửa đất trên thực tế. Tuy nhiên, việc xác định loại đất dựa vào hiện trạng sử

dụng đất thì không phải chỉ căn cứ vào việc sử dụng đất trên thực tế của NSDĐ mà

còn phải căn cứ vào thời gian và tính ổn định của mục đích sử dụng đất. Hiện trạng

sử dụng đất là căn cứ để xác định loại đất sử dụng trong trường hợp NSDĐ không

có GCN hoặc các căn cứ khác đã nêu ra ở trên.

Thứ hai: Đơn giá bồi thường.

Có hai loại giá đất có thể được sử dụng làm căn cứ tính tiền bồi thường là

giá đất thị trường và giá đất do Nhà nước quy định. Việc xác định giá đất nào để

tính tiền bồi thường là một vấn đề phức tạp mà hiện nay ngay cả khi đã có Luật Đất

đai 2013 và Nghị định số 44/2014/NĐ-CP của Chính phủ ban hành ngày 15/5/2014

Quy định về giá đất cũng chưa tháo gỡ được. Theo quy định của pháp luật đất đai,

giá đất được sử dụng để tính tiền bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất là giá đất do

Nhà nước quy định dựa trên Bảng giá đất do UBND cấp tỉnh ban hành hàng năm

trên cơ sở khung giá đất của Chính phủ (3, Đ 2) theo nguyên tắc phù hợp với giá thị

trường.

Thứ ba: Diện tích đất được tính bồi thường.

38

Diện tích đất bị thu hồi là một trong những căn cứ để tính giá trị bồi thường

khi Nhà nước thu hồi đất. Hoạt động bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất được

thực hiện dựa trên nguyên tắc bồi thường đầy đủ các thiệt hại, nhưng điều đó không

có nghĩa là Nhà nước thu hồi bao nhiêu diện tích đất thì phải bồi thường toàn bộ

diện tích đó, điều này phụ thuộc vào việc NSDĐ có đáp ứng đầy đủ ba nhóm điều

kiện hay không.

Vấn đề xác định diện tích bồi thường hiện nay là tương đối phức tạp bởi

không phải trường hợp nào diện tích ghi trên các giấy tờ về QSDĐ đều đúng với

diện tích đo đạc trên thực tế. Trước đây vấn đề này được quy định cụ thể tại Thông

tư 116/2004/TT-BTC hướng dẫn thực hiện Nghị định 197/2004/NĐ-CP tuy nhiên

Thông tư này đã bị bãi bỏ bởi Thông tư 14/2009/TT-BTNMT quy định chi tiết về

bồi thường, hỗ trợ, tái định cư và trình tự, thủ tục thu hồi đất, giao đất, cho thuê đất.

Hiện nay, cách thức xác định diện tích đất bồi thường trong trường hợp có sự khác

nhau giữa diện tích ghi trên giấy tờ về QSD Đ với diện tích đo đạc trên thực tế

được quy định tương đối chi tiết tại Điều 47 Nghị định 84/2007/NĐ-CP.

Trước đây các quy định này không được tìm thấy trong Luật Đất đai 2003

mà nó nằm rãi rác trong cả ba Nghị định hướng dẫn là Nghị định 197/2004/NĐ-CP,

Nghị định 84/2007/NĐ-CP và Nghị định 69/2009/NĐ-CP. Luật Đất đai 2013 đã tập

hợp hóa các quy định trên tại Điều 75 và Điều 77. Vấn đề xác định diện tích đất bồi

thường trong trường hợp có sự khác nhau giữa diện tích ghi trên giấy tờ về QSDĐ

và diện tích đo đạc trên thực tế tuy không được Luật Đất đai 2013 quy định những

nó đã được ghi nhận tại Điều 12 Nghị định 47/2014/NĐ-CP quy định về bồi

thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất.

2.2.1.3 . Trình tự, thủ tục tổ chức thực hiện

Trình tự, thủ tục là “những việc cụ thể phải làm theo một trật tự quy định để

tiến hành một công việc có tính chất chính thức” (22, tr.906). Như vậy, có thể hiểu

trình tự, thủ tục bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất là những bước mà cơ quan nhà

nước có thẩm quyền phải thực hiện theo một trật tự do pháp luật quy định trong

hoạt động bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất. Hoạt động thu hồi đất nói chung và

bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nói riêng là rất phức tạp nên cần thiết phải thực

39

hiện theo một trình tự, thủ tục rõ ràng để tránh việc thực hiện tùy tiện, cảm tính dẫn

đến nguy cơ xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của người bị thu hồi đất.

Theo quy định tại Điều 69 Luật đất đai số 45/2013/QH13 ngày 29/11/2013 thì trình

tự, thủ tục thu hồi đất còn có nhiều điểm bất hợp lý. Có một số điểm không hợp lý

sau: (i) Luật quy định phải lấy ý kiến của người dân về phương án bồi thường, hỗ

trợ, tái định cư nhưng lại không hề có quy định nào nói về giá trị của các ý kiến, nên

việc lấy ý kiến của người dân chỉ tồn tại như một thủ tục mang tính hình thức. (ii)

Trong các bước tiến hành vẫn tồn tại nhiều bước mà luật chưa quy định thời gian tối

đa để thực hiện. Điều này dẫn đến một tình trạng là từ thời điểm có quyết định bồi

thường đến lúc thực nhận tiền bồi thường là một khoảng thời gian rất dài, có khi lên

đến vài năm và trong khoảng thời gian đó giá đất đã tăng lên rất nhiều lần. Chính từ

đây gây nên tình trạng khiếu kiện, so bì của người bị thu hồi đất. (iii) Trường hợp

phương án bồi thường đã được phê duyệt, có quyết định thu hồi đất nhưng đến lúc

chi trả tiền bồi thường thì người bị thu hồi đất lại không chịu nhận tiền bồi thường

do còn đang tranh chấp hoặc khiếu kiện thì luật chưa quy định cách xử lý trường

hợp này. Vấn đề này trước đây được quy định tại Nghị định 84/2007/NĐ-CP:

“Trường hợp người bị thu hồi đất không nhận tiền chi trả bồi thường, hỗ trợ, không

nhận nhà hoặc đất tái định cư thì Tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt

bằng chuyển khoản tiền chi trả vào tài khoản riêng mở tại ngân hàng và giữ nguyên

nhà hoặc đất tái định cư để làm căn cứ cho việc giải quyết khiếu nại sau này (nếu

có)” (5, Đ 58). Đến tháng 10 năm 2009 quy định này đã bị bãi bỏ bởi Nghị định

69/2009/NĐ-CP. Tuy nhiên, điều đáng nói ở đây là dù đã bãi bỏ quy định trên

nhưng chính Nghị định này lại không có quy định nào thay thế, điều này rõ ràng là

một bất cập. Phải đến gần đây khi Luật Đất đai 2013 ra đời, vấn đề này mới được

quy định trở lại: “Trong trường hợp người có đất thu hồi không nhận tiền bồi

thường, hỗ trợ, tái định cư được cấp có thẩm quyền phê duyệt thì tiền bồi thường,

hỗ trợ được gửi vào tài khoản tạm giữ của Kho bạc nhà nước” (47, Đ 93). (iv) Về

vấn đề trả lãi do chậm chi trả tiền bồi thường. Trước đây các quy định của pháp luật

đất đai hầu như không đề cập đến vấn đề này, đây là một thiếu sót, bởi trong trong

thực tế hoạt động bồi thường không phải lúc nào cũng được tiến hành kịp thời và

40

đúng thời gian quy định. Điều này có tác động tiêu cực đến việc đảm bảo quyền lợi

chính đáng cho người bị thu hồi đất. Luật Đất đai 2013 đã khắc phục bất cập này

bằng quy định: “Trường hợp cơ quan, tổ chức có trách nhiệm bồi thường chậm chi

trả thì khi thanh toán tiền bồi thường, hỗ trợ cho người có đất thu hồi, ngoài tiền bồi

thường, hỗ trợ theo phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư được cấp có thẩm

quyền phê duyệt thì người có đất thu hồi còn được thanh toán thêm một khoản tiền

bằng mức tiền chậm nộp theo quy định của Luật quản lý thuế tính trên số tiền chậm

trả và thời gian chậm trả.” (47, Đ 93).

Hiện tại, trình tự thực hiện BTGPMB khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn

thành phố Uông Bí được thực hiện theo Quyết định số 1766/2014/QĐ-UBND ngày

13/8/2014 của UBND Tỉnh . Cụ thể như sau:

Bước 1. Thông báo thu hồi đất.

Có văn bản đề nghị Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền thu hồi đất ban hành

thông báo thu hồi đất (theo Điều 67 Luật Đất đai 2013).

- Thẩm quyền thu hồi đất: quy định tại Điều 66 Luật Đất đai 2013 và Điều 29

Quyết định số 1766/2014/QĐ-UBND ngày 13/8/2014 của UBND tỉnh Quảng Ninh.

- Thời gian, nội dung Thông báo thu hồi đất: quy định tại khoản 1 Điều 67

Luật Đất đai 2013.

- Thông báo thu hồi đất được gửi đến từng người có đất thu hồi, họp phổ biến

đến người dân trong khu vực có đất thu hồi và thông báo trên phương tiện thông tin

đại chúng, niêm yết tại trụ sở Ủy ban nhân dân cấp xã, địa điểm sinh hoạt chung của

khu dân cư nơi có đất thu hồi.

Bước 2. Xây dựng giá đất cụ thể bồi thường.

Có văn bản đề nghị UBND Thành phố giao các phòng ban chuyên môn xây

dựng giá đất cụ thể bồi thường (theo quy định tại Điểm đ Khoản 4 Điều 114 Luật

Đất đai 2013; Điểm b Khoản 2 Điều 18 Nghị định 44/2014/NĐ-CP và Điều 3 Quyết

định số 1766/2014/QĐ-UBND ngày 13/8/2014 của UBND Tỉnh).

Bước 3. Điều tra, khảo sát, đo đạc, kiểm đếm.

41

Trường hợp người sử dụng đất không phối hợp để điều tra, khảo sát, đo đạc,

kiểm đếm thì thực hiện theo quy định tại Điểm d Khoản 1 Điều 69 và các Khoản

Điều 70 Luật Đất đai 2013 (Cưỡng chế thực hiện quyết định kiểm đếm bắt buộc).

Bước 4. Hoàn thiện hồ sơ chuyển cho UBND xã, phường tổ chức xác định

nguồn gốc, thời điểm, mục đích sử dụng đất; nhân khẩu sống phụ thuộc vào thu

nhập từ sản xuất nông nghiệp; phần trăm diện tích đất nông nghiệp bị thu

hồi…(theo quy định tại Khoản 11 Điều 30 Quyết định số 1766/2014/QĐ-UBND

ngày 13/8/2014 của UBND Tỉnh).

Bước 5. Lập và thẩm định nội bộ phương án bồi thường, hỗ trợ.

Bước 6. Đề nghị phòng Tài nguyên và Môi trường thẩm định phương án bồi

thường, hỗ trợ trước khi niêm yết để tránh sai sót.

Bước 7. Niêm yết công khai phương án bồi thường, hỗ trợ.

- Thời gian niêm yết: Ít nhất 20 ngày kể từ ngày niêm yết (Theo quy định tại

Khoản 2 Điều 28 Nghị định số 47/2014/NĐ-CP).

- Địa điểm niêm yết: Tại Trụ sở UBND cấp xã, địa điểm sinh hoạt chung của

khu dân cư nơi có đất bị thu hồi (Theo quy định tại Khoản 2 Điều 69 Luật Đất đai

2013) và gửi đến từng người có đất bị thu hồi kèm theo Giấy lấy ý kiến.

- Lập Biên bản niêm yết công khai phường án bồi thường, hỗ trợ có xác nhận

của UBND, UBMTTQ cấp xã và khu dân cư nơi có đất bị thu hồi.

Bước 8. Tổ chức lấy ý kiến về phương án bồi thường, hỗ trợ.

- Hết thời hạn niêm yết, thu hồi Giấy lấy ý kiến và đơn thư (nếu có) để tiếp

nhận ý kiến, kiến nghị của nhân dân.

- Tổng hợp ý kiến, kiến nghị, lập Biên bản có xác nhận của đại diện UBND,

UBMTTQ cấp xã, đại diện những người có đất thu hồi (Theo quy định tại Điểm a

Khoản 2 Điều 69 Luật Đất đai 2013), trong đó: ghi rõ số lượng ý kiến đồng ý, số

lượng ý kiến không đồng ý, số lượng ý kiến khác.

42

- Phối hợp với UBND cấp xã tổ chức đối thoại với trường hợp không đồng ý

về phương án bồi thường, hỗ trợ (Lập Biên bản đối thoại chi tiết).

Lưu ý: Đối với những Dự án quan trọng, cần tiến độ, phải hướng dẫn đối

tượng bị thu hồi đất có Đơn đồng ý thu hồi đất trước thời hạn (Đối với đất nông

nghiệp là 90 ngày và đất phi nông nghiệp là 180 ngày kể từ ngày có Thông báo thu

hồi đất) để trình cấp có thẩm quyền ban hành Quyết định thu hồi đất và Quyết định

phê duyệt phương án, đảm bảo đúng quy định.

Bước 9. Hoàn thiện phương án bồi thường, hỗ trợ đề nghị phòng Tài nguyên

và Môi trường thẩm định, trình UBND cấp có thẩm quyền quyết định thu hồi đất và

quyết định phê duyệt phương án bồi thường hỗ trợ cùng một ngày (theo quy định tại

Điểm a Khoản 3 Điều 69 Luật Đất đai 2013).

Lưu ý: Quyết định thu hồi đất phải ban hành sau khi có Thông báo thu hồi đất

ít nhất 90 ngày đối với đất nông nghiệp và 180 ngày đối với đất phi nông nghiệp

(Theo quy định tại Khoản 1 Điều 67 Luật Đất đai 2013).

Bước 10. Phối hợp với UBND cấp xã phổ biến, niêm yết công khai quyết định

thu hồi đất và quyết định phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ tại trụ sở UBND

cấp xã, địa điểm sinh hoạt chung của khu dân cư nơi có đất thu hồi và gửi đến từng

người có đất bị thu hồi (theo quy định tại Điểm b Khoản 3 Điều 69 Luật Đất đai

2013).

Bước 11. Đề nghị Chủ đầu tư chuyển kinh phí bồi thường, hỗ trợ theo Quyết

định phê duyệt của cấp có thẩm quyền.

Bước 12. Thông báo chi trả tiền bồi thường, hỗ trợ: Ghi rõ mức bồi thường, hỗ

trợ; bố trí nhà hoặc đất tái định cư (nếu có); thời gian, địa điểm chi trả tiền bồi

thường, hỗ trợ; thời gian bố trí nhà hoặc đất tái định cư (nếu có) và thời gian bàn

giao đất đã thu hồi (Theo quy định tại Điểm b Khoản 3 Điều 69 Luật Đất đai 2013).

Có thể Thông báo một hoặc nhiều lần, nhiều cấp tùy tính chất và tiến độ dự án.

Bước 13. Tổ chức chi trả tiền bồi thường, hỗ trợ và nhận bàn giao đất đối với

những trường hợp chấp hành nhận tiền và bàn giao mặt bằng.

43

Bước 14. Nếu người có đất thu hồi không nhận tiền thì phải gửi vào tài khoản

tạm giữ tại Kho bạc nhà nước (theo quy định Khoản 3 Điều 93 Luật Đất đai 2013).

Bước 15. Các đơn vị có liên quan phải có mặt đúng thời gian tại thực địa để lập Biên bản nhận bàn giao đất theo Thông báo trên của UBND Thành phố Uông Bí. Thực hiện công tác quản lý nhà nước về lĩnh vực đất đai, thời gian qua

UBND thành phố Uông Bí luôn chú trọng tăng cường chức năng quản lý nhà nước

trong việc quy hoạch và sử dụng đất đảm bảo đúng mục đích, cùng với đó là việc

ban hành các quyết định hành chính về đất đai như: giao đất, cho thuê đất, thu hồi

đất, trưng dụng đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất, bồi thường, hỗ trợ, giải

phóng mặt bằng và tái định cư để thực hiện các dự án; việc cấp mới, cấp đổi giấy

chứng nhận quyền sử dụng đất, gia hạn việc sử dụng đất... theo đúng quy định của

pháp luật.

Trên cơ sở đồ án quy hoạch chung xây dựng thành phố Uông Bí đến năm

2020 đã được UBND tỉnh Quảng Ninh phê duyệt năm 2009, Thành phố đã có

những hướng phát triển mới, khắc phục việc tập trung phát triển đô thị ven đường

quốc lộ 18A, đầu tư tuyến giao thông đối ngoại được chuyển xuống phía Nam,

nhằm gắn kết các tuyến đối ngoại không làm ảnh hưởng đến nội đô. Những chuyển

động tích cực của thành phố Uông Bí trong những năm gần đây để khai thác tiềm

năng, lợi thế này trở thành vùng kinh tế năng động của khu vực phía Bắc, thúc đẩy

sự phát triển chung của toàn vùng.

Sau khi có các căn cứ pháp lý do cấp có thẩm quyền phê duyệt để thực hiện

dự án, trong tháng 3 năm 2015 UBND thành phố đã tổ chức công khai quy hoạch,

phổ biến chính sách liên quan đến công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng thực

hiện dự án để các tổ chức, cá nhân, các hộ dân nằm trong diện thu hồi đất thực hiện

dự án.

Tổng diện tích đất bị thu hồi để thực hiện dự án là: 2.19 ha.

Số hộ bị ảnh hưởng là: 318 hộ.

Tổng số tiền chi trả bồi thường là: 84.843.443.908 đ. Trong đó:

+ Đền bù về đất, kiến trúc, cây cối hoa mà: 56.563.215.408đ.

44

+ Di chuyển hạ tầng: 27.381.969.000đ.

+ Chi phí cưỡng chế: 898.259.500đ.

2.2.2. Bồi thường về tài sản

2.2.2.1. Điều kiện được bồi thường

Khác với đất đai, tài sản có trên đất đại đa số là thuộc sở hữu của NSDĐ chứ

không phải thuộc sở hữu của Nhà nước, vì vậy Nhà nước không thể thu hồi chúng

mà chỉ có thể trưng mua theo quy định của Luật Trưng mua, trưng dụng tài sản năm

2008 (17, Đ 13). Nhưng theo quy định tại Nghị định 197/2004/NĐ-CP thì tài sản

gắn liền với đất cũng được bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nếu đáp ứng được

các điều kiện sau:

(i) Tài sản phải được hình thành trước thời điểm có quy hoạch, kế hoạch sử

dụng đất. Việc xây dựng nhà cửa hoặc làm bất cứ việc gì mà không vi phạm pháp

luật là quyền của người sử dụng đất. Tuy nhiên, vì lợi ích chung thì QSDĐ của

người sử dụng đấtsẽ bị Nhà nước giới hạn khi thửa đất thuộc quyền sử dụng của họ

nằm trong khu vực đã có quy hoạch và kế hoạch sử dụng đất được công bố. Đối với

những trường hợp tài sản hình thành sau thời điểm này sẽ không được bồi thường,

nhưng có thể được xem xét hỗ trợ trong một số trường hợp cụ thể được quy định tại

Điều 20 Nghị định 197/2004/NĐ-CP.

(ii) Tài sản phải được hình thành hợp pháp. Chẳng hạn Nhà, công trình xây

dựng không phép thì không được bồi thường, không được hỗ trợ. Người có công

trình xây dựng trái phép buộc phải tự tháo dỡ và tự chịu trách nhiệm chi phí phá dỡ

trong trường hợp cơ quan thẩm quyền phá dỡ. (4, Đ 20)

Những tài sản được hình thành trong các trường hợp sau đây thì được xem

là hợp pháp:

Thứ nhất, tài sản được hình thành trên đất đủ điều kiện bồi thường theo quy

định tại Điều 8 Nghị định 197/2004/NĐ-CP;

Thứ hai, Tài sản được hình thành theo đúng quy định của pháp luật như đối

với nhà, công trình khác được phép xây dựng theo quy định của Luật Nhà ở và Luật

Xây dựng. Tuy nhiên, có một ngoại lệ là đối với nhà, công trình xây dựng khác

45

không được phép xây dựng trên đất đủ điều kiện bồi thường về đất nhưng được xây

dựng trước ngày 01/7/2004 thì vẫn được bồi thường theo quy định tại Điều 24 Nghị

định 69/2009/NĐ-CP (1, Đ 10). Các trường hợp còn lại thì tùy theo mức độ và tính

chất hợp pháp của đất, nhà và công trình thì không được bồi thường nhưng có thể

được hỗ trợ theo quy định của pháp luật (4, Đ 20).

2.2.2.2. Loại tài sản được bồi thường

Những loại tài sản sau sẽ được Nhà nước bồi thường khi thu hồi đất:

Một là: nhà ở, công trình xây dựng. Luật Xây dựng 2003 quy định: “Công

trình xây dựng là sản phẩm được tạo thành bởi sức lao động của con người, vật liệu

xây dựng, thiết bị lắp đặt vào công trình, được liên kết định vị với đất, có thể bao

gồm phần dưới mặt đất, phần trên mặt đất, phần dưới mặt nước và phần trên mặt

nước, được xây dựng theo thiết kế. Công trình xây dựng bao gồm công trình xây

dựng công cộng, nhà ở, công trình công nghiệp, giao thông, thủy lợi , năng lượng và

các công trình khác” (15, Đ 3). Như vậy, dù Luật Đất đai có sự tách biệt giữa nhà ở

và công trình xây dựng nhưng 35 có thể thấy công trình xây dựng đã bao gồm nhà ở

và công trình khác xây dựng trên đất. Loại tài sản này gắn liền với đất, khi di dời

không thể mang theo mà buộc phải tháo dỡ nên người bị thu hồi đất sẽ được Nhà

nước bồi thường. Cách tính giá trị bồi thường đối được thực hiện như sau (7, Đ 24):

Đối với nhà ở, công trình phục vụ sinh hoạt của Hộ gia đình, cá nhân, được bồi

thường bằng giá trị xây dựng mới của nhà, công trình có tiêu chuẩn kỹ thuật tương

đương do Bộ Xây dựng ban hành. Giá trị xây dựng mới của nhà, công trình được

tính theo diện tích xây dựng của nhà, công trình nhân với đơn giá xây dựng mới của

nhà, công trình do UBND cấp tỉnh ban hành theo quy định của Chính phủ. Đối với

nhà, công trình xây dựng khác không thuộc đối tượng trên thì được bồi thường như

sau:

- Mức bồi thường nhà, công trình bằng tổng giá trị hiện có của nhà, công

trình bị thiệt hại và khoản tiền tính bằng tỷ lệ phần trăm theo giá trị hiện có của nhà,

công trình. Trong đó, giá trị hiện có của nhà, công trình bị thiệt hại được xác định

bằng tỷ lệ phần trăm chất lượng còn lại của nhà, công trình nhân với giá trị xây mới

của nhà, công trình có tiêu chuẩn kỹ thuật tương đương do Bộ quản lý chuyên

46

ngành ban hành. Khoản tiền tính bằng tỷ lệ phần trăm theo giá trị hiện có của nhà,

công trình do UBND cấp tỉnh quy định, nhưng mức bồi thường tối đa không lớn

hơn 100% giá trị xây mới của nhà, công trình có tiêu chuẩn kỹ thuật tương đương

với nhà, công trình thiệt hại.

- Đối với nhà, công trình xây dựng khác bị phá dỡ một phần, mà phần còn

lại không còn sử dụng được thì bồi thường cho toàn bộ nhà, công trình; trường hợp

nhà, công trình xây dựng khác bị phá dỡ một phần, nhưng vẫn tồn tại và sử dụng

được phần còn lại thì được bồi thường phần giá trị công trình bị pháp dỡ và chi phí

để sữa chửa, hoàn thiện phần còn lại theo tiêu chuẩn kỹ thuật tương đương của nhà,

công trình khác bị phá dỡ.

Hai là: cây trồng, vật nuôi.

Cây trồng, vật nuôi là loại tài sản mà sự sinh trưởng của chúng gắn liền với

đất nên trong nhiều trường hợp khi Nhà nước thu hồi đất không thể di dời được dẫn

đến phải khai thác sớm gây thiệt hại đến lợi ích của người bị thu hồi đất. Điều 24

Nghị định 197/2004/NĐ-CP quy định mức bồi thường đối với cây trồng phụ thuộc

vào từng loại cây khác nhau:

Mức bồi thường đối với cây hàng năm được tính bằng giá trị sản lượng của

vụ thu hoạch đó. Giá trị sản lượng của vụ thu hoạch được tính theo năng suất của vụ

cao nhất trong 3 năm trước liền kề của cây trồng chính tại địa phương và giá trung

bình tại thời điểm thu hồi.

2.2.3. Quy trình áp dụng pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất cho

dự án.

* Căn cứ pháp lý:

+ Ngày 17/5/2011 Bộ Giao thông Vận tải đã ban hành Quyết định số

996/QĐ-BGTVT Về việc phê duyệt Dự án cải tạo, nâng cấp Quốc lộ 18 đoạn thành

phố Uông Bí .

+ Quyết định số 253/QĐ-UBND ngày 07/02/2012 của Ủy ban nhân dân tỉnh

Về việc phê duyệt mặt bằng và ranh giới GPMB tỷ lệ 1/1000 Dự án: Cải tạo, nâng

cấp Quốc lộ 18 đoạn thành phố Uông Bí theo hình thức BOT;

47

+ Quyết định số 629/QĐ-UBND Ngày 21/3/2012 của Ủy ban nhân dân tỉnh

Quảng Ninh Về việc phê duyệt phương án tổng thể bồi thường, hỗ trợ và tái định cư

khi nhà nước thu hồi đất thực hiện Dự án.

Căn cứ Luật Đất đai năm 2013 ngày 29/11/2013;

Căn cứ Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 quy định chi tiết thi

hành một số điều của Luật Đất đai năm 2013;

Căn cứ Nghị định số 44/2014/NĐ-CP ngày 15/05/2014 của Chính Phủ Quy

định về giá;

Căn cứ Nghị định số 47/2014/NĐ-CP ngày 15/05/2014 của Chính Phủ Quy

định về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất;

Căn cứ Nghị định số 01/2017/NĐ-CP ngày 6/1/2017 sửa đổi, bổ sung một số

Nghị định quy định chi tiết thi hành Luật Đất đai;

Căn cứ Quyết định số 1766/QĐ-UBND ngày 13/8/2014 của UBND tỉnh

Quảng Ninh về việc ban hành Quy định về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi nhà

nước thu hồi đất theo Luật Đất đai năm 2013 trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh;

Căn cứ Quyết định số 3238/2014/QĐ-UBND ngày 26/12/2014 của UBND

tỉnh Quảng Ninh về việc quy định giá các loại đất trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh;

Căn cứ Quyết định số 4234/2015/QĐ-UBND ngày 28/12/2015 của UBND

tỉnh Quảng Ninh về Ban hành Bộ đơn giá bồi thường tài sản gắn liền với đất khi

Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh;

Ngày 26/6/2015, UBND Tỉnh có Quyết định số 1813/QĐ-UBND về việc phê

duyệt giá đất ở cụ thể để làm căn cứ tính giá trị bồi thường, hỗ trợ giải phóng mặt

bằng để thực hiện dự án.

Thành ủy, UBND thành phố Uông Bí đã tập trung chỉ đạo cả hệ thống chính

trị vào cuộc nhằm đẩy nhanh tiến độ dự án. Bên cạnh việc thành lập các Tổ công tác

tuyên truyền, vận động đến từng hộ dân chấp hành, ủng hộ dự án, UBND thành phố

Uông Bí đã tổng hợp báo cáo UBND tỉnh Quảng Ninh về những khó khăn vướng

mắc. Trong năm 2015 các hộ gia đình bị ảnh hưởng nằm trong dự án đã được

48

UBND thành phố Uông Bí phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ theo Quyết định

1813/QĐ-UBND, ngày 26/6/2015 của UBND Tỉnh. Do sự thay đổi về chính sách

bồi thường, hỗ trợ theo Luật đất đai năm 2013 (không còn hỗ trợ 50% giá đất ở đối

với diện tích đất vườn liền kề đất ở bị thu hồi áp dụng theo Luật đất đai năm 2003)

nên các hộ không đồng tình ủng hộ.

Để giải quyết những khó khăn, vướng mắc trên, ngày 31/12/2015 UBND

Tỉnh đã có Công văn số 8091/UBND-QLĐĐ1 giao Sở Tài nguyên và Môi trường

làm việc xin ý kiến tham vấn của Tổng cục đất đai- Bộ Tài nguyên và Môi trường

để giải quyết những vướng mắc về bồi thường đối với diện tích bị thu hồi nằm trong

hành lang bảo vệ công trình giao thông đường bộ tại dự án.

Ngày 04/4/2016 Tổng cục Quản lý đất đai- Bộ Tài nguyên và Môi trường có

Công văn số 415/TCQLĐĐ- CKTPTQĐ "Về việc hướng dẫn giải quyết vướng mắc

trong bồi thường, hỗ trợ và tái định cư", trong đó đồng ý áp dụng cơ chế hỗ trợ khác

theo quy định tại Điều 25 Nghị định số 47/2014/NĐ-CP của Chính phủ là có căn cứ

và thuộc thẩm quyền của UBND tỉnh Quảng Ninh.

Ngày 07/12/2016 UBND tỉnh đã ban hành Quyết định số 4114/QĐ-UBND

"Về việc áp dụng biện pháp hỗ trợ khác theo quy định tại Điều 25 Nghị định số

47/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ đối với diện tích đất trong hành

lang giao thông của các hộ dân bị thu hồi để thực hiện dự án Cải tạo, nâng cấp Quốc

lộ 18A trên địa bàn thành phố Uông Bí", trong đó có quyết định mức hỗ trợ bằng

50% giá đất ở (có điều kiện bắt buộc kèm theo).

Ngày 13/12/2016 UBND Tỉnh tiếp tục ban hành Quyết định số 4166/QĐ-

UBND Về việc thành lập Đoàn công tác rà soát, thẩm định phương án bồi thường,

hỗ trợ đối với các hộ dân thuộc GPMB thực hiện Dự án cải tạo, nâng cấp Quốc lộ

18A trên thành phố Uông Bí. Sau khi rà soát, Đoàn công tác của Tỉnh đã báo cáo

kiến nghị với UBND tỉnh điều chỉnh điều kiện được hỗ trợ khác tại Quyết định số

4114/QĐ-UBND ngày 07/12/2016 của UBND Tỉnh.

Ngày 17/2/2017 UBND Tỉnh đã ban hành Quyế định số 500/QĐ-UBND sử

đổi khoản 1, Điều 1, Quyết định số 4114/QĐ-UBND ngày 07/12/2016 của UBND

49

tỉnh về việc áp dụng biện pháp hỗ trợ khác theo quy định tại Điều 25 Nghị định số

47/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ đối với diện tích đất trong hành

lang giao thông của các hộ dân bị thu hồi để thực hiện dự án Cải tạo, nâng cấp

Quốc lộ 18A trên địa bàn thành phố Uông Bí, theo đó điều kiện được hưởng hỗ trợ

khác cho các hộ dân đã phù hợp với thực tế sử dụng đất của các hộ dân, cơ bản các

hộ dân sử dụng đất có nhà ở trước ngày 18/12/1980 đều được hưởng mức hỗ trợ

bằng 50% giá đất ở tại vị trí tương ứng. Sau khi có Quyết định số 500/QĐ-UBND

ngày 17/02/2017 của UBND tỉnh Quảng Ninh, UBND thành phố đã phê duyệt

phương án bồi thường, hỗ trợ cho 318/318 hộ gia đình và cá nhân.

Trong quá trình thực hiện, UBND thành phố, các phường có dự án đi qua đã

cầu thị, lắng nghe ý kiến của các hộ dân nhiều lần thông qua các cuộc tiếp xúc gặp

gỡ đối thoại trực tiếp. Xin ý kiến của các Bộ ngành Trung ương để vận dụng ban

hành các quyết định hỗ trợ đền bù giải phóng mặt bằng trên cơ sở có lợi nhất cho

người dân, đúng với quy định của pháp luật. Thành ủy, UBND thành phố Uông Bí

đã chỉ đạo các Tổ công tác gồm Trung tâm phát triển quỹ đất, UBND phường,

UBMTTQ, các ban ngành đoàn thể xuống từng hộ dân giải thích chính sách, tuyên

truyền, vận động nhân dân nhận tiền đền bù và bàn giao mặt bằng cho Chủ đầu tư

thực hiện theo đúng tiến độ.

Trong quá trình triển khai thực hiện dự án, một số hộ dân không đồng tình

với chính sách bồi thường, hỗ trợ của Nhà nước, có tư tưởng chống đối, thường

xuyên tụ tập kích động, gây mất an ninh trật tự nhằm gây áp lực với chính quyền

đòi áp dụng đơn giá bồi thường bằng giá đất ở (không đồng ý hỗ trợ bằng 50% giá

đất ở); kể cả các hộ không đủ điều kiện hỗ trợ theo Quyết định số 500/QĐ-UBND

ngày 17/02/2017 của UBND tỉnh Quảng Ninh. Cụ thể như sau:

Trường hợp 1: Gia đình ông Đặng Thanh Hồng cư trú tại khu Bí Trung 2,

phường Phương Đông, thành phố Uông Bí, có đơn đề nghị UBND phường Phương

Đông xác định loại đất và nguồn gốc đất không đúng không đúng với Luật đất đai,

mặc dù gia đình ông đã được UBND phường Phương Đông và UBND thành phố

Uông Bí đã tổ chức tuyên truyền vận động; đối thoại trực tiếp nhưng gia đình ông

vẫn tiếp tục kiến nghị đến các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Ngày 15/7/2017

50

UBND thành phố Uông Bí đã ban hành Quyết định số 374/QĐ-UBND Về việc giải

quyết đơn đề nghị của ông Đặng Thanh Hồng cư trú tại khu Bí Trung 2, phường

Phương Đông, thành phố Uông Bí.Với nội dung như sau:

Năm 1998, ông Đặng Thanh Hồng được UBND thị xã Uông Bí cấp Giấy

CNQSDĐ (số vào sổ cấp giấy 77) ngày 15/10/1998 thuộc thửa đất số 93 tờ bản đồ

số 17 mang tên ông Đặng Thanh Hồng với tổng diện tích 139m2, trong đó: đất ở tại

đô thị: 46 m2, đất trồng cây lâu năm: 93m2; thửa đất thuộc khu Bí Trung 2, phường

Phương Đông.

Năm 2015, khi GPMB thực hiện dự án Cải tạo, nâng cấp Quốc lộ 18A tại

thành phố Uông Bí đã chiếm dụng một phần diện tích đất phía trước cửa nhà của gia

đình ông Đặng Thanh Hồng (nằm ngoài Giấy CNQSDĐ được cấp).

Tại Biên bản xác định ranh giới, mốc giới và diện tích thửa đất do Công ty

cổ phần tư vấn và xây dựng Phương Đông lập ngày 30/5/2015 do bà Đặng Thị Lan

Anh (bà Anh là vợ ông Hồng), thuộc thửa đất số 18, tờ bản đồ GPMB số 5, khu Bí

Trung 2, phường Phương Đông: tổng diện tích là: 210,0m2, diện tích đất GPMB:

17,7m2, diện tích đất còn lại: 192,3m2.

- Kết quả xét duyệt nguồn gốc đất (lần 1) của UBND phường Phương Đông

ngày 7/8/2015 xác định như sau:

+ Trong tổng diện tích đất theo biên bản xác nhận ranh giới, mốc giới và diện

tích thửa đất GPMB tại thửa số 18, tờ bản đồ GPMB số 05, khu Bí trung 2 tổng diện

tích: 210m2, diện tích đất GPMB: 17,7m2, diện tích đất còn lại: 192,3m2. (trong tổng

số: 17,7m2; có 5,2m2 đất đã GPMB, diện tích còn lại chưa GPMB: 12,5m2)

+ Loại đất phải GPMB: là đất trồng cây lâu năm, nằm ngoài giấy chứng nhận

QSD đất.

+ Nguồn gốc thửa đất: Đất ông Vũ Văn Vân sử dụng ổn định trước

15/10/1993 ông Vân chuyển nhượng cho ông Hồng, ông Hồng đã được UBND

thành phố Uông Bí cấp giấy chứng nhận QSD đất (số vào sổ cấp giấy 77) ngày

15/10/1998,

51

- Kết quả xét duyệt nguồn gốc đất (lần 2) của phường Phương Đông ngày

25/2/2017 xác định như sau:

+ Trong tổng diện tích đất theo biên bản xác nhận ranh giới, mốc giới và diện

tích thửa đất GPMB tại thửa số 18, tờ bản đồ GPMB số 05, khu Bí trung 2 tổng diện

tích: 210m2, diện tích đất GPMB: 17,7m2, diện tích đất còn lại: 192,3m2. (trong tổng

số: 17,7m2; có 5,2m2 đất đã GPMB, diện tích còn lại chưa GPMB: 12,5m2)

+ Loại đất phải GPMB: là đất trồng cây lâu năm, nằm ngoài giấy chứng nhận

QSD đất.

- Nguồn gốc và quá trình sử dụng: Đất ông Số sử dụng có nhà ở từ trước ngày

18/12/1980 nhưng gia đình ông Số không có giấy tờ về quyền sử dụng đất được cơ

quan có thẩm quyền cấp, ông Số cho bà Luân, bà Luân tặng cho ông Vân, năm 1998

ông Vân chuyển nhượng cho ông Hồng. Ông Hồng được UBND thị xã Uông Bí

(nay là thành phố Uông Bí) cấp giấy chứng nhận QSD đất (số vào sổ cấp giấy 77)

ngày 15/10/1998.

- Thửa đất ông Hồng được bồi thường được tách ra từ thửa đất có nhà ở hình

thành trước ngày 18/12/1980 của ông Số (năm 1992 bản đồ giải thửa đã xác lập tên

ông Vũ Văn Vân thuộc thửa đất số 93 tờ bản đồ số 17).

Năm 1992, UBND thị xã Uông Bí (nay là thành phố Uông Bí) đo vẽ bản đồ

giải thửa, thực hiện nghị định 203- HĐBT ngày 21/12/1982 của Hội đồng Bộ

trưởng đã tách thửa đất của hộ dân đang quản lý sử dụng thành 02 thửa (phần diện

tích đất gia đình ông Hồng quản lý sử dụng ổn định nằm ngoài hành lang ATGT

thửa đất số 93 được cấp giấy chứng nhận QSD đất; phần diện tích đất các hộ quản

lý sử dụng ổn định nằm trong HL ATGT thửa đất số 94 không được cấp giấy chứng

nhận QSD đất nhưng trên thực tế gia đình ông Hồng vẫn sử dụng đến thời điểm thu

hồi đất với mục đích làm công trình phục vụ kinh doanh sân, lối đi, trồng cây bóng

mát...)

Căn cứ Quyết định số 500/QĐ-UBND ngày 17/2/2017 của UBND tỉnh

Quảng Ninh "về việc hỗ trợ khác đối với hộ gia đình sử dụng đất trước ngày

18/12/1980" thì ông Đặng Thanh Hồng ngoài việc được bồi thường về đất còn được

52

hưởng hỗ trợ khác bằng 50% giá đất ở tại Điều 1 Quyết định số 500/QĐ-UBND

ngày 17/2/2017 về việc sửa đổi khoản 1, Điều 1 Quyết định số 4114/QĐ-UBND

ngày 7/12/2016 của UBND tỉnh Quảng Ninh: Điều kiện được hưởng khoản hỗ trợ

khác đối với các hộ đang được bồi thường đất nông nghiệp trồng cây lâu năm nằm

trong phạm vi hành lang bảo vệ Quốc Lộ 18A.

Căn cứ quá trình sử dụng đất của ông Đặng Thanh Hồng và Giấy CNQSDĐ

(vào sổ cấp giấy số 77) mang tên ông Đặng Thanh Hồng đã được UBND thị xã

Uông Bí (nay là thành phố Uông Bí) cấp ngày 15/10/1998 cho thấy diện tích đất

GPMB chưa chiếm dụng hết phần đất thuộc hành lang theo giấy chứng nhận QSD

đất của ông Đặng Thanh Hồng được cấp là 15m. UBND phường Phương Đông xác

định diện tích, loại đất, nguồn gốc sử dụng đất của ông Đặng Thanh Hồng còn lại

phải GPMB là: 12,5m2; loại đất là: đất trồng cây lâu năm nằm GCN QSD đất là

đúng quy định.

Từ căn cứ trên UBND phường Phương Đông, thành phố Uông Bí xác định

trong tổng diện tích đất GPMB của gia đình ông Đặng Thanh Hồng: 17,7m2; có

5,2m2 đất do nhà nước quản lý (Diện tích đất trên nằm trong khoảng từ tim đường

18A mới trở vào 7,0m); Diện tích còn lại chưa GPMB: 12,5m2; (Diện tích đất trên

được xác định nằm trong khoảng từ 7,0m trở vào đến ranh giới GPMB) là đúng quy

định.

Từ những nhận định và căn cứ trên, không chấp nhận nội dung khiếu nại của

ông Đặng Thanh Hồng về việc đề nghị UBND phường Phương Đông xác định loại

đất, nguồn gốc sử dụng đất để bồi thường, hỗ trợ GPMB là đất ở. Nội dung khiếu

nại của ông Đặng Thanh Hồng là không có cơ sở giải quyết. Như vậy từ những căn

cứ pháp lý trên thì UBND thành phố đã làm đúng trình tự và đúng các quy định của

1 Căn cứ Quyết định số 374/QĐ-UBND ngày 15/7/2017 UBND thành phố Uông Bí "Về việc giải quyết đơn

đề nghị của ông Đặng Thanh Hồng cư trú tại khu Bí Trung 2, phường Phương Đông, thành phố Uông Bí"

pháp luật.1

53

Trường hợp 2: Ông Đỗ Đức Thắng, thường trú tại Khu Nam Trung, phường

Nam Khê, yêu cầu Tòa án tỉnh Quảng Ninh hủy Quyết định số: 3094/QĐ-UBND

ngày 29/5/2017 của Chủ tịch UBND thành phố Uông Bí về việc giải quyết khiếu nại

của ông Đỗ Đức Thắng trú tại tổ 1, khu Nam Trung, phường Nam Khê, thành phố

Uông Bí . Với nội dung như sau:

Dự án “Cải tạo, nâng cấp Quốc lộ 18A trên địa bàn thành phố Uông Bí theo

hình thức BOT” đã sử dụng 35,1m2 đất tại vị trí phía trước cửa nhà ông Đỗ Đức Thắng

tại tổ 1 khu Nam Trung, phường Nam Khê thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh.

Ngày 03/8/2015 Hội đồng đăng ký đất đai của phường xét duyệt nguồn gốc

đất đối với hộ gia đình ông Đỗ Đức Thắng thì tổng diện tích đất tại thửa đất số 17 tờ

bản đồ GPMB số 5 là: 387,4m2 diện tích thu hồi 35,1 m2; diện tích còn lại là 352,3

m2; nguồn gốc sử dụng đất phải thu hồi căn cứ GCNQSDĐ số P 137153 vào sổ cấp

giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 04 QSDĐ do UBND thị xã Uông Bí cấp

ngày 11/5/1998 mang tên ông Đỗ Đức Thắng: trong tổng diện tích thu hồi 35,1 m2

có 29,77m2 đất hành lang đường và 5,33 m2 đất hành lang suối.

Căn cứ vào kết quả xét duyệt nguồn gốc đất của phường Nam Khê, Trung

tâm phát triển quỹ đất đã lập phương án bồi thường, hỗ trợ cho hộ ông Đỗ Đức

Thắng theo quy trình và trình UBND thành phố phê duyệt, đã thông báo cho hộ gia

đình ông Đỗ Đức Thắng nhận tiền và bàn giao mặt bằng để thi công.

Không nhất trí với việc xác định nguồn gốc đất của UBND phường Nam

Khê, ông Đỗ Đức Thắng cung cấp thêm hồ sơ Phương án đền bù di chuyển tài sản

GPMB quốc lộ 18 số DB1992U mang tên ông Đỗ Đức Thắng, được lập năm 1997,

cùng các hồ sơ tài liệu khác và gửi đơn khiếu nại đến Ủy ban nhân dân thành phố

Uông Bí khiếu nại về việc xác định nguồn gốc đất của gia đình ông khi thực hiện dự

án cải tạo nâng cấp quốc lộ 18A giai đoạn 2015 - 2017 là chưa đúng. Ngày

21/12/2016, Chủ tịch UBND phường Nam Khê đã ban hành Quyết định số 184/QĐ-

CTUBND để giải quyết (lần đầu) khiếu nại của ông Đỗ Đức Thắng.

54

Ông Đỗ Đức Thắng tiếp tục khiếu nại đến Chủ tịch UBND Thành phố, với nội

dung khiếu nại Quyết định số 184/QĐ-CTUBND ngày 21/12/2016 của Chủ tịch

UBND phường Nam Khê.

Ngày 23/3/2017, Chủ tịch UBND thành phố Uông Bí ban hành quyết định số

1144/QĐ-UBND ngày 23/3/2017 của UBND thành phố Uông Bí về việc xác minh

nội dung khiếu nại của ông Đỗ Đức Thắng, cư trú tại tổ 1, khu Nam Trung, phường

Nam Khê, thành phố Uông Bí.

Theo Bản đồ hiện trạng GPMB tỷ lệ 1/500 (lập tháng 2/2015) và bản vẽ trích

lục thửa đất kèm theo "Biên bản xác nhận ranh giới, mốc giới và diện tích thửa đất

GPMB (theo hiện trạng sử dụng đất)" do Trung tâm Phát triển quỹ đất thuộc Sở Tài

nguyên và Môi trường lập, thì phạm vi và ranh giới GPMB thuộc thửa đất số 17 tờ

bản đồ số 05 có chữ ký của ông Thắng được xác định cụ thể:

- Mặt trước giáp đường phía Đông cách tim đường 12,08m.

- Mặt trước giáp đường phía Tây cách tim đường 12,25m.

Trong quá trình thực hiện giải phóng mặt bằng ông Đỗ Đức Thắng cung cấp

giấy CNQSDĐ số P 137153 vào sổ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 04

QSDĐ do UBND thị xã Uông Bí cấp ngày 11/5/1998, ngoài ra không cung cấp giấy tờ

nào khác.

- Theo Giấy CNQSDĐ số P 137153 vào sổ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng

đất số 04 QSDĐ do UBND thị xã Uông Bí cấp ngày 11/5/1998 (ranh giới thửa đất cách

tim đường 15m), thì ranh giới GPMB còn cách ranh giới thửa đất là:

+ Mặt trước giáp đường phía Đông khoảng cách là: (15m – 12,08m) =

2,92m.

+ Mặt trước giáp đường phía Tây khoảng cách là: (15m – 12.25m) = 2,75m.

Như vậy chỉ giới GPMB của dự án chưa chiếm dụng vào ranh giới thửa đất

theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã được cấp.

Trong “Biên bản xác định khối lượng đền bù GPMB (đất ở, đất vườn, ao bị

đường 18 chiếm dụng)” do Ban GPMB Quốc lộ 18 lập ngày 10/10/1997, có chữ ký

55

xác nhận của ông Đỗ Đức Thắng, có ghi nội dung: “Các giấy tờ liên quan do chủ hộ

cung cấp gồm: Giấy xác nhận của UBND, UBMTTQ”. Như vậy việc khảo sát, đo vẽ

khi thực hiện dự án Nâng cấp cải tạo Quốc lộ 18A giai đoạn 1996 - 2000 đã căn cứ

vào chiều rộng nền đường hiện trạng và đối chiếu với ranh giới quy định trong Giấy

Giấy xác nhận của UBND, UBMTTQ xã Nam Khê (thời điểm 1996-1997) để xác

định ranh giới thửa đất và diện tích bị chiếm dụng tạm thời của gia đình ông Thắng.

Việc xác định ranh giới GPMB để thực hiện dự án “Cải tạo, nâng cấp Quốc

lộ 18A trên địa bàn thành phố Uông Bí theo hình thức BOT” giai đoạn năm 2015 -

2017 không chiếm dụng vào ranh giới đất của ông Đỗ Đức Thắng theo GCNQSDĐ

số P 137153 vào sổ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 04 QSDĐ do UBND

thị xã Uông Bí cấp ngày 11/5/1998, mang tên Đỗ Đức Thắng và cũng chưa chiếm

dụng vào phần diện tích đất mượn (đất ở) 32m2 trên hồ sơ bồi thường do Ban

GPMB Quốc lộ 18A lập năm 1997 khi thực hiện dự án Nâng cấp mở rộng Quốc lộ

18A giai đoạn 1996 - 2000.

Trên cơ sở tài liệu chứng cứ thu thập được, căn cứ các quy định pháp luật đã

được viện dẫn, việc ông Đỗ Đức Thắng khởi kiện yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh

Quảng Ninh hủy Quyết định số: 3094/QĐ-UBND ngày 29/5/2017 của Chủ tịch

UBND thành phố Uông Bí về việc giải quyết khiếu nại của ông Đỗ Đức Thắng trú

tại tổ 1, khu Nam Trung, phường Nam Khê, thành phố Uông Bí (lần 2) và các quyết

định trái pháp luật có liên quan là không có căn cứ pháp lý.

Ngày 20/11/2017 Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh bác đơn khởi kiện của

ông Đỗ Đức Thắng đối với các yêu cầu trên.

Căn cứ vào Luật đất đai năm 2013 và các văn bản hướng dẫn pháp luật về

bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi nhà nước thu hồi đất cho dự án cải tạo, nâng

cấp Quốc lộ 18A tại thành phố Uông Bí đã làm theo đúng trình tự và đúng theo quy

2 Căn cứ Quyết định số: 3094/QĐ-UBND ngày 29/5/2017 của Chủ tịch UBND thành phố Uông Bí "về việc

giải quyết khiếu nại của ông Đỗ Đức Thắng trú tại tổ 1, khu Nam Trung, phường Nam Khê, thành phố Uông Bí (lần 2)"

định của pháp Luật.2

56

Bảng 2.2: Bảng tổng hợp kinh phí bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất

thực hiện dự án cải tạo, nâng cấp Quốc lộ 18A tại thành phố Uông Bí.

STT Tên công việc

Đền bù về đất, kiến trúc, cây cối hoa mà: Di chuyển hạ tầng Kinh phí bồi thường, hỗ trợ (triệu đồng) 56.563.215.408. 27.381.969.000 1 2

Chi phí cưỡng chế 898.259.500 3

Tổng cộng 84.843.443.908

(Nguồn: Trung tâm phát triển quỹ đất thành phố Uông Bí)

Bảng 2.2: Bảng giá đất ở, đất trồng cây lâu năm trên địa bàn thành phố Uông

Bí, tỉnh Quảng Ninh.

Tên đoạn đường Đơn giá đồng/m2

8.100.000 STT A I 1

7.500.000 2

3.100.000 3

6.800.000 II 1

4.800.000 6.800.000 9.000.000 2 III 1 IV 1

Đất ở Phường Phương Đông Đoạn từ cầu Sến đến hết khu quy hoạch dân cư của Công Ty Hà Khánh Anh. Đoạn từ tiếp theo khu quy hoạch dân cư của Công Ty Hà Khánh Anh đến cầu Cảnh Nghi Đoạn từ tiếp theo cầu Cảnh Nghi đến giáp địa phận huyện Đông Triều. Phường Nam Khê Đoạn từ giáp địa phận phường Trưng Vương đến cầu Chạp Khê II Đoạn từ cầu Chạp Khê II đến giáp thị xã Quảng Yên Phường Trưng Vương Các vị trí bám mặt đường 18A mới Phường Yên Thanh Các vị trí bám mặt đường Quốc lộ 18A mới, đoạn từ ngã ba vườn hoa đến cầu Sông Sinh mới Các vị trí bám mặt đường Trần Nhân Tông Phường Quang Trung Các vị trí bám mặt đường 18A mới Đất trồng cây lâu năm 10.400.000 8.400.000 50.000 2 V 1 B

(Nguồn: Quyết định số 3238/QĐ-UBND ngày 26/12/2014 của UBND Tỉnh)

57

2.2.4. Tình hình áp dụng pháp luật về bồi thường hỗ trợ về đất đai, tài sản trên

thực tế

Trong những năm qua, thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh đều có chủ

trương nhất quán áp dụng theo quy định của Luật đất đai qua các thời kỳ và các văn

bản hướng dẫn thi hành trong công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng. Trong quá

trình áp dụng pháp luật về bồi thường, hỗ trợ đối với trường hợp Nhà nước thu hồi

đất đang sử dụng để phục vụ cho mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia,

lợi ích công cộng, khi thu hồi đất, Nhà nước sẽ phê duyệt phương án bồi thường, hỗ

trợ, tái định cư cho người có đất bị thu hồi để giải phóng mặt bằng. Trong quá trình

phát triển kinh tế của Thành phố, nhu cầu phát triển kết cấu hạ tầng kỹ thuật, cơ sở

hạ tầng xã hội, phát triển công nghiệp và dịch vụ... đòi hỏi quỹ đất khá lớn mà Nhà

nước cần thu hồi .Khẳng định vị thế là một trong những thành phố đầu tàu trong

chiến lược phát triển kinh tế xã hội, từ năm 2006 tỉnh đã điều chỉnh, bổ sung “Quy

hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2010, tầm nhìn đến năm 2020”

nhằm khai thác các nguồn lực một cách hiệu quả để phục vụ phát triển kinh tế - xã

hội. Thành phố cũng đã bắt đầu chuyển dịch dần khỏi việc phụ thuộc vào ngành

khai thác than, hệ thống giao thông kết nối vùng được tập trung đầu tư, các Khu

kinh tế, Khu công nghiệp được tập trung thu hút các nhà đầu tư như Khu Công

nghiệp AMATA, khu đô thị Công thành, khu nghỉ dưỡng Hồ Yên Trung…

Để đảm bảo quyền lợi cho người dân có đất bị thu hồi, hàng năm UBND

Thành phố điều tra, khảo sát giá các loại đất trên địa bàn thành phố, báo cáo UBND

tỉnh Quảng Ninh ban hành khung giá các loại đất do Nhà nước quy định bảo đảm

nguyên tắc: sát với giá chuyển nhượng quyền sử dụng đất thực tế trên thị trường

trong điều kiện bình thường; các thửa đất liền kề nhau, có điều kiện tự nhiên, kinh

tế, xã hội, kết cấu hạ tầng như nhau, có cùng mục đích sử dụng hiện tại, cùng mục

đích sử dụng theo quy hoạch thì mức giá như nhau; đất tại khu vực giáp ranh giữa

các phường, huyện thị trên địa bàn Tỉnh, có điều kiện tự nhiên, kết cấu hạ tầng như

nhau, có cùng mục đích sử dụng hiện tại, cùng mục đích sử dụng theo quy hoạch thì

mức giá như nhau theo đúng quy định tại Ðiều 56 Luật đất đai 2003; giá trị bồi

thường cho người có đất bị thu hồi được tính theo giá đất do Nhà nước quy định

58

theo các nguyên tắc trên tạo nên tính nhất quán về mặt giá trị. Khi thực hiện việc

thu hồi đất, bồi thường, giải phóng mặt bằng sau khi quy hoạch, kế hoạch sử dụng

đất được công bố hoặc khi dự án đầu tư có nhu cầu sử dụng đất phù hợp quy hoạch,

kế hoạch sử dụng đất được cơ quan nhà nước có thẩm quyền xét duyệt theo tinh

thần tại Ðiều 39 Luật đất đai 2003. Việc thu hồi đất, bồi thường, giải phóng mặt

bằng theo dự án, công trình sẽ được hạn chế dần mà thay chủ yếu bằng cơ chế thực

hiện việc thu hồi đất, bồi thường, giải phóng mặt bằng sau khi quy hoạch, kế hoạch

sử dụng đất được công bố để tránh tình trạng coi đất nông nghiệp là đất phi nông

nghiệp theo dự án. Nhất quán với chủ trương người bị thu hồi loại đất nào thì được

bồi thường bằng việc giao đất mới có cùng mục đích sử dụng, nếu không có đất để

bồi thường thì được bồi thường bằng giá trị quyền sử dụng đất tại thời điểm có

quyết định thu hồi. Trên thực tế cũng có thể thấy, có nhiều hộ dân chây ỳ không

phối hợp trong công tác giải phóng mặt bằng, khi có chính sách mới lại được bồi

thường cao hơn với những người đã tự nguyện chấp hành....Chính vì vậy, đã nảy

sinh nhiều khiếu kiện của người dân về mức bồi thường, hỗ trợ, đồng thời tạo nên

tâm lý nặng nề đối với nhà đầu tư khi thực hiện bồi thường, hỗ trợ, tái định cư để

giải phóng mặt bằng. Có thể nói rằng, cơ chế thực hiện công tác bồi thường khi Nhà

nước thu hồi đất để phát triển kinh tế trong những năm qua trên địa bàn thành phố

Uông Bí nói riêng và UBND tỉnh Quảng Ninh nói chung gặp một số khó khăn do

các quy định của pháp luật đất đai vẫn còn bộc lộ một số hạn chế nhất định. Bên

cạnh đó, vấn đề xác định giá đất để tính bồi thường cho người bị thu hồi đất chưa

được quy định theo một chuẩn mực nhất quán; có nhiều quyết định của Uỷ ban

nhân dân tỉnh về giá đất để tính bồi thường còn thiếu cơ sở. Mặt bằng chung người

bị thu hồi đất nông nghiệp thường chịu thiệt thòi, người bị thu hồi đất phi nông

nghiệp thường được lợi. Việc không bảo đảm công bằng trong những người sử

dụng đất chung quanh dự án, công trình đang triển khai. Trên thực tế vẫn còn nhiều

quỹ đất sử dụng không đúng mục đích gây lãng phí tiền ngân sách nhà nước, ảnh

hưởng đến niềm tin của người dân và các cơ quan nhà nước trong quá trình thực

hiện các phương án bồi thường và thu hồi đất.

59

Công tác bồi thường, hỗ trợ và tái định cư luôn được thành phố quan tâm chỉ

đạo tổ chức thực hiện công khai, dân chủ và đúng trình tự, thủ tục theo quy định của

pháp luật. Đặc biệt, việc thực hiện dự án với sự tập trung, thống nhất cao về chủ

trương và đề ra các giải pháp tổ chức thực hiện tương đối đồng bộ, chặt chẽ, có hiệu

quả. Có thể kể đến như dự án đường Uông Bí - Hoành Bồ; đường Yên Tử, Ba

Vàng, Khu đô Thị Tân Thành, Việt Long…

Mặc dù, những quy định của Luật Đất đai 2013 đã đi vào cuộc sống, bước

đầu phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của thành phố nhưng theo đồng

chí Vũ Văn Đát, Phó giám đốc Sở TN&MT thì trong quá trình thực hiện nảy sinh

một số vướng mắc, một số quy định còn chồng chéo, chưa thống nhất; việc chuyển

tiếp giữa Luật Đất đai 2003 và Luật Đất đai 2013 đã gây ra một số khó khăn cho các

địa phương trong thực hiện thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước

thu hồi đất để thực hiện các dự án đầu tư (đặc biệt là chính sách hỗ trợ đối với đất

nông nghiệp khác nhau). Bất cập giữa thực hiện chính sách bồi thường, hỗ trợ, tái

định cư với chính sách cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

Đối với dự án khi Nhà nước thu hồi đất thực hiện dự án mới với số lượng hộ

gia đình và tổ chức sử dụng đất bị ảnh hưởng lớn thì Luật Đất đai năm 2013 quy

định việc quyết định thu hồi đất và phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ và tái

định cư trong cùng một ngày là hết sức khó khăn khi thực hiện. Hoặc với những

trường hợp vi phạm pháp luật đất đai như chậm tiến độ sử dụng đất thì không được

xem xét đến việc bồi thường hoặc hỗ trợ tài sản đã đầu tư chính đáng trên khu đất bị

thu hồi. Trên thực tế, khi thực hiện lại nảy sinh vướng mắc vì có những hạng mục

công trình nhà đầu tư đã đầu tư đúng nhưng chỉ chậm tiến độ.

Không chỉ vậy, qua việc xử lý đơn thư và tiếp công dân hằng tháng trên địa

bàn thành phố Uông Bí, hầu hết những khiếu nại tố cáo liên quan đến bồi thường,

hỗ trợ, tái định cư ở nhiều trường hợp vẫn chưa giải quyết được vấn đề là đảm bảo

hài hòa lợi ích giữa nhà nước, nhà đầu tư và người sử dụng đất. Trong quá trình

thực hiện bồi thường, hỗ trợ tái định cư khi nhà nước thu hồi đất cũng gặp phải

những tồn tại, khó khăn vướng mắc như: Việc hỗ trợ đối với đất vườn ao trong cùng

thửa đất có nhà ở, theo Luật Đất đai năm 2003 thì khi nhà nước thu hồi đất vườn ao

60

trong cùng thửa đất có nhà ở, việc được bồi thường theo giá đất nông nghiệp,

còn được hỗ trợ theo giá đất ở bằng 30-70% giá đất ở thửa đất đó, diện tích hỗ trợ

không quá 5 lần hạn mức giao đất ở tại địa phương. Đối với Quảng Ninh quy định

khoản hỗ trợ đó bằng 50% giá thửa đất ở bị thu hồi theo quy định của Luật đất đai

năm 2003.

Hiện nay, Luật Đất đai 2013 quy định chỉ được bồi thường theo giá đất nông

nghiệp, không còn khoản hỗ trợ bằng 50% giá đất ở. Trong khi việc chuyển đổi mục

đích sử dụng đất đối với hộ gia đình cá nhân từ đất vườn ao trong cùng thửa đất có

nhà ở theo quy định tại khoản 2 điều 5 Nghị định số 45/2014/NĐ-CP ngày

15/5/2014 của Chính phủ quy định về thu tiền sử dụng đất thì thu tiền bằng 50%

chênh lệch giữa tiền sử dụng đất theo giá đất ở với tiền sử dụng đất tính theo giá đất

nông nghiệp. Điều này gây mâu thuẫn về lợi ích, gây khó khăn trong việc GPMB….

Những vướng mắc trong Luật Đất đai 2013 còn tồn tại trong việc cấp giấy

CNQSDĐ, trong quá trình thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, giao đất, cho

thuế đất, chuyển mục đích sử dụng đất…

Phải khẳng định rằng đất đai luôn là lĩnh vực nóng, nếu không kịp thời tháo

gỡ các vướng mắc, sẽ ảnh hưởng tới môi trường đầu tư. Mới đây, tại buổi làm việc

của Bộ TN&MT tại Quảng Ninh, tỉnh cũng đã đề xuất, kiến nghị những vướng mắc

trong việc thực thi Luật Đất đai 2013 để Bộ tổng hợp báo cáo Chính phủ trong thời

gian tới. Tin tưởng rằng những vướng mắc sẽ được thao gỡ để Luật thực sự đi vào

cuộc sống.

2.2.5. Đánh giá chung thực tiễn áp dụng pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định

cư khi nhà nước thu hồi đất cho dự án cải, nâng cấp quốc lộ 18A tại địa bàn

thành phố Uông Bí

2.2.5.1. Những kết quả đạt được

Năm 2015, Uông Bí xác định nhiệm vụ trọng tâm “Phát huy sức mạnh tổng hợp

của cả hệ thống chính trị tập trung làm tốt công tác giải phóng mặt bằng, thu hút các

nguồn lực để đầu tư nâng cấp cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội”.

Ban Thường vụ thành phố đã có Quyết định số 1098-QĐ/TU về việc kiện

61

toàn Ban chỉ đạo đền bù GPMB do đồng chí Chủ tịch UBND thành phố làm Trưởng

ban; 11/11 xã, phường cũng đã thành lập Ban chỉ đạo đền bù GPMB cấp cơ sở.

Hàng tháng, UBND thành phố tổ chức họp giao ban công tác bồi thường,

GPMB.

Thành phố tập trung chỉ đạo quyết liệt công tác GPMB phục vụ cho đầu tư,

phát triển. Huy động cả hệ thống chính trị tham gia thực hiện công tác GPMB với

phương châm: Đảng lãnh đạo, Chính quyền tổ chức thực hiện, các đoàn thể quần

chúng phối hợp tham gia. Trong đó tích cực tập trung chỉ đạo thực hiện công tác

GPMB các dự án lớn đặc biệt là dự án cải tạo, nâng cấp Quốc lộ 18A tại thành phố

Uông Bí. Công tác vận động, tuyên truyền tại dự án luôn được chú trọng, đặc biệt là

tại những trường hợp có vướng mắc, thiếu hợp tác của người dân.

Hệ thống các văn bản liên quan đến công tác thu hồi đất, GPMB,

BTHT&TĐC cơ bản được ban hành kịp thời, đầy đủ, góp phần xây dựng chặt chẽ

các phương án BTHT nhằm nâng cao hiệu quả công tác GPMB tại dự án.

Hội đồng BTHT&TĐC đã áp dụng đầy đủ, công khai, minh bạch và chặt chẽ

các chế độ chính sách về BTHT&TĐC theo quy định của Nhà nước trong quá trình

tổ chức thực hiện dự án.

Có chế độ thưởng cho các tổ chức, cá nhân và hộ gia đình bàn giao mặt bằng

sớm, đúng tiến độ.

Mặc dù có nhiều nguyên nhân khác nhau làm ảnh hưởng rất lớn đến việc xác

định giá đất, nguồn gốc sử dụng đất của các hộ dân, diện tích đất để bồi thường…

dẫn đến tiến độ giải phóng mặt bằng bị ảnh hưởng, phát sinh đơn thư khiếu nại, kiến

nghị của người dân có đất bị thu hồi song dưới sự tập trung chỉ đạo của cả hệ thống

chính trị vào cuộc đã đẩy nhanh tiến độ của sự án đảm bảo minh bạch, công khai

theo đúng quy định của pháp luật.

Việc thực hiện các nội dung xung quanh vấn đề bồi thường, hỗ trợ GPMB

khi Nhà nước thu hồi đất cơ bản thực hiện theo đúng Nghị định số 47/2014/NĐ-CP

và các quy định của UBND tỉnh Quảng Ninh.

62

Việc bồi thường GPMB được thực hiện theo đúng trình tự quy định. Bồi

thường GPMB được triển khai trước khi có quyết định thu hồi đất của cơ quan Nhà

nước có thẩm quyền, tạo điều kiện có sẵn đất sạch để giao cho doanh nghiệp thực

hiện dự án khi Nhà nước có quyết định giao đất.

Đối tượng và điều kiện để được bồi thường hỗ trợ được xem xét, cân nhắc

kỹ lưỡng, có lý, có tình và tuân thủ chặt chẽ các quy định của pháp luật.

Đối với hoa màu và tài sản, chính sách bồi thường nhìn chung là thỏa

đáng.

Chính sách hỗ trợ thực hiện theo đúng quy định của Chính phủ và quy định

của địa phương.

2.2.5.2. Những vướng mắc và nguyên nhân

- Về khách quan:

+ Một số vị trí đất khó khăn trong việc xác định nguồn gốc cùng với việc

một số cán bộ thuyên chuyển công tác khiến cho công tác điều tra, lập và thẩm định

phương án BTHT bị chậm trễ.

+ Các văn bản pháp lý có nhiều sự thay đổi trong khi sự án kéo dài đến quá

trình xây dựng phương án BTHT&TĐC cũng phải thay đổi theo làm ảnh hưởng đến

tiến độ của dự án.

+ Mặc dù có sự điều chỉnh về giá đất cho các phương án đã phê duyệt. Tuy

nhiên sự chênh lệch giá BTHT trước khi thực hiện điều chỉnh diễn ra trong thời gian

dài (từ 2015-2017) làm ảnh hưởng đến tâm lý người dân do sự chênh lệch về quyền

lợi qua các lần điều chỉnh giá đất, cũng bởi nguyên nhân này mà một bộ phận người

dân thiếu sự hợp tác trong quá trình xây dựng phương án BTGPMB.

+ Việc xác định giá đất thị trường làm căn cứ xây dựng bảng giá đất bồi

thường không thực hiện được dù thành phố đã chỉ đạo thuê đơn vị tư vấn thực hiện

công việc này. Nguyên nhân bởi thời gian này các giao dịch bất động sản được xác

định trên hồ sơ lưu trữ tại Chi cục thuế đều theo giá Nhà nước quy định. Do vậy,

63

việc điều chỉnh giá đất cho phù hợp gặp khó khăn và chậm trễ, qua đó khiến cho

nhiều phương án BTHT phải tạm dừng để chờ đơn giá điều chỉnh.

+ Chế độ chính sách về bồi thường thường xuyên thay đổi, có quá nhiều

văn bản quy định điều chỉnh công tác GPMB dẫn đến khó hiểu, khó áp dụng và

đối với nhân dân do không hiểu dẫn đến không chấp hành, dễ bị kích động, lôi

cuốn. Nhiều dự án áp dụng hai chính sách, dẫn đến khiếu kiện, tụ tập đông

người.

+ Sự phối kết hợp của các cơ quan liên quan trong công tác GPMB còn nhiều

hạn chế, cán bộ đoàn thể làm công tác tuyên truyền vận động nhân dân nhưng hiểu

biết về chính sách GPMB còn rất nhiều hạn chế, không có chính kiến dẫn đến công

tác tuyên truyền vận động không có hiệu quả, nhiều khi còn có tác dụng ngược lại.

+ Một số phương án sử dụng vốn ngân sách Nhà nước khi phương án được

phê duyệt Chủ đầu tư giải quyết kinh phí để chi trả còn chậm, khi có kinh phí thì giá

cả bồi thường thay đổi phải lập lại phương án.

- Về chủ quan:

+ Một số cán bộ công chức còn thiếu kinh nghiệm chuyên môn, năng lực

lãnh đạo, chưa cương quyết, đùn đẩy và lẩn tránh trách nhiệm trong công việc.

+ Do một bộ phận không nhỏ người dân có tâm lý ngại thay đổi đối với yêu

cầu phát triển xã hội nên thiếu hợp tác trong việc bàn giao mặt bằng.

+ Việc vận dụng các chế độ chính sách BTHT về đất đai chưa được linh

hoạt, đôi khi còn cứng nhắc làm ảnh hưởng đến quyền lợi của người bị thu hồi đất,

nên không nhận được sự ủng hộ của một bộ phận người dân bị thu hồi đất.

+ Tuy đã có sự phối hợp giữa các ngành, các cấp nhưng còn chưa được chặt

chẽ nên xảy ra tình trạng người dân hợp tác, ủng hộ và muốn thực hiện bàn giao

nhanh mặt bằng nhưng vẫn phải chờ đợi việc xây dựng, thẩm định, thay đổi phương

án trong thời gian khá dài.

+ Việc xác định diện tích đất đã bồi thường khi cải tạo, nâng cấp Quốc lộ 18

giai đoạn 1996-2000; Bồi thường đất hành lang đường khi cấp giấy chứng nhận

64

quyền sử dụng đất cho các hộ dân bị trừ đi, nhưng thực tế người dân vẫn quản lý sử

dụng; Bồi thường đất thuộc hành lang đường giao thông; Bồi thường về chênh lệch

cốt; Bồi thường công trình ngoài mốc giới GPMB… Ủy ban nhân dân tỉnh và các

sở: Tài chính, Tài nguyên và Môi trường, Xây dựng, trong phạm vi trách nhiệm và

quyền hạn của mình đã có những văn bản chỉ đạo cụ thể để UBND thành phố Uông

Bí căn cứ tổ chức thực hiện. Đồng chí Phó chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh và lãnh

đạo các sở, ngành của tỉnh cũng đã nhiều lần xuống kiểm tra, làm việc với các địa

phương, chỉ đạo xử lý cụ thể tại hiện trường và tập trung chỉ đạo tháo gỡ những

vướng mắc phát sinh trong quá trình tổ chức thực hiện GPMB.

+ Các quy định về bồi thường, hỗ trợ đất nông nghiệp xen kẽ trong khu dân

cư, tỷ lệ hỗ trợ đất nông nghiệp trong địa giới hành chính phường, hạn mức tính hỗ

trợ đất nông nghiệp trong khu dân cư còn khó khăn trong việc triển khai thực hiện;

việc xác định giá trị hỗ trợ theo tỷ lệ phần trăm giá đất ở đôi khi không đảm bảo sự

công bằng, cùng một loại đất nông nghiệp như nhau, trong cùng một dự án nhưng

mức hỗ trợ khác nhau, chênh lệch lớn gây tâm lý so sánh, bức xúc cho người dân.

Việc tính giá đất ở trung bình theo văn bản số 310/BTNMT-TCQLĐĐ ngày

29/9/2010 của Bộ Tài nguyên và môi trường còn bất cập do việc xác định giá đất

trung bình trong trường hợp ranh giới dự án có đất ở và dự án không có đất ở đối

với dự án trên cùng một phường sẽ khác nhau.

+ Công tác thu hồi đất, bồi thường GPMB, gồm: xác định giá đất, xác định

loại đất, lập phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư, giải quyết việc làm… có lúc,

có nơi làm chưa đảm bảo theo quy định, chưa chính sách, có khi còn để xảy ra thiếu

sót, sai phạm hoặc thực hiện thiếu công khai, dân chủ, công bằng, dẫn đến công dân

không chấp nhận, phát sinh khiếu nại đòi quyền lợi, có trường hợp còn bức xúc dẫn

đến tố cáo việc làm sai của cán bộ hoặc tập hợp đông người khiếu nại gay gắt.

+ Việc thu hồi đất, giao đất, cho thuê đất cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng

đất còn để xảy ra sai sót: sai diện tích, sai vị trí, cấp chồng chéo hay không đúng chủ sở

hữu, không theo quy hoạch…

65

+ Việc quản lý nhà nước về đất đai, hồ sơ địa chính, bản đồ lưu trữ không

đầy đủ, thiếu cập nhật thường xuyên dẫn đến tình trạng lấn chiếm đất công, chuyển

đổi mục đích sử dụng đất không đúng quy định, xây dựng nhà ở, công trình trái

phép nhưng không được kiểm tra, xử lý kịp thời.

+ Công tác quản lý đất đai từ những giai đoạn trước (trước năm 1992 khi

các địa phương chưa tiến hành đo vẽ trích lục, giải thửa và quy chủ đất đai) còn

thiếu chặt chẽ, hồ sơ quản lý của cơ quan chức năng (sổ địa chính, bản đồ địa chính,

bản đồ giải thửa…) không được cập nhật, thất thoát và không đầy đủ vì vậy gây

nhiều khó khăn trong việc xác minh nguồn gốc hình thành, sử dụng đất. Việc giao

đất cho các hộ dân trước đây để sản xuất nông nghiệp theo Nghị định số

64/1993/NĐ-CP ngày 27/9/1993 của Chính phủ chưa được thực hiện tốt, thực tế đất

nông nghiệp do người dân quản lý, sử dụng nhưng chưa được cấp giấy chứng nhận

mà tồn tại hình thức Hợp tác xã quản lý, do vậy gặp khó khăn khi thực hiện bồi

thường GPMB. Ở một số địa phương việc thực hiện chức năng quản lý nhà nước về

đất đai còn thiếu chặt chẽ, có dấu hiệu buông lỏng, biểu hiện rõ nhất là chính quyền

cấp huyện, xã không nắm được tình hình đất giao cho các dự án. Công tác kiểm tra,

thanh tra về quản lý, sử dụng đất đai giao cho các dự án chưa được quan tâm đúng

mức. Những bất cập và yếu kém trong công tác quản lý, sử dụng đất đai đã khiến

cho việc phát huy tiềm năng đất đai bị hạn chế, ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế

- xã hội.

+ Công tác quy hoạch, quản lý sử dụng đất còn hạn chế: Từ năm 1997, tỉnh

Quảng Ninh đã triển khai lập quy hoạch sử dụng đất và đến khi hoàn thành lập quy

hoạch chi tiết cấp xã đã kéo dài đến 10 năm. Vì vậy nhiều chỉ tiêu định hướng trước

đây không còn phù hợp, quy hoạch sử dụng đất phải điều chỉnh để phù hợp với tình

hình của địa phương. Mặt khác, tiến độ lập quy hoạch, chất lượng quy hoạch, kế

hoạch sử dụng đất còn chậm so với yêu cầu. Công tác giao đất, cho thuê đất, thu hồi

đất bồi thường, GPMB ở nhiều địa phương còn yếu kém, nhiều nơi còn sai phạm. Ở

một số địa phương, công tác lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện các chủ trương,

đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước chưa được thường xuyên, đồng bộ.

Việc công bố quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất chưa thực hiện theo quy định của

66

pháp luật đất đai; chưa thực sự quan tâm, thực hiện đúng các chỉ tiêu quy hoạch, kế

hoạch sử dụng đất đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt.

+ Khi thực hiện Luật Đất đai năm 2003, chính sách pháp luật về đất đai có

nhiều bất cập, chậm được bổ sung, sửa đổi, có nhiều văn bản dưới luật để hướng

dẫn thi hành Luật Đất đai năm 2003 nhưng còn nhiều vấn đề chưa rõ, còn chồng

chéo, mâu thuẫn. Ví dụ như xác định các giấy tờ theo khoản 1 điều 50 Luật Đất đai

năm 2003 đôi lúc còn khó áp dụng trong thực tiễn. Chính sách pháp luật về quản lý,

sử dụng đất đai qua các thời kỳ có nhiều thay đổi, thiếu tính ổn định, chưa đồng bộ,

có những quy định chưa sát thực tế, thiếu cụ thể. Việc xác định các loại giấy tờ theo

quy định tại khoản 1, điều 50, Luật Đất đai năm 2003 xác định các khoản tiền người

sử dụng đã nộp có tương đương với tiền sử dụng đất hay không trước thời điểm

Luật Đất đai năm 1993 có hiệu lực thi hành, hay là việc xác định giá đất thị trường,

chính sách hỗ trợ đất nông nghiệp xen kẽ trong khu dân cư... Riêng trong lĩnh vực

GPMB, từ sau khi có Luật Đất đai năm 2003, Chính phủ đã ban hành 04 Nghị định

quy định chi tiết (Nghị định số 197/2004/NĐ-CP ngày 03/12/2004 của Chính phủ

Quy định về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất; Nghị định

số 17/2006/NĐ-CP ngày 27/01/2006 của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung một số điều

của các Nghị định hướng dẫn thi hành Luật Đất đai và Nghị định số 187/2004/NĐ-

CP về việc chuyển công ty nhà nước thành công ty cổ phần; Nghị định số

84/2004/NĐ-CP ngày 25/5/2007 của Chính phủ Quy định bổ sung về việc cấp giấy

CNQSD đất, thu hồi đất, thực hiện quyền sử dụng đất, trình tự, thủ tục bồi thường,

hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất và giải quyết khiếu nại về đất đai; Nghị

định 69/2009/NĐ-CP ngày 13/8/2009 của Chính phủ về quy hoạh sử dụng đất, giá

đất, thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ và tái định cư). Tuy văn bản hướng dẫn ban hành

nhiều, nhưng một số nội dung còn gây khó khăn trong việc thực hiện, chính sách

sau ban hành có lợi nhiều hơn trước dẫn đến khó khăn trong xử lý bồi thường

chuyển tiếp giữa chính sách cũ và mới. Giá đất bồi thường tại nhiều nơi chưa sát giá

thị trường; có sự chênh lệch lớn, có một số nơi chênh lệch quá lớn. Bên cạnh đó

trình tự, thủ tục thu hồi đất, giao đất, cấp GCNQSDĐ, bồi thường, hỗ trợ tái định cư

khi nhà nước thu hồi đất còn quá "nhiêu khê" rườm rà, nhiều thủ tục chưa đồng bộ

67

với các thủ tục về đầu tư, xây dựng, thủ tục hành chính đã làm hao phí thời gian của

các chủ đầu tư, ảnh hưởng đến hoạt động trong lĩnh vực đầu tư và quản lý đất đai.

Chính sự bất cập này đã làm cho các cơ quan quản lý Nhà nước khó áp dụng, gây

khó khăn cho việc quản lý, sử dụng đất đai.

+ Quá trình thực hiện dự án chưa làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục vận

động thuyết phục ngay từ cơ sở, thực hiện chưa tốt, chưa tập trung giải quyết khiếu

kiện ngay từ đầu. Sự chỉ đạo của một số cấp ủy Đảng, chính quyền, sự phối hợp

giữa chính quyền, các cơ quan chức năng, các tổ chức đoàn thể có lúc, có nơi còn

chưa chặt chẽ dẫn đến khiếu kiện của công dân chậm được giải quyết hoặc giải

quyết nhưng còn có lúc, có nơi chưa thấu tình đạt lý.

68

CHƯƠNG 3: KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ BỒI THƯỜNG,

HỖ TRỢ, TÁI ĐỊNH CƯ KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT CHO DỰ ÁN

CẢI TẠO, NÂNG CẤP QUỐC LỘ 18A TẠI THÀNH PHỐ UÔNG BÍ, TỈNH

QUẢNG NINH.

3.1. Định hướng chính sách về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi nhà nước

thu hồi đất cho dự án cải tạo, nâng cấp quốc lộ 18A tại thành phố Uông Bí, tỉnh

Quảng Ninh.

Việc xây dựng chính sách về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu

hồi đất cần có một quá trình nghiên cứu toàn diện, sâu sát. Nội dung chính sách cần

được quy định rõ ràng, dễ hiểu. Trình tự, thủ tục thực hiện bồi thường, hỗ trợ phải được

quy định chặt chẽ. Quyền và nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân thực hiện bồi thường, hỗ trợ

và của người được bồi thường, hỗ trợ phải được phân định rạch ròi. Lợi ích của người

bị thu hồi đất phải được đảm bảo công bằng.

Hoàn thiện quy định xác định giá đất, giá tài sản tính bồi thường, hỗ trợ. Cụ

thể cần hoàn thiện quy định xác định giá đất, giá tài sản để tính bồi thường, hỗ trợ

sao cho giá áp dụng sát với thị trường thực hiện tốt vấn đề này sẽ đẩy nhanh được

tiến độ, tránh khiếu kiện. Ngoài ra, cần thuê tổ chức định giá độc lập để tiến hành

xác định giá đất, giá tài sản bồi thường, giá của tổ chức độc lập sẽ được cơ quan

chuyên môn về giá thẩm định, thực hiện được vấn đề này sẽ tạo được sự minh bạch,

giá áp dụng sẽ thực tế và giảm bớt công đối với người trực tiếp thực hiện bồi

thường, hỗ trợ. Đảm bảo kinh phí thực hiện bồi thường, hỗ trợ, tái định cư: Nâng

cao kinh phí hỗ trợ cho người trực tiếp thực hiện bồi thường, hỗ trợ, tái định cư và

kèm theo đó là gắn với trách nhiệm thực hiện, có chế độ thưởng phạt rõ ràng đối với

từng công tác, từng nhiệm vụ.

Theo quy định của chính sách bồi thường, hỗ trợ hiện hành thì trong thực tế

đang diễn ra tình trạng bất công: trên cùng một địa bàn, với cùng một loại đất nông

nghiệp bị thu hồi nhưng đơn giá bồi thường, hỗ trợ của các dự án khác nhau lại có

sự chênh lệch rất lớn, thậm chí có thể hơn kém nhau đến 10 lần. Đặc biệt nhưng lại

có 2 chính sách khác nhau (Do quy định của nhà nước mới thay thế quy định cũ),

người nhận tiền đền bù trước thì bị thiệt thòi hơn những người nhận tiền đền bù sau

69

dẫn đến mâu thuẫn, khiếu kiện kéo dài. Để khắc phục tình trạng này nên quy định

đơn giá bồi thường, hỗ trợ đất nông nghiệp bằng từ 6 - 10 lần tổng giá trị sản phẩm

nông nghiệp trong 1 năm và áp dụng chung cho đất nông nghiệp tại tất cả các địa

phương.

Giá bồi thường về đất cần được khảo sát kỹ lưỡng, sát với giá thị trường.

Ngoài tiền bồi thường, hỗ trợ theo quy định cần nghiên cứu chính sách hỗ

trợ thêm chuyển nghề nghiệp và tạo công ăn việc làm để người dân ổn định cuộc

sống sau khi bị thu hồi đất. Đây là bài toán mà các cấp chính quyền cần đặt ra đối

với mỗi dự án thu hồi đất. Vấn đề này được thực hiện tốt sẽ tạo ra sự phát triển ổn

định bền vững. Bên cạnh đó, cần xây dựng nhiều phương án hỗ trợ cụ thể, lấy ý

kiến của người dân trong diện bị thu hồi đất để có phương án hỗ trợ phù hợp nhất và

được sự đồng ý của nhân dân. Tuy nhiên, một dự án có thể sử dụng nhiều phương

án hỗ trợ nếu có tỷ lệ tán thành của nhân dân cao và phù hợp với quy định của pháp

luật.

Chính sách về chuyển đổi nghề và tạo việc làm cho người dân bị thu hồi đất

cần được thực hiện đồng bộ. Đối với những địa phương có kế hoạch thu hồi đất

nhiều như ở Uông Bí cần có đề án mang tính chiến lược trong chuyển đổi nghề và

tạo việc làm nhằm góp phần ổn định đời sống cho những người trực tiếp sản xuất

nông nghiệp. Nguồn thu từ đấu giá quyền sử dụng đất cần ưu tiên đầu tư xây dựng

các công trình phúc lợi công cộng phục vụ người dân ngay trên địa bàn có đất bị thu

hồi.

Nhà nước cần có quy định cụ thể cho người dân tham gia góp vốn bằng đất

vào các dự án đầu tư và thành lập quỹ hỗ trợ giải quyết việc làm, ổn định đời sống

khi Nhà nước thu hồi đất.

Cần thực hiện nghiêm túc theo quy định của Nhà nước về việc xây dựng các

khu tái định cư đồng bộ và hoàn chỉnh về cơ sở hạ tầng trước khi bàn giao cho các

hộ gia đình bị thu hồi đất.

Xây dựng hoàn chỉnh hệ thống chính sách liên quan đến thu hồi, bồi thường

giải phóng mặt bằng và tái định cư mang tính chất ổn định lâu dài. Tránh tình trạng

70

trong cùng 1 dự án thu hồi đất nhưng có nhiều văn bản chồng chéo, điều này ảnh

hưởng lớn đến tiến độ thu hồi, giải phóng mặt bằng, tâm lý nhà đầu tư và người bị

thu hồi đất.

Do giá đất bồi thường, giá đền bù tài sản hiện nay là còn thấp (đặc biệt là đất

nông nghiệp, nhà ở) nên cần phải điều chỉnh cho phù hợp với thực tế để người dân

bị thu hồi đất đỡ thiệt thòi; nâng cao mức hỗ trợ đào tạo nghề đối với các hộ bị thu

hồi đất và có chính sách cụ thể đến từng đối tượng lao động trong một hộ gia đình,

đặc biệt là những hộ bị thu hồi đất nông nghiệp (vì đất nông nghiệp là tư liệu sản xuất

không thể thiếu đối với người nông dân). Đối với những hộ gia đình bị thu hồi đất nông

nghiệp ngoài những hỗ trợ về vật chất, cần có những chính sách đào tạo nghề, chuyển

đổi cơ cấu lao động, điều này sẽ giúp cho đời sống của người dân được ổn định và đảm

bảo nguồn thu nhập sau khi thu hồi đất.

Ngoài tiền bồi thường, hỗ trợ theo quy định cần nghiên cứu chính sách hỗ trợ

thêm chuyển nghề nghiệp và tạo công ăn việc làm để người dân ổn định cuộc sống

sau khi bị thu hồi đất. Đây là bài toán mà các cấp chính quyền cần đặt ra đối với

mỗi dự án thu hồi đất. Vấn đề này được thực hiện tốt sẽ tạo ra sự phát triển ổn định

bền vững. Bên cạnh đó, cần xây dựng nhiều phương án hỗ trợ cụ thể, lấy ý kiến của

người dân trong diện bị thu hồi đất để có phương án hỗ trợ phù hợp nhất và được sự

đồng ý của nhân dân. Tuy nhiên, một dự án có thể sử dụng nhiều phương án hỗ trợ

nếu có tỷ lệ tán thành của nhân dân cao và phù hợp với quy định của pháp luật.

Cần thực hiện nghiêm túc theo quy định của Nhà nước về việc xây dựng các

khu tái định cư đồng bộ và hoàn chỉnh về cơ sở hạ tầng trước khi bàn giao cho các

hộ gia đình bị thu hồi đất.

Xây dựng hoàn chỉnh hệ thống chính sách liên quan đến thu hồi, bồi thường

giải phóng mặt bằng và tái định cư mang tính chất ổn định lâu dài. Tránh tình trạng

trong cùng 1 dự án thu hồi đất nhưng có nhiều văn bản chồng chéo, điều này ảnh

hưởng lớn đến tiến độ thu hồi, giải phóng mặt bằng, tâm lý nhà đầu tư và người bị

thu hồi đất.

71

3.2. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi

nhà nước thu hồi đất cho dự án cải tạo, nâng cấp quốc lộ 18A tại thành phố

Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh

3.2.1. Tăng cường chỉ đạo công tác quy hoạch , KH SDĐ

Thực tiễn những năm qua cho thấy, công tác dự báo, quy hoạch, kế hoạch

phát triển đô thị, các khu công nghiệp có ý nghĩa cực kỳ quan trọng. Do công tác dự

báo, quy hoạch và kế hoạch chưa tốt nên việc đảm bảo việc làm cho người dân có

đất bị thu hồi trong những năm qua được thực hiện một cách thụ động.

Về dài hạn và trên tổng thể nền kinh tế cân phải có sự gắn kết giữa chiến

lược phát triển kinh tế - xã hội thành phố nói chung, chiến lược phát triển các ngành

kinh tế kỹ thuật, các vùng kinh tế, các khu công nghiệp, khu đô thị với chiến lược

phát triển, phân bố và sử dụng nguồn nhân lực, chiến lược đào tạo ngành nghề để

chuẩn bị một đội ngũ lao động phù hợp với yêu câu của việc thu hồi đất ở từng địa

phương.

Cần nắm rõ thực trạng tình hình lao động, việc làm ở những phường, xã có

đất bị thu hồi, từ đó xây dựng kế hoạch đào tạo lao động thật chi tiết, cụ thể. Cần

xây dựng đề án phát triển nguồn nhân lực dài hạn cho đến năm 2025 để tạo việc làm

cho dân cư.

Cần xây dựng những quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch phát triển các khu

công nghiệp khu đô thị một cách dài hạn để địa phương và người nông dân sớm có

kế hoạch chuyển dịch cơ cấu lao động sớm hơn, dài hạn hơn và bền vững hơn. Các

quy hoạch cần được niêm yết công khai để toàn dân được biết. Ở các xã, phường

cần thành lập ban giám sát thực hiện quy hoạch. Bên cạnh đó đẩy mạnh công tác

tuyên truyền về công tác quy hoạch và vận động nhân dân thực hiện đúng các quy

hoạch đã được phê duyệt.

Khắc phục tình trạng "quy hoạch treo", đất đã được thu hồi nhưng không

triển khai dự án theo đúng tiến độ, hoặc chủ đầu tư nhận đất nhưng cũng không triển

khai xây dựng dẫn đến dân mất đất không có việc làm, còn doanh nghiệp cũng không

thu hút được lao động vào làm việc. Đây là hiện tượng phổ biến và gây làng phí lớn,

dân rất bất bình. Để khắc phục tình trạng quy hoạch treo, quy hoạch sử dụng đất cần

phải được nâng cao về chất lượng, có tính đồng bộ và khả thi. Phương án quy hoạch

cần sát với dự báo tình hình, khắc phục tính chủ quan duy ý chí, áp đặt, quy hoạch theo

phong trào. Hơn nữa, giữa quy hoạch phát triển KT-XH, quy hoạch sử dụng đất, quy

72

hoạch xây dựng phải được xây dựng đồng bộ, không còn vùng lấn, vùng trắng và phải

trở thành một hệ thống quy hoạch phát triển thống nhất của địa phương. Tại địa

phương, việc quy hoạch các khu công nghiệp cần được xem xét đồng bộ gắn với quy

hoạch phát triển đô thị, khu dân cư, hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội và công tác bảo vệ

môi trường hướng tới phát triển bền vững.

Gắn quy hoạch sử dụng đất nông nghiệp với kế hoạch đào tạo nghề và sử

dụng lao động ở khu vực chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp; chỉ đạo,

hướng dẫn, kiểm tra các địa phương trong việc xây dựng và thực hiện quy hoạch, kế

hoạch đồng bộ với quy hoạch xây dựng hạ tầng kỹ thuật ngoài hàng rào khu công

nghiệp, hạ tầng xã hội (y tế, văn hoá, giáo dục...), quy hoạch xây dựng đô thị. Các

địa phương cần nghiên cứu giải pháp giúp người nông dân sử dụng những khoản

tiền đền bù một cách có hiệu quả, giúp người lao động có được nghề nghiệp chuyên

môn cần thiết để đáp ứng nhu cầu của doanh nghiệp, có cơ hội để được tuyển dụng

làm việc lâu dài.

3.2.2. Hoàn thiện về đào tạo nghề, việc làm

Để phấn đấu trở thành Thành phố công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm

2020 thì yêu cầu chuyển đổi mục đích từ đất nông nghiệp thành đất phi nông nghiệp

trong vài năm tới sẽ là rất lớn. Vấn đề giải quyết việc làm cũng từ đó trở thành một

đòi hỏi cấp bách đặt ra không chỉ đối với các chủ đầu tư, của các cấp chính quyền

mà còn là của cả hệ thống chính trị.

Để giải quyết vấn đề này Thành phố cần có Đề án chuyển đổi nghề và tạo

việc làm một cách thiết thực, tích cực, hiệu quả mang tính chiến lược, tránh tình

trạng như hiện nay, việc hỗ trợ đào tạo chuyển đổi nghề chủ yếu là bằng tiền.

Cần có kế hoạch đào tạo, chuyển đổi nghề cho số lao động nông nghiệp bị thu hồi

đất.

Thành phố Uông Bí là trung tâm công nghiệp than - điện. Uông Bí cũng có

nhiều cơ sở công nghiệp xây dựng, sản xuất xi măng, cơ khí, giầy da, ... với nhu cầu sử

dụng lao động rất lớn. Thành phố cần bám sát yêu cầu và điều kiện tuyển dụng để có

định hướng đào tạo và chuyển đổi nghề cho lao động nông nghiệp một cách hợp lý;

phối hợp với các doanh nghiệp trên địa bàn để có chính sách ưu tiên tuyển dụng lao

73

động đối với những người bị thu hồi đất; có chính sách tín dụng, vay vốn ưu đãi đối với

trường hợp có khó khăn về vốn trong quá trình chuyển đổi việc làm.

Việc đào tạo nghề phải luôn bám sát cầu của thị trường lao động. Loại hình

đào tạo phải thiết thực, phù hợp với từng nhóm đối tượng lao động (nhóm còn trong

độ tuổi đi học, nhóm lao động trẻ dưới 35 tuổi, nhóm lao động trên 35 tuổi có trình

độ học vấn thấp, ...)

Đối với những hộ gia đình bị thu hồi đất nông nghiệp ngoài những hỗ trợ về vật

chất, cần có những chính sách đào tạo nghề, chuyển đổi cơ cấu lao động, điều này sẽ

giúp cho đời sống của người dân được ổn định và đảm bảo nguồn thu nhập sau khi thu

hồi đất.

Ngoài việc thu hút lao động vào các doanh nghiệp cần tăng cường đầu tư

phát triển các ngành dịch vụ, khuyến khích phát triển nghề trồng rau sạch, trồng

hoa, cây Thanh Long ruột đỏ ... phục vụ nhu cầu của công nhân các khu công

nghiệp.

Khi thực hiện công tác bồi thường GPMB cần lựa chọn những cán bộ có đủ

phẩm chất, năng lực, trình độ để thi hành công vụ. Những người làm công tác bồi

thường GPMB phải thường xuyên được giáo dục về phẩm chất, ý thức trách nhiệm

và tinh thần phục vụ. Kiện toàn bộ máy làm việc chuyên trách của các tổ chức tham

gia thực hiện công tác bồi thường, hỗ trợ và tái định cư đảm bảo đội ngũ cán bộ có

kinh nghiệm, năng lực về công tác GPMB.

Rà soát và kiến nghị thu hồi đối với các dự án đầu tư đã thực hiện xong việc

GPMB nhưng chậm thực hiện, gây lãng phí trong sử dụng đất.

Có chế tài nghiêm ngặt nhằm xử lý các chủ đầu không chấp hành chính sách

bồi thường GPMB và những cam kết với người dân bị thu hồi đất.

Quá trình giải quyết phải đảm bảo đúng trình tự quy định của pháp luật được

quy định cụ thể tại các văn bản pháp lý hiện hành từ bước lập quy hoạch, thu hồi đất

và thực hiện bồi thường, hỗ trợ và niêm yết công khai phải đảm bảo minh bạch.

74

Công tác điều tra, xác minh phải chặt chẽ đảm bảo đúng đối tượng để áp

dụng chính sách cho phù hợp và không làm ảnh hưởng quyền lợi của người bị thu

hồi đất.

Tăng cường các cuộc đối thoại, chất vấn giữa lãnh đạo, cơ quan chuyên môn

với các hộ bị thu hồi đất để giải thích về chế độ chính sách và ý kiến thắc mắc của

hộ gia đình. Chính quyền các địa phương phải trực tiếp tổ chức các cuộc họp, lấy ý

kiến của người dân bị thu hồi đất để tìm ra những vướng mắc mà họ đang quan tâm.

Các hộ dân cố tình không chấp hành quyết định thu hồi đất sau khi thực hiện

đầy đủ các bước theo trình tự thì phải có biện pháp kiên quyết xử lý phù hợp với

quy định của pháp luật thể hiện tính công bằng và minh bạch của pháp luật.

Nghiêm khắc xử lý những đơn vị, cá nhân vi phạm trong việc làm sai lệch hồ

sơ, thiếu trách nhiệm trong việc điều tra, xác minh làm ảnh hưởng đến quyền lợi của

Nhân dân và Nhà nước.

Tuyên truyền sâu rộng đến người dân về chủ trương phát triển, những lợi ích

mang lại từ những dự án thu hồi đất và vai trò của người ở đó. Thường xuyên tổ

chức lấy ý kiến của nhân dân về vấn đề giải phóng mặt bằng, lắng nghe những thắc

mắc của họ để từ đó có những giải pháp khắc phục phù hợp.

Nâng cao năng lực và hiệu quả làm việc của cán bộ thực hiện công tác bồi

thường, hỗ trợ, tái định cư: Công tác bồi thường, hỗ trợ tái định cư là một trong

những công tác nhạy cảm nhất hiện nay trong hệ thống chính trị của Nước ta, do

vậy đội ngũ thực hiện công tác này cần phải có trình độ chuyên môn cao, trình độ

nhận thức pháp luật, phải có trách nhiệm và đạo đức nghề nghiệp cao. Tình hình

thực tế hiện nay trên địa bàn thành phố Uông Bí là thiếu đội ngũ thực hiện công tác

bồi thường, hỗ trợ và tái định cư chuyên nghiệp, trình độ nghiệp vụ và trách nhiệm

thực hiện của các cán bộ chưa cao do vậy cần phải thực hiện một số giải pháp sau:

Xây dựng một hệ thống tổ chức bộ máy chuyên trách làm công tác GPMB là cần

thiết để giúp các cấp chính quyền thực hiện tốt nhiệm vụ quản lý hành chính Nhà

nước đối với lĩnh vực công tác này. Ngoài ra, tổ chức bộ máy phải được kiện toàn

để có đủ đội ngũ cán bộ, công chức có kiến thức và năng lực công tác phù hợp, làm

75

việc mang tính nghề nghiệp chuyên trách và ổn định.Hơn nữa cần tổ chức tập huấn,

bồi dưỡng kiến thức quản lý Nhà nước về đất đai và các chế độ chính sách liên quan

đến bồi thường, hỗ trợ và tái định cư cho đội ngũ cán bộ chuyên trách làm công tác

từ cấp trung ương đến cấp cơ sở.

Tăng cường công tác quản lý đất đai: Chỉ đạo tăng cường công tác quản lý đất

đai, cập nhật chỉnh lý các biến động kịp thời. UBND thành phố nên xây dựng cơ sở

dữ liệu đất đai dạng số và cập nhật thường xuyên, thực hiện tốt công tác này việc

xác định điều kiện, đối tượng được bồi thường, hỗ trợ sẽ tiến hành nhanh chóng dễ

dàng. Công tác này cũng làm giảm sự chồng chéo về hỗ trợ cho hộ gia đình có đất

bị thu hồi tại các dự án có cùng thời điểm thực hiện.

Kiện toàn bộ máy làm việc chuyên trách của các tổ chức tham gia thực hiện

công tác bồi thường, hỗ trợ và tái định cư đảm bảo đội ngũ cán bộ có kinh nghiệm,

năng lực về công tác GPMB.

Quá trình giải quyết phải đảm bảo đúng trình tự quy định của pháp luật được

quy định cụ thể tại các văn bản pháp lý hiện hành từ bước lập quy hoạch, thu hồi đất

và thực hiện bồi thường, hỗ trợ và niêm yết công khai phải đảm bảo minh bạch.

Công tác điều tra, xác minh phải chặt chẽ đảm bảo đúng đối tượng để áp

dụng chính sách cho phù hợp và không làm ảnh hưởng quyền lợi của người bị thu

hồi đất.

Một trong những đặc điểm của lao động nông nghiệp là trình độ học vấn và

tay nghề thấp. Điều này đã trở thành rào cản lớn đối với người lao động nông

nghiệp sau thu hồi đất trong việc tự tìm kiếm việc làm, chuyển đổi nghề nghiệp và

hoà nhập cuộc sống mới. Chính vì vậy, TP cần phải có giải pháp nhằm nâng cao

trình độ học vấn và tay nghề cho đối tượng này.

Để nâng cao hiệu quả của công tác đào tạo nghề cho nông dân sau thu hồi

đất, trong những năm tới cần tập trung vào thực hiện các biện pháp:

+ Thành phố cần tiến hành điều tra trình độ học vấn của người lao động bị

thu hồi đất, đồng thời khuyến khích, vận động hỗ trợ học tập, đào tạo nghề và việc

làm đối với các hộ dân thuộc diện thu hồi đất nông nghiệp.

76

+ Xác định số lao động bị ảnh hưởng do thu hồi đất nông nghiệp để có kế

hoạch đào tạo, sử dụng: số hộ gia đình bị thu hồi đất nông nghiệp chia theo diện tích

đất nông nghiệp bị thu hồi, lao động chia theo độ tuổi trình độ, giới tính, tình trạng

việc làm, nhu cầu đào tạo lao động và nhu cầu tuyển dụng của các doanh nghiệp

trên địa bàn...

+ Trong quá trình thực hiện các dự án có thu hồi đất nông nghiệp, cần bảo

đảm có một cơ sở đào tạo nghề để thu hút người lao động và con em họ vào học

nghề. Nội dung đào tạo lao động cần chú ý đến sự hiểu biết của học viên về Luật

pháp, Luật Lao động, quan hệ lao động, kỷ luật lao động... Cần đưa cả kỹ năng sống

vào chương trình giảng dạy, giúp họ có được tác phong làm việc nghiêm túc, tuân

thủ kỷ luật lao động và có khả năng làm việc nhóm.

+ Tăng cường sự liên kết giữa cơ sở dạy nghề với doanh nghiệp: Thành phố

cần khuyến khích các doanh nghiệp và các trường dạy nghề chủ động xây dựng kế

hoạch đào tạo đối với các nghề mới. Đồng thời, đẩy mạnh hoạt động đào tạo nghề

theo hướng tăng nhanh về quy mô và nâng cao chất lượng, trong đó tập trung vào

các ngành kinh tế mũi nhọn, các lĩnh vực quan trọng của thành phố như: du lịch,

thương mại, công nghiệp...

+ Tăng cường đầu tư nâng cấp cơ sở vật chất, trang thiết bị giảng dạy phù

hợp với công nghệ hiện đại, tiếp cận với thiết bị mà các cơ sở sản xuất đang sử dụng

cho các cơ sở dạy nghề. Ngoài việc đào tạo về tay nghề, các nội dung liên quan tới

ý thức kỷ luật, tác phong công việc, quyền lợi và trách nhiệm của người lao động

cũng dần được đưa vào hoạt động đào tạo.

+ Không chỉ đào tạo nghề cho những nơi đã đền bù giải toả mà phải chủ

động có kế hoạch đào tạo đối với những vùng dự kiến chuyển mục đích sử dụng đất

từ nông nghiệp sang phi nông nghiệp.

Sự tham gia hỗ trợ, giúp đỡ của nhà nước cũng như chính quyền các cấp chỉ

ở một mức độ nhất định. Nhu cầu giải quyết việc làm thì nhiều, song nhà nước và

chính quyền các cấp chỉ có thể giải quyết được một phần nhu cầu đó. Nếu cứ ỷ lại,

trông chờ vào nhà nước thì vấn đề việc làm cho nông dân bị thu hồi đất sẽ trở nên

nan giải hơn rất nhiều. Tâm lý trông chờ, ỷ lại vào sự hỗ trợ của nhà nước đã làm

giảm đi tính tích cực, chủ động của người lao động bị thu hồi đất trong chuyển đổi

77

nghề nghiệp, tìm kiếm việc làm mới. Điều này đã gây ra nhiều khó khăn cho các cấp

chính quyền trong việc giải quyết việc làm cho người lao động. Nếu các cấp chính

quyền cố gắng, tích cực, năng động triển khai chính sách giải quyết việc làm nhưng

bản thân người lao động thiếu tích cực, chủ động thì cũng không thể mang lại hiệu quả

cao. Để thực hiện tốt giải pháp này cần:

Thứ nhất, các cấp chính quyền, các tổ chức đoàn thể thường xuyên vận động,

giáo dục lao động bị thu hồi đất thấy được tính đúng đắn trong các chủ trương,

chính sách phát triển công nghiệp, dịch vụ, xây dựng các công trình công cộng...

mục đích là để phát triển kinh tế, mang lại cuộc sống tốt hơn cho nhân dân, trong đó

có bản thân người lao động bị thu hồi đất.

Thứ hai, các cơ quan, tổ chức như phòng Lao đông Thương binh và Xã hội,

Hội Nông dân, Hội Phụ nữ... cần có các giải pháp có tính định hướng để hướng dẫn

cho các hộ dân bị thu hồi đất nông nghiệp sử dụng tiền đền bù, tiền hỗ trợ vào đúng

mục đích như học nghề, đầu tư kinh doanh... khuyến khích người lao động bị thu

hồi đất nông nghiệp tích cực, chủ động tự tìm kiếm việc làm thông qua các sàn giao

dịch việc làm, qua bạn bè, người thân và qua các phương tiện thông tin đại chúng.

Thứ ba, người dân cần tận dụng quỹ đất nông nghiệp còn lại chuyển sang

phát triển sản xuất nông nghiệp công nghệ cao, áp dụng tiến bộ khoa học tăng giá trị

sản xuất trên một đơn vị diện tích theo hướng thâm canh, hiện đại, mang lại thu

nhập cao từ nông nghiệp

Thứ tư, đối với những lao động không còn đất sản xuất phải chuyển đổi sang

các ngành nghề phi nông nghiệp. Lao động cần nâng cao ý thức đào tạo, hướng

nghiệp, nhất là đào tạo nghề tại chỗ. Sử dụng tiền đền bù cho mình và con em mình

học nghề, chuyển đổi nghề nghiệp.

3.2.3. Phổ biến, giáo dục pháp luật về đất đai

Thường xuyên tuyên truyền phổ biến pháp luật về đất đai được thực hiện với

nhiều hình thức đa dạng thông qua tổ chức hội nghị, tọa đàm, hội thi, cấp phát tài

liệu, tủ sách pháp luật, hòa giải, tiếp công dân... Bên cạnh đó, UBND thành phố, các

xã, phường thường xuyên chỉ đạo cán bộ, công chức làm công tác tiếp công dân

phải tiếp cận, tìm hiểu những chủ trương, quy định mới của Đảng, Nhà nước về

pháp luật đất đai. Trong quá trình tiếp công dân, cần chú trọng tuyên truyền, giải

thích, phổ biến chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước tới người

78

dân nhằm tạo sự đồng thuận của người dân trong việc chấp hành và tuân thủ pháp

luật.

Tăng cường tuyên truyền pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư. Tích cực

tăng cương tuyên truyền phổ biến pháp luật nói chung và các quy định về công tác

bồi thường, hỗ trợ và tái định cư nói riêng. Bằng cách sử dụng loa truyền thanh của

phường truyền tải đến người dân những quy định của pháp luật, thực hiện các buổi

nói chuyện trực tiếp giữa các cán bộ phụ trách chuyên môn của phòng tài nguyên và

môi trường về quy định của pháp luật trong công tác bồi thường, hỗ trợ và tái định

cư đến người dân. Nhằm tạo điều kiện cho các tầng lớp nhân dân có đầy đủ thông

tin, nhận thức rõ ràng, đúng đắn về pháp luật, chủ trương, chính sách của Nhà nước,

của tỉnh cũng như ý nghĩa quan trọng của các dự án được đầu tư trên địa bàn. Công

khai, dân chủ hóa trong công tác bồi thường, hỗ trợ và tái định cư thông qua dán các

thông báo về thu hồi đất, phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư; công khai giá

đất; công khai quy hoạch; công khai tổng vốn đầu tư của dự án để tăng cường tính

minh bạch. Hạn chế những vấn đề tiêu cực, giảm bớt phiền hà tạo điều kiện cho

người dân tham gia giám sát và thực hiện chính sách được công bằng thực tế. Giải

pháp tuyên truyền về việc sử dụng tiền bồi thường, hỗ trợ đến người dân, tạo cho họ

phân chia nguồn tiền để sử dụng sau khi mất đất sản xuất, làm sao nâng cao được

hiệu quả của tiền bồi thường, hỗ trợ.

Cần tăng cường công tác phổ biến, tuyên truyền, giáo dục chính sách, pháp

Luật Đất đai đến các cấp ủy Đảng, chính quyền và toàn thể người dân.

3.3.4. Giải quyết tranh chấp về đất đai, giải quyết khiếu nại tố cáo các vi phạm

trong việc quản lý và sử dụng đất đai

Để giải quyết được dứt điểm các vụ tranh chấp ngay từ cơ sở, đối với cấp

thành phố trong những năm vừa qua đã sắp xếp, bố trí cán bộ có trình độ chuyên

môn giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân. Việc tuyển chọn cán bộ công chức

địa chính xã, phường phải là những người nhiệt tình có trình độ chuyên môn cơ bản

về địa chính, thường xuyên mở các lớp bồi dưỡng về chuyên môn nghiệp vụ nhằm

xây dựng đội ngũ cán bộ địa chính thống nhất có trình độ nghiệp vụ và nắm chắc

các nguyên tắc, nội dung cơ bản trong việc quản lý tài nguyên đất đai, tham mưu

79

cho các cấp chính quyền giải quyết tốt vấn đề tranh chấp, khiếu nại, tố cáo về đất

đai để tránh những sai phạm gây lãng phí đất trong việc quản lý và sử dụng đất ở cơ

sở. Cần tiếp tục phát huy trong những năm tới.

3.3. Hoàn thiện môi trường đầu tư, thực hiện các chính sách thu hút đầu tư

Một trong những biện pháp tạo công ăn việc làm cho người lao động thuộc

diện bị thu hồi đất để phát triển khu đô thị và khu công nghiệp chính là thu hút đầu

tư SXKD làm mở rộng quy mô sản xuất, kinh doanh, từ đó nhu cầu về lao động của

các nhà sản xuất tăng cao, lượng lao động bị mất việc làm do bị thu hồi đất canh

tác, sản xuất có thể chuyển qua các lĩnh vực này.

Việc xây dựng, đầu tư phát triển các ngành nghề tại các cơ sở công nghiệp

mang độ trễ về thời gian do vậy để có thể giải quyết việc làm cho những người lao

động thuộc diện bị thu hồi đất trong thời gian ngắn nhất thì thành phố nên tập trung

phát triển các ngành nghề như sản xuất hàng may mặc, giầy da, dịch vụ, phục vụ

bởi các ngành nghề này có thời gian chuẩn bị ngắn, hơn nữa không cần trình độ tay

nghề cao, có thể thông qua đào tạo nghề để tăng khả năng tìm việc cho người lao

động bị thu hồi đất trong những ngành nghề này.

Để thu hút được các nhà đầu tư phát triển các ngành nghề ưu tiên như trên,

chính quyền địa phương cần có những biện pháp cụ thể như:

- Tích cực đẩy mạnh cải cách hành chính, thực hiện công khai các thủ tục

hành chính tại trụ sở cơ quan và các phòng chuyên môn, để qua đó giảm đáng kể

thời gian, thủ tục, chi phí cho doanh nghiệp trong quá trình thực hiện các quy định

của Nhà nước.

- Ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp: Miễn giảm thuế thu nhập doanh

nghiệp theo Luật thuế thu nhập doanh nghiệp số 14/2008/QH12 ngày 03/6/2008,

Nghị định số 124/2008/NĐ-CP ngày 11/12/2008 của Chính phủ quy định chi tiết thi

hành một số điều của Luật thuế thu nhập doanh nghiệp.

- Ưu đãi về thuế nhập khẩu: Miễn thuế nhập khẩu hàng hoá nhập khẩu để tạo

tài sản cố định, gồm: thiết bị, máy móc; nguyên vật liệu, vật tư nhập khẩu để chế tạo

thiết bị, máy móc, bộ phận rời, phụ tùng, gá lắp, khuôn mẫu, phụ kiện đi kèm với

thiết bị, máy móc trong dây chuyền công nghệ; vật tư xây dựng mà Việt Nam chưa

sản xuất được...

- Các nhà đầu tư đăng ký thuê đất sớm sẽ có cơ hội lựa chọn vị trí, diện tích

và có nhiều ưu đãi thuận lợi như: hỗ trợ, tư vấn lựa chọn lao động địa phương; được

80

tạo điều kiện về hành lang pháp lý...

Phát triển các dịch vụ hỗ trợ nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư

khi tiến hành đầu tư. Các dịch vụ cần được hỗ trợ trong thời gian ngắn nhất với mức

chi phí hợp lý, gồm: tư vấn thành lập doanh nghiệp và xin giấy phép đầu tư; dịch vụ

quản lý kinh doanh; dịch vụ tài chính và kế toán doanh nghiệp; dịch vụ thiết kế và

xây dựng; dịch vụ xuất nhập khẩu; dịch vụ bảo hiểm, thủ tục hải quan và lưu trữ

hàng hoá; dịch vụ vận chuyển hàng hoá; dịch vụ lưu trú cho chuyên gia.

3.4. Hoàn thiện chính sách hỗ trợ tín dụng cho người nông dân tìm và tự tạo

việc làm

Cơ sở của giải pháp chính sách xuất phát từ thực trạng quy mô các nguồn

vốn hỗ trợ việc làm còn nhỏ bé, mức vốn cho vay còn khiêm tốn, hạn chế, khó lòng

để giúp họ học được một nghề, tìm được việc làm hay tự mở doanh nghiệp, cơ sở

sản xuất kinh doanh của riêng mình; xuất phát điểm thu nhập của đối tượng nông

dân vùng thu hồi đất rất thấp so với mặt bằng các đối tượng khác ở vùng đô thị nên

họ gặp khó khăn về tài chính trong quá trình học nghề và tự tạo việc làm; do trình độ

hạn chế nên họ cũng khó khăn trong tiếp cận và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn

vay để phát triển sản xuất kinh doanh; điều kiện, thủ tục hành chính để vay vốn còn khá

rườm rà, khiến người nông dân khó tiếp cận với các nguồn vốn. Vì vậy rất cần có giải

pháp hỗ trợ tín dụng để người nông dân có thể tiếp cận và sử dụng có hiệu quả vốn

vay trong quá trình tìm và tự tạo việc làm.

Hỗ trợ tín dụng trong khi học nghề: đổi mới chính sách hỗ trợ tín dụng cho

người nông dân trong khi học nghề theo hướng giảm dần tính bình quân hoá kinh

phí dạy nghề và thay đổi hình thức hỗ trợ nhằm sử dụng nguồn vốn hỗ trợ một cách

hiệu quả. Cụ thể, xác định rõ từng loại đối tượng được hỗ trợ và định mức hỗ trợ

tương ứng đồng thời hình thức hỗ trợ cần được thay đổi phù hợp với từng đối tượng

(bao gồm cả hiện vật, tiền mặt...) đảm bảo cung cấp được đầy đủ các hỗ trợ cần

thiết để đưa được người nông dân đến với các chương trình đào tạo nghề.

Hỗ trợ cho người học trong thời gian học nghề để chi trả các chi phí cho việc

học tập, sinh hoạt trong thời gian theo học tại cơ sở dạy nghề (bao gồm: học phí, chi

phí mua sắm sách vở, phương tiện học tập, chi phí ăn, ở, đi lại). Tùy thuộc vào điều

kiện, hoàn cảnh của từng nhóm đối tượng để xác định mức hỗ trợ, phương thức hỗ

81

trợ cho phù hợp.

3.5. Tạo điều kiện để người dân được góp vốn vào các dự án bằng giá trị đất bị

thu hồi

Do yêu cầu công nghiệp hóa, đô thị hóa, Nhà nước cần lấy đi một phần đất

nông nghiệp để xây dựng các khu công nghiệp, khu đô thị mới và xây dựng kết cấu

hạ tầng phục vụ cho phát triển kinh tế chung của thành phố. Đó là một yêu cầu

khách quan và còn có xu hướng phát triển trong tương lai. Khi bị thu hồi đất, hộ

nông dân ngoài việc nhận tiền bồi thường hỗ trợ khi giải phóng mặt bằng còn có thể

góp vốn bằng đất bị thu hồi vào dự án. Đối tượng, điều kiện và thủ tục góp vốn

bằng quyền sử dụng đất này được đã được quy định tại các văn bản pháp luật liên

quan: Luật doanh nghiệp năm 2005 và các văn bản hướng dẫn thi hành; Luật đất đai

2013; Nghị định 43/2014/NĐ-CP về thi hành luật đất đai; Nghị định 47/2014/NĐ-

CP quy định về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất.

Chủ trương này đã được nêu ra từ Hội nghị Ban Chấp hành (BCH) rung

ương lần thứ 5 khoá IX, phù hợp với Luật Đất đai hiện hành, nhưng đến nay vẫn

chưa được nhiều địa phương và các dự án thực hiện.

Các hướng dẫn cụ thể để thực hiện chủ trương này cần được triển khai để

người dân có đất bị thu hồi có điều kiện tiếp tục duy trì vị thế làm chủ đối với một

tư liệu sản xuất mới là các dự án mới được đưa vào hoạt động. Theo như kết quả

khảo sát ở trên, đa số người dân bị thu hồi đất trên địa bàn thành phố, sau khi nhận

được tiền đền bù, thường tiêu dùng cho nhiều mục đích khác nhau, ít người nghĩ

đến việc phải tìm cho mình một công việc mới sau khi không còn đất để canh tác

nông nghiệp. Giải pháp này nếu được thực hiện, sẽ tạo điều kiện cho người dân góp

vốn vào những dự án có triển vọng đạt hiệu quả cao, từ đó có điều kiện đảm bảo

cuộc sống ổn định một cách tương đối cùng với hoạt động của các dự án. Mặt khác,

nhà đầu tư (người sử dụng đất), không phải bỏ ra nhiều tiền để đền bù, mà lại phát

hành được cổ phiếu cho chính chủ đất cũ.

Đối với những người không có nguyện vọng được góp vốn bằng giá trị đất bị

thu hồi, vẫn được nhận tiền đền bù theo quy định của từng dự án để có phương án

đầu tư phù hợp.

3.6. Kiến nghị hoàn thiện công tác bồi thường hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước

thu hồi đất tại tỉnh Quảng Ninh

82

Để thực hiện mục tiêu công nghiệp hóa - hiện đại hóa, đáp ứng yêu cầu phát triển

kinh tế - xã hội của địa phương đồng thời đảm bảo giải quyết việc làm, thu nhập và

điều kiện sống cho người dân bị thu hồi đất, góp phần giữ vững ổn định chính trị tại địa

phương, tác giả kiến nghị một số vấn đề sau:

Cần có sự đầu tư nghiên cứu, khảo sát trên diện rộng những tác động của

việc thu hồi đất đến đời sống, việc làm của người dân để xây dựng, hoàn thiện chính

sách bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất.

Chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất cần

phải được quy định cụ thể, rõ ràng, dễ hiểu, đầy đủ và chặt chẽ để nhân dân hiểu rõ

và nghiêm chỉnh chấp hành.

Giá bồi thường về đất phải được xây dựng trên cơ sở khảo sát toàn diện,

khoa học, đảm bảo giá bồi thường sát với giá thị trường chuyển nhượng. Chính sách

bồi thường GPMB phải đảm bảo tính công bằng, hợp lý và thống nhất giữa các dự

án trên cùng một địa bàn, giữa địa phương này với địa phương khác.

Chính quyền địa phương và nhà đầu tư cần điều tra, đánh giá tỉ mỉ những tác

động của việc thu hồi đất đến đời sống, việc làm của người dân trước khi quyết định

thu hồi đất, qua đó có những giải pháp để hạn chế tối đa những tác động tiêu cực.

Cần thực hiện tốt việc công khai quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất và định hướng

cho nhân dân để họ chủ động tự học nghề, chuyển đổi nghề và tìm kiếm việc làm.

Thành phố Uông Bí cần có đề án đào tạo nghề và chuyển đổi nghề cho người

dân có đất nông nghiệp bị thu hồi một cách thiết thực, khả thi mang tính chiến lược,

phù hợp với nhu cầu sử dụng lao động của các doanh nghiệp trên địa bàn.

Việc thu hồi đất để phục vụ xây dựng và phát triển Thành phố cần được đặt

trong mối quan hệ hài hòa với vấn đề giải quyết việc làm, nâng cao thu nhập và ổn

định đời sống cho người dân có đất bị thu hồi, đảm bảo sự phát triển bền vững của

địa phương.

Hoàn thiện chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi

đất theo hướng có lợi cho người dân. Trong đó chú trọng công tác hỗ trợ ổn định

đời sống, đào tạo nghề và tái định cư.

83

Đẩy nhanh công tác lập và quản lý quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất các cấp;

đặc biệt là quy hoạch sử dụng đất chi tiết cấp cơ sở. Thực hiện công khai quy hoạch,

kế hoạch sử dụng đất đã được xét duyệt theo quy định của pháp Luật Đất đai để các

cấp, các ngành cùng toàn thể người dân thống nhất tổ chức thực hiện, cùng kiểm tra,

Chú trọng kiện toàn bộ máy tổ chức làm nhiệm vụ GPMB; trong đó đặc biệt

giám sát thực hiện.

quan tâm cán bộ tại các phường (xã) và tổ dân phố (thôn).

Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở kết hợp giữa nghiên cứu lý luận và

thực tiễn. Tuy nhiên, nội dung luận văn và phạm vi nghiên cứu mới chỉ được nhìn

nhận từ thực tiễn tại thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh, do đó, những vấn đề nêu

ra trong luận văn không tránh khỏi những thiếu sót, hạn chế nhất định. Học viên rất

mong nhận được sự đóng góp ý kiến, phê bình của các nhà khoa học để công trình

được hoàn thiện hơn, qua đó học viên tiếp tục có những đóng góp tốt hơn cho công

tác thực thi pháp luật về đất đai trên chính quê hương mình./.

84

KẾT LUẬN

Đất đai được xác định là tài sản quý giá của Quốc gia, thuộc sở hữu toàn dân,

do Nhà nước thống nhất quản lý. Đất đai được xem là nguồn tư liệu sản xuất đặc

biệt và là một trong những nguồn lực chủ yếu để phát triển kinh tế đất nước trong

thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đặc biệt trong quá trình toàn cầu

hóa hiện nay. Đất đai có vai trò vô cùng quan trọng đối với đời sống kinh tế, chính

trị, xã hội của một đất nước nói chung và của Việt Nam nói riêng. Chính vì tầm

quan trọng của đất đai như vậy nên Đảng và Nhà nước ta luôn có những chủ trương

và đề ra nhiều chính sách ở từng giai đoạn, thời kỳ khác nhau nhằm quản lý và sử

dụng một cách hiệu quả nhất nguồn tài nguyên đất đai. Để tiếp tục phát huy được

vai trò của đất đai trong đời sống xã hội hiện tại thì cần phải tăng cường thực thi

chính sách, pháp luật và quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với đất đai nhiều hơn

nữa.

Uông Bí là một đô thị nằm ở phía Tây Nam của tỉnh Quảng Ninh, nằm trên trục

đường Quốc Lộ 18A nối Hà Nội, Hải Dương, Hải Phòng với Quảng Ninh, với nhiều

tiềm năng về công nghiệp, du lịch, dịch vụ, Uông Bí trở thành một trong những đô thị

trung tâm của vùng trọng điểm kinh tế phía Bắc. Ngày 25/02/2011, Chính phủ đã có

Nghị quyết số 12/NQ-CP về việc thành lập thành phố Uông Bí trực thuộc tỉnh Quảng

Ninh. Chính vì vậy, trong những năm qua, tốc độ phát triển các khu công nghiệp, khu

đô thị, việc xây dựng kết cấu hạ tầng xã hội, các công trình công cộng và lợi ích quốc

gia diễn ra rất nhanh, quá trình đó đi liền với việc thu hồi đất, bao gồm cả đất nông

nghiệp của một bộ phận dân cư. Giải quyết việc làm, ổn định và từng bước nâng cao

đời sống cho người bị thu hồi đất là nhiệm vụ của cấp ủy Đảng, chính quyền và nhân

dân thành phố Uông Bí; tuy nhiên cũng như nhiều địa phương khác trong cả nước,

Uông Bí cũng gặp phải nhiều khó khăn trong việc thực hiện chính sách bồi thường, hỗ

trợ và tái định cư đến đời sống, việc làm của người dân khi Nhà nước thu hồi đất.

Trong những năm gần đây, cùng với sự phát triển của đất nước, đẩy mạnh nền kinh

tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, nhiều dự án phát triển kinh tế - xã hội đòi

hỏi phải thu hồi đất của các tập thể, cá nhân để thực hiện dự án, đơn giá bồi thường thấp,

không phù hợp... việc nghiên cứu vấn đề áp dụng pháp luật trong việc đền bù hỗ trợ và

85

tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất. Tuy nhiên, để giải quyết tận gốc, triệt để vấn đề thì

cán bộ làm công tác đền bù GPMB cần phải quan tâm nhiều hơn nữa đến những bất hợp

lý trong quản lý nhà nước về đất đai, việc áp dụng chế độ, chính sách khi thực hiện thu

hồi đất và bồi thương giải phóng mặt bằng... để có những kiến nghị kịp thời đối với cơ

quan nhà nước có thẩm quyền ban hành chính sách cho phù hợp với thực tiễn.

Với dự án cải tạo, nâng cấp Quốc lộ 18A có tổng chiều dài là 2.96 km, tổng

diện tích thu hồi đất để thực hiện dự án là 2,19 ha; tổng số hộ gia đình, cá nhân bị

ảnh hưởng là 318 hộ (không có đất của các tổ chức). Tổng kinh phí xây dựng tuyến

đường lên tới 84.843.443.908 tỉ đồng.

Việc xác định được nguồn gốc đất còn khó khăn do vậy việc xác định đối

tượng, điều kiện được bồi thường còn nhiều vướng mắc; Giá đất áp dụng tính bồi

thường, hỗ trỡ chưa hợp lý, chưa sát với giá thị trường, kinh phí hỗ trợ cho người

trực tiếp thực hiện chưa phù hợp; Cán bộ trực tiếp làm công tác bồi thường, hỗ trọ,

tái định cư chuyên môn chưa cao, chưa chuyên nghiệp.

Để đẩy nhanh tiến độ thực hiện công tác bồi thường, hỗ trợ cần thực hiện đồng

bộ các giải pháp sau: Tăng cường công tác quản lý đất đai; Hoàn thiện quy định xác

định giá đất, giá tài sản tính bồi thường, hỗ trợ; Đảm bảo kinh phí thực hiện BT,

HT, TĐC; Nâng cao năng lực và hiệu quả làm việc của cán bộ thực hiện công tác

BT, HT, TĐC.

Việc thực thi pháp luật về thu hồi, bồi thường và tái định cư khi nhà nước

thu hồi đất tại thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh trong thời gian qua đã góp phần

ổn định chính trị - xã hội, bảo vệ được quyền, lợi ích hợp pháp của công dân và cả

lợi ích của Nhà nước. Trước những yêu cầu thực tế hiện nay đòi hỏi thành phố

Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh cần coi công tác đền bù GPMB là một trong những

nhiệm vụ trọng tâm của cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương.

86

TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Bộ Tài chính, Thông tư số 57/2010/TT-BTC ngày 16 tháng 4 năm 2010 quy định

việc lập dự toán, sử dụng và quyết toán kinh phí tổ chức thực hiện bồi thường,

hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất, Hà Nội 2010.

2. Bộ Tài nguyên và Môi trường, Thông tư số 14/2009/TT-BTNMT ngày 01/10/2009

quy định chi tiết về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư và trình tự, thủ tục thu hồi đất,

giao đất, cho thuê đất, Hà Nội 2009.

3. Bộ Tài nguyên và Môi trường, Thông tư số 37/2014/TT – BTNMT của Bộ Tài

nguyên và Môi trường ngày 30/6/2014 quy định chi tiết về bồi thường, hỗ trợ,

tái định cư khi nhà nước thu hồi đất, Hà Nội 2014.

4. Chính phủ, Nghị định số 90/CP ngày 17/9/1994, Ban hành quy định về việc đền

bù thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất để sử dụng vào mục đích quốc phòng, an

ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng, Hà Nội 1994.

5. Chính phủ, Nghị định số 188/2004/NĐ-CP ngày 16/11/2004, Về phương pháp

xác định giá đất và khung giá các loại đất, Hà Nội 2004.

6. Chính phủ, Nghị định số 197/2004/NĐ-CP ngày 03/12/2004, Về bồi thường

thiệt hại và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất, Hà Nội 2004.

7. Chính phủ, Nghị định số 84/2007/NĐ-CP ngày 25/5/2007, Quy định bổ sung về

việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, thu hồi đất, thực hiện quyền sử

dụng đất, trình tự thủ tục bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi

đất và giải quyết khiếu nại về đất đai, Hà Nội 2007.

8. Chính phủ, Nghị định số 123/2007/NĐ-CP ngày 27/7/2007, Sửa đổi bổ sung một

số điều của Nghị định số 188/2004/NĐ-CP ngày 16/11/2004 về phương pháp

xác định giá đất và khung giá các loại đất, Hà Nội 2007.

9. Chính phủ, Nghị định số 69/2009/NĐ-CP ngày 13 tháng 8 năm 2009, quy định

bổ sung về quy hoạch sử dụng đất, giá đất, thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ tái

định cư, Hà Nội 2009.

87

10. Chính phủ, Nghị định số 47/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014, Về bồi thường thiệt

hại và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất, Hà Nội 2017.

11. Đào Trung Chính, Đặng Hùng Võ và Nguyễn Thanh Trà, Đánh giá thực tiễn

triển khai công tác thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư theo quy định của

pháp luật. Tạp chí khoa học và phát triển Hà Nội 2013, 11(3).tr. 328-336.

12. Đào Trung Chính, Nghiên cứu thực trạng và đề xuất đổi mới pháp luật về thu

hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư. Luận án tiến sĩ, Trường Đại học Nông

nghiệp Hà Nội.tr.13-21, Hà Nội 2015.

13. Tôn Gia Huyên, Thu hồi, đền bù, tổ chức tái định cư đối với đất nông nghiệp và

nông dân. Chuyên đề 2, Hội thảo Chính sách pháp luật đất đai liên quan đến

nông nghiệp, nông dân và nông thôn, Hà Nội 2009.

14. UBND thành phố Uông Bí, Báo cáo kết quả công tác bồi thường, giải phóng

mặt bằng giai đoạn 2015 – 2017, Uông Bí 2017.

15. Trung tâm phát triển quỹ đất thành phố, Trình tự thu hồi, giải phóng mặt bằng

khi Nhà nước thu hồi đất, Uông Bí 2015.

16. Lê Thị Thùy Dương, Luận văn thạc sỹ, Luật kinh tế, Pháp Luật về bồi thường

khi nhà nước thu hòi đất từ thực tiễn tại tỉnh Quảng Ninh, Hà Nội 2015.

17. Quốc hội, Luật Đất đai năm 2013, Hà Nội 2013.

18. Chính Phủ, Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 quy định chi tiết thi

hành một số điều của Luật Đất đai năm 2013, Hà Nội 2013.

19. Chính phủ, Nghị định số 44/2014/NĐ-CP Quy định về giá, Hà Nội 2014.

20. Chính phủ, Nghị định số 47/2014/NĐ-CP ngày 15/05/2014 của Chính Phủ Quy

định về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất.

21. Chính phủ, Nghị định số 01/2017/NĐ-CP ngày 6/1/2017 sửa đổi, bổ sung một

số Nghị định quy định chi tiết thi hành Luật Đất đai.

88

22. UBND tỉnh Quảng Ninh, Quyết định số 629/QĐ-UBND Ngày 21/3/2012 của Ủy

ban nhân dân tỉnh Quảng Ninh Về việc phê duyệt phương án tổng thể bồi thường,

hỗ trợ và tái định cư khi nhà nước thu hồi đất thực hiện Dự án.

23. UBND tỉnh Quảng Ninh, Quyết định số 1766/QĐ-UBND ngày 13/8/2014 của

UBND tỉnh Quảng Ninh về việc ban hành Quy định về bồi thường, hỗ trợ và tái

định cư khi nhà nước thu hồi đất theo Luật Đất đai năm 2013 trên địa bàn tỉnh

Quảng Ninh, Quảng Ninh 2014.

24. UBND tỉnh Quảng Ninh, Quyết định số 3238/2014/QĐ-UBND ngày 26/12/2014

của UBND tỉnh Quảng Ninh về việc quy định giá các loại đất trên địa bàn tỉnh

Quảng Ninh, Quảng Ninh 2014.

25. UBND tỉnh Quảng Ninh, Quyết định số 4234/2015/QĐ-UBND ngày 28/12/2015

của UBND tỉnh Quảng Ninh về Ban hành Bộ đơn giá bồi thường tài sản gắn liền

với đất khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh, Quảng Ninh 2015.

26. UBND thành phố Uông Bí, Quyết định số 374/QĐ-UBND Về việc giải quyết

đơn đề nghị của ông Đặng Thanh Hồng cư trú tại khu Bí Trung 2, phường Phương

Đông, thành phố Uông Bí, Uông Bí 15/7/2017.

27. UBND thành phố Uông Bí, Quyết định số 3094/QĐ-UBND của Chủ tịch UBND

thành phố Uông Bí về việc giải quyết khiếu nại của ông Đỗ Đức Thắng trú tại tổ 1,

khu Nam Trung, phường Nam Khê, thành phố Uông Bí (lần 2). Uông Bí ngày

29/5/2017.