BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NỘI VỤ

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

NGUYỄN THỊ HẠNH

PHÁP LUẬT QUẢN LÝ VỀ HỘ TỊCH - TỪ THỰC TIỄN QUẬN HAI BÀ TRƢNG, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH

HÀ NỘI – 2016

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NỘI VỤ

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

NGUYỄN THỊ HẠNH

PHÁP LUẬT QUẢN LÝ VỀ HỘ TỊCH - TỪ THỰC TIỄN QUẬN HAI BÀ TRƢNG, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH

Chuyên ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính Mã số: 60380102

NGƢỜI HƢỚNG DẪN:TS. NGUYỄN MINH SẢN

HÀ NỘI – 2016

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi.

Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chƣa từng đƣợc

ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác.

Hà Nội, ngày tháng năm 2016

Tác giả

Nguyễn Thị Hạnh

LỜI CẢM ƠN

Với tình cảm chân thành và lòng biết ơn sâu sắc, tôi xin trân trọng gửi

lời cảm ơn tới:

Ban giám đốc Học viện Hành chính Quốc gia cùng các Thầy giáo, Cô

giáo, đã trang bị những kiến thức quý báu và giúp đỡ tôi trong suốt quá trình

học tập và nghiên cứu tại Học viện Hành chính Quốc gia.

Tiến sĩ Nguyễn Minh Sản, ngƣời thầy trực tiếp hƣớng dẫn khoa học,

tận tình chỉ bảo, giúp đỡ tôi trong quá trình nghiên cứu để hoàn thành Luận

văn này.

Tôi xin chân thành cảm ơn!

Hà Nội, ngày tháng năm 2016

Tác giả

Nguyễn Thị Hạnh

MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN

LỜI CẢM ƠN

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1

CHƢƠNG 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA PHÁP LUẬT QUẢN LÝ VỀ HỘ

TỊCH .................................................................................................................. 7

1.1. Hộ tịch và quản lý về hộ tịch .................................................................. 7

1.1.1. Khái niệm hộ tịch ............................................................................. 7

1.1.2.Quản lý về hộ tịch ........................................................................... 11

1.2. Pháp luật quản lý về hộ tịch .................................................................. 14

1.2.1. Khái niệm pháp luật quản lý về hộ tịch ......................................... 14

1.2.2. Đặc điểm pháp luật quản lý về hộ tịch ........................................... 16

1.2.3. Nội dung pháp luật quản lý về hộ tịch ........................................... 17

1.2.4. Thẩm quyền quản lý về hộ tịch ...................................................... 20

1.2.5. Vai trò pháp luật quản lý về hộ tịch ............................................... 23

1.3. Những yếu tố ảnh hƣởng đến pháp luật quản lý về hộ tịch .................. 30

1.3.1. Ý thức pháp luật ............................................................................. 30

1.3.2. Chất lƣợng của văn bản pháp luật quản lý về hộ tịch .................... 31

1.3.3. Công tác tổ chức bộ máy và công chức thực hiện pháp luật

quản lý về hộ tịch ..................................................................................... 32

1.3.4. Kinh phí và cở sở vật chất .............................................................. 33

Tiểu kết Chƣơng 1 ....................................................................................... 33

CHƢƠNG 2 THỰC TRẠNG THỰC HIỆN PHÁP LUẬT QUẢN LÝ VỀ

HỘ TỊCH TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN HAI BÀ TRƢNG, THÀNH PHỐ

HÀ NỘI ........................................................................................................... 35

2.1. Sự hình thành và phát triển của pháp luật quản lý về hộ tịch ............... 35

2.1.1. Giai đoạn trƣớc năm 1945 .............................................................. 35

2.1.2. Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1975 ........................................... 36

2.1.3. Giai đoạn từ năm 1975 đến nay ..................................................... 38

2.2. Phân tích thực trạng thực hiện pháp luật quản lý về hộ tịch trên địa

bàn quận Hai Bà Trƣng, thành phố Hà Nội ................................................. 41

2.2.1. Tổng quan về quận Hai Bà Trƣng, thành phố Hà Nội ................... 41

2.2.2. Tuyên truyền, phổ biến pháp luật quản lý về hộ tịch ..................... 43

2.2.3. Pháp luật quản lý về hộ tịch trên địa bàn Quận Hai Bà Trƣng,

thành phố Hà Nội ..................................................................................... 45

2.2.4. Thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi

phạm pháp luật quản lý về hộ tịch trên địa bàn quận Hai Bà Trƣng,

thành phố Hà Nội ..................................................................................... 48

2.3. Đánh giá thực trạng thực hiện pháp luật quản lý về hộ tịch trên địa

bàn Quận Hai Bà Trƣng, thành phố Hà Nội ................................................ 50

2.3.1. Những kết quả đạt đƣợc ................................................................. 50

2.3.2. Những hạn chế................................................................................ 52

2.3.3. Nguyên nhân của những hạn chế ................................................... 55

Tiểu kết Chƣơng 2 ....................................................................................... 58

CHƢƠNG 3 QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM THỰC HIỆN

PHÁP LUẬT QUẢN LÝ VỀ HỘ TỊCH TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN HAI

BÀ TRƢNG, THÀNH PHỐ HÀ NỘI ........................................................... 60

3.1. Quan điểm bảo đảm thực hiện pháp luật quản lý về hộ tịch trên địa

bàn quận Hai Bà Trƣng, thành phố Hà Nội ................................................. 60

3.1.1. Thực hiện pháp luật quản lý về hộ tịch phải quán triệt các quan

điểm của Đảng, Nhà nƣớc Việt Nam về xây dựng Nhà nƣớc pháp

quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân ......... 61

3.1.2. Thực hiện pháp luật quản lý về hộ tịch phải đề cao quyền con

ngƣời, quyền, nghĩa vụ cơ bản của công dân ........................................... 63

3.1.3. Thực hiện pháp luật quản lý về hộ tịch phải bảo đảm phù hợp

với các quy định pháp luật có liên quan ................................................... 65

3.2. Giải pháp chung bảo đảm thực hiện pháp luật quản lý về hộ tịch ....... 66

3.2.1. Rà soát, sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới các văn bản pháp

luật phù hợp với Luật Hộ tịch và các văn bản hƣớng dẫn thi hành ......... 66

3.2.2. Tổ chức tuyên truyền, phổ biến, quán triệt Luật Hộ tịch và các

văn bản hƣớng dẫn thi hành với nội dung và hình thức phù hợp, nâng

cao nhận thức, hiểu biết của nhân dân ..................................................... 70

3.2.3. Ứng dụng công nghệ thông tin trong đăng ký và quản lý hộ tịch .. 72

3.2.4. Kiện toàn đội ngũ công chức làm công tác Hộ tịch bảo đảm đủ

tiêu chuẩn đƣợc quy định trong Luật Hộ tịch .......................................... 73

3.2.5. Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính trong đăng ký và quản lý hộ

tịch ............................................................................................................ 75

3.2.6. Tăng cƣờng phối hợp giữa các cơ quan, tổ chức trong pháp luật

quản lý về hộ tịch ..................................................................................... 77

3.2.7. Đẩy mạnh công tác giám sát, thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm

trong pháp luật quản lý về hộ tịch ............................................................ 78

3.3. Giải pháp bảo đảm thực hiện pháp luật quản lý về hộ tịch trên địa

bàn quận Hai Bà Trƣng, thành phố Hà Nội ................................................. 80

Tiểu kết Chƣơng 3 ....................................................................................... 84

KẾT LUẬN ..................................................................................................... 86

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................ 88

1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Đăng ký và quản lý hộ tịch là nhiệm vụ quan trọng luôn đƣợc các quốc

gia quan tâm thực hiện. Hoạt động này còn là cơ sở để Nhà nƣớc công nhận

và bảo hộ quyền con ngƣời, quyền, nghĩa vụ công dân, đồng thời có biện pháp

quản lý dân cƣ một cách khoa học, phục vụ thiết thực cho việc xây dựng,

hoạch định chính sách phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh của đất

nƣớc. Tại hầu hết các nƣớc, các sự kiện hộ tịch của con ngƣời từ khi sinh ra

đến khi chết nhƣ khai sinh, kết hôn, ly hôn, nuôi con nuôi, giám hộ, thay đổi,

cải chính hộ tịch, khai tử… đều đƣợc đăng ký và đƣợc quản lý chặt chẽ.

Ở Việt Nam, quản lý hộ khẩu, hộ tịch đƣợc xác định là khâu trung tâm

của toàn bộ hoạt động quản lý dân cƣ. Với những giá trị tiềm tàng nhƣ vậy,

công tác quản lý hộ tịch đã khẳng định vai trò vô cùng quan trọng của nó

trong tiến trình phát triển của xã hội. Nhận thức đƣợc vấn đề này, thời gian

qua Đảng và Nhà nƣớc đã ban hành nhiều chính sách, pháp luật về quản lý hộ

tịch bƣớc đầu tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho hoạt động này. Đặc biệt ngày

20/11/2014, tại kỳ họp thứ 8 Quốc hội nƣớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt

Nam khóa XIII đã thông qua Luật Hộ tịch. Luật Hộ tịch có hiệu lực thi hành

từ ngày 01/01/2016 đánh dấu một bƣớc phát triển mới trong lịch sử pháp luật

quản lý nhà nƣớc về hộ tịch ở nƣớc ta.

Thực tiễn cho thấy, thời gian qua công tác đăng ký và quản lý hộ tịch ở

nƣớc ta đã có những bƣớc phát triển ổn định, đạt đƣợc những kết quả quan

trọng. Công tác xây dựng thể chế đƣợc tăng cƣờng; việc phổ biến, giáo dục

pháp luật về hộ tịch ngày càng đƣợc coi trọng. Trình tự, thủ tục đăng ký hộ

tịch cũng từng bƣớc đƣợc đơn giản hóa, ngày càng tạo thuận lợi cho ngƣời

dân...Với những kết quả đã đạt đƣợc, công tác hộ tịch ngày càng khẳng định

2

vị trí, vai trò và tầm quan trọng đối với quản lý nhà nƣớc và xã hội, góp phần

bảo đảm ngày một tốt hơn quyền, lợi ích hợp pháp của công dân.

Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt đƣợc quản lý hộ tịch còn có nhiều

hạn chế nhƣ: Thủ tục quản lý hộ tịch chƣa khoa học, chƣa phù hợp thực tế, trình

độ, năng lực của đội ngũ công chức làm công tác quản lý hộ tịch; việc tuyên

truyền, giáo dục pháp luật về hộ tịch chƣa đƣợc quan tâm đúng mức…Những

hạn chế này đã làm giảm đi hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nƣớc về hộ tịch. Thực

trạng này do nhiều nguyên nhân, trong đó có những nguyên nhân xuất phát từ

chính các quy định của pháp luật về đăng ký, quản lý hộ tịch.

Là một Quận trung tâm của thành phố Hà Nội, trong những năm qua,

quận Hai Bà Trƣng đã có nhiều cố gắng, nỗ lực trong quản lý nhà nƣớc về hộ

tịch trên địa bàn quận.Với sự quan tâm, chỉ đạo của các cấp uỷ, chính quyền

quản lý về hộ tịch trên địa bàn quận Hai Bà Trƣng, thành phố Hà Nội từng

bƣớc đƣợc thực hiện nghiêm túc đầy đủ, chính xác. Tuy nhiên, thực trạng

quản lý hộ tịch trên địa bànquận Hai Bà Trƣng, thành phố Hà Nội cho thấy

những bất cập của quản lý hộ tịch về hành lang pháp lý. Với thực trạng đó và

những đòi hỏi của tình hình mới, để luận giải những vấn đề lý luận và thực

tiễn về hộ tịch, tôi đã lựa chọn đề tài “Pháp luật quản lý về hộ tịch - từ thực tiễn

quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội” làm đề tài luận văn tốt nghiệp thạc sĩ

ngành Luật Hiến pháp và Luật Hành chính của mình.

2. Tình hình nghiên cứu của đề tài

Đã có nhiều công trình nghiên cứu, các luận án, luận văn, bài báo tạp chí

đề cập đến hộ tịch và các chính sách thực hiện hộ tịch, trong thời gian qua:

Bài “Cơ quan nhà nƣớc cần tôn trọng quyền yêu cầu cấp phiếu lý lịch

tƣ pháp của công dân” tác giả Vũ Đình Tuấn Phƣơng, Tạp chí Dân chủ và

Pháp luật, tháng 6 năm 2005;

3

Bài “Kỳ vọng về một nề nếp mới trong công tác hộ tịch” tác giả Phạm

Trọng Cƣờng, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, tháng 6 năm 2006;

Bài “Nâng cao năng lực đội ngũ công chức Tƣ pháp - Hộ tịch trong giai

đoạn hiện nay”Tác giả Trần Văn Quảng, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật tháng

9 năm 2006;

Số chuyên đề về “Công chứng, Hộ tịch và Quốc tịch” phần 2 Hộ tịch và

Quốc tịch, Bộ Tƣ pháp, Hà Nội, 2007;

Bài “Tƣ pháp Hà Nội không vì khó khăn mà từ chối đăng ký khai sinh”

tác giả Đàm Thị Kim Hạnh, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, tháng 3 năm 2008;

Giáo trình“Quản lý Hành chính - Tƣ pháp” của Học viện hành chính, nhà

xuất bản khoa học kỹ thuật năm 2008 (dành cho đào tạo trung cấp hành chính);

Chuyên đề “Quản lý Hành chính-Tƣ pháp” trong chƣơng trình bồi

dƣỡng kiến thức quản lý quản lý nhà nƣớc ngạch chuyên viên chính của Học

viện Hành chính;

Bài báo “Hộ tịch và pháp luật về hộ tịch” tác giả Trần Duy Rô Nin, tạp

chí Nhà nƣớc và Pháp luật số 5/2008;

Bài “Thực trạng đội ngũ công chức Tƣ pháp- Hộ tịch và yêu cầu chuẩn

hóa” của tác giả Trần Thị Lệ Hoa, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật số chuyên đề

pháp luật Hộ tịch năm 2013;

Bộ Tƣ pháp (2006) “Hƣớng dẫn nghiệp vụ Đăng ký và quản lý hộ

tịch”, NXB Tƣ pháp, Hà Nội;

Bộ Tƣ pháp (2007), “Nghiệp vụ đăng ký hộ tịch”, NXB Tƣ pháp, Hà Nội;

Sách chuyên khảo “Từ quản lý đinh đến quản lý hộ tịch” của tác giả

Phạm Trọng Cƣờng, NXB Tƣ pháp, Hà Nội, 2007;

Số chuyên đề “Công chứng, hộ tịch và quốc tịch”, Bộ Tƣ pháp, Hà Nội,

2007;

4

Bộ Tƣ pháp (2010) “Tài liệu Hƣớng dẫn nghiệp vụ Tƣ pháp xã,

phƣờng, thị trấn”, NXB Tƣ pháp;

Đề tài nghiên cứu cấp cơ sở “Nâng cao chất lƣợng, hiệu quả công tác

đăng ký và quản lý hộ tịch ở tỉnh Hòa Bình – Thực trạng và giải pháp” của Sở

Tƣ pháp tỉnh Hòa Bình, tác giả Trần Việt Hƣng chủ nhiệm đề tài, Viện Khoa

học Pháp lý, Bộ Tƣ pháp, 2010;

Luận văn thạc sĩ quản lý hành chính công “Quản lý nhà nƣớc về hộ tịch

ở cấp xã, huyện Đan Phƣợng, thành phố Hà Nội”, tác giả Phạm Hồng Hoàn,

Học viện Hành chính Quốc gia, 2010.

Các công trình khoa học nói trên đã đề cập từng khía cạnh của quản lý

về hộ tịch. Tuy nhiên, cho đến nay, chƣa có công trình khoa học nào nghiên

cứu trực tiếp về pháp luật quản lý về hộ tịch - từ thực tiễn quận Hai Bà Trƣng,

thành phố Hà Nội

3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

Đối tƣợng nghiên cứu của đề tài là các vấn đề lý luận, lịch sử pháp luật

quản lý về hộ tịch, thực tiễn pháp luật quản lý về hộ tịch trên địa bàn quận

Hai Bà Trƣng, thành phố Hà Nội

Phạm vi nghiên cứu của đề tài về không gian đƣợc giới hạn trên địa bàn

quận Hai Bà Trƣng, thành phố Hà Nội; về thời gian đƣợc giới hạn từ năm 2010

đến nay.

4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

Mục đích nghiên cứu của đề tài là làm rõ lý luận về quản lý hộ tịch, pháp

luật quản lý về hộ tịch, thực tiễn pháp luật quản lý về hộ tịch trên địa bàn quận

Hai Bà Trƣng, thành phố Hà Nội. Từ đó đánh giá thực trạng pháp luật quản lý

về hộ tịch cũng nhƣ pháp luật quản lý về hộ tịch trên địa bàn quận Hai Bà

Trƣng, thành phố Hà Nội. Trong thời gian qua, những kết quả đạt đƣợc và hạn

chế cũng nhƣ nguyên nhân của chúng.

5

Trên cơ sở xây dựng lý luận và phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật

quản lý về hộ tịch luận văn hƣớng tới việc đề xuất những giải pháp bảo đảm

thực hiện pháp luật quản lý về hộ tịch nói chung, những giải pháp bảo

đảmthực hiện pháp luật quản lý về hộ tịch trên địa bàn quận Hai Bà Trƣng,

thành phố Hà Nội nói riêng góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả của quản lý

nhà nƣớc về hộ tịch trên địa bàn quận Hai Bà Trƣng, thành phố Hà Nội trong

thời gian tới.

Để đạt đƣợc mục đích nghiên cứu nêu trên, luận văn có những nhiệm

vụ cụ thể sau:

Thứ nhất, xây dựng cơ sở lý luận của pháp luật quản lý về hộ tịch thông

qua việc xác định các khái niệm có liên quan nhƣ: Khái niệm Hộ tịch; khái

niệm quản lý Hộ tịch; khái niệm pháp luật quản lý về Hộ tịch; xác định đặc

điểm, nội dung, vai trò và các yếu tố ảnh hƣởng đến việc pháp luật quản lý về

hộ tịch.

Thứ hai, phân tích thực trạng pháp luật quản lý về hộ tịch trên địa bàn

quận Hai Bà Trƣng, thành phố Hà Nội đƣa ra những đánh giá về kết quả đạt

đƣợc, những hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế trong pháp luật quản

lý về hộ tịch trên địa bàn quận Hai Bà Trƣng, thành phố Hà Nội.

Thứ ba, đề xuất phƣơng hƣớng, hệ thống giải pháp đủ cơ sở khoa học để

bảo đảm pháp luật quản lý về hộ tịch trên địa bàn quận Hai Bà Trƣng, thành

phố Hà Nội.

5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu

Cơ sở lý luận của việc nghiên cứu đề tài là những luận điểm trong học

thuyết Mác- Lênin và tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về quản lý hành chính nhà nƣớc;

các quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về quản lý hộ tịch, xây dựng

pháp luật quản lý hộ tịch.

6

Các phƣơng pháp đƣợc tác giả sử dụng trong luận văn gồm: Phƣơng

pháp phân tích, tổng hợp, diễn dịch, quy nạp, phƣơng pháp lịch sử, phƣơng

pháp hệ thống, phƣơng pháp so sánh...

6. Đóng góp của Luận văn

Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận, pháp luật quản lý về hộ

tịch; đánh giá thực trạng pháp luật quản lý về hộ tịch trên địa bàn quận Hai Bà

Trƣng, thành phố Hà Nội trong thời gian qua. Từ đó đề xuất những giải pháp

bảo đảm thực hiện pháp luật quản lý về hộ tịch nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu

quả của quản lý nhà nƣớc về hộ tịch trên địa bàn quận Hai Bà Trƣng, thành

phố Hà Nội.

Các kết quả nghiên cứu của luận văn có thể làm cơ sở để các cấp chính

quyền ở quận Hai Bà Trƣng, thành phố Hà Nội nghiên cứu, vận dụng vào

thực tế quản lý hộ tịch. Luận văn cũng có thể là tài liệu nghiên cứu về quản lý

hộ tịch cho các học viên, sinh viên của Học viện Hành chính Quốc gia.

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn

đƣợc kết cấu gồm 3 chƣơng:

Chƣơng 1: Cơ sở lý luận của pháp luật quản lý về hộ tịch

Chƣơng 2: Thực trạng thực hiện pháp luật quản lý về hộ tịch trên

địa bàn quận Hai Bà Trƣng, thành phố Hà Nội

Chƣơng 3: Quan điểm và giải pháp bảo đảm thực hiện pháp luật

quản lý về hộ tịch trên địa bàn quận Hai Bà Trƣng, thành phố Hà Nội

7

CHƢƠNG 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA PHÁP LUẬT QUẢN LÝ VỀ HỘ TỊCH

1.1. Hộ tịch và quản lý về hộ tịch

1.1.1. Khái niệm hộ tịch

“Hộ tịch” là thuật ngữ quen thuộc trong đời sống xã hội, từ trƣớc đến

nay, vẫn tồn tại khá nhiều quan niệm khác nhau về khái niệm “Hộ tịch”.

Dƣới góc độ ngôn ngữ, khái niệm “Hộ tịch” đƣợc giải thích trong

nhiều Từ điển Hán - Việt của nhiều tác giả khác nhau dƣới đây là một số

cách giải nghĩa:

Theo tác giả Đào Duy Anh trong cuốn Giản yếu Hán - Việt từ

điển:“Hộ tịch: Quyển sổ của Chính phủ biên chép số người, chức nghiệp và

tịch quán của từng người”

Tác giả Nguyễn Văn Khôn trong cuốn Hán - Việt từ điển lại cho rằng: “Hộ

tịch: Sổ biên dân số có ghi rõ tên họ, quê quán và chức nghiệp của từng người”

Tác giả Hoàng Thúc Trâm trong cuốn Hán - Việt tân từ điển viết “Hộ

tịch: Sổ biên nhận số một địa phương hoặc cả toàn quốc, trong có ghi rõ tên

họ, quê quán và chức nghiệp của từng người”;

Tác giả Bửu Kế trong cuốn Từ điển Hán - Việt từ nguyên giải thích

“Hộ tịch: Sổ sách ghi chép tên, họ, nghề nghiệp dân cư ngụ trong xã

phường”.

Theo Từ điển từ và ngữ Hán Việt của Nguyễn Lân chủ biên viết: "Hộ

tịch: Quyển sổ ghi chép tên tuổi, quê quán, nghề nghiệp của mọi người trong

một địa phương”.

Nhƣ vậy, xét về góc độ ngôn ngữ nghĩa của từ "Hộ tịch" còn tồn tại

nhiều cách hiểu khác nhau, thậm chí, có cuốn từ điển giải nghĩa còn thể hiện

sự nhầm lẫn cơ bản giữa hai khái niệm hộ tịch và hộ khẩu. Điều này phản ánh

8

một thực tế là sự nhầm lẫn giữa hai khái niệm “Hộ tịch” và “Hộ khẩu” trong

nhận thức xã hội là khá phổ biến.

Về khía cạnh pháp lý

Thuật ngữ “Hộ tịch” lần đầu tiên đƣợc định nghĩa trong các giáo trình

giảng dạy của Đại học Luật khoa Sài Gòn dƣới chế độ Việt Nam Cộng hoà,

trong đó nổi lên quan điểm của một số tác giả sau:

Tác giả Phan Văn Thiết có thể coi là ngƣời đầu tiên trình bày quan

niệm “hộ tịch” trong cuốn tài liệu chuyên khảo xuất bản năm 1958 nhƣ sau:

“Hộ tịch - còn gọi là nhân thế bộ - là cách sinh hợp pháp của một công

dân trong gia đình và trong xã hội. Hộ tịch căn cứ vào ba hiện tượng quan

trọng nhất của con người: sinh, giá thú và tử”.

Các tác giả Vũ Văn Mẫu - Lê Đình Chân lại trình bày một định nghĩa

khác về khái niệm “Hộ tịch”:

"Hộ tịch là sổ biên chép các việc liên hệ đến các người trong nhà. Hộ

tịch gồm ba sổ để ghi chép các sự khai giá thú, khai sinh và khai tử".

Tác giả Trần Thúc Linh, tác giả cuốn Danh từ pháp luật lƣợc giải - vốn

đƣợc đánh giá là một trong những từ điển chuyên ngành pháp lý đầu tiên -

không đƣa ra định nghĩa về khái niệm “Hộ tịch” mà chỉ định nghĩa khái niệm

“Chứng thƣ Hộ tịch”:

“Chứng thư Hộ tịch là những giấy tờ công chứng dùng để chứng minh

một cách chính xác thân trạng người ta như ngày tháng sanh, tử, giá thú, họ

tên, con trai con gái, con chính thức hay con tư sanh, tư cách vợ chồng... tóm

lại tình trạng xã hội của con người từ lúc sinh ra đến khi chết.

Các sổ sách hộ tịch ghi lại mọi việc sanh, tử, giá thú và các việc thay

đổi về thân trạng người ta nhìn nhận con ngoại hôn, chính thức hoá con tư

sinh, khước từ phụ hệ, ly thân...”.

9

Khái niệm “Hộ tịch” cũng là một trƣờng hợp đặc biệt trong hệ thống

khái niệm pháp lý tiếng Việt. Bản thân khái niệm này hoàn toàn không dễ

định nghĩa một cách minh bạch. Trên thực tế, đã từng có những cuộc thảo

luận trong giới chuyên môn về việc thay thế khái niệm này bằng một khái

niệm khác thông dụng hơn, dễ hiểu hơn. Tuy nhiên, do khái niệm này, trải

qua một quá trình lịch sử đã dần trở thành ngôn ngữ phổ thông, ăn sâu trong

nhận thức nhân dân nên các nhà xây dựng pháp luật đã sử dụng khái niệm này

với tƣ cách là một thuật ngữ chuyên môn và định nghĩa trong văn bản.

Tại Điều 1 Điều lệ đăng ký hộ tịch ban hành kèm theo Nghị định số

764/TTG ngày 08/5/1956 của Thủ tƣớng Chính phủ quy định “Bản điều lệ

này quy định những nguyên tắc và thủ tục đăng ký các việc sinh, tử, kết hôn,

sửa chữa các điều đã đăng ký; ghi chú các việc thay đổi về hộ tịch cấp phát

giấy chứng nhận các việc ấy”. Điều lệ đăng ký hộ tịch ban hành kèm theo

Nghị định số 04/CP ngày 16/01/1961 của Hội đồng Chính phủ năm 1961

cũng quy định “đăng ký hộ tịch là ghi vào sổ của Ủy ban hành chính cơ sở

những việc sinh, tử, kết hôn và những việc có liên quan nhƣ nuôi con nuôi,

nhận con ngoài giá thú, nhận cha mẹ đẻ, thay đổi quốc tịch, thay đổi họ, tên,

chữ đệm, cải chính ngày, tháng, năm sinh...”.Tiếp đó, Nghị định số

83/1998/NĐ-CP và Nghị định số 158/2005/NĐ-CP cũng quy định hộ tịch là

những sự kiện cơ bản xác định tình trạng nhân thân của một người từ khi sinh

ra đến khi chết. Cách định nghĩa này, thực chất chỉ là một sự ƣớc định. Về giá

trị biểu đạt, với cách định nghĩa nhƣ vậy, sẽ chính xác hơn nếu coi đây là định

nghĩa cho thuật ngữ “sự kiện hộ tịch” chứ không phải thuật ngữ “Hộ tịch”.

Bên cạnh đó, bản thân cách định nghĩa này cũng chƣa xác định đƣợc rõ ràng

nội hàm của khái niệm nên cùng với khái niệm “Hộ tịch”

Kế thừa khái niệm về hộ tịch trong các văn bản trƣớc đó, Luật Hộ tịch

năm 2014 ra đời quy định: “Hộ tịch là những sự kiện được quy định tại Điều

10

3 của Luật này, xác định tình trạng nhân thân của cá nhân từ khi sinh ra đến

khi chết” (Khoản 1 Điều 2).

Điều 3 của Luật Hộ tịch năm 2014 quy định:

Xác nhận vào Sổ hộ tịch các sự kiện hộ tịch gồm: Khai sinh; kết hôn;

giám hộ; nhận cha, mẹ, con; thay đổi, cải chính hộ tịch, xác định lại dân tộc,

bổ sung thông tin hộ tịch; khai tử.

Ghi vào Sổ hộ tịch việc thay đổi hộ tịch của cá nhân theo bản án, quyết

định của cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền: thay đổi quốc tịch; xác định cha,

mẹ, con; xác định lại giới tính; nuôi con nuôi, chấm dứt việc nuôi con nuôi; ly

hôn, hủy việc kết hôn trái pháp luật, công nhận việc kết hôn; công nhận giám

hộ; tuyên bố hoặc huỷ tuyên bố một ngƣời mất tích, đã chết, bị mất hoặc hạn

chế năng lực hành vi dân sự.

Ghi vào Sổ hộ tịch sự kiện khai sinh; kết hôn; ly hôn; hủy việc kết hôn;

giám hộ; nhận cha, mẹ, con; xác định cha, mẹ, con; nuôi con nuôi; thay đổi hộ

tịch; khai tử của công dân Việt Nam đã đƣợc giải quyết tại cơ quan có thẩm

quyền của nƣớc ngoài.

Xác nhận hoặc ghi vào Sổ hộ tịch các việc hộ tịch khác theo quy định

của pháp luật.

Nhƣ vậy, Luật Hộ tịch đã quy định cụ thể hơn về khái niệm hộ tịch so

với Nghị định 158/2005/NĐ-CP. Điều này là cần thiết bởi cần phải có sự

thống nhất trong cách hiểu và áp dụng pháp luật.

Từ quan niệm trên về hộ tịch, có thể thấy, hộ tịch có những đặc điểm

chủ yếu sau:

Thứ nhất, hộ tịch là một giá trị nhân thân, gắn chặt với cá nhân con

ngƣời, bởi vì, mỗi ngƣời chỉ có một thời điểm sinh, một thời điểm chết. Các

dấu hiệu về cha đẻ, mẹ đẻ, dân tộc, giới tính là những dấu hiệu giúp ngƣời ta

11

phân biệt từng cá nhân con ngƣời. Do đó, đây là các giá trị nhân thân gắn với

một con ngƣời cụ thể từ khi sinh ra đến khi chết

Thứ hai, hộ tịch là những giá trị, về nguyên tắc không chuyển đổi cho

ngƣời khác. Đặc điểm này là hệ quả của của đặc điểm thứ nhất. Do đó, việc

thực hiện các sự kiện hộ tịch phải do trực tiếp cá nhân ngƣời đó thực hiện, trừ

trƣờng hợp pháp luật có quy định khác (nhƣ: khai sinh có thể do bố, mẹ đi

đăng ký khai sinh; khai tử do ngƣời thân của ngƣời chết đăng ký khai tử).

Thứ ba,hộ tịch là những sự kiện nhân thân không lƣợng hoá đƣợc thành

tiền. Chính vì vậy, hộ tịch không phải là một loại hàng hóa có thể trao đổi trên

thị trƣờng.

1.1.2.Quản lý về hộ tịch

Quản lý là hoạt động mang tính đặc thù của con ngƣời, là sự tác động

có mục đích của các chủ thể quản lý đối với các đối tƣợng quản lý. Quản lý

xuất hiện ở bất kỳ nơi nào, lúc nào nếu ở nơi đó có hoạt động chung của con

ngƣời. Mục đích và nhiệm vụ của quản lý là điều khiển, chỉ đạo hoạt động

chung của con ngƣời, phối hợp hoạt động riêng lẻ của từng cá nhân thành một

hoạt động chung thống nhất của cả tập thể và hƣớng hoạt động chung đó theo

những phƣơng hƣớng thống nhất, nhằm đạt đƣợc mục tiêu đã định trƣớc.

Khi Nhà nƣớc xuất hiện thì phần lớn các công việc của xã hội do nhà

nƣớc quản lý. Khái niệm quản lý nhà nƣớc theo nghĩa rộng: Là hoạt động tổ

chức, điều hành của cả bộ máy nhà nƣớc, nghĩa là bao hàm cả sự tác động, tổ

chức của quyền lực nhà nƣớc trên các phƣơng diện lập pháp hành pháp và tƣ

pháp. Theo cách hiểu này, quản lý nhà nƣớc đƣợc đặt trong cơ chế "Đảng

lãnh đạo, Nhà nƣớc quản lý, nhân dân lao động làm chủ.

Theo nghĩa hẹp, Quản lý nhà nƣớc chủ yếu là quá trình tổ chức, điều

hành của hệ thống cơ quan hành chính nhà nƣớc đối với các quá trình xã hội

và hành vi hoạt động của con ngƣời theo pháp luật nhằm đạt đƣợc những mục

12

tiêu yêu cầu nhiệm vụ quản lý nhà nƣớc. Đồng thời, các cơ quan nhà nƣớc nói

chung còn thực hiện các hoạt động có tính chất chấp hành, điều hành, tính

chất hành chính nhà nƣớc nhằm xây dựng tổ chức bộ máy và củng cố chế độ

công tác nội bộ của mình. Chẳng hạn ra quyết định thành lập, chia tách, sát

nhập các đơn vị tổ chức thuộc bộ máy của mình; đề bạt, khen thƣởng, kỷ luật

cán bộ, công chức, ban hành quy chế làm việc nội bộ... Quản lý nhà nƣớc theo

nghĩa hẹp này còn đồng nghĩa với khái niệm quản lý hành chính nhà nƣớc.

Là một nội dung trong quản lý hành chính nhà nƣớc về Hành chính –

Tƣ pháp, quản lý về hộ tịch có thể hiểu là một hình thức hoạt động của nhà

nước, do các chủ thể có thẩm quyền thực hiện trên cơ sở và để thi hành pháp

luật trong lĩnh vực hộ tịch, góp phần vào bảo đảm, bảo vệ quyền con người,

quyền công dân, phục vụ cho công cuộc phát triển kinh tế- xã hội.

Quản lý về hộ tịch ở nƣớc ta có những đặc điểm sau đây:

Thứ nhất, quản lý về hộ tịch là hoạt động mang quyền lực nhà nƣớc.

Quyền lực nhà nƣớc trong quản lý về hộ tịch trƣớc hết thể hiện ở việc

các chủ thể có thẩm quyền thể hiện ý chí nhà nƣớc thông qua phƣơng tiện

nhất định, trong đó phƣơng tiện cơ bản và đặc biệt quan trọng đƣợc sử dụng

là văn bản quản lý hộ tịch. Bằng việc ban hành văn bản, chủ thể quản lý hộ

tịch thể hiện ý chí của mình dƣới dạng các hoạt động áp dụng pháp luật; dƣới

dạng các mệnh lệnh cá biệt nhằm áp dụng pháp luật vào thực tiễn, trực tiếp

thực hiện quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia quan hệ quản lý; dƣới

những dạng mệnh lệnh chỉ đạo trong hoạt động, nhằm tổ chức thực hiện pháp

luật trong thực tiễn; dƣới dạng những thông tin hƣớng dẫn ngƣời dân để thực

hiện việc đăng ký hộ tịch thông qua hệ thống của bộ máy quản lý hộ tịch của

Nhà nƣớc. Bên cạnh đó, quyền lực nhà nƣớc còn thể hiện trong việc các chủ

thể có thẩm quyền tiến hành những hoạt động cần thiết để bảo đảm thực hiện

ý chí nhà nƣớc, nhƣ các biện pháp về tổ chức, tuyên truyền giáo dục, thuyết

13

phục, hòa giải… Chính những biện pháp này là sự thể hiện tập trung và rõ nét

của sức mạnh nhà nƣớc, một bộ phận tạo nên quyền lực nhà nƣớc, nhờ đó ý

chí của chủ thể quản lý hộ tịch đƣợc bảo đảm thực hiện.

Thứ hai, quản lý về hộ tịch là hoạt động đƣợc tiến hành bởi những chủ

thể có quyền năng hành pháp là các công chức trong bộ máy nhà nƣớc.

Chủ thể chủ yếu thực hiện quản lý về hộ tịch là các cơ quan quản lý

hành chính nhà nƣớc (Chính phủ, Bộ, Ủy ban nhân dân, cơ quan chuyên môn

thuộc Ủy ban nhân dân, đội ngũ công chức làm công tác Tƣ pháp - Hộ tịch).

Thứ ba, quản lý về hộ tịch là hoạt động có tính thống nhất, đƣợc tổ

chức chặt chẽ.

Để bảo đảm tính pháp chế trong hoạt động hộ tịch, bộ máy các cơ quan

hộ tịch đƣợc tổ chức thành một khối thống nhất từ Trung ƣơng tới địa

phƣơng, nhờ đó các hoạt động của bộ máy đƣợc chỉ đạo, điều hành thống

nhất, bảo đảm lợi ích chung của cả nƣớc, bảo đảm sự liên kết, phối hợp nhịp

nhàng giữa các địa phƣơng tạo ra sức mạnh tổng hợp của cả nƣớc, tránh đƣợc

sự cục bộ phân hóa giữa các địa phƣơng hay vùng miền khác nhau. Tuy

nhiên, do mỗi địa phƣơng đều có những nét đặc thù riêng về điều kiện kinh tế

- xã hội, nên để có thể phát huy tối đa những yếu tố của từng địa phƣơng, tạo

sự năng động sáng tạo trong quản lý điều hành, bộ máy quản lý hộ tịch còn

đƣợc tổ chức theo hƣớng phân cấp, trao quyền tự quyết, tạo sự chủ động sáng

tạo cho chính quyền địa phƣơng.

Thứ tư, quản lý về hộ tịch có tính chấp hành và điều hành.

Tính chấp hành và điều hành của quản lý về hộ tịch thể hiện trong việc

những hoạt động này đƣợc tiến hành trên cơ sở pháp luật và nhằm mục đích

thực hiện pháp luật, cho dù đó là hoạt động chủ động sáng tạo của chủ thể

quản lý thì cũng không đƣợc vƣợt quá khuôn khổ pháp luật, điều hành cấp

14

dƣới, trực tiếp áp dụng pháp luật hoặc tổ chức những hoạt động thực tiễn…,

trên cơ sở quy định pháp luật nhằm hiện thực hóa pháp luật.

Tính điều hành của quản lý về hộ tịch thể hiện trong việc chủ thể có

thẩm quyền tổ chức thực hiện pháp luật trong đời sống xã hội. Trong quá trình

đó, các chủ thể này, không chỉ tự mình thực hiện pháp luật mà quan trọng hơn

cả chúng đảm nhận chức năng chi đạo nhằm vận hành hoạt động của các cơ

quan, đơn vị trực thuộc theo một quy trình thống nhất; tổ chức để mọi đối

tƣợng có liên quan thực hiện pháp luật nhằm hiện thực hóa các quyền và

nghĩa vụ của các bên trong quan hệ quản lý.

Thứ năm, quản lý về hộ tịch là hoạt động mang tính liên tục.

Quản lý về hộ tịch luôn cần có tính liên tục, kịp thời và linh hoạt để đáp

ứng sự vận động không ngừng của đời sống xã hội. Chính điểm đặc thù này

đƣợc coi là một cơ sở quan trọng trong việc xác lập quy định về tổ chức và

hoạt động, quy chế công chức của bộ máy quản lý hộ tịch; tạo ra bộ máy quản

lý hộ tịch gọn nhẹ, có sự linh hoạt trong tổ chức, có đội ngũ công chức quản

lý hộ tịch năng động sáng tạo, quyết đoán và chịu sự ràng buộc trách nhiệm

đối với hoạt động của mình.

1.2. Pháp luật quản lý về hộ tịch

1.2.1. Khái niệm pháp luật quản lý về hộ tịch

Quản lý về hộ tịch là một trong những hoạt động của quản lý Nhà

nƣớc, thông qua việc quản lý về hộ tịch Nhà nƣớc nắm đƣợc tình hình biến

động dân cƣ và sự biến động của xã hội, giúp Nhà nƣớc có cơ sở khoa học để

xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc phòng và trật tự

an toàn xã hội.

Trong bối cảnh đất nƣớc bƣớc sang giai đoạn phát triển mới, tiến trình

công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế diễn ra ngày càng sâu rộng,

việc dịch chuyển dân cƣ trong nƣớc và quốc tế ngày càng gia tăng, quyền con

15

ngƣời, quyền công dân đòi hỏi đƣợc ghi nhận và bảo đảm thực hiện ở mức

cao hơn. Để tạo cơ sơ pháp lý lâu dài, ổn định, thống nhất cho công tác đăng

ký, quản lý hộ tịch, nhất là trong việc triển khai thi hành Hiến pháp năm 2013

với nhiều quy định mới đề cao quyền con ngƣời, quyền, nghĩa vụ cơ bản của

công dân; đồng thời tạo sự chuyển biến mạnh mẽ công tác quản lý, đăng ký

hộ tịch theo hƣớng từng bƣớc chuyên nghiệp, phù hợp với yêu cầu phát triển

của đất nƣớc trong thời kỳ mới cần có hệ thống các quy định pháp luật tạo

thành cơ sở pháp lý vững chắc cho quản lý về hộ tịch.

Hiện nay, trong các văn bản pháp luật và các tài liệu, sách báo pháp lý,

thuật ngữ “pháp luật về hộ tịch” đƣợc sử dụng khá phổ biến. Tuy nhiên, việc

sử dụng thuật ngữ này trong các nghiên cứu chỉ mang tính ƣớc định và tuỳ

từng trƣờng hợp, nội hàm của nó đƣợc xác định theo nghĩa rộng hoặc nghĩa

hẹp có sự khác nhau cơ bản. Theo những cách hiểu khác nhau đó, việc xác

định các quy phạm pháp luật và các quan hệ pháp luật về hộ tịch cũng có sự

khác nhau.

Hiểu theo nghĩa rộng thì pháp luật về hộ tịch bao gồm toàn bộ hệ thống

quy phạm điều chỉnh các vấn đề về hộ tịch, theo đó, nguồn chủ đạo của pháp

luật về hộ tịch bao gồm Luật Hộ tịch 2014, Bộ luật Dân sự 2015, Luật Hôn

nhân và Gia đình 2014. Cũng trong cách hiểu này, các quan hệ pháp luật về

hộ tịch đƣợc phân thành hai nhóm cơ bản, đó là nhóm quan hệ mang tính chất

dân sự và nhóm quan hệ về quản lý. Cách hiểu này đã làm nổi bật điểm đặc

trƣng cơ bản của sự điều chỉnh pháp luật về hộ tịch, đó là các quan hệ pháp

luật về hộ tịch cùng lúc đƣợc điều chỉnh bởi hai nhóm quy phạm pháp luật cơ

bản, đó là quy phạm luật dân sự và quy phạm luật hành chính. Hai nhóm quy

phạm này có mối liên hệ hết sức mật thiết, trong đó, nhóm quy phạm về hộ

tịch do luật dân sự điều chỉnh luôn đóng vai trò là tiền đề để xây dựng các quy

phạm hành chính về hộ tịch.

16

Hiểu theo nghĩa hẹp thì pháp luật về hộ tịch chỉ bao gồm các quy phạm

hành chính về quản lý hộ tịch. Điều đó cũng có nghĩa là đối tƣợng điều chỉnh

của pháp luật về hộ tịch chỉ bao gồm các quan hệ mang tính chất chấp hành -

điều hành phát sinh trong lĩnh vực quản lý nhà nƣớc về hộ tịch. Mặc dù hai

quan niệm trên đây có sự khác nhau cơ bản những cần thấy rằng chúng không

mâu thuẫn và loại trừ nhau. Về mặt khoa học, điều đó cho phép có thể sử

dụng thuật ngữ này với sự ƣớc định về nội hàm của nó. Trong mục đích

nghiên cứu của đề tài này, chúng tôi xin đƣợc hiểu thuật ngữ “pháp luật về hộ

tịch” theo nghĩa hẹp.

Nhƣ vậy, pháp luật quản lý về hộ tịch là hệ thống các quy tắc xử sự do

cơ quan có thẩm quyền ban hành điều chỉnh quản hệ xã hội phát sinh trong

việc quản lý nhà nước về hộ tịch nhằm bảo đảm thực hiện quyền con người,

quyền công dân.

1.2.2. Đặc điểm pháp luật quản lý về hộ tịch

Thứ nhất, pháp luật quản lý về hộ tịch điều chỉnh các quan hệ phát sinh

trong quản lý về hộ tịch bao gồm: Quy định về hộ tịch; quyền, nghĩa vụ,

nguyên tắc, thẩm quyền, thủ tục đăng ký hộ tịch; Cơ sở dữ liệu hộ tịch và

quản lý nhà nƣớc về hộ tịch.

Thứ hai, pháp luật quản lý về hộ tịch là cơ sở pháp lý trực tiếp và quan

trọng trong việc bảo đảm quyền con ngƣời về nhân thân của cá nhân từ khi

sinh ra đến khi chết.

Thứ ba, pháp luật quản lý về hộ tịch quy định chủ thể quản lý nhà nƣớc

về hộ tịch là các Bộ, Ngành và Ủy ban nhân dân các cấp nhƣ: Bộ Tƣ pháp, Bộ

Công an, Bộ ngoại giao, UBND cấp tỉnh, UBND cấp huyện và UBND cấp xã.

Thứ tư, pháp luật quản lý về hộ tịch quy định trách nhiệm của công

chức làm công tác hộ tịch. Công chức làm công tác hộ tịch bao gồm công

chức Tƣ pháp - Hộ tịch ở cấp xã; công chức làm công tác Hộ tịch ở Phòng Tƣ

17

pháp thuộc Ủy ban nhân dân cấp huyện; viên chức ngoại giao, lãnh sự làm

công tác Hộ tịch tại Cơ quan đại diện.

Thứ năm, nhà nƣớc bảo đảm pháp luật quản lý về hộ tịch bằng việc

quy định rõ quyền, trách nhiệm, nghĩa vụ đăng ký và quản lý các sự kiện

hộ tịch phát sinh.

1.2.3. Nội dung pháp luật quản lý về hộ tịch

Nội dung pháp luật quản lý về hộ tịch là các quy định về đăng ký hộ

tịch; cơ sở dữ liệu hộ tịch và trách nhiệm quản lý nhà nƣớc về hộ tịch.

1.2.3.1. Đăng ký hộ tịch

Đăng ký hộ tịch là việc cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền xác nhận hoặc

ghi vào Sổ hộ tịch các sự kiện hộ tịch của cá nhân, tạo cơ sở pháp lý để Nhà

nƣớc bảo hộ quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, thực hiện quản lý về dân

cƣ. Bao gồm các nội dung cụ thể sau:

Xác nhận vào Sổ hộ tịch các sự kiện hộ tịch

Khai sinh:Đăng ký khai sinh là biện pháp đầu tiên của quản lý hành

chính nhà nƣớc trong lĩnh vực đăng ký hộ tịch. Thông qua quản lý hành chính

trong lĩnh vực đăng ký khai sinh đã giúp cho Nhà nƣớc theo dõi đƣợc sự biến

động tự nhiên của dân số, từ đó, đề ra các chính sách phát triển kinh tế - xã

hội trên phạm vi cả nƣớc cũng nhƣ trong từng địa phƣơng; mặt khác đăng ký

khai sinh một cách đầy đủ, chính xác là bảo vệ quyền của trẻ em đƣợc đăng

ký khai sinh ngay từ khi sinh ra theo quy định của pháp luật và phù hợp với

thông lệ quốc tế.

Kết hôn: Quyền kết hôn là một trong những quyền đầu tiên trong lĩnh

vực hôn nhân và gia đình của mỗi con ngƣời. Từ đó phát sinh ra những quan

hệ pháp lý giữa vợ, chồng, cha, mẹ, con, giữa ông bà nội, ngoại và cháu.Từ

xƣa đến nay, quan hệ hôn nhân thƣờng chỉ phát sinh trong phạm vi làng xã

hoặc quận, huyện liền kề hoặc trong phạm vi của một quốc gia. Ngày nay, do

18

nhu cầu giao lƣu kinh tế, xã hội nên các quan hệ hôn nhân đã vƣợt ra ngoài

phạm vi địa hạt của một xã, huyện, tỉnh, thậm chí là quốc gia. Do vậy, nếu

nghiên cứu đầy đủ về chế độ hôn nhân, phải nghiên cứu các mối quan hệ hôn

nhân không những phát sinh trong phạm vi lãnh thổ quốc gia mà còn phải

nghiên cứu cả những quan hệ hôn nhân có yếu tố nƣớc ngoài.

Giám hộ: Là việc cá nhân, pháp nhân đƣợc luật quy định, đƣợc Ủy ban

nhân dân cấp xã cử, đƣợc Tòa án chỉ định hoặc đƣợc quy định để thực hiện

việc chăm sóc, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của ngƣời chƣa thành niên,

ngƣời mất năng lực hành vi dân sự, ngƣời có khó khăn trong nhận thức, làm

chủ hành vi.

Nhận cha, mẹ, con

Thay đổi, cải chính hộ tịch, xác định lại dân tộc, bổ sung thông tin hộ

tịch: thay đổi đổi hộ tịch là việc thay đổi họ, tên, chữ đệm đã đƣợc đăng ký

đúng trong Sổ đăng ký khai sinh và bản chính Giấy khai sinh nhƣng cá nhân

có yêu cầu thay đổi khi có lý do chính đáng theo yêu cầu của cá nhân đó khi

có lý do chính đáng theo quy định của Bộ luật Dân sự.

Khai tử: Đăng ký khai tử là một trong những lĩnh vực quản lý của nhà

nƣớc ta về đăng ký hộ tịch nhằm theo dõi sự biến động tự nhiên dân số. Đăng

ký khai tử là việc cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền xác nhận sự kiện chết của

một ngƣời và ghi vào Sổ đăng ký khai tử. Trên cơ sở đó, chấm dứt quan hệ

của ngƣời đó đối với gia đình, xã hội đồng thời phát sinh quyền và nghĩa vụ

của thân nhân ngƣời chết.Mục đích của việc đăng ký khai tử là nhằm giúp nhà

nƣớc theo dõi sự biến động tự nhiên về dân số, tạo cơ sở xây dựng, phát triển

kinh tế, văn hoá, xã hội, an ninh, quốc phòng và các chính sách dân số, kế

hoạch hoá gia đình.

Ghi vào Sổ hộ tịch việc thay đổi hộ tịch của cá nhân theo bản án, quyết

định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền các sự kiện:Thay đổi quốc tịch;

19

Xác định cha, mẹ, con; Xác định lại giới tính;Nuôi con nuôi, chấm dứt việc

nuôi con nuôi; Ly hôn, hủy việc kết hôn trái pháp luật, công nhận việc kết

hôn; Công nhận giám hộ; Tuyên bố hoặc huỷ tuyên bố một ngƣời mất tích, đã

chết, bị mất hoặc hạn chế năng lực hành vi dân sự;

Ghi vào Sổ hộ tịch sự kiện khai sinh; kết hôn; ly hôn; hủy việc kết hôn;

giám hộ; nhận cha, mẹ, con; xác định cha, mẹ, con; nuôi con nuôi; thay đổi

hộ tịch; khai tử của công dân Việt Nam đã được giải quyết tại cơ quan có

thẩm quyền của nước ngoài

1.2.3.2. Cơ sở dữ liệu hộ tịch

Cơ sở dữ liệu hộ tịch là tài sản quốc gia, lƣu giữ toàn bộ thông tin hộ

tịch của mọi cá nhân, làm cơ sở để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cá

nhân, phục vụ yêu cầu tra cứu thông tin, quản lý, hoạch định chính sách phát

triển kinh tế - xã hội của đất nƣớc. Cơ sở dữ liệu hộ tịch bao gồm Sổ hộ tịch

và Cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử là căn cứ để cấp bản sao trích lục hộ tịch.

Sổ hộ tịch là căn cứ pháp lý để lập, cập nhật, điều chỉnh thông tin hộ

tịch của cá nhân trong Cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử.

Mỗi loại việc hộ tịch phải đƣợc ghi vào 01 quyển sổ, các trang phải đóng

dấu giáp lai; Sổ hộ tịch đƣợc lƣu giữ vĩnh viễn theo quy định của pháp luật.

Cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử đƣợc lập để lƣu giữ, cập nhật, quản lý, tra

cứu thông tin hộ tịch, phục vụ yêu cầu đăng ký hộ tịch trực tuyến; đƣợc kết

nối để cung cấp, trao đổi thông tin hộ tịch cơ bản của cá nhân cho Cơ sở dữ

liệu quốc gia về dân cƣ.

Chính phủ quy định sự phối hợp giữa các bộ, cơ quan ngang bộ và

trách nhiệm của Ủy ban nhân dân các cấp trong việc quản lý, sử dụng Cơ sở

dữ liệu hộ tịch điện tử; thủ tục, trình tự đăng ký hộ tịch trực tuyến; việc kết

nối, cung cấp, trao đổi thông tin giữa Cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử và Cơ sở

dữ liệu quốc gia về dân cƣ.

20

1.2.3.3. Trách nhiệm quản lý nhà nước về hộ tịch

Việc quản lý nhà nƣớc về hộ tịch đƣợc thực hiện bởi nhiều cơ quan

khác nhau trong bộ máy nhà nƣớc, pháp luật về hộ tịch quy định về trách

nhiệm của các cơ quan đó trong việc quản lý nhà nƣớc về hộ tịch gắn với

nhiệm vụ quyền hạn riêng biệt của mỗi cơ quan. Theo đó:

Chính phủ thống nhất quản lý nhà nƣớc về hộ tịch. Bộ Tƣ pháp giúp

Chính phủ thực hiện quản lý nhà nƣớc về hộ tịch.

Bộ Tƣ pháp thực hiện quản lý nhà nƣớc về hộ tịch.

Bộ Ngoại giao phối hợp với Bộ Tƣ pháp thực hiện quản lý nhà nƣớc về

hộ tịch tại Cơ quan đại diện.

Bộ Công an chủ trì, phối hợp với Bộ Tƣ pháp, Bộ Ngoại giao và các

bộ, ngành liên quan thực hiện bảo đảm kết nối Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân

cƣ với Cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử theo quy định của pháp luật; Bảo đảm an

ninh, an toàn thông tin trong Cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử.

Ủy ban nhân dân các cấp thực hiện việc quản lý về hộ tịch trên địa bàn

địa phƣơng theo phân cấp.

1.2.4. Thẩm quyền quản lý về hộ tịch

Căn cứ vào chức năng cơ bản của từng hệ thống cơ quan trong tổ chức

bộ máy nhà nƣớc, sát với tình hình thực tế hiện nay, có tính đến yêu cầu cải

cách hành chính, Luật hộ tịch 2014 đã phân cấp thẩm quyền quản lý về hộ

tịch theo hƣớng:

Một là, phân biệt giữa nhiệm vụ quản lý nhà nƣớc và nhiệm vụ đăng ký

các sự kiện hộ tịch. Theo đó, các nhiệm vụ quản lý nhƣ: xây dựng pháp luật,

tổ chức thực hiện pháp luật, hƣớng dẫn, kiểm tra, thanh tra công tác hộ tịch,

xử lý vi phạm... thuộc nhiệm vụ của Bộ Tƣ pháp, Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh;

nhiệm vụ đăng ký các sự kiện hộ tịch tập trung cho chính quyền cơ sở nhƣ Ủy

ban nhân dân cấp xã, Ủy ban nhân dân cấp huyện.

21

Hai là, trong hoạt động quản lý nhà nƣớc về hộ tịch có sự điều chỉnh

nhiệm vụ giữa các cấp, tránh sự trùng lặp, chồng chéo về nhiệm vụ quản lý

giữa các cấp. Theo đó, thẩm quyền quản lý về hộ tịch đƣợc quy định nhƣ sau:

Chính phủ thống nhất quản lý nhà nƣớc về hộ tịch. Nội dung quản lý

nhà nƣớc về hộ tịch bao gồm: ban hành hoặc trình cơ quan nhà nƣớc có thẩm

quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật về đăng ký và quản lý hộ tịch; tổ

chức triển khai thực hiện pháp luật về hộ tịch; ứng dụng công nghệ thông tin

trong đăng ký và quản lý hộ tịch; xây dựng và quản lý cơ sở dữ liệu hộ tịch

điện tử; thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm pháp

luật về đăng ký và quản lý hộ tịch; thống kê hộ tịch và hợp tác quốc tế về hộ

tịch (Điều 65).

Bộ Tƣ pháp là cơ quan giúp Chính phủ thực hiện chức năng quản lý

nhà nƣớc về hộ tịch và có nhiệm vụ, quyền hạn: quy định, hƣớng dẫn, chỉ

đạo, bồi dƣỡng nghiệp vụ về đăng ký, quản lý hộ tịch cho công chức làm công

tác hộ tịch ở trong nƣớc; ban hành, hƣớng dẫn sử dụng, quản lý Sổ hộ tịch,

Giấy khai sinh, Giấy chứng nhận kết hôn, trích lục hộ tịch và các biểu mẫu hộ

tịch khác; quy định cụ thể điều kiện, trình tự đăng ký khai sinh, kết hôn, khai

tử lƣu động; xây dựng và quản lý thống nhất cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử;

hƣớng dẫn, chỉ đạo địa phƣơng trong việc quản lý, sử dụng phần mềm đăng

ký và quản lý hộ tịch, Cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử, cung cấp thông tin hộ tịch

cơ bản của cá nhân cho Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cƣ; tổng hợp tình hình,

phân tích, đánh giá, thống kê hộ tịch báo cáo Chính phủ (Điều 66).

Bộ Ngoại giao trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách

nhiệm phối hợp với Bộ Tƣ pháp thực hiện quản lý nhà nƣớc về công tác đăng ký

hộ tịch tại các Cơ quan đại diện Việt Nam ở nƣớc ngoài (khoản 1 Điều 67).

Cơ quan đại diện thực hiện quản lý nhà nƣớc về hộ tịch của công dân

Việt Nam cƣ trú ở nƣớc ngoài, đăng ký hộ tịch cho công dân Việt Nam cƣ trú

22

ở nƣớc ngoài theo quy định; quản lý, sử dụng sổ sách, hồ sơ, biểu mẫu hộ

tịch; quản lý, cập nhật và khai thác cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử theo quy định

Viên chức ngoại giao, lãnh sự làm công tác hộ tịch có trách nhiệm giúp Cơ

quan đại diện thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn này (khoản 2 Điều 67).

Bộ Công an: Trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách

nhiệm phối hợp với Bộ Tƣ pháp, Bộ Ngoại giao và các bộ ngành liên quan

xây dựng và vận hành Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cƣ bảo đảm việc kết nối

giữa Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cƣ với Cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử; bảo

đảm an toàn, an ninh thông tin trong Cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử và thực

hiện các nhiệm vụ khác liên quan đến công tác hộ tịch (Điều 68).

Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh: Tập trung thực hiện chức năng quản lý nhà

nƣớc, chịu trách nhiệm tổ chức hệ thống đăng ký và quản lý hộ tịch tại địa

phƣơng; bảo đảm nguồn nhân lực và cơ sở vật chất để phục vụ hoạt động đăng

ký và quản lý hộ tịch; quản lý, cập nhật, khai thác Cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử

theo quy định; chỉ đạo thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi

phạm pháp luật về hộ tịch theo thẩm quyền; tổ chức, đào tạo, bồi dƣỡng nghiệp

vụ cho công chức Tƣ pháp – Hộ tịch, công chức đảm nhiệm công tác hộ tịch của

Phòng Tƣ pháp. Sở Tƣ pháp giúp Ủy ban nhân dân cấp tỉnh thực hiện các nhiệm

vụ, quyền hạn trong quản lý nhà nƣớc về hộ tịch (Điều 69).

Ủy ban nhân dân cấp huyện: Thực hiện chức năng quản lý nhà nƣớc

trên địa bàn, chỉ đạo, hƣớng dẫn, kiểm tra về công tác đăng ký hộ tịch tại cấp

xã; thực hiện việc đăng ký hộ tịch có yếu tố nƣớc ngoài theo phân cấp; quản

lý, lƣu trữ, cập nhật, khai thác Sổ, hồ sơ hộ tịch, Cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử

theo quy định;Thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi

phạm pháp luật về hộ tịch theo thẩm quyền; Thu hồi, hủy bỏ giấy tờ hộ tịch

do Ủy ban nhân dân cấp xã cấp trái quy định của pháp luật, trừ trƣờng hợp kết

hôn trái pháp luật; Tổng hợp tình hình và thống kê hộ tịch báo cáo Ủy ban

23

nhân dân cấp tỉnh theo quy định của Chính phủ; Lƣu trữ Sổ hộ tịch, hồ sơ

đăng ký hộ tịch. Phòng Tƣ pháp giúp Ủy ban nhân dân cấp huyện thực hiện

các nhiệm vụ, quyền hạn trong quản lý nhà nƣớc về hộ tịch (Điều 70).

Ủy ban nhân dân cấp xã: Thực hiện chức năng quản lý nhà nƣớc về hộ

tịch tại địa bàn xã mình; tuyên truyền, vận động nhân dân chấp hành pháp luật

về hộ tịch, quản lý, lƣu trữ, bảo quản sổ sách, hồ sơ hộ tịch, đăng ký các việc

hộ tịch trong nƣớc theo thẩm quyền; quản lý, cập nhật, khai thác Cơ sở dữ

liệu hộ tịch điện tử theo quy định... Công chức Tƣ pháp – Hộ tịch giúp Ủy

ban nhân dân cấp xã thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn này (Điều 71).

1.2.5. Vai trò pháp luật quản lý về hộ tịch

Hộ tịch là những sự kiện cơ bản xác định tình trạng nhân thân của một

ngƣời từ khi sinh ra đến khi chết, nên, đăng ký, quản lý hộ tịch là một vấn đề

quan trọng đối với mỗi cá nhân trong xã hội. Đăng ký hộ tịch thể hiện việc

nhà nƣớc công nhận một cá nhân con ngƣời tồn tại với tất cả đầy đủ tính pháp

lý của nó. Đăng ký và quản lý hộ tịch là nhiệm vụ quan trọng luôn đƣợc các

quốc gia quan tâm thực hiện. Hoạt động này còn là cơ sở để Nhà nƣớc công

nhận và bảo hộ quyền con ngƣời, quyền, nghĩa vụ công dân, đồng thời có biện

pháp quản lý dân cƣ một cách khoa học, phục vụ thiết thực cho việc xây

dựng, hoạch định chính sách phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh

của đất nƣớc.

Để công tác quản lý về hộ tịch đạt hiệu quả cần có hệ thống các quy

định pháp luật tạo nền tảng pháp lý cho hoạt động của các chủ thể có trách

nhiệm quản lý về hộ tịch. Pháp luật quản lý về hộ tịch thể hiện vai trò của

mình ở các khía cạnh sau:

Thứ nhất, pháp luật quản lý về hộ tịch tạo hành lang pháp lý bảo đảm

cho sự quản lý của Nhà nước về công tác hộ tịch.

24

Nếu nhƣ hoạt động quản lý dân cƣ đƣợc coi là nội dung quan trọng

hàng đầu trong tổng thể hoạt động quản lý xã hội thì quản lý hộ tịch với các

giá trị, lợi ích tiềm tang của nó đƣợc coi là khâu nằm ở vị trí trung tâm của

hoạt động quản lý dân cƣ. Hoạt động quản lý hộ tịch là lĩnh vực thể hiện sâu

sắc chức năng xã hội của Nhà nƣớc trên ba phƣơng diện cơ bản đó là:

Quản lý hộ tịch là cơ sở để Nhà nƣớc hoạch định các chính sách phát

triển kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng…và tổ chức thực

hiện có hiệu quả các chính sách đó. Một hệ thống quản lý dữ liệu hộ tịch đầy

đủ, chính xác, đƣợc cập nhật kịp thời, thƣờng xuyên sẽ là nguồn tài sản thông

tin hết sức quý giá luôn sẵn sang hỗ trợ đắc lực cho việc hoạch định các chính

sách xã hội một cách chính xác, có tính khả thi, tiết kiệm chi phí xã hội.

Hoạt động quản lý và đăng ký hộ tịch thể hiện tâp trung nhất, sinhđộng

nhất sự tôn trọng của Nhà nƣớc đối với việc thực hiện một số quyền nhân

than có bản của công dân đã đƣợc ghi nhận trong Hiến pháp 2013, Bộ luật

Dân sự 2015 nhƣ quyền đối với họ tên, quyền thay đổi họ tên, quyền xác định

dân tộc, quyền đối với quốc tịch, quyền đƣợc kết hôn, quyền đƣợc nhận nuôi

con nuôi ở phƣơng diện này, đăng ký hộ tịch chính là phƣơng tiện để ngƣời

dân thực hiện, hƣởng thụ các quyền nhân than đó. Các dữ liệu về căn cƣớc

của mỗi cá nhân thể hiện trên chứng thƣ hộ tịch là sự khẳng định có giá trị

pháp lý về đặc điểm nhân than của mỗi ngƣời, mà qua đó các cơ quan, tổ

chức, cá nhân khác có thể đánh giá ngƣời đó có khả năng điều kiện để tham

gia vào các quan hệ pháp luật nhất định hay không.

Hành vi đăng ký khai sinh của cơ quan đăng ký hộ tịch đánh dấu điểm khởi

đầu của hoạt động quản lý nhà nƣớc đối với từng ngƣời dân, đồng thời cũng là

điểm khởi đầu cho mối quan hệ giữa công dân với Nhà nƣớc. Giấy khai sinh là

giấy tờ hộ tịch gốc của mỗi cá nhân. Mọi hồ sơ, giấy tờ của cá nhân có nội dung

ghi về họ, tên, chữ đệm, ngày tháng năm sinh, giới tính, dân tộc, quốc tịch, quê

quán, quan hệ cha, mẹ, con phải phù hợp với giấy khai sinh của ngƣời đó.

25

Quản lý nhà nƣớc về hộ tịch có giá trị to lớn đối với việc bảo đảm trậttự

xã hội. Hệ thống sổ hộ tịch có thể giúp việc truy nguyên nguồn gốc của cá

nhân một cách dễ dàng. Các chứng thƣ hộ tịch do ngƣời có thẩm quyền lập

theo thủ tục chặt chẽ có giá trị là sự khẳng định chính thức của Nhà nƣớc về

vị thế của mỗi cá nhân trong gia đình và xã hội. Trong lĩnh vực hoạt động tƣ

pháp khi cần đánh giá năng lực chủ thể của mỗi cá nhân các cơ quan tiến hành

tố tụng luôn cần đến giấy khai sinh của cá nhân đó. Giấy khai sinh chứa đựng

các dữ liệu quốc gia của cá nhân nhƣ ngày, tháng, năm, sinh, nơi sinh, dân

tộc, quốc tịch, họ tên cha, mẹ… do đó khi đƣợc sử dụng với tính cách là

chứng cứ, các thông tin thể hiện trên giấy khai sinh giúp cơ quan tiến hành

tố tụng đánh giá nhiều vấn đề trong các vụ án hình sự, dân sự, hành

chính…Bởi giá trị quan trọng nhƣ vậy, nên trong sự phát triển của mỗi

quốc gia, vấn đề xây dựng và khai thác hiệu quả hệ thống quản lý hộ tịch

phục vụ cho công tác quản lý Nhà nƣớc luôn đƣợc quan tâm.

Thứ hai, pháp luật quản lý về hộ tịch bảo đảm sự thống nhất trong

toàn quốc và các Cơ quan đại diện trong việc thực hiện các văn bản pháp

luật về hộ tịch;

Pháp luật và thực hiện pháp luật là hai mặt của một chỉnh thể thống

nhất, có mối quan hệ gắn bó không thể tách rời. Pháp luật chỉ có ý nghĩa đích

thực khi đƣợc thực hiện, các quy định của pháp luật trở thành những hành vi

hoạt động thực tế của các chủ thể pháp luật. Thực hiện pháp luật là “cầu nối”

để pháp luật đi vào cuộc sống, là sự tiếp tục ý chí của Nhà nƣớc thể hiện trong

pháp luật. Với mục tiêu xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền XHCN, nhà nƣớc

quản lý xã hội bằng pháp luật, chúng ta cần có một hệ thống pháp luật đầy đủ

và hệ thống pháp luật đó phải đƣợc mọi thành viên trong xã hội tôn trọng,

đƣợc chấp hành nghiêm chỉnh, triệt để. Ở góc độ pháp lý, thực hiện pháp luật

26

là hành vi hợp pháp, phù hợp với quy định pháp luật, có lợi cho Nhà nƣớc,

cho xã hội, cho mọi cá nhân và tổ chức.

Thực tế cho thấy, để thực hiện pháp luật hiệu quả thì một trong những

yếu tố quan trọng là pháp luật phải đƣợc thực hiện một cách thống nhất. Việc

pháp luật đƣợc thực hiện thống nhấtnhằm tạo dựng môi trƣờng pháp lý an

toàn, minh bạch là một trong những yêu cầu tất yếu để xây dựng Nhà nƣớc

pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.

Quản lý về hộ tịch là hoạt động của nhiều cơ quan khác nhau trong bộ

máy nhà nƣớc, mỗi cơ quan có nhiệm vụ, quyền hạn giới hạn bởi các quy

định pháp luật. Tính thống nhất trong thực hiện pháp luật quản lý về hộ tịch đòi

hỏi tất cả các chủ thể đó phải đƣợc nhận thức thống nhất và thực hiện thống

nhất pháp luật quản lý hộ tịch trong phạm vi cả nƣớc. Đây là điều kiện quan

trọng để thiết lập một trật tự quản lý về hộ tịch. Giúp loại trừ tƣ tƣởng cục bộ

bản vị địa phƣơng, tự do vô chính phủ. Tạo điều kiện để thiết lập trật tự pháp

luật và góp phần củng cố nguyên tắc tập trung dân chủ. Đảm bảo cho việc thực

hiện các đƣờng lối chính trị của Đảng trong thực tế đạt hiệu quả cao.

Thứ ba, pháp luật quản lý về hộ tịch bảo đảm công khai, minh bạch về

thẩm quyền, trình tự, thủ tục, thời gian giải quyết các yêu cầu đăng ký hộ tịch;

Theo từ điển tiếng Việt, công khai “là việc không giữ kín, mà để cho

mọi ngƣời đều có thể biết”. Minh bạch là “rõ ràng, rành mạch”. Trong hoạt

động của bộ máy nhà nƣớc, công khai nghĩa là mọi hoạt động của nhà nƣớc

phải đƣợc công bố hoặc phổ biến, truyền tải trên các phƣơng tiện thông tin đại

chúng, làm cho mọi ngƣời dân có thể tiếp cận đƣợc các quyết định của nhà

nƣớc một cách dễ dàng; minh bạch nghĩa là không những phải công khai mà

còn phải trong sáng, không khuất tất, không rắc rối, không gây khó khăn cho

công dân trong tiếp cận thông tin.

27

Nhƣ vậy, có thể hiểu công khai, minh bạch trong quản lý hộ tịch là việc

làm cho mọi ngƣời dân có thể biết và hiểu cơ quan nhà nƣớc có chức năng,

nhiệm vụ gì, hoạt động nhƣ thế nào trong khuôn khổ phù hợp với thực tiễn và

các quy định của pháp luật. Với hệ thống các cơ quan hành chính nhà nƣớc,

một trong những chức năng chủ yếu là cung cấp dịch vụ hành chính (dịch vụ

công) cho công dân, tổ chức, doanh nghiệp. Hoạt động này mang tính chất

phục vụ nhân dân nhiều hơn, hiệu quả của hoạt động hành chính xét dƣới góc

độ cung cấp dịch vụ công đƣợc đánh giá bằng mức độ hài lòng của ngƣời dân

và chất lƣợng, hiệu quả cung cấp dịch vụ.

Ở Việt Nam, quản lý hành chính nhà nƣớc là một quá trình đƣợc xác

định từ khâu ra quyết định quản lý nhà nƣớc, chỉ đạo việc tổ chức thực hiện

đến khâu thanh tra, kiểm tra việc thực hiện các quy định đó. Trong hoạt động

hành chính vẫn mang tính chất xin-cho; đội ngũ cán bộ, công chức trong các

cơ quan hành chính nhà nƣớc còn nhiều biểu hiện quan liêu, hách dịch, cửa

quyền. Điều này gây khó khăn, phiền hà cho các cơ quan, tổ chức, cá nhân

mỗi khi có công việc cần giải quyết tại các cơ quan hành chính nhà nƣớc. Sự

quan liêu cùng với những thủ tục hành chính rƣờm rà, chồng chéo chính là

những kẽ hở để một số cán bộ, công chức lợi dụng nhằm mƣu lợi ích riêng.

Chính vì thế, pháp luật quản lý về hộ tịch đã quy định rõ ràng về thẩm

quyền, trình tự, thủ tục, thời gian giải quyết các yêu cầu đăng ký hộ tịch.

Thông qua đó, cá nhân có điều kiện sử dụng pháp luật nhƣ một công cụ hữu

hiệu để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của mình.

Chẳng hạn theo quy định tại Luật Hộ tịch năm 2014, thủ tục đăng ký hộ

tịch gồm các bƣớc sau:

Bƣớc 1: Công dân điền vào tờ khai đối với từng việc đăng ký hộ tịch,

nộp tại cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền.

28

Bƣớc 2: Tại bộ phận tiếp nhận và trả kết quả hồ sơ hành chính, cán bộ

tiếp nhận kiểm tra hồ sơ. Hƣớng dẫn công dân hoàn thiện hồ sơ còn thiếu.

Trƣờng hợp hồ sơ đầy đủ, đúng theo quy định thì viết phiếu hẹn trả kết quả cho

công dân.

Bƣớc 3: Bộ phận tiếp nhận và trả kết quả hồ sơ hành chính chuyển hồ

sơ tới bộ phận chuyên môn xử lý theo quy định.

Bƣớc 4: Bộ phận chuyên môn xử lý hồ sơ, trả kết quả theo đúng thời

gian quy định. Trƣờng hợp cần xác minh hoặc cần bổ sung hồ sơ, bộ phận

chuyên môn thông báo để bộ phận tiếp nhận hồ sơ thông tin cho công dân

hoặc hẹn lại thời gian trả kết quả (nếu cần) cho công dân.

Bƣớc 5: Sau khi nhận kết quả từ bộ phận chuyên môn, bộ phận tiếp

nhận và trả kết quả hồ sơ hành chính trả kết quả cho công dân theo phiếu hẹn.

Thứ tư, pháp luật quản lý về hộ tịch tạo điều kiện thuận lợi cho công

dân khi có yêu cầu đăng ký hộ tịch;

Hộ tịch gắn liền với quyền nhân thân của công dân, nhiệm vụ của các

cơ quan nhà nƣớc là bảo đảm cho quyền đó thành hiện thực. Pháp luật quản lý

về hộ tịch đã tạo cơ sở pháp lý vững chắc để công dân thực hiện quyền của

mình. Đặc biệt sự ra đời của Luật Hộ tịch 2014 có nhiều điểm mới tích cực và

đƣợc đánh giá là một "cuộc cách mạng” trong công tác đăng ký, quản lý hộ

tịch nói riêng và quản lý dân cƣ nói chung".

Luật có những quy định cải cách mạnh mẽ về trình tự, thủ tục đăng ký

hộ tịch, tạo thuận lợi tối đa cho ngƣời dân (nhƣ: đơn giản hóa và cắt giảm

nhiều giấy tờ không cần thiết khi đăng ký hộ tịch; cải tiến phƣơng thức nộp

hồ sơ để ngƣời dân lựa chọn - nộp trực tiếp, gửi qua bƣu chính hoặc qua hệ

thống đăng ký hộ tịch trực tuyến khi điều kiện cho phép; giảm thời hạn giải

quyết đối với hầu hết các việc hộ tịch). Cùng với đó, Luật hộ tịch cũng đã quy

định cá nhân có quyền lựa chọn cơ quan đăng ký hộ tịch cho mình mà không

29

phải phụ thuộc vào nơi cƣ trú nhƣ trƣớc đây. Theo quy định của Luật thì cá

nhân có thể đƣợc đăng ký hộ tịch tại cơ quan đăng ký hộ tịch nơi thƣờng trú,

tạm trú hoặc nơi đang sinh sống. Đồng thời, Luật quy định khi đăng ký hộ

tịch, ngƣời dân đƣợc cấp trích lục hộ tịch. Đối với một số việc hộ tịch quan

trọng liên quan trực tiếp đến đời sống hàng ngày của ngƣời dân là khai sinh,

kết hôn, Luật Hộ tịch quy định sau khi đăng ký ngƣời dân vẫn đƣợc cấp bản

chính Giấy khai sinh, Giấy chứng nhận kết hôn.

Đây là điểm mới theo hƣớng đơn giản hóa thủ tục hành chính, minh

bạch, hiện đại nhằm bảo đảm lợi ích của ngƣời dân. Thủ tục đăng ký hộ tịch

đơn giản, cắt giảm tối đa các giấy tờ không cần thiết và tạo điều kiện thuận lợi

cho ngƣời có quyền lựa chọn nơi đăng ký và phƣơng thức đăng ký các sự kiện

hộ tịch. Theo đó, Luật quy định chỉ cấp 02 loại bản chính Giấy khai sinh và

Giấy chứng nhận kết hôn, còn các sự kiện hộ tịch khác sau khi hoàn tất thủ

tục đăng ký ngƣời yêu cầu đăng ký hộ tịch đƣợc cấp Trích lục hộ tịch tƣơng

ứng với từng sự kiện hộ tịch đã đăng ký. Bản chính trích lục hộ tịch đƣợc

chứng thực bản sao.

Cá nhân có quyền lựa chọn cơ quan đăng ký hộ tịch cho mình mà

không phải phụ thuộc vào nơi cƣ trú nhƣ trƣớc đây. Theo quy định của Luật,

cá nhân có thể đƣợc đăng ký hộ tịch tại cơ quan đăng ký hộ tịch nơi thƣờng

trú, tạm trú hoặc nơi đang sinh sống và có quyền lựa chọn phƣơng thức đăng

ký nhƣ nộp hồ sơ trực tiếp, qua bƣu chính hoặc thông qua hệ thống đăng ký

trực tuyến trong điều kiện cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin cho phép.

Luật đề cao vai trò hết sức quan trọng của công tác đăng ký hộ tịch,

nhất là đăng ký khai sinh, cấp Giấy khai sinh và Số định danh cá nhân cho

ngƣời đƣợc khai sinh khi đăng ký khai sinh. Theo quy định của Luật hộ tịch

thì cá nhân có quyền lựa chọn cơ quan đăng ký hộ tịch cho mình tại nơi

30

thƣờng trú, tạm trú hoặc nơi đang sinh sống mà không phải phụ thuộc vào nơi

cƣ trú nhƣ trƣớc đây.

1.3. Những yếu tố ảnh hƣởng đến pháp luật quản lý về hộ tịch

Pháp luật quản lý về hộ tịch trong thời gian qua cho thấy, mặc dù pháp

luật đã quy định trách nhiệm của các cơ quan nhà nƣớc và công dân trong việc

đăng ký và quản lý hộ tịch, đã có nhiều biện pháp nhằm tăng cƣờng hiệu quả của

công tác hộ tịch, nhƣng trên thực tế hoạt động này còn gặp rất nhiều khó khăn,

hạn chế. Do vậy, cần xác định rõ những yếu tố cơ bản ảnh hƣớng tới việc thực

hiện pháp luật về hộ tịch để xây dựng những giải pháp hiệu quả cho công tác

đăng ký và quản lý hộ tịch trong tình hình hiện nay. Đó là các yếu tố:

1.3.1. Ý thức pháp luật

Ý thức pháp luật là “một hình thái ý thức xã hội, gồm những quan

điểm, khái niệm, học thuyết pháp lý, tình cảm của con người thể hiện thái độ,

sự đánh giá của họ đối với pháp luật hiện hành, trật tự pháp luật, pháp chế,

về tính công bằng, hay không công bằng, đúng đắn hay không đúng đắn của

pháp luật hiện hành, pháp luật đã qua và pháp luật trong tương lai, về hành

vi hợp pháp, hành vi vi phạm pháp luật của cá nhân, các cơ quan nhà nước,

tổ chức xã hội, tổ chức kinh tế” [12, tr382]. Đây là yếu tố quan trọng ảnh

hƣởng sâu sắc tới việc thực hiện pháp luật quản lý về hộ tịch. Yếu tố này

đƣợc nhìn nhận từ phía chủ thể có thẩm quyền đăng ký và quản lý hộ tịch

cũng nhƣ ý thức tự giác, chủ động đăng ký hộ tịch của ngƣời dân.

Cùng với xu thế toàn cầu hóa và sự phát triển của kinh tế tri thức,

ngƣời dân và các cơ quan, tổ chức ngày càng coi trọng hơn những giá trị của

các giấy tờ hộ tịch và tầm quan trọng của công tác đăng ký và quản lý hộ tịch.

Ý thức thực hiện trách nhiệm đăng ký các sự kiện hộ tịch và giữ gìn giấy tờ

hộ tịch đƣợc nâng lên rất nhiều. Mỗi ngƣời dân đã hiểu rõ sự cần thiết của

việc đăng ký các sự kiện hộ tịch để đƣợc Nhà nƣớc bảo hộ các quyền công

31

dân cơ bản. Các cơ quan nhà nƣớc đƣợc giao quyền cũng xác định rõ trách

nhiệm của mình trong công tác hộ tịch, coi đó là cơ sở cần thiết để thực hiện

quản lý dân cƣ và xây dựng các chính sách xã hội phù hợp.

Mặc dù vậy, hiện nay tình trạng vi phạm pháp luật trong đăng ký và quản

lý hộ tịch vẫn xảy ra, nhất là trong lĩnh vực khai sinh, khai tử, kết hôn, nhận nuôi

con nuôi… Đối tƣợng vi phạm cũng khá đa dạng, từ cá nhân có trách nhiệm đi

đăng ký đến công chức thực hiện việc đăng ký hộ tịch. Có nhiều nguyên nhân để

lý giải tình trạng này trong đó có nguyên nhân xuất phát từ ý thức pháp luật của

những chủ thể liên quan nhƣ do hạn chế về hiểu biết pháp luật, xuất phát từ cách

nghĩ đơn giản của ngƣời dân không tự giác đi đăng ký khai sinh hoặc khai tử

đúng thời hạn quy định vì cho rằng không liên quan đến các chế độ thanh toán

nên cũng chẳng cần phải thực hiện đăng ký ngay; hoặc công chức tùy tiện sửa

chữa, cải chính làm sai lệch nội dung đăng ký hộ tịch nhƣ khai tăng tuổi để đi

học sớm, khai giảm tuổi để đủ tuổi đƣợc nhận làm con nuôi…

1.3.2. Chất lượng của văn bản pháp luật quản lý về hộ tịch

Chất lƣợng của văn bản pháp luật là điều kiện cần thiết để đảm bảo cho

pháp luật đƣợc triển khai có hiệu quả. Hiện nay hệ thống văn bản pháp luật

quản lý về hộ tịch đã phát huy hiệu quả, góp phần tích cực cho công tác đăng

ký và quản lý về hộ tịch, cụ thể:

Pháp luật quản lý về hộ tịch đã tạo hành lang pháp lý cho công tác quản

lý Nhà nƣớc về hộ tịch;

Pháp luật quản lý về hộ tịch bảo đảm sự thống nhất trong việc thực hiện

các văn bản về hộ tịch;

Pháp luật quản lý về hộ tịch bảo đảm công khai, minh bạch về thẩm

quyền, trình tự, thủ tục, thời gian giải quyết các yêu cầu đăng ký hộ tịch;

Pháp luật quản lý về hộ tịch tạo điều kiện thuận lợi cho công dân khi có

yêu cầu đăng ký hộ tịch;

32

Pháp luật quản lý về hộ tịch góp phần định hƣớng lành mạnh hóa quan

hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nƣớc ngoài, phù hợp thuần phong mỹ tục

của dân tộc, góp phần hội nhận quốc tế.

Bên cạnh những mặt đạt đƣợc đó, pháp luật quản lý về hộ tịch ở nƣớc

ta hiện nay còn nhiều bất cập nhƣ: các quy định về quản lý hộ tịch còn tản

mát trong nhiều văn bản khác nhau, gây khó khăn khi áp dụng để giải quyết

các yêu cầu đăng ký hộ tịch của công dân.

Cơ chế điều chỉnh của pháp luật về hộ tịch vẫn mang tính bị động, giải

quyết sự vụ, nhiều tình huống phát sinh trên thực tế chƣa có quy phạm điều chỉnh,

Bộ Tƣ pháp phải hƣớng dẫn các địa phƣơng bằng công văn hƣớng dẫn nghiệp vụ.

Vì vậy, để pháp luật quản lý về hộ tịch đƣợc thực hiện có hiệu quả

trong thực tiễn thì văn bản pháp luật quản lý về hộ tịch cần phải có chất lƣợng

cao thể hiện ở tính đồng bộ, thống nhất trong nội dung của văn bản; không

mâu thuẫn, chồng chéo, phù hợp với thực tiễn, có tính khả thi, đồng thời đáp

ứng đƣợc yêu cầu quản lý nhà nƣớc về hộ tịch.

1.3.3. Công tác tổ chức bộ máy và công chức thực hiện pháp luật quản lý về

hộ tịch

Đƣờng lối, chủ trƣơng, chính sách của Đảng và Nhà nƣớc có ảnh

hƣởng sâu sắc tới mọi mặt của đời sống xã hội, trong đó có vấn đề đăng ký và

quản lý hộ tịch thể hiện qua các biện pháp, chính sách mà Nhà nƣớc ban hành

để có thể đăng ký kịp thời, đầy đủ, chính xác các sự kiện hộ tịch phát sinh.

Bên cạnh đó, hoạt động tuyên truyền, phổ biến, giáo dục, hƣớng dẫn

thực hiện pháp luật về hộ tịch cũng nhƣ trách nhiệm tổ chức thực hiện pháp

luật về hộ tịch của các cơ quan nhà nƣớc, tổ chức chính trị, hệ thống chế tài

xử lý nghiêm minh, kịp thời mọi vi phạm pháp luật quản lý về hộ tịch cũng là

yếu tố ảnh hƣởng sâu sắc tới công tác đăng ký và quản lý hộ tịch.

33

Trình độ, năng lực quản lý và phẩm chất chính trị, đạo đức, tinh thần

trách nhiệm, tính chủ động của công chức là những yếu tố quyết định đảm

bảo việc tổ chức thực hiện pháp luật đúng đắn, có hiệu quả.

1.3.4. Kinh phí và cở sở vật chất

Pháp luật nói chung, pháp luật quản lý về hộ tịch nói riêng đòi hỏi

những điều kiện về cơ sở vật chất và kinh phí nhất định phục vụ triển khai tổ

chức thực hiện từ khâu tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật đến các hoạt

động phục vụ việc triển khai thực hiện pháp luật, kiểm tra, xử lý vi phạm

trong quá trình thực hiện. Việc đầu tƣ kinh phí, cơ sở vật chất đóng vai trò

quan trọng, ảnh hƣởng rất lớn tới hiệu quả pháp luật quản lý về hộ tịch ở các

địa phƣơng.

Tiểu kết Chƣơng 1

Có thể nói, hộ tịch đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong đời sống xã

hội, liên quan trực tiếp đến quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Là một

giá trị nhân thân, gắn chặt với cá nhân con ngƣời. Việc quản lý hộ tịch là

nhiệm vụ quan trọng và thƣờng xuyên của cơ quan nhà nƣớc có thẩm

quyềnnhằm theo dõi thực trạng và biến động về hộ tịch, trên cơ sở đó bảo hộ

các quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân và gia đình, đồng thời góp phần xây

dựng các chính sách về kinh tế, xã hội, an ninh quốc phòng và dân số kế

hoạch hóa gia đình.

Để tạo cơ sơ pháp lý lâu dài, ổn định, thống nhất cho công tác đăng ký,

quản lý hộ tịch, đồng thời tạo sự chuyển biến mạnh mẽ công tác quản lý, đăng

ký hộ tịch theo hƣớng từng bƣớc chuyên nghiệp, phù hợp với yêu cầu phát

triển của đất nƣớc trong thời kỳ mới cần có hệ thống các quy định pháp luật

tạo thành cơ sở pháp lý vững chắc cho quản lý về hộ tịch.

Pháp luật quản lý về hộ tịch là hệ thống các quy tắc xử sự do cơ quan

có thẩm quyền ban hành điều chỉnh quản hệ xã hội phát sinh trong việc quản

34

lý nhà nƣớc về hộ tịch nhằm bảo đảm thực hiện quyền con ngƣời, quyền công

dân. Với vai trò tạo hành lang pháp lý bảo đảm cho sự quản lý của Nhà nƣớc

về công tác hộ tịch; bảo đảm sự thống nhất trong toàn quốc và các Cơ quan

đại diện trong việc thực hiện các văn bản pháp luật về hộ tịch; bảo đảm công

khai, minh bạch về thẩm quyền, trình tự, thủ tục, thời gian giải quyết các yêu

cầu đăng ký hộ tịch; tạo điều kiện thuận lợi cho công dân khi có yêu cầu đăng

ký hộ tịch. Pháp luật quản lý về hộ tịch quy định các nội dung khác nhau

nhằm hiện thực hóa các quyền con ngƣời, quyền công dân. Thực tiễn hiện

nay, việc thực hiện pháp luật quản lý về hộ tịch bị ảnh hƣởng bởi nhiều yếu tố

nhƣ ý thức pháp luật; chất lƣợng của văn bản pháp luật quản lý về hộ tịch;

công tác tổ chức bộ máy và công chức thực hiện pháp luật quản lý về hộ tịch;

cơ sở vật chất.

35

CHƢƠNG 2

THỰC TRẠNG THỰC HIỆN PHÁP LUẬT QUẢN LÝ VỀ HỘ TỊCH

TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN HAI BÀ TRƢNG, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

2.1. Sự hình thành và phát triển của pháp luật quản lý về hộ tịch

2.1.1. Giai đoạn trước năm 1945

Ở nƣớc ta, vấn đề đăng ký và quản lý hộ tịch đƣợc thực hiện từ rất sớm

(thời nhà Trần). Trải qua các thời kỳ phong kiến, thực dân, hộ tịch luôn gắn

với vấn đề quản lý con ngƣời (“đinh”) bên cạnh vấn đề quản lý đất đai

(“điền”) - là hai vấn đề đã từng đƣợc thực hiện một cách bài bản, có hệ thống.

Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, công tác đăng ký và quản lý hộ tịch

đƣợc Nhà nƣớc Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tiếp tục duy trì và phát triển.

Theo tinh thần Sắc lệnh số 47/SL ngày 10/10/1945 của Chủ tịch Hồ Chí

Minh, các thể lệ đăng ký hộ tịch đã đƣợc quy định trong Bộ Dân luật giản yếu

đƣợc áp dụng ở Nam kỳ, Hoàng Việt hộ luật đƣợc áp dụng ở Trung kỳ và Dân

luật Bắc kỳ tiếp tục đƣợc áp dụng ở Việt Nam. Điều đó cho thấy công tác hộ

tịch đóng vai trò quan trọng và luôn đƣợc duy trì trong bất cứ hoàn cảnh nào.

Dƣới thời Pháp thuộc, với bản chất thống trị và nô dịch, thực dân Pháp

xây dựng hộ tịch nhằm phục vụ cho việc cai trị thuộc địa, chủ yếu đảm bảo

thực hiện việc binh dịch, thuế khóa vả đặc biệt qua hộ tịch tiến hành các biện

pháp kiểm soát chặt chẽ dân tình để trấn áp lực lƣợng yêu nƣớc đấu tranh

giành độc lập. Do đó, ngay từ rất sớm hộ tịch đã đƣợc xây dựng thành Luật

khắp cả 3 miền: Bắc, Trung và Nam. Quá trình thực hiện các văn bản này

không ngừng đƣợc củng cố, phát triển phù hợp với mục đích đăng ký và quản

lý hộ tịch của chế độ. Biểu hiện bằng việc quy định các chƣơng mục rất cụ thể

bởi các bộ Dân luật Bắc kỳ, Hoàng Việt Trung kỳ hộ luật và Dân Luật giản

yếu Nam kỳ. Sau mỗi giai đoạn thực hiện lại ban hành tiếp các văn bản dƣới

luật hoặc luật mới để điều chỉnh, bổ sung kịp thời theo yêu cầu của chính

36

quyền thực dân. Ngay cả Bộ Hoàng Việt Trung kỳ hộ luật, các nội dung hộ

tịch tuy đƣợc nhà vua ban hành, nhƣng cũng phải phụ thuộc hoàn toàn vào ý

chỉ cai tri của thực dân Pháp, cho dù đó chỉ là những vẩn đề mang tính thủ tục

hành chính.

Công tác đăng ký và quản lý hộ tịch về cơ bản đƣợc phân thành 2 chế

độ trách nhiệm rõ ràng: cơ quan hành chính ở cơ sở (ủy ban hành chính cấp

xã) chịu trách nhiệm đăng ký và quản lý bƣớc đầu; các cơ quan tƣ pháp (tòa

án, biện lý) chịu trách nhiệm kiểm tra, giám sát và giải quyết các hậu quả phát

sinh. Điều này thể hiện nguyên tắc chế ƣớc đƣợc khai thác tối đa. Nhân sự hộ

tịch đƣợc bố trí ổn định mang tính chuyên trách nhƣ hộ lại hay ủy viên hộ

tịch. Việc quản lý, sử dụng sổ hộ tịch đƣợc quy định rất nghiêm ngặt gắn liền

với trách nhiệm pháp lý của ngƣời có thẩm quyền đăng ký và quản lý hộ tịch.

Quan hệ trách nhiệm trong việc thông tin, điều chỉnh, bổ sung nội dung hộ

tịch cũng đƣợc quy định rõ ràng. Hình thức về biểu mẫu, sổ hộ tịch đƣợc quy

định rất chi tiết.

2.1.2. Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1975

Nhà nƣớc Việt Nam dân chủ cộng hòa đã nhận thức đúng đắn về tầm

quan trọng của công tác đăng ký và quản lý hộ tịch, nhƣng suốt một thời gian

dài từ 1945 đến 1975 đất nƣớc ngập chìm trong chiến tranh bởi hai cuộc

kháng chiến giải phóng dân tộc và thống nhất đất nƣớc nên việc xây dựng và

hoàn thiện pháp luật về hộ tịch gần nhƣ không có sự chuyển biến đáng kể.

Việc quản lý nhân thân con ngƣời trong giai đoạn này vừa phải đáp ứng đƣợc

yêu cầu của đời sống xã hội; vừa phải đảm bảo phục vụ nhu cầu chiến tranh

giải phóng, đảm bảo an ninh trật tự và an toàn xã hội.

Tổ chức thực hiện hộ khẩu chủ yếu tập trung cho ngành công an, chỉ

phù hợp những yêu cầu nhất thời trong chiến tranh, không phù hợp trong thời

bình. Có thể nói trong giai đoạn này, các quy định của Nhà nƣớc Việt Nam

37

dân chủ cộng hòa thể hiện việc đăng ký và quản lý hộ tịch bằng biện pháp

hành chính đơn thuần tập trung ở đầu vào; tức là chỉ tập trung vào các cơ

quan hành chính có thẩm quyền thực hiện việc đăng ký và quản lý hộ tịch, cơ

quan tƣ pháp (Tòa án, Kiểm sát) chỉ tham gia khi hậu quả phát sinh và có thể

làm chuyển biến, chấm dứt hoặc tái lập một sự kiên hộ tịch phát sinh mới. Về

tổ chức nhân sự, Nhà nƣớc Việt Nam dân chủ cộng hòa không quy định cơ

chế chuyên trách hộ tịch (nhƣ hộ lại hoặc ủy viên hộ tịch), chỉ quy định chung

về ngƣời đƣợc phân công phụ trách và cán bộ thực hiện.

Ngày 08/5/1956, Chính phủ ban hành Nghị định số 764/TTg kèm theo

Bản Điều lệ hộ tịch. Ngày 16/01/1961, Hội đồng Chính phủ ban hành Nghị

định số 04/CP kèm theo Bản Điều lệ đăng ký hộ tịch mới thay thế Nghị định

số 764/TTg. Bƣớc vào thời kỳ đổi mới, căn cứ vào quy định của Bộ luật dân

sự, Luật hôn nhân và gia đình và các luật liên quan khác, Chính phủ đã ban

hành 8 Nghị định điều chỉnh lĩnh vực hộ tịch.

Thực hiện các văn bản nêu trên, công tác đăng ký và quản lý hộ tịch ở

nƣớc ta đã có những bƣớc phát triển ổn định, đạt đƣợc những kết quả quan

trọng. Công tác xây dựng thể chế đƣợc tăng cƣờng; việc phổ biến, giáo dục

pháp luật về hộ tịch ngày càng đƣợc coi trọng. Hệ thống cơ quan quản lý,

đăng ký hộ tịch, đội ngũ công chức làm công tác hộ tịch từ Trung ƣơng đến

cơ sở không ngừng đƣợc củng cố, kiện toàn, nhờ đó đã giải quyết đƣợc số

lƣợng lớn yêu cầu đăng ký hộ tịch của ngƣời dân, trong đó nhiều việc có yếu

tố nƣớc ngoài. Trình tự, thủ tục đăng ký hộ tịch cũng từng bƣớc đƣợc đơn

giản hóa, ngày càng tạo thuận lợi cho ngƣời dân. Dữ liệu hộ tịch đƣợc hình

thành với hệ thống sổ sách hộ tịch đƣợc lƣu trữ, sử dụng lâu dài. Việc ứng

dụng công nghệ thông tin trong đăng ký hộ tịch đƣợc triển khai ở nhiều địa

phƣơng... Với những kết quả đã đạt đƣợc, công tác hộ tịch ngày càng khẳng

38

định vị trí, vai trò và tầm quan trọng đối với quản lý nhà nƣớc và xã hội, góp

phần bảo đảm ngày một tốt hơn quyền, lợi ích hợp pháp của công dân.

2.1.3. Giai đoạn từ năm 1975 đến nay

Sau khi giải phóng miền Nam và thống nhất đất nƣớc mặc dù Nhà nƣớc

có quan tâm đến hộ tịch nhƣng những văn bản quy định về hộ tịch chủ yểu

nhằm để xây dựng, củng cố hệ thống tổ chức và thực hiện hộ tịch ở miền

Nam. Bản Điều lệ hộ tịch năm 1961 vẫn tiếp tục đƣợc thi hành suốt một

thời gian dài gần 40 năm, mãi cho đến 1998 mới ban hành Nghị định số

83/1998/NĐ-CP thay thế. Có thể nói giai đoạn từ sau giải phóng đến 1998,

công tác hộ tịch chƣa đƣợc quan tâm đúng mức. Biểu hiện qua các vấn đề

sau đây:

Chƣa ban hành văn bản quy phạm pháp luật thống nhất để kịp thời thay

thế Bản điều lệ hộ tịch năm 1961. Các quy định trƣớc đây về quản lý, sử dụng

hồ sơ, sổ hộ tịch chƣa đƣợc chặt chẽ; các loại biểu mẫu hộ tịch chƣa hợp lý.

Vấn đề hộ tịch ở miền Nam có thể coi là đặc thù, bởi phần do chiến tranh hủy

hoại, phần do chế độ cũ trƣớc khi tan rã cố ý đốt phá, phần do trong chiến

tranh cách mạng chủ trƣơng chống phá sự quản lý của chế độ cũ và phần khác

do thiên tai, lũ lụt tàn phá, hoặc do không đƣợc bảo quản tốt.

Nghị định số 83/1998/NĐ-CP mở ra một bƣớc ngoặc mới cho việc

chấn chỉnh công tác hộ tịch; bổ sung và xóa bỏ một bƣớc các thiếu sót và bất

hợp lý trên đây. Tuy nhiên, Nghị định số 83/1998/NĐ-CP vẫn còn những hạn

chế nhất định, trong đó chƣa giải quyết thông thoáng đƣợc về thủ tục, phân

cấp đăng ký và quản lý, biểu mẫu hộ tịch chƣa hợp lý... Nghị định số

83/1998/NĐ-CP vẫn còn quy định rƣờm rà vả bất hợp lý, trái với Hiến pháp

(quyền cơ bản của công dân), trái với một số đạo luật khác (quyền nhân thân:

con sinh ra là phải đăng ký khai sinh); ví dụ tại Điều 19 khoản 1 Nghị định số

83/1998/NĐ-CP quy định "Nếu có đủ các giấy tờ hợp lệ thì Chủ tịch UBND

39

cấp xã ký và cấp ngay một bản chính giấy khai sinh...". Lật ngƣợc lại vấn đề

nếu không có đủ các giấy tờ hợp lệ, đƣơng nhiên sẽ không đƣợc ký và cấp giấy

khai sinh, trái với quy định của Bộ luật dân sự năm 1995 về quyền đƣợc khai

sinh. Nhân sự thực hiện hộ tịch thiếu ổn định, không có chức danh chuyên

trách nhƣ hộ lại hay uỷ viên hộ tịch.

Nghị định số 158/2005NĐ-CP đã giải quyết cơ bản các vấn đề vƣớng

mắc trên đây. Tuy vậy, cho đến nay chế tài hộ tịch vẫn chƣa đƣợc quy định cụ

thể trừ Nghị định số 87/2001/NĐ-CP quy định về xử phạt vi phạm hành chính

trong lĩnh vực hôn nhân gia đình. Về nhận thức, với chủ trƣơng nền hành

chính phục vụ nhân dân nói chung và hộ tịch nói riêng, tuy vậy trong nhiều

trƣờng hợp, không ít các biểu hiện nhận thức thiếu đúng đắn, xem hộ tịch là

một bộ phận nghiệp vụ hành chính đơn thuần. Tình trạng quan liêu, cửa quyền,

tuỳ tiện, thiếu trách nhiệm trong thực thi nhiệm vụ hộ tịch còn khá phổ biến.

Đối với nhân dân nhất là ở vùng sâu, vùng xa, ngƣời dân tộc thiểu số, trình độ

dân trí và ý thức pháp luật về hộ tịch còn hạn chế nhƣng việc tuyên truyền, giáo

dục, vận động đăng ký hộ tịch không đƣợc tiến hành thƣờng xuyên.

Nhằm tạo cơ sở pháp lý lâu dài, ổn định và thống nhất cho công tác đăng

ký và quản lý hộ tịch, khắc phục nguyên nhân gây ra những bất cập, hạn chế

nhƣ trên, nhất là trong bối cảnh triển khai thi hành Hiến pháp năm 2013 với

nhiều quy định mới đề cao quyền con ngƣời, quyền, nghĩa vụ cơ bản của công

dân, đồng thời tạo sự chuyển biến mạnh mẽ công tác này theo hƣớng từng bƣớc

chuyên nghiệp, phù hợp với yêu cầu phát triển đất nƣớc trong thời kỳ mới, việc

ban hành Luật hộ tịch là rất cần thiết. Đây cũng là chủ trƣơng đã đƣợc xác định

tại Nghị quyết số 718/NQ-UBTVQH13 của Ủy ban Thƣờng vụ Quốc hội ban

hành Kế hoạch triển khai thi hành Hiến pháp năm 2013. Ngày 20 tháng 11 năm

2014, tại Kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa XIII đã thông qua Luật Hộ tịch với 7

Chƣơng, 77 Điều, và có hiệu lkể từ ngày 01 tháng 01 năm 2016.

40

Luật Hộ tịch là đạo luật quan trọng liên quan đến việc bảo đảm thực

hiện quyền con ngƣời, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân đã đƣợc ghi

nhận trong Hiến pháp năm 2013. So với quy định pháp luật hộ tịch hiện hành,

Luật hộ tịch có nhiều nội dung mới mang tính đột phá, cải cách mạnh mẽ

công tác đăng ký, quản lý hộ tịch nói riêng và quản lý dân cƣ nói chung, nhƣ:

đơn giản hóa và cắt giảm nhiều giấy tờ không cần thiết khi đăng ký hộ tịch;

cải tiến phƣơng thức nộp hồ sơ để ngƣời dân lựa chọn – nộp trực tiếp, gửi qua

bƣu chính hoặc qua hệ thống đăng ký hộ tịch trực tuyến khi điều kiện cho

phép; giảm thời hạn giải quyết đối với hầu hết các việc hộ tịch. Quy định cá

nhân có quyền lựa chọn cơ quan đăng ký hộ tịch cho mình mà không phải phụ

thuộc vào nơi cƣ trú nhƣ trƣớc đây.

Bên cạnh đó, Luật cũng đã có quy định nhằm bảo đảm chặt chẽ, phòng

ngừa những sơ hở, vi phạm có thể xảy ra trong công tác đăng ký và quản lý

hộ tịch nhƣ đã nêu trên (quy định về việc trách nhiệm thông báo việc đăng ký

hộ tịch đến Ủy ban nhân dân cấp xã nơi cá nhân đó thƣờng trú; bổ sung những

hành vi bị nghiêm cấm trong đăng ký và quản lý hộ tịch) và quy định về trách

nhiệm của Chủ tịch Ủy ban nhân dân các cấp trong việc thƣờng xuyên chỉ

đạo, đôn đốc việc khai sinh, khai tử; chịu trách nhiệm về công tác đăng ký,

quản lý hộ tịch và những vi phạm trong công tác đăng ký, quản lý hộ tịch do

buông lỏng quản lý.

Để hiện thực hóa những quy định trong Luật Hộ tịch, ngày 15 tháng 11

năm 2015 Chính phủ đã ban hành Nghị định số 123/2015/NĐ-CP quy định chi

tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Hộ tịch. Với quy định này đã từng

bƣớc hoàn thiện về thể chế, tạo thuận lợi cho ngƣời dân thực hiện các quyền

đăng ký hộ tịch, đẩy mạnh cải cách, đơn giản hóa các thủ tục hành chính.

Trên cơ sở Nghị định này, Bộ Tƣ pháp ngày 16 tháng 11 năm 2015 đã

ban hành Thông tƣ số 15/2015/TT-BTP quy định chi tiết một số điều của Luật

Hộ tịch và Nghị định 123/2015/NĐ-CP.

41

2.2. Phân tích thực trạng thực hiện pháp luật quản lý về hộ tịch trên địa bàn

quận Hai Bà Trƣng, thành phố Hà Nội

2.2.1. Tổng quan về quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội

Hai Bà Trƣng, thƣờng đƣợc gọi tắt là Hai Bà, là một quận của thành

phố Hà Nội. Tên quận đƣợc đặt theo đền thờ Hai Bà Trƣng nằm gần hồ Đồng

Nhân. Đông giáp sông Hồng, qua bờ sông là quận Long Biên Tây chủ yếu

giáp quận Đống Đa, một phần nhỏ giáp quận Thanh Xuân Nam giáp quận

Hoàng Mai. Bắc giáp quận Hoàn Kiếm

Quận Hai Bà Trƣng nằm trên nền đất xƣa vốn thuộc các tổng Hậu

Nghiêm (sau đổi là Thanh Nhàn), Tả Nghiêm (sau đổi là Kim Liên), Tiền

Nghiêm (sau đổi là Vĩnh Xƣơng), huyện Thọ Xƣơng, một số tổng của huyện

Thanh Trì và vùng thái ấp của thƣợng tƣớng Trần Khát Chân từ Ô Cầu Dền

(đầu đƣờng Trần Khát Chân) đi xuống hết Bạch Mai, tới các phƣờng có tên

Mai (Mai Động, Tƣơng Mai nay thuộc quận Hoàng Mai). Trƣớc 1961, cùng

với Bạch Mai, Mai Động, Hoàng Mai đều thuộc quận VII. Từ 1961 là khu

Hai Bà Trƣng. Từ tháng 6 năm 1981 là quận Hai Bà Trƣng.

Quận Hai Bà Trƣng nằm ở phía Đông Nam nội thành Hà Nội, là địa

bàn có vinh dự đƣợc mang tên hai vị Nữ anh hùng đầu tiên trong lịch sử

chống ngoại xâm của dân tộc: Hai Bà Trƣng Trắc và Trƣng Nhị. Quận Hai Bà

Trƣng hiện có 20 phƣờng: Nguyễn Du, Lê Đại Hành, Bùi Thị Xuân, Phố Huế,

Ngô Thì Nhậm, Phạm Đình Hổ, Đồng Nhân, Đống Mác, Bạch Đằng, Thanh

Lƣơng, Thanh Nhàn, Cầu Dền, Bách Khoa, Quỳnh Lôi, Bạch Mai, Quỳnh

Mai, Vĩnh Tuy, Minh Khai, Trƣơng Định, Đồng Tâm.

Hiện nay, diện tích tự nhiên của toàn quận là 10,09 km2 chiếm khoảng

0,86% diện tích tự nhiên toàn thành phố. Quận có số dân là 315,9 nghìn

ngƣời, mật độ dân cƣ là 31.308/km2.

42

Với vị trí đặc biệt của một quận lõi của Thủ đô, nhiệm kỳ qua, Đảng bộ

và nhân dân quận Hai BàTrƣng tranh thủ thời cơ, khắc phục khó khăn, nỗ lực

thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội Đảng bộ quận lần thứ XXIV. Kinh tế

trên địa bàn quận tiếp tục phát triển; cơ cấu kinh tế chuyển dịch đúng hƣớng

dịch vụ - công nghiệp; tỷ trọng dịch vụ, thƣơng mại chiếm ƣu thế trong cơ cấu

kinh tế. Tốc độ tăng giá trị sản xuất công nghiệp ngoài Nhà nƣớc trên địa bàn

quận giai đoạn 2011 - 2015 bình quân là 9,66%/năm; giá trị dịch vụ, thƣơng

mại là 16,67%/năm. Thu ngân sách giai đoạn 2011 - 2015 đạt khoảng 15.400

tỷ đồng, gấp khoảng 3 lần so với giai đoạn 2006 - 2010.

Đặc biệt, diện mạo đô thị quận đã có sự thay đổi lớn trong 5 năm qua.

Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội đƣợc chú trọng đầu tƣ, xây dựng và hoàn

thiện; các khu đô thị mới, trung tâm thƣơng mại lớn, nhiều công trình giáo

dục, y tế đƣợc đầu tƣ xây dựng theo hƣớngchuẩn hóa, đƣợc hoàn thành và

đƣa vào sử dụng, góp phần giải quyết kịp thời cácvấn đề dân sinh bức xúc,

thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. An sinh xã hội đƣợc bảo đảm, tỷ lệ hộ

nghèo giảm nhanh, từ 0,90% năm 2011xuống còn 0,81% năm 2014. Đời sống

vật chất, tinh thần của nhân dân đƣợc nâng lên.

Giá trị sản xuất công nghiệp ngoài quốc doanh trên địa bàn chính thức

6 tháng2016 đạt 6.783 tỷ 096 triệu đồng, tăng 6,19% so với cùng kỳ; Doanh

thu thƣơng mại, dịch vụ phát triển ổn định, giá trị doanh thu chính thức 6

tháng/2016 đạt 92.293 tỷ 090 triệu đồng, tăng 14,9% so với cùng kỳ. Kim

ngạch xuất khẩu chính thức 6 tháng/2016 đạt 72.283.000 USD tăng 3,2% so

với cùng kỳ. Kim ngạch nhập khẩu chính thức 6 tháng/2016 đạt

357.097.000USD tăng 0,001% so với cùng kỳ. Tổng thu ngân sách nhà nƣớc

trên địa bàn quận thực hiện 6 tháng/2016: 2.595 tỷ 140 triệu đồng = 58,18%

dự toán đƣợc giao. Thu ngân sách quận sau điều tiết thực hiện 06 tháng/2016

đạt: 754 tỷ 287 triệu đồng = 59,36% dự toán đƣợc giao. Chi ngân sách quận

43

thực hiện 06 tháng/2016 đạt: 470 tỷ 149 triệu đồng = 36,85% dự toán đƣợc

giao. Đảm bảo tiết kiệm chi dùng thƣờng xuyên, tập trung cho chi đầu tƣ phát

triển phục vụ tốt các nhiệm vụ chính trị của quận.

2.2.2. Tuyên truyền, phổ biến pháp luật quản lý về hộ tịch

Tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật là giải pháp quan trọng đảm

bảo cho pháp luật quản lý về hộ tịch đi vào cuộc sống. Thực tiễn hiện nay cho

thấy, sự hiểu biết về các quy định pháp luật quản lý về hộ tịch của đội ngũ cán

bộ, công chức nói riêng, của nhân dân nói chung trên địa bàn quận Hai Bà

Trƣng còn hạn chế. Để nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của cán bộ, công

chức, viên chức, ngƣời lao động và nhân dân trên địa bàn quận về pháp luật

và triển khai thực hiện có hiệu quả pháp luật quản lý về hộ tịch, hàng năm

UBND Quận đều ban hành kế hoạch phổ biến, giáo dục pháp luật.

Xác định công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật là nhiệm

vụ trọng tâm và thƣờng xuyên, ngay từ đầu năm 2016 UBND quận đã ban

hành Kế hoạch số 32/KH-UBND ngày 04/02/2016 của UBND quận Hai Bà

Trƣng về phổ biến, giáo dục pháp luật trên địa bàn quận, Hội đồng phối hợp

phổ biến, giáo dục pháp luật quận đã chỉ đạo các thành viên trong Hội đồng

và các phòng, ban quận, UBND 20 phƣờng tổ chức tốt công tác tuyên truyền,

phổ biến giáo dục pháp luật cho cán bộ, công chức của đơn vị mình và nhân

dân trên địa bàn quận Hai Bà Trƣng. Bám sát nội dung, yêu cầu trong các văn

bản của Đảng, Nhà nƣớc về phổ biến, giáo dục pháp luật; Luật phổ biến, giáo

dục pháp luật; Luật hòa giải cơ sở và các văn bản hƣớng dẫn thi hành;

Chƣơng trình công tác trọng tâm năm 2016 của quận, Hội đồng đã ban hành

các văn bản đề nghị thành viên Hội đồng và các phòng, ban quận, UBND 20

phƣờng tổ chức triển khai thực hiện đạt hiệu quả cao.

Các đơn vị thành viên Hội đồng PHPBGDPL Quận, các phòng, ban,

đoàn thể quận và các phƣờng đều đã triển khai Kế hoạch phổ biến, giáo dục

44

pháp luật của quận tại đơn vị mình, phổ biến sâu rộng Luật Hộ tịch đến các

đối tƣợng.

Nhằm mục đích để ngƣời dân nhận thức đƣợc việc đăng ký hộ tịch vừa

là quyền, vừa là nghĩa vụ của mình, đồng thời hiểu đƣợc tầm quan trọng của

công tác Tƣ pháp - Hộ tịch trong việc phát triển kinh tế - văn hóa- xã hội và

giữ gìn trật tự trên địa bàn, trong thời gian qua cấp ủy, chính quyền Quận đã

thực hiện công tác tuyên truyền pháp luật quản lý về hộ tịch đến ngƣời dân

bằng nhiều hình thức khác nhau.

Hằng năm, Quận đã phát hành tờ gấp liên quan đến các thủ tục về đăng

ký hộ tịch nhƣ khai sinh, khai tử, kết hôn, nuôi con nuôi, giám hộ....Tƣ pháp ở

các phƣờng căn cứ vào tình hình địa phƣơng kết hợp các buổi sinh hoạt, hội

nghị của hội liên hiệp phụ nữ, đoàn thanh niên...để thực hiện tuyên truyền.

Thông qua loa phát thanh ở các phƣờng, những nội dung pháp luật quản lý về

hộ tịch cũng đƣợc tuyên truyền đến từng ngƣời dân, đặc biệt là những điểm

mới trong Luật hộ tịch 2014.

Phòng tƣ pháp Quận vừa là cơ quan tham mƣu cho UBND Quận ban

hành Kế hoạch số 32/KH-UBND ngày 04/02/2016 về phổ biến giáo dục pháp

luật quận Hai Bà Trƣng năm 2016, vừa là cơ quan tổ chức thƣờng xuyên các

hội nghị triển khai khi có văn bản mới liên quan đến công tác hộ tịch, nhƣ Hội

nghị triển khai thi hành Luật hộ tịch và các văn bản hƣớng dẫn thi hành. Bên

cạnh đó, theo định kỳ các phƣờng trên địa bàn Quận thƣờng xuyên cử công

chức Tƣ pháp - Hộ tịch tham gia các lớp tập huấn nghiệp vụ công tác Tƣ pháp

- Hộ tịch do Sở Nội vụ thành phố Hà Nội tổ chức. Phòng tƣ pháp Quận cũng

tiến hành giao ban hằng tháng với các phƣờng để lắng nghe và giải quyết kịp

thời những vƣớng mắc, khó khăn trong công tác đăng ký và quản lý hộ tịch.

Đồng thời mỗi chuyên viên phụ trách công tác hộ tịch của phòng tƣ pháp là

45

một đầu mối để hƣớng dẫn chuyên môn cho công chức phƣờng giải quyết

công việc khi cần thiết.

Hằng năm Phòng Tƣ pháp Quận thực hiện kiểm tra công tác Tƣ pháp -

Hộ tịch đối với các phƣờng. Thu hồi và hủy bỏ một số giấy tờ hộ tịch cấp trái

với quy định của pháp luật. Ban hành một số văn bản hƣớng dẫn UBND các

phƣờng về công tác chuyên môn.

2.2.3. Pháp luật quản lý về hộ tịch trên địa bàn Quận Hai Bà Trưng, thành

phố Hà Nội

Theo báo cáo tổng kết công tác tƣ pháp các năm từ năm 2011 đến

năm 2015, kết quả thực hiện đăng ký hộ tịch trên địa bàn Quận Hai Bà

Trƣng, thành phố Hà Nội nhƣ sau:

Năm 2011

Đăng ký khai sinh: 3268 trƣờng hợp (nam: 1986, nữ: 1282);

Đăng ký kết hôn: 1957 trƣờng hợp;

Đăng ký khai tử: 1058 trƣờng hợp;

Thay đổi, cải chính hộ tịch: 142 trƣờng hợp;

Cấp lại bản chính Giấy khai sinh: 950 trƣờng hợp;

Điều chỉnh hộ tịch: 15 trƣờng hợp;

Bổ sung hộ tịch: 5 trƣờng hợp;

Xác định lại dân tộc: 3 trƣờng hợp.

Năm 2012

Đăng ký khai sinh: 3987 trƣờng hợp (nam: 2102, nữ: 1885);

Đăng ký kết hôn: 2198 trƣờng hợp;

Đăng ký khai tử: 1232 trƣờng hợp;

Thay đổi, cải chính hộ tịch: 125 trƣờng hợp;

Cấp lại bản chính Giấy khai sinh: 1.150 trƣờng hợp;

Điều chỉnh hộ tịch: 12 trƣờng hợp;

46

Bổ sung hộ tịch: 23 trƣờng hợp;

Xác định lại dân tộc: 2 trƣờng hợp.

Năm 2013 [25]

Đăng ký khai sinh: 4563 trƣờng hợp (nam: 2245, nữ: 2318);

Đăng ký kết hôn: 2167 trƣờng hợp;

Đăng ký khai tử: 1598 trƣờng hợp;

Điều chỉnh hộ tịch: 37;

Bổ sung hộ tịch: 25;

Xác định lại dân tộc: 5;

Chứng thực bản sao từ bản chính: 10.050trƣờng hợp;

Chứng thực chữ ký và các giao dịch khác: 2.861 trƣờng hợp;

Sao từ sổ đăng ký khai sinh: 1.488 trƣờng hợp;

Sao từ sổ đăng ký kết hôn: 323 trƣờng hợp;

Sao từ sổ đăng ký khai tử: 259 trƣờng hợp;

Cấp lại bản chính giấy khai sinh: 671 trƣờng hợp;

Thay đổi, cải chính, bổ sung, điều chính hộ tịch: 124 trƣờng hợp.

Năm 2014 [26]

Đăng ký khai sinh: 5.235 trƣờng hợp (nam: 2.674, nữ: 2.561) trong đó:

Đăng ký đúng hạn: 4.819 trƣờng hợp;

Đăng ký quá hạn: 416 trƣờng hợp;

Đăng ký lại:173 trƣờng hợp.

Đăng ký kết hôn: 2.087 trƣờng hợp, trong đó:

Đăng ký kết hôn lần đầu: 1.842 trƣờng hợp;

Đăng ký kết hôn lần 2 trở lên: 245 trƣờng hợp;

Đăng ký lại: 5 trƣờng hợp.

Tuổi trung bình đăng ký kết hôn với nam là 27, nữ 24.

Đăng ký khai tử: 1.906 trƣờng hợp (nam: 1.107, nữ: 799), trong đó:

47

Đăng ký đúng hạn: 1.769 trƣờng hợp;

Đăng ký quá hạn: 137 trƣờng hợp.

Đăng ký nuôi con nuôi: 03 trƣờng hợp

Điều chỉnh hộ tịch: 25

Bổ sung hộ tịch: 30

Xác định lại dân tộc: 6

Chứng thực bản sao từ bản chính: 6.841trƣờng hợp;

Chứng thực chữ ký và các giao dịch khác: 2.572 trƣờng hợp;

Sao từ sổ đăng ký khai sinh: 1.074 trƣờng hợp;

Sao từ sổ đăng ký kết hôn: 323 trƣờng hợp;

Sao từ sổ đăng ký khai tử: 206 trƣờng hợp;

Cấp lại bản chính giấy khai sinh: 656 trƣờng hợp;

Thay đổi, cải chính, bổ sung, điều chính hộ tịch: 150 trƣờng hợp.

Năm 2015 [27]

Đăng ký khai sinh: 5.125 trƣờng hợp (nam: 2.695, nữ: 2.430) trong đó:

Đăng ký đúng hạn: 4.597 trƣờng hợp;

Đăng ký quá hạn: 528 trƣờng hợp;

Đăng ký lại: 213 trƣờng hợp.

Đăng ký kết hôn: 1.931 trƣờng hợp, trong đó:

Đăng ký kết hôn lần đầu: 1.665 trƣờng hợp;

Đăng ký kết hôn lần 2 trở lên: 266 trƣờng hợp;

Đăng ký lại 9 trƣờng hợp.

Tuổi trung bình đăng ký kết hôn với nam là 27, nữ 24

Đăng ký khai tử: 1.836 trƣờng hợp (nam: 1059, nữ: 777), trong đó:

Đăng ký đúng hạn: 1.707 trƣờng hợp;

Đăng ký quá hạn: 129 trƣờng hợp.

Thay đổi, cải chính hộ tịch: 242

48

Điều chỉnh hộ tịch: 35

Bổ sung hộ tịch: 35

Xác định lại dân tộc: 6

Đăng ký nuôi con nuôi: 06

Sao gốc: 2.083 trƣờng hợp;

Cấp lại khai sinh: 1.939 trƣờng hợp;

Thay đổi cải chính, điều chỉnh, bổ sung hộ tịch: 440 trƣờng hợp.

Chứng thực bản sao: 3.636 hồ sơ

Chứng thực chữ ký: 27 hồ sơ

Chứng thực chữ ký ngƣời dịch: 467 hồ sơ.

2.2.4. Thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm

pháp luật quản lý về hộ tịch trên địa bàn quận Hai Bà Trưng, thành phố

Hà Nội

Thanh tra, kiểm tra, giám sát là yêu cầu không thể thiếu nhằm nâng

cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nƣớc. Hoạt động giám sát, thanh tra, kiểm

tra đối với công chức trong thực thi công vụ là một trong những hoạt động

quản lý, mang tính quyền lực nhà nƣớc đối với các chủ thể có thẩm quyền.

Kết quả hoạt động thanh tra, kiểm tra, giám sát đối với đội ngũ công chức

nhằm giúp cơ quan quản lý nắm bắt đƣợc công việc của đối tƣợng quản lý,

đảm bảo công vụ đƣợc thực hiện theo đúng quy định của pháp luật.

Việc thanh tra, kiểm tra, giám sát sự chấp hành pháp luật quản lý về hộ

tịch có tác dụng ngăn ngừa, răn đe rất lớn và có hiệu quả. Có thể nói, thái độ

chấp hành hay không chấp hành pháp luật hoặc mức độ chính xác trong áp

dụng pháp luật của công chức CQHCNN phụ thuộc rất lớn vào kết quả của sự

kiểm tra, giám sát sự chấp hành pháp luật. Mặt khác, cũng thấy rằng công

chức CQHCNN thi hành, chấp hành pháp luật một cách tự giác, nghiêm chỉnh

một khi họ có thái độ đúng đắn đối với pháp luật. Thông qua hoạt động thanh

49

tra, kiểm tra, giám sát giúp cho công chức CQHCNN nâng cao ý thức chấp

hành pháp luật, bồi dƣỡng tình cảm, ý thức pháp luật và khả năng tiến hành

các hành vi pháp lý đúng đắn, chính xác.

Hoạt động thanh tra, kiểm tra, giám sát việc thực hiện quản lý về hộ

tịch cần tiến hành đồng bộ các giải pháp sau:

Đối với công tác thanh tra, cần thực hiện các nội dung thanh tra chuyên

đề về quản lý hộ tịch. Chủ động tiến hành hình thức thanh tra trực tiếp thay

cho hình thức tự kiểm tra, báo cáo của CQHCNN về tình hình thực hiện pháp

luật quản lý về hộ tịch. Hoạt động này cần đƣợc tiến hành thƣờng xuyên, liên

tục theo các cách thức định kỳ hoặc đột xuất. Để hoạt động này đƣợc thực

hiện tốt, cũng cần chú ý tới hoàn thiện hệ thống tổ chức cơ quan thanh tra một

cách có hệ thống từ trung ƣơng đến địa phƣơng, thực hiện tốt chế độ chính

sách đãi ngộ cho đội ngũ thanh tra, đề cao tính độc lập của các cơ quan thanh

tra khi thực thi nhiệm vụ.

Đẩy mạnh hoạt động giám sát thực hiện pháp luật nói chung, pháp luật

quản lý về hộ tịch. Để hoạt động này thực hiện tốt, cần ban hành văn bản

pháp luật cụ thể hóa trình tự, thủ tục giám sát, nội dung giám sát của từng chủ

thể có thẩm quyền giám sát và đặc biệt xác định rõ trách nhiệm của các chủ

thể trong hoạt động này. Hoạt động giám sát cần đi vào thực chất trên cơ sở

các chƣơng trình cụ thể hàng quý, hàng tháng với nội dung rõ ràng, tránh sự

dàn trải không hiệu quả. Nội dung giám sát cần tập trung vào các vấn đề nổi

cộm hiện nay nhƣ tình trạng tham nhũng, tiêu cực.

Cùng với hoạt động giám sát, thanh tra, cần phải tăng cƣờng công tác

xử lý vi phạm trong quá trình thực hiện pháp luật quả lý về hộ tịch trong các

CQHCNN. Bảo đảm mọi hành vi trái pháp luật đều bị xử lý bất kể ngƣời vi

phạm có vị trí xã hội, nghề nghiệp, thành phần xuất thân nào. Đặc biệt, những

hành vi trái pháp luật do công chức CQHCNN gây ra cần phải xử lý kịp thời,

50

nghiêm minh, không thiên vị. Tùy thuộc vào tính chất, mức độ của hành vi

trái pháp luật, ngƣời vi phạm có thể bị xử lý kỷ luật, xử lý hành chính, bồi

hoàn một phần thiệt hại vật chất, thậm chí phải truy cứu trách nhiệm hình sự.

Bên cạnh đó cần chú ý tạo ra cơ chế phát hiện ra vi phạm pháp luật, vi

phạm hoạt động công vụ ngay từ chính cán bộ, công chức do Nhân dân hoặc

chính đội ngũ công chức thực hiện thông qua việc đặt hòm thƣ góp ý, xây

dựng Quy chế dân chủ trong nội bộ cơ quan. Ngoài ra, cần có cơ chế khen

thƣởng kịp thời, thích đáng đối với công chức CQHCNN thực hiện tốt công

vụ, khen thƣởng và biểu dƣơng ngƣời tố giác hành vi trái pháp luật và thƣờng

xuyên tổng kết thực trạng vi phạm pháp luật quản lý về hộ tịch. Từ đó xây

dựng kế hoạch khắc phục kịp thời, xử lý nghiêm minh các hành vi trái pháp

luật trong khi thi hành công vụ.

2.3. Đánh giá thực trạng thực hiện pháp luật quản lý về hộ tịch trên địa bàn

Quận Hai Bà Trƣng, thành phố Hà Nội

2.3.1. Những kết quả đạt được

Hộ tịch có vai trò đặc biệt quan trọng đối với mỗi ngƣời dân, là một

quận nội thành với mật độ dân số cao nên quản lý về hộ tịch trên địa bàn quận

Hai Bà Trƣng, thành phố Hà Nội gặp rất nhiều khó khăn. Mặc dù vậy, với sự

nỗ lực của đảng bộ và các cấp chính quyền, thời gian qua việc thực hiện pháp

luật quản lý về hộ tịch trên địa bàn quận đã đạt đƣợc những kết quả đáng kể,

đó là:

Thứ nhất, pháp luật quản lý về hộ tịch đƣợc thực hiện nghiêm chỉnh,

thống nhất trên địa bàn quận Hai Bà Trƣng góp phần bảo đảm quyền con

ngƣời, quyền cơ bản của công dân.

Pháp luật quản lý về hộ tịch đƣợc xây dựng với mục tiêu nhằm tạo cơ

sở pháp lý ổn định, thống nhất, lâu dài cho công tác đăng ký, quản lý hộ tịch ở

Việt Nam theo hƣớng chuyên nghiệp, hiện đại, qua đó thúc đẩy quyền con

51

ngƣời, quyền công dân, tạo thuận lợi cho ngƣời dân thực hiện quyền, nghĩa vụ

đăng ký hộ tịch, tăng cƣờng quản lý dân cƣ trong tình hình mới.

Hộ tịch là việc đăng ký và quản lý các sự kiện nhân thân của mỗi cá

nhân từ khi sinh ra đến khi chết nhƣ: sinh, kết hôn, nuôi con nuôi, giám hộ,

thay đổi hộ tịch, khai tử…Các sự kiện này có liên quan trực tiếp và chặt chẽ

với các nhân thân của cá nhân; việc đăng ký hộ tịch tạo cơ sở pháp lý để

ngƣời dân hƣởng các quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, đồng thời tạo cơ

sở để Nhà nƣớc bảo hộ các quyền, lợi ích hợp pháp đó.

Những quy định trong Luật hộ tịch là phù hợp Hiến pháp 2013, nhiều

quy định mang tính cải cách, góp phần từng bƣớc hiện đại nền hành chính

công, đơn giản hóa thủ tục hành chính, rút ngắn thời gian, giảm phiền hà cho

Nhân dân, đặc biệt đã tạo nền móng cho việc thiết lập định chế mới về quản

lý tình trạng nhân thân của một ngƣời qua số định danh (mà các dữ liệu cần

phải cập nhật ẩn danh phục vụ cho nhiều lĩnh vực khác nhau nhằm bảo vệ

quyền hợp pháp của công dân), tạo sự liên thông kết nối dữ liệu phục vụ

nhanh chóng trong tra cứu, sao lục, phục vụ cho nhiều ngành nhiều cấp.

Việc chuyển giao thẩm quyền đăng ký hộ tịch có yếu tố nƣớc ngoài là

thực hiện một bƣớc căn bản về cải cách thủ tục hành chính trong lĩnh vực hộ

tịch, tạo điều kiện thuận lợi hơn cho ngƣời dân, giúp ngƣời dân tiết kiệm thời

gian và thuận lợi trong thực hiện các thủ tục. Đây là cơ hội để khẳng định tính

phục vụ dân của cơ quan công quyền, bảo đảm quyền con ngƣời theo đúng

chủ trƣơng, đƣờng lối của Đảng, đã đƣợc ghi nhận tại Hiến pháp năm 2013.

Nói cách khác, việc chuyển giao này đã mở ra một cơ hội quan trọng cho

quận, đó là cơ hội phục vụ dân.

Thứ hai, công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật quản lý về hộ tịch có

hiệu quả làm cho nhận thức của ngƣời dân trong việc thực hiện quyền và

nghĩa vụ đăng ký hộ tịch đã đƣợc nâng lên.

52

Do các cấp ủy và chính quyền địa phƣơng đã nhận thức đƣợc tầm quan

trọng của công tác hộ tịch, nên đã quan tâm đầu tƣ hơn cho công tác tuyên

truyền bằng nhiều hình thức nhƣ tổ chức hội nghị, phát tờ gấp, tuyên truyền

qua hệ thống loa truyền thanh, lƣu tủ sách pháp luật, thông qua các cuộc thi,

lồng ghép với buổi sinh hoạt tập thể… qua đó, ngƣời dân đã nhận thức đƣợc

việc đăng ký hộ tịch vừa là quyền, vừa là nghĩa vụ của mình nên đã tự giác đi

đăng ký, qua đó tỷ lệ đăng ký hộ tịch đã đƣợc tăng lên. Tình trạng đăng ký hộ

tịch quá hạn cũng đƣợc giảm xuống đáng kể.

Thứ ba, công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát việc thực hiện pháp luật

quản lý về hộ tịch đƣợc thực hiện thƣờng xuyên mang lại hiệu quả cao.

Trong quá trình thực hiện pháp luật quản lý về hộ tịch không thể thiếu

đƣợc việc thanh tra, kiểm tra, giám sát. Đây là phƣơng thức bảm đảm cho

pháp luật quản lý về hộ tịch đƣợc thực hiện.

Hàng năm phòng tƣ pháp Quận Hai Bà Trƣng ban hành và tổ chức thực

hiện kế hoạch kiểm tra định kỳ và đột xuất đối với các phƣờng về công tác

đăng ký hộ tịch qua đó phát hiện, xử lý kịp thời những hành vi vi phạm pháp

luật về hộ tịch từ phía các cán bộ, công chức tƣ pháp.

Đạt đƣợc những kết quả nêu trên là do sự quan tâm lãnh đạo của cấp

Ủy đảng các cấp, sự điều hành của UBND quận, cơ quan Tƣ pháp tham mƣu

tốt; nắm vững quy định pháp luật vận dụng sát thực tế; đội ngũ cán bộ có tâm

huyết. Phối hợp tốt giữa Tƣ pháp, các phòng chuyên môn, đoàn thể và UBND

các phƣờng. Đặc biệt đội ngũ cán bộ Phòng Tƣ pháp khá ổn định, đƣợc bồi

dƣỡng về chuyên môn nghiệp vụ, kế thừa và rèn luyện trong thực tiễn.

2.3.2. Những hạn chế

Bên cạnh những mặt đạt đƣợc kể trên, pháp luật quản lý về hộ tịch trên

địa bàn Quận Hai Bà Trƣng vẫn còn những hạn chế nhất định, phản ánh thông

qua kết quả thực hiện đăng ký hộ tịch trên địa bàn quận.

53

Thứ nhất, vẫn còn tình trạng vi phạm pháp luật quản lý về hộ tịch, đó là

sự tùy tiện trong việc đăng ký, cấp giấy tờ hộ tịch cho công dân, chƣa đảm

bảo độ chính xác khi cấp giấy tờ hộ tịch.

Tình trạng đăng ký không kịp thời, chƣa đầy đủ và thiếu chính xác

trong đăng ký hộ tịch vẫn còn tồn tại. Sự tùy tiện trong việc đăng ký, cấp giấy

tờ hộ tịch đƣợc thể hiện trong những trƣờng hợp sau:

Đăng ký sai thẩm quyền;

Cấp bản sao giấy tờ hộ tịch không căn cứ vào sổ gốc;

Dễ dãi trong việc cấp giấy tờ hộ tịch nhất là Giấy khai sinh: cótrƣờng

hợp nội dung trong bản sao Giấy khai sinh khác với nội dung trong bản chính

và khác với nội dung trong sổ gốc; nội dung khai sinh trong sổ Hộ khẩu, Giấy

chứng minh nhân dân, văn bằng, học bạ của ngƣời đi học đƣợc ghi theo giấy

khai sinh nên không phù hợp với bản chính…Sự sai sót này đã để lại nhiều hệ

lụy phức tạp và ảnh hƣởng đến quyền lợi của ngƣời dân;

Khi đăng ký hộ tịch chỉ cấp giấy tờ hộ tịch cho ngƣời đi đăng ký mà

không ghi ngay vào sổ hộ tịch;

Sổ hộ tịch bị tẩy xóa nội dung, việc sửa chữa sai sót không thực

hiệntheo đúng quy định (không ghi ngày, tháng, năm sửa, không ghi tên

ngƣời sửa và không đóng dấu vào nội dung sửa…);

Sổ hộ tịch không ghi chú những sự kiện đặc biệt(đăng ký quá hạn đăng

ký lại…)

Thứ hai, công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật quản lý về

hộ tịch đối với ngƣời dân trên địa bàn Quận còn hạn chế.

Việc tuyên truyền phổ biến kiến thức pháp luật về hộ tịch đến ngƣời

dân tuy đã đƣợc thực hiện khá tốt trên địa bàn Quận nhƣng cũng còn một số

hạn chế, vẫn còn tình trạng ngƣời dân chƣa nhận biết đƣợc quyền và nghĩa vụ

của mình trong vấn đề hộ tịch, nhiều ngƣời dân chỉ đến khi có con đi học

54

hoặc phát sinh những việc khác đòi hỏi phải có giấy tờ hộ tịch mới đi đăng ký

và phải chứng minh các sự kiện hộ tịch là có thật.... Số liệu đăng ký khai sinh,

khai tử quá hạn vẫn chiếm tỷ lệ đáng kể. Trong thực tế đã xảy ra tình trạng

cán bộ, công chức lợi dụng việc đăng ký quá hạn, đăng ký lại việc sinh để cải

chính tuổi trong hồ sơ.

Thứ ba, sự phối hợp giữa các ngành, các cấp trong thực hiện pháp luật

quản lý về hộ tịch chƣa đồng bộ.

Hộ tịch là vấn đề liên quan đến nhiều ngành, nhiều lĩnh vực. Mỗi cơ

quan có thẩm quyền lại có phạm vi nhiệm vụ quyền hạn đƣợc quy định khác

nhau. Sự phối hợp giữa các ngành, các cấp chƣa đồng bộ đã dẫn đến tình

trạng cùng một tiêu chí, nhƣng mỗi ngành có một số liệu thống kê báo cáo

khác nhau, điều này đã gây khó khăn cho địa phƣơng trong việc hoạch định

chính sách. Cơ chế thông báo những thay đổi liên quan đến hộ tịch của từng

cá nhân cũng chƣa đƣợc thực hiện một cách nghiêm túc, nhiều trƣờng hợp

không thông báo nên không kịp thời cập nhật những thay đổi về hộ tịch liên

quan trong sổ hộ tịch(Ví dụ: do không nhận đƣợc thông báo việc ly hôn để

ghi chú vào Sổ đăng ký kết hôn nên mặc dù đã ly hôn vẫn đƣợc cấp bản sao

Giấy chứng nhận kết hôn).

Thứ tư, điều kiện thực hiện của pháp luật quản lý về hộ tịch chƣa đƣợc

chuẩn bị tốt nhất.

Pháp luật quản lý về hộ tịch có vai trò là cơ sở pháp lý để bảo đảm

quyền đăng ký hộ tịch của công dân. Yêu cầu đặt ra là Nhà nƣớc phải có trách

nhiệm đăng ký để thực hiện việc quản lý và cũng bảo đảm quyền đăng ký hộ

tịch cho công dân; tuy nhiên, trên thực tế bên cạnh một số bất cập từ quy định

của pháp luật, trong nhiều trƣờng hợp, tinh thần, thái độ phục vụ của một bộ

phận cán bộ làm công tác hộ tịch chƣa cao, còn gây phiền hà, sách nhiễu; việc

thực thi các quy định của pháp luật về đăng ký, quản lý còn chƣa nghiêm, có

55

nơi còn buông lỏng quản lý dẫn đến sai phạm bị xử lý kỷ luật, thậm chí truy

cứu trách nhiệm hình sự; trong một số trƣờng hợp đã có phản ánh về hiện

tƣợng tiêu cực, nhƣng lãnh đạo UBND Quận không có biện pháp xử lý kịp

thời, vẫn để cho các công chức này tiếp tục làm việc, gây bức xúc cho nhân

dân nhất là trong bối cảnh Luật Hộ tịch 2014 mới có hiệu lực, nhiều quy định

của Luật chƣa đƣợc hiểu chính xác. Cụ thể là:

Quy định về thủ tục đăng ký các loại việc hộ tịch còn quá nhiều loại

giấy tờ khác nhau, lệ thuộc vào nơi cƣ trú đã dẫn đến trƣờng hợp công dân

không đáp ứng đủ thì không đƣợc đăng ký;

Công chức trực tiếp giải quyết công việc hộ tịch tự đặt thêm thủ tục giấy

tờ khi ngƣời dân có yêu cầu đăng ký hộ tịch. Khi hồ sơ đăng ký hộ tịch chƣa đầy

đủ, công chức hộ tịch không hƣớng dẫn một lần mà mỗi lần chỉ hƣớng dẫn một

nội dung nên ngƣời dân phải đi lại nhiều lần mới đƣợc giải quyết

Áp dụng quy định của pháp luật để giải quyết yêu cầu đăng ký hộ tịch

của ngƣời dân một cách máy mócnên một số trƣờng hợp quyền lợi của ngƣời

dân giải quyết sai quy định, thậm chí có trƣờng hợp không đƣợc giải quyết.

Bên cạnh đó việc đầu tƣ về cơ sở vật chất hiện đại; hệ thống hạ tầng

công nghệ thông tin đồng bộ chƣa đƣợc triển khai nên việc áp dụng công

nghệ thông tin trong đăng ký hộ tịch gặp nhiều trở ngại.

2.3.3. Nguyên nhân của những hạn chế

Những hạn chế trong pháp luật quản lý về hộ tịch trên địa bànquận Hai

Bà Trƣng, thành phố Hà Nội không chỉ xuất phát từ các nguyên nhân khách

quan mà còn bao gồm những nguyên nhân chủ quan.

Thứ nhất, nguyên nhân khách quan

Một là, tình hình kinh tế xã hội trên địa bàn quận vẫn còn những hạn

chế ảnh hƣởng tớipháp luật quản lý về hộ tịch. Mặc dù nền kinh tế cũng có sự

tăng trƣởng, nhƣng nhìn chung điều kiện sống của ngƣời dân còn chƣa đồng

56

đều. Cùng với đó, tình hình làm trái pháp luật trong công chức CQHCNN

diễn biến phức tạp, có xu hƣớng gia tăng dẫn tới pháp luật quản lý về hộ tịch

không đƣợc thực hiện nghiêm túc.

Trong khi đó, với chủ trƣơng cải cách tƣ pháp, nâng cao chất lƣợng

hiệu quả hoạt động công vụ, trong đó có cơ quan tham gia tổ chức thực hiện

pháp luật quản lý về hộ tịch của Bộ Tƣ pháp, Sở Tƣ pháp, Phòng Tƣ pháp cấp

huyện, CQHCNN còn thực hiện chậm. Đây cũng là nhân tố làm cho việc thực

hiện pháp luật quản lý về hộ tịch còn gặp nhiều khó khăn, hạn chế.

Hai là, cơ sở vật chất, kinh phí trang bị cho hệ thống cơ quan đăng ký

hộ tịch còn những yếu kém cần khắc phục. Có sự không đồng đều về điều

kiện vật chất ở các phƣờng khác nhau. Bên cạnh đó, ở mỗi phƣờng có những

khác biệt về lề lối làm việc, văn hóa, nên việc bảo đảm pháp luật quản lý về

hộ tịch còn gặp khó khăn.

Ba là, pháp luật quản lý về hộ tịch còn chƣa hoàn chỉnh, đồng bộ, thiếu

văn bản hƣớng dẫn dẫn tới pháp luật quản lý về hộ tịch trên địa bàn quận Hai

Bà Trƣng, thành phố Hà Nội hiệu quả chƣa cao.

Thứ hai, nguyên nhân chủ quan

Một là, cơ cấu tổ chức cơ quan tham gia thực hiện quản lý hộ tịch còn

bất cập. Hiện tại, ở Việt Nam chƣa có một cơ quan đầu mối thống nhất quản

lý về hộ tịch mà do nhiều cơ quan cùng thực hiện (Tƣ pháp, Công an…). Hơn

nữa, mối quan hệ phối hợp trong tổ chức pháp luật quản lý về hộ tịch ở một

số lĩnh vực còn chƣa đồng bộ chặt chẽ, chƣa đi vào chiều sâu để giải quyết

kịp thời những vấn đề phức tạp khi thực hiện pháp luật quản lý về hộ tịch.

Giữa các cơ quan Tƣ pháp, Nội vụ, Thanh tra, UBND các cấp chƣa hình

thành mối quan hệ chặt chẽ, thể hiện thành các chƣơng trình hành động cụ thể

pháp luật quản lý về hộ tịch.

57

Mối quan hệ giữa Sở Tƣ pháp với Phòng Tƣ pháp, Bộ phận Tƣ pháp cũng

chỉ dừng lại ở phạm vi thực hiện nhiệm vụ đƣợc giao, nhƣ xây dựng các chƣơng

trình thực hiện nhiệm vụ chuyên môn, phổ biến giáo dục pháp luật, cung cấp

thông tin, báo cáo, chƣa thể hiện thành các quy chế phối hợp toàn diện.

Hai là, công tác xây dựng đội ngũ công chức chuyên trách làm công tác

hộ tịch chƣa đáp ứng đƣợc yêu cầu ngày càng cao đối với pháp luật quản lý

về hộ tịch nhất là trong bối cảnh phân quyền quản lý hộ tịch cho cấp quận nhƣ

hiện nay. Công tác giáo dục chính trị tƣ tƣởng đối với đội ngũ công chức

chuyên trách ở một số cơ quan tham gia tổ chức thực hiện pháp luật quản lý

về hộ tịch còn chƣa kịp thời, vẫn còn tình trạng buông lỏng, thiếu quan tâm

chỉ đạo kiểm tra. Một số công chức chƣa thƣờng xuyên rèn luyện phẩm chất

đạo đức và tinh thần trách nhiệm trong công việc, chƣa có ý thức thƣợng tôn

pháp luật, tôn trọng công vụ và chƣa coi việc học tập, nâng cao trình độ

chuyên môn, nghiệp vụ là nghĩa vụ bắt buộc nên dẫn tới các hành vi làm trái

pháp luật trong CQHCNN còn xảy ra.

Mặc dù số lƣợng công chức chuyên trách làm công tác hộ tịch ở quận

đã đƣợc quan tâm, tăng cƣờng nhƣng vẫn còn chƣa đáp ứng đƣợc so với yêu

cầu của thực tiễn của Quận. Đồng thời, chất lƣợng đội ngũ công chức hộ tịch

chƣa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ, nhiều ngƣời có trình độ còn hạn chế cả về

năng lực chuyên môn lẫn trình độ về tin học, ngoại ngữ. Những hạn chế này

đã làm cho việc thực hiện pháp luật quản lý về hộ tịch có lúc, có nơi chƣa

đƣợc thực hiện tốt trên thực tế. Hạn chế tồn tại này càng bộc lộ rõ trong bối

cảnh Luật Hộ tịch 2014 mới có hiệu lực.

Hai là, công tác giám sát, thanh tra, xử lý vi phạm trong quá trình thực

hiện pháp luật quản lý về hộ tịch còn chƣa đạt đƣợc yêu cầu đặt ra. Công tác

giám sát pháp luật quản lý về hộ tịch trên địa bàn quận Hai Bà Trƣng, thành

phố Hà Nội còn chƣa đƣợc tiến hành nhất quán, chƣa có cơ chế hoàn thiện để

58

huy động sức mạnh của toàn xã hội vào hoạt động này. Công tác thanh tra

mặc dù đã đƣợc thực hiện thƣờng xuyên nhƣng vẫn còn những biểu hiện nể

nang, thiếu kiên quyết. Ở Bộ Tƣ pháp, Sở Tƣ pháp, Phòng Tƣ pháp cấp

Huyện, việc tổ chức thanh tra trực tiếp còn chƣa liên tục, thanh tra chuyên đề

mới chỉ giới hạn ở một số lĩnh vực phòng chống tham nhũng, chống lãng phí,

chƣa tập trung vào các chuyên đề về thanh tra công vụ, thanh tra về đăng ký

hộ tịch.

Việc xử lý vi phạm trong pháp luật quản lý về hộ tịch có lúc, có nơi còn

chƣa triệt để, nhất là các hành vi trái pháp luật liên quan tới công chức có

chức vụ trong CQHCNN. Với loại đối tƣợng này, việc xử lý vi phạm có biểu

hiện nƣơng nhẹ, chủ yếu là xử lý nội bộ, chƣa phát huy đƣợc tác dụng giáo

dục răn đe và phòng ngừa công chức CQHCNN có hành vi trái pháp luật.

Ở một số CQHCNN, công chức có hành vi trái pháp luật còn chậm bị

phát hiện, các vi phạm pháp luật quản lý về hộ tịch trong đội ngũ công chức

CQHCNN chƣa đƣợc tổng kết, báo cáo đầy đủ. Trong xử lý hành vi trái pháp

luật của công chức CQHCNN vẫn còn có biểu hiện không công bằng, gây bất

bình trong dƣ luận xã hội, làm hạn chế hiệu quả thực hiện pháp luật quản lý

về hộ tịch trên địa bàn quận Hai Bà Trƣng, thành phố Hà Nội.

Tóm lại, các nguyên nhân khách quan, chủ quan nêu trên đƣợc thể hiện

trên nhiều phƣơng diện đã trực tiếp hoặc gián tiếp dẫn tới những hạn chế của

thực trạng. Việc làm rõ các nguyên nhân này là rất quan trọng để tìm ra các

giải pháp phù hợp nhằm bảo đảm cho pháp luật quản lý về hộ tịch trên địa bàn

quận Hai Bà Trƣng nói riêng, trong cả nƣớc nói chung.

Tiểu kết Chƣơng 2

Pháp luật quản lý về hộ tịch ở Việt Nam đƣợc ra đời từ rất sớm, trải qua

thời gian dài phát triển với ba giai đoạn chính pháp luật quản lý về hộ tịch đã

tịnh tiến đến sự hoàn thiện, đáp ứng yêu cầu của thực tiễn khách quan. Hiến

59

pháp năm 2013 ra đời với nhiều quy định mới đề cao quyền con ngƣời,

quyền, nghĩa vụ cơ bản của công dân, đồng thời tạo sự chuyển biến mạnh mẽ

công tác quản lý hộ tịch theo hƣớng từng bƣớc chuyên nghiệp, phù hợp với

yêu cầu phát triển đất nƣớc trong thời kỳ mới, việc ban hành Luật hộ tịch năm

2014 đánh dấu bƣớc phát triển vƣợt bậc của pháp luật quản lý về hộ tịch.

Quận Hai Bà Trƣng, thành phố Hà Nội là một Quận nội thành với mật

độ dân cƣ đông đúc nên việc quản lý về hộ tịch trên địa bàn có những đặc thù

riêng. Thời gian qua đƣợc sự quan tâm chỉ đạo và tạo điều kiện của Quận ủy -

HĐND - UBND quận về pháp luật quản lý về hộ tịch trên địa bàn quận Hai

Bà Trƣng, thành phố Hà Nội đã đạt những thành tựu nhất định về công tác

đăng ký hộ tịch; về tuyên truyền phổ biến pháp luật quản lý về hộ tịch; về

thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm pháp luật về

hộ tịch. Tuy nhiên, bên cạnh đó pháp luật quản lý về hộ tịch trên địa bàn quận

Hai Bà Trƣng, thành phố Hà Nội vẫn còn những hạn chế nhất định do nhiều

nguyên nhân khác nhau.

Để khắc phục những hạn chế đó, các cơ quan có thẩm quyền cần có

những giải pháp hữu hiệu để bảo đảm pháp luật quản lý về hộ tịch trên địa

bàn quậnHai Bà Trƣng, thành phố Hà Nội trong thời gian tới.

60

CHƢƠNG 3

QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM THỰC HIỆN PHÁP LUẬT

QUẢN LÝ VỀ HỘ TỊCH TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN HAI BÀ TRƢNG,

THÀNH PHỐ HÀ NỘI

3.1. Quan điểm bảo đảm thực hiện pháp luật quản lý về hộ tịch trên địa bàn

quận Hai Bà Trƣng, thành phố Hà Nội

Sau thời gian dài đổi mới, hiện nay đất nƣớc ta đang bƣớc vào một giai

đoạn phát triển với những tiềm năng, sức sống đầy triển vọng trên mọi mặt

kinh tế, xã hội. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI đã khẳng định tiếp tục đẩy

mạnh đổi mới toàn diện, đồng bộ và triệt để là sự lựa chọn đúng đắn duy nhất

cho tƣơng lai của Việt Nam. Trong bối cảnh chung ấy, việc xác định quan điểm

và những giải pháp cụ thể nhằm hiện thực hóa các quy định pháp luật về quản

lý hộ tịch nhằm đáp ứng yêu cầu thực tiễn của công cuộc đẩy mạnh công

nghiệp hoá, hiện đại hoá phải đƣợc đặt trên nền tảng hệ thống quan điểm của

Đảng và Nhà nƣớc ta về tƣ duy đổi mới và phát triển trong giai đoạn hiện nay.

Việc đổi mới quản lý hộ tịch cần quán triệt sâu sắc quan điểm “phát huy yếu tố

con người và lấy việc phục vụ con người làm mục đích cao nhất của mọi hoạt

động, coi nguồn lực con người là quý báu nhất, có vai trò quyết định đối với sự

phát triển nhanh và bền vững”.

Trong giai đoạn phát triển mới của đất nƣớc, công tác quản lý hộ tịch

phải đƣợc phát huy hiệu quả tƣơng xứng với vị trí, vai trò quan trọng của nó

trong hoạt động quản lý con ngƣời. Để làm đƣợc điều đó, pháp luật quản lý về

hộ tịch cần phải đƣợc thực hiện một cách nghiêm túc và triệt để trên nền tảng

những quan điểm chỉ đạo sau:

61

3.1.1. Thực hiện pháp luật quản lý về hộ tịch phải quán triệt các quan điểm

của Đảng, Nhà nước Việt Nam về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội

chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân

Lịch sử hình thành và phát triển chế độ Nhà nƣớc gắn liền với sự kiếm

tìm những thƣớc đo tối ƣu tạo mối liên hệ giữa quyền lực với cá nhân. Mối

liên hệ đó luôn luôn là vấn đề cốt tử, vấn đề quyết định trong mọi hình thái

Nhà nƣớc. Trong thời kỳ sơ khai của chế độ Nhà nƣớc, phụ thuộc vào nguồn

gốc xuất thân, con ngƣời hoặc là nhận đƣợc khả năng tác động lên quyền lực,

hoặc là trở thành cá thể không có quyền gì mà chỉ mang gánh nặng nghĩa vụ.

Sựbất bình đẳng về mặt pháp lý của cá nhân là sự biểu hiện hạn chế tự do, sự

thiếu vắng dân chủ và cuối cùng là chế độ Nhà nƣớc lạc hậu, trình độ văn hoá

xã hội thấp kém. Sự thiết lập bình đẳng pháp lý về hình thức là bƣớc ngoặt

lịch sử quan trọng tiến tới tự do, tôn trọng quyền con ngƣời, mở ra thời đại

mới của sự phát triển chế độ Nhà nƣớc - Nhà nƣớc pháp quyền

Sợi chỉ đỏ xuyên suốt tƣ tƣởng về nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ

nghĩa của dân, do dân, vì dân cũng nhƣ mục tiêu cao nhất về tổ chức và hoạt

động của Nhà nƣớc ta hiện nay là tất cả vì con ngƣời, cho con ngƣời, đề cao

quan điểm coi con ngƣời vừa là động lực, vừa là mục tiêu của sự nghiệp xây

dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ tổ quốc, quan hệ giữa nhà nƣớc với công dân

là quan hệ bình đẳng về quyền và nghĩa vụ và về trách nhiệm pháp lý khi vi

phạm quyền và lợi ích hợp pháp của nhau. Trong bất kỳ xã hội nào cũng cần

phải tìm cho đƣợc một sự kết hợp cần thiết giữa các loại lợi ích xã hội. Ở

quốc gia nào thì pháp luật cũng luôn là đại lƣợng chung nhất, có tính bắt buộc

chung cho cả xã hội.

Một trong những đặc trƣng, thuộc tính cơ bản của Nhà nƣớc pháp

quyền là sự thƣợng tôn pháp luật, và pháp luật đó có mục tiêu bảo vệ quyền

và lợi ích của con ngƣời. Trong Nhà nƣớc pháp quyền, giữa Nhà nƣớc và cá

62

nhân có mối quan hệ gắn bó tƣơng hỗ. Nhà nƣớc có nghĩa vụ bảo đảm các

quyền và tự do của cá nhân, đồng thời cá nhân phải thực hiện nghĩa vụ của

mình đối với Nhà nƣớc, với xã hội và với các cá nhân khác. Cá nhân và

những quyền nhân thân của họ là những đối tƣợng thiêng liêng, bất khả xâm

phạm và phải đƣợc bảo vệ trƣớc mọi xâm hại.

Quản lý xã hội bằng pháp luật là yêu cầu tất yếu khách quan trong điều

kiện xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền XHCN ở nƣớc ta hiện nay. Nâng cao

dân trí, hiểu biết pháp luật và hành vi xử sự theo pháp luật của các đối tƣợng

trong xã hội là yêu cầu quan trọng của Nhà nƣớc. Yêu cầu xây dựng Nhà

nƣớc pháp quyền XHCN và hội nhập quốc tế đòi hỏi việc thực hiện pháp luật

quản lý về hộ tịch phải đƣợc tăng cƣờng thƣờng xuyên, liên tục và ở tầm cao

hơn, cần thiết phải đƣợc tiến hành toàn diện đối với mọi đối tƣợng trong xã

hội nhằm xây dựng môi trƣờng trong đó mọi ngƣời đều hiểu biết và tôn trọng,

thực hiện đúng quy định của pháp luật.

Muốn hệ thống pháp luật hoàn thiện và có hiệu lực trên thực tế, tạo lập

mối quan hệ hài hoà giữa Nhà nƣớc và công dân, các quyền tự do, dân chủ

đƣợc bảo đảm, bộ máy nhà nƣớc đƣợc tổ chức và vận hành một cách có hiệu

quả, thì điều kiện tiên quyết là phải có sự hiện diện của pháp luật ở mọi nơi,

văn hoá pháp lý của đội ngũ công chức và nhân dân phải cao. Tuy nhiên, đây

là một vấn đề hết sức phức tạp, để đáp ứng đƣợc các điều kiện xây dựng Nhà

nƣớc pháp quyền XHCN Việt Nam, thì pháp luật về quản lý hộ tịch phải

không ngừng đƣợc hoàn thiện, không ngừng đƣợc đổi mới. Với mục tiêu đó,

yêu cầu chung đặt ra đối với việc thực hiện pháp luật quản lý về hộ tịch trong

thời gian tới phải đƣợc tiến hành thƣờng xuyên, liên tục và kịp thời, đầy đủ

những nội dung pháp luật về quản lý hộ tịch có liên quan; chú trọng xây dựng

các quy định pháp luật cụ thể để nâng cao tính hƣớng dẫn thực hiện. Đồng

thời, việc thực hiện pháp luật quản lý về hộ tịch phải đáp ứng yêu cầu hội

63

nhập quốc tế, thể hiện sự tôn trọng và quyết tâm thực hiện các cam kết quốc

tế Việt Nam đã ký kết khi gia nhập WTO trong việc công khai, minh bạch các

chủ trƣơng, chính sách của Nhà nƣớc để các CQHCNN, các tổ chức, cá nhân

đều có quyền và đƣợc tạo điều kiện thuận lợi trong việc tiếp cận thông tin về

chính sách, pháp luật.

3.1.2. Thực hiện pháp luật quản lý về hộ tịch phải đề cao quyền con người,

quyền, nghĩa vụ cơ bản của công dân

Xã hội văn minh ngày càng đề cao con ngƣời - bao gồm cả quyền chính

trị, quyền dân sự và quyền xã hội - nhƣ là trung tâm, động lực và mục tiêu của

phát triển. Vì vậy, quyền con ngƣời, quyền công dân, là vấn đề quan trọng, là

nội dung cơ bản của bất kỳ một bản Hiến pháp nào trên thế giới.

Ở nƣớc ta, Hiến pháp 2013 ra đời đã phản ánh đƣợc ý chí, nguyện vọng

của đông đảo các tầng lớp nhân dân; thể hiện rõ và đầy đủ hơn bản chất dân

chủ, tiến bộ của Nhà nƣớc và chế độ trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã

hội. Đã thể chế hóa đầy đủ hơn, sâu sắc hơn quan điểm của Đảng và Nhà

nƣớc về đề cao chủ quyền nhân dân, phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa và

đảm bảo tất cả quyền lực Nhà nƣớc thuộc về nhân dân. Mặt khác, đề cao nhân

tố con ngƣời, coi con ngƣời là chủ thể, nguồn lực chủ yếu và là mục tiêu của

sự phát triển.

Quyền con ngƣời, quyền công dân là giá trị cốt lõi của nhân loại, phải

đƣợc bảo đảm ngày một tốt hơn, đây là tiêu chí cho cuộc chạy đua của tất cả

các dân tộc, các chế độ xã hội. Và mục đích tối thƣợng của Hiến pháp là đƣợc

sinh ra để đảm bảo quyền con ngƣời, quyền công dân. Hiến định quyền con

ngƣời trong Hiến pháp 2013 là sự tiếp nối logic và tạo nền tảng pháp lý cao

nhất để bảo đảm quyền con ngƣời đƣợc hiện thực hóa đầy đủ trong thực tiễn

nhƣ là nội dung, mục tiêu và động lực mới cho phát triển. Một điểm rất mới

trong Hiến pháp 2013 là đã không còn các quy định theo cách thức đƣợc Nhà

64

nƣớc thừa nhận các quyền con ngƣời, mà quyền con ngƣời ở đây đƣợc hƣởng

một cách mặc nhiên và Nhà nƣớc phải có trách nhiệm đảm bảo cũng nhƣ phải

bảo vệ cho những quyền đó đƣợc thực hiện trên thực tế.

Luật Hộ tịch là đạo luật quan trọng liên quan đến việc bảo đảm thực

hiện quyền con ngƣời, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân đã đƣợc ghi

nhận trong Hiến pháp năm 2013. Đây là lần đầu tiên Việt Nam có văn bản ở

tầm Luật để điều chỉnh riêng về lĩnh vực hộ tịch, sau nhiều năm điều chỉnh

bằng các Nghị định của Chính phủ. So với quy định pháp luật hộ tịch hiện

hành, Luật hộ tịch có nhiều nội dung mới mang tính đột phá, cải cách mạnh

mẽ công tác đăng ký, quản lý hộ tịch nói riêng và quản lý dân cƣ nói chung.

có thể coi đây là cuộc “cách mạng” trong công tác đăng ký, quản lý hộ tịch

nói riêng và quản lý dân cƣ nói chung, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ công tác

này theo hƣớng từng bƣớc chuyên nghiệp, phù hợp với yêu cầu phát triển đất

nƣớc trong thời kỳ mới.

Pháp luật quản lý về hộ tịch ở nƣớc ta hiện nay đã mở rộng dân chủ và

tính công khai trong hoạt động quản lý nhà nƣớc về hộ tịch. Loại bỏ những

thủ tục hành chính gây phiền hà cho ngƣời dân, đoạn tuyệt triệt để với những

tàn dƣ của căn bệnh quan liêu, cửa quyền trong giải quyết các vấn đề hộ

tịch của ngƣời dân; xây dựng các thủ tục hành chính mới theo hƣớng công

khai, đơn giản và thuận tiện cho dân.Thực hiện pháp luật quản lý về hộ tịch

còn có ý nghĩa nhân văn sâu sắc ở chỗ, nó tạo cho mọi ngƣời dân những cơ

hội ngang nhau trong việc thụ hƣởng tốt nhất dịch vụ đăng ký hộ tịch trong

một nền hành chính phục vụ.

Pháp luật quản lý về hộ tịch không chỉ thiết lập các nguyên tắc cơ bản

của hoạt động quản lý hộ tịch mà còn ấn định những cách thức, thủ tục để các

cơ quan hành chính phục vụ quyền đăng ký hộ tịch của ngƣời dân, sẽ là biểu

hiện cao độ của việc chăm lo chu đáo đến quyền lợi của ngƣời dân, sẽ loại trừ

65

đƣợc những nhũng nhiễu mang tính ban phát, tiêu cực trong đăng ký hộ tịch

hiện nay.

3.1.3. Thực hiện pháp luật quản lý về hộ tịch phải bảo đảm phù hợp với các

quy định pháp luật có liên quan

Quản lý hộ tịch là chức năng quan trọng của Nhà nƣớc và đƣợc thực

hiện bởi nhiều cơ quan khác nhau. Thông qua hoạt động quản lý hộ tịch có

thể đánh giá việc thực hiện chức năng xã hội và bản chất dân chủ của nhà

nƣớc. Hộ tịch là những sự kiện cơ bản xác định tình trạng nhân thân của một

ngƣời từ khi sinh ra đến khi chết. Vì vậy, công tác quản lý về hộ khẩu, hộ tịch

có mối quan hệ mật thiết với quản lý nhà nƣớc thuộc các lĩnh vực của các

ngành khác nhƣ: quản lý CMND, quản lý DS-KHHGĐ, các văn bằng, chứng

chỉ, hồ sơ CBCC và BHXH... Thực hiện tốt công tác đăng ký và quản lý hộ tịch

giúp xác định các thông tin về nhân thân của một con ngƣời; đồng thời giúp

cho cơ quan chức năng phòng ngừa, ngăn chặn, xử lý kịp thời những cá nhân

cố tình chỉnh sửa các giấy tờ hộ khẩu, hộ tịch để trốn tránh nghĩa vụ hoặc trốn

tránh xử lý của pháp luật...

Những vấn đề về hộ tịch đƣợc xếp vào các lĩnh vực khác nhau, cái thì

thuộc nhóm lĩnh vực về quyền con ngƣời, cái thì thuộc lĩnh vực xã hội, cái thì

thuộc lĩnh vực an ninh-quốc phòng. Do cách sắp xếp nhƣ vậy nên Chính phủ

cũng phân công các cơ quan khác nhau chủ trì xây dựng dự án: Bộ Tƣ pháp,

Bộ Công an, Bộ Y tế, đồng thời UBTVQH cũng phân công các cơ quan chủ

trì thẩm tra khác nhau: Ủy ban Pháp luật, Ủy ban Quốc phòng - an ninh, Ủy

ban về các vấn đề xã hội.

Hiện nay, việc thực hiện pháp luật quản lý về hộ tịch đặt trong mối

quan hệ mật thiết với nhiều văn bản pháp luật khác nhau đòi hỏi sự đồng bộ,

thống nhất cao. Có thể kể đến đó là: Hiến pháp năm 2013, Luật Quốc tịch,

66

Luật Nuôi con nuôi, Luật hôn nhân và gia đình, Bộ Luật Dân sự, Luật Căn

cƣớc công dân,Luật Dân số.

3.2. Giải pháp chung bảo đảm thực hiện pháp luật quản lý về hộ tịch

3.2.1. Rà soát, sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới các văn bản pháp luật

phù hợp với Luật Hộ tịch và các văn bản hướng dẫn thi hành

Sự ra đời của Luật Hộ tịch 2014 đánh dấu bƣớc phát triển mới trong

lịch sử phát triển của pháp luật quản lý về hộ tịch ở nƣớc ta. Đến nay, để pháp

luật quản lý về hộ tịch thực sự đi vào thực tiễn cuộc sống thì các cơ quan chức

năng cần khẩn trƣơng hoàn thành việc ban hành các văn bản hƣớng dẫn thi

hành Luật Hộ tịch.

Theo Kế hoạch triển khai thi hành Luật Hộ tịch 2014 đến ngày

1/1/2016 khi Luật Hộ tịch có hiệu lực các Bộ, ngành trình Chính phủ ban

hành 3 Nghị định và ban hành theo thẩm quyền 2 Thông tƣ, 1 Thông tƣ liên

tịch. Nhƣng cho đến nay chúng ta mới chỉ ban hành đƣợc 1 Nghị định và 1

Thông tƣ, đó là: Nghị định quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành

Luật hộ tịch. Thông tƣ quy định chi tiết một số điều của Nghị định quy định

chi tiết và biện pháp thi hành Luật hộ tịch; ban hành, hƣớng dẫn sử dụng,

quản lý Sổ hộ tịch, Giấy khai sinh, Giấy chứng nhận kết hôn, trích lục hộ tịch

và các biểu mẫu hộ tịch khác; điều kiện, trình tự đăng ký khai sinh, kết hôn,

khai tử lƣu động; ủy quyền thực hiện đăng ký hộ tịch.

Chúng ta vẫn còn thiếu Nghị định quy định về thủ tục cấp Số định danh cá

nhân cho trẻ em khi đăng ký khai sinh; việc kết nối, cung cấp, trao đổi thông tin

giữa Cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử và Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cƣ.

Tại Điều 14 Luật Hộ tịch quy định “Chính phủ quy định việc cấp Số

định danh cá nhân cho người được đăng ký khai sinh”. Tại Điều 12 Luật căn

cƣớc công dân quy định “Số định danh cá nhân do Bộ Công an thống nhất

quản lý trên toàn quốc và cấp cho mỗi công dân Việt Nam”, “Chính phủ quy

67

định cấu trúc số định danh cá nhân; trình tự, thủ tục cấp số định danh cá

nhân”. Để bảo đảm thực hiện thống nhất Luật hộ tịch và Luật căn cƣớc công

dân trong việc cấp Số định danh cá nhân, Kế hoạch giao Bộ Công an chủ trì,

phối hợp với Bộ Tƣ pháp và các Bộ, ngành có liên quan xây dựng trình Chính

phủ ban hành Nghị định trong đó có nội dung quy định về thủ tục cấp Số định

danh cá nhân cho trẻ em khi đăng ký khai sinh; việc kết nối, cung cấp, trao

đổi thông tin giữa Cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử và Cơ sở dữ liệu quốc gia về

dân cƣ. Và Nghị định quy định việc quản lý, sử dụng Cơ sở dữ liệu hộ tịch

điện tử và đăng ký hộ tịch trực tuyến.

Để thực hiện Khoản 2 Điều 59 Luật Hộ tịch “Chính phủ quy định sự

phối hợp giữa các Bộ, cơ quan ngang Bộ và trách nhiệm của Ủy ban nhân

dân các cấp trong việc quản lý, sử dụng Cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử”, Kế

hoạch giao Bộ Tƣ pháp chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành, cơ quan xây

dựng trình Chính phủ ban hành Nghị định quy định về việc quản lý, sử dụng

Cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử; thủ tục đăng ký hộ tịch trực tuyến, cũng nhƣ sự

phối hợp giữa các Bộ, cơ quan ngang Bộ và trách nhiệm của Ủy ban nhân dân

các cấp trong việc quản lý, sử dụng Cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử.

Bên cạnh đó, để thực hiện Khoản 2 Điều 11 của Luật hộ tịch, Kế hoạch

giao Bộ Tài chính ban hành Thông tƣ quy định chi tiết thẩm quyền thu, mức

thu, nộp, chế độ quản lý và sử dụng lệ phí hộ tịch; thời gian ban hành trƣớc

tháng 10/2015.

Để thực hiện Khoản 2 Điều 53 của Luật hộ tịch, Kế hoạch giao Bộ

Ngoại giao chủ trì phối hợp với Bộ Tƣ pháp và các Bộ, ngành liên quan xây

dựng Thông tƣ liên tịch giữa Bộ Ngoại giao và Bộ Tƣ pháp quy định chi tiết,

hƣớng dẫn về thẩm quyền, thủ tục đăng ký hộ tịch của Cơ quan đại diện, cấp

bản sao trích lục hộ tịch cho công dân Việt Nam cƣ trú ở nƣớc ngoài; thời

gian ban hành trƣớc tháng 10 năm 2015.

68

Tổ chức rà soát các văn bản pháp luật hiện hành liên quan đến Luật Hộ

tịch, trên cơ sở đó đề xuất sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới để bảo đảm thi

hành hiệu quả Luật Hộ tịch.

Về thủ tục đăng ký hộ tịch: Theo quy định tại Luật Hộ tịch năm 2014,

thủ tục đăng ký hộ tịch đƣợc đơn giản, tạo nhiều thuận lợi cho ngƣời dân nhƣ:

Giảm nhiều giấy tờ không cần thiết, tăng cƣờng xuất trình bản chính

giấy tờ, hạn chế tối đa việc sao chụp, đặc biệt quy định chỉ cấp 02 loại bản

chính Giấy khai sinh và Giấy chứng nhận kết hôn, còn các sự kiện hộ tịch

khác sau khi hoàn tất thủ tục đăng ký, ngƣời yêu cầu đăng ký hộ tịch đƣợc

cấp trích lục hộ tịch tƣơng ứng với từng sự kiện hộ tịch đã đăng ký, bản chính

trích lục hộ tịch đƣợc chứng thực bản sao.

Giảm thời hạn giải quyết đối với hầu hết các việc hộ tịch, những việc

hộ tịch đơn giản, Luật quy định đƣợc giải quyết ngay trong ngày, trƣờng hợp

nhận hồ sơ sau 15 giờ mà không giải quyết đƣợc ngay thì trả kết quả trong

ngày làm việc tiếp theo.

Ngƣời dân có thể lựa chọn cơ quan đăng ký hộ tịch mà không phụ

thuộc vào nơi cƣ trú nhƣ trƣớc đây: Có thể lựa chọn đăng ký hộ tịch tại cơ

quan đăng ký hộ tịch nơi thƣờng trú, tạm trú hoặc nơi đang sinh sống, không

nhất thiết phải theo thứ tự ƣu tiên nơi đăng ký thƣờng trú. Bên cạnh đó, Luật

cũng cho phép đƣợc lựa chọn đăng ký khai sinh tại Ủy ban nhân dân nơi cƣ

trú của cha hoặc mẹ thay vì quy định ƣu tiên nơi cƣ trú của mẹ nhƣ trƣớc.

Việc nộp hồ sơ đăng ký hộ tịch có thể lựa chọn nộp trực tiếp cho cơ

quan đăng ký hộ tịch hoặc gửi qua bƣu chính hoặc qua hệ thống đăng ký trực

tuyến. Khi Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cƣ và Cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử

đƣợc hoàn thành và liên thông với nhau thì việc giải quyết các vấn đề hộ tịch

qua hệ thống đăng ký hộ tịch trực tuyến sẽ bảo đảm nhanh chóng, gọn nhẹ và

giảm thiểu chi phí, thời gian trong thực hiện thủ tục hành chính về hộ tịch

69

Tuy nhiên, những quy định của Luật Hộ tịch năm 2014 về thủ tục đăng

ký hộ tịch cũng sẽ nảy sinh một số vấn đề:

Việc quy định đƣợc lựa chọn nơi đăng ký hộ tịch tạo ra áp lực không

nhỏ đối với cơ quan hộ tịch ở những địa phƣơng mà có nhiều ngƣời tạm trú,

ngƣời đang sinh sống không có hộ khẩu thƣờng trú. Đây là điều mà Ủy ban

nhân dân cấp xã nhiều địa phƣơng đang rất lo lắng. Theo đó, không những

lƣợng công việc sẽ tăng lên đáng kể, mà độ phức tạp của công việc cũng vì

thế mà tăng theo. Những ngƣời không có hộ khẩu thƣờng trú sẽ dễ thƣờng

xuyên biến động, gây khó khăn cho công tác quản lý cũng nhƣ thực hiện việc

đăng ký hộ tịch.

Với tình trạng cán bộ và lƣợng công việc nhƣ hiện nay, thì quy định

giảm thời hạn giải quyết đăng ký hộ tịch sẽ khó tránh khỏi việc trễ hẹn, tạo sự

bức xúc cho ngƣời dân. Quy định rút ngắn thời hạn là quy định tích cực,

mang tính cải cách thủ tục hành chính, tạo thuận lợi cho ngƣời dân, nhƣng

cùng với đó thì chúng ta cũng cần phải giải quyết phù hợp về số lƣợng, về

khoản bồi dƣỡng cho cán bộ để khuyến khích họ tâm huyết, nhiệt tình giải

quyết tốt công việc.

Thói quen của ngƣời đi đăng ký khai sinh thƣờng là đồng thời đăng ký

hộ khẩu thƣờng trú tại nơi đó, nên khi quy định về việc đƣợc đăng ký khai

sinh tại cơ quan đăng ký nơi tạm trú, nơi đang sinh sống thì nhiều khi ngƣời

dân chỉ thực hiện đăng ký khai sinh mà quên làm thêm thủ tục về nơi đăng ký

hộ khẩu thƣờng trú.

Việc quy định yêu cầu ngƣời đi đăng ký hộ tịch ký tên vào Sổ hộ tịch

trong trƣờng hợp nộp hồ sơ qua bƣu chính, hệ thống trực tuyến mà không trực

tiếp đi đăng ký cũng gây lúng túng cho cơ quan, cán bộ hộ tịch nếu không có

hƣớng dẫn cụ thể.

70

Những khó khăn trên đòi hỏi cán bộ hộ tịch phải rất linh hoạt, có trách nhiệm

thì mới có thể giải quyết những tốt việc hộ tịch, tạo thuận lợi cho ngƣời dân.

3.2.2. Tổ chức tuyên truyền, phổ biến, quán triệt Luật Hộ tịch và các văn

bản hướng dẫn thi hành với nội dung và hình thức phù hợp, nâng cao

nhận thức, hiểu biết của nhân dân

Công tác đăng ký và quản lý hộ khẩu, hộ tịch không những liên quan

đến nhân thân của con ngƣời mà còn liên quan đến chế độ chính trị, kinh tế,

văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân,

cơ cấu, nguyên tắc tổ chức và hoạt động của cơ quan Nhà nƣớc, thể chế hóa

mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, nhân dân làm chủ, Nhà nƣớc quản lý.

Để Luật Hộ tịch và các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan sau

khi có hiệu lực đƣợc đi vào thực tiễn cuộc sống, cả hệ thống chính trị nói

chung và với vai trò là cơ quan Thƣờng trực Hội đồng Phối hợp phổ biến,

giáo dục pháp luật của tỉnh; các cơ quan Tƣ pháp từ cấp tỉnh đến cơ sở phải

chủ động tham mƣu cho cấp ủy, chính quyền cùng cấp tập trung chỉ đạo kịp

thời công tác này trên địa bàn tỉnh, với nhiều hình thức tuyên truyền phong

phú, đa dạng, gắn kết với việc tuyên truyền các chủ trƣơng, chính sách của

Đảng, Nhà nƣớc, các nhiệm vụ kinh tế - xã hội đến nhân dân, góp phần nâng

cao nhận thức pháp luật, duy trì trật tự, an toàn xã hội, tạo môi trƣờng ổn định

cho phát triển kinh tế - xã hội;

Phƣơng châm của các cơ quan có thẩm quyền thực hiện công tác quản

lý hộ khẩu, hộ tịch của Nhà nƣớc là phải thuận tiện, dễ dàng cho nhân dân,

đồng thời phải đảm bảo việc đăng ký đầy đủ, chính xác, kịp thời và đúng quy

định của pháp luật. Do đó để làm tốt cộng tác này, các cơ quan có thẩm quyền

phải làm tốt công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật về hộ khẩu, hộ tịch cho

nhân dân, giúp mọi ngƣời hiểu rõ việc đăng ký hộ khẩu, hộ tịch là chấp hành

pháp luật Nhà nƣớc, đồng thời cũng bảo đảm quyền lợi công dân.

71

Các hình thức, biện pháp tuyên truyền đƣợc vận dụng linh hoạt, sáng

tạo, chú trọng ứng dụng công nghệ hiện đại, sáng kiến hình thức tuyên truyền

mới phù hợp. Tiếp tục sử dụng các hình thức tuyên truyền truyền thống nhƣ

tuyên truyền miệng, tuyên truyền thông qua phƣơng tiện thông tin đại chúng,

thông qua tài liệu tuyên truyền (Đề cƣơng giới thiệu, phổ biến các văn bản

luật, pháp lệnh; Sách hỏi - đáp pháp luật; Tờ rơi, tờ gấp pháp luật; Đặc san

tuyên truyền pháp luật; Các loại băng tiếng, băng hình với các nội dung pháp

luật đơn giản, ngắn gọn và các cuộc nói chuyện về pháp luật …) và khéo léo

kết hợp với các hình thức tuyên truyền khác nhƣ các cuộc thi tìm hiểu pháp

luật, các hình thức thi sân khấu hoá, lồng ghép trong các cuộc giao lƣu văn

hoá, văn nghệ, tƣ vấn pháp luật, trợ giúp pháp lý...

Hệ thống đài phát thanh hầu hết các phƣờng đều có chƣơng trình,

chuyên mục phát thanh pháp luật. Bên cạnh đó, các hội thi "Hoà giải viên

giỏi", "Tuyên truyền viên pháp luật giỏi", "Công chức Tƣ pháp-Hộ tịch

giỏi"…cũng đã đƣợc nhân rộng trên địa bàn Quận. Quận cần có có tủ sách

pháp luật và sự hoạt động có hiệu quả của các câu lạc bộ pháp luật, trợ giúp

pháp lý. Với nhiều hình thức tuyên truyền phong phú nhƣ trên, các địa

phƣơng có thể áp dụng nhiều hình thức để triển khai, phổ biến Luật Hộ tịch

đến tận cơ sở, đáp ứng nhƣ cầu thiết yếu của cuộc sống dân cƣ.

Về phƣơng pháp tuyên truyền, ngoài việc đổi mới nội dung tuyên

truyền phổ biến quy định pháp luật quy định về quyền lợi của ngƣời dân trong

xã hội theo phƣơng châm thiết thực, hƣớng về cơ sở thì cần đổi mới cách thức

tuyên truyền tạo ra sự chuyển biến trong nhận thức của ngƣời dân về việc

đăng ký hộ khẩu, hộ tịch từ đó sẽ nâng cao ý thức tự giác của ngƣời dân chủ

động liên hệ cơ quan có thẩm quyền đăng ký hộ khẩu, hộ tịch. Nếu thực hiện tốt

việc này sẽ giảm áp lực cho cán bộ công chức đồng thời nâng cao hiệu quả quản

lý Nhà nƣớc về công tác hộ khẩu, hộ tịch. Đƣa nội dung hộ khẩu, hộ tịch vào

72

chƣơng trình giáo dục phổ thông cấp 2, 3 nhằm giáo dục ý thức của trẻ em,

thanh thiếu niên trong chấp hành tốt quy định pháp luật vê hộ khẩu, hộ tịch.

Nhận thức đƣợc vị trí và vai trò quan trọng của công tác đăng ký và

quản lý hộ khẩu, hộ tịch mà trong thời gian qua từ khi thực hiện các Luật Hộ

tịch trên địa bàn quận Hai Bà Trƣng đã có nhiều chuyển biến tích cực, các sự

kiện đăng ký hộ khẩu, hộ tịch của nhân dân cơ bản đƣợc thực hiện kịp thời và

đúng quy định của pháp luật; công tác phổ biến giáo dục pháp luật về hộ

khẩu, hộ tịch đƣợc chú trọng triển khai đến tận cơ sở. Nhận thức và ý thức

chấp hành pháp luật về hộ khẩu, hộ tịch của nhân dân đƣợc nâng lên; đội ngủ

cán bộ làm công tác hộ tịch cơ sở đƣợc quan tâm, củng cố về số lƣợng và kỹ

năng thực hiện nghiệp vụ; các loại sổ sách, biễu mẫu hộ tịch đƣợc hỗ trợ và

cung cấp kịp thời đáp ứng yêu cầu quản lý Nhà nƣớc.

3.2.3. Ứng dụng công nghệ thông tin trong đăng ký và quản lý hộ tịch

Việc ứng dụng công nghệ thông tin, sử dụng phần mềm đăng ký hộ tịch

là biện pháp số hóa (điện tử hóa) thông tin hộ tịch của cá nhân, trong đó có

thông tin khai sinh - là thông tin hộ tịch gốc. Theo Đề án 896, Luật Hộ tịch,

Luật Căn cƣớc công dân, đây là thông tin đầu vào của Cơ sở dữ liệu quốc gia

về dân cƣ. Bên cạnh đó, những thông tin hộ tịch khác về kết hôn, ly hôn, thay

đổi cải chính hộ tịch, xác định lại dân tộc, xác định lại giới tính, khai tử...

đƣợc cập nhật vào hệ thống dữ liệu, đƣợc coi là thông tin “động”, có giá trị

làm cho Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cƣ luôn sống. Vì vậy, việc xây dựng

Cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử toàn quốc-cơ sở trung tâm để kết nối, tiếp nhận,

liên thông với toàn bộ cơ sở hộ tịch điện tử từ các địa phƣơng trên cả nƣớc -

nhằm lƣu giữ tập trung, kết nối, chia sẻ và cung cấp thông tin cho Cơ sở dữ

liệu quốc gia về dân cƣ, là yêu cầu cốt lõi, là điều kiện không thể thiếu mà bất

cứ phần mềm đăng ký hộ tịch nào cũng phải đáp ứng đƣợc.

73

3.2.4. Kiện toàn đội ngũ công chức làm công tác Hộ tịch bảo đảm đủ tiêu

chuẩn được quy định trong Luật Hộ tịch

Khi triển khai thi hành Luật Hộ tịch năm 2014, công tác cán bộ là vấn

đề đặc biệt quan trọng, ở chừng mực nào đó đƣợc coi là vấn đề mấu chốt ảnh

hƣởng tới hiệu quả của việc triển khai, thực hiện.

Luật Hộ tịch quy định theo hƣớng tạo nhiều điều kiện thuận lợi cho

ngƣời dân nhƣng song song với đó thì nó cũng sẽ tạo ra những áp lực cho các

cơ quan, cán bộ thực hiện công tác hộ tịch. Do việc tiếp nhận thêm nhiều việc,

cũng nhƣ những quy định về tạo điều kiện cho ngƣời dân đƣợc lựa chọn cơ

quan đăng ký hộ tịch, thời hạn giải quyết rút ngắn… nên không thể tránh khỏi

yêu cầu về tăng cƣờng số lƣợng công chức Tƣ pháp - Hộ tịch. Tuy nhiên, theo

điều kiện cần phải tinh giản biên chế nhƣ hiện nay, việc bổ sung thêm biên

chế là rất khó khăn. Trong khi công chức Tƣ pháp - Hộ tich ngoài thực hiện

công tác tƣ pháp, có khi còn phải kiêm nhiệm thêm nhiều công việc khác nữa.

Điều này dễ dẫn đến tình trạng quá tải trong công việc gây ảnh hƣởng đến

tiến độ, chất lƣợng của công việc và cũng sẽ cản trở việc học tập, trau dồi

nâng cao kiến thức của các cán bộ.

Theo thống kê cho thấy cả nƣớc hiện có 3.150 công chức làm công tác

Hộ tịch tại Phòng Tƣ pháp của 704 đơn vị cấp huyện trên cả nƣớc (trung bình

4,47 ngƣời/1 Phòng TP). Tuy nhiên, xuất phát từ sự phân bố dân cƣ, nhu cầu

công việc và tình hình cụ thể tại mỗi địa phƣơng nên sự phân bổ biên chế tại

các Phòng Tƣ.

Về chất lƣợng, công chức Tƣ pháp - Hộ tịch cần đƣợc chuẩn hóa theo

quy định tại Điều 72 Luật Hộ tịch năm 2014. Theo đó, công chức Tƣ pháp -

Hộ tịch cấp xã phải có có trình độ từ trung cấp Luật trở lên và đã đƣợc bồi

dƣỡng nghiệp vụ hộ tịch; công chức làm công tác Hộ tịch tại Phòng Tƣ pháp

phải có trình độ cử nhân luật trở lên và đã đƣợc bồi dƣỡng nghiệp vụ Hộ tịch.

74

Đối với một số địa phƣơng, đây không phải là vấn đề lo ngại, bởi hầu hết các

cán bộ đều đạt đƣợc tiêu chuẩn này hoặc tại địa phƣơng đã có trƣờng trung

cấp luật, trƣờng đại học đào tạo ngành luật nên sẽ tạo thuận lợi hơn cho việc

đào tạo, bồi dƣỡng. Tuy nhiên, đối với nhiều địa phƣơng, đặc biệt là vùng

sâu, vùng xa, những nơi trình độ dân trí thấp, kinh tế kém phát triển, những

địa phƣơng nhân lực vốn đã, đang bị quá tải trong công việc thì vấn đề bồi

dƣỡng để chuẩn hóa đội ngũ cán bộ theo quy định của Luật không phải đơn

giản, sẽ khó khăn từ bố trí thời gian, bố trí ngƣời thay thế, kinh phí… hiện có

2.455/3.150 công chức làm công tác Hộ tịch cấp huyện có trình độ đại học

luật trở lên (chiếm tỷ lệ gần 78%). Nhƣ vậy còn tới 700 ngƣời (tức 22%) trên

tổng cán bộ công chức làm công tác Hộ tịch cấp huyện hiện nay chƣa đạt tiêu

chuẩn, trình độ (đại học luật) theo quy định của Luật hộ tịch.

Bên cạnh đó, những nhiệm vụ mới, với những quy định trình tự, thủ tục

thay đổi, với việc ứng dụng công nghệ… cũng đòi hỏi trình độ chuyên môn,

nghiệp vụ của cán bộ. Do đó, cần phải thƣờng xuyên có các lớp bồi dƣỡng, tập

huấn chuyên môn, nghiệp vụ để nâng cao trình độ cho đội ngũ cán bộ này. Cần

nâng cao tính chuyên nghiệp của đội ngũ công chức Tƣ pháp - Hộ tịch bằng việc

tiêu chuẩn hoá cán bộ tƣơng xứng với tính chất công việc, chức năng, nhiệm vụ

mà họ đảm nhiệm cũng nhƣ yêu cầu, đòi hỏi của xu thế phát triển xã hội.

Từ vấn đề bổ sung biên chế, đến bồi dƣỡng nghiệp vụ, chuẩn hóa đội

ngũ cán bộ đều cần phải có sự rà soát kỹ lƣỡng và có kế hoạch thực hiện phù

hợp. Để chuẩn hóa đội ngũ công chức Tƣ pháp - Hộ tịch theo quy định của

Luật Hộ tịch năm 2014, Bộ Tƣ pháp đã phối hợp với Ủy ban nhân dân các

tỉnh, thành phố trực thuộc trung ƣơng rà soát, bồi dƣỡng nghiệp vụ hộ tịch và

kiện toàn đội ngũ này. Dự kiến đến năm 2016 sẽ chuẩn hóa đội ngũ công chức

Tƣ pháp - Hộ tịch và đến trƣớc ngày 01/01/2020 phải hoàn thành việc đào tạo

lại đối với toàn bộ đội ngũ này. Cùng với đó, Bộ Tƣ pháp sẽ chủ trì, phố hợp

75

với Bộ Ngoại giao tổ chức các lớp tập huấn cho viên chức ngoại giao, lãnh sự

đƣợc phân công làm công tác Hộ tịch tại các cơ quan đại diện Việt Nam ở

nƣớc ngoài. Từ ngày 01/01/2016 (ngày Luật Hộ tịch năm 2014 có hiệu lực thi

hành) thì tất cả các địa phƣơng trong cả nƣớc chỉ tuyển dụng mới công chức

làm công tác Hộ tịch đáp ứng đủ tiêu chuẩn theo Luật Hộ tịch năm 2014, đây

là tinh thần chỉ đạo của Thủ tƣớng Chính phủ tại Quyết định số 59/QĐ-TTg

ngày 15/01/2015 ban hành Kế hoạch triển khai thi hành Luật Hộ tịch.

Theo đó phải đặt ra yêu cầu trình độ chuyên môn tối thiểu là trung cấp

luật. Tuy nhiên việc tiêu chuẩn hoá đội ngũ cán bộ Tƣ pháp – Hộ tịch cần có

sự cân nhắc đúng mức các yếu tố đặc thù trong công tác cán bộ của các vùng,

miền, địa phƣơng khác nhau. Theo đó cần có biện pháp quá độ để từng bƣớc

hình thành đội ngũ cán bộ công chức Tƣ pháp – Hộ tịch chuyên trách ở những

địa bàn khó tạo nguồn cán bộ theo đúng tiêu chuẩn nhƣ khu vực miền núi,

vùng sâu, vùng xa. Việc bố trí cán bộ công chức Tƣ pháp – Hộ tịch ở các khu

vực này có thể hạ bớt các tiêu chuẩn về trình độ văn hoá và chuyên môn ở

mức phù hợp nhƣng phải có kế hoạch đào tạo, bồi dƣỡng để sau một thời gian

họ có thể đáp ứng đƣợc yêu cầu chung của ngạch công chức.

3.2.5. Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính trong đăng ký và quản lý hộ tịch

Cải cách thủ tục hành chính là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của

mục tiêu cải cách hành chính nhằm bảo đảm tính pháp lý, hiệu quả, minh

bạch và công bằng trong khi giải quyết các công việc hành chính. Loại bỏ

những thủ tục rƣờm rà, chồng chéo dễ bị lợi dụng để tham nhũng, gây khó

khăn cho dân. Vấn đề cải cách thủ tục hành chính lấy ngƣời dân làm trung

tâm, hình thành một tƣ duy mới về công tác hộ tịch; đảm bảo quyền lợi chính

đáng của ngƣời dân và tháo gỡ những vƣớng mắc mà trƣớc đó chƣa có cơ sở

pháp lý để giải quyết. Bảo đảm thực hiện pháp luật quản lý về hộ tịch không

chỉ đơn thuần là sự ban hành văn bản pháp luật mà là sự quyết tâm đổi mới

76

thực sự nề nếp quản lý hộ tịch cho phù hợp với khuôn khổ của một xã hội

phát triển bằng cách đơn giải hóa quy trình, rút ngắn thời gian giải quyết,

giảm bớt chi phí và phiền hà cho công dân.

Trong thời gian tới việc cải cách thủ tục hành chính trong lĩnh vực Hộ

tịch cần tập trung vào các biện pháp sau:

Một là, tiếp tục thực hiện sự phân cấp quản lý hộ tịch một cách hiệu

quả, hợp lý theo chủ trƣơng cải cách bộ máy hành chính nhà nƣớc. Chính phủ

nên phân cấp toàn diện vai trò, chức năng thống nhất quản lý hộ tịch cho Bộ

Tƣ pháp và xây dựng lộ trình thích hợp đối với việc chuyển giao cho cấp xã

toàn bộ các việc đăng ký hộ tịch với sự chuẩn bị đầy đủ các điều kiện cho

công tác này tại cơ sở.

Hai là, tăng cƣờng tính chủ động và chịu trách nhiệm của cơ quan,

ngƣời có thẩm quyền đăng ký hộ tịch, tạo điều kiện để các chủ thể có thể linh

hoạt vận dụng giải quyết các trƣờng hợp phát sinh trong thực tiễn quản lý hộ

tịch theo nguyên tắc bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tăng

cƣờng hoạt động kiểm tra, giám sát của các cơ quan quản lý cấp trên đối với

cơ quan cấp dƣới.

Ba là, tổng kết việc áp dụng mô hình “một cửa”trong lĩnh vực đăng ký

hộ tịch để xây dựng quy trình chuẩn nhằm nâng cao tính phục vụ cho hoạt

động đăng ký hộ tịch với tính chất là loại hình dịch vụ công, bảo đảm ngƣời

dân đƣợc thuận tiện, nhanh chóng khi thực hiện quyền và nghĩa vụ đăng ký hộ

tịch của mình.

Bốn là, ứng dụng công nghệ thông tin vào quản lý hộ tịch và xây dựng

cơ sở dữ liệu thông tin hộ tịch tại mỗi tỉnh, thành phố và trên toàn quốc; từng

bƣớc nghiên cứu khả năng tích hợp thông tin về hộ khẩu, chứng minh nhân

dân vào hệ thống này.

77

Ứng dụng công nghệ thông tin là giải pháp hỗ trợ rất lớn cho hiệu quả

của việc thực hiện pháp luật về hộ tịch hiện nay, giải phóng thời gian làm việc

thủ công cho công chức hộ tịch các cấp để có thời gian quan tâm, nghiên cứu

nghiệp vụ hộ tịch, thuận tiện và chính xác trong công tác thống kê, khai thác

dữ liệu...

Trong xu hƣớng hiện đại hoá nền hành chính nhà nƣớc ngày nay, cần

tích cực nghiên cứu, ứng dụng công nghệ thông tin và dữ liệu điện tử về hộ

tịch với tính chất là kho dữ liệu chuyên ngành để nâng cao hiệu quả quản lý

nhà nƣớc, từng bƣớc tin học hóa các quy trình phục vụ nhân dân đăng ký hộ

tịch đƣợc thuận tiện, nhanh chóng, chính xác theo kinh nghiệm của các nƣớc

có nền pháp luật phát triển.

Có thể nói, gắn với việc thực hiện quyền công dân, giải pháp tăng

cƣờng cải cách hành chính kết hợp với đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông

tin tiến tới xây dựng cơ sở dữ liệu điện tử về hộ tịch cần đƣợc nghiêm túc

thực hiện, đảm bảo tính nhân văn vốn có của công tác này, tăng chỉ số tin cậy

và mức độ hài lòng của ngƣời dân; tạo môi trƣờng thân thiện cho công dân

khi đến với cơ quan đăng ký hộ tịch không chỉ để đảm bảo các quyền nhân

thân của mình mà còn với một thái độ tích cực, giúp Nhà nƣớc quản lý dân cƣ

tốt hơn.

3.2.6. Tăng cường phối hợp giữa các cơ quan, tổ chức trong pháp luật

quản lý về hộ tịch

Tăng cƣờng sự lãnh đạo của các Cấp ủy, Chính quyền địa phƣơng xác

định đƣợc việc đăng ký quản lý hộ tịch là một nhiệm vụ chính trị, kinh tế, xã

hội cần đƣợc quan tâm chu đáo. Thực tiễn hiện nay cho thấy sự phối hợp giữa

các ngành, các cấp chƣa đồng bộ đã dẫn đến tình trạng cùng một tiêu chí,

nhƣng mỗi ngành có một số liệu thống kê báo cáo khác nhau, điều này đã gây

khó khăn cho Nhà nƣớc trong việc hoạch định chính sách. Cơ chế thông báo

78

những thay đổi liên quan đến hộ tịch của từng cá nhân cũng chƣa đƣợc thực

hiện một cách nghiêm túc, nhiều trƣờng hợp không thông báo nên không kịp

thời cập nhật những thay đổi về hộ tịch liên quan trong sổ hộ tịch(Ví dụ: do

không nhận đƣợc thông báo việc ly hôn để ghi chú vào Sổ đăng ký kết hôn

nên mặc dù đã ly hôn vẫn đƣợc cấp bản sao Giấy chứng nhận kết hôn).

Vì vậy, tăng cƣờng sự lãnh đạo chỉ đạo của các cấp ủy Đảng và chính

quyền địa phƣơng trong việc củng cố, kiện toàn đội ngũ công chức quản lý hộ

tịch và trong công tác phối hợp tổ chức quản lý hộ tịch. Đây là tiền đề quan

trọng bảo đảm cho việc củng cố, kiện toàn đội ngũ cán bộ công chức Tƣ pháp

các cấp và là những biện pháp bảo đảm cho công tác quản lý hộ tịch có hiệu

lực, hiệu quả. Cần có phối hợp đồng bộ, nhịp nhàng giữa các cơ quan hữu

quan trong việc giải quyết những sai sót trong hồ sơ, giấy tờ cá nhâncông tác

phối hợp giữa các ngành nhƣ công an, phòng Giáo dục, phòng Lao đông

thƣơng binh và xã hội, Bảo hiểm xã hội trong giải quyết công việc, mọi cơ

quan, tổ chức cần xác minh tạo điều kiện thuận lợi cho cá nhân đƣợc điều

chỉnh các giấy tờ, hồ sơ cá nhân theo đúng nội dung của giấy khai sinh đảm

bảo quy định.

3.2.7. Đẩy mạnh công tác giám sát, thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm trong

pháp luật quản lý về hộ tịch

Hoạt động giám sát, thanh tra, kiểm tra đối với công chức trong thực thi

công vụ của CQHCNN là một trong những hoạt động quản lý, mang tính

quyền lực nhà nƣớc đối với các chủ thể có thẩm quyền. Kết quả hoạt động

kiểm tra, thanh tra, giám sát đối với đội ngũ công chức nhằm giúp cơ quan

quản lý nắm bắt đƣợc công việc của đối tƣợng quản lý, đảm bảo công vụ

đƣợc thực hiện theo đúng quy định của pháp luật.

Việc phát hiện vi phạm của công chức do nhiều chủ thể thực hiện thông

qua hoạt động giám sát, thanh tra công vụ trong nội bộ CQHCNN và hoạt

79

động kiểm sát việc tuân theo pháp luật và theo dõi thi hành pháp luật theo

chức năng. Các cơ quan Tƣ pháp chịu trách nhiệm quản lý, theo dõi tình hình

thi hành pháp luật ở các Bộ, ngành và UBND các cấp. Việc kiểm tra, giám sát

sự chấp hành pháp luật quản lý về hộ tịch có tác dụng ngăn ngừa, răn đe rất

lớn và có hiệu quả. Thông qua hoạt động này giúp cho công chức CQHCNN

nâng cao ý thức chấp hành pháp luật, bồi dƣỡng tình cảm, ý thức về TNPL và

khả năng tiến hành các hành vi pháp lý đúng đắn, chính xác. Có thể nói, thái

độ chấp hành hay không chấp hành pháp luật hoặc mức độ chính xác trong áp

dụng pháp luật của công chức CQHCNN phụ thuộc rất lớn vào kết quả của sự

kiểm tra, giám sát sự chấp hành pháp luật. Mặt khác, cũng thấy rằng công

chức CQHCNN thi hành, chấp hành pháp luật một cách tự giác, nghiêm chỉnh

một khi họ có thái độ đúng đắn đối với pháp luật.

Hoạt động giám sát cần đi vào thực chất trên cơ sở các chƣơng trình cụ

thể hàng quý, hàng tháng với nội dung rõ ràng, tránh sự dàn trải không hiệu

quả. Nội dung giám sát cần tập trung vào các vấn đề nổi cộm hiện nay nhƣ tình

trạng tham nhũng, tiêu cực... Khi giám sát cần chú ý tới các cách thức mở rộng

quyền trực tiếp giám sát của Nhân dân đối với CQHCNN, thƣờng xuyên lắng

nghe ý kiến đóng góp của họ để thực thi công vụ đạt chất lƣợng, hiệu quả.

Đối với công tác thanh tra, cần thực hiện các nội dung thanh tra chuyên

đề về quản lý hộ tịch. Chủ động tiến hành hình thức thanh tra trực tiếp thay

cho hình thức tự kiểm tra, báo cáo của CQHCNN về tình hình thực hiện pháp

luật quản lý về hộ tịch. Hoạt động này cần đƣợc tiến hành thƣờng xuyên, liên

tục theo các cách thức định kỳ hoặc đột xuất.

Cùng với hoạt động giám sát, thanh tra, cần phải tăng cƣờng công tác

xử lý vi phạm trong quá trình thực hiện pháp luật quản lý về hộ tịch trong các

CQHCNN. Bảo đảm mọi hành vi trái pháp luật đều bị xử lý bất kể ngƣời vi

phạm có vị trí xã hội, nghề nghiệp, thành phần xuất thân nào. Đặc biệt, những

80

hành vi trái pháp luật do công chức CQHCNN gây ra cần phải xử lý kịp thời,

nghiêm minh, không thiên vị. Tùy thuộc vào tính chất, mức độ của hành vi

trái pháp luật, ngƣời vi phạm có thể bị xử lý kỷ luật, xử lý hành chính, bồi

hoàn một phần thiệt hại vật chất, thậm chí phải truy cứu trách nhiệm hình sự.

3.3. Giải pháp bảo đảm thực hiện pháp luật quản lý về hộ tịch trên địa bàn

quận Hai Bà Trƣng, thành phố Hà Nội

Luật Hộ tịch năm 2014 quy định phân cấp mạnh cho chính quyền địa

phƣơng. Theo đó, Ủy ban nhân dân cấp huyện giải quyết toàn bộ các việc

đăng ký hộ tịch có yếu tố nƣớc ngoài; thay đổi, cải chính hộ tịch cho ngƣời từ

đủ 14 tuổi trở lên cƣ trú trong nƣớc, xác định lại dân tộc, trừ việc đăng

ký khai sinh cho trẻ em sinh ra tại Việt Nam có cha hoặc mẹ là công dân Việt

Nam thƣờng trú tại khu vực biên giới còn ngƣời kia là công dân của nƣớc

láng giềng thƣờng trú tại khu vực biên giới với Việt Nam; kết hôn, nhận cha,

mẹ, con của công dân Việt Nam thƣờng trú ở khu vực biên giới với công dân

của nƣớc láng giềng thƣờng trú ở khu vực biên giới với Việt Nam, khai tử cho

ngƣời nƣớc ngoài cƣ trú ổn định lâu dài tại khu vực biên giới của Việt Nam.

Ủy ban nhân dân cấp xã đăng ký các việc hộ tịch còn lại.

Việc phân cấp thẩm quyền cho chính quyền địa phƣơng, ngoài việc

giúp ngƣời dân tiết kiệm thời gian và thuận lợi trong thực hiện thủ tục, thì

cũng sẽ tạo cho chính quyền địa phƣơng chủ động hơn, phát huy tối đa năng

lực, trách nhiệm của chính quyền địa phƣơng, tránh chồng chéo thẩm quyền,

giúp chính quyền gần dân hơn, nắm chắc một cách toàn diện công tác Hộ tịch

tại địa phƣơng bảo đảm tăng cƣờng vai trò quản lý nhà nƣớc của Ủy ban nhân

dân cấp tỉnh, tiến tới mục tiêu lâu dài là phân cấp triệt để thẩm quyền đăng ký

hộ tịch cho chính quyền cơ sở khi điều kiện cho phép. Quy định này nhằm

phát huy tối đa năng lực, trách nhiệm của chính quyền địa phƣơng; bảo đảm

tăng cƣờng vai trò quản lý nhà nƣớc của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, tiến tới

81

mục tiêu lâu dài là phân cấp triệt để thẩm quyền đăng ký hộ tịch cho chính

quyền cơ sở khi điều kiện cho phép.Tuy nhiên, đây vừa là cơ hội nhƣng cũng

là thách thức đối với cơ quan đăng ký hộ tịch cấp huyện.

Từ thực tiễn thực hiện pháp luật quản lý về hộ tịch trên địa bàn quận

Hai Bà Trƣng, thành phố Hà Nội trong thời gian tới để hoạt động quản lý nhà

nƣớc về hộ tịch phát huy hiệu lực, hiệu quả cần phải tiến hành đồng bộ các

giải pháp bảo đảm cho pháp luật quản lý về hộ tịch đƣợc hiện thực hóa, phù

hợp với yêu cầu và đòi hỏi của công tác quản lý hộ tịch tại địa phƣơng.

Thứ nhất, cần tổ chức tập huấn thật chu đáo, đầy đủ về công tác hộ tịch

cho các đối tƣợng mà trƣớc hết là công chức Tƣ pháp. Điều đó không chỉ giúp

làm tốt công tác quản lý hộ tịch, mà còn giúp làm tốt công tác đối ngoại của

Nhà nƣớc. Do vậy, cần tổ chức nghiên cứu, biên soạn tài liệu và tổ chức tập

huấn triển khai thực hiện pháp luật quản lý về hộ tịch với nhiều cấp độ khác

nhau. Nội dung trọng tâm của tập huấn là quán triệt đầy đủ nội dung các quy

định của pháp luật về hộ tịch và các pháp luật liên quan; quy trình thực hiện

các thủ tục; cơ chế phối hợp, trách nhiệm, nghĩa vụ của các cơ quan trong

phối hợp giải quyết đăng ký hộ tịch liên quan đến yếu tố nƣớc ngoài. Kết quả

tập huấn phải bảo đảm tạo chuyển biến sâu sắc nhận thức từ trong cấp ủy,

lãnh đạo chính quyền đến cán bộ, chuyên viên làm công tác hộ tịch, để

chuyển thành hành động cụ thể, thiết thực, hiệu quả.

Thứ hai, quan tâm đến công tác bố trí cán bộ có đủ năng lực, quan tâm

đến công tác đào tạo, bồi dƣỡng nâng cao năng lực cán bộ làm công tác hộ

tịch có yếu tố nƣớc ngoài; bố trí điều kiện làm việc, trang thiết bị cần thiết để

thực hiện công tác này có hiệu quả; đồng thời có cơ chế, chính sách đặc thù

giúp cho việc triển khai thực hiện công tác hộ tịch liên quan đến yếu tố nƣớc

ngoài ngang tầm với yêu cầu đối ngoại của đất nƣớc trong tình hình hiện nay.

82

Điều kiện và năng lực của ngành Tƣ pháp quận Hai Bà Trƣng tuy đã

đƣợc quan tâm đầu tƣ cả về số lƣợng lẫn chất lƣợng. Song, xét về tổng thể,

năng lực của Tƣ pháp quận chỉ đủ bảo đảm tốt cho việc thực hiện chức năng,

nhiệm vụ nhƣ hiện tại. Việc tăng thêm yếu tố nƣớc ngoài vào công vụ đòi hỏi

phải có sự chuyển đổi về chất từ chuyên môn nghiệp vụ đến khả năng ngôn

ngữ, giao tiếp; sự am hiểu không chỉ Luật Hộ tịch mà còn các Luật khác liên

quan nhƣ Hộ tịch, Công chứng, Dân sự, Lao động... và không chỉ dành cho

cán bộ chuyên trách làm công tác đăng ký Hộ tịch có yếu tố nƣớc ngoài mà cả

cho cán bộ, chuyên viên khác trong hỗ trợ, phối hợp giải quyết. Quận Hai Bà

Trƣng cần đào tạo, bồi dƣỡng, tập huấn nghiệp vụ hộ tịch, kiện toàn và bố trí

ngƣời làm công tác hộ tịch để trƣớc ngày 31/12/2019, bảo đảm 100% công

chức làm công tác Hộ tịch đáp ứng tiêu chuẩn theo quy định của Luật Hộ tịch.

Thứ ba, thực hiện nghiêm túc cải cách các thủ tục hành chính trong

việc thực hiện đăng ký hộ tịch.

Cải cách thủ tục hành chính là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của

mục tiêu cải cách hành chính của các nƣớc nói chung, đặc biệt ở nƣớc ta cải

cách thủ tục hành chính đƣợc Đảng và Nhà nƣớc ta hết sức coi trọng.Cải cách

thủ tục hành chính nhằm bảo đảm tính pháp lý, hiệu quả, minh bạch và công

bằng trong khi giải quyết các công việc hành chính. Loại bỏ những thủ tục

rƣờm rà, chồng chéo dễ bị lợi dụng để tham nhũng, gây khó khăn cho

dân.Trong những năm gần đây việc cải cách hành chính trong lĩnh vực đăng

ký và quản lý hộ tịch rất đƣợc quan tâm và đã tạo đƣợc nhiều chuyển biến

quan trọng, đặc biệt là về thủ tục đăng ký hộ tịch. Tiếp tục phát huy các thành

tựu đó, việc cải cách hành chính trong lĩnh vực hộ tịch trong thời gian tới cần

tập trung vào các nội dung sau:

Tiếp tục thực hiện việc cải cách thủ tục đăng ký hộ tịch theo hƣớng đơn

giản hoá giấy tờ, rút ngắn quy trình giải quyết đối với cả việc đăng ký hộ tịch

83

trong nƣớc và đăng ký hộ tịch có yếu tố nƣớc ngoài. Đồng thời tăng cƣờng

tính chủ động, sáng tạo của cơ quan đăng ký hộ tịch và ngƣời có thẩm quyền

đăng ký hộ tịch.

Nâng cao tính phục vụ của hoạt động đăng ký hộ tịch với tính chất là

một loại hình dịch vụ công, bảo đảm ngƣời dân đƣợc phục vụ thuận tiện,

nhanh chóng khi họ thực hiện quyền và nghĩa vụ đăng ký hộ tịch của mình.

Tích cực xây dựng chính quyền điện tử.Nhận thức rõ chính phủ điện tử

là xu thế tất yếu của quá trình phát triển nên quận Hai Bà Trƣng đặc biệt quan

tâm đổi mới công nghệ, nâng cao hoạt động của cơ quan nhà nƣớc nhằm phục

vụ các tổ chức, ngƣời dân hiệu quả hơn. Xác định cơ quan điện tử làm nền

tảng cho việc xây dựng chính quyền điện tử, thực hiện chiến lƣợc CCHC giai

đoạn 2016-2020 bảo đảm theo định hƣớng, quận xây dựng Đề án ứng dụng

công nghệ thông tin giai đoạn 2016-2020.

Thứ tư, quan tâm đầu tƣ về các điều kiện bổ trợ, phối hợp. Chúng ta

biết rằng, để giải quyết việc đăng ký hộ tịch có yếu tố nƣớc ngoài, cơ quan tƣ

pháp cấp tỉnh đƣợc hỗ trợ đồng bộ từ các cơ quan chức năng liên quan (công

an, ngoại vụ, công chứng, dịch thuật, sứ quán...) và đồng bộ với hệ thống các

cơ quan giải quyết việc có liên quan đến nƣớc ngoài. Nay, chỉ có công tác

đăng ký hộ tịch có yếu tố nƣớc ngoài chuyển giao xuống quận, vậy đƣơng nhiên

là sự đồng bộ trong hỗ trợ giải quyết ở cấp quận là không tƣơng thích với các

ngành liên quan cấp trên và với ngay cả các ngành ngang cấp trong Quận. Đây là

thách thức rất đáng kể vì nó là thách thức thuộc về cơ chế, thể chế.

Bên cạnh đó, yếu tố nƣớc ngoài cũng đòi hỏi phải có thêm điều kiện vật

chất, địa điểm làm việc, trang thiết bị phù hợp trong khi đó điều kiện của cấp

Quận còn rất hạn chế, ngay cả đối với ngƣời dân trong nƣớc vẫn còn có điểm

chƣa bảo đảm, tƣơng xứng.

84

Giao thẩm quyền đăng ký Hộ tịch về cho Quận và Phƣờng là sự liên

thông gắn kết trong quy trình thủ tục hành chính. Quận không còn là cấp trung

gian (theo Nghị định 158/2005/NĐ-CP) mà là cấp giải quyết trực tiếp, tạo nhiều

thuận lợi gần dân. Thành phố lúc này là cần nghiên cứu đề ra chủ trƣơng, giải

pháp tăng cƣờng công tác quản lý, thanh tra theo dõi việc thi hành pháp luật của

cấp dƣới, nhƣ vậy là phù hợp với quy định của pháp luật hiện hành.

Thứ năm, cần có sự đồng bộ chặt chẽ trong quá trình chuyển giao, tiếp

nhận giữa cấp thành phố và quận. Hiện nay, thực sự chƣa rõ nội dung của sự

chuyển giao thẩm quyền là gồm những vấn đề gì. Tuy nhiên, ƣu tiên hàng đầu

là phải chuyển giao đồng bộ, đặc biệt là số liệu thống kê, tài liệu lƣu trữ trực

tiếp liên quan đến việc thực hiện thẩm quyền tiếp theo của cấp quận. Bên

cạnh đó, việc chuyển giao quy trình, kinh nghiệm thực hiện công tác cũng rất

quan trọng.

Tiểu kết Chƣơng 3

Với mục tiêu xây dựng thành công nhà nƣớc pháp quyền XHCN Việt

Nam đòi hỏi pháp luật nói chung, pháp luật quản lý về hộ tịch nói riêng phải

đƣợc thực hiện nghiêm chỉnh, triệt để và chính xác. Trong bối cảnh hiện nay

việc xác định quan điểm và những giải pháp cụ thể nhằm hiện thực hóa các

quy định pháp luật về quản lý hộ tịch nhằm đáp ứng yêu cầu thực tiễn của

công cuộc đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá phải đƣợc đặt trên nền

tảng hệ thống quan điểm của Đảng và Nhà nƣớc ta về tƣ duy đổi mới và phát

triển trong giai đoạn hiện nay.

Để pháp luật quản lý về hộ tịch đƣợc thực hiện có hiệu lực, hiệu quả

cần phải tiến hành đồng bộ các giải pháp chung nhƣ: Rà soát, sửa đổi, bổ sung

hoặc ban hành mới các văn bản pháp luật phù hợp với Luật Hộ tịch và các văn

bản hƣớng dẫn thi hành; tổ chức tuyên truyền, phổ biến, quán triệt Luật hộ

tịch và các văn bản hƣớng dẫn thi hành với nội dung và hình thức phù hợp,

85

nâng cao nhận thức, hiểu biết của nhân dân;đẩy mạnh công tác giám sát,

thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm trong việc thực hiện pháp luật quản về hộ

tịch…và các giải pháp đặc thù áp dụng riêng cho Quận Hai Bà Trƣng, thành

phố Hà Nội.

86

KẾT LUẬN

Với tính cách là một hoạt động thể hiện sâu sắc chức năng xã hội của

nhà nƣớc, quản lý hộ tịch có vị trí, vai trò vô cùng quan trọng trong tiến trình

phát triển xã hội. Nhìn từ khía cạnh khác, mối quan hệ giữa nhà nƣớc và công

dân thể hiện qua các quy định pháp luật về đăng ký hộ tịch phản ánh một cách

tập trung, sinh động, khách quan các giá trị dân chủ trong một nhà nƣớc “của

dân, do dân, vì dân”. Trong xu hƣớng xây dựng xã hội dân chủ và nhà nƣớc

pháp quyền ở nƣớc ta hiện nay, ngƣời dân có quyền đòi hỏi và nhà nƣớc có trách

nhiệm phải tổ chức phục vụ việc đăng ký hộ tịch của ngƣời dân một cách thuận

tiện, nhanh chóng theo mô hình của một loại dịch vụ công thiết yếu.

Nhìn vào thực trạng quản lý hộ tịch ở nƣớc ta và đặt trong sự so sánh

với các quốc gia trong khu vực, chúng ta không thể không quan ngại trƣớc

không ít những bất cập của thực tiễn, cả về nhận thức và hành động, cả về

pháp luật và năng lực quản lý.

Từ nhiều năm trƣớc đây thì đến nay ở nƣớc ta, mặc dù hoạt động quản

lý hộ tịch đã có quá trình phát triển hơn nửa thế kỷ nhƣng việc quản lý “đầy

đủ, chính xác, kịp thời” các thông tin hộ tịch vẫn là mục tiêu đầy khó khăn đặt

ra đối với các cơ quan quản lý. Tuy nhiên cũng cần thấy rằng từ khi Chính

phủ ban hành Nghị định 83/1998/NĐ-CP, hoạt động quản lý hộ tịch đã có

những bƣớc phát triển nhanh chóng và đạt đƣợc nhiều thành tựu quan trọng,

từng bƣớc đƣa lĩnh vực quản lý này đi vào nền nếp, tạo nền tảng cần thiết cho

bƣớc phát triển mới. Với nhận thức ngày càng đầy đủ, toàn diện hơn, việc

hoàn thiện pháp luật về quản lý hộ tịch ngày càng đƣợc quan tâm đúng mức

nhằm thiết lập cơ sở pháp lý cho việc áp dụng các giải pháp cần thiết vào việc

đổi mới quản lý hộ tịch.

Trong bối cảnh Đảng và Nhà nƣớc đang giành nhiều tâm sức cho nỗ

lực xây dựng một nền hành chính dân chủ, hiệu quả, hiện đại, việc đổi mới

87

hoạt động quản lý hộ tịch cần đƣợc tiến hành một cách khẩn trƣơng, tích cực.

Để đổi mới, nâng cao hiệu quả của lĩnh vực công tác này, việc triển khai và áp

dụng đồng bộ các giải pháp về pháp lý, quản lý, cán bộ, công nghệ có ý nghĩa

rất quan trọng quyết định tính khả thi và hiệu quả thực tế. Tuy nhiên, từ thực

tiễn phát triển kinh tế, xã hội nói chung và thực trạng quản lý hộ tịch nói

riêng, cần xác định và ƣu tiên thực hiện việc đổi mới pháp luật, cải cách thủ

tục hành chính, nâng cao năng lực hoạt động và tính chuyên nghiệp của đội

ngũ cán bộ quản lý; đồng thời có lộ trình phù hợp để đổi mới các yếu tố kỹ

thuật trong phƣơng thức quản lý, ứng dụng công nghệ thông tin để xây dựng

hệ cơ sở dữ liệu thông tin về hộ tịch. Mặt khác, việc thực hiện các giải pháp

để đổi mới quản lý hộ tịch cũng cần tính đến các yếu tố đặc thù của khách thể

quản lý ở các khu vực địa lý dân cƣ khác nhau nhƣ đô thị, nông thôn; đồng

bằng, miền núi, khu vực đồng bào dân tộc thiểu số…

88

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Đào Duy Anh (1992), Giản yếu Hán - Việt từ điển, quyển thƣợng, Nxb,

Khoa học xã hội.

2. Bộ Tƣ pháp (2006) “Hƣớng dẫn nghiệp vụ Đăng ký và quản lý hộ

tịch”, NXB Tƣ pháp, Hà Nội;

3. Bộ Tƣ pháp (2007), “Nghiệp vụ đăng ký hộ tịch”, NXB Tƣ pháp, Hà Nội;

4. Bộ Tƣ pháp (2010) “Tài liệu Hƣớng dẫn nghiệp vụ Tƣ pháp xã,

phƣờng, thị trấn”, NXB Tƣ pháp;

5. Bộ Tƣ pháp (2007), Số chuyên đề về “Công chứng, hộ tịch và quốc

tịch”, phần 2 hộ tịch và quốc tịch, Hà Nội.

6. Bộ Tƣ pháp (2015), Thông tƣ số 15/2015/TT-BTP ngày 16/11/2015

Quy định chi tiết một số điều của Luật Hộ tịch và nghị định số

123/2015/NĐ-CP ngày 15/11/2015 của Chính phủ quy định chi tiết một

số điều và biện pháp thi hành Luật Hộ tịch.

7. Nguyễn Tài Cẩn (1975), Từ loại danh từ trong tiếng Việt hiện đại, Nxb.

Khoa học xã hội, Hà Nội.

8. Phạm Trọng Cƣờng (2006),Kỳ vọng về một nề nếp mới trong công tác

hộ tịch,Tạp chí Dân chủ và Pháp luật số tháng 6.

9. Phạm Trọng Cƣờng (2007), Từ quản lý đinh đến quản lý hộ tịch, NXB

Tƣ pháp, Hà Nội.

10. Nguyễn Quốc Cƣờng, Lƣơng Thị Lanh, Trần Thị Thu Hằng (2006),

Hƣớng dẫn về đăng ký và quản lý hộ tịch, Bộ Tƣ pháp, Hà Nội.

11. Chính phủ (2015), Nghị định số 123/2015/NĐ-CP ngày 15/11/2015

Quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Hộ tịch.

12. Đàm Thị Kim Hạnh (2008), Tƣ pháp Hà Nội không vì khó khăn mà từ

chối đăng ký khai sinh, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, tháng 3 năm

2008;

89

13. Trần Thị Lệ Hoa (2013), Thực trạng đội ngũ công chức Tƣ pháp- Hộ

tịch và yêu cầu chuẩn hóa, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật số chuyên đề

pháp luật hộ tịch năm 2013.

14. Học viện Hành chính Quốc gia (2008), Giáo trình “Quản lý Hành

chính-Tƣ pháp”, NXBKhoa học vàKỹ thuật.

15. Học viện Hành chính Quốc gia (2007), Giáo trình “Lý luận chung về

Nhà nƣớc và Pháp luật”, NXB Khoa học và Kỹ thuật.

16. Trần Duy Rô Nin (2008), Hộ tịch và pháp luật về hộ tịch, Tạp chí Nhà

nƣớc và Pháp luật số 5/2008

17. Vũ Đình Tuấn Phƣơng (2005), Cơ quan nhà nƣớc cần tôn trọng quyền

yêu cầu cấp phiếu lý lịch tƣ pháp của công dân, Tạp chí Dân chủ và

Pháp luật số tháng 6.

18. Trần Văn Quảng, (2006), Nâng cao năng lực đội ngũ công chức Tƣ

pháp – Hộ tịch trong giai đoạn hiện nay, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật

số tháng 9.

19. Quốc hội (1945), Hiến pháp, Hà nội

20. Quốc hội (1959), Hiến pháp, Hà Nội

21. Quốc hội (1980), Hiến pháp, Hà Nội.

22. Quốc hội (1992), Hiến pháp (đã sửa đổi, bổ sung), Hà Nội

23. Quốc hội (2013), Hiến pháp, Hà nội

24. Quốc hội (2014), Luật Hộ tịch, Hà nội

25. Ủy ban nhân dân quận Hai Bà Trƣng (2013), Kết quả đăng ký khai

sinh, khai tử, kết hôn tại Ủy ban nhân dân cấp xã trên địa bàn huyện.

26. Ủy ban nhân dân quận Hai Bà Trƣng (2014), Kết quả đăng ký khai

sinh, khai tử, kết hôn tại Ủy ban nhân dân cấp xã trên địa bàn huyện.

27. Ủy ban nhân dân quận Hai Bà Trƣng (2015), Kết quả đăng ký khai

sinh, khai tử, kết hôn tại Ủy ban nhân dân cấp xã trên địa bàn huyện.