ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
ĐỖ XUÂN VIỆT ANH
PHÁP LUẬT QUỐC TẾ VỀ AN NINH HÀNG KHÔNG
TẠI CẢNG HÀNG KHÔNG VÀ THỰC TIỄN
THỰC HIỆN VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Hà Nội - 2020
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
ĐỖ XUÂN VIỆT ANH
PHÁP LUẬT QUỐC TẾ VỀ AN NINH HÀNG KHÔNG
TẠI CẢNG HÀNG KHÔNG VÀ THỰC TIỄN
THỰC HIỆN VIỆT NAM
Chuyên ngành: Luật quốc tế
Mã ngành: 8380101.06
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: GS.TS Nguyễn Bá Diến
Hà Nội - 2020
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi dưới
sự hướng dẫn của GS.TS. Nguyễn Bá Diến. Các kết quả nêu trong Luận văn
chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và
trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã
hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính
theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể
bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
TÁC GIẢ LUẬN VĂN
1
Đỗ Xuân Việt Anh
MỤC LỤC
NỘI DUNG TRANG
7 MỞ ĐẦU
12 CHƢƠNG 1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ AN NINH HÀNG
KHÔNG TẠI CẢNG HÀNG KHÔNG
12 1.1. Những khái niệm cơ bản
12 1.1.1. An ninh hàng không
14 1.1.2. Cảng hàng không
17 1.2. Vai trò của việc đảm bảo an ninh hàng không tại cảng
hàng không
1.3. Tổng quan hệ thống pháp luật quốc tế và pháp luật Việt 19
Nam về đảm bảo an ninh hàng không tại cảng hàng không
19 1.3.1. Về hệ thống pháp luật quốc tế
22 1.3.2. Về hệ thống pháp luật Việt Nam
25 CHƢƠNG 2. QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT QUỐC TẾ VỀ
AN NINH HÀNG KHÔNG TẠI CẢNG HÀNG KHÔNG
2.1. Một số điều ƣớc quốc tế quan trọng liên quan đến an 25
ninh hàng không tại cảng hàng không
2.1.1. Công ước Chicago năm 1944 về hàng không dân dụng 25
quốc tế
2.1.2. Công ước Montreal năm 1971 về ngăn chặn các hành vi 35
bất hợp pháp chống lại an toàn hàng không dân dụng và Nghị
định thư Montreal 1988 bổ sung cho Công ước Montreal 1971
2.1.3. Công ước Bắc Kinh 2010 về ngăn chặn các hành vi bất 37
hợp pháp vào hoạt động hàng không dân dụng quốc tế
2
2.2. Việc đảm bảo an ninh hàng không tại cảng hàng không 40
của một số quốc gia trên thế giới
2.2.1. Kinh nghiệm tổ chức đảm bảo an ninh hàng không tại 40
cảng hàng không của một số nước
2.2.2. Công tác thực hiện bảo đảm an ninh hàng không tại cảng 43
hàng không trên thế giới
CHƢƠNG 3. THỰC TIỄN ĐẢM BẢO AN NINH HÀNG 49
KHÔNG TẠI CÁC CẢNG HÀNG KHÔNG CỦA VIỆT
NAM VÀ ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN
3.1. Thực tiễn đảm bảo an ninh hàng không tại các cảng 49
hàng không của Việt Nam
3.1.1. Các biện pháp đảm bảo an ninh hàng không tại cảng hàng 49
không của Việt Nam
3.1.2. Cơ cấu tổ chức lực lượng đảm bảo an ninh hàng không tại 64
các cảng hàng không của Việt Nam
3.1.3. Hệ thống cơ sở vật chất, trang thiết bị, phương tiện đảm 68
bảo an ninh hàng không tại các cảng hàng không của Việt Nam
3.1.4. Nhân lực thực hiện đảm bảo an ninh hàng không tại cảng 70
hàng không
3.2. Đánh giá hiệu quả của công tác đảm bảo an ninh hàng 72
không tại các cảng hàng không của Việt Nam
3.2.1. Ưu điểm 72
3.2.2. Tồn tại, hạn chế 78
3.3. Phƣơng hƣớng hoàn thiện và giải pháp đề xuất 86
3.3.1. Phương hướng chiến lược bảo đảm an ninh hàng không 86
tại cảng hàng không
3.3.2. Giải pháp hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật về an 87
3
ninh hàng không tại cảng hàng không
3.3.3. Giải pháp hoàn thiện hệ thống tổ chức bảo đảm an ninh 90
hàng không tại cảng hàng không
3.3.4. Giải pháp nâng cao hệ thống hạ tầng, phương tiện, thiết bị 91
an ninh hàng không
3.3.5. Giải pháp hợp tác quốc tế nâng cao năng lực bảo đảm an 92
ninh hàng không tại cảng hàng không
KẾT LUẬN 93
4
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 95
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Tổng công ty Cảng hàng không Việt Nam ACV
An ninh hàng không ANHK
An ninh trật tự ANTT
Công ước Chicago 1944 về hàng không dân dụng quốc tế CICA
Tổ chức hàng không dân dụng quốc tế ICAO
Hiệp hội vận tải hàng không quốc tế IATA
5
World Bank Ngân hàng thế giới
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 1.1: Các điều ước quốc tế liên quan đến an ninh hàng không 20
và tình hình gia nhập của Việt Nam
Bảng 2.1. Danh mục các Phụ lục của Công ước Chicago 1944 26
Bảng 3.1: Tổng hợp danh mục trang thiết bị an ninh tại các cảng 69
hàng không của Việt Nam
Bảng 3.2: Số lượng nhân viên An ninh hàng không 71
của ACV
Bảng 3.3: Thống kê vụ việc vi phạm an ninh hàng không tại các 73
cảng hàng không của Việt Nam năm 2017 – 2018
Bảng 3.4: Thống kê vụ việc vi phạm an ninh trật tự tại các cảng 76
hàng không của Việt Nam năm 2017 – 2018
DANH MỤC CÁC BẢN ĐỒ, HÌNH VẼ, ĐỒ THỊ
Hình 3.1: Mô hình tổ chức lực lượng bảo đảm an ninh hàng không 66
6
tại các cảng hàng không tại Việt Nam
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Trong những năm vừa qua, cũng như hiện nay, ngành vận tải hàng
không đang có những bước tăng trưởng rất nhanh chóng và mạnh mẽ. Theo số
liệu của World Bank, thị trường hàng không đang là thị trường có sức phát
triển cao nhất trong lĩnh vực vận tải với mức tăng trưởng hàng năm luôn được
duy trì ổn định, đặc biệt là thị trường châu á – thái bình dương khoảng 8%
trong khoảng thời gian từ 2010 đến 2015 và khoảng 10% trong năm 2016.
Trong đó, Việt Nam là một trong những quốc gia có biên độ tăng trưởng cao
nhất với khoảng 15% trong thời gian từ năm 2010 đến 2015 và hơn 25% trong
năm 2016. Có thể lấy điển hình tại Cảng hàng không quốc tế Nội Bài (là một
trong những cảng hàng không có lưu lượng hành khách cao nhất tại Việt
Nam) thì trong năm 2017, tại đây đã tiếp đón hơn 24 triệu lượt hành khách, số
lượt cất hạ cánh đạt xấp xỉ 160 ngàn và hơn 600 ngàn tấn hàng hóa qua Cảng,
mức độ tăng trưởng tương ứng khoảng 12% so với năm 2016.
Với tình hình hoạt động hàng không dân dụng sôi động như vậy thì yêu
cầu thiết yếu và quan trọng nhất đó chính là vấn đề bảo đảm an ninh, an toàn
cho mỗi chuyến bay vì chỉ có thể một sơ suất nhỏ trong quá trình vận hành thì
có thể sinh mạng của gần 300 con người có thể bị ảnh hưởng cùng với đó là
những thiệt hại kinh tế vô cùng to lớn. Trong đó, công tác đảm bảo an ninh
hàng không được coi là vấn đề quan trọng nhất.
Đặc biệt, trong bối cảnh tình hình an ninh trên thế giới có nhiều bất ổn
và diễn biến phức tạp, nguy cơ khủng bố, đánh bom, can thiệp bất hợp pháp
vào hoạt động hàng không dân dụng là rất lớn, đặt ra những thách thức không
nhỏ đối với công tác đảm bảo an ninh hàng không.
Các hoạt động khủng bố ngày càng phát triển, xu hướng lựa chọn hàng
7
không dân dụng là một trong những mục tiêu quan trọng mà tổ chức khủng bố
nhằm vào. Hiện nay, mâu thuẫn và xung đột giữa các quốc gia, giữa các dân
tộc, giữa các tôn giáo, tín ngưỡng… trên thế giới diễn ra ngày càng sâu sắc,
khốc liệt; cùng với các mâu thuẫn, xung đột đó thì xu hướng cực đoan, lựa
chọn khủng bố là biện pháp, phương thức giải quyết mâu thuẫn chưa bao giờ
nghiêm trọng như giai đoạn hiện nay, đe dọa sâu sắc đến hòa bình, phát triển
của nhân loại.
Sự trỗi dậy, nở rộ của các tổ chức khủng bố toàn cầu gần đây như Nhà
nước Hồi giáo (IS), Al-Queda, Taliban, Al-Nusea Front – Syria, Boko Haram
– Nigeria, Jemaah Islamiyah và các chi nhánh Al-Queda tại Đông Nam Á,
Abu Sayyaf – Philipines, Lashkar-e-Taiba – Pakistan…) là yếu tố tiềm ẩn
nguy cơ cao. Trong bối cảnh đó, hoạt động hàng không dân dụng, với tính
chất đặc thù của nó luôn được các đối tượng khủng bố coi là mục tiêu nhắm
đến: Sự kiện Metrojet KGL9268 ngày 31/10/2015; chuyến bay 9525
(4U9525/GWI18G) Airbus A320-200 ngày 24/3/2015 từ sân bay El Prat –
Barcelona đến sân bay Duselldorf của Đức; vụ đánh bom sân bay Brussels
Zavenem ngày 22/3/2016; vụ cướp tàu bay ngày 29/3/2016 tại Ai Cập,… đặt
ra nguy cơ đặc biệt nghiêm trọng đối với an ninh hàng không.
Trước tình hình trên, nguy cơ tấn công khủng bố vào mục tiêu lợi ích của
các quốc gia trong hoạt động hàng không dân dụng tại Việt Nam là vấn đề
thời sợ cần có giải pháp chủ động ứng phó. Với việc các quốc gia tăng cường
các hoạt động tiêu diệt các tổ chức khủng bố IS, Al-Queda, phong trào Hồi
giáo Đông Turkestan,… các quốc gia này đang đối mặt với sự trả thù quyết
liệt của các đối tượng khủng bố. Việt Nam cũng là một trong số nhiều nước
có sự hợp tác, quan hệ giao thương với các nước đi đầu trong công cuộc
phòng chống khủng bố; do đó nguy cơ các tổ chức khủng bố tấn công khủng
8
bố vào hoạt động hàng không dân dụng tại Việt Nam cần phải được chủ động
phân tích, đánh giá, có giải pháp phòng ngừa, ngăn chặn phù hợp, đặc biệt là
các đường bay từ Châu Âu, Trung Đông đến Việt Nam và ngược lại.
Ngày 05/7/2018, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số
809/QĐ-TTg về việc đưa công trình Cảng hàng không quốc tế Nội Bài, Cảng
hàng không quốc tế Tân Sơn Nhất vào danh mục công trình quan trọng liên
quan đến an ninh quốc gia. Do đó, công tác đảm bảo an ninh hàng không tại
các cảng hàng không cần có được sự quan tâm hơn bao giờ hết.
Chính vì vậy, tôi đã chọn đề tài: “Pháp luật quốc tế về an ninh hàng
không tại cảng hàng không và thực tiễn thực hiện Việt Nam” làm đề tài
nghiên cứu luận văn cao học của mình.
2. Mục tiêu nghiên cứu
2.1. Mục tiêu tổng quát: Tìm hiểu các quy định của pháp luật quốc tế
về đảm bảo an ninh hàng không tại cảng hàng không. Đồng thời, nghiên cứu,
đánh giá công tác tổ chức thực hiện các biện pháp đảm bảo an ninh hàng
không tại các cảng hàng không trên cơ sở thực tế cũng như tại các văn bản
pháp luật hiện hành.
2.2. Mục tiêu cụ thể: Thông qua việc nghiên cứu đề tài, tác giả luận văn
sẽ đưa ra một số giải pháp, đề xuất nhằm nâng cao hiệu quả triển khai các
biện pháp đảm bảo an ninh hàng không tại cảng hàng không một cách có hiệu
quả.
2.3. Tính mới và những đóng góp của đề tài
Hiện tại cũng có nhiều đề tài nghiên cứu về lĩnh vực hàng không dân
dụng được đề cập trên nhiều khía cạnh. Tuy nhiên, về vấn đề đảm bảo an ninh
hàng không thì số lượng còn ít, tại Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội cũng
có 01 đề tài “Vấn đề bảo đảm an ninh trong lĩnh vực hàng không dân dụng
theo pháp luật quốc tế. Thực tiễn áp dụng tại Việt Nam” của Học viên
9
Nguyễn Thị Hà, bảo vệ năm 2012.
Mặc dù vậy, trong Luận văn trên tập trung chủ yếu vào các quy định về
biện pháp đảm bảo an ninh hàng không dân dụng của pháp luật quốc tế cũng
như của Việt Nam. Trong khi đó, trong luận văn này, tôi sẽ tập trung chủ yếu
vào công tác đảm bảo an ninh hàng không tại các cảng hàng không và thực
tiễn triển khai công tác này tại các cảng hàng không tại Việt Nam.
Bên cạnh đó, trong khoảng thời gian từ năm 2012 đến nay, hệ thống văn
bản pháp luật quy định về an ninh hàng không tại Việt Nam cũng có nhiều sự
thay đổi, do đó cần có sự cập nhật, đánh giá lại để đảm bảo phù hợp với thực
tiễn hiện nay.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tƣợng nghiên cứu
Là các quy định của pháp luật quốc tế và Việt Nam về an ninh hàng
không tại cảng hàng không và thực tiễn thực hiện tại Việt Nam.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về mặt lý luận: Luận văn đi sâu vào nghiên cứu các hệ thống văn bản
pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam về an ninh hàng không tại cảng hàng
không.
- Về mặt thực tiễn: Luận văn nghiên cứu thực tiễn thực hiện các biện
pháp đảm bảo an ninh hàng không tại Cảng hàng không quốc tế Nội Bài để từ
đó đưa ra đánh đánh giá, đề xuất nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện.
4. Cấu trúc của Luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục
kèm theo, luận văn bao gồm 3 chương với cấu trúc như sau:
Chương 1: Khái quát chung về an ninh hàng không tại cảng hàng không
Chương 2: Quy định của pháp luật quốc tế về an ninh hàng không tại
cảng hàng không
10
Chương 3: Quy định của pháp luật Việt Nam về an ninh hàng không tại
cảng hàng không và thực tiễn đảm bảo an ninh hàng không tại các cảng hàng
11
không của Việt Nam.
CHƢƠNG 1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ AN NINH HÀNG KHÔNG
TẠI CẢNG HÀNG KHÔNG
1.1. Những khái niệm cơ bản
1.1.1. An ninh hàng không
Khi nói đến “An ninh hàng không” nhiều người có thể nghĩ ngay đến
việc bảo đảm an toàn cho các chuyến bay do đó “an ninh hàng không” thường
bị nhầm lẫn với “an toàn hàng không” trong khi đây là hai lĩnh vực hoàn toàn
khác nhau. Khái niệm “An ninh hàng không” được định nghĩa tại chương 1,
Phụ lục 17, Công ước Chicago 1944 (phiên bản lần thứ 10) như sau: “an ninh
là sự bảo vệ hàng không dân dụng chống lại các hành vi can thiệp bất hợp
pháp và được thực hiện bằng sự kết hợp của nguồn nhân lực và vật chất.”
Khái niệm này cũng tương đồng với định nghĩa về “an ninh hàng không”
trong pháp luật Việt Nam quy định cụ thể điều 190 Luật hàng không dân dụng
Việt Nam năm 2006 (sửa đổi, bổ sung năm 2014) như sau:
“An ninh hàng không” là việc sử dụng kết hợp các biện pháp, nguồn
nhân lực, trang bị, thiết bị để phòng ngừa, ngăn chặn và đối phó với hành vi
can thiệp bất hợp pháp vào hoạt động hàng không dân dụng, bảo vệ an toàn
cho tàu bay, hành khách, tổ bay và những người dưới mặt đất.
Từ định nghĩa trên có thể thấy mục đích quan trọng và cao nhất của an
ninh hàng không là phòng ngừa, ngăn chặn và đối phó với hành vi can thiệp
bất hợp pháp vào hoạt động hàng không dân dụng. Trong đó, “hành vi can
thiệp bất hợp pháp vào hoạt động hàng không dân dụng” được xác định là
hành vi có khả năng uy hiếp an toàn hoạt động hàng không dân dụng, bao
gồm một trong các hành vi sau đây:
a) Chiếm đoạt bất hợp pháp tàu bay đang bay;
b) Chiếm đoạt bất hợp pháp tàu bay trên mặt đất;
12
c) Sử dụng tàu bay như một vũ khí;
d) Bắt giữ con tin trong tàu bay hoặc tại cảng hàng không, sân bay;
đ) Xâm nhập trái pháp luật vào tàu bay, cảng hàng không, sân bay và
công trình, trang bị, thiết bị hàng không dân dụng;
e) Đưa vật phẩm nguy hiểm vào tàu bay, cảng hàng không, sân bay và
khu vực hạn chế khác trái pháp luật.
Vật phẩm nguy hiểm bao gồm vũ khí, đạn dược, chất cháy, chất dễ cháy,
chất nổ, chất dễ nổ, chất độc hóa học và sinh học, chất phóng xạ và các vật
hoặc chất khác có khả năng gây nguy hiểm hoặc được dùng để gây nguy hiểm
cho sức khỏe, tính mạng của con người, an toàn của chuyến bay;
g) Cung cấp thông tin sai đến mức uy hiếp an toàn của tàu bay đang bay
hoặc trên mặt đất; an toàn của hành khách, tổ bay, nhân viên mặt đất hoặc
người tại cảng hàng không, sân bay và công trình, trang bị, thiết bị hàng
không dân dụng;
h) Cố ý thực hiện hành vi vi phạm pháp luật uy hiếp đến an toàn khai
thác tàu bay; khai thác cảng hàng không, sân bay; bảo đảm hoạt động bay.”
Từ việc phòng ngừa, ngăn chặn, đối phó với các hành vi trên mà an ninh
hàng không có thể đảm bảo an toàn cho tàu bay, hành khách, tổ bay trên tàu
bay và các cơ sở, phương tiện, con người phục vụ cho hoạt động bay. Việc
này khác với khái niệm “an toàn hàng không” mà nhiều người đang có sự
nhầm lẫn khi nhắc đến “an ninh hàng không”.
An toàn hàng không là một hệ thống các điều kiện, tiêu chuẩn để đảm
bảo an toàn cho hoạt động bay dân dụng của tàu bay. Theo đó, để đảm bảo an
toàn hàng không, người khai thác tàu bay và các đơn vị có liên quan phải tuân
thủ các tiêu chuẩn đủ điều kiện bay, khai thác tàu bay, tiêu chuẩn chuyên môn
của nhân viên hàng không trong lĩnh vực khai thác, bảo dưỡng, sửa chữa tàu
bay và cơ sở y tế giám định sức khoẻ cho nhân viên hàng không. Các tiêu
13
chuẩn này đều được định lượng bằng những con số cụ thể được gọi là
“ngưỡng an toàn” để đảm bảo tàu bay có thể hoạt động tốt và được phép hoạt
động.
1.1.2. Cảng hàng không
Cảng hàng không là một khu vực xác định nằm trên đất liền hoặc mặt
nước, được xây dựng để phục vụ cho hoạt động giao thông hàng không. Mỗi
cảng hàng không phải có ít nhất một đường băng làm nơi để các máy bay cất
cánh và hạ cánh. Thông thường, các cảng hàng không sẽ được tổ chức để
phục vụ vận chuyển hành khách và hàng hóa. Đó là khu phức hợp hiện đại,
gồm có nhà ga hàng không, trung tâm kiểm soát không lưu, xưởng bảo dưỡng
máy bay, sân đậu máy bay, đường lăn, đường băng và một số cơ sở hạ tầng
khác. Tại những cảng hàng không quốc tế, nước sở tại sẽ đặt một cửa
khẩu hải quan để kiểm soát việc xuất - nhập cảnh của hành khách, hoặc thông
quan để kiểm soát xuất - nhập khẩu hàng hóa.
Khái niệm “Cảng hàng không” định nghĩa tại khoản 1, điều 47 Luật hàng
không dân dụng Việt Nam năm 2006 (sửa đổi, bổ sung năm 2014) như sau:
“Cảng hàng không là khu vực xác định, bao gồm sân bay, nhà ga và
trang bị, thiết bị, công trình cần thiết khác được sử dụng cho tàu bay đi, đến
và thực hiện vận chuyển hàng không.
Cảng hàng không được phân thành các loại sau đây:
a) Cảng hàng không quốc tế là cảng hàng không phục vụ cho vận
chuyển quốc tế và vận chuyển nội địa;
b) Cảng hàng không nội địa là cảng hàng không phục vụ cho vận chuyển
nội địa.”
Cảng hàng không là một phạm vi tương đối rộng bao gồm nhiều hoạt
động, công trình hàng không được tổ chức nhằm đảm bảo cho quá trình khai
thác hành khách, hành lý, hàng hóa trên tàu bay được duy trì một cách thường
14
xuyên, ổn định.
Tại mỗi cảng hàng không đều được hình thành trên 3 trụ cột chính mà
trong lĩnh vực hàng không thường được biết đến với khái niệm “3 Airs”, cụ
thể:
- “Airport” – người khai thác cảng hàng không: là tổ chức được cấp giấy
chứng nhận khai thác cảng hàng không. Được coi là “chủ nhà” trong hoạt
động khai thác tại cảng hàng không, người khai thác cảng hàng không có
trách nhiệm:
+ Duy trì đủ điều kiện cấp giấy đăng ký, giấy chứng nhận khai thác cảng
hàng không; chủ trì điều phối việc đảm bảo chất lượng dịch vụ tại cảng hàng
không.
+ Quản lý, khai thác đồng bộ kết cấu hạ tầng, trang bị, thiết bị của cảng
hàng không thuộc phạm vi được giao quản lý đảm bảo tuân thủ các quy định
của pháp luật, tài liệu khai thác cảng hàng không; duy trì khai thác cảng hàng
không, sân bay theo tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật áp dụng; phối hợp thực
hiện nhiệm vụ đảm bảo quốc phòng, an ninh hoặc phòng, chống dịch bệnh tại
cảng hàng không.
+ Ký hợp đồng giao kết khai thác theo quy định với doanh nghiệp được
Cục Hàng không Việt Nam cấp giấy phép cung cấp dịch vụ hàng không tương
ứng tại cảng hàng không.
+ Thực hiện bảo trì, bảo dưỡng kết cấu hạ tầng, trang bị, thiết bị của
cảng hàng không thuộc phạm vi được giao quản lý theo quy định.
+ Thực hiện việc tuyên truyền, phổ biến pháp luật về bảo đảm an ninh,
an toàn hàng không.
- “Airlines and aircraft operators” – người khai thác tàu bay: là tổ chức,
cá nhân tham gia khai thác tàu bay và được cơ quan có thẩm quyền cấp hoặc
15
công nhận Giấy chứng nhận người khai thác tàu bay. Người khai thác tàu bay
là cá nhân không được phép khai thác tàu bay vì mục đích thương mại. Người
khai thác tàu bay có trách nhiệm:
+ Duy trì hệ thống quản lý đủ khả năng kiểm tra và giám sát khai thác
tàu bay an toàn.
+ Thực hiện quy định của tài liệu hướng dẫn khai thác.
+ Bảo đảm các phương tiện và dịch vụ mặt đất để khai thác tàu bay an
toàn.
+ Bảo đảm mỗi tàu bay khi khai thác có đủ thành viên tổ bay được huấn
luyện thành thạo cho các loại hình khai thác.
+ Tuân thủ các yêu cầu về bảo dưỡng, sửa chữa tàu bay.
+ Thực hiện đúng quy định trong Giấy chứng nhận người khai thác tàu
bay, kể cả trong trường hợp sử dụng dịch vụ và nhân lực theo hợp đồng hỗ trợ
khai thác, bảo dưỡng tàu bay.
+ Tuân thủ các quy định khác về khai thác tàu bay.
- “Air Control” – cơ quan quản lý hoạt động bay: là tổ chức điều hành
hoạt động bay tại cảng hàng không, cho phép tàu bay được cất cánh, hạ cánh
tại cảng hàng không, trừ trường hợp phải hạ cánh bắt buộc.
Ngoài ra, “Cảng vụ hàng không” là một cơ quan nhà nước có nhiệm vụ
kiểm tra, giám sát mọi hoạt động tại cảng hàng không được thực hiện theo
đúng quy định của pháp luật; đồng thời có chức năng xử phạt các vi phạm
hành chính trong lĩnh vực hàng không dân dụng trong phạm vi được pháp luật
quy định.
Với các khái niệm “an ninh hàng không” và “cảng hàng không” nêu trên
có thể nói đảm bảo an ninh hàng không tại cảng hàng không là việc sử dụng
kết hợp các biện pháp, nguồn nhân lực, trang bị, thiết bị tại cảng hàng không
16
để phòng ngừa, ngăn chặn và đối phó với hành vi can thiệp bất hợp pháp vào
hoạt động hàng không dân dụng nhằm bảo vệ an toàn cho tàu bay, hành
khách, tổ bay và cơ sở vật chất, hạ tầng hàng không tại cảng hàng không.
1.2. Vai trò của việc đảm bảo an ninh hàng không tại cảng hàng không
Như đã trình bày ở phần trên, ngành hàng không dân dụng đang có sự
phát triển mạnh mẽ trên phạm vi toàn thế giới và dần trở thành một ngành
kinh tế trọng điểm, có vai trò, vị trí hết sức quan trọng trong sự phát triển của
mỗi quốc gia. Do đó, đảm bảo duy trì môi trường an ninh hàng không ổn
định, hiệu quả, bảo vệ an toàn cho hoạt động hàng không dân dụng góp phần
tích cực đảm bảo an ninh quốc gia, là một bộ phận không thẻ tách rời của an
ninh quốc gia.
Trong đó, việc bảo đảm an ninh hàng không tại cảng hàng không là vấn
đề được coi là quan trọng và cốt lõi nhất trong việc bảo đảm an ninh hàng
không vì cảng hàng không là điểm đến cũng như điểm kết thúc của mọi
chuyến bay. Mọi vấn đề ảnh hưởng đến an ninh, an toàn của chuyến bay cần
được loại trừ ngay tại cảng hàng không, nếu không các mối nguy hại không
được loại trừ khi đưa được lên tàu bay sẽ đem lại những hậu quả không thể
lường trước được. Bên cạnh đó, việc kiểm tra an ninh hàng không tại cảng
hàng không còn góp phần phát hiện ra các mối đe dọa hay các vi phạm luật
khác như vận chuyển trái phép ma túy, động vật hoang dã,… [18]
Thế giới đã từng chứng kiến sự kiện lịch sử ngày 11 tháng 9 năm 2001
được biết đến như một thảm họa kinh hoàng của ngành hàng không dân dụng
với thiệt hại tổng cộng lên đến 3 nghìn tỷ đô là và khiến cho 2.996 người chết,
hơn 6.000 người khác bị thương. Nguyên nhân được xác định là do một nhóm
khủng bố người Hồi giáo thuộc Tổ chức khủng bố Al-Quada đã thực hiện việc
cướp quyền điều khiển của các máy bay để sử dụng như một vũ khí khủng bố
tấn công vào các công trình của nước Mỹ mà quốc gia này không thể phòng
17
tránh hoặc đối phó được. Các cuộc điều tra không thể hiện rõ được cụ thể
cách thức chiếm quyền điều khiển tàu bay của các đối tượng trên nhưng một
vấn đề chắc chắn được nhận thấy là nếu cảng hàng không nơi các tàu bay bị
khủng bố làm tốt hơn nữa công tác đảm bảo an ninh hàng không như loại bỏ
các hành khách bị tình nghi là đối tượng khủng bố, đảm bảo phát hiện 100%
các vật phẩm nguy hiểm có thể được sử dụng làm vũ khí thực hiện hành vi
khủng bố thì có lẽ thảm họa đã không xảy ra.
Cũng có lẽ nhận ra được những nguyên nhân như vậy mà sau sự kiện
11/9, vấn đề an ninh hàng không tại các cảng hàng không đã được Chính phủ
Hoa Kỳ thắt chặt trên phạm vi cả nước như yêu cầu hành khách từ 12 quốc
gia gồm Syria, Algeria, Afghanistan, Iraq, Iran, Yemen, Cuba, Lebanon,
Libya, Somalia, Sudan và Triều Tiên phải làm thủ tục kiểm tra an ninh nâng
cao, nghĩa là công dân các nước ngày phải đứng sang một bên để khám xét
toàn thân và kiểm tra hành lý kĩ càng.
Bên cạnh đó, với tính chất là một địa điểm tập trung đông người, cảng
hàng không cũng luôn là một mục tiêu được cái đối tượng khủng bố ưu tiên
nhắm đến, có thể kể đến vụ việc đánh bom khủng bố tại sân bay Zaventem ở
Brussels Bỉ ngày 22/3/2016 làm 14 người thiệt mạng, 35 người bị thương và
không lâu sau đó vào ngày 28/6/2016, sân bay Ataturk, Istanbul, Thổ Nhĩ Kỳ
cũng đã bị đánh bom làm 41 người thiệt mạng, 106 người bị thương; cả 2 vụ
việc đều do lực lượng Nhà nước Hồi giáo tự xưng (IS) thực hiện.
Ngoài ra, cũng không thể không kể đến vụ việc khủng bố tại sân bay
quốc tế Tân Sơn Nhất ngày 22/4/2017 do một nhóm người thực hiện dưới sự
lôi kéo, chỉ đạo của các nhóm phản động ở nước ngoài bằng việc đặt bom
xăng tại một số vị trí công cộng tại Cảng hàng không với mục đích gây tiếng
vang trước thời điểm diễn ra ngày kỉ niệm chiến thắng 30/4 và quốc tế lao
động 01/5. Vụ việc đã được Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh đưa ra
18
xét xử sơ thẩm vào tháng 12/2017 và phúc thẩm ngày 04/6/2018.
Qua đó, có thể thấy các cuộc tấn công vào cảng hàng không đã ngày
càng tăng trong bối cảnh các địa điểm tập trung đông người và hành khách
lưu thông là mục tiêu được nhắm đến để thực hiện các hành vi đe dọa. ICAO
đã đánh giá các mối nguy này thực tế và cần được ngăn chặn [16].
Chính vì vậy, an ninh hàng không là nhiệm vụ đặc biệt quan trọng, đảm
bảo cho sự phát triển bền vững của ngành hàng không dân dụng Việt Nam,
cần được quan tâm thực hiện một cách thường xuyên, liên tục, phù hợp với
tình hình an ninh quốc tế ngày càng diễn biến phức tạp, khó lường [2, tr 1].
1.3. Tổng quan hệ thống pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam về đảm
bảo an ninh hàng không tại cảng hàng không
1.3.1. Về hệ thống pháp luật quốc tế
Hoạt động hàng không dân dụng là một hoạt động mang tính chất quốc
tế rất cao với sự kết nối qua nhiều lãnh thổ quốc gia nên việc điều chỉnh của
hệ thống pháp luật quốc tế là hết sức quan trọng. Trong đó, điều ước quốc tế
được xác định quan trọng nhất là Công ước Chicago 1944 về hàng không dân
dụng quốc tế. Mặc dù nội dung của Công ước Chicago 1944 không đề cập
một cách trực tiếp đến công tác đảm bảo an ninh hàng không tại cảng hàng
không nói riêng và đảm bảo an ninh hàng không nói chung nhưng các Tiêu
chuẩn và khuyến cáo thực hành quy định tại Phụ lục 17 – An ninh hàng không
để quy định một cách cụ thể về công tác đảm bảo an ninh hàng không.
Ngoài Công ước Chicago 1944, hệ thống pháp luật quốc tế về đảm bảo
an ninh hàng không còn bao gồm một số điều ước quốc tế sau:
- Công ước Tokyo 1963 về tội phạm và các hành vi vi phạm khác trên
tàu bay;
- Công ước Hague 1970 về loại trừ hành vi chiếm đoạt bất hợp pháp tàu
19
bay;
- Công ước Montreal 1971 về loại trừ những hành vi bất hợp pháp chống
lại an toàn hàng không dân dụng;
- Nghị định thư Montreal 1988 về loại trừ những hành vi bạo lực bất hợp
pháp tại các cảng hàng không phục vụ hàng không dân dụng quốc tế;
- Công ước Montreal 1991 về đánh dấu chất nổ dẻo cho mục đích phát
hiện;
- Công ước Bắc Kinh 2010 về ngăn chặn các hành vi bất hợp pháp liên
quan đế hàng không dân dụng quốc tế;
- Nghị định thư Bắc Kinh 2010 sửa đổi, bổ sung Công ước về ngăn chặn
các hành vi chiếm đoạt bất hợp pháp tàu bay.
Tình hình gia nhập và hiệu lực thực tế của các điều ước trên được tổng
hợp như sau:
Bảng 1.1: Các điều ƣớc quốc tế liên quan đến an ninh hàng không và tình
hình gia nhập của Việt Nam
STT Tên điều ƣớc Ngày Việt Nam phê Ngày có
chuẩn hoặc gia nhập hiệu lực
1 Công ước Chicago 1944 về 13/3/1980 12/4/1980
hàng không dân dụng quốc tế
2 Công ước Tokyo 1963 về tội 10/10/1979 08/01/1980
phạm và các hành vi vi phạm
khác trên tàu bay
3 Công ước Hague 1970 về ngăn 17/9/1979 17/10/1979
chặn các hành vi chiếm đoạt
bất hợp pháp tàu bay
4 Công ước Montreal 1971 về 17/9/1979 17/10/1979
ngăn chặn các hành vi bất hợp
20
pháp chống lại an toàn hàng
không dân dụng
5 Nghị định thư Montreal 1988 25/8/1999 24/9/1999
về ngăn chặn các hành vi bạo
lực bất hợp pháp tại sân bay
phục vụ hàng không dân dụng
quốc tế, bổ sung cho Công ước
Montreal 1971 về ngăn chặn
các hành vi bất hợp pháp chống
lại an toàn hàng không dân
dụng
6 Công ước Montreal 1991 về Chưa gia nhập
đánh dấu chất nổ dẻo cho mục
đích phát hiện
7 Công ước Bắc Kinh 2010 về Chưa gia nhập
ngăn chặn các hành vi bất hợp
pháp liên quan đến hàng không
dân dụng quốc tế
8 Nghị định thư Bắc Kinh 2010 Chưa gia nhập
sửa đổi, bổ sung Công ước về
ngăn chặn các hành vi chiếm
đoạt bất hợp pháp tàu bay
(Nguồn: Tổng hợp)
Với tổng quan các công ước quốc tế liên quan đến an ninh hàng không
như trên có thể thấy công tác đảm bảo an ninh hàng không tại cảng hàng
không chưa có một công ước hoặc nghị định thư nào quy định một cách
chuyên biệt tương tư như đối với các quy định về tội phạm và các hành vi vi
21
phạm khác trên tàu bay tại Công ước Tokyo 1963 mà chỉ được đề cập một
cách rải rác tại nhiều Công ước, Nghị định thư bổ sung. Trong khi đó, như đã
trình bày về khái niệm của “An ninh hàng không” thì nhiệm vụ cao nhất của
đảm bảo an ninh hàng không là các biện pháp phòng ngừa nhằm hạn chế tối
đa nguy cơ xảy ra các hành vi can thiệp bất hợp pháp vào hoạt động hàng
không dân dụng mà các biện pháp này chỉ được thực hiện hiệu quả nhất khi
được triển khai tại các cảng hàng không để kiểm soát hành khách, hành lý,
hàng hóa vận chuyển lên tàu bay.
Vì vậy, việc chưa có một Công ước hoặc Nghị định thư quy định riêng
biệt về việc đảm bảo an ninh hàng không tại cảng hàng không có thể coi là
một thiếu sót trong hệ thống pháp luật quốc tế về hàng không dân dụng nói
chung và an ninh hàng không nói riêng.
1.3.2. Về hệ thống pháp luật Việt Nam
Hệ thống các văn bản pháp luật về hàng không dân dụng hiện nay quy
định việc đảm bảo an ninh hàng không tại cảng hàng không của Việt Nam đề
cập đến các vấn đề chính sau: các biện pháp an ninh phòng ngừa và các biện
pháp ứng phó khi xảy ra hành vi can thiệp bất hợp pháp; phân công trách
nhiệm và phối hợp trong công tác bảo đảm an ninh hàng không; tổ chức lực
lượng kiểm soát an ninh hàng không; cơ sở vật chất, tài chính cho bảo đảm an
ninh hàng không tại cảng hàng không.
Hệ thống văn bản pháp quy về bảo đảm an ninh hàng không tại cảng
hàng không của Việt Nam hiện nay tương đối đầy đủ từ Luật cho đến Nghị
định và các Thông tư hướng dẫn, trong đó một số văn bản chủ yếu gồm:
- Luật Hàng không dân dụng Việt Nam năm 2006 (sửa đổi, bổ sung năm
2014);
- Nghị định số 66/2015/NĐ-CP ngày 12/8/2015 của Chính phủ quy định
22
về Nhà chức trách hàng không;
- Nghị định số 92/2015/NĐ-CP ngày 13/10/2015 của Chính phủ về an
ninh hàng không;
- Nghị định 102/2015/NĐ-CP ngày 20/10/2015 của Chính phủ về quản
lý, khai thác cảng hàng không, sân bay;
- Nghị định số 03/2009/NĐ-CP ngày 09/01/2009 của Chính phủ về công
tác bảo đảm chuyến bay chuyên cơ;
- Thông tư số 28/2010/TT-BGTVT ngày 13 tháng 9 năm 2010 của Bộ
trưởng Bộ Giao thông vận tải quy định chi tiết về công tác bảo đảm chuyến
bay chuyên cơ, được sửa đổi, bổ sung bởi Thông tư số 53/2015/TT-BGTVT
ngày 24 tháng 9 năm 2015.
- Thông tư số 18/2015/TT-BGTVT ngày 25/5/2015 của Bộ Giao thông
vận tải quy định về trang phục, phù hiệu, cấp hiệu của lực lượng kiểm soát an
ninh hàng không.
- Thông tư 17/2016/TT-BGTVT ngày 30/6/2016 của Bộ Giao thông vận
tải quy định chi tiết về quản lý, khai thác cảng hàng không, sân bay.
- Thông tư số 43/2017/TT-BGTVT ngày 16/11/2017 của Bộ Giao thông
vận tải quy định về đào tạo, bồi dưỡng, huấn luyện an ninh hàng không;
- Thông tư số 10/2018/TT-BGTVT ngày 14/3/2018 của Bộ Giao thông
vận tải quy định về nhân viên hàng không, đào tạo, huấn luyện và sát hạch
nhân viên hàng không;
- Thông tư số 13/2019/TT-BGTVT ngày 29/3/2019 của Bộ Giao thông
vận tải quy định chi tiết Chương trình An ninh hàng không và kiểm soát chất
lượng an ninh hàng không Việt Nam;
Trong số các văn bản trên thì Thông tư số 13/2019/TT-BGTVT ngày
29/3/2019 của Bộ Giao thông vận tải quy định chi tiết Chương trình An ninh
23
hàng không và kiểm soát chất lượng an ninh hàng không Việt Nam (sau đây
gọi tắt là Thông tư 13) là văn bản có thể nói là quan trọng nhất và là cơ sở để
thực hiện công tác đảm bảo an ninh hàng không tại cảng hàng không.
Có thể nói, Việt Nam đã xây dựng được một hệ thống pháp lý bảo đảm
an ninh hàng không tương đối toàn diện; nội luật hóa để đảm bảo tuân thủ đầy
đủ các tiêu chuẩn của Tổ chức hàng không dân dụng quốc tế (ICAO) và các
Công ước quốc tế, Nghị quyết của Liên Hợp quốc về chống khủng bố và an
ninh hàng không; đồng thời, các văn bản có tính đồng bộ thống nhất ở mức
cao, đạt tính khả thi, các nội dung quy định đề ra bám sát thực tiễn.
Tuy nhiên, mặc dù khá đầy đủ về mặt số lượng nhưng hệ thống các văn
bản pháp luật về bảo đảm an ninh hàng không tại cảng hàng không còn nằm ở
nhiều văn bản. Có thể kể đến như các quy định của Luật Hàng không dân
dụng Việt Nam và các Nghị định, Thông tư hướng dẫn vẫn chưa đảm bảo tính
thực tế cũng như cụ thể trong quá trình triển khai thực hiện dẫn đến Cục Hàng
không Việt Nam thường xuyên phải ban hành các văn bản hướng dẫn chi tiết
để hướng dẫn thi hành, có thể kể đến một số văn bản gồm:
- Văn bản số 1531/QĐ-CHK ngày 11/7/2017 về Danh mục vật phẩm
nguy hiểm cấm, hạn chế mang theo người, hành lý lên tàu bay;
- Văn bản số 38/CHK-ANHK ngày 04/01/2019 lưu ý về quy định giấy tờ
của hành khách sử dụng đi tàu bay;
- Văn bản số 3730/CHK-ANHK ngày 27/8/2019 hướng dẫn bảo đảm
ANHK đối với hàng hóa, bưu gửi quá cảnh, trung chuyển.
Bên cạnh đó, những nguyên tắc cơ bản về thiết lập, vận hành công tác
bảo đảm an ninh hàng không tại cảng hàng không, quy định về tổ chức lực
lượng kiểm soát an ninh hàng không vẫn còn chưa bắt kịp được sự phát triển
nhanh của ngành hàng không dân dụng của Việt Nam nói riêng và quốc tế nói
24
chung.
CHƢƠNG 2. QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT QUỐC TẾ VỀ AN NINH
HÀNG KHÔNG TẠI CẢNG HÀNG KHÔNG
2.1. Một số điều ƣớc quốc tế quan trọng liên quan đến an ninh hàng
không tại cảng hàng không
Trong hệ thống pháp luật quốc tế về hàng không dân dụng hiện nay, vấn
đề an ninh hàng không đã được đặt ra và nằm rải rác trong một số điều ước
quốc tế như Công ước Chicago 1944 về hàng không dân dụng quốc tế, Công
ước Tokyo 1963 về tội phạm và các hành vi vi phạm khác trên tàu bay, Công
ước Hague 1970 về loại trừ hành vi chiếm đoạt bất hợp pháp tàu bay, Công
ước Montreal 1971 về loại trừ những hành vi bất hợp pháp chống lại an toàn
hàng không dân dụng,… Đặc biệt, các quy định cụ thể về an ninh hàng không
tại cảng hàng không chưa được thể hiện một cách thực sự rõ ràng trong hệ
thống các điều ước quốc tế hiện tại trong lĩnh vực hàng không dân dụng mà
chỉ chiếm một nội dung tương đối nhỏ trong một số các điều ước quốc tế nêu
trên. Vì vậy, trong phạm vi của luận văn này, tôi xin trình bày một số điều
ước quốc tế mà trong đó nội dung của điều ước có quy định liên quan đến an
ninh hàng không tại cảng hàng là Công ước Chicago năm 1944 về hàng
không dân dụng quốc tế, Công ước Montreal năm 1971 về ngăn chặn các
hành vi bất hợp pháp chống lại an toàn hàng không dân dụng và Nghị định
thư Montreal 1988 bổ sung cho Công ước Montreal 1971, Công ước Bắc
Kinh 2010 về ngăn chặn các hành vi bất hợp pháp vào hoạt động hàng không
dân dụng quốc tế.
2.1.1. Công ước Chicago năm 1944 về hàng không dân dụng quốc tế
Vào tháng 11/1944, trên cơ sở đề xuất của Hoa Kỳ và sau khi tham khảo
ý kiến giữa các nước đồng minh chủ yếu, Chính phủ Hoa Kỳ đã mời 55 quốc
gia tham dự Hội nghị Hàng không dân dụng quốc tế tại Chicago. Đã có
25
54 quốc gia tham dự Hội nghị này, kết thúc Hội nghị, Công ước về hàng
không dân dụng quốc tế đã được thông qua vào ngày 07/12/1944 với sự tham
gia của 52 quốc gia. Đến ngày 13/3/1980, Việt Nam chính thức gia nhập là
thành viên của Công ước Chicago 1944. Tính đến hết năm 2019 đã có 193
quốc gia và vùng lãnh thổ là thành viên của Công ước Chicago 1944.
Ngay trong Lời nói đầu của Công ước Chicago 1944 đã nhận định vấn
đề an ninh là một trong những vấn đề quan trọng của ngành hàng không dân
dụng, có thể bị ảnh hưởng bởi sự lạm dụng việc phát triển của ngành hàng
không dân dụng quốc tế: “Xét rằng sự phát triển trong tương lai của ngành
Hàng không dân dụng quốc tế có thể giúp đỡ lớn lao cho việc tạo ra và giữ
gìn tình hữu nghị và hiểu biết giữa các dân tộc và nhân dân trên thế giới,
song việc lạm dụng nó có thể trở thành mối đe doạ đối với nền an ninh
chung”.
Tuy nhiên, các quy định cụ thể về việc đảm bảo an ninh hàng không tại
cảng hàng không nói riêng và đảm bảo an ninh hàng không cho hoạt động
hàng không dân dụng nói chung chưa được đề cập một cách chi tiết trong nội
dung của Công ước. Thay vào đó, Công ước Chicago 1944 có một hệ thống
gồm 19 Phụ lục (được đánh số từ Annex 1 đến Annex 19) quy định một cách
cụ thể về các lĩnh vực có liên quan đến hoạt động hàng không dân dụng, trong
đó Phụ lục 17 được dành riêng để quy định về an ninh hàng không.
Bảng 2.1. Danh mục các Phụ lục của Công ƣớc Chicago 1944
PHỤ LỤC TÊN VĂN BẢN PHIÊN BẢN
MỚI NHẤT
ANNEX 1 Giấy phép cá nhân (Personnel Licensing) Phiên bản thứ 12,
tháng 7/2018
ANNEX 2 Các quy tắc của bầu trời (Rules Of The Phiên bản thứ 10,
Air) tháng 7/2005
26
ANNEX 3 Dịch vụ khí tượng cho hàng không quốc Phiên bản thứ 20,
tế (Meteorological Service for tháng 7/2018
International Air Navigation)
ANNEX 4 Biểu đồ hàng không (Aeronautical Phiên bản thứ 11,
Charts) tháng 7/2009
ANNEX 5 Đơn vị đo lường được sử dụng trong các Phiên bản thứ 5,
hoạt động trên không và mặt đất (Units of tháng 7/2010
Measurement to be used in air and
Ground Operations)
ANNEX 6 Khai thác tàu bay (Operation of Aircraft)
Phần I: Vận tải hàng không thương mại Phiên bản thứ 11,
quốc tế (Part I: International Commercial tháng 7/2018
Air Transport – Aeroplaned)
Phần II: Hàng không quốc tế (Part II: Phiên bản thứ 10,
International General Aviation – tháng 7/2018
Aeroplanes)
Phần III: Khai thác quốc tế (Part III: Phiên bản thứ 9,
International Operations – Helicopters) tháng 7/2018
ANNEX 7 Quốc tịch tàu bay và đăng ký nhãn hiệu Phiên bản thứ 6,
(Aircraft Nationality and Registration tháng 7/2012
Marks)
ANNEX 8 Khả năng bay của tàu bay Phiên bản thứ 12,
(Airworthniness of Aircraft) tháng 7/2018
ANNEX 9 Tạo điều kiện (Facilitations) Phiên bản thứ 15,
tháng 10/2017
27
ANNEX 10 Tập 1: Thiết bị hỗ trợ điều hướng vô Phiên bản thứ 7,
tuyến (Vol 1: Radio Navigational Aids) tháng 7/2018
Vol 2: Communication Procedures Phiên bản thứ 7,
including those with PANS status tháng 7/2016
Tập 3: Hệ thống giao tiếp (Vol 3: Phiên bản thứ 2,
Communication Systems) tháng 7/2007
Tập 4: Radar giám sát và hệ thống tránh Phiên bản thứ 5,
va chạm (Vol 4: Surveillance Radar and tháng 7/2014
Collision Avoidance Systems)
Tập 5: Tần số vô tuyến (Vol 5: Radio Phiên bản thứ 3,
Frequency Spectrum Utilization) tháng 7/2013
ANNEX 11 Dịch vụ không lưu (Air Traffic Services) Phiên bản thứ 15,
tháng 7/2018
ANNEX 12 Tìm kiếm và giải cứu (Search and Phiên bản thứ 8,
tháng 7/2004 Rescue)
ANNEX 13 Tai nạn tàu bay và điều tra sự cố (Aircraft Phiên bản thứ 11,
Accident and Incident Investigation) tháng 7/2016
ANNEX 14 Tập 1: Thiết kế và vận hành sân bay (Vol Phiên bản thứ 8,
1: Aerodromes Design and Operations) tháng 7/2018
Tập 2: Sân bay trực thăng (Vol 2: Phiên bản thứ 4,
Heliports) tháng 7/2013
ANNEX 15 Dịch vụ thông tin hàng không Phiên bản thứ 16,
(Aeronautical Information Services) tháng 7/2018
ANNEX 16 Tập 1: Tiếng ồn tàu bay (Vol 1: Aircraft Phiên bản thứ 8,
Noise) tháng 7/2017
28
Tập 2: Khí thải động cơ tàu bay (Vol 2: Phiên bản thứ 4,
Aircraft Engine Emissions) tháng 7/2017
Tập 3: Khí thải CO2 trên tàu bay (Vol 3: Phiên bản thứ
Aeroplane CO2 Emissions) nhất, tháng
7/2017
Tập 4: Chương trình bù đắp và giảm thiểu Phiên bản thứ
Carbon cho hàng không quốc tế (Vol 4: nhất, tháng
Carbon offsetting & Reducion Scheme 10/2018
for International Aviation (CORSIA))
ANNEX 17 An ninh – Bảo vệ an ninh hàng không dân Phiên bản thứ 10,
dụng quốc tế chống lại hành vi can thiệp tháng 4/2017
bất hợp pháp (Security – safeguarding
International Civil Aviation Against Acts
of Unlawful Interference)
ANNEX 18 Vận chuyển an toàn hàng hóa nguy hiểm Phiên bản thứ 4,
bằng đường hàng không (The Safe tháng 7/2011
Transport of Dangerous Goods by Air)
ANNEX 19 Quản lý an toàn (Safety Management) Phiên bản thứ 2,
tháng 7/2016
(Nguồn: [7])
Phụ lục 17 của Công ước Chicago 1944 được ban hành lần đầu tiên năm
1975 với tên gọi đầy đủ là “Annex 17, Security – Safeguarding International
Civil Aviation Against Acts of Unlawful Interference”, tạm dịch “Phụ lục 17,
An ninh – Bảo vệ an ninh hàng không dân dụng quốc tế chống lại hành vi can
thiệp bất hợp pháp” và phiên bản mới nhất của Phụ lục 17 là phiên bản lần
thứ 10 được ban hành vào ngày 03 tháng 8 năm 2017. Và vấn đề đảm bảo an
ninh hàng không tại cảng hàng không là một trong những nội dung quan trọng
29
nhất của Phụ lục 17.
Theo quy định tại Phụ lục 17, mỗi cảng hàng không của các quốc gia
tham gia Công ước sẽ phải thiết lập, thực hiện và duy trì một chương trình an
ninh hàng không tại cảng hàng không bằng văn bản để đáp ứng các yêu cầu
của chương trình an ninh hàng không dân dụng quốc gia, đồng thời phải thành
lập một ủy ban an ninh tại mỗi cảng hàng không để hỗ trợ cơ quan có thẩm
quyền trong vài trò điều phối việc thực hiện quy trình và kiểm soát an ninh
hàng không theo quy định trong chương trình an ninh hàng không của cảng
hàng không. Ngoài ra, các cảng hàng không cũng phải đảm bảo các yêu cầu
liên quan đến kiến trúc, cơ sở hạ tầng cần thiết để thực hiện các biện pháp
đảm bảo an ninh trong chương trình an ninh hàng không dân dụng quốc gia
được tích hợp vào thiết kế, xây dựng của cảng hàng không.
Như vậy, Phụ lục 17 đã quy định rất rõ trách nhiệm của đơn vị chủ quản
cảng hàng không phải thực hiện đầy đủ các quy định về đảm bảo an ninh hàng
không từ việc trang thiết bị, cơ sở hạ tầng, triển khai các biện pháp đảm bảo
an ninh theo các quy định của chương trình an ninh hàng không dân dụng
quốc gia. Chính vì lý do đó, Chương trình an ninh hàng không dân dụng quốc
gia được xem là nguồn luật quan trọng nhất trong việc thực hiện công tác đảm
bảo an ninh hàng không tại cảng hàng không.
Mục tiêu cao nhất mà Phụ lục 17 đặt ra là yêu cầu các quốc gia thành
viên phải thiết lập các biện pháp ngăn chặn vũ khí, chất nổ hoặc bất kỳ thiết
bị, vật phẩm nguy hiểm nào có thể sử dụng để thực hiện hành vi can thiệp bất
hợp pháp vào hoạt động hàng không dân dụng. Và để thực hiện mục tiêu này,
các biện pháp được hướng dẫn tại Phụ lục 17 tập trung chủ yếu vào việc đảm
bảo an ninh hàng không tại cảng hàng không nhằm phòng ngừa, ngăn chặn
các nguy cơ uy hiếp đến an ninh hàng không. Các biện pháp chủ yếu bao
gồm:
30
- Kiểm soát việc ra, vào tại cảng hàng không:
Trong biện pháp này, yêu cầu của Phụ lục 17 đặt ra đối với các cảng
hàng không của các quốc gia thành viên phải thực hiện kiểm soát chặt chẽ đối
với các đối tượng không phải là hành khách được phép ra, vào các khu vực
hạn chế của cảng hàng không; đồng thời ngăn chặn sự xâm nhập trái phép vào
cảng hàng không. Việc kiểm soát này được thực hiện bằng việc kiểm tra lý
lịch đối với những người được phép ra, vào; kiểm tra người, đồ vật mang theo
khi ra, vào khu vực hạn chế và phải chịu sự kiểm tra, giám sát an ninh trong
quá trình hoạt động tại khu vực hạn chế.
- Kiểm soát đối với hành khách và hành lý xách tay mang theo:
Biện pháp này được thực hiện đối với hành khách, hành lý xách tay xuất
phát và hành khách, hành lý xách tay chuyển giao, nối chuyến. Theo đó, đối
với hành khách, hành lý xách tay xuất phát thì yêu cầu của Phụ lục 17 đặt ra
là phải thực hiện biện pháp kiểm tra an ninh trước khi lên máy bay khởi hành
từ khu vực an ninh hạn chế. Còn đối với hành khách, hành lý xách tay chuyển
giao nối chuyến sẽ được kiểm tra như đối với hành khách, hành lý xách tay
xuất phát trừ trường hợp cảng hàng không thiết lập được một quy trình kiểm
tra liên tục đảm bảo những hành khách và hành lý đó đã được kiểm tra an
ninh tại điểm xuất phát và sau đó được bảo vệ khỏi sự can thiệp trái phép của
cảng hàng không đến khi lên máy bay khởi hành. Ngoài ra, Phụ lục 17 cũng
chỉ ra rằng chỉ cần bất cứ một sự tác động trái phép nào đó đối với hành
khách, hành lý xách tay xuất phát cũng như chuyển giao, nối chuyến sau khi
thực hiện thủ tục kiểm tra an ninh thì đều phải thực hiện lại toàn bộ việc kiểm
tra đối với các đối tượng bị nghi ngờ tác động đó.
- Kiểm soát đối với hành lý ký gửi:
Theo Phụ lục 17, hành lý ký gửi của hành khách cũng phải được kiểm tra
an ninh trước khi khởi hành lên tàu bay từ khu vực an ninh hạn chế; ngoài ra,
31
hành lý ký gửi phải được bảo vệ khỏi sự can thiệp trái phép sau khi được
kiểm tra an ninh, bất kỳ khi nào xác định tính toàn vẹn của hành lý ký gửi
không còn thì phải thực hiện việc kiểm tra lại trước khi đưa lên tàu bay.
Bên cạnh đó, trong Phụ lục 17 đã xác định một nguyên tắc hết sức quan
trọng đối với hành lý ký gửi đó là nguyên tắc “đồng bộ hành lý”. Khác với
hành lý xách tay luôn đi theo người của hành khách thì hành lý ký gửi luôn
tiềm ẩn nguy cơ đưa các chất nổ, vật phẩm nguy hiểm lên tàu bay để thực
hiện hành vi khủng bố mà chủ sở hữu của nó có thể không có mặt trên tàu
bay, do đó nguyên tắc trên là một nguyên tắc tối quan trọng trong việc đảm
bảo an ninh cho chuyến bay. Theo đó, các quốc gia thành viên của Công ước
phải đảm bảo không vận chuyển hành lý của những người không lên tàu bay
trừ khi hành lý đó được xác định là không có người đi kèm và được kiểm tra
một cách thích hợp.
- Kiểm soát đối với hàng hóa, bưu gửi:
Cũng giống như đối với hành khách, hành lý, việc kiểm soát hàng hóa,
bưu gửi cũng được Phụ lục 17 yêu cầu thực hiện các biện pháp kiểm tra an
ninh bắt buộc trước khi lên tàu bay và phải được bảo vệ một cách toàn vẹn
trong suốt quá trình sau khi kiểm tra an ninh đến khi lên tàu bay. Tuy nhiên,
Phụ lục 17 cũng đưa ra một trường hợp ngoại lệ của việc kiểm tra an ninh đối
với hàng hóa, bưu gửi đó là trong trường hợp hàng hóa, bưu gửi được xác
nhận và kiểm soát, chịu trách nhiệm bởi một đại lý được cơ quan có chức
năng chấp thuận sẽ không phải thực hiện việc kiểm tra an ninh nhưng hàng
hóa, bưu gửi đó sẽ được cấp trạng thái bảo mật đi kèm dưới dạng điện tử hoặc
văn bản trong chuỗi cung ứng an toàn.
Ngoại lệ trên đã từng được pháp luật Việt Nam nội luật hóa trong quy
định của Thông tư 30/2012/TT-BGTVT ngày 01/8/2012 của Bộ Giao thông
vận tải quy định chi tiết Chương trình an ninh hàng không dân dụng Việt Nam
32
và kiểm soát chất lượng an ninh hàng không dân dụng. Theo đó, người khai
thác cảng hàng không có thể áp dụng biện pháp kiểm tra an ninh xác suất tối
thiểu 30% đối với hàng hóa của các công ty chuyển giao nhận hàng hóa hàng
không khi đáp ứng các điều kiện theo quy định của pháp luật gồm:
+ Công ty chuyển giao nhận hàng hóa hàng không là khách hàng lớn,
thường xuyên được Cục Hàng không Việt Nam công nhận theo đề nghị của
người khai thác cảng hàng không;
+ Người khai thác cáng hàng không, sân bay có Quy chế, quy trình bảo
đảm an ninh hàng không thích hợp được Cục Hàng không Việt Nam phê
duyệt;
+ Hàng hóa cùng chủng loại, hàng hóa được sản xuất, phân loại, đóng
gói và bảo quản lưu giữ trong những khu vực bảo đảm được bảo vệ ngăn chặn
người không có trách nhiệm không vào được những khu vực này;
+ Hàng hóa vận chuyển đến cảng hàng không phải đảm bảo ngăn chặn
được người không có trách nhiệm tiếp cận, xâm nhập phương tiện vận
chuyển;
+ Nhân viên đóng gói, bảo quản, lưu giữ hàng hóa, người điều khiển
phương tiện vận chuyển hàng hóa phải qua lớp huấn luyện nhận thức về an
ninh hàng không.
Tuy nhiên, trên thực tế triển khai gần như không có công ty, đơn vị nào
đáp ứng được các điều kiện nêu trên nên việc kiểm tra an ninh hàng hóa, bưu
gửi tại Việt Nam đều được thực hiện 100% đối với hàng hóa, bưu gửi xuất
phát tại các cảng hàng không của Việt Nam. Chính vì vậy, kể từ Thông tư
01/2016/TT-BGTVT ngày 01/02/2016 của Bộ Giao thông vận tải quy định
chi tiết Chương trình an ninh hàng không và kiểm soát chất lượng an ninh
hàng không Việt Nam thay thế cho Thông tư 30/2012/TT-BGTVT đã bỏ quy
33
định ngoại lệ trên và đảm bảo 100% hàng hóa, bưu gửi xuất phát tại các cảng
hàng không Việt Nam phải thực hiện kiểm tra, soi chiếu an ninh theo đúng
quy trình, quy định.
- Kiểm soát đối với các loại hành khách đặc biệt
Các loại hành khách đặc biệt được đề cập đến trong Phụ lục 17 gồm có
hành khách là đối tượng của thủ tục tư pháp hoặc hành chính, vũ khí trên tàu
bay được vận chuyển bởi các nhân viên thực thi pháp luật. Để đảm bảo an
ninh đối với các đối tượng này, Phụ lục 17 đã đặt ra yêu cầu cần có phải sự
giám sát thích hợp và được sự cho phép của pháp luật quốc gia liên quan.
Riêng đối với vũ khí được vận chuyển trên tàu bay bởi các nhân viên thực thi
pháp luật thì Phụ lục 17 yêu cầu các vũ khí này không được để ở chế độ nạp
đạn và cất ở một nơi không thể tiếp cận với bất kỳ người nào trong thời bay.
- Đảm bảo an ninh mạng
Phụ lục 17 đã đặt ra một vấn đề hết sức phù hợp trong sự phát triển mạnh
mẽ của ngành công nghệ thông tin hiện nay khi quy định các biện pháp đảm
bảo an ninh nhằm ngăn chặn các mối đe dọa đến hệ thống mạng thông tin
hàng không. Theo đó, các quốc gia thành viên phải thực hiện các biện pháp
thích hợp để bảo vệ tính bảo mật, tính toàn vẹn của hệ thống công nghệ thông
tin, truyền thông được sử dụng cho mục đích hàng không dân dụng.
Từ nội dung của các biện pháp trên ta có thể thấy, Phụ lục 17 đã chỉ ra
các nguyên tắc chủ yếu nhằm hướng dẫn, khuyến nghị cho các quốc gia thành
viên trong việc thực hiện công tác đảm bảo an ninh hàng không để từ đó các
quốc gia thành viên có thể triển khai xây dựng hệ thống văn bản pháp luật của
quốc gia phù hợp với đặc điểm chính trị, kinh tế, xã hội của quốc gia đó
nhưng vẫn phù hợp với các biện pháp chung của hàng không dân dụng trên
34
thế giới.
2.1.2. Công ước Montreal năm 1971 về ngăn chặn các hành vi bất hợp
pháp chống lại an toàn hàng không dân dụng và Nghị định thư Montreal
1988 bổ sung cho Công ước Montreal 1971
Công ước Montreal 1971 về ngăn chặn các hành vi bất hợp pháp chống
lại an toàn hoạt động hàng không dân dụng được ký tại Montreal vào ngày 23
tháng 9 năm 1971 và được sửa đổi, bổ sung bằng Nghị định thư Montreal
1988. Việt Nam gia nhập Công ước Montreal 1971 vào ngày 17/9/1979.
Mặc dù nội dung của Công ước Montreal 1971 không quy định cụ thể về
công tác đảm bảo an ninh tại cảng hàng không nhưng với việc quy định các
biện pháp ngăn chặn các hành vi bất hợp pháp chống lại an toàn hoạt động
không dân dụng đã gián tiếp ảnh hưởng đến việc đảm bảo an ninh tại cảng
hàng không.
Tại khoản 1, điều 1 của Công ước Montreal 1971 đã nêu các hành vi bất
hợp pháp chống lại an toàn hoạt động hàng không dân dụng gồm:
- Có hành vi bạo lực đối với một người đang ở trên tầu bay trong khi bay
mà hành động đó sẽ gây nguy hiểm đến an toàn của tầu bay đó; hoặc
- Phá huỷ tầu bay đang sử dụng hoặc làm hỏng tầu bay dẫn đến mất khả
năng bay hoặc sẽ gây mất an toàn của tầu bay trong khi bay; hoặc
- Đặt hoặc chỉ đạo đặt vào tầu bay đang sử dụng, dù bằng bất cứ phương
thức nào, một thiết bị hoặc chất sẽ phá huỷ tầu bay hoặc gây thiệt hại cho tầu
bay dẫn đến làm mất khả năng bay, hoặc làm hỏng tầu bay dẫn đến mất an
toàn của tầu bay đang bay; hoặc
- Phá huỷ hoặc làm hỏng phương tiện dẫn đường hàng không hoặc cản
trở hoạt động của các thiết bị đó, nếu bất kỳ hành động nào như vậy sẽ gây
mất an toàn cho tầu bay đang bay.
- Chuyển thông tin mà mình biết là sai để làm mất an toàn cho tầu bay
35
đang bay.
Trong đó, việc đặt hoặc chỉ đạo đặt vào tầu bay đang sử dụng, dù bằng
bất cứ phương thức nào, một thiết bị hoặc chất sẽ phá huỷ tầu bay hoặc gây
thiệt hại cho tầu bay dẫn đến làm mất khả năng bay, hoặc làm hỏng tầu bay
dẫn đến mất an toàn của tầu bay đang bay là một hành vi cần được ngăn chặn
chính tại cảng hàng không.
Đến Nghị định thư Montreal 1988 đã bổ sung trực tiếp hành vi tội phạm
ảnh hưởng đến an toàn hàng không dân dụng tại cảng hàng không, cụ thể:
“Bất kỳ người nào thực hiện hành vi phạm tội nếu cố ý và bất hợp pháp
sử dụng bất kỳ một thiết bị, chất hoặc vũ khí nào để:
(a) thực hiện một hành vi bạo lực đối với người ở sân bay phục vụ hàng
không dân dụng quốc tế, xâm hại hoặc có thể xâm hại nghiêm trọng đến sức
khoẻ hoặc dẫn đến chết; hoặc
(b) phá huỷ hoặc làm hư hỏng nặng các trang thiết bị và các công trình
của sân bay phục vụ hàng không dân dụng quốc tế hoặc tầu bay chưa khai
thác đỗ tại đó hoặc làm gián đoạn các dịch vụ tại sân bay.
nếu hành động như vậy đe doạ hoặc có thể đe doạ an toàn ở sân bay
đó.”
Với những hành vi phạm tội trên, Công ước Montreal 1971 đã trao
quyền cho bất kỳ Quốc gia thành viên nào mà kẻ phạm tội hoặc tình nghi
phạm tội hiện diện trên lãnh thổ mình phải thực hiện việc bắt giam kẻ đó hoặc
áp dụng các biện pháp khác để bảo đảm sự hiện diện của kẻ đó, đồng thời
phải nhanh chóng tiến hành điều tra sơ bộ về vụ việc.
Bên cạnh quyền tài phán, các Quốc gia thành viên của Công ước này còn
có nghĩa vụ tại điều kiện thuận lợi cho chuyến bay bị trì hoãn hoặc bị gián
đoạn do việc thực hiện các hành vi phạm tội được tiếp tục chuyến đi của hành
khách và tổ bay ngay khi có thẻ mà không trì hoãn việc trao trả tàu bay và
36
hàng hóa trên tàu bay cho người sở hữu hợp pháp tàu bay.
Qua một số những nội dung cơ bản trên của Công ước Montreal 1971 có
thể thấy nội dung chính của Công ước này quy định chủ yếu việc xử lý đối
với các hành vi phạm tội chống lại an toàn hoạt động hàng không dân dụng để
đảm bảo việc xử lý của các Quốc gia thành viên được thống nhất và không
ảnh hưởng đến sự hoạt động chung của hàng không dân dụng. Bên cạnh đó,
với Nghị định thư Montreal 1988 bổ sung cho Công ước Montreal 1971 đã
góp phần gia tăng cơ sở pháp lý cho các quốc gia thành viên trong việc xử lý
đối với hành vi tội phạm ảnh hưởng đến an toàn hàng không dân dụng tại
cảng hàng không.
2.1.3. Công ước Bắc Kinh 2010 về ngăn chặn các hành vi bất hợp pháp vào
hoạt động hàng không dân dụng quốc tế
Nếu như Công ước Montreal 1971 tập trung chủ yếu vào việc ngăn chặn
các hành vi bất hợp pháp chống lại an toàn hàng không dân dụng thì sự ra đời
của Công ước Bắc Kinh năm 2010 đã đưa ra một phạm vi rộng hơn, đó là
ngăn chặn các hành vi bất hợp pháp liên quan đến hàng không dân dụng quốc
tế. Có thể nói, Công ước Bắc Kinh năm 2010 là một bản công ước hiện đại
hóa của Công ước Montreal 1971 và Nghị định thư Montreal 1988 [15].
Công ước Bắc Kinh năm 2010 được thông qua tại Bắc Kinh, Trung Quốc
vào ngày 10 tháng 9 năm 2010 với sự tham gia của 26 thành viên là quốc gia
và vùng lãnh thổ. Tính đến hết năm 2019, Việt Nam chưa tham gia vào Công
ước Bắc Kinh 2010 về ngăn chặn các hành vi bất hợp pháp vào hoạt động
hàng không dân dụng quốc tế.
Công ước Bắc Kinh năm 2010 đã xác định rõ các hành vi bất hợp pháp
vào hoạt động hàng không dân dụng quốc tế gây nguy hiểm cho an ninh, an
toàn của người, tài sản, ảnh hưởng nghiêm trọng đến hoạt động của hãng hàng
không, cảng hàng không, cơ quan điều hành hoạt động bay cũng như hình ảnh
37
về an ninh, trật tự của các quốc gia trên thế giới. Và để giải quyết tốt hơn các
mối đe dọa này thì Công ước Bắc Kinh năm 2010 chính là khung pháp lý để
xử lý các hành vi can thiệp bất hợp pháp vào hoạt động hàng không dân dụng.
Theo đó, Công ước Bắc Kinh năm 2010 đã quy định hình sự hóa một số
hành động khủng bố chống lại hoạt động hàng không dân dụng. Một trong số
đó là hành vi “sử dụng tàu bay phục vụ cho mục đích gây tử vong, thương
tích cơ thể nghiêm trọng hoặc thiết hại đối với tài sản hoặc môi trường”.
Quy định trên của Công ước Bắc Kinh năm 2010 đã nhắm thẳng vào vụ
việc khủng bố tại Mỹ ngày 11/9 với việc Tổ chức khủng bố Alqaeda đã sử
dụng tàu bay như một vũ khí để thực hiện hành vi khủng bố tại Mỹ. Chính vì
vậy mà sau khi Hội nghị ngoại giao tại Bắc Kinh kết thúc vào ngày
10/6/2011, đại diện Hoa Kỳ đã nhận định Công ước Bắc Kinh 2010 là một
cách không thể phù hợp hơn trước thềm lễ kỷ niệm vụ khủng bố 11/9.
Ngoài ra, trong nội dung của Công ước Bắc Kinh 2010 đã quy định bất
kỳ người nào sử dụng bất kỳ thiết bị, chất hoặc vũ khí nào thực hiện “hành vi
bạo lực đối với người tại sân bay phục vụ hàng không dân dụng quốc tế gây
ra hoặc có khả năng gây thương tích nghiêm trọng hoặc tử vong; hoặc là phá
hủy hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho các cơ sở vật chất của một sân bay
phục vụ hàng không dân dụng quốc tế hoặc hoặc làm gián đoạn dịch vụ của
sân bay, nếu một hành động như vậy gây nguy hiểm hoặc có khả năng gây
nguy hiểm cho sự an toàn tại sân bay đó.” thì đều được coi là một hành vi
phạm tội.
Bên cạnh trách nhiệm của cá nhân, thì Công ước Bắc Kinh 2010 còn xác
định trách nhiệm của Quốc gia thành viên trong việc tiếp tay, đóng góp bằng
bất kỳ hình thức nào để thực hiện một hay nhiều hành vi phạm tội.
Tuy nhiên, cũng giống như đa phần các Công ước khác thì Công ước
Bắc Kinh 2010 cũng quy định trường hợp ngoại lệ của Công ước là đối với
38
các hoạt động của các lực lượng vũ trang trong một cuộc xung đột vũ trang
theo luật nhân đạo quốc tế hoặc các hoạt động được thực hiện bởi các lực
lượng quân sự của một quốc gia trong việc thực hiện các nhiệm vụ chính
thức.
Với các hành vi phạm tội được Công ước Bắc Kinh năm 2010 quy định
thì mỗi quốc gia thành viên sẽ thực hiện các biện pháp cần thiết để thiết lập
quyền tài phán của mình trong các trường hợp sau:
- Khi hành vi phạm tội được thực hiện trên lãnh thổ của Quốc gia đó;
- Khi hành vi phạm tội được thực hiện đối với hoặc trên tàu bay đã đăng
ký tại Quốc gia đó;
- Khi hành vi phạm tội được thực hiện trên lãnh thổ của quốc gia đó với
cáo buộc phạm tội vẫn còn trên tàu;
- Khi hành vi phạm tội được thực hiện trên tàu bay được thuê mà đơn vị
cho thuê có địa điểm kinh doanh chính hoặc, nếu bên thuê không có địa điểm
kinh doanh đó có thường trú tại Quốc gia đó;
- Khi hành vi phạm tội được thực hiện bởi một quốc gia của Quốc gia
đó.
Ngoài ra, đối với các hành vi phạm được thực hiện đối với một quốc
gia của quốc gia đó hoặc khi hành vi phạm tội được thực hiện bởi một người
không quốc tịch có nơi cư trú thường xuyên trên lãnh thổ quốc gia đó thì quốc
gia có thể thiết lập quyền tại của mình đối với bất kỳ hành vi tội phạm nào.
Các Quốc gia thành viên khi phát hiện người phạm tội hoặc người cáo
buộc phạm tội có mặt tại quốc gia mình có thể đưa người phạm tội vào tù
hoặc thực hiện các biện pháp khác để đảm bảo sự hiện diện của người đó trên
lãnh thổ của quốc gia mình và thông báo việc giam giữ này cho quốc gia
thành viên có quyền tài phán đối với người phạm tội hoặc cáo buộc phạm tội
39
đó để đảm bảo thực thi quyền tài phán của quốc gia đó.
Có thể nói Công ước Bắc Kinh 2010 là một Công ước hiện đại hóa cho
Công ước Montreal 1971 về ngăn chặn các hành vi can thiệp bất hợp pháp
chống lại an toàn hàng không dân dụng và Nghị thư Montreal bổ sung năm
1988 qua việc đã đưa ra chi tiết, cụ thể và phù hợp hơn với hoàn cảnh thực tế
có thể xảy ra của các hành vi can thiệp bất hợp pháp hoạt động hàng không
dân dụng trong bối cảnh hàng không dân dụng thế giới có những sự phát triển
vô cùng mạnh mẽ trong thời đại mới.
2.2. Việc đảm bảo an ninh hàng không tại cảng hàng không của một số
quốc gia trên thế giới
2.2.1. Kinh nghiệm tổ chức đảm bảo an ninh hàng không tại cảng hàng
không của một số nước
2.2.1.1. Đối với Hoa Kỳ:
Tại Hoa Kỳ hiện có hơn 19.000 sân bay có quy mô khác nhau, trong khi
trên toàn cầu là gần 44.000, bao gồm sân bay trực thăng, dịch vụ taxi hàng
không thương mại, cảng hàng không dân dụng. Mỗi sân bay đều có những đặc
điểm khác nhau về diện tích, kết cấu với những biện pháp đảm bảo an ninh
khác nhau nhưng hầu hết đều có điểm chung là khả năng tiếp cận và mở cửa
đối với khu vực công cộng, việc này tạo cơ hội cho các đối tượng bất chính để
thực hiện các hành vi can thiệp bất hợp pháp tại cảng hàng không [21].
Hoa Kỳ thành lập Cục An ninh giao thông vận tải (Transportation
Security Adminitraion – TSA) trực thuộc Bộ An ninh nội địa, chịu trách
nhiệm về an ninh của tất cả các loại hình giao thông; là nhà chức trách về an
ninh hàng không của Hoa Kỳ chịu trách nhiệm xây dựng chính sách, quy
định, Chương trình an ninh hàng không dân dụng quốc gia; thực hiện thanh
tra, kiểm tra đánh giá thử nghiệm an ninh hàng không; kiểm tra soi chiếu hành
40
khách, hành lý hàng hóa; bố trí cảnh vệ đi trên các chuyến bay có nguy cơ
cao. Cảnh sát địa phương chịu trách nhiệm bảo vệ duy trì trật tự công cộng tại
các bến bãi nằm ngoài nhà ga, sân bay [3, tr 8].
2.2.1.2. Đối với Úc:
Thành lập Cục an ninh giao thông vận tải (Office of Transport Security –
OTS) chịu trách nhiệm về an ninh của tất cả các loại hình giao thông; là nhà
chức trách về an ninh hàng không của Úc trực thuộc Bộ giao thông và cơ sở
hạ tầng; có 06 văn phòng đại diện tại 06 vùng; có 360 nhân viên chịu trách
nhiệm xây dựng chính sách, quy định, Chương trình an ninh hàng không dân
dụng quốc gia; tiến hành thanh tra, kiểm tra đánh giá thử nghiệm an ninh hàng
không; thu nhận phân tích các thông tin tình báo để đưa ra các cảnh báo về an
ninh hàng không (tại các cơ quan tình báo của Úc cho phép có một nhân viên
của OTS biệt phái để thu nhận, phân tích thông tin). Tại các cảng hàng không,
lực lượng cảnh sát làm nhiệm vụ tại các khu vực công cộng, điều tra các vụ
việc và ứng phó đối với các hành vi can thiệp bất hợp pháp và sự cố về an
ninh hàng không. Bảo vệ các khu vực hạn chế và soi chiêu hành khách, hành
lý do các Công ty an ninh được OTS cấp phép thực hiện [3, tr 8].
2.2.1.3. Đối với Singapore:
Tổng Cục cảnh sát quốc gia Singapore là nhà chức trách về an ninh hàng
không dân dụng của Singapore, chịu trách nhiệm ban hành các văn bản quy
định về an ninh hàng không, xây dựng chương trình an ninh hàng không dân
dụng quốc gia; tiến hành thanh tra, kiểm tra đánh giá thử nghiệm an ninh hàng
không. Bộ phận an ninh thuộc Nhà chức trách hàng không Singapore có trách
nhiệm phối hợp với Tổng cục cảnh sát tham gia vào các quá trình trên. Tại
Cảng hàng không, Công ty An ninh được Tổng cục Cảnh sát quốc gia cấp
phép thực hiện nhiệm vụ bảo vệ khu vực hạn chế, kiểm tra soi chiếu hành
41
khách, hành lý (lực lượng này được gọi là lực lượng cảnh sát hỗ trợ - Auxiliry
Police); lực lượng cảnh sát quốc gia làm nhiệm vụ duy trì trật tự và tuần tra
tại cảng hàng không, xử lý vi phạm, ứng phó can thiệp [3, tr9].
2.2.1.4. Đối với Nhật Bản:
Cục Hàng không dân dụng (Civil Aviation Bureau – CAB) thuộc Bộ Đất
đai cơ sở hạ tầng và giao thông, là nhà chức trách về an ninh hàng không dân
dụng của Nhật Bản, chịu trách nhiệm ban hành các văn bản quy định về an
ninh hàng không, xây dựng chương trình an ninh hàng không dân dụng quốc
gia; tiến hành thanh tra, kiểm tra đánh giá thử nghiệm an ninh hàng không và
đào tạo huấn luyện nhân viên an ninh hàng không. Tại Cảng hàng không,
người khai thác cảng chịu trách nhiệm duy trì trật tự và bảo vệ khu vực hạn
chế; Công ty an ninh được Cục hàng không dân dụng cấp phép thực hiện
nhiệm vụ kiểm tra soi chiếu hành khách, hành lý (hãng hàng không tự lựa
chọn công ty an ninh được cấp phép hoạt động) [3, tr9].
2.2.1.5. Đối với Ấn Độ:
Cục An ninh hàng không dân dụng Ấn Độ (Bureau of Civil Aviation
Security of India – BCAS) là một Cục độc lập có 04 văn phòng khu vực đặt
tại 4 sân bay quốc tế Delhi, Mumbai, Kolkata và Chennai, là nhà chức trách
về an ninh hàng không dân dụng của Ấn Độ, chịu trách nhiệm xây dựng, thực
hiện và duy trì Chương trình an ninh hàng không dân dụng quốc gia; tiến
hành thanh tra, kiểm tra đánh giá thử nghiệm an ninh hàng không và đào tạo
huấn luyện nhân viên an ninh hàng không; bảo vệ khu vực hạn chế, kiểm tra
soi chiếu hành khách, hành lý tại cảng hàng không [3, tr9].
2.2.1.6. Đối với Đức:
Bộ Giao thông xây dựng, phát triển đô thị (Federal Ministry of
Transport, Building and Urban Afairs) là nhà chức trách về an ninh. Bộ Nội
vụ bố trí lực lượng cảnh sát liên bang tại sân bay (cảnh sát sân bay) chịu trách
42
nhiệm ngăn ngừa các hành vi can thiệp bất hợp pháp (không tặc, phá hoại…);
kiểm tra, soi chiếu hành khách, hành lý; tuần tra, giám sát nhà ga, vành đai,
các khu vực an ninh hạn chế; thực hiện các biện pháp an ninh tăng cường khi
có nguy cơ cao, an ninh trong khi bay, kiểm tra an ninh tàu bay và bố trí nhân
viên an ninh đi trên các chuyến bay; kiểm tra cấp giấy phép cho nhân viên soi
chiếu, thanh tra, kiểm tra, khảo sát, thử nghiệm an ninh; kiểm soát xuất nhập
cảnh. Người khai thác cảng hàng không chịu trách nhiệm kiểm tra soi chiếu
nhân viên vào các khu vực hạn chế; cấp thẻ kiểm soát an ninh cho các đối
tượng vào khu vực hạn chế. Công ty tư nhân do cảnh sát sân bay và người
khai thác cảng hàng không thuê thời hạn 05 năm để trực tiếp làm nhiệm vụ
kiểm tra soi chiếu.
Qua công tác tổ chức lực lượng kiểm soát an ninh hàng không của một
số quốc gia trên có thể thấy mô hình tổ chức về hệ thống cơ quan an ninh
hàng không của các quốc gia trên thế giới tương đối đa dạng phụ thuộc vào
các yếu tố về trình độ phát triển của nền kinh tế nói chung và của ngành Hàng
không dân dụng nói riêng; tình hình an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội
của quốc gia; âm mưu, phương thức, thủ đoạn hoạt động, các nguy cơ khủng
bố, các loại tội phạm quốc tế, trong nước và tình hình nguy cơ khủng bố. Mô
hình tổ chức hệ thống an ninh hàng không của các quốc gia trên thế giới
tương đối khác nhau, có thể lực lượng an ninh hàng không thuộc nhà nước
hoặc thuộc doanh nghiệp. Tuy nhiên, xu hướng chung sau vụ khủng bố hàng
không ngày 11/9/2001 của các quốc gia đều đưa lực lượng an ninh hàng
không độc lập với doanh nghiệp hàng không khác (thuộc Chính phủ hoặc là
doanh nghiệp chuyên trách cung cấp dịch vụ an ninh hàng không) [3, tr9].
2.2.2. Công tác thực hiện bảo đảm an ninh hàng không tại cảng hàng
không trên thế giới
43
2.2.2.1 Tại Hoa Kỳ:
Hoa Kỳ là một quốc gia có nền công nghệ kỹ thuật tiên tiến cũng như là
một trong những mục tiêu hàng đầu của các đối tượng khủng bố nên các biện
pháp đảm bảo an ninh hàng không tại các cảng hàng không của Hoa Kỳ đã
được triển khai rất sớm từ những thời kỳ đầu của hoạt động hàng không dân
dụng. Sân bay quốc tế New Orleans của Mỹ là nơi đầu tiên sử dụng máy dò
kim loại và lưu hồ sơ hành khách để tăng cường an toàn hàng không từ những
năm đầu của thập niên 70.
Đến ngày 10/11/1972, Quốc hội Mỹ thông qua Đạo luật an ninh vận tải
hàng không. Một trong những thiết bị quan trọng được yêu cầu sử dụng trong
sân bay Mỹ là máy dò kim loại và máy chiếu X-quang. Chúng dùng để kiểm
tra các túi đồ xách tay của hành khách. Sau đó, hội ủng hộ người tiêu dùng đã
kiện phán quyết này với lý do các máy dò kim loại vi phạm vào việc lục lọi và
bắt giữ vô lý. Tòa án đã đồng ý với lập luận này. Dù bị coi là phạm luật, máy
soi vẫn được xem là hợp pháp khi dùng cho các trường hợp phổ quát như tìm
vũ khí hoặc chất nổ.
Sau sự kiện 9/11 tại Mỹ, tất cả vật thể có cạnh hoặc mũi sắc nhọn đều bị
cấm để trong hành lý xách tay. Hành khách cũng không còn được phép tập
trung tại nhà vệ sinh phía trước của bất kỳ hãng máy bay thương mại nào. Và
từ sự kiện 11/9 đã thúc đẩy đạo luật An ninh Hàng không và Giao thông được
thông qua. Chính phủ liên bang Mỹ chịu trách nhiệm cho tất cả các cuộc kiểm
tra an ninh hàng không, cơ quan quản lý an ninh giao thông (TSA) được thành
lập.
Đến cuối năm 2010, TSA bắt đầu thay thế các máy dò kim loại cũ bằng
công nghệ hình ảnh tiên tiến, cơ bản cho phép một số nhân viên an ninh trong
phòng kín có thể nhìn thấy toàn bộ cơ thể của hành khách. Tuy nhiên, hình
ảnh “khỏa thân” của hành khách từ máy quét toàn thân bị rò rỉ trên các
44
phương tiện truyền thông. Sau đó, TSA thông báo chuyển sang sử dụng một
phiên bản máy quét mới tạo ra hình ảnh giống như phim hoạt hình hơn. Hành
khách có thể chọn không sử dụng quét hình ảnh toàn thân, thay vào đó cho
phép một nhân viên an ninh cùng giới kiểm tra bằng tay.
Việc sử dụng máy quét toàn thân như trên là một biện pháp tương đối
triệt để trong công tác kiểm tra người của hành khách đi tàu bay và Tổng công
ty Cảng hàng không Việt Nam đang có lộ trình để nghiên cứu, áp dụng thử
nghiệm sử dụng máy quét toàn thân “Body scan” tại một số cảng hàng không
lớn của Việt Nam như Cảng HKQT Nội Bài, Cảng HKQT Tân Sơn Nhất để
triển khai áp dụng rộng rãi tại các cảng hàng không của Việt Nam.
Có thể nói, an ninh hàng không tại các cảng hàng không của Hoa Kỳ là
một trong những hệ thống đảm bảo an ninh hàng không chặt chẽ và hiện đại
nhất trên thế giới hiện nay.
2.2.2.2. Tại Nhật Bản
Bên cạnh các biện pháp đảm bảo an ninh truyền thống như sử dụng hệ
thống máy soi chiếu tia X, cổng từ, thiết bị phát hiện kim loại cầm tay, camera
giám sát an ninh,… thì từ ngày 03/6/2019, sân bay quốc tế Narita của Nhật
Bản bắt đầu triển khai 'biệt đội' 4 robot làm nhiệm vụ tuần tra, nhằm đảm bảo an
ninh tại sân bay này khi lượng du khách tới Nhật Bản dự kiến tăng đột biến thời
điểm trước và trong khi diễn ra Đại hội thể thao Olympic và Paralympic Tokyo
2020.
Tập đoàn cảng hàng không quốc tế Narita đã thông báo kế hoạch trên ngày
30/5, đồng thời cho ra mắt 'biệt đội' robot an ninh này.
Với thiết kế cao 1,2m, mỗi robot an ninh được trang bị một loạt công nghệ
đảm bảo an ninh như camera với góc quay 360 độ, thiết bị cảm biến nhiệt, máy
dò kim loại.
Mỗi cặp robot sẽ làm nhiệm vụ tuần tra an ninh tại Cảng hàng không số 1
45
và số 2 của sân bay Narita nằm ở tỉnh Chiba, giáp thủ đô Tokyo, Trong buổi thử
nghiệm ngày 29/5/2019, robot đã thực hiện thành công kiểm tra thùng rác phát
hiện vật thể khả nghi và truyền thông tin đến trạm kiểm soát.
Đây sẽ là lần đầu tiên robot được đưa vào làm nhiệm vụ giám sát an ninh
tại sân bay của Nhật Bản, qua đó mở ra một biện pháp đảm bảo an ninh mới tại
quốc gia này.
2.2.2.3. Tại Israel
Trong số các sân bay trên thế giới thì sân bay Ben Gurion của Israel là
một trong những phi trường an toàn nhất hành tinh nhờ các biện pháp an ninh
gắt gao.
Ben Gurion là sân bay quốc tế lớn nhất của Israel, đón tiếp gần 12 triệu
lượt hành khách năm 2010. Phi trường được đánh giá hàng đầu khu vực
Trung Đông này nằm gần thành phố Lod, phía đông nam Ten Aviv. Sân bay
Ben Gurion có quy mô trung bình nhưng được biết đến khắp thế giới như là
một trong những nơi được đảm bảo an ninh tốt nhất.
Để có được uy tín nói trên, Ben Gurion đang sử dụng cả cảnh sát lẫn
quân đội tham gia bảo vệ an ninh. Lực lượng này hoạt động với sắc phục
riêng lẫn những nhân viên mặc thường phục trà trộn vào đám đông để phát
hiện mọi mối đe doạ, đồng thời duy trì sự cảnh giác cao độ.
Đất nước Do Thái Israel vốn là mục tiêu tấn công từ lâu của các chiến
binh Hồi giáo, nên việc sân bay Ben Gurion được thắt chặt an ninh là điều dễ
hiểu. Sân bay này từng chứng kiến một số vụ tấn công khủng bố nhưng chưa
từng có âm mưu cướp chiếc máy bay nào xuất phát từ đây thành công.
Sự thắt chặt an ninh cho sân bay Ben Gurion khiến hành khách qua lại
mất nhiều thời gian. Tất cả các loại xe hơi, taxi, xe buýt và xe tải tiến vào khu
vực sân bay đều phải đi qua một trạm kiểm soát vòng ngoài. Tại đây lực
lượng bảo vệ có vũ trang kiểm tra tỉ mỉ từng chiếc xe, riêng xe buýt họ sẽ
46
bước hẳn lên và trao đổi với tài xế cũng như hành khách.
Tại lối vào các nhà ga của sân bay, nhân viên an ninh có vũ trang cũng
đứng gác và quan sát chặt chẽ bất cứ ai bước vào trong. Nếu phát hiện ai có
dấu hiệu khả nghi hoặc có biểu hiện bất thường, họ sẽ chặn lại thẩm vấn để
đánh giá thêm. Bên ngoài các toà nhà của sân bay cũng luôn có an ninh đi
tuần, kết hợp với camera theo dõi bí mật hoạt động suốt 24/24h. Việc sử dụng
camera quan sát, trí thông minh và phát hiện hành vi (chú trọng vào hành vi
thay vì hồ sơ chủng tộc phân biệt đối xử) sẽ đóng vai trò chính trong an ninh
hàng không tốt hơn. Hầu hết các sân bay có thể học hỏi từ cách tiếp cận hành
vi thành công được sử dụng cho các mức độ đe dọa cao tại Sân bay Israel Ben
Ben Gurion [8].
Còn bên trong các toà nhà của sân bay là phần việc của các nhân viên an
ninh mặc đồng phục và thường phục. Những hành khách chuẩn bị lên máy
bay thường được các nhân viên an ninh xét hỏi riêng trước khi họ tới các quầy
làm thủ tục check-in. Thủ tục này có thể mất một phút hoặc tới một tiếng đối
với ai bị lọc ra để kiểm tra thêm bằng những biện pháp bổ sung như khám
người.
Trong phần lớn những trường hợp, những câu hỏi của họ không dài và
hành khách sẽ nhanh chóng được cho phép bước vào cổng. Những nhân viên
an ninh sẽ tập trung chú ý vào một số trường hợp - một hành khách có vẻ
ngoài khác thường, hay một ai đó đến Israel để du lịch, nhưng lại không nhớ
được những gì mình đã tham quan.
Sau đó hành khách sẽ phải trả lời một số câu hỏi thăm dò từ những nhân
viên an ninh trong khi hành lý của anh ta được lục soát cẩn thận. Nếu như
không có được những câu trả lời thỏa đáng, anh ta sẽ được đưa vào một
phòng riêng cho một nhóm nhà điều tra dày kinh nghiệm thẩm vấn.
Hành lý xách tay đều phải trải qua máy quét như mọi sân bay khác từ
47
trước khi làm thủ tục lên máy bay và hầu hết đều được các nhân viên kiểm tra
lại bằng tay. Sự khác biệt của sân bay Ben Gurion chính là việc họ coi trọng
kỹ thuật kiểm tra trực giác của nhân viên như đối với máy móc. Điều này
khiến hành khách mất nhiều thời gian hơn và thường nhận những lời than
phiền.
Nhưng nhờ sự tỉ mỉ và triệt để của an ninh Israel, đến nay chưa từng có
âm mưu cướp máy bay nào trót lọt tại phi trường Ben Gurion. Sự an toàn của
phi trường này thường được lấy làm hình mẫu như lời Tổng thống Nga
Dmitry Medvedev vừa nhắc tới sau vụ khủng bố. Tuy nhiên, các biện pháp an
ninh của Ben Gurion, một sân bay có quy mô trung bình, rất khó áp dụng tại
những sân bay có quy mô lớn hơn như Domodedovo của Matxcơva.
Qua đó, bài học quan trọng nhất rút ra từ sự an toàn của sân bay Ben
Gurion là ứng dụng nhiều hơn kỹ thuật phân tích hành vi và hồ sơ hành khách
của nhân viên an ninh, cộng với sự hỗ trợ bằng công nghệ dò tìm bằng máy
móc. Đây dường như là cách hiệu quả hơn cả để tăng cường an ninh cho các
sân bay, nơi mà không thể chuyển thành khu vực bất khả xâm phạm đối với
tất cả những ai không có thẻ lên máy bay.
Nhìn chung, các biện pháp đảm bảo an ninh tại các cảng hàng không trên
thế giới phần lớn được thực hiện theo một quy chuẩn với các biện pháp đảm
bảo an ninh chung theo quy định của Annex 17, Công ước Chicago 1944. Tuy
nhiên, với một số quốc gia có tình hình chính trị phức tạp hoặc yêu cầu về an
ninh cần được thắt chặt hơn như Hoa Kỳ, Israel,… có thể bổ sung các biện
pháp đảm bảo an ninh đặc thù nhằm nâng cao hiệu quả kiểm soát an ninh
hàng không tại cảng hàng không như một số các biện pháp đã trình bày ở trên.
Đây là các biện pháp không bắt buộc nhưng trong xu thế phát triển của ngành
hàng không dân dụng thế giới thì đây cũng có thể là những ví dụ điển hình để
48
Việt Nam có thể học tập và áp dụng tại các cảng hàng không của Việt Nam.
CHƢƠNG 3. THỰC TIỄN ĐẢM BẢO AN NINH HÀNG KHÔNG TẠI
CÁC CẢNG HÀNG KHÔNG CỦA VIỆT NAM
VÀ ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN
3.1. Thực tiễn đảm bảo an ninh hàng không tại các cảng hàng không của
Việt Nam
3.1.1. Các biện pháp đảm bảo an ninh hàng không tại cảng hàng không của
Việt Nam
Trong hệ thống pháp luật của Việt Nam hiện nay, Luật hàng không dân
dụng Việt Nam năm 2006, sửa đổi, bổ sung năm 2014 là văn bản có hiệu lực
pháp lý cao nhất trong lĩnh vực hang không dân dụng nói chung và an ninh
hàng không nói riêng. Khái niệm “An ninh hàng không” được nhắc đến xuyên
suốt trong toàn bộ nội dung của văn bản luật và được quy định cụ thể tại một
chương riêng biệt (Chương VIII). Qua đó, có thể thấy được vai trò quan trọng
của an ninh hàng không trong hoạt động hàng không dân dụng.
Bên cạnh khái niệm về an ninh hàng không đã được đề cập trong luận
văn này, Điều 191, Luật hàng không dân dụng Việt Nam đã quy định cụ thể
các biện pháp đảm bảo an ninh hàng không, bao gồm:
“a) Bảo vệ an ninh, quốc phòng, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội theo quy
định của pháp luật về an ninh quốc gia, quốc phòng, công an nhân dân,
phòng, chống khủng bố và pháp luật khác có liên quan;
b) Thiết lập khu vực hạn chế tại cảng hàng không, sân bay và nơi có
công trình, trang bị, thiết bị hàng không để bảo vệ tàu bay và công trình, trang
bị, thiết bị tại khu vực đó;
c) Kiểm tra, soi chiếu, giám sát an ninh hàng không đối với tàu bay,
49
phương tiện, người, hành lý, hàng hóa, việc ra, vào và hoạt động trong khu
vực hạn chế theo quy định; lục soát đối với tàu bay, phương tiện, người, hành
lý, hàng hóa khi có dấu hiệu uy hiếp an ninh hàng không;
d) Loại trừ khả năng chuyên chở bất hợp pháp vật phẩm nguy hiểm bằng
đường hàng không; áp dụng biện pháp phòng ngừa đặc biệt khi cho phép
chuyên chở vật phẩm nguy hiểm, đối tượng tiềm ẩn uy hiếp an ninh hàng
không; cấm vận chuyển vĩnh viễn hoặc có thời hạn đối với hành khách gây
rối, người có hành vi can thiệp bất hợp pháp vào hoạt động hàng không dân
dụng hoặc trường hợp theo yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Hành khách gây rối là hành khách cố ý không chấp hành quy định về an
toàn hàng không, an ninh hàng không, trật tự công cộng tại cảng hàng không,
sân bay, trên tàu bay hoặc có hành vi tung tin, cung cấp thông tin sai uy hiếp
an toàn hàng không;
đ) Giám sát an ninh hàng không, duy trì trật tự, kỷ luật tại cảng hàng
không, sân bay, nơi có công trình, trang bị, thiết bị hàng không và trên tàu
bay;
e) Phòng, chống khủng bố trên tàu bay;
g) Áp dụng các biện pháp phòng ngừa đặc biệt khi cho phép vận chuyển
đối tượng nguy hiểm;
h) Kiểm soát an ninh nội bộ đối với nhân viên hàng không;
i) Đối phó với hành vi can thiệp bất hợp pháp vào hoạt động hàng không
dân dụng.”
Trong số các biện pháp trên, có thể thấy phần lớn các biện pháp được
đặt ra để áp dụng triển khai thực hiện tại các cảng hang không khi tập trung
chủ yếu vào biện pháp loại trừ vận chuyển các vật cấm, vật phẩm nguy hiểm
lên tàu bay.
Trên cơ sở các quy định của Luật Hàng không dân dụng Việt Nam,
50
Chính phủ đã ban hành một Nghị định riêng biệt quy định về An ninh hàng
không là Nghị định 92/2015/NĐ-CP ngày 13/10/2015. Với Nghị định này,
các biện pháp đảm bảo an ninh hang không đã được quy định một cách cụ thể
hơn nhưng để triển khai một cách đầy đủ, chi tiết thì theo quy định tại mục
3.1.1, chương 3, Phụ lục 17 Công ước Chicago 1944 : “Mỗi quốc gia ký kết sẽ
thiết lập và thực hiện một chương trình an ninh hàng không dân dụng bằng
văn bản để bảo vệ các hoạt động hàng không dân dụng chống lại các hành vi
can thiệp bất hợp pháp, thông qua các quy định, thông lệ và quy trình có tính
đến sự an toàn, đều đặn và hiệu quả của các chuyến bay.”
Vì vậy, để phù hợp với quy định trên, Bộ Giao thông vận tải đã ban hành
Thông tư số 13/2019/TT-BGTVT ngày 29/3/2019/ Quy định chi tiết Chương
trình an ninh hàng không và kiểm soát chất lượng hàng không Việt Nam. Đây
được coi là Chương trình an ninh hàng không quốc gia để các cơ quan, đơn
vị, doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực hàng không dân dụng triển khai
thực hiện công tác đảm bảo an ninh hàng không.
Trong đó, các biện pháp đảm bảo an ninh hàng không tại cảng hàng
không là nội dung chủ yếu và chiếm phần lớn của Thông tư 13/2019/TT-
BGTVT.
Theo đó, tại cảng hàng không tại Việt Nam phải tối thiểu đáp ứng các
biện pháp đảm bảo an ninh hàng không như sau:
3.1.1.1. Xây dựng hệ thống tài liệu, quy trình nghiệp vụ, hướng dẫn thực
hiện công tác đảm bảo an ninh
Trên cơ sở các quy định của Chương trình an ninh hàng không Việt
Nam, mỗi cảng hàng không phải xây dựng Chương trình an ninh hàng không
riêng đảm bảo phù hợp với thực tế khai thác tại cảng hàng không đó; đồng
thời, đơn vị cung cấp dịch vụ đảm bảo an ninh hàng không tại các cảng hàng
không phải xây dựng Quy chế an ninh hàng không của đơn vị để đảm bảo
51
thực hiện nhiệm vụ tại các cảng hàng không tương ứng.
Các tài liệu trên phải được sự chấp thuận, phê duyệt của Nhà chức trách
hàng không (cụ thể ở đây là Cục Hàng không Việt Nam) để đảm bảo hiệu lực
thực hiện; đồng thời, trong quá trình triển khai thực hiện Chương trình An
ninh hàng không và Quy chế An ninh hàng không trên phải được sự giám sát
của các Cảng vụ hàng không (là một đơn vị trực thuộc Cục Hàng không Việt
Nam) để kiểm tra việc thực thi.
3.1.1.2. Thiết lập hệ thống thẻ, giấy phép kiểm soát an ninh hàng không
vào và hoạt động tại khu vực hạn chế
Hệ thống thẻ, giấy phép kiểm soát an ninh hàng không được coi là biện
pháp đầu tiên để sàng lọc các đối tượng được phép ra vào khu vực hạn chế tại
cảng hàng không. Vì vậy, tại tất cả các cảng hàng không trên cả nước thì đây
là một biện pháp bắt buộc và có sự thực hiện đồng nhất cao do có sự hướng
dẫn cũng như kiểm soát chặt chẽ của Nhà chức trách hàng không.
Theo đó, hệ thống thẻ, giấy phép kiểm soát an ninh hàng không bao
gồm:
- Thẻ, giấy phép kiểm soát an ninh cảng hàng không, sân bay loại có giá
trị sử dụng dài hạn và loại có giá trị sử dụng ngắn hạn cấp cho người, phương
tiện được phép vào và hoạt động tại các khu vực hạn chế của cảng hàng
không, sân bay;
- Thẻ, giấy phép kiểm soát an ninh nội bộ loại có giá trị sử dụng dài hạn
và loại có giá trị sử dụng ngắn hạn được phép vào và hoạt động tại các khu
vực hạn chế riêng của doanh nghiệp;
- Thẻ nhận dạng tổ bay của hãng hàng không được phép vào và hoạt
động tại các khu vực hạn chế có liên quan đến nhiệm vụ của tổ bay.
Trong đó, hệ thống thẻ giấy phép, kiểm soát an ninh cảng hàng không,
52
sân bay là hệ thống thẻ, giấy phép được sử dụng nhiều nhất tại các cảng hàng
không để phục vụ cho quá trình ra, vào hoạt động tại các khu vực hạn chế của
cảng hàng không.
Để đảm bảo thuận lợi cho quá trình khai thác tại cảng hàng không,
Thông tư 13/2019/TT-BGTVT đã cho phép doanh nghiệp cảng hàng không
(cụ thể tại Việt Nam là Tổng Công ty Cảng hàng không Việt Nam) có thẩm
quyền cấp thẻ, giấy phép cho các đối tượng thuộc phạm vi quản lý của doanh
nghiệp hoặc do doanh nghiệp thuê làm nhiệm vụ khảo sát, thi công, xây dựng,
sửa chữa, bảo dưỡng trang thiết bị, công trình của mình.
Việc cấp, quản lý, sử dụng thẻ, giấy phép kiểm soát an ninh hàng không
phải tuân thủ các quy định của pháp luật và cụ thể hóa chi tiết tại Chương
trình An ninh hàng không của mỗi cảng hàng không.
3.1.1.3. Thiết lập khu vực hạn chế
Tại mỗi cảng hàng không sẽ tồn tại 02 khu vực tách biệt là khu vực công
cộng và khu vực hạn chế. Trong đó, khu vực công cộng là khu vực hoạt động
chung dành cho toàn bộ người, phương tiện chưa qua kiểm tra an ninh, khu
vực hạn chế là khu vực chỉ dành cho người, phương tiện tham gia vào quá
trình phục vụ chuyến bay, người, phương tiện khi ra, vào khu vực hạn chế
phải thực hiện kiểm tra, giám sát an ninh.
Chính vì vậy, việc thiết lập khu vực hạn chế là hết sức quan trọng tại mỗi
cảng hàng không, đặc biệt là các khu vực hạn chế liên quan trực tiếp trong các
giai đoạn phục vụ hành khách, hành lý, hàng hóa vì sau khi được kiểm tra an
ninh tại các khu vực này thì coi như đã được làm sạch và có thể tiếp xúc trực
tiếp với tàu bay. Do đó, Thông tư 13/2019/TT-BGTVT quy định cụ thể các
khu vực phải thiết lập khu vực hạn chế bao gồm:
- Khu vực hành khách sau khi đã kiểm tra soi chiếu người và hành lý chờ
để đi tàu bay (khu vực cách ly), khu vực từ điểm kiểm tra an ninh đối với
53
nhân viên nội bộ trước khi vào khu vực hạn chế vào bên trong nhà ga;
- Khu vực sân đỗ tàu bay, đường hạ cất cánh, đường lăn và các khu vực
khác trong sân bay (sân bay);
- Khu vực phục vụ hành lý ký gửi sau khi đã được kiểm tra an ninh hàng
không để đưa lên tàu bay (khu vực phân loại hành lý);
- Khu vực dành cho hành khách quá cảnh, nối chuyến chờ để chuyển tiếp
chuyến bay (khu vực quá cảnh);
- Khu vực phục vụ hàng hóa, bưu gửi sau khi đã kiểm tra soi chiếu để
đưa lên tàu bay (khu vực phân loại, lưu giữ, chất xếp hàng hóa, bưu gửi);
- Nhà khách phục vụ chuyến bay chuyên cơ, chuyến bay ưu tiên;
- Khu vực giao nhận hành lý cho hành khách tại nhà ga đến;
- Khu vực bảo dưỡng, sửa chữa, lắp đặt tàu bay;
- Khu vực sản xuất, chế biến, cung ứng suất ăn;
- Khu vực kho nhiên liệu cung cấp cho tàu bay;
- Trung tâm khẩn nguy cảng hàng không; Trung tâm khẩn nguy hàng
không quốc gia;
- Trung tâm kiểm soát đường dài, cơ sở kiểm soát tiếp cận, trung tâm
quản lý luồng không lưu;
- Đài kiểm soát tại sân bay, trạm ra-đa kiểm soát không lưu, trạm thông
tin điều hành bay;
- Trạm cấp điện, cấp nước của cảng hàng không, sân bay (nằm ngoài khu
vực hạn chế nhà ga, sân bay);
- Khu vực từ điểm soi chiếu hành lý ký gửi vào bên trong nhà ga;
- Khu vực từ điểm soi chiếu hàng hóa, bưu gửi để vận chuyển bằng tàu
bay vào bên trong nhà ga, nhà kho;
- Khu vực lắp đặt các thiết bị điều khiển trung tâm của hệ thống kỹ thuật
nhà ga, sân bay, kiểm soát cổng cửa ra vào nhà ga, sân bay, quản lý tòa nhà;
54
phòng giám sát an ninh bằng ca-me-ra; nơi đặt thiết bị điều khiển hệ thống
phát thanh, phát hình của cảng hàng không, sân bay; nơi đặt máy chủ hệ thống
máy tính phục vụ hoạt động của của cảng hàng không, sân bay.
Tùy vào thực tế tại mỗi cảng hàng không thì cảng hàng không sẽ phối
hợp với Cảng vụ hàng không khu vực để thống nhất, xác định từng khu vực
hạn chế trên và có thể thiết lập các khu vực hạn chế tạm thời trong trường hợp
phải tăng cường đảm bảo an ninh tại cảng hàng không.
3.1.1.4. Đảm bảo an ninh khu vực hạn chế
Do tính chất quan trọng của khu vực hạn chế, việc người, phương tiện,
đồ vật ra, vào khu vực hạn chế phải được sự kiểm tra chặt chẽ của lực lượng
kiểm soát an ninh hàng không. Việc kiểm tra này có thể được lực lượng kiểm
soát an ninh hàng không thực hiện bằng các thiết bị chuyên dùng như máy soi
chiếu tia X, cổng từ, thiết bị phát hiện kim loại cầm tay, camera soi gầm, soi
nóc,… hoặc trực tiếp bằng tay, mắt (kiểm tra trực quan). Việc kiểm tra này
được thực hiện 100% đối với người, phương tiện, đồ vật vào khu vực hạn chế
và có xác suất kiểm tra ngẫu nhiên 5%.
Bên cạnh đó, người, phương tiện hoạt động tại khu vực hạn chế cũng
được lực lượng kiểm soát an ninh hàng không giám sát thường xuyên liên tục
bằng việc bố trí nhân lực tuần tra, giám sát tại từng khu vực được phân công
cũng như hệ thống camera giám sát an ninh.
3.1.1.5. Kiểm tra, giám sát an ninh đối với hành khách, hành lý xách tay
xuất phát
Việc kiểm tra an ninh đối với hành khách, hành lý xách tay xuất phát có
thể nói là một hoạt động được thấy nhiều nhất tại mỗi cảng hàng không. Việc
kiểm tra này nhằm đảm bảo loại bỏ các vật phẩm nguy hiểm như bom, mìn,
vật liệu dễ cháy nổ, vũ khí, công cụ hỗ trợ, các vật phẩm có thể được sử dụng
làm vũ khí,… có thể được đưa lên tàu bay để uy hiếp hoạt động hàng không
55
dân dụng. Chính vì vậy, việc kiểm tra này được thực hiện đối với 100% hành
khách, hành lý xách tay, đối với các hành khách từ chối soi chiếu an ninh
hàng không sẽ bị từ chối vận chuyển.
Để đảm bảo việc kiểm tra, giám sát an ninh đối với hành khách, hành lý
xách tay xuất phát, tại mỗi cảng hàng không phải thiết lập các điểm kiểm tra
an ninh với đầy đủ lực lượng kiểm soát an ninh hàng không và các trang thiết
bị, cơ sở vật chất cần thiết để phục vụ công tác kiểm tra như: máy soi tia X,
cổng từ, thiết bị phát hiện kim loại cầm tay, dụng cụ, thiết bị phát hiện chất
nổ, thiết bị thông tin liên lạc và các thiết bị, dụng cụ cần thiết khác.
Việc kiểm tra, giám sát an ninh đối với hành khách, hành lý xách tay
xuất phát được thực hiện với những nội dung cơ bản như sau:
- Kiểm tra, đối chiếu giấy tờ về nhân thân của hành khách với vé, thẻ lên
tàu bay
Nhân viên kiểm soát an ninh hàng không sẽ kiểm tra giấy tờ tùy thân của
hành khách đi tàu bay và đối chiếu với vé, thẻ lên tàu bay để đảm bảo đúng
đối tượng được phép lên tàu bay cũng như kịp thời phát hiện các đối tượng
thuộc danh sách cấm bay, kiểm tra trực quan bắt buộc, truy nã,… để triển khai
các biện pháp đảm bảo an ninh phù hợp.
- Hướng dẫn hành khách thực hiện các yêu cầu cởi bỏ vật dụng cá nhân,
đặt hành lý, đồ vật lên băng chuyền máy soi tia X
Nhân viên kiểm soát an ninh hàng không sẽ hướng dẫn hành khách cởi
bỏ áo khoác, mũ, giầy, dép, thắt lưng, vật dụng cá nhân và các đồ vật khác
mang theo người; đặt các đồ vật, chất lỏng, thiết bị điện tử vào khay đưa qua
máy soi tia X trước khi đi qua cổng từ. Việc thực hiện các yêu cầu trên sẽ
giúp nhân viên kiểm soát an ninh hàng không sàng lọc sơ bộ được các đồ vật
mang theo của hành khách cũng như giúp việc kiểm tra qua màn hình máy soi
56
tia X được dễ dàng, thuận tiện hơn.
- Kiểm tra hành khách bằng thiết bị phát hiện kim loại cầm tay, dụng cụ,
thiết bị phát hiện chất nổ, kiểm tra trực quan, lục soát hành khách
Hành khách sẽ phải đi qua cổng từ để kiểm tra các vật phẩm kim loại
trên người hành khách chưa được đưa qua máy soi. Nếu cổng từ phát tín hiệu
báo động, nhân viên kiểm soát an ninh hàng không sẽ sử dụng thiết bị phát
hiện kim loại cầm tay để kiểm tra người của hành khách. Trong trường hợp
phát hiện nghi vấn, nhân viên kiểm soát an ninh hàng không có thể tiến hành
kiểm tra trực quan hoặc thực hiện lục soát hành khách để xác minh, làm rõ.
Đây là một biện pháp kiểm tra rất quan trọng để có thể loại bỏ được các
vật phẩm nguy hiểm giấu trong người hành khách qua đó uy hiếp đến hoạt
động hàng không dân dụng.
- Kiểm tra hành lý xách tay bằng máy soi tia X, kiểm tra trực quan, lục
soát hành lý xách tay, đồ vật
Hành lý xách tay của hành khách sẽ được kiểm tra bằng máy soi tia X để
nhân viên kiểm soát an ninh hàng không có thể kiểm tra các đồ vật bên trong
hành lý của hành khách. Trong trường hợp phát hiện nghi vấn, nhân viên
kiểm soát an ninh hàng không có thể yêu cầu được thực hiện kiểm tra trực
quan hoặc lục soát hành lý, đồ vật của hành khách.
Toàn bộ các biện pháp trên hiện đang được tiến hành bắt buộc 100% tại
tất cả các cảng hàng không trên cả nước và là yêu cầu cơ bản cho công tác
đảm bảo an ninh hàng không tại mỗi cảng hàng không.
3.1.1.6. Kiểm tra an ninh hàng không đối với hành lý ký gửi
Hành lý ký gửi là hành lý của hành khách nhưng khác với hành lý xách
tay đi cùng hành khách, hành lý ký gửi được vận chuyển trong một khoang
chứa riêng biệt, hành khách chỉ có thể nhận lại hành lý ký gửi sau khi hoàn
57
thành chuyến bay.
Hành lý ký gửi phải được kiểm tra an ninh 100% tại cảng hàng không
trước khi đưa lên tàu bay nhằm loại bỏ các vật phẩm nguy hiểm uy hiếp đến
hoạt động hàng không dân dụng nhưng với đặc điểm là không đi cùng với
hành khách mà được chứa trong khoang chứa riêng biệt nên các vật phẩm có
thể được sử dụng làm hung khí tấn công như dao, kéo, búa,… vẫn có thể được
vận chuyển bằng đường hành lý ký gửi.
Tuy nhiên, vì không đi cùng hành khách, nên hành lý ký gửi được kiểm
tra chặt chẽ đối với các vật liệu dễ gây cháy, nổ trong quá trình vận chuyển và
phải đảm bảo nguyên tắc hành lý của mỗi hành khách phải được vận chuyển
cùng với hành khách trên một chuyến bay trừ một số trường hợp đặc biệt
gồm:
- Vận chuyển hành lý thất lạc;
- Hành lý bị giữ lại vì lý do an toàn của chuyến bay;
- Vận chuyển túi ngoại giao, túi lãnh sự;
- Hành khách bị chết trong tàu bay và thi thể đã được đưa khỏi tàu bay;
- Hành lý được vận chuyển như hàng hóa;
- Các trường hợp bất khả kháng.
Việc kiểm tra hành lý ký gửi bắt buộc phải được kiểm tra bằng máy soi
tia X và có thể được kiểm tra trực quan, kiểm tra bằng thiết bị phát hiện chất
nổ trong trường hợp phát hiện nghi vấn. Tuy nhiên, pháp luật Việt Nam cũng
quy định một số trường hợp đặc biệt được miễn kiểm tra bằng máy soi tia X
hoặc kiểm tra trực quan gồm:
- Miễn soi chiếu tia X và kiểm tra trực quan đối với thi thể người vận
chuyển bằng tàu bay được đặt trong hòm kẽm gắn kín. Quá trình đóng gói và
niêm phong hòm kẽm phải được cơ quan y tế có thẩm quyền giám sát. Hòm
kẽm phải còn nguyên niêm phong và có văn bản xác nhận của cơ quan y tế
58
giám sát kèm theo giấy chứng tử.
- Miễn soi chiếu tia X và kiểm tra trực quan đối với các sản phẩm làm từ
máu, bộ phận nội tạng dùng cho việc cấy ghép, vắc-xin, các loại dược phẩm
phải duy trì đóng gói kín. Bao bì phải có niêm phong, kèm theo văn bản xác
nhận của cơ quan y tế có thẩm quyền.
- Miễn soi chiếu tia X và kiểm tra trực quan đối với những hàng hóa
nguy hiểm mà việc soi chiếu hoặc kiểm tra trực quan sẽ gây nguy hiểm cho
tính mạng, sức khỏe của nhân viên kiểm soát an ninh hàng không như các vật
liệu cho nghiên cứu hạt nhân, vật liệu phóng xạ. Bao bì phải có niêm phong,
kèm theo văn bản xác nhận tình trạng đóng gói an toàn, văn bản đề nghị của
cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
- Đối với hài cốt, tro cốt, việc kiểm tra an ninh hàng không được thực
hiện như đối với hàng hóa, hành lý thông thường, trừ trường hợp có đề nghị
miễn soi chiếu tia X của cơ quan nhà nước có liên quan, cơ quan đại diện
ngoại giao của nước ngoài và phải được người đứng đầu bộ phận kiểm soát an
ninh hàng không tại cảng hàng không chấp nhận.
- Đối với động vật sống, vật phẩm dễ bị hỏng không thể kiểm tra bằng
soi chiếu tia X thì phải kiểm tra trực quan hoặc biện pháp khác thích hợp.
Tuy nhiên, đối với các vật phẩm trên phải được thực hiện kiểm tra bằng
dụng cụ, thiết bị phát hiện chất nổ để loại trừ các đối tượng khủng bố có thể
lợi dụng các trường hợp ngoại lệ này để đưa chất nổ, chất cháy lên tàu bay.
Ngoài ra, hành lý ký gửi quá cảnh, nối chuyến, đi chuyến bay tạm dừng
nội địa đã đưa xuống khỏi tàu bay, trước khi đưa lên tàu bay phải qua kiểm tra
an ninh hàng không như hành lý ký gửi xuất phát, trừ các trường hợp hành lý
không rời khỏi sân đỗ tàu bay hoặc có sự giám sát an ninh hàng không liên
tục từ khi đưa xuống khỏi tàu bay cho đến khi được đưa lại lên tàu bay hoặc
hành lý có dán thẻ quá cảnh, nối chuyến, tạm dừng nội địa.
59
3.1.1.7. Kiểm tra an ninh đối với hàng hóa, bưu gửi
Hàng hóa, bưu gửi được vận chuyển trên tàu bay phải được kiểm tra an
ninh hàng không bằng biện pháp soi chiếu 100% trừ các trường hợp đặc biệt
tương tự như đối với hành lý ký gửi đã nêu ở trên. Ngoài ra, hàng hóa, bưu
gửi sau khi hoàn thành thủ tục kiểm tra, soi chiếu phải được niêm phong an
ninh và giám sát liên tục cho đến khi tàu bay nhằm ngăn chặn việc can thiệp
bất hợp pháp vào hàng hóa, bưu gửi gây uy hiếp đến an ninh, an toàn của tàu
bay. Hàng hóa, bưu gửi quá cảnh, trung chuyển phải được soi chiếu, giám sát
an ninh hàng không như hàng hoá, bưu gửi xuất phát trừ trường hợp hàng hóa
có xác nhận bằng văn bản hoặc niêm phong xác nhận việc kiểm tra an ninh
hàng không đã được thực hiện tại điểm xuất phát.
3.1.1.8. Kiểm tra an ninh đối với suất ăn, nhiên liệu và đồ vật phục vụ
trên tàu bay
Do đặc thù của suất ăn, nhiên liệu phục vụ trên tàu bay là những sản
phẩm được chứa, đựng trong những dụng cụ chuyên biệt và được vận chuyển
bằng xe chuyên dụng nên việc kiểm soát an ninh đối với suất ăn, nhiên liệu
được đảm bảo ngay tại nơi sản xuất của suất ăn, nhiên liệu. Theo đó, các đơn
vị cung cấp suất ăn, nhiên liệu phải chịu trách nhiệm đảm bảo an ninh đối với
suất ăn, nhiên liệu phục vụ trên tàu bay và thực hiện niêm phong an ninh sau
khi hoàn thành thủ tục đóng gói, tra nạp đưa lên xe vận chuyển để chuyên
dụng; nhân viên kiểm soát an ninh hàng không tại các cổng, cửa ra, vào sân
bay chỉ kiểm tra tính nguyên vẹn của niêm phong để cho phép các phương
tiện này tiếp cận tàu bay.
Riêng đối với đồ vật phục vụ trên tàu bay thì bắt buộc phải được kiểm
tra soi chiếu bằng máy soi tia X trước khi được vận chuyển lên tàu bay, ngoài
ra, thùng, túi đựng đồ vật phục vụ trên tàu bay phải được niêm phong an ninh
hàng không sau khi được kiểm tra an ninh hàng không bằng soi chiếu tia X
60
(trừ đồ vật phục vụ cho việc bảo dưỡng, sửa chữa tàu bay) và được giám sát
liên tục bằng ca-me-ra giám sát an ninh hoặc do nhân viên kiểm soát an ninh
hàng không trực tiếp giám sát hoặc cả hai biện pháp cho tới khi đưa lên tàu
bay.
3.1.1.9. Bảo vệ tàu bay tại sân đỗ tàu bay
Tàu bay đỗ tại sân đỗ tàu bay phải được bảo vệ bằng các biện pháp thích
hợp nhằm phát hiện, ngăn chặn người, phương tiện tiếp cận, đưa đồ vật lên,
xuống hoặc để lại trên tàu bay một cách trái phép.
Các biện pháp thích hợp này đang được ứng dụng linh hoạt theo tình
hình thực tế tại các cảng hàng không trên cả nước. Theo đó, đối với các cảng
hàng không lớn có tần suất bay cao như Nội Bài, Đà Nẵng, Tân Sơn Nhất thì
lực lượng kiểm soát an ninh hàng không thường được bố trí theo khu vực để
tuần tra, kiểm soát còn tại các cảng hàng không có tần suất bay thấp thì
thường được bố trí 01 nhân viên canh gác 01 tàu bay trong quá trình đỗ tại sân
đỗ tàu bay.
Ngoài ra, hiện nay các cảng hàng không tại Việt Nam đã cơ bản có hệ
thống camera giám sát an ninh để hỗ trợ giám sát đối với tàu bay đỗ tại sân
đỗ.
3.1.1.10. Bảo đảm an ninh hệ thống thông tin chuyên ngành hàng không
tại cảng hàng không
Vào ngày 29/7/2016, một số màn hình hiển thị thông tin chuyến bay tại
khu vực làm thủ tục hàng không tại các cảng hàng không Tân Sơn Nhất, Nội
Bài, Đà Nẵng, Phú Quốc đã bị tin tặc tấn công chèn những hình ảnh và các
nội dung xuyên tạc về biển Đông gây nên vụ tấn công vào hệ thống thông tin
chuyên ngành hàng không lớn nhất trong lịch sử ngành hàng không dân dụng
Việt Nam.
Chính vì vậy, yêu cầu đảm bảo thông tin chuyên ngành hàng không đã
61
được pháp luật Việt Nam yêu cầu các cảng hàng không, đơn vị chủ quản hệ
thống thông tin chuyên ngành hàng không thực hiện bằng một số biện pháp
sau:
- Quản trị hệ thống thông qua việc ban hành tiêu chuẩn, quy trình, thủ
tục an ninh; lựa chọn và đào tạo cán bộ, đặc biệt là những người có quyền
quản trị hệ thống; đánh giá mối đe dọa và rủi ro để xác định các lỗ hổng của
hệ thống và khả năng bị tấn công; kiểm tra và thử nghiệm; bảo đảm an ninh
chuỗi cung ứng;
- Kiểm soát bằng tường lửa; mã hóa dữ liệu; sử dụng hệ thống phát hiện
xâm nhập mạng và hệ thống chống vi-rút;
- Bảo vệ hệ thống, đặc biệt là các máy chủ, phải nằm trong khu vực mà
việc vào, ra và hoạt động trong khu vực đó được kiểm soát và hạn chế; chỉ
những người có thẩm quyền được truy cập vào hệ thống bằng phương pháp
đăng nhập sinh trắc học, mật khẩu; hạn chế số lượng người có quyền truy cập;
kiểm soát và giám sát liên tục việc truy cập vào hệ thống; sử dụng hệ thống
sao lưu đề phòng trường hợp hệ thống chính bị trục trặc; ghi lưu các hoạt
động để phục vụ kiểm tra, đánh giá và cảnh báo khi có hoạt động bất thường.
Ngoài ra, đơn vị chủ quản hệ thống thông tin chuyên ngành hàng không
phải phối hợp với các cơ quan chuyên môn của Bộ Công an, Bộ Quốc phòng,
Bộ Thông tin và Truyền thông để bảo vệ, chống hành vi truy cập, can thiệp
trái phép gây mất an toàn cho hoạt động hàng không dân dụng và đánh cắp,
làm sai lệch thông tin, dữ liệu; tuân thủ các quy định của pháp luật về an ninh
thông tin.
3.1.1.11. Đối phó với hành vi can thiệp bất hợp pháp
Tại Chương 1, Phụ lục 17 của Công ước Chicago 1944 có nêu hành vi
can thiệp bất hợp pháp là những hành vi gây nguy hiểm cho sự an toàn của
hàng không dân dụng, bao gồm:
62
- Bắt giữ trái phép tàu bay;
- Phá hủy một chiếc tàu bay đang phục vụ;
- Bắt giữ con tin trên máy bay hoặc trên sân bay;
- Xâm nhập trái phép tàu bay, sân bay hoặc trong khuôn viên của một cơ
sở hàng không;
- Giới thiệu trên tàu bay hoặc tại sân bay vũ khí hoặc thiết bị nguy hiểm
hoặc vật liệu dành cho mục đích phạm tội;
- Sử dụng tàu bay với mục đích gây tử vong hoặc thiệt hại nghiêm trọng
đến tài sản hoặc môi trường;
- Truyền đạt thông tin sai lệch gây nguy hiểm cho sự an toàn của tàu bay
khi đang bay hoặc trên mặt đất, của hành khách, phi hành đoàn, nhân viên mặt
đất hoặc dân chúng tại sân bay hoặc trong khuôn viên của một cơ sở hàng
không dân dụng.
Qua đó, có thể thấy các hành vi can thiệp bất hợp pháp vào hoạt động
hàng không dân dụng có rất nhiều trường hợp có thể xảy ra tại cảng hàng
không. Do đó, việc đối phó với các hành vi can thiệp bất hợp pháp có thể xảy
ra luôn là một nội dung quan trọng trong công tác đảm bảo an ninh hàng
không tại cảng hàng không.
Và để sẵn sàng đối phó với hành vi can thiệp bất hợp pháp tại cảng hàng
không thì bắt buộc tại mỗi cảng hàng không phải xây dựng Kế hoạch khẩn
nguy đối phó ban đầu với hành vi can thiệp bất hợp pháp được cơ quan chức
năng có thẩm quyền (cụ thể là Cục hàng không Việt Nam) thẩm định, phê
duyệt; đồng thời, Kế hoạch khẩn nguy này phải phù hợp với Phương án khẩn
nguy tổng thể đối phó với hành vi can thiệp bất hợp pháp do Thủ tướng Chính
phủ ban hành và Phương án khẩn nguy của Ban chỉ huy khẩn nguy hàng
không cấp tỉnh, thành phố, huyện đảo.
Ngoài ra, người khai thác cảng hàng không phải tổ chức diễn tập đối phó
63
với hành vi can thiệp bất hợp tối thiểu 02 năm 01 lần để đánh giá mức độ sẵn
sàng đối phó với hành vi can thiệp bất hợp pháp trong trường hợp xảy ra.
Với các biện pháp đảm bảo an ninh hàng không tại các cảng hàng không
của Việt Nam theo quy định của pháp luật Việt Nam nêu trên có thể thấy pháp
luật Việt Nam và cụ thể ở đây là Thông tư 13/2019/TT-BGTVT đã nội luật
hóa phần lớn các hướng dẫn về công tác đảm bảo an ninh hàng không tại cảng
hàng không theo quy định của Phụ lục 17, Công ước Chicago 1944. Chính vì
vậy, công tác đảm bảo an ninh hàng không tại các cảng hàng không của Việt
Nam khá tương đồng với công tác đảm bảo an ninh tại các cảng hàng không
trên thế giới và được các đoàn kiểm tra, đánh giá của các tổ chức lớn như
ICAO, TSA, OTS cũng như các hãng hàng không hoạt động tại Việt Nam
đánh giá cao. Việc Cảng Hàng không quốc tế Nội Bài 04 năm liên tiếp (từ
năm 2016 đến năm 2019) lọt vào Top 100 sân bay tốt nhất thế giới do Tổ
chức đánh giá và xếp hạng hàng không Anh (Skytrax) bình chọn phần nào đã
cho thấy được uy tín, chất lượng của các cảng hàng không tại Việt Nam.
3.1.2. Cơ cấu tổ chức lực lượng đảm bảo an ninh hàng không tại các cảng
hàng không của Việt Nam
Hiện nay, tại Việt Nam đang có 22 cảng hàng không hoạt động trên cả
nước trong đó có 21 cảng hàng không thuộc sự quản lý của Tổng Công ty
Cảng hàng không Việt Nam và Cảng hàng không quốc tế Vân Đồn thuộc sự
quản lý của Tập đoàn Sungroup. Tuy nhiên, công tác đảm bảo an ninh hàng
không tại toàn bộ 22 cảng hàng không trên đều do lực lượng kiểm soát an
ninh hàng không của Tổng Công ty Cảng hàng không Việt Nam thực hiện,
trong đó Cảng hàng không quốc tế Vân Đồn thuê dịch vụ đảm bảo an ninh
hàng không tại Cảng từ lực lượng kiểm soát an ninh hàng không của Cảng
hàng không quốc tế Nội Bài.
Với số lượng nhân viên kiểm soát an ninh hàng không trên cả nước
64
khoảng 3100 người thì lực lượng này chịu trách nhiệm tổ chức bảo đảm an
ninh hàng không và cung cấp dịch vụ bảo đảm an ninh hàng không, trực tiếp
thực hiện các biện pháp kiểm tra, giám sát đối với hành khách, hành lý, hàng
hóa, bưu gửi, kiểm tra, giám sát người, phương tiện ra, vào và hoạt động tại
khu vực hạn chế, kiểm soát, duy trì trật tự tại cảng hàng không; xử lý ban đầu
các hành vi can thiệp bất hợp pháp, vụ việc vi phạm an ninh hàng không, trật
tự công cộng tại cảng hàng không.
Về mô hình tổ chức an ninh hàng không: Tại các cảng hàng không cấp 1
(Cảng hàng không quốc tế Nội Bài, Đà Nẵng, Tân Sơn Nhất) thành lập Trung
tâm An ninh hàng không. Tại các cảng hàng không cấp 2 (Cát Bi, Vinh, Phú
Bài, Cam Ranh, Liên Khương, Cần Thơ, Phú Quốc, Buôn Ma Thuột, Vân
Đồn) thành lập Phòng An ninh hàng không và tại các cảng hàng không cấp 3
(Điện Biên, Đồng Hới, Thọ Xuân, Chu Lai, Tuy Hòa, Phù Cát, Pleiku, Côn
Đảo, Rạch Giá, Cà Mau) thành lập Đội An ninh hàng không; riêng tại Cảng
hàng không quốc tế Vân Đồn, Trung tâm An ninh hàng không Nội Bài thành
lập Đội An ninh hàng không Vân Đồn để thực hiện cung ứng dịch vụ tại Cảng
HKQT Vân Đồn.
Trung tâm, phòng, Đội an ninh hàng không của các cảng chịu sự chỉ đạo
điều hành trực tiếp của Giám đốc Cảng và chịu sự chỉ đạo của Tổng công ty
cảng hàng không Việt Nam, đồng thời chịu sự chỉ đạo về nghiệp vụ và sự
65
kiểm tra, giám sát của Cục Hàng không Việt Nam.
Hình 3.1: Mô hình tổ chức lực lượng bảo đảm an ninh hàng không tại các
cảng hàng không tại Việt Nam
(Nguồn: Tổng công ty Cảng hàng không Việt Nam)
Với mô hình như trên có thể thấy sự độc quyền của Tổng công ty Cảng
hàng không Việt Nam trong việc triển khai thực hiện các biện pháp đảm bảo
an ninh tại các cảng hàng không của Việt Nam. Ngoài trường hợp của Cảng
66
hàng không quốc tế Vân Đồn sử dụng lực lượng kiểm soát an ninh hàng
không của Cảng hàng không quốc tế Nội Bài với hình thức hợp đồng dịch vụ
thì toàn bộ các các cảng hàng không còn lại tại Việt Nam đều đang có lực
lượng kiểm soát an ninh hàng không nằm dưới sự chỉ đạo của người khai thác
cảng hàng không. Việc này ảnh hưởng trực tiếp đến công tác đảm bảo an ninh
hàng không tại cảng hàng không vì người khai thác cảng vừa là đơn vị được
cung cấp dịch vụ đảm bảo an ninh vừa là đơn vị cung cấp dịch vụ đảm bảo an
ninh dẫn đến việc không tránh khỏi sự thiếu khách quan trong quá trình đánh
giá hiệu quả thực hiện công tác đảm bảo an ninh tại cảng hàng không.
Bên cạnh đó, đối chiếu với thực trạng tổ chức lực lượng đảm bảo an ninh
hàng không tại một số quốc gia trên thế giới như đã trình bày tại Chương 2 có
thể thấy trong khi các quốc gia lớn trên thế giới đều có xu hướng tổ chức lực
lượng kiểm soát an ninh hàng không thuộc Chính phủ hoặc là doanh nghiệp
chuyên trách cung cấp dịch vụ an ninh hàng không thì việc tổ chức lực lượng
kiểm soát an ninh hàng không đang là một bộ phận của người khai thác cảng
hàng không là không phù hợp với xu thế phát triển chung trên thế giới.
Có lẽ nhận định được sự tồn tại bất cập trên mà tại Thông tư
13/2019/TT-BGTVT ngày 29/3/2019 của Bộ Giao thông vận tải quy định chi
tiết Chương trình An ninh hàng không và kiểm soát chất lượng an ninh hàng
không đã quy định chi tiết về việc tổ chức một đơn vị cung cấp dịch vụ bảo
đảm an ninh độc lập, được cấp Giấy phép cung cấp dịch vụ bảo đảm an ninh
hàng không theo quy định của pháp luật về các ngành nghề kinh doanh có
điều kiện trong lĩnh vực hàng không dân dụng; có chức năng thực hiện các
biện pháp bảo đảm an ninh hàng không, cung cấp dịch vụ bảo đảm an ninh
hàng không tại các cảng hàng không, cơ sở xử lý hàng hóa, bưu gửi để đưa
lên tàu bay ngoài cảng hàng không. Tuy nhiên, sau gần 01 năm Thông tư trên
67
được ban hành thì vẫn Việt Nam vẫn chưa thể thành lập được đơn vị cung cấp
dịch vụ đảm bảo an ninh hàng không độc lập theo đúng quy định của pháp
luật.
3.1.3. Hệ thống cơ sở vật chất, trang thiết bị, phương tiện đảm bảo an ninh
hàng không tại các cảng hàng không của Việt Nam
Theo tiêu chuẩn của ICAO, mỗi quốc gia phải duy trì một hệ thống
phòng ngừa bảo đảm an ninh hàng không bằng hệ thống lực lượng chuyên
nghiệp, trang thiết bị hiện đại tại cảng hàng không nhằm phát hiện, ngăn chặn
mọi nguy cơ uy hiếp an ninh hàng không. Các quốc gia phát triển đã trang bị
những thiết bị hiện đại như máy chụp cắt lắp vật thể, máy quét toàn thân
(Bodyscan), camera nhận diện gương mặt,…
Hiện nay, hệ thống cơ sở vật chất, trang thiết bị, phương tiện bảo đảm an
ninh hàng không tại các cảng hàng không của Việt Nam bao gồm:
- Hệ thống hàng rào vành đai, hệ thống đường tuần tra, bốt gác, chiếu
sang an ninh bảo vệ cảng hàng không;
- Hệ thống thiết bị kiểm tra soi chiếu (máy soi tia X, cổng từ, thiết bị
phát hiện kim loại cầm tay);
- Hệ thống thiết bị giám sát an ninh (hệ thống camera giám sát, camera
soi gầm, soi nóc);
- Trung tâm khẩn nguy đối phó với can thiệp bất hợp pháp. Hệ thống
trang thiết bị phục vụ chỉ huy đối phó khẩn nguy (Xe chỉ huy, xe thông tin
phục vụ đối phó với can thiệp bát hợp pháp,…);
- Thiết bị, vũ khí và công cụ hỗ trợ trang bị cho lực lượng kiểm soát an
ninh hàng không để thực hiện nhiệm vụ trong điều kiện thông thường và thực
hiện đố phó khi có hành vi can thiệp bất hợp pháp (súng các loại, mũ, áo giáp
68
chống đán, ống nhòm, thiết bị phòng độc, chống ngạt,…);
- Các cơ sở đào tạo và trang thiết bị phục vụ công tác đào tạo, huấn
luyện an ninh hàng không (các thiết bị mô phỏng huấn luyện soi chiếu, huấn
luyện nhân viên an ninh,…);
- Hệ thống bảo đảm thông tin quản lý, chỉ huy, điều hành hoạt động bảo
đảm an ninh hàng không tại cảng hàng không (bộ đàm, điện thoại, máy
tính,…).
Bảng 3.1: Tổng hợp danh mục trang thiết bị an ninh tại các cảng hàng
không của Việt Nam
STT Danh mục trang thiết bị Đơn vị Số lƣợng
1 Súng quân dụng Khẩu 554
2 Đạn của các loại súng quân dụng Viên 56.326
3 Súng bắn đạn cao su, hơi cay Khẩu 752
4 Đạn của súng bắn đạn cao su, hơi cay Viên 5315
5 Dùi cui điện các loại Chiếc 948
6 Dùi cui cao su Chiếc 894
7 Khóa số tám Chiếc 325
Thiết bị chống bạo loạn (Áo chống bạo loạn; Mũ Bộ 322 8 chống bạo loạn; Mũ chống đạn; Áo phòng hóa)
Chiếc 34 9 Nhà bạt
Chiếc 315 10 Máy soi tia X
Chiếc 428 11 Cổng từ
Chiếc 512 12 Thiết bị phát hiện kim loại
Chiếc 12 13 Hệ thống kiểm tra hành lý
Chiếc 32 14 Thiết bị phát hiện chất nổ
69
Bộ 3 15 Hệ thống kiểm soát truy cập
16 Camera Bộ 4505
17 Ô tô phục vụ công tác tuần tra, kiểm soát Chiếc 46
18 Bộ đàm cầm tay Chiếc 3200
19 Máy dò chất nổ Chiếc 08
20 Boongke và tay gắp bom mìn Bộ 03
21 Thùng xử lý chất nổ Chiếc 34
22 Hầm xử lý chất nổ Cái 18
23 Bộ phát hiện vi vết chất nổ Bộ 53
24 Hệ thống cửa từ (khóa/mở điện từ) Bộ 1225
25 Chăn, quần áo hạn chế sức công phá bom mìn Bộ 08
(Nguồn: [6])
Nhìn chung, trang thiết bị, hạ tầng bảo đảm an ninh hàng không hiện nay
tại các cảng hàng không của Việt Nam chỉ đáp ứng yêu cầu tối thiểu, chưa
ứng dụng các công nghệ mới, hiện đại để nâng cao khả năng bảo đảm an ninh
hàng không (đầu tư các thế hệ máy soi chiếu hiện đại, có nhiều chức năng
cảnh báo vật phẩm nguy hiểm hơn, tăng cường các ứng dụng khoa học công
nghệ để nâng cấp hệ thống hàng rào, kết hợp hàng rào truyền thống với hàng
rào điện tử; đẩy mạnh việc ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý, giám
sát, thống kê, đánh giá an ninh hàng không, đặc biệt là trong công tác khẩn
nguy, phòng chống khủng bố).
3.1.4. Nhân lực thực hiện đảm bảo an ninh hàng không tại cảng hàng
không
Đội ngũ nhân viên kiểm soát an ninh do Tổng công ty Cảng hàng không
Việt Nam tuyển dụng, đa số là học sinh đã tốt nghiệp phổ thông trung học,
sau khi tuyển dụng được đào tạo, huấn luyện tại các cơ sở đào tạo của Tổng
công ty Cảng hàng không Việt Nam trong 03 tháng về chuyên môn nghiệp vụ
70
và được Cục Hàng không Việt Nam cấp giấy phép năng định chuyên môn.
Tổng số lao động của lực lượng kiểm soát an ninh hàng không hiện nay
của Tổng Công ty Cảng hàng không Việt Nam là 3.081 người, cụ thể như sau:
Bảng 3.2: Số lƣợng nhân viên An ninh hàng không của ACV
Đvt: Người
STT Cảng hàng không Tổng số Trình độ học vấn
Đại học và Cao Trung THPT
trên đại học Đẳng cấp
1 Tân Sơn Nhất 1081 182 0 0 699
2 Cần Thơ 66 6 0 0 44
3 Phú Quốc 111 15 0 0 91
4 Cà Mau 25 5 0 0 15
5 Rạch Giá 23 3 0 0 10
6 Liên Khương 36 5 0 0 21
7 Buôn Ma Thuột 30 5 0 0 15
8 Côn Đảo 32 1 1 7 8
9 Nội Bài 890 203 0 0 487
10 Điện Biên 29 12 0 0 7
11 Cát Bi 63 5 0 0 26
12 Đồng Hới 30 6 3 0 11
13 Vinh 73 22 0 28 10
14 Đà Nẵng 269 43 0 0 126
15 Pleiku 33 4 0 0 19
16 Cam Ranh 115 14 0 0 61
17 Phú Bài 48 29 0 0 14
18 Phù Cát 31 8 0 0 18
71
19 Tuy Hòa 33 5 0 0 13
20 Chu Lai 29 3 0 0 12
21 Thọ Xuân 34 11 0 8 5
(Nguồn: [6])
Với số lượng nhân viên kiểm soát an ninh hàng không hiện tại, về cơ bản
đã đáp ứng được các yêu cầu tối thiểu trong việc triển khai các biện pháp đảm
bảo an ninh hàng không theo Chương trình an ninh hàng không của các cảng
hàng không. Tuy nhiên, tại các cảng hàng không lớn có mức độ tăng trưởng
nhanh và lưu lượng hành khách tập trung đông như Cảng HKQT Nội Bài,
Cảng HKQT Tân Sơn Nhất, Cảng HKQT Đà Nẵng thì lực lượng kiểm soát an
ninh hàng không chưa đáp ứng đủ yêu cầu cần thiết để có thể triển khai thực
hiện một cách tối đa các yêu cầu nhiệm vụ.
Cụ thể đối với Cảng HKQT Nội Bài, với quân số hiện tại là 890 nhân
viên kiểm soát an ninh hàng không nhưng với tần suất bay tại Cảng là 24/24h
và lưu lượng hành khách gia tăng đột biến trong các dịp Lễ, Tết, cao điểm hè
dẫn đến số lượng nhân viên kiểm soát an ninh hàng không như trên là không
đủ để có thể tăng tối đa luồng kiểm tra, soi chiếu phục vụ hành khách dẫn đến
các khu vực kiểm tra, soi chiếu thường xuyên có tình trạng hành khách phải
xếp hàng kéo dài ảnh hưởng đến chất lượng phục vụ hành khách cũng như
nguy cơ chậm, lỡ chuyến bay.
3.2. Đánh giá hiệu quả của công tác đảm bảo an ninh hàng không tại các
cảng hàng không của Việt Nam
3.2.1. Ưu điểm
Mặc dù với điều kiện hệ thống cơ sở vật chất, trang thiết bị, phương tiện
cũng như nhân lực thực hiện công tác đảm bảo an ninh tại các cảng hàng
không của Việt Nam hiện nay còn nhiều hạn chế nhưng nhìn chung tình hình
an ninh hàng không tại các cảng hàng không Việt Nam được duy trì tương đối
72
ổn định. Trong lịch sử phát triển của ngành hàng không dân dụng Việt Nam
chưa có vụ việc can thiệp bất hợp pháp vào hoạt động hàng không dân dụng
nào uy hiếp trực tiếp đến an toàn của tàu bay, tính mạng sức khỏe của hành
khách và cơ sở vật chất tại cảng hàng không.
Cùng với đó, lực lượng kiểm soát an ninh hàng không tại các cảng hàng
không đã triển khai tốt các biện pháp đảm bảo an ninh qua đó phát hiện được
nhiều vụ việc vi phạm các quy định về an ninh hàng không, góp phần ngăn
chặn kịp thời các mối nguy có thể đe dọa đến an toàn của tàu bay.
Bảng 3.3: Thống kê vụ việc vi phạm an ninh hàng không tại các cảng
hàng không của Việt Nam năm 2017 – 2018
Năm Năm TT Thống kê vụ việc 2017 2018
Số vụ hành khách mang theo vũ khí, công cụ
hỗ trợ, vật phẩm nguy hiểm sai quy định, trong
đó: 1 Số vụ là vũ khí, công cụ hỗ trợ 282 221
Số vụ là vật phẩm nguy hiểm trong hàng hóa 26 51
Số vụ là hành khách chuyển tiếp 02 03
Số vụ tung tin hoặc cung cấp thông tin sai về 2 05 09 việc có bom, vật liệu nổ
Vụ việc đưa chất nổ, vũ khí, vật phẩm nguy
3 hiểm vào khu vực công cộng, hạn chế, lên tàu 02 00
bay trái quy định (không phải hành khách)
Số vụ xâm nhập trái phép khu vực hạn chế tại
cảng hàng không, trong đó:
4 Số vụ xâm nhập trái phép tàu bay 00 01
73
Số vụ xâm nhập trái phép khu vực hạn chế tại 04 13 cảng hàng không
Năm Năm TT Thống kê vụ việc 2017 2018
Số vụ gây rối trật tự công cộng; đe dọa, hành
hung nhân viên hàng không trên tàu bay và tại
cảng hàng không. Trong đó: 5
Số vụ xảy ra trên tàu bay 18 26
Số vụ xảy ra tại các cảng hàng không 72 82
Số vụ vi phạm quy định về sử dụng giấy tờ đi
tàu bay, thẻ, giấy phép kiểm soát ANHK, trong
đó:
6 Số vụ vi phạm quy định về sử dụng giấy tờ đi 67 110 tàu bay
Số vụ vi phạm quy định về thẻ, giấy phép kiểm 02 02 soát ANHK
Vụ việc khác (các hành vi vi phạm ANHK
được quy định tại các văn bản pháp luật)
7 Số vụ trộm cắp tại cảng hàng không, trên tàu 75 59 bay
Các vi phạm khác 57 98
Tổng số 612 675
an ninh hàng không, an ninh trật tự năm 2018.)
(Nguồn: [6] Tổng công ty Cảng hàng không Việt Nam, Báo cáo công tác đảm bảo
Qua số liệu trên, ta có thể thấy tình trạng hành khách sử dụng giấy tờ tùy
thân sai quy định để làm thủ tục đi tàu bay tại các Cảng hàng không xảy ra
tương đối phổ biến, đặc biệt là các trường hợp sử dụng giấy xác nhận nhân
thân mang tên người khác. Theo số liệu của Tổng công ty Cảng hàng không
74
Việt Nam, trong số các vụ việc vi phạm quy định về sử dụng giấy tờ tùy thân
đi tàu bay có khoảng 45% vụ việc hành khách sử dụng giấy xác nhận nhân
thân mang tên người khác đi tàu bay. Qua kết quả điều tra của lực lượng công
an địa phương tại các cảng hàng không thì phần lớn đều ghi nhận được
nguyên nhân của tình trạng trên phần lớn xuất phát từ tâm lý ham rẻ của hành
khách cũng như việc trục lợi từ các đại lý bán vé máy bay.
Trong thời gian các hãng hàng không xả vé rẻ, các đại lý vé đã mua
nhiều vé khuyến mãi để bán lại cho hành khách có nhu cầu nhưng ham rẻ và
thiếu hiểu biết để đi tàu bay. Thậm chí, có đại lý còn hướng dẫn cho hành
khách các chiêu thức để giả mạo giấy tờ tùy thân hoặc xin xác nhận nhân thân
của xã, phường để sử dụng các vé khuyến mãi trên để đi tàu bay. Đáng lo ngại
là phần lớn các trường hợp giả mạo giấy tờ đều không biết việc giả mạo giấy
tờ tùy thân để đi máy bay gây nguy cơ mất an ninh an toàn hàng không
nghiêm trọng và sẽ bị phạt rất nặng (bị phạt tiền từ 3.000.000 đồng đến
5.000.000 đồng theo điểm b, khoản 2, điều 25 Nghị định 162/2018/NĐ-CP
quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực hàng không dân dụng).
Qua đó, có thể thấy nhận thực về an ninh, an toàn hàng không của hành
khách đi tàu bay còn rất nhiều hạn chế và việc cung cấp giấy xác nhận nhân
thân của chính quyền, công an một số địa phương còn có kẽ hở dẫn đến các
hành khách có thể dễ dàng xin được giấy xác nhận nhân thân giả mạo dưới
nhiều hình thức như khác tên, trùng tên khác ảnh, tên của người khác nhưng
ảnh của mình hay để trống ngày xác nhận để lên tàu bay.
Đây là nguy cơ tiềm ẩn rất lớn để các đối tượng truy nã có thể lợi dụng
để làm thủ tục đi tàu bay gây nhiều khó khăn cho lực lượng kiểm soát an ninh
hàng không trong quá trình kiểm tra, giám sát.
Cùng với đó, qua số liệu vụ việc vi phạm an ninh hàng không tại các
cảng hàng không Việt Nam ghi nhận được như trên, ta có thể thấy tình trạng
75
hành khách vận chuyển trái phép vũ khí, công cụ hỗ trợ, vật phẩm nguy hiểm
trong hành lý, hàng hóa lên tàu bay chiếm một số số lượng không nhỏ. Theo
số liệu thống kê của Tổng công ty Cảng hàng không Việt Nam, phần lớn
trong đó là việc hành khách vận chuyển các loại công cụ hỗ trợ được mua bán
trái phép trên thị trường như đèn pin phát tia lửa điện, dùi cui điện, dùi cui
kim loại,… Qua đó có thể thấy công tác quản lý về công cụ hỗ trợ tại nước ta
còn rất nhiều hạn chế.
Ngoài các vụ việc liên quan đến vi phạm an ninh hàng không, lực lượng
kiểm soát an ninh hàng không còn triển khai tốt các biện pháp đảm bảo an
ninh trật tự trên địa bàn các cảng hàng không bằng việc phối hợp chặt chẽ với
các đơn vị của Bộ Công an, công an địa phương nơi có cảng hàng không đóng
trên địa bàn.
Hiện tại, toàn bộ 22/22 cảng hàng không của cả nước đều đã triển khai
xây dựng các văn bản phối hợp với cơ quan địa phương để tổ chức triển khai
tuần tra, kiểm soát, truy quét, tấn công trấn áp tội phạm và các đối tượng có
các hành vi trái pháp luật, nhằm giữ gìn an ninh an toàn, duy trì trật tự trên địa
bàn cảng hàng không.
Bảng 3.4: Thống kê vụ việc vi phạm an ninh trật tự tại các cảng
hàng không của Việt Nam năm 2017 – 2018
Năm Năm TT Thống kê vụ việc 2017 2018
1 Vụ việc hành hung, chống đối nhân viên hàng không 64 78
DN nhượng quyền vi phạm quy chế khai thác sân đỗ 2 147 138 ô tô
3 Mời chào khách sai quy định (cò mồi) 189 131
4 Xe taxi dù, xe bên ngoài, xe ôm 1583 1357
76
Vi phạm trật tự khu vực (nhặt rác, bán hàng rong, vận 5 118 105 chuyển rác thải, xô xát đánh nhau gây mất ANTT
Cảng)
6 Vi phạm an toàn giao thông 111 104
bảo an ninh hàng không, an ninh trật tự năm 2018.)
(Nguồn: [6]Tổng công ty Cảng hàng không Việt Nam, Báo cáo công tác đảm
Qua bảng thống kê trên có thể thấy tình trạng khai thác khách sai quy
định của các đối tượng vận chuyển hành khách bằng ô tô trên địa bàn các
cảng hàng không là vấn đề hết sức nhức nhối cũng như ảnh hưởng trực tiếp
đến an ninh trật tự tại cảng hàng không do các đối tượng này thường xuyên có
hành vi lôi kéo, lừa đảo, trộm cắp tài sản của hành khách gây mất an ninh trật
tự trên địa bàn.
Các đối tượng trên thường lợi dụng điều kiện cấp phép kinh doanh vận
tải hành khách của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo hướng xã hội
hóa, mở rộng đối tượng và loại hình kinh doanh vận tải hành khách như (xe
hợp đồng, xe đón khách văn phòng, khách sạn, taxi công nghệ, taxi giá rẻ…)
để xin giấy phép kinh doanh, hợp thức hóa phương tiện hoạt động, lợi dụng
sơ hở, thiếu cảnh giác của lực lượng chức năng để lén lút hoạt động với thủ
đoạn tinh vi như núp bóng dưới danh nghĩa đưa đón người nhà, đưa đón
khách hợp đồng để tiếp cận mời chào khách gây khó khăn cho các lực lượng
chức năng trong việc phát hiện, ngăn chặn và xử lý triệt để.
Tuy nhiên, hoạt động của các đối tượng trên cũng xuất phát từ chính tâm
lý ham rẻ của hành khách khi sử dụng các phương tiện vận chuyển hành
khách bằng ô tô không được cảng hàng không nhượng quyền khai thác để tiết
kiệm một khoản tiền từ 100.000 đồng đến 200.000 đồng nhưng nhiều trường
hợp sau khi lên xe đã bị các đối tượng ép buộc, đe dọa phải thanh toán số tiền
gấp 2 đến 3 lần số tiền đã cam kết trước khi lên xe.
Bên cạnh đó, chế tài xử lý đối với các trường hợp khai thác khách trái
77
phép, vi phạm an ninh trật tự tại khu vực công cộng của cảng hàng không
chưa được quy định trong hệ thống pháp luật về hàng không dân dụng mà chỉ
được quy định tại văn bản xử pháp về vi phạm hành chính nói chung với mức
xử phạt rất nhẹ nên không đủ tính răn đe đối với các đối tượng vi phạm cũng
như rất khó khăn cho lực lượng kiểm soát an ninh hàng không trong công tác
xử lý đối với các đối tượng này.
3.2.2. Tồn tại, hạn chế
Bên cạnh những nội dung đã làm được, công tác đảm bảo an ninh hàng
không tại các cảng hàng không của Việt Nam vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế:
3.2.2.1. Về công tác triển khai các biện pháp đảm bảo an ninh hàng
không tại cảng hàng không
Như đã trình bày ở trên, các biện pháp đảm bảo an ninh hàng không tại
cảng hàng không được quy định chủ yếu tại Thông tư số 13/2019/TT-BGTVT
và các quy định này cũng cơ bản xây dựng trên cơ sở của Phụ lục 17, Công
ước Chicago 1944 và các tài liệu hướng dẫn của ICAO.
Tuy nhiên, việc tham khảo các quy định của ICAO để áp dụng vào các
quy định Việt Nam dẫn đến nhiều nội dung không phù hợp với thực tế khai
thác tại các cảng hàng không của Việt Nam nên lực lượng kiểm soát an ninh
hàng không rất khó khăn trong công tác thực hiện nhiệm vụ để đảm bảo tuân
thủ các quy định đó, cụ thể một số nội dung như sau:
- Tại khoản 13, điều 41 của Thông tư 13 quy định: “Kiểm tra trực quan
ngẫu nhiên bổ sung tối thiểu 10% sau kiểm tra an ninh hàng không lần đầu
đối với hành khách, hành lý xách tay”.
Với quy định trên, lực lượng kiểm soát an ninh hàng không tại các cảng
hàng không của Việt Nam, đặc biệt tại các cảng hàng không có lưu lượng
hành khách cao như Nội Bài, Tân Sơn Nhất,… rất khó khăn trong việc thực
thi do hiện tại mặt bằng về hạ tầng tại các cảng hàng không này không đáp
78
ứng đủ lưu lượng hành khách di chuyển qua điểm kiểm tra, soi chiếu để làm
thủ tục kiểm tra an ninh dẫn đến tình trạng ùn tắc kéo dài thường xuyên tại
các vị trí này. Do đó, để đảm bảo thực hiện quy định trên, lực lượng kiểm soát
an ninh hàng không thường xuyên phải tăng cường tối đa lực lượng để tiến
hành kiểm tra trực quan an ninh đối với hành khách để không ảnh hưởng đến
chất lượng dịch vụ phục vụ hành khách cũng như nguy cơ hành khách bị
chậm, nhỡ chuyến do quá trình kiểm tra an ninh.
- Tại khoản 7, điều 50, Thông tư 13/2019/TT-BGTVT quy định: “Hàng
hóa, bưu gửi quá cảnh, trung chuyển trên tàu bay vận chuyển hành khách
không phải kiểm tra an ninh hàng không khi có xác nhận bằng văn bản hoặc
niêm phong xác nhận việc kiểm tra an ninh hàng không đã được thực hiện tại
điểm xuất phát và thuộc một trong các trường hợp sau:
a) Hàng hóa, bưu gửi quá cảnh, trung chuyển không rời khỏi tàu bay, sân
đỗ tàu bay hoặc có sự giám sát an ninh hàng không thích hợp liên tục;
b) Hàng hóa, bưu gửi quá cảnh, trung chuyển được vận chuyển từ sân đỗ
tàu bay vào khu vực lưu giữ hàng hóa qua khu vực công cộng và ngược lại
được niêm phong an ninh và có biện pháp giám sát an ninh thích hợp liên tục
trong quá trình vận chuyển để ngăn ngừa việc đưa trái phép vật phẩm nguy
hiểm vào hàng hóa, bưu gửi.”
Với quy định này, hàng hóa, bưu gửi quá cảnh, trung chuyển gần như
phải được kiểm tra, soi chiếu an ninh lại toàn bộ vì hiện tại phần lớn các đơn
vị vận chuyển hàng hóa, bưu gửi rất ít khi xuất trình được văn bản xác nhận
đã kiểm tra an ninh hàng không tại điểm xuất phát. Tuy nhiên, hàng hóa, bưu
gửi trung chuyển thường được chất xếp trong các thùng, mâm hàng kín nên
nếu muốn soi chiếu hàng hóa, bưu gửi trung chuyển thì lực lượng kiểm soát
an ninh hàng không buộc phải mở các mâm, thùng hàng đó ra để soi chiếu đối
với từng kiện hàng hóa vì hiện nay tại các cảng hàng không trên cả nước chưa
79
có máy soi chiếu có khả năng soi chiếu nguyên một thùng hoặc một mâm
hàng gây mất nhiều thời gian cho các đơn vị phục vụ hàng hóa cũng như ảnh
hưởng đến thời gian phục vụ chuyến bay. Bên cạnh đó, việc mở các thùng,
mâm hàng chứa hàng hóa, bưu gửi trung chuyển còn cần có sự phối hợp của
Đơn vị Hải quan nên phát sinh nhiều thủ tục, quy trình trong quá trình phục
vụ.
- Theo Thông tư 13/2019/TT-BGTVT, việc quy định mang chất lỏng,
chất đặc sánh, dung dịch xịt (chất lỏng) theo người, hành lý xách tay chỉ áp
dụng đối với các chuyến bay quốc tế, đối với các chuyến bay nội địa không
được nhắc đến trong nội dung của văn bản. Việc này dẫn đến lực lượng kiểm
soát an ninh hàng không rất khó khăn trong việc xử lý đối với các trường hợp
vận chuyển chất lỏng vi phạm các quy định đảm bảo an ninh, an toàn trên các
chuyến bay nội địa như chất lỏng không xác định nguồn gốc, chất lỏng đóng
chai không còn nguyên tem nhãn,…
3.2.2.2. Về cơ cấu tổ chức lực lượng đảm bảo an ninh hàng không tại
cảng hàng không
Tại khoản 1, điều 195, Luật Hàng không dân dụng Việt Nam quy định:
“Lực lượng kiểm soát an ninh hàng không được Bộ Giao thông vận tải chỉ
đạo tổ chức để thực hiện các biện pháp bảo đảm an ninh hàng không trong
phạm vi trách nhiệm của Bộ Giao thông vận tải”, khoản 1, điều 29, Nghị định
92/2015/NĐ-CP quy định lực lượng kiểm soát an ninh hàng không phải có
“hệ thống tổ chức độc lập” và khoản 1, điều 93 Thông tư 13/2019/TT-
BGTVT quy định:
“Lực lượng kiểm soát an ninh hàng không là lực lượng chuyên trách bảo
đảm an ninh hàng không có chức năng thực hiện các biện pháp bảo đảm an
ninh hàng không và cung cấp dịch vụ bảo đảm an ninh hàng không theo quy
định của pháp luật. Lực lượng kiểm soát an ninh hàng không thực hiện nhiệm
80
vụ tham mưu, quản lý, giám sát và trực tiếp thực hiện các biện pháp kiểm soát
an ninh hàng không, phòng ngừa, đối phó với các hành vi can thiệp bất hợp
pháp và vụ việc vi phạm an ninh hàng không theo quy định, bao gồm:
a) Lực lượng kiểm soát an ninh hàng không của đơn vị cung cấp dịch vụ
bảo đảm an ninh hàng không;
b) Lực lượng kiểm soát an ninh hàng không của doanh nghiệp cung cấp
dịch vụ không lưu;
c) Lực lượng kiểm soát an ninh hàng không của doanh nghiệp sản xuất,
bảo dưỡng, sửa chữa tàu bay, thiết bị tàu bay;
d) Lực lượng kiểm soát an ninh hàng không của hãng hàng không Việt
Nam, doanh nghiệp kinh doanh hàng không chung;
đ) Lực lượng kiểm soát an ninh hàng không của doanh nghiệp cung
cấp dịch vụ xăng dầu hàng không, doanh nghiệp cung cấp dịch vụ suất ăn
hàng không”
Với những quy định như trên, có thể xác định rằng lực lượng kiểm soát
an ninh hàng không thực hiện công tác đảm bảo an ninh tại cảng hàng không
phải trực thuộc một đơn vị cung cấp dịch vụ đảm bảo an ninh hàng không
được Bộ Giao thông vận tải chỉ đạo tổ chức. Việc này sẽ đảm bảo công tác
đảm bảo an ninh hang không tại các cảng hàng không trên cả nước được
thống nhất, chuyên nghiệp, phù hợp với tính chất liên quan đến đảm bảo an
ninh quốc gia.
Tuy nhiên, thực tế tổ chức lực lượng kiểm soát an ninh hàng không tại
các cảng hàng không hiện nay của Việt Nam không đảm bảo thực hiện đúng
quy định trên khi hiện nay toàn bộ lực lượng kiểm soát an ninh hàng không tại
các cảng hàng không của Việt Nam hiện nay đều thuộc sự quản lý, chỉ đạo
của Tổng công ty Cảng hàng không Việt Nam như đã trình bày ở trên. Trong
81
khi đó, Tổng công ty Cảng hàng không Việt Nam là một công ty nhà nước đã
được cổ phần hoá với số vốn và đang được chỉ đạo trực tiếp bởi Uỷ ban quản
lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp.
Vì vậy, việc tổ chức lực lượng kiểm soát an ninh hàng không tại các
cảng hàng không hiện nay đang thực hiện không đúng với các quy định của
pháp luật dẫn đến tồn tại những hạn chế không nhỏ trong công tác triển khai
thực hiện, cụ thể:
- Nhiệm vụ bảo đảm an ninh hàng không giao cho doanh nghiệp là
không tương xứng với vị trí, yêu cầu của công tác bảo đảm an ninh hàng
không do với địa vị của doanh nghiệp, thẩm quyền là trách nhiệm bị hạn chế
trong khi yêu cầu bảo đảm an ninh hàng không luôn gắn liền với an ninh quốc
gia; an ninh hàng không được đặt trong tổng thể hệ thống an ninh quốc gia [2,
tr 1], đối tượng đấu tranh của an ninh hàng không là các loại tội phạm và các
đối tượng khủng bố, hơn nữa cảng hàng không là địa bàn trọng điểm liên
quan đến an ninh, quốc phòng; các chuyến bay chuyên cơ chở lãnh đạo cấp
cao của Đảng, nhà nước là những mục tiêu cần được bảo vệ đặc biệt.
Việc kiểm tra, kiểm soát, lục soát, giám sát đối với hành khách, hành lý,
hàng hóa thường liên quan đến những quyền về thân thể, tài sản của người
dân, thường do nhân viên trực thuộc cơ quan quản lý nhà nước thực hiện,
trong khi nhân viên kiểm soát an ninh hàng không lại là người của doanh
nghiệp. Đây là điều bất hợp lý và gây ra nhiều khó khăn trong việc thực thi
nhiệm vụ công vụ của nhân viên kiểm soát an ninh hàng không.
- Do tính chất của công tác bảo đảm an ninh đòi hỏi cần có sự tập trung,
thống nhất cao, đồng thời cần phải nhanh chóng kịp thời trong chỉ đạo, chỉ
huy, điều hành từ nhà chức trách hàng không, nhất là trong việc ứng phó, xử
lý khi xảy ra can thiệp bất hợp pháp tại cảng hàng không hay trên chuyến bay.
82
Việc tổ chức lực lượng kiểm soát an ninh hàng không thuộc các doanh nghiệp
cảng hiện nay không đáp ứng được yêu cầu tập trung, thống nhất và nhanh
chóng kịp thời.
- Nhiệm vụ bảo đảm an ninh hàng không luôn mâu thuẫn với tính chất
thương mại và mục đích cơ bản trước tiên của doanh nghiệp là lợi nhuận, vì
vậy, nhiệm vụ bảo đảm an ninh hàng không thuộc doanh nghiệp dễ bị thương
mại hóa và không được quan tâm đúng mức, làm ảnh hưởng đến hiệu quả,
chất lượng của công tác bảo đảm an ninh hàng không, cụ thể như sau:
+ Lực lượng kiểm soát an ninh hàng không tại các cảng hàng không hiện
nay quân số mỏng, thiếu, đặc biệt là tại các cảng hàng không cấp 2, cấp 3.
+ Do không được quan tâm đúng mức, nên tính chuyên nghiệp của lực
lượng kiểm soát an ninh hàng không bị hạn chế; trình độ chuyên môn, nghiệp
vụ, nề nếp tác phong, thái độ ứng xử, đạo đức công vụ của lực lượng kiểm
soát an ninh hàng không chưa đáp ứng yêu cầu.
+ Việc đầu tư cho hạ tầng, trang thiết bị, con người cho bảo đảm an ninh
hàng không bị hạn chế, không thu hút được đội ngũ nhân viên có trình độ
năng lực làm nhân viên kiểm soát an ninh hàng không.
3.2.2.3. Về cơ sở vật chất, trang thiết bị, phương tiện thực hiện công tác
đảm bảo an ninh hàng không tại cảng hàng không
- Trong nhiều năm qua, các cảng hàng không đã có những nỗ lực rất lớn
trong việc đầu tư cơ sở hạ tầng nhưng do thiếu kinh phí nên nhiều cảng hàng
không chưa có đầy đủ hệ thống hàng rào vành đai, hệ thống đường tuần tra,
bốt gác, chiếu sang an ninh hoặc có thì cũng không đồng bộ, không bảo đảm
về quy cách, độ cao, chất liệu và những tiêu chuẩn cụ thể khác theo quy định.
Mặt khác, do thời gian sử dụng lâu ngày, hệ thống cơ sở hạ tầng nhiều nơi đã
xuống cấp cần sửa chữa, thay thế mới.
- Hiện nay, trong tổng số 22 cảng hàng không trên cả nước thì có 17/22
83
cảng hàng không đã có hệ thống hàng rào an ninh cơ bản khép kín tại khu
bay, các cảng hàng không còn lại gồm Cà Mau, Chu Lai, Tuy Hòa, Rạch Giá,
Phù Cát đang trong quá trình đầu tư để đảm bảo khép kín vành đai cảng hàng
không. Bên cạnh đó, hệ thống chiếu sáng, đường tuần tra, chiếu sang an ninh
bảo vệ cảng hàng không cũng chưa đồng bộ, hoàn chỉnh theo tiêu chuẩn quy
định.
- Các dự án, kế hoạch nâng cấp, khép kín hàng rào an ninh, đường công
vụ, chốt gác, hệ thống camera giám sát, hệ thống phát hiện cảnh báo xâm
nhập qua hàng rào tại khu bay không thực hiện được vì vướng cơ chế thủ tục
gây áp lực lớn đối với lực lượng KSAN tại cảng HK và tiềm ẩn nguy cơ mất
an ninh an toàn hàng không.
- Hiện nay, tất cả các cảng hàng không đều được trang bị máy soi hành
lý, hàng hóa, cổng từ, máy dò kim loại cầm tay, một số cảng hàng không đã
được trang bị thiết bị phát hiện chất nổ như Cảng HKQT Nội Bài, Tân Sơn
Nhất, Đà Nẵng, Vân Đồn,… Tuy nhiên, máy soi chiếu của các cảng hàng
không được trang bị đa dạng về chủng loại, của nhiều hang sản xuất khác
khác nhau, do đó gây khó khan cho khâu bảo dưỡng sửa chữa và đào tạo huấn
luyện; một số cảng hàng không địa phương được trang bị máy thế hệ cũ, khả
năng phát hiện kém, nhiều cổng từ hoạt động không chính xác, một số máy
soi chiếu tia X và các thiết bị hỗ trợ khác cũng đã lạc hậu, xuống cấp nên khó
khăn trong việc đối phó với các thủ đoạn phá hoại ngày càng mới, ngày càng
tinh vi của đối tượng khủng bố; nhiều cảng hàng không chưa được trang bị
máy phát hiện, xử lý chất nổ.
- Hệ thống thiết bị giám sát an ninh của các cảng hàng không còn mỏng,
không đồng bộ. Hiện phần lớn các cảng hàng không đã được trang bị hệ thống
camera giám sát nhưng ngoại trừ các cảng hàng không lớn thì các cảng hàng
không địa phương không đảm bảo có hệ thống camera giám sát liên tục toàn
84
bộ các khu vực hạn chế của cảng hàng không hoặc công nghệ cũ, lạc hậu
không đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ hỗ trợ giám sát bảo đảm an ninh hàng
không; 100% các cảng hàng không chưa có hệ thống thiết bị cảnh báo xâm
nhập theo đúng quy định tại điểm a, khoản 1, điều 101 của Thông tư
13/2019/TT-BGTVT: “Công trình phục vụ bảo đảm an ninh hàng không sân
bay: hàng rào an ninh hàng không ngăn cách khu vực hạn chế và khu vực
công cộng, đường tuần tra, hệ thống cảnh báo xâm nhập, hệ thống chiếu
sáng, bốt gác, cổng, cửa, điểm kiểm tra an ninh hàng không, hệ thống đèn
chiếu sáng vị trí đỗ của tàu bay ban đêm”.
- Các Trung tâm khẩn nguy tại các cảng hàng không đều được thiết lập
nhưng cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ công tác khẩn nguy còn thiếu và
sơ sài. Ngoài các cảng hàng không quốc tế, hầu hết các cảng hàng không, sân
hệ thống trang thiết bị phục vụ đối phó với tình huống khẩn nguy còn rất sơ
sài, hầu như chưa được đầu tư, trang bị, không bảo đảm cho phục vụ công tác
chỉ huy đối phó với hành vi can thiệp bất hợp pháp.
- Thiết bị, vũ khí và công cụ hỗ trợ trang bị cho lực lượng kiểm soát an
ninh hàng không (công cụ hỗ trợ, mũ, áo giáp chống đạn, ống nhòm, thiết bị
phòng độc, chống ngạt,…) tại một số cảng hàng không địa phương còn thiếu
hoặc có nhưng cũ kỹ lạc hậu.
3.2.2.4. Về nhân lực thực hiện công tác đảm bảo an ninh hàng không
Theo quy định tại khoản 2, điều 8, Thông tư 10/2018/TT-BGTVT thì
nhân viên an ninh hàng không phải đáp ứng các tiêu chuẩn gồm:
- Là công dân Việt Nam đủ 18 tuổi trở lên có lý lịch rõ ràng, đủ sức
khỏe, tốt nghiệp trung học phổ thông trở lên;
- Không có tiền án, tiền sự theo quy định của pháp luật; không sử dụng
ma túy, chất kích thích;
- Được Cục Hàng không Việt Nam cấp giấy phép nhân viên kiểm soát an
85
ninh hàng không.
Mặc dù tiêu chuẩn tuyển dụng đối với nhân viên an ninh không cao,
song do sự hấp dẫn của đặc thù ngành cũng như mức thu nhập đạt mức tương
đối khá so với lao động phổ thông tại các ngành nghề các nên nghề an ninh
hàng không thu hút một số lượng tương đối đông các ứng cử viên là những
người đã tốt nghiệp đại học. Điều này là thuận lợi nếu xét từ góc độ nhận
thức, trình độ nguồn nhân lực an ninh hàng không, giúp lao động mới vào
nghề có khả năng nắm bắt nhanh, tốt hơn những kiến thức nghiệp vụ chuyên
môn. Song thực tế đây lại là một thách thức và tạo nên những khó khăn nhất
định cho công tác đảm bảo an ninh hàng không tại cảng hàng không về lâu dài
vì không tránh khỏi hiện tượng những người thực sự có năng lực khi có điều
kiện tìm kiếm được một công việc phù hợp hơn với chuyên môn được đào tạo
tại trường đại học và họ không tìm thấy cơ hội phát triển cũng như sự phù hợp
về sở thích cá nhân thì sẽ chủ động đơn phương chấm dứt hợp đồng, dẫn đến
sự lãng phí lớn về thời gian và công sức tuyển dụng, huấn luyện đào tạo thay
thế.
Bên cạnh đó, Chương trình huấn luyện đào tạo hiện tại dành cho nhân viên
ANHK theo quy định của Thông tư 43/2017/TT-BGTVT chủ yếu tập trung huấn
luyện về chuyên môn nghiệp vụ; chưa chú trọng huấn luyện kỹ năng giao tiếp
với khách hàng. Do đó, nhân viên trẻ mới vào làm việc thường thiếu kỹ kỹ năng
giao tiếp, ứng xử với khách hàng; thái độ xử sự trong giải quyết các tình huống
cụ thể thường dễ dẫn đến phản ứng bất hợp tác hoặc miễn cưỡng của khách
hàng.
3.3. Phƣơng hƣớng hoàn thiện và giải pháp đề xuất
3.3.1. Phương hướng chiến lược bảo đảm an ninh hàng không tại cảng
86
hàng không
- Bảo đảm vững chắc an ninh hàng không tại cảng hàng không là nhiệm
vụ sống còn, bảo đảm cho sự phát triển bền vững của ngành hàng không dân
dụng Việt Nam.
- Đảm bảo an ninh hàng không cảng hàng không được đặt trong tổng thể
hệ thống an ninh quốc gia, được xây dựng trên nền tảng của hệ thống an ninh
nhân dân, nền quốc phòng toàn dân. Đảm bảo sự chỉ đạo, điều hành, chỉ huy
thông suốt, nhanh chóng, nhất quán, hiệu quả; sự phối hợp chặt chẽ giữa các
lực lượng liên quan.
- Đảm bảo tuân thủ nghiêm pháp luật về hàng không dân dụng, an ninh
hàng không, quốc phòng, công an nhân dân, phòng, chống khủng bố và pháp
luật khác có liên quan và các Điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên.
- Công tác bảo đảm an ninh hàng không phù hợp với điều kiện Việt
Nam, đáp ứng tiêu chuẩn và thông lệ quốc tế; mở rộng giao lưu, hợp tác quốc
tế trong bảo đảm an ninh hàng không cảng hàng không.
- Xây dựng lực lượng kiểm soát an ninh hàng không thống nhất, chuyên
nghiệp, có kỷ luật, có kiến thức, kỹ năng, đủ khả năng đấu tranh, ngăn chặn,
ứng phó ban đầu đối với các hành vi can thiệp bất hợp pháp vào hoạt động
hàng không dân dụng.
3.3.2. Giải pháp hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật về an ninh hàng
không tại cảng hàng không
3.3.2.1. Đối với pháp luật quốc tế
- Kiến nghị xây dựng và tham gia một Công ước quốc tế riêng biệt về
đảm bảo an ninh hàng không tại cảng hàng không nhằm hoàn thiện hơn hệ
thống pháp luật quốc tế về hàng không dân dụng.
- Nghiên cứu, xem xét việc gia nhập các Công ước quốc tế liên quan đến
an ninh hàng không như Công ước Montreal 1991 về đánh dấu chất nổ dẻo
87
cho mục đích phát hiện, Công ước Bắc Kinh 2010 về ngăn chặn các hành vi
bất hợp pháp liên quan đến hàng không dân dụng quốc tế, Nghị định thư Bắc
Kinh 2010 sửa đổi, bổ sung Công ước về ngăn chặn các hành vi chiếm đoạt
bất hợp pháp tàu bay để bắt kịp với xu thế phát triển chung của hàng không
dân dụng quốc tế.
3.3.2.2. Đối với pháp luật Việt Nam
- Rà soát, kiến nghị bổ sung, sửa đổi các quy định của pháp luật về an
ninh hàng không; các văn bản pháp luật về xử lý vi phạm hành chính trong
lĩnh vực hàng không dân dụng, cụ thể:
+ Xây dựng, ban hành Luật Hàng không dân dụng Việt Nam thay thế
cho văn bản hiện hành nhằm cập nhật, bổ sung các biện pháp bảo đảm an ninh
hàng không mới phù hợp với thực tế phát triển của ngành hàng không dân
dụng như bảo đảm an ninh hệ thống thông tin chuyên ngành hàng không,
phòng, chống khủng bố tại các khu vực lân cận cảng hàng không bằng thiết bị
bay không người lái,…; đồng thời, sửa đổi quy định liên quan đến tổ chức của
lực lượng kiểm soát an ninh hàng không theo hướng là một tổ chức chuyên
nghiệp, độc lập thay vì được Bộ Giao thông vận tải chỉ đạo tổ chức thực hiện
như hiện tại.
+ Cụ thể hóa các quy định trong các văn bản hướng dẫn như Nghị định,
Thông tư về công tác đảm bảo an ninh hàng không tại cảng hàng không một
cách thống nhất, tránh sự dàn trải trong nhiều văn bản gây rất nhiều khó khăn
cho lực lượng kiểm soát an ninh hàng không cũng như các cơ quan, đơn vị
liên quan trong việc nghiên cứu, triển khai, thực hiện.
+ Xây dựng Chương trình An ninh hàng không dân quốc gia phù hợp với
tình hình thực tế của Việt Nam thay vì rập khuôn các quy định trong văn bản
hướng dẫn của ICAO dẫn đến tạo nên các quy định phi thực tế mà công tác
đảm bảo an ninh hàng không tại cảng hàng không không thể thực hiện được.
88
Tuy nhiên, bên cạnh đó cũng thường xuyên theo dõi, cập nhật các hướng dẫn
của ICAO cũng như kinh nghiệm của các quốc gia trên thế giới về đảm bảo
an ninh hàng không tại cảng hàng không để xem xét bổ sung quy định tại Việt
Nam nếu các hướng dẫn mới phù hợp với thực tế triển khai tại Việt Nam và
có khả năng nâng cao hiệu quả đảm bảo an ninh hàng không nếu thực hiện tại
các cảng hàng không của Việt Nam.
+ Xem xét bổ sung các chế tài liên quan đến vi phạm an ninh trật tự tại
các khu vực công cộng của cảng hàng không để có cơ chế xử lý đối với các
đối tượng vi phạm nhằm đảm bảo tính răn đe trong quá trình duy trì an ninh
trật tự của lực lượng kiểm soát an ninh hàng không tại các khu vực trên.
- Tham gia đầy đủ các công ước quốc tế về an ninh hàng không nhằm
thực hiện trách nhiệm và cam kết của Việt Nam với cộng đồng hàng không
dân dụng quốc tế;
- Tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật, ý thức về bảo
đảm an ninh hàng không cho người dân, hành khách tham gia vào hoạt động
hàng không:
+ Hiện nay tại cảng hàng không trên cả nước đang thực hiện phát các
đoạn video tuyên truyền về an ninh hàng không (clip do Ủy ban ANHK dân
dụng quốc gia cung cấp) tại các khu vực công cộng của Nhà ga hành khách.
Tuy nhiên, hiệu quả tuyên truyền đối với các clip trên chưa được cao do các
clip này được dựng dưới dạng phim ngắn, có lời thoại trong khi đó âm thanh
trong Nhà ga không đảm bảo để hành khách có thể nghe cũng như hiểu được
đầy đủ nội dung của clip. Vì vậy, cần nghiên cứu xây dựng các clip, hình ảnh
tuyên truyền một cách trực quan, dễ hiểu để hành khách có thể nắm được các
quy định cơ bản của an ninh hàng không.
+ Đưa nội dung tìm hiểu về các quy định của an ninh hàng không trong
nội dung giảng dạy bổ sung trong các trường học tương tự như đối với các
89
quy định về an toàn giao thông đường bộ để các đối tượng học sinh, sinh viên
có thể biết, hiểu và góp phần tuyên truyền các quy định về an ninh hàng
không một cách rộng rãi hơn.
3.3.3. Giải pháp hoàn thiện hệ thống tổ chức bảo đảm an ninh hàng không
tại cảng hàng không
- Rà soát, hoàn thiện tổ chức, biên chế của lực lượng kiểm soát an ninh
hàng không tại cảng hàng không của Việt Nam; đảm bảo mô hình thống nhất,
chuyên nghiệp:
+ Sớm triển khai thành lập một đơn vị cung cấp dịch vụ đảm bảo an ninh
hàng không độc lập, riêng biệt, không phụ thuộc vào người khai thác cảng
hàng không nhằm đảm bảo tính chuyên nghiệp, khách quan trong quá trình
thực hiện nhiệm vụ của lực lượng kiểm soát an ninh hàng không.
+ Có kế hoạch tuyển dụng bổ sung lực lượng kiểm soát an ninh hàng
không để đảm bảo việc thực hiện công tác đảm bảo an ninh tại cảng hàng
không tuân theo đúng các quy định của pháp luật, đặc biệt là tại các cảng
hàng không lớn, có tần suất hành khách cao và tăng trưởng nhanh chóng.
- Hoàn thiện cơ chế phân định trách nhiệm của các đơn vị, người đứng
đầu trong hoạt động vận tải hàng không liên quan tới bảo đảm an ninh hàng
không, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội tại cảng hàng không:
+ Chỉ định người chịu trách nhiệm cao nhất về đảm bảo an ninh hàng
không của các cơ quan, đơn vị hoạt động trong lĩnh vực hàng không dân
dụng;
+ Xây dựng và triển khai các văn bản phối hợp giữa lực lượng kiểm soát
an ninh hàng không với các cơ quan, đơn vị trực tiếp hoạt động hàng không
như hãng hàng không, cơ sở cung cấp dịch vụ không lưu, các đơn vị phục vụ
mặt đất, hàng hóa, cung cấp suất ăn, xăng dầu,… để thống nhất các biện pháp
đảm bảo an ninh tại cảng hàng không cũng như sẵn sàng phối hợp ứng phó
90
với tình huống can thiệp bất hợp pháp xảy ra trên địa bàn cảng hàng không.
- Hoàn thiện và triển khai thành lập các đồn công an bảo đảm an ninh
trật tự tại các cảng hàng không, đặc biệt là tại các cảng hàng không quốc tế.
Đồng thời, quy định trách nhiệm của lực lượng công an trong công tác duy trì,
đảm bảo an ninh trật tự tại cảng hàng không.
- Nâng cao năng lực, ý thức kỷ luật của nhân viên kiểm soát an ninh
hàng không:
+ Rà soát tiêu chuẩn, tổ chức tuyển dụng, sử dụng chặt chẽ, nghiêm ngặt
nhân viên an ninh hàng không về trình độ chuyên môn, nhân thân, phẩm chất
chính trị, đạo đức;
+ Đào tạo, tập huấn nâng cao phẩm chất chính trị, đạo đức, trình độ
chuyên môn, kỹ năng chuyên nghiệp, ngoại ngữ, ý thức chấp hành pháp luật,
quy định nội bộ của nhân viên an ninh hàng không, đáp ứng tiêu chuẩn quốc
tế;
+ Nâng cao hiệu quả của hệ thống cơ sở đào tạo, huấn luyện về an ninh
hàng không theo đúng quy định của pháp luật và hướng đến đạt tiêu chuẩn
quốc tế.
3.3.4. Giải pháp nâng cao hệ thống hạ tầng, phương tiện, thiết bị an ninh
hàng không
- Hoàn thiện hệ thống hàng rào, vành đai, các cổng, cửa, các lối ra, vào
khu vực hạn chế, hệ thống bốt gác, đường tuần tra canh gác, chiếu sang, bãi
đỗ biệt lập theo tiêu chuẩn áp dụng tại các cảng hàng không trên toàn quốc;
- Tiêu chuẩn hóa, đầu tư trang bị đầy đủ hệ thống phương tiện, trang bị,
thiết bị an ninh hàng không;
- Từng bước hiện đạo hóa hệ thống thiết bị an ninh hàng không theo
công nghệ tiên tiến của thế giới.
- Xây dựng hệ thống dữ liệu tổng quan về lĩnh vực hàng không nhằm tạo
91
thành một phần quan trọng trong các biện pháp đảm bảo an ninh trong tương
lai bằng cách đánh giá rủi ro từ hành khách ngay từ khi làm thủ tục hàng
không [17].
3.3.5. Giải pháp hợp tác quốc tế nâng cao năng lực bảo đảm an ninh hàng
không tại cảng hàng không
- Đẩy mạnh công tác hợp tác quốc tế trong việc thực hiện các biện pháp
bảo đảm an ninh hàng không;
- Tham gia tích cực các diễn đàn, các chương trình hỗ trợ các nước thành
viên của Tổ chức hàng không dân dụng quốc tế (ICAO) trong việc phòng
ngừa đối phó với nguy cơ đe dọa an ninh hàng không.
- Tăng cường hợp tác song phương, đa phương trong đào tạo, chuyển
giao công nghệ, trao đổi thông tin, kiểm soát an ninh đối với giấy tờ sử dụng
đi tàu bay; chia sẻ kết quả Chương trình thanh tra an ninh hàng không giữa
các cảng hàng không trên thế giới.
- Thường xuyên cử lực lượng kiểm soát an ninh hàng không được tham
dự các khóa đào tạo của ICAO liên quan đến đảm bảo an ninh hàng không tại
cảng hàng không nhằm kịp thời nắm bắt sự phát triển của lĩnh vực an ninh
hàng không trên thế giới để học hỏi, ứng dụng thực hiện tại các cảng hàng
92
không của Việt Nam.
KẾT LUẬN
Đảm bảo an ninh hàng không tại cảng hàng không là một thành phần
quan trọng của an ninh hàng không, đóng góp phần lớn vào công tác đảm bảo
an toàn cho các chuyến bay đã được quy định trong pháp luật quốc tế cũng
như pháp luật quốc gia. Với sự phát triển nhanh chóng của ngành hàng không
dân dụng và những bất ổn về tình hình chính trị, kinh tế thế giới như hiện nay
thì an ninh hàng không tại cảng hàng không càng cần có sự quan tâm sâu sắc
hơn nữa. Tuy nhiên, trong bối cảnh Việt Nam hiện nay chưa có một đội ngũ
chuyên môn đủ mạnh trong lĩnh vực này mà hầu hết đang vận dụng một cách
tương đối rập khuôn, máy móc các quy định, hướng dẫn của pháp luật quốc tế
trong việc triển khai các biện pháp đảm bảo an ninh hàng không tại các cảng
hàng không của Việt Nam. Việc rập khuôn trên phần nào giúp Việt Nam tiến
gần đến với quy chuẩn chung về đảm bảo an ninh hàng không tại cảng hàng
không của các quốc gia trên thế giới nhưng nó cũng là một khó khăn, thách
thức không nhỏ đối với Việt Nam khi hoàn cảnh kinh tế, chính trị của Việt
Nam cũng như mức độ thiếu đồng đều tại các cảng hàng không của Việt Nam
không cho phép thực hiện đầy đủ theo các quy định, hướng dẫn của pháp luật
quốc tế.
Bên cạnh đó, tổ chức lực lượng kiểm soát an ninh hàng không tại các
cảng hàng không Việt Nam hiện nay đều nằm dưới sự chỉ đạo của một đơn vị
doanh nghiệp cổ phần nên chưa tương xứng với tầm quan trọng trong trách
nhiệm đảm bảo an ninh quốc gia của lực lượng kiểm soát an ninh hàng không.
Từ đó, dẫn tới việc đầu tư cả về nhân lực và trang thiết bị, phương tiện cho
lực lượng kiểm soát an ninh hàng không vẫn còn hạn chế do bị sự chi phối bởi
tính chất kinh doanh, lợi nhuận của một doanh nghiệp. Ngoài ra, việc lực
lượng kiểm soát an ninh hàng không thuộc doanh nghiệp cũng làm cho vị trí
93
của các nhân viên kiểm soát an ninh hàng không khi thực hiện nhiệm vụ chưa
được thể hiện đúng với vai trò người thi hành các quy định của pháp luật về
đảm bảo an ninh hàng không nên hành khách đi tàu bay còn chưa có ý thức
cao trong việc chấp hành sự kiểm tra, hướng dẫn của lực lượng kiểm soát an
ninh hàng không.
Chính vì vậy, mục tiêu trước mắt cần phải tổ chức hoàn thiện lực lượng
kiểm soát an ninh hàng không tại Việt Nam thành một đơn vị độc lập, chuyên
nghiệp, hoạt động dịch vụ công ích [1, điều 3]; đồng thời xây dựng lực lượng
kiểm soát an ninh hàng không và lực lượng chuyên môn về an ninh hàng
không có kỹ năng, kiến thức, trình độ chuyên sâu về an ninh hàng không.
Ngoài ra, cần tiếp tục nghiên cứu để gia nhập các điều ước quốc tế về an ninh
hàng không trên tinh thần học hỏi, tận dụng sự giúp đỡ của các quốc gia phát
triển để xây dựng hệ thống đảm bảo an ninh hàng không nói chung và an ninh
hàng không tại cảng hàng không nói riêng một cách thống nhất, hiệu quả với
mục tiêu cao nhất đảm bảo tuyệt đối an toàn cho tất cả các chuyến đi và đến
qua các cảng hàng không tại Việt Nam.
*****************************
Tác giả luận văn xin bày tỏ sự cảm tạ sâu sắc đến GS.TS. Nguyễn Bá
Diến (Khoa Luật, ĐHQG Hà Nội), người đã tận tình chỉ bảo, hướng dẫn tác
giả hoàn thành luận văn này.
Cuối cùng, tác giả xin gửi lời tri ân đến gia đình, bạn bè và đồng nghiệp
94
đã giúp đỡ, động viên tác giả trong suốt quá trình thực hiện luận văn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
A. Tài liệu tiếng Việt
[1]. Chính phủ, Nghị định số 92/2015/NĐ-CP ngày 13/10/2015 của Chính
phủ về an ninh hàng không.
[2]. Chính phủ (2016), Quyết định số 34/2016/QĐ-TTg ngày 07 tháng 01 năm
2016 của Thủ Tướng Chính Phủ về Phê duyệt đề án nâng cao năng lực bảo
đảm an ninh hàng không dân dụng, Hà Nội.
[3]. Cục Hàng không Việt Nam, Báo cáo Đề án nâng cao năng lực bảo đảm an
ninh hàng không, 2015.
[4]. Quốc Hội, Luật Hàng không dân dụng Việt Nam năm 2006 (sửa đổi, bổ
sung năm 2014).
[5]. Thông tư số 13/2019/TT-BGTVT ngày 29/3/2019 của Bộ Giao thông vận
tải quy định chi tiết Chương trình An ninh hàng không và kiểm soát chất
lượng an ninh hàng không Việt Nam.
[6]. Tổng công ty Cảng hàng không Việt Nam, Báo cáo công tác đảm bảo an
ninh hàng không, an ninh trật tự năm 2018.
B. Tài liệu tiếng Anh
[7]. Annexs to the Chicago Convention, Department of Infrastructure,
Transport, Regional Development and Communications, Autralian
Government, 09/7/2014, https://infrastructure.gov.au.
[8]. Billy Shallow, the challenge of preventing aviation security threats
efficiently, 20/12/2017, https://to70.com.
[9]. Convention on International Civil Aviation, Chicago, 1944.
[10]. Convention on offences and certain other Acts committed board
95
Aircraft, Tokyo, 1963.
[11]. Convention for the suppression on unlawful seizure of Aircraft, Hauge,
1970.
[12] Convetion for the suppresion of Unlawful Acts against Safety of civil
aviation, Montreal, 1971.
[13] Convention on the Marking of Plastic Explosives, Montreal, 1991.
[14] Convention on the suppression of unlawful acts relating to international
civil aviation, Beijing, 2010.
[15]. ICAO, Promotion of the beijing convention and the beijing protocol of
2010, High-level conference on aviation security, Montreal, 2012.
[16]. ICAO, Global aviation security plan, November 2017, from
[17]. ICAO, Vision for aviation security at Airport, Working Paper, Second
High-Level Conference on aviation security, Montreal, 2018.
[18]. ICAO, Joint approach to border and aviation security threats at airports,
Working Paper, Second High-Level Conference on aviation security,
Montreal, 2018.
[19] Protocol for the suppression of unlawful acts of violence at airports
serving international civil aviation, supplementary to the convention for the
suppression of unlawful acts against the safety of civil aviation, Montreal,
1988.
[20]. Protocol supplementary to the convention for the suppression of
unlawful seizure of aircraft, beijing 2010.
[21]. The White house, National strategy for security aviation of the United
96
States of America, Washington, DC, 2018.