intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Pháp luật về hòa giải các tranh chấp thương mại tại tòa án Việt Nam – thực tiễn và khuyến nghị

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:12

36
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết này tác giả nêu lên và phân tích những quy định của pháp luật Việt Nam về hòa giải những tranh chấp thương mại tại Tòa án và nêu lên những khó khăn, bất cập trong việc áp dụng những quy định này vào trong thực tiễn hòa giải những tranh chấp thương mại tại Tòa án, đồng thời đưa ra những khuyến nghị nhằm hoàn thiện vấn đề này.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Pháp luật về hòa giải các tranh chấp thương mại tại tòa án Việt Nam – thực tiễn và khuyến nghị

  1. PHÁP LUẬT VỀ HÒA GIẢI CÁC TRANH CHẤP THƯƠNG MẠI TẠI TÒA ÁN VIỆT NAM – THỰC TIỄN VÀ KHUYẾN NGHỊ Lý Văn Toán1 Tóm tắt: Bài viết này tác giả nêu lên và phân tích những quy định của pháp luật Việt Nam về hòa giải những tranh chấp thương mại tại Tòa án và nêu lên những khó khăn, bất cập trong việc áp dụng những quy định này vào trong thực tiễn hòa giải những tranh chấp thương mại tại Tòa án, đồng thời đưa ra những khuyến nghị nhằm hoàn thiện vấn đề này. Abstract: In this article, the author raises and analyzes the provisions of Vietnamese laws on conciliation of commercial disputes in courts and points out the difficulties and inadequacies in applying these provisions in practices to mediate commercial disputes in Court, and makes recommendations to improve this issue. Từ khóa: Hòa giải, tranh chấp thương mại, Tòa án Việt Nam, vướng mắc, giải pháp hoàn thiện… Key words: Mediation, commercial disputes, Vietnamese courts, problems, solutions… 1. Đặt vấn đề Hòa giải là thủ tục giải quyết tranh chấp thương mại đã xuất hiện từ rất sớm và được các bên đương sự cũng như Tòa án áp dụng để giải quyết tranh chấp thương mại. Hòa giải đã giúp các bên giải quyết mâu thuẫn góp phần tạo môi trường kinh doanh thuận lợi. Trên tinh thần đó, chế định hòa giải về những vụ án kinh doanh thương mại tại Tòa án đã được quy trong Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 của Việt Nam. Thông qua hòa giải Tòa án có thể giúp các đương sự giải quyết mâu thuẫn khi thỏa thuận giải quyết vụ việc 1 Nghiên cứu sinh Ngành Luật kinh tế Đơn vị công tác: Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Kiên Giang Thông tin liên lạc: Email: toanlv18710@sdh.uel.edu.vn, Tel: +84942260224 436
  2. kinh doanh thương mại mà không phải kéo dài phiên tòa xét xử, giảm tốn kém thời gian, Trong bối cảnh hiện nay Bộ luật tố tụng dân sự nói chung và những quy định về hòa giải những vụ án kinh doanh thương mại đã bộc lộ những hạn chế, bất cập đã đặt ra yêu cầu cấp bách phải nghiên cứu tìm ra những giải pháp góp phần hoàn thiện quy định của pháp luật về hòa giải tranh chấp thương mại tại Tòa án Việt Nam. 2. NỘI DUNG 2.1 QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ HÒA GIẢI TRANH CHẤP THƯƠNG MẠI TẠI TÒA ÁN VIỆT NAM 2.1.1. Các nguyên tắc tiến hành hòa giải các tranh chấp thương mại Nguyên tắc, theo Từ điển Tiếng Việt (1992) của Viện Khoa học xã hội Việt Nam, là điều cơ bản định ra nhất thiết phải tuân theo trong một loạt việc làm. Nguyên tắc của một phương thức giải quyết tranh chấp là những yêu cầu, định hướng cơ bản chi phối toàn bộ quá trình giải quyết tranh chấp mà tất cả các chủ thể tham gia vào quá trình đó đều phải tuân thủ và tôn trọng nhằm đạt được mục đích của việc giải quyết tranh chấp. Các yêu cầu đó phải được Nhà nước luật hóa hoặc phải được thừa nhận chung trong giới kinh doanh như những thông lệ, tập quán. Là những phương thức giải quyết tranh chấp thương mại độc lập, hòa giải và tố tụng tư pháp đều có những nguyên tắc riêng của mình. Một yêu cầu quan trọng của việc kết hợp các phương thức giải quyết tranh chấp khác nhau vào trong cùng một quy trình là phải bảo tồn được một số nguyên tắc cơ bản của từng phương thức nhằm phát huy tối đa những ưu điểm của mỗi phương thức, đồng thời hạn chế những nhược điểm của chúng. Tuy nhiên, yêu cầu đó không phải lúc nào cũng dễ dàng đạt được do những khác biệt lớn giữa các phương pháp giải quyết tranh chấp. Pháp luật thực định hiện nay của Việt Nam cũng đã có những quy định về nguyên tắc của hòa giải tranh chấp thương mại cả ngoài tố tụng lẫn trong tố tụng. Theo quy định tại khoản 2 Điều 205 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 quy định: “Việc hòa giải được tiến hành theo các nguyên tắc sau đây: 437
  3. a) Tôn trọng sự tự nguyện thỏa thuận của các đương sự, không được dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực, bắt buộc các đương sự phải thỏa thuận không phù hợp với ý chí của mình; b) Nội dung thỏa thuận giữa các đương sự không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội”. Vì vậy, trong luận án này, việc nghiên cứu xác định các nguyên tắc của hòa giải trong giải quyết các tranh chấp thương mại tại Tòa án được thực hiện dựa trên các quy định của pháp luật tố tụng hiện hành áp dụng vào quá trình giải quyết tranh chấp kinh tế tại Tòa án. 2.1.2. Phạm vi hòa giải những vụ án kinh doanh thương mại Phạm vi hòa giải là những vụ án kinh doanh thương mại mà Tòa án phải thực hiện hòa giải trong quá trình giải quyết vụ án kinh doanh thương mại. Phạm vi hòa giải vụ án kinh doanh thương mại là giới hạn những vụ án Tòa án phải tiến hành trước khi xét xử sơ thẩm. Về nguyên tắc, hầu hết các vụ án kinh doanh thương mại Tòa án đều tiến hành hòa giải, trừ những vụ án không được hòa giải và những vụ án không tiến hành hòa giải được vụ án được thụ lý giải quyết theo thủ tục tố tụng rút gọn. Khoản 1 Điều 205 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 quy định: “Trong thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án, Tòa án tiến hành hòa giải để các đương sự thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ án, trừ những vụ án không được hòa giải hoặc không tiến hành hòa giải được quy định tại Điều 206 và Điều 207 của Bộ luật này hoặc vụ án được giải quyết theo thủ tục rút gọn”. Cũng giống như Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004, Bộ luật tố tụng dân sự năm năm 2015 không liệt kê những vụ việc phải tiến hành hòa giải mà quy định theo phương pháp loại trừ. Theo đó, phạm vi hòa giải vụ án kinh doanh thương mại rất rộng, đó là những tranh chấp được quy định tại các Điều 30 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, trừ những vụ án không được hòa giải hoặc không tiến hành hòa giải được theo quy định tại Điều 206 và Điều 207 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 hoặc vụ án được giải quyết theo thủ tục rút gọn. 2.1.3. Hòa giải các tranh chấp thương mại ở giai đoạn chuẩn bị xét xử Thứ nhất, về thành phần phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải. 438
  4. Theo quy định tại Điều 209 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 quy định thành phần phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải gồm có: (a) Thẩm phán chủ trì phiên họp; (b) Thư ký Tòa án ghi biên bản phiên họp; (c) Các đương sự hoặc người đại diện hợp pháp của các đương sự; (d) Đại diện tổ chức đại diện tập thể lao động đối với vụ án lao động khi có yêu cầu của người lao động, trừ vụ án lao động đã có tổ chức đại diện tập thể lao động là người đại diện, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho tập thể người lao động, người lao động. Trường hợp đại diện tổ chức đại diện tập thể lao động không tham gia hòa giải thì phải có ý kiến bằng văn bản; (đ) Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự (nếu có); (e) Người phiên dịch (nếu có). Trường hợp cần thiết, Thẩm phán yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức có liên quan tham gia phiên họp; đối với vụ án về hôn nhân và gia đình, Thẩm phán yêu cầu đại diện cơ quan quản lý nhà nước về gia đình, cơ quan quản lý nhà nước về trẻ em, Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam tham gia phiên họp; nếu họ vắng mặt thì Tòa án vẫn tiến hành phiên họp. Trong vụ án có nhiều đương sự mà có đương sự vắng mặt, nhưng các đương sự có mặt vẫn đồng ý tiến hành phiên họp và việc tiến hành phiên họp đó không ảnh hưởng đến quyền, nghĩa vụ của đương sự vắng mặt thì Thẩm phán tiến hành phiên họp giữa các đương sự có mặt; nếu các đương sự đề nghị hoãn phiên hòa giải để có mặt tất cả các đương sự trong vụ án thì Thẩm phán phải hoãn phiên họp. Thẩm phán phải thông báo việc hoãn phiên họp và việc mở lại phiên họp cho đương sự. Điều 209 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 đã kế thừa quy định về thành phần phiên hòa giải tại Điều 184 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004. Tuy nhiên, Điều luật này đã bổ sung quy định về thành phần tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải đối với người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự; đại diện tổ chức đại diện tập thể lao động đối với vụ án lao động khi có yêu cầu của người lao động. Trường hợp cần thiết, Thẩm phán yêu cầu đại diện cơ quan quản lý nhà nước về trẻ em, Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam tham gia phiên họp đối với vụ án về hôn nhân và gia đình. Thứ hai, về triệu tập đương sự. Theo quy định tại Điều 208 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 quy định về Thẩm phán tiến hành mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải giữa các đương sự. Trước khi tiến hành phiên họp, Thẩm phán phải thông báo cho đương sự, người đại diện hợp pháp của đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp 439
  5. pháp của đương sự về thời gian, địa điểm tiến hành phiên họp và nội dung của phiên họp. Trường hợp vụ án dân sự không được hòa giải hoặc không tiến hành hòa giải được quy định tại Điều 206 và Điều 207 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 thì Thẩm phán tiến hành phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ mà không tiến hành hòa giải”. Quy định tại Điều 208, Điều 209, Điều 210 và Điều 2011 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 về thông báo, thành phần, thủ tục và biên bản về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải có nhiều điểm tương đồng với thủ tục về phiên họp của Chánh tòa Tòa sơ thẩm thẩm quyền rộng của Pháp; thủ tục chuẩn bị và củng cố chứng cứ, tài liệu, cho phiên tòa chính thức của Đức; Quy định về phiên tòa sơ bộ theo pháp luật Nga và phiên tòa trù bị theo pháp luật tố tụng dân sự của Đan Mạch và Thụy Điển. Tuy nhiên, nhà lập pháp của Việt Nam đã chọn giải pháp kết hợp giữa phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ với phiên hòa giải giữa các đương sự. Mục đích của phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ nhằm chốt lại những điểm các bên đã thống nhất, những điểm còn khác biệt về tình tiết, sự kiện cũng như những chứng cứ tài liệu để chuẩn bị cho việc mở phiên tòa tranh tụng chính thức giữa các bên và ra phán quyết. Trong khi đó, phiên hòa giải nhằm giúp các bên thương lượng nhằm đạt được sự thỏa thuận về vụ kiện. Mục đích của hai phiên họp là không đồng nhất cho nên việc hòa giải giữa các đương sự có thể sẽ khó thành công hơn hoặc trở nên hình thức do những vấn đề về tâm lý, sự bất đồng, căng thẳng giữa các bên trong phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải sẽ lý tưởng hơn nếu hai phiên họp được bố trí cách nhau một thời gian nhất định nhưng những lo lắng về sự thiếu hợp tác của đương sự dẫn đến kéo dài thời gian tố tụng là nguyên nhân chính dẫn đến sự lựa chọn sự kết hợp này trong pháp luật. Theo quy định tại khoản 1 Điều 208 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, trước khi tiến hành phiên hòa giải. Nếu đương sự vắng mặt thì Tòa án xử lý trường hợp đương sự vắng mặt tại phiên hòa giải như sau: Đối với trường hợp đương sự vắng mặt nhưng có đơn đề nghị giải quyết vắng mặt hoặc có người đại diện hợp pháp tham gia thì Tòa án vẫn tiến hành phiên hòa giải. Đối với trường hợp đương sự vắng mặt lần thứ nhất dù có lý do chính đáng hay không chính đáng hoặc khi đương sự vắng mặt lần thứ hai vì sự kiện bất khả kháng thì Tòa án sẽ ra quyết định hoãn phiên hòa giải. Đối với trường hợp đương sự vắng mặt khi được Tòa án triệu tập lần thứ hai thì: (i) Trường hợp nguyên đơn vắng mặt vì sự kiện bất khả kháng thì Tòa án sẽ ra quyết định đình chỉ vụ án (điểm c khoản 1 Điều 217 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015); (ii) Trường hợp vắng mặt bị đơn 440
  6. thì sẽ thuộc trường hợp vụ án không tiến hành hòa giải được theo quy định tại khoản 1 Điều 207 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 và Tòa án sẽ quyết định đưa vụ án ra xét xử; (iii) Trường hợp vắng mặt người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Đối với người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập mà vắng mặt không có lý do chính đáng thì Tòa án sẽ đình chỉ việc giải quyết đối với các yêu cầu của họ. Đối với người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có yêu cầu độc lập mà vắng mặt thì Tòa án lập biên bản về sự vắng mặt của họ và đưa phần vụ án có liên quan đến họ ra xét xử. Đối với các đương sự khác có mặt, Tòa án vẫn tiến hành hòa giải bình thường. Nếu trong vụ án có nhiều quan hệ pháp luật mà quan hệ pháp luật này liên quan đến đương sự này, quan hệ pháp luật kia liên quan đến đương sự khác và việc giải quyết quan hệ pháp luật đó chỉ liên quan đến các đương sự có mặt, không liên quan đến các đương sự vắng mặt, thì Thẩm phán tiến hành hòa giải những vấn đề có liên quan đến các đương sự có mặt. Nếu quan hệ pháp luật liên quan tới tất cả các đương sự thì Tòa án sẽ tiến hành hòa giải khi thỏa mãn hai điều kiện: Các đương sự có mặt vẫn đồng tiến hành hòa giải và việc hòa giải đó không ảnh hưởng đến quyền và nghĩa vụ của đương sự vắng mặt. Vấn đề đặt ra ở đây là như thế nào được coi là việc hòa giải không ảnh hưởng đến quyền và nghĩa vụ của đương sự vắng mặt? Trường hợp nêu trên mà các đương sự có mặt thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án, thì thỏa thuận đó chỉ có giá trị đối với những người có mặt và được Thẩm phán ra quyết định công nhận nếu không ảnh hưởng đến quyền, nghĩa vụ của đương sự vắng mặt. Trường hợp thỏa thuận của họ có ảnh hưởng đến quyền, nghĩa vụ của đương sự vắng mặt, thì thỏa thuận này chỉ có giá trị nếu đương sự vắng mặt tại phiên hòa giải đồng ý bằng văn bản. Trước khi tiến hành hòa giải, Tòa án phải thông báo cho các đương sự, người đại diện hợp pháp của đương sự biết về thời gian, địa điểm tiến hành phiên hòa giải, nội dung các vấn đề cần hòa giải. Quy định rõ nội dung cần hòa giải trong thông báo về phiên hòa giải sẽ giúp các đương sự chuẩn bị trước các nội dung, phương án hòa giải. Do vậy, phiên hòa giải đạt hiệu quả hơn. Thứ ba, về trình tự phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải. Theo quy định tại Điều 210 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 quy định về trình tự phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải như sau: (1)Trước khi tiến hành phiên họp, Thư ký Tòa án báo cáo Thẩm phán về sự có mặt, vắng mặt của những người tham gia phiên họp đã được Tòa án thông báo. (2)Thẩm phán chủ trì phiên 441
  7. hòa giải khai mạc phiên hòa giải. (3) Thẩm phán chủ trì phiên hòa giải giới thiệu họ, tên những người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch, cá nhân, cơ quan, tổ chức khác tham gia phiên hòa giải (nếu có).Thẩm phán chủ trì phiên hòa giải phải phổ biến đầy đủ quyền, nghĩa vụ của các đương sự và của những người tham gia tố tụng khác.(4) Thẩm phán chủ trì phiên hòa giải xác định những vấn đề các bên đã thống nhất, những vấn đề chưa thống nhất và yêu cầu các bên đương sự trình bày bổ sung về những nội dung chưa rõ, chưa thống nhất. (5) Sau đó, nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan hoặc người đại diện của đương sự phát biểu ý kiến thể hiện quan điểm của mình về việc giải quyết vụ án. Người bảo vệ quyền và lợi hợp hợp pháp cho đương sự có thể phát biểu, đóng góp ý kiến bổ sung cho người mà họ bảo vệ quyền lợi. (6) Thẩm phán chủ trì phiên hòa giải cần hỏi đương sự có thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết toàn bộ vụ án hay không và xem xét thỏa thuận đó có tự nguyện, vi phạm điều pháp luật cấm, trái đạo đức xã hội hay không và thông báo cho họ biết hậu quả của việc Tòa án ra quyết định công nhận thỏa thuận đó. Trên cơ sở lời trình bày của các bên, Thẩm phán lập biên bản hòa giải xác định những vấn đề các bên đã thống nhất, những vấn đề chưa thống nhất và yêu cầu đương sự trình bày bổ sung những vấn đề chưa rõ, chưa thống nhất. Biên bản hòa giải phải có đầy đủ chữ ký của những người tham gia phiên họp. Khi các bên đương sự đã tìm được tiếng nói chung và thống nhất được phương pháp giải quyết vụ án kinh doanh thương mại trên cơ sở tự nguyện, bình đẳng, không vi phạm điều cấm của luật cũng như đạo đức xã hội thì khi đó, căn cứ Điều 213 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, (Hiệu lực của quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự) quyết định này sẽ có hiệu lực pháp luật ngay sau khi được ban hành và không bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm. 2.1.4. Hòa giải các tranh chấp thương mại tại phiên tòa sơ thẩm Một trong những nguyên tắc cơ bản của hòa giải là nguyên tắc trách nhiệm hòa giải của tòa án, được quy định tại Điều 10 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015. Theo đó, hòa giải là trách nhiệm của tòa án trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm. Khi không thể giải quyết vụ án tranh chấp kinh doanh thương mại bằng thủ tục hòa giải trước khi mở phiên tòa, Thẩm phán phải ra quyết định đưa vụ án ra xét xử. Tuy vậy, điều đó không có nghĩa là khả năng giải quyết vụ tranh chấp bằng hòa giải bị khép lại. Trong phiên tòa sơ thẩm hội đồng xét xử vẫn tạo điều kiện cho các bên đương sự có điều kiện thể hiện quan điểm và nguyện vọng của mình ngay trong phiên tòa. Cụ thể, trong giai đoạn xét hỏi, qua 442
  8. cách xét hỏi các bên đương sự, hội đồng xét xử có thể nên tiếp tục nêu ra các khả năng hoặc phương án giải quyết tranh chấp giữa các đương sự mà không cần đợi đến một phán quyết của Tòa án. Như vậy, đối với các giai đoạn sau của giai đoạn chuẩn bị xét xử, Tòa án không bắt buộc phải tiến hành hòa giải mà Tòa án chỉ khuyến khích, tạo điều kiện cho các bên đương sự để họ tự hòa giải với nhau về việc giải quyết vụ án kinh doanh thương mại. 2.2 Một số khuyến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về hòa giải các tranh chấp thương mại tại Tòa án Việt Nam Thứ nhất, hoàn thiện quy định về những vụ án kinh doanh thương mại yêu cầu đòi bồi thường vì lý do gây thiệt hại đến tài sản của Nhà nước. Đối với quy định nêu tại khoản 1 Điều 206 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 cần có sự nghiên cứu và xem xét lại để có thể phù hợp hơn, giữa đảm bảo sự bình đẳng về chủ thể kinh doanh trước pháp luật vừa có thể bảo toàn được tài sản của nhà nước trong một giới hạn hợp lý. Dựa trên các kết quả phân tích ở trên và bất cập trong thực tiễn hòa giải, tác giả kiến nghị cần sửa đổi quy định tại khoản 1 Điều 206 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 theo hướng “Trong trường hợp các đương sự tự nguyện bồi thường toàn bộ thiệt hại trong một thời gian nhất định (đối với tài sản Nhà nước) thì Tòa án nên cho tiến hành hòa giải và công nhận thỏa thuận nếu xét thấy thỏa thuận là hợp pháp và không làm thiệt hại đến tài sản của Nhà nước”. Hướng giải quyết này, sẽ rút ngắn được quá trình giải quyết vụ án kinh doanh thương mại, tạo điều kiện để các đương sự thỏa thuận với nhau về giải quyết vụ án kinh doanh thương mại. Nếu thỏa thuận làm thiệt hại đến tài sản Nhà nước thì không công nhận thỏa thuận hòa giải mà nên đưa vụ án ra xét xử theo thủ tục chung như vậy sẽ đảm bảo quyền lợi của Nhà nước. Thứ hai, hoàn thiện về vụ án dân sự không hòa giải được vì đương sự có lý do chính đáng. Tác giả cho rằng cần ban hành văn bản hướng dẫn thi hành khoản 2 Điều 207 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 theo hướng trường hợp đương sự vắng mặt vì lý do chính đáng thì thuộc trường hợp không tiến hành hòa giải được. Tuy nhiên, Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 và Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao Việt Nam cũng không có văn bản hướng dẫn cụ thể như thế nào là vắng mặt do có lý do chính 443
  9. đáng. Do đó, cần ban hành văn bản sửa đổi quy định tại khoản 2 Điều 207 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 như thế nào là vắng mặt do có lý do chính đáng, để tránh tình trạng hiểu và xử lý khác nhau giữa các Tòa án về việc xác định trường hợp đương sự không thể tham gia phiên hòa giải vì có lý do chính đáng đã đề cập để quá trình áp dụng pháp luật ở các Tòa án thống nhất. Nên sửa đổi quy định như thế nào là “lý do chính đáng”, có thể theo hướng liệt kê tất cả các lý do, hoặc quy định cho đương sự đương nhiên có quyền được vắng mặt lần thứ nhất mà không cần lý do. Thứ ba, hoàn thiện pháp luật quy định về một trong các bên đương sự đề nghị không tiến hành hòa giải Tác giả kiến nghị cần ban hành văn bản hướng dẫn trong trường hợp ngay sau khi nộp đơn khởi kiện, đương sự có đề nghị không tiến hành hòa giải thì Tòa án không cần ban hành các thủ tục thông báo phiên hòa giải như các vụ án thông thường căn cứ vào quy định khoản 4 Điều 207 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 Tòa án lập biên bản không tiến hành hòa giải được do một trong các đương sự đề nghị không tiến hành hòa giải không cần tiết phải tiến hành làm các thủ tục hòa giải mà đưa vụ án ra xét xử nhằm giúp vụ án được giải quyết nhanh chóng, giúp đương sự giảm tốn kém tiền bạc, thời gian và Tòa án đỡ phải thực hiện nhiều thủ tục không cần thiết. Thứ tư, thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải. Tác giả cho rằng nguyên đơn đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vẫn vắng mặt, trừ trường hợp họ đề nghị xét xử vắng mặt hoặc vì sự kiện bất khả kháng, trở ngại khách quan thì Tòa án tiến hành đình chỉ giải quyết vụ án ở bất cứ giai đoạn nào trong quá trình tố tụng không phân biệt là hòa giải hay tại phiên tòa. Thứ năm, thành phần phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải Theo khoản 2 Điều 209 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, thì thẩm phán vẫn có thể tiến hành hòa giải khi vắng mặt đương sự khi các đương sự có mặt vẫn đồng ý tiến hành hòa giải và việc hòa giải này không làm ảnh hưởng đến quyền, nghĩa vụ của đương sự vắng mặt. Nhưng hiện nay pháp luật Việt Nam lại chưa có quy định nào xác định rõ tiêu chí 444
  10. về “việc hòa giải không ảnh hưởng đến quyền, nghĩa vụ của đương sự vắng mặt”. Trong thực tế, các vụ án tranh chấp kinh doanh thương mại vốn rất phức tạp, việc xác định các nội dung hòa giải có ảnh hưởng đến quyền và nghĩa vụ của đương sự vắng mặt hay không là rất khó khăn. Ngoài ra, trong trường hợp vụ án có nhiều đương sự mà có đương sự vắng mặt, nhưng các đương sự có mặt vẫn đồng ý tiến hành phiên họp và trường hợp thỏa thuận của họ có ảnh hưởng đến quyền, nghĩa vụ của đương sự vắng mặt thì thỏa thuận này chỉ có giá trị và được thẩm phán ra quyết định công nhận nếu được đương sự vắng mặt tại phiên hòa giải đồng ý bằng văn bản. Thứ sáu, trình tự phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải. Tác giả cho rằng cần ban hành văn bản hướng dẫn vấn đề về việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải có thể tiến hành trong cùng một ngày để hạn chế đương sự phải đi lại nhiều lần tốn kém, phiền hà cho đương sự. Ngoài ra, nếu Thẩm phán chưa mở phiên họp giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ đã tiến hành hòa giải trước; sau một thời gian thu thập chứng cứ mới tiến hành việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ thì không coi là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng. Ngoài ra, Tòa án triệu tập vắng mặt thì Tòa án thông báo kết quả phiên họp cho đương sự biết, nhưng hiện nay luật chưa quy định trong thời hạn bao nhiêu ngày kể từ khi mở phiên họp thì Tòa phải ra thông báo do đó cần hướng dẫn theo hướng trong thời hạn hợp lý nhưng không quá 01 tháng để đương sự vắng mặt biết được kết quả công khai chứng cứ. Hiện nay, Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 quy định hoãn phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải khi đương sự vắng mặt, nhưng không quy định trong thời hạn bao lâu thì mở lại và cũng không quy định một vụ án phải hòa giải bao nhiêu lần do đó rất khó khăn trong quá trình giải quyết vụ án có trường hợp Thẩm phán ngại xử tâm lý sợ hủy án nên hòa giải nhiều lần gây khó khăn cho đương sự do đó cần hướng dẫn theo hướng sau khi hoãn phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải do đương sự vắng mặt thì Tòa án phải có trách nhiệm mở lại phiên hòa giải trong thời hạn hợp lý nhưng không quá một tháng nhằm giải quyết nhanh chóng vụ án. Về vấn đề một vụ án phải hòa giải bao nhiêu lần, tác giả cho rằng nên hướng dẫn quy định này theo hướng Tòa án xét thấy các bên không có chứng cứ và tình tiết mới sau khi hòa giải không thì đưa vụ án ra xét xử nếu các bên tranh chấp gay gắt và quá thời 445
  11. gian chuẩn bị xét xử, hướng giải quyết này sẽ đảm bảo quyền lợi, tối đa của đương sự tham gia tố tụng. Đối với trình tự tại phiên họp, theo tác giả, nên gộp phần Thẩm phán phổ biến cho các đương sự về quyền và nghĩa vụ của họ theo luật tại phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải vào một, khi tiến hành hòa giải không phải phổ biến lại, tránh trùng lặp, gây mất thời gian không cần thiết. Thứ bảy, hòa giải vụ án thương mại có yếu tố nước ngoài. Tác giả cho rằng Việt Nam cần tăng cường hợp tác quốc tế, xúc tiến việc gia nhập, ký kết các hiệp định song phương và đa phương về tương trợ tư pháp quốc tế nói chung và hòa giải vụ án kinh doanh thương mại có yếu tố nước ngoài nói riêng. Đồng thời, cơ quan có thẩm quyền kịp thời cập nhật các thông tin về danh sách các quốc gia và vùng lãnh thổ mà Việt Nam đã ký kết Hiệp định tương trợ tư pháp để việc xác định thẩm quyền tạo thuận lợi cho các cơ quan Tòa án một cách nhanh chóng, kịp thời. Riêng đối với quy định tại Điều 476 BLTTDS 2015 tác giả kiến nghị cần ban hành văn bản hướng dẫn cụ thể không nên cứng nhắc để việc hòa giải được dễ dàng và thuận tiện hơn. 3. Kết luận Tác giả đã chỉ ra các quy định pháp luật về hòa giải các tranh chấp thương mại tại Tòa án Việt Nam đồng thời đánh giá thực trạng pháp luật hòa giải các tranh chấp thương mại tại Tòa án Việt Nam, trong phạm vi nghiên cứu của bài viết, tác giả đã phân tích từ đó nêu lên những khó khăn vướng mắc để từ đó đưa ra các giải pháp hoàn thiện pháp luật về hòa giải các tranh chấp thương mại tại Tòa án Việt Nam./. 446
  12. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Nguyễn Thúy Hiền (2018), “Đổi mới, tăng cường hòa giải, đối thoại trong giải quyết các tranh chấp dân sự, khiếu kiện hành chính”, Tòa án Nhân dân, 13 (2018), 2. Trần Anh Tuấn (2017), “Thủ tục tố tụng dân sự của một số nước Châu Âu và so sánh với thủ tục tố tụng dân sự Việt Nam”, Tạp chí Luật học, (11), tr. 43 – 54. 3. Trần Anh Tuấn (2017), Bình luận Khoa học bộ luật tố tụng dân sự 2015, NXB Tư pháp, tr.492. 4. Vũ Gia Trưởng (2020), “Thủ tục giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại tại tòa án cấp sơ thẩm Việt Nam hiện nay”, Luận án Tiến sĩ Luật học, Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội - Học viện Khoa học Xã hội Việt Nam. 5. Nguyễn Tất Viễn (2014), “Phương hướng hoàn thiện thể chế hòa giải ở Việt Nam”, Dân chủ & Pháp luật, Bộ Tư pháp, 9(2014), tr. 23 - 28. 6. Alexander Bevan (1992), Alternative dispute resolution: A lawyer’s guide to mediation and others forms of dispute resolution, Sweet & Maxwell Press. 7. David Spencer, Michael Brogan (2006), Mediation Law and Pratice, Cambridge University Press. 8. Lukasz Rozdeiczer, Alejandro Alvanrez de la Campa (2006), Alternative dispute resolution manual: Implementing commercial mediation, World Bank Group, http://documents.worldbank.org/curated/en/922161468339057329/pdf/384810DR1Ma nu1l1Mediation01PUBLIC1.pdf, truy cập ngày 20/9/2020. 9. Judd Epstein (2001), The use of comparative law in commercial international arbitration and commercial mediation, Tunlane Law Review, (Vol 75:913). 447
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2