ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI & NHÂN VĂN
-------------------------
NGUYỄN THỊ HOA NÂU
PHẬT GIÁO NAM TÔNG TRONG ĐỜI SỐNG VĂN HÓA
TINH THẦN NGƢỜI KHMER HUYỆN GIỒNG RIỀNG
TỈNH KIÊN GIANG
LUẬN VĂN THẠC SĨ TÔN GIÁO HỌC
Hà Nội - 2020
- 1 -
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI & NHÂN VĂN
-------------------------
NGUYỄN THỊ HOA NÂU
PHẬT GIÁO NAM TÔNG TRONG ĐỜI SỐNG VĂN HÓA
TINH THẦN NGƢỜI KHMER HUYỆN GIỒNG RIỀNG
TỈNH KIÊN GIANG
Chuyên ngành: Tôn giáo định hƣớng ứng dụng
Mã số : 60 22 03 09 (UD)
LUẬN VĂN THẠC SĨ TÔN GIÁO HỌC
CHỦ TỊCH HỘI ĐỒNG:
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. VÕ MINH TUẤN
PGS.TS. TRẦN THỊ KIM OANH
Hà Nội - 2020
- 2 -
LỜI CẢM ƠN
Trong suốt thời gian học tập, nghiên cứu để hoàn thành luận văn khoa
học với đề tài “Phật giáo Nam tông trong đời sống văn hóa tinh thần người
Khmer huyện Giồng Riềng tỉnh Kiên Giang” , tôi đã nhận đƣợc sự nhiệt tình
giúp đỡ, hỗ trợ của nhiều ngƣời, nhiều tổ chức, đơn vị. Quan trọng hơn là tình
cảm, sự động viên của ngƣời thân, gia đình, đồng nghiệp và quý thầy cô. Do
đó, tôi xin đƣợc bày tỏ lòng biết ơn đến:
Lãnh đạo các ban, ngành, đoàn thể, Huyện ủy, UBND huyện; Chƣ tôn
đức lãnh đạo Hội ĐKSSYN huyện Giồng Riềng, Chƣ tôn Thƣợng tọa, Đại
đức tăng, các vị Achar, Ban quản trị và tín đồ phật tử ở 14 chùa Phật giáo
Nam tông trong huyện Giồng Riềng. Tất cả đã tận tình giúp đỡ tôi trong lúc
đi sƣu tầm, tìm tƣ liệu, khảo sát thực tế. Công trình này không chỉ có ích và
là tâm huyết của bản thân tôi, mà còn là lời tri ân của tôi đối với tất cả mọi
ngƣời đã giúp đỡ tôi trong suốt thời gian viết luận văn.
Xin gửi lời cảm ơn đến Bộ môn Tôn giáo học, Trƣờng Đại học Khoa
học Xã hội và Nhân văn Hà Nội đã tạo mọi điều kiện thuận lợi giúp đỡ tôi
trong quá trình học tập tại trƣờng.
Đặc biệt là tôi xin dành sự kính trọng và cảm ơn sâu sắc đến TS. Võ
Minh Tuấn, ngƣời đã tận tình hƣớng dẫn tôi trong thời gian nghiên cứu và
thực hiện luận văn khoa học này, thầy không chỉ là ngƣời trực tiếp hƣớng dẫn
cho tôi mà còn định hƣớng những vấn đề cần nghiên cứu, giúp tôi vƣợt qua
những khó khăn trong quá trình thực hiện luận văn của mình.
Giồng Riềng, ngày 15 tháng 01 năm 2020
Tác giả luận văn
Nguyễn Thị Hoa Nâu
- 3 -
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan: Luận văn tốt nghiệp này là công trình nghiên cứu
của cá nhân tôi.
Luận văn này đƣợc thực hiện sau quá trình học tập ở Trƣờng Đại học
Khoa học Xã hội và Nhân văn – Đại học Quốc gia Hà Nội và qua quá trình
nghiên cứu, khảo sát tình hình thực tiễn trên địa bàn huyện Giồng Riềng, đặc
biệt là tìm hiểu tại 14 chùa Phật giáo Nam tông trên địa bàn huyện.
Các số liệu nghiên cứu, các nhận định, đánh giá, tài liệu nghiên cứu
trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng và gắn liền với thực tiễn
của Phật giáo Nam tông và ngƣời Khmer trên địa bàn huyện Giồng Riềng.
Giồng Riềng, ngày 15 tháng 01 năm 2020
Ngƣời cam đoan
Nguyễn Thị Hoa Nâu
- 4 -
MỤC LỤC
Lời cảm ơn
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục viết tắt
PHẦN MỞ ĐẦU ...................................................................................................... 1
Chƣơng 1. KHÁI QUÁT VỀ PHẬT GIÁO NAM TÔNG Ở NAM BỘ VÀ
KIÊN GIANG ................................................................................................... 7
1.1. Về Phật giáo Nam tông ở Nam bộ ....................................................... 7
1.1.1. Sự phân chia hệ phái Phật giáo và nguyên nhân ................................... 7
1.1.2. Lƣợc sử Phật giáo Nam tông ở Nam bộ ................................................. 8
1.1.3. Đặc điểm Phật giáo Nam tông ở Nam bộ ............................................ 10
1.2. Về Phật giáo Nam tông ở Kiên Giang ............................................... 15
1.2.1. Khái quát về Phật giáo Nam tông ở Kiên Giang ................................. 15
1.2.2. Vai trò của Phật giáo Nam tông đối với ngƣời Khmer tỉnh Kiên Giang 18
Chƣơng 2. HUYỆN GIỒNG RIỀNG VÀ ẢNH HƢỞNG CỦA PHẬT GIÁO
NAM TÔNG ĐỐI VỚI ĐỜI SỐNG VĂN HÓA TINH THẦN NGƢỜI
KHMER NƠI ĐÂY ......................................................................................... 21
2.1. Huyện Giồng Riềng và ngƣời Khmer huyện Giồng Riềng ............. 21
2.1.1. Khái quát về huyện Giồng Riềng ......................................................... 21
2.1.2. Đời sống kinh tế, xã hội của ngƣời Khmer huyện Giồng Riềng ........ 23
2.1.3. Đặc điểm đời sống văn hóa tinh thần ngƣời Khmer huyện Giồng Riềng 26
2.2. Vai trò của Phật giáo Nam tông đối với ngƣời Khmer huyện Giồng Riềng 31
2.2.1. Thời kỳ kháng chiến .............................................................................. 31
2.2.2. Thời kỳ thống nhất đất nƣớc và đổi mới .............................................. 32
2.3. Ảnh hƣởng của Phật giáo Nam tông đối với đời sống văn hóa tinh
thần ngƣời Khmer huyện Giồng Riềng ................................................... 32
1
2.3.1. Ảnh hƣởng đến tín ngƣỡng ................................................................... 32
2.3.2. Ảnh hƣởng đến giá trị và bản sắc văn hóa ........................................... 33
Chƣơng 3. PHÁT HUY VAI TRÕ CỦA PHẬT GIÁO NAM TÔNG TRONG
ĐỜI SỐNG VĂN HÓA TINH THẦN NGƢỜI KHMER HUYỆN GIỒNG
RIỀNG ............................................................................................................. 48
3.1. Đánh giá ảnh hƣởng của Phật giáo Nam tông đối với đời sống văn
hóa tinh thần ngƣời Khmer huyện Giồng Riềng và nguyên nhân ........ 48
3.1.1. Đánh giá ................................................................................................. 48
3.1.2. Nguyên nhân .......................................................................................... 50
3.2. Một số giải pháp cơ bản nhằm phát huy ảnh hƣởng tích cực, hạn chế
ảnh hƣởng tiêu cực của Phật giáo Nam tông tại huyện Giồng Riềng ...... 54
3.2.1. Về phía sự lãnh đạo của Đảng bộ huyện .............................................. 54
3.2.3. Về phía các tổ chức chính trị - xã hội ................................................... 62
KẾT LUẬN .................................................................................................... 81
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 83
PHỤ LỤC
2
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
VIẾT TẮT LÀ ĐỌC LÀ
BHYT Bảo hiểm y tế
CCB Cựu chiến binh
CLB Câu lạc bộ
CNTT Công nghệ thông tin
CNVCLĐ Công nhân viên chức lao động
DTTS Dân tộc thiểu số
ĐBSCL Đồng bằng sông Cửu Long
ĐKSSYN Đoàn kết sƣ sãi yêu nƣớc
GHPG Giáo hội Phật giáo
HĐND Hội đồng nhân dân
HTX Hợp tác xã
KHKT Khoa học kỷ thuật
LĐLĐ Liên đoàn lao động
LHPN Liên hiệp phụ nữ
LHTN Liên hiệp thanh niên
MTTQ Mặt trận Tổ quốc
Nxb Nhà xuất bản
PGNT Phật giáo Nam tông
PTDT Phổ thông dân tộc
TP. HCM Thành phố Hồ Chí Minh
TP. Rạch Giá Thành phố Rạch Giá
UBMTTQ Ủy ban Mặt trận Tổ quốc
UBND Ủy ban nhân dân
XHCN Xã hội chủ nghĩa
3
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Ngƣời Khmer là một trong 54 dân tộc Việt Nam. Họ thƣờng sống tập
trung ở các tỉnh, thành phố nhƣ Trà Vinh, Sóc Trăng, Kiên Giang, An
Giang, Bạc Liêu, Cần Thơ, Vĩnh Long, Cà Mau, Tây Ninh… Theo số liệu
điều tra về Dân số và nhà ở năm 2009 [36, 51] dân số Khmer khoảng
1.260.640 ngƣời.
Trong lịch sử, ngƣời Khmer đã có một thời kỳ ảnh hƣởng khá đậm nét
văn hóa Bàlamôn giáo. Nhƣng ở Nam bộ thì Bàlamôn giáo không còn chỗ
đứng trong tƣ tƣởng của ngƣời Khmer, mà thay vào đó là Phật giáo Nam
tông. Do đó, hàng ngàn năm nay, Phật giáo Nam tông đã đồng hành với xã
hội Khmer. Đây là một cộng đồng dân cƣ và tôn giáo tƣơng đối thuần khiết.
Yếu tố tôn giáo mà chủ yếu là Phật giáo Nam tông đã chi phối rất lớn đến đời
sống sinh hoạt, văn hóa của cộng đồng này. Ngay trong văn hóa, tƣ tƣởng,
đƣờng lối tƣ duy, cách hành xử… cũng đều dựa trên giáo lý Phật giáo [3]. Đại bộ phận ở các phum, sóc1 ấp Khmer Nam bộ đều có chùa Phật giáo. Đặc biệt
là gần 100% ngƣời Khmer đều theo đạo Phật. Khác với các tôn giáo khác,
ngƣời Khmer vừa mới sinh ra đã là Phật tử.
Tại Kiên Giang, huyện Giồng Riềng thuộc nông thôn, và tính đến năm
2018 thì ngƣời Khmer chiếm 17,2% dân số huyện. Toàn huyện có 27 ngôi
chùa, trong đó có 14 ngôi chùa Nam tông Khmer chia thành hai phái:
Thommayutt (Hoàng Gia) và Mohamikay (Bình dân) trong đó, 13 chùa thuộc
chi Phái Mohamikay (Bình Dân) và 1 chùa theo phái Thommayutt (Hoàng
Gia); có 172 vị chức sắc là ngƣời Khmer (2 Thƣợng toạ, 10 đại đức, 118 tì
kheo, 42 sadi) và 14 Ban quản trị chùa với 192 vị chức việc; 33.982 phật tử
1 Tác giả sẽ giải thích về phum, sóc ở Chƣơng 2
1
(nữ 16.608, nam 17.374, 100% khẩu dân tộc Khmer đều là tín đồ Phật giáo
Nam tông, một số rất ít gần đây cải đạo) [56, 6].
Trong các năm gần đây, Phật giáo Nam tông huyện Giồng Riềng có
những biến đổi sâu sắc, và ảnh hƣởng mạnh mẽ, cả tích cực lẫn tiêu cực, đến
nhiều mặt trong đời sống văn hóa tinh thần ngƣời Khmer nơi đây.
Việc nghiên cứu những ảnh hƣởng đó nhằm bảo tồn và phát huy mặt
tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của Phật giáo Nam tông đối với đời sống văn
hóa tinh thần ngƣời Khmer Giồng Riềng. Bên cạnh đó, nhận thức rõ ảnh
hƣởng và giá trị của Phật giáo Nam tông là cần thiết, góp phần quan trọng cho
việc thực hiện các chủ trƣơng, chính sách về công tác dân tộc, tôn giáo và văn
hóa; củng cố khối đại đoàn kết dân tộc, nâng cao đời sống văn hóa tinh thần
lẩn vật chất đối với ngƣời Khmer. Do đó, tôi chọn đề tài “Phật giáo Nam
tông trong đời sống văn hóa tinh thần người Khmer huyện Giồng Riềng
tỉnh Kiên Giang” làm Luận văn Thạc sĩ Tôn giáo của mình.
Phật giáo Nam tông và ngƣời Khmer huyện Giồng Riềng đã và đang là
một bộ phận không thể tách rời trong cộng đồng các dân tộc, tôn giáo khác
trên địa bàn huyện Giồng Riềng từ trƣớc năm 1988, tính đến nay chƣa có
công trình nghiên cứu nào, cho nên việc thu thập các tài liệu, khảo sát thực tế,
từ đó đi đến đánh giá các tác động của Phật giáo Nam tông trong đời sống văn
hóa tinh thần nơi đây là cần thiết.
2. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu đặc điểm, vai trò, và ảnh hƣởng của Phật giáo Nam tông
trong đời sống văn hóa tinh thần ngƣời Khmer Giồng Riềng.
2.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về không gian: Địa bàn huyện Giồng Riềng.
2
- Về thời gian: Từ năm 1988 (năm thành lập huyện Giồng Riềng) đến
nay, thuộc về thời kỳ đổi mới, có ảnh hƣởng sâu sắc đối với đời sống văn hóa
tinh thần nói chung và đời sống tôn giáo nói riêng nơi đây.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
Trên cơ sở nghiên cứu đối tƣợng, đề xuất các giải pháp nhằm phát huy
mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực trong ảnh hƣởng của Phật giáo Nam tông đối
với đời sống văn hóa tinh thần ngƣời Khmer Giồng Riềng, góp phần củng cố và
nâng cao đời sống văn hóa tinh thần, đời sống tín ngƣỡng tôn giáo nơi đây.
3.2. Nhiệm vụ
Luận văn có ba nhiệm vụ sau:
- Thứ nhất: Khái quát lịch sử du nhập Phật giáo Nam tông Khmer
vào Nam bộ, trong đó có tỉnh Kiên Giang nói chung và huyện Giồng Riềng
nói riêng.
- Thứ hai: Khảo sát đặc điểm, vai trò, và ảnh hƣởng của Phật giáo Nam
tông đối với đời sống văn hóa tinh thần ngƣời Khmer Giồng Riềng.
- Thứ ba: Đề xuất các giải pháp nhằm phát huy mặt tích cực, hạn chế
mặt tiêu cực trong ảnh hƣởng trên.
4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu của đề tài
4.1. Cơ sở lý luận
Luận văn đƣợc đặt trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tƣ
tƣởng Hồ Chí Minh, cùng các quan điểm của Đảng và Nhà nƣớc về tôn giáo.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng kết hợp các phƣơng pháp nghiên cứu sau đây:
- Khảo sát: Thu thập các dữ liệu có liên quan đến đối tƣợng nghiên cứu
trên địa bàn huyện Giồng Riềng.
- Lịch sử và logic: Nghiên cứu lịch sử địa phƣơng và lịch sử Phật giáo
Nam tông Khmer, từ đó rút ra logic hình thành, vận động và biến đổi.
3
- Phân tích và tổng hợp: Trên cơ sở phân tích, phân loại đối tƣợng
nghiên cứu để đi đến cái nhìn khái quát.
5. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Có nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề dân tộc Khmer và Phật giáo
Nam tông Khmer của các tác giả trong nƣớc.
Lê Hƣơng (1970) với Sử Cao - Miên, viết về tôn giáo và tộc ngƣời Việt
gốc Miên khá chi tiết, là nguồn tài liệu tham khảo quý giá đề cập trực tiếp đến
phong tục đi tu của ngƣời Khmer.
Viện Văn hóa, bộ phận thƣờng trú tại TPHCM (1988) với Tìm hiểu vốn
văn hóa dân tộc Khmer Nam bộ, tổng hợp các báo cáo tham luận của nhiều
ngƣời, trong đó có một số bài liên quan đến đề tài luận văn nhƣ: “Khái quát
về ngƣời Khmer ở Đồng bằng sông Cửu Long” của Thạch Voi, “Phong tục lễ
nghi của ngƣời Khmer Đồng bằng sông Cửu Long” của Thạch Voi - Hoàng
Túc; “Nghệ thuật tạo hình của chùa Khmer ở Đồng bằng sông Cửu Long” của
Lê Đắc Thắng.
Đoàn Thanh Nô (2002) với Người Khmer ở Kiên Giang, khái quát về
tộc ngƣời Khmer ở Kiên Giang, về dân số, tập quán cƣ trú lao động sản xuất,
nét đẹp văn hóa truyền thống của ngƣời Khmer ở đây.
Sơn Phƣớc Hoan chủ biên (1999-2000) với chuyên đề nghiên cứu khoa
học Vai trò của chùa đối với đời sống văn hóa của đồng bào Khmer Nam bộ,
đã khái quát về đời sống kinh tế, văn hóa xã hội của ngƣời Khmer và vai trò
của ngôi chùa Khmer, đƣa ra một số giải pháp nhằm định hƣớng cho việc tiếp
tục phát huy vai trò của ngôi chùa đối với đời sống văn hóa của ngƣời Khmer
Nam bộ.
Trần Văn Bổn (2002) với Phong tục và nghi lễ vòng đời người Khmer
Nam Bộ, khái lƣợc về lịch sử vùng đất và cƣ dân Nam bộ cổ xƣa, về đời sống
tinh thần ngƣời Khmer Nam bộ từ trƣớc đến nay gắn chặt với tôn giáo và ngôi
4
chùa, về phong tục lễ nghi trong gia đình Khmer Nam bộ nhƣ: sinh đẻ và nuôi
dạy con, cƣới, tang, và thờ cúng tổ tiên.
Trần Văn Bính chủ biên (2004) với Văn hóa các dân tộc Tây Nam bộ -
Thực trạng và Những vấn đề đặt ra, trong đó có bài “Tín ngƣỡng, tôn giáo
của dân tộc Khmer, Chăm, và Hoa ở Việt Nam hiện nay” của Ngô Hữu Thảo.
Trần Hồng Liên (2005) với Nam Bộ, Dân tộc và tôn giáo, tập hợp một
số bài về ngƣời Khmer Nam Bộ của nhiều nhà nghiên cứu khoa học ở phía
Nam đáng chú ý.
Nguyễn Mạnh Cƣờng (2008) với Phật giáo Khơ Me Nam bộ, nói về
lịch sử hình thành và phát triển của tộc ngƣời Khmer Nam bộ và quá trình du
nhập Phật giáo Nam tông vào cộng đồng này, cơ cấu tổ chức của Phật giáo
Nam tông Khmer qua các thời kỳ.
Phan An (2009) với Dân tộc Khmer Nam bộ, nói về văn hóa ngƣời
Khmer Nam bộ, đặc biệt nhấn mạnh về ngƣời Khmer ở hai tỉnh Trà Vinh và
Sóc Trăng.
Huỳnh Thanh Quang (2011) với Giá trị văn hóa Khmer vùng Đồng
Bằng Sông Cửu Long, tập trung nghiên cứu những giá trị văn hóa Khmer
ĐBSCL, thực trạng việc phát huy giá trị văn hóa Khmer thời gian qua, trên cơ
sở đó đề xuất những phƣơng hƣớng và giải pháp nhằm phát huy giá trị văn
hóa Khmer ĐBSCL trong giai đoạn hiện nay.
Phạm Thị Phƣơng Hạnh chủ biên (2011), Văn hóa Khmer Nam bộ - Nét
đẹp trong bản sắc văn hóa Việt Nam, gồm sáu phần, ở phần thứ hai nói về tín
ngƣỡng tôn giáo và nêu khá chi tiết về Phật giáo Nam tông Khmer Nam bộ.
Trƣờng Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn – Đại học Quốc gia TP.
HCM và Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam, nhiều tác giả (2014), Phật
giáo nguyên thủy từ truyền thống đến hiện đại, gồm 80 bài tham luận đƣợc
tuyển chọn từ Hội thảo khoa học chia làm ba phần, trong đó Phần một về Phật
giáo nguyên thủy những vấn đề triết học và Phật học; Phần hai về Phật giáo
5
nguyên thủy hội nhập và phát triển; Phần ba về Phật giáo nguyên thủy ở Việt
Nam và Đông Nam Á.
Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam, Viện Nghiên cứu Tôn giáo,
Học viện Phật giáo Nam tông Khmer, nhiều tác giả (2014), với kỷ yếu Hội
thảo khoa học Phật giáo Nam tông Khmer đồng hành cùng dân tộc, tập hợp
85 bài tham luận của các tác giả, đƣợc chia thành ba chủ đề chính, trong đó
chủ đề một về nguồn gốc, lịch sử và truyền thừa của Phật giáo Nam tông
Khmer; chủ đề hai về những vấn đề triết học và Phật học trong kinh điển
Phật giáo Nam tông; chủ đề ba về Phật giáo Nam tông Khmer hội nhập và
phát triển.
Đa số các công trình trên đều viết về ngƣời Khmer Nam bộ và ĐBSCL
nói chung, còn riêng vấn đề “Phật giáo Nam tông trong đời sống văn hóa tinh
thần ngƣời Khmer huyện Giồng Riềng tỉnh Kiên Giang” thì chƣa có công
trình nào nghiên cứu.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
6.1. Về mặt lý luận
Luận văn góp phần bổ sung cho hiểu biết về Phật giáo Nam tông
Khmer gắn liền với vấn đề lịch sử và địa chính trị của vùng đất phƣơng Nam,
thông qua việc nghiên cứu Phật giáo Nam tông Khmer ở huyện Giồng Riềng.
6.2. Về mặt thực tiễn
Luận văn giúp nâng cao nhận thức về vai trò của Phật giáo Nam tông
trên địa bàn huyện Giồng Riềng, từ đó vừa góp phần đảm bảo quyền tự do tín
ngƣỡng và sinh hoạt tôn giáo bình thƣờng của nhân dân, vừa góp phần định
hƣớng quản lý nhà nƣớc về tôn giáo.
Luận văn có thể là một nguồn tài liệu tham khảo cho những ngƣời có
quan tâm đến vấn đề này.
7. Kết cấu của luận văn
Kết cấu của luận văn gồm 3 chƣơng, 7 tiết, không kể các phần Mở đầu,
Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, và Phụ lục.
6
Chƣơng 1
KHÁI QUÁT VỀ PHẬT GIÁO NAM TÔNG
Ở NAM BỘ VÀ KIÊN GIANG
1.1. Về Phật giáo Nam tông ở Nam bộ
1.1.1. Sự phân chia hệ phái Phật giáo và nguyên nhân
Phật giáo Nam tông Khmer (tiếng Pali: Dakkhinanikàya) là một trong
bốn tên của hệ phái; tên thứ hai là hệ phái Đại tông (Mahànikàya); tên thứ ba
là Thƣợng tọa bộ (Theravàda); tên thứ tƣ ngoại lai không đƣợc chính thức
công nhận là hệ phái Tiểu thừa (Hinayàna) [13, 213].
Khi Đức Phật Thích Ca còn tại thế, Phật giáo vốn là một thể thống
nhất, không có sự phân chia hệ phái. Chỉ đến khi Phật Thích Ca nhập Niết
bàn, các đệ tử mới tập trung lại đọc tụng, ghi nhớ những điều Phật dạy, khi đó
mới xuất hiện những quan điểm, hệ tƣ tƣởng khác biệt về việc thực hành giới
luật.
Bắt đầu vào lần kết tập kinh điển thứ hai đƣợc tổ chức tại thành Tì Xá
Ly sau khi Phật nhập diệt hơn 100 năm để luận giải kinh điển, thực hành giới
luật và tranh luận về 10 điều luật mới do một bộ phận tì kheo trẻ đƣa ra đã
hình thành sự phân phái trong Phật giáo.
10 điều luật mới mà một bộ phận tì kheo trẻ đƣa ra và cho là hợp chính
pháp, đó là: giáo diêm tịnh (đƣợc đem muối đựng trong sừng để bỏ vào các
món ăn khi không đủ muối); lƣỡng chỉ sao thực tịnh (bóng nắng quá ngọ hai
ngón tay vẫn đƣợc ăn); tụ lạc gian tịnh (trƣớc ngọ ăn rồi nhƣng đến làng khác
vẫn đƣợc phép ăn); trụ xứ tịnh (ở đâu thì làm lễ Bá tát ngay ở đấy); tuỳ ý tịnh
(quyết nghị đã đƣợc Đại hội dù ít dù nhiều cho thông qua đều có giá trị thi
hành); cửu trú tịnh (noi theo điều lệ, tập quán); sinh hoà hợp tịnh (đƣợc uống
sữa pha nƣớc sau giờ ngọ); thuỷ tịnh (rƣợu mới lên men đƣợc pha với nƣớc
7
uống trị bệnh); bất ích lũ Ni sƣ đàn tịnh (đƣợc dùng toạ cụ không viền, kích
thƣớc lớn hơn mẫu định); thụ súc kim ngân tiến định (đƣợc nhận tiền vàng
bạc cúng dàng). Các vị tì kheo lớn tuổi không chấp nhận, chủ trƣơng giữ
nguyên điều Đức Phật dạy, tôn trọng lối truyền thừa. Các vị tì kheo trẻ không
chịu, vì cho rằng có một số vấn đề đặt trong sự phát triển của xã hội không
còn phù hợp nữa, nên thấy cần thiết phải sửa đổi một số điểm khi ghi vào kinh
sách nên chủ trƣơng hành đạo theo tinh thần “Khế lý - khế cơ”, phù hợp với
căn cơ, hoàn cảnh từng thời kỳ, từng vùng, miền của chúng sinh.
Các vị sƣ có quan điểm khác nhau sau nhiều ngày tranh luận đã không
tìm đƣợc tiếng nói chung, không thống nhất đƣợc quan điểm nên cuối cùng đã
hình thành hai phái: Những vị sƣ chủ trƣơng giữ nguyên giới luật chiếm số ít
và là những vị cao tuổi, ngồi bên trên để chủ trì Pháp hội nên đƣợc gọi là phái
Thƣợng tọa bộ. Những vị sƣ trẻ chiếm số đông nên gọi là phái Đại chúng bộ.
Sau đó phái Đại chúng bộ truyền lên phía Bắc sang Trung Quốc… đƣợc gọi là
Phật giáo Bắc tông hay Bắc truyền. Phái Thƣợng tọa bộ truyền về hƣớng
Nam, phát triển xuống Srilanca, Myanmar, Thái Lan, Campuchia, Lào… nên
đƣợc gọi là Phật giáo Nam tông hay Nam truyền.
Phật giáo hệ Nam tông nghiêm trì giữ theo giới luật nguyên thủy và đọc
tụng chủ yếu 5 bộ kinh khởi đầu, do đó Phật giáo Nam tông cũng đƣợc gọi là
Phật giáo nguyên thủy [67].
1.1.2. Lược sử Phật giáo Nam tông ở Nam bộ
Phật giáo Nam tông đƣợc truyền vào Việt Nam theo con đƣờng của các
nhà truyền giáo từ Ấn Độ đi theo đƣờng biển tới Srilanca, Myanmar, Thái
Lan tới vùng sông Mê Công (Campuchia) và vào vùng các tỉnh ĐBSCL (phía
Nam) của Việt Nam, đƣợc đông đảo ngƣời dân đặc biệt là đồng bào dân tộc
Khmer đón nhận, trở thành tôn giáo của ngƣời Khmer, do đó gọi là Phật giáo
Nam tông Khmer. (Ở Việt Nam còn có Phật giáo Nam tông của ngƣời Kinh, ở
đây xin không đề cập vì ngoài khuôn khổ đối tƣợng nghiên cứu).
8
Phật giáo Nam tông đã có mặt ở Đồng bằng sông Cửu Long từ rất sớm
(vào khoảng thế kỷ thứ IV). Đến thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX đại bộ phận các
Phum (xóm), Sóc (nhiều xóm hợp thành) của ngƣời Khmer đều có chùa thờ
Phật. Tính đến tháng 6/2010, Phật giáo Nam tông Khmer đã có 452 ngôi chùa
với 8.574 vị sƣ (=19,3% tổng số sƣ trong cả nƣớc) [6], tập trung chủ yếu ở 9
tỉnh/thành ĐBSCL (Trà Vinh, Vĩnh Long, Cần Thơ, An Giang, Kiên Giang,
Bạc Liêu, Sóc Trăng, Cà Mau) [6]. Một số cộng đồng Khmer huyện Giồng
Riềng còn đƣợc gọi là ấp. Ấp có đông ngƣời Khmer đều có chùa thờ Phật.
Phật giáo Nam tông Khmer là tôn giáo truyền thống mang tính biệt truyền
trong cộng đồng dân tộc Khmer ở Tây Nam bộ, đƣợc hầu hết ngƣời Khmer
tin theo [30]. Phật giáo Nam tông trao truyền giới luật theo giáo lý biệt truyền
của hệ phái, cùng tồn tại và phát triển cùng các tôn giáo khác, nhƣng vẫn giữ
vững đƣợc tính cách riêng biệt của mình, không chỉ là một tôn giáo mà nó còn
mang đậm tính chất dân tộc, gắn liền với vòng đời mỗi ngƣời Khmer từ khi
sinh ra cho đến lúc mất đi. Chính đặc điểm này đã tạo cho văn hóa Phật giáo
Nam tông Khmer mang một nét khác biệt so với các tông phái Phật giáo khác.
Tính đến tháng 6-2010, Phật giáo Nam tông Khmer đã có 452 ngôi chùa với
8.574 vị sƣ (chiếm 19,3% tổng số sƣ trong cả nƣớc) [6, 2] tập trung chủ yếu ở
ĐBSCL. Điều này cho thấy Phật giáo Nam tông Khmer đã có sức ảnh hƣởng
sâu đậm đối với đời sống của ngƣời Khmer [30].
Ngƣời Khmer đã tiếp thu Phật giáo Nam tông đƣợc truyền từ Ấn Độ
qua các con đƣờng khác nhau. Phật giáo Nam tông của ngƣời Khmer đƣợc
gọi là Theravada. Mặc dù lai tạp cả tín ngƣỡng dân gian và những tàn dƣ của
Bàlamôn giáo, nhƣng Phật giáo Nam tông vẫn là tín ngƣỡng chính thống của
ngƣời Khmer nƣớc ta [21, 64].
Trƣớc năm 1975, cùng với phong trào kháng chiến chống Mỹ, Hội
ĐKSSYN Phật giáo Nam tông Khmer đƣợc thành lập. Nhiệm vụ của Hội lúc
ấy là tuyên truyền vận động, tập hợp, đoàn kết các nhà sƣ có tinh thần yêu
9
nƣớc vào tổ chức, nhằm đầu tranh vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất
đất nƣớc. Sau giải phóng, Hội ĐKSSYN Phật giáo Nam tông Khmer tiếp tục
duy trì hoạt động để phục vụ cho việc tuyên truyền, thực hiện chính sách của
Đảng và Nhà nƣớc và công cuộc xây dựng đất nƣớc. Từ năm 1981 đến nay,
các hệ phái Phật giáo, bao gồm cả Phật giáo Nam tông Khmer, thuộc Giáo hội
Phật giáo Việt Nam [51, 492-493].
Nhƣ đã đề cập ở trên, Phật giáo Nam tông có vai trò quan trọng đặc biệt
trong đời sống văn hóa tinh thần Khmer, là hồn cốt văn hóa của họ. Nói cách
khác, văn hóa Khmer chính là văn hóa Phật giáo Nam tông. Chúng ta có thể
thấy ảnh hƣởng của Phật giáo trên hầu hết các phƣơng diện đời sống của
ngƣời Khmer, từ các nghi lễ, phong tục tập quán đến kiến trúc, hội họa, sân
khấu, văn học... [54, 61].
Những năm gần đây, Phật giáo vẫn tiếp tục có vai trò quan trọng trong
đời sống của cộng đồng Khmer, các tập tục trƣớc đây về cơ bản vẫn đƣợc duy
trì, tuy nhiên đã có ít nhiều thay đổi. Nhiều nam thanh thiếu niên Khmer
không muốn đi tu, mà muốn đi học để có cơ hội phát triển bản thân; thời gian
tu của sƣ sãi thƣờng ngắn hơn hẳn trƣớc đây, nhiều trƣờng hợp chỉ mang tính
hình thức; do đó có sự suy giảm đáng kể số lƣợng sƣ sãi ở các chùa. Vấn đề
cải đạo cũng đã xuất hiện ở một số địa phƣơng. Ở Sóc Trăng và Trà Vinh hiện
nay có hiện tƣợng ngƣời Khmer theo đạo Tin Lành nhƣng vẫn đi chùa [2].
1.1.3. Đặc điểm Phật giáo Nam tông ở Nam bộ
Có thể khẳng định rằng giáo lý Phật giáo Nam tông và Phật giáo Bắc
tông về cơ bản không có gì đối lập nhau. Bởi vì giáo lý đạo Phật đƣợc chia ra
làm hai truyền thống: Nguyên thủy và Phát triển. Việc sử dụng từ ngữ Nguyên thủy
và Phát triển thể hiện tính cốt lõi nhất quán, xuyên suốt của giáo lý đạo Phật, mà
phần gốc, rễ là Nguyên thủy; phần thân ngọn cành lá là Phát triển. Những tƣ tƣởng
của Phật giáo Phát triển mang tính kế thừa và bổ sung giáo lý Nguyên thủy, giáo trị
của giáo lý Phát triển nằm ở chỗ vẫn giữ đƣợc nền tảng của giáo lý Nguyên thủy.
10
Giáo lý Nguyên thủy và Phát triển có những điểm tƣơng đồng thể hiện rất rõ ràng
và cơ bản nhƣ: Cả hai đều nhìn nhận Ðức Phật là bậc Ðạo sƣ, đều chấp nhận và
hành trì giáo lý Tứ thánh đế, Bát chính đạo, Duyên khởi...; đều chấp nhận Tam pháp
ấn Khổ, Không, Vô ngã; đều chấp nhận con đƣờng tu tập Giới - Ðịnh - Tuệ, đều từ
chối về một đấng tối cao sáng tạo và ngự trị thế giới. Với Phật giáo Nam tông, giáo
lý sơ khởi là giáo lý hƣớng dẫn thực hành nên phù hợp với đồng bào dân tộc. Phật
giáo Nam Tông thực hành những nguyên lý căn bản nhất từ Tam tạng Kinh
điển Pāḷi truyền lại. Không màu mè, không cầu kỳ, không uyên thâm khó hiểu, các
hình thức truyền đạt giáo lý và thực hành các nghĩ lễ tôn giáo đều gần gũi với đời
sống Phật tử và tu sĩ. Ngƣời tiếp nhận không cần có trình độ cao.
Phật giáo Nam tông ngăn cấm việc biết, bàn, đến gần… đối với tu sĩ.
Ví dụ cấm ngƣời tu hành đến gần phụ nữ, không đi chung đƣờng một mình
với phụ nữ, không nhìn thẳng vào mặt phụ nữ…
Hệ giá trị của Phật giáo Nam tông Khmer là một hệ thống các tiêu chí,
chuẩn mực giúp tín đồ lựa chọn và định hƣớng hành động trong đời sống tôn
giáo, là động lực tinh thần liên kết mọi tín đồ đồng thuận, tự nguyện tuân thủ.
Hệ giá trị đó có ý nghĩa rất quan trọng trong đời sống của cộng đồng ngƣời
Khmer Nam bộ. Quan niệm về “nghiệp chƣớng/nhân quả” (karma) và
“phận/pháp” (dharma) có vị trí trung tâm. Quan niệm về nhân quả trong Phật
giáo Nam tông cho rằng mỗi ngƣời từ khi sinh ra và lớn lên cho đến lúc chết
đi đều phải chịu trách nhiệm đối với hành động của mình; thân phận, địa vị,
hoàn cảnh của mỗi ngƣời ở kiếp này là kết quả của kiếp trƣớc; để có quả tốt
(nghiệp chƣớng) tốt phải gieo nhân tốt, nổ lực làm việc tốt, tích phƣớc để kiếp
sau có thân phận và cuộc sống tốt đẹp hơn.
Quan niệm về nhân quả cho rằng mỗi ngƣời phải chịu trách nhiệm đối
với hành động của mình; thân phận, địa vị của mỗi ngƣời ở kiếp này là kết
quả của các kiếp trƣớc; để có nghiệp chƣớng tốt, phải sống tuân theo
phận/pháp – thực hiện vai trò của mình với nỗ lực cao nhất, tích phƣớc để
11
kiếp sau có thân phận tốt đẹp hơn [39]. Ngoại trừ các nhà sƣ và những ngƣời
đã kinh qua thời gian tu tại chùa, hầu hết ngƣời Khmer ít hiểu về kinh Phật.
Vì vậy, để làm phƣớc, tích đức, cách tốt nhất đối với họ là tổ chức, tham gia
các nghi lễ, phục vụ các nhà sƣ, nhà chùa [68, 1091] Một điều đáng lƣu ý, đối
với phần lớn tín đồ Phật giáo, lên Niết bàn là mục đích quá xa vời nên phần
lớn họ cố gắng hành thiện để kiếp sau có cuộc sống tốt đẹp hơn [62].
Trong hầu hết các phum, sóc của ngƣời Khmer đều có chùa. Ban đầu,
chùa đƣợc xây cất đơn giản với các vật liệu nhƣ gỗ, tre, lá dừa nƣớc. Qua thời
gian, nhờ sự đóng góp của các Phật tử, chùa đƣợc xây dựng lớn hơn với vật
liệu kiên cố hơn. Phần lớn Phật tử là nông dân nghèo, nên đóng góp của họ
cho ngôi chùa rất hạn hẹp, vì vậy có chùa đƣợc xây dựng trong một thời gian
dài, có khi lên đến hàng chục năm. Hầu hết ngƣời Khmer đều muốn chùa của
họ khang trang, đẹp đẽ bởi nó là bộ mặt của phum, sóc, là niềm tự hào của họ.
Việc đóng góp xây dựng chùa cũng là cách thiết thực để tích đức cho Phật tử
và gia đình họ. Do đó nhiều gia đình Khmer dù nghèo khó vẫn gắng đóng góp
sức ngƣời sức của cho việc xây dựng, trùng tu chùa. Không ngạc nhiên khi
thấy nhiều vùng Khmer nghèo khó, nhà cửa đơn sơ, nhƣng có chùa to lớn
lộng lẫy [1, 437-438]. Chùa không chỉ là nơi thờ cúng tu hành tôn nghiêm mà
còn là trung tâm văn hóa, chính trị, kinh tế của cộng đồng phum, sóc. Mỗi
ngƣời Khmer dù đi tu hay không, đều tự coi mình là tín đồ. Việc đóng góp
cho chùa, chăm lo cho các nhà sƣ đƣợc coi là bổn phận, trách nhiệm của họ.
Ngƣời Khmer tu để trả nghĩa cho cha mẹ ông bà, tu để học chữ, để lấy chức
sắc. Họ quan niệm tu để tích đức, làm phƣớc; tu càng lâu, phúc đức càng cao
[21, 64].
Phật giáo Nam tông Khmer có hệ thống tổ chức riêng, khác với Phật
giáo của ngƣời Việt và ngƣời Hoa láng giềng. Gắn liền với ngôi chùa, hiện
thân trực tiếp của Phật giáo là tầng lớp sƣ sãi. Đây là tầng lớp xã hội đặc biệt,
bao gồm sƣ sãi, đang tu hành trong các chùa Khmer. Ngƣời Khmer coi ngƣời
12
tu hành là hiện thân của Phật, là tầng lớp trí thức đại diện cho dân tộc mình
[21, 64-65].
Ở chùa, ngoài các vị sƣ chuyên lo liệu các công việc liên quan đến tôn
giáo, còn có tổ chức tín đồ đƣợc gọi là Ban quản trị chùa (Knas Kamaka wat),
bao gồm chủ chùa – trƣởng ban quản trị chùa (nhom wat), thầy phụ trách nghi
lễ (acha wat) và một số thành viên chuyên trách các công việc khác nhau
(thông thƣờng ban quản trị có khoảng tám ngƣời). Họ là những ngƣời sùng
đạo biết cách tổ chức nghi lễ, am hiểu phong tục tập quán. Chủ chùa thƣờng
là ngƣời khá giả trong cộng đồng, gia đình trong sạch. Ban quản trị chùa có
nhiệm vụ thay mặt nhà chùa, làm các công việc nhƣ tổ chức nghi lễ, quản lý
ruộng đất nhà chùa, nhận các đồ hiến tặng, sửa sang, xây mới, trùng tu cơ sở
vật chất của chùa. Chùa cũng thông qua ban quản trị chùa để góp phần vào
việc quản lý phum, sóc. Bên cạnh các nhà sƣ và ban quản trị chùa còn có một
số vị acha. Họ vốn là những nhà sƣ học hành giỏi, sau khi hoàn tục, đƣợc nhà
chùa và bà con tín đồ tín nhiệm mời vào giảng dạy và tham gia thực hiện một
số nghi lễ trong chùa.
Trong các cộng đồng ngƣời Khmer còn có tổ chức tín đồ gọi là wên
(vên, vênh). Để cho việc thực hiện mối quan hệ giữa nhà chùa và tín đồ đƣợc
thuận tiện và chặt chẽ, các hộ Khmer theo từng khu vực cƣ trú nhất định đƣợc
tổ chức thành một wên. Đứng đầu mỗi wên là một chủ wên (mê wên) giúp
việc cho ban quản trị chùa. Có trƣờng hợp chủ wên cũng đồng thời là một
thành viên trong ban quản trị chùa. Mỗi chùa tùy theo số lƣợng tín đồ mà có
số lƣợng wên nhiều hay ít. Việc phân chia tín đồ theo các wên giúp chùa
thuận lợi trong việc tổ chức quyên góp, nhận cơm từ các hộ gia đình. Các wên
thay phiên nhau chuẩn bị cơm và thức ăn để dâng cúng chùa trong một số
ngày nhất định. Ngoài ra các wên còn tham gia công việc của chùa và công
việc chung của cộng đồng. Wên là cầu nối giữa chùa và cộng đồng.
13
Phật giáo Nam tông của ngƣời Khmer đƣợc tổ chức khá chặt chẽ từ
tầng lớp sƣ sãi trong chùa đến cộng đồng tín đồ. Đứng đầu mỗi chùa có một
vị lục cả (luk kru), là lãnh đạo tôn giáo cao nhất của một hoặc vài sóc. Lục cả
có uy tín và vị thế đặc biệt đƣợc dân trong sóc kính trọng hơn cả mê sóc. Bên
cạnh lục cả còn có một hoặc hai vị lục nhị giúp việc cho lục cả, chịu trách
nhiệm trông coi công việc chùa, duy trì kỷ luật tu hành và mọi thứ liên quan
đến Phật tử. Sau các vị lục cả, lục nhị là các vị tì kheo (tuy khiu, bikkhu). Sadi
là chức giới thấp nhất trong chùa. Cao hơn sadi và tì kheo là mekon (hòa
thƣợng), trƣớc đây đƣợc hội đồng sƣ sãi các chùa phong tặng [1, 444].
Về mặt nguyên tắc, các sƣ chỉ chăm lo việc tu hành, thờ phụng, và đời
sống tâm linh của các tín đồ, không tham gia vào đời sống thế tục. Tuy nhiên,
trên thực tế chùa có vai trò hết sức to lớn trong việc quản lý cộng đồng tín đồ,
nhất là việc duy trì đạo đức, lối sống, và ứng xử hàng ngày. Các sƣ đƣợc tín
đồ tôn kính không chỉ đơn thuần vì quyền uy tôn giáo mà là từ sự tận tâm của
họ trong đời sống. Các nhà sƣ không xa lánh thế sự, luôn tham gia vào việc
giúp đỡ tín đồ trong cuộc sống hằng ngày. Khi có xích mích xảy ra, các sƣ
đứng ra phân giải; ngƣời ốm đau bệnh tật cũng đƣợc họ đến an ủi, khuyên bảo
và giúp đỡ; các nghi lễ gia đình, dòng họ đều đƣợc sƣ đến cầu kinh, chúc
phúc; những ngƣời cơ nhỡ, neo đơn đƣợc chùa che chở, giúp đỡ. Chùa cũng
là nơi học chữ, dạy dỗ kiến thức và dƣỡng dục nhân cách cho con em tín đồ
[40, 83-86].
Thêm vào đó, sau khi hỏa thiêu, một phần tro cốt của các tín đồ đã
khuất đƣợc đƣa vào trong các tháp (chet đay) trong khuôn viên chùa. Vì thế,
đối với ngƣời Khmer, chùa còn là nơi trú ẩn cho linh hồn tổ tiên họ. Cho nên,
ngƣời Khmer luôn có tình cảm sâu sắc với chùa – từ khi sinh ra, lớn lên rồi
mất đi, mọi niềm vui nỗi buồn đều gắn với chùa [40, 83-86].
Đến nay, Phật giáo Nam tông vẫn là tôn giáo chính, có ảnh hƣởng lớn
đến đời sống của phần lớn ngƣời Khmer Nam bộ. Tuy nhiên, nhƣ đã đề cập, ở
14
một số nơi đã có sự xâm nhập của Tin Lành và Công giáo; một số chùa đƣợc
trùng tu, mở rộng, và xây mới; các nhà chùa tham gia hoạt động xã hội nhƣ tổ
chức các tụ điểm văn hóa, thông tin, giáo dục, dạy tin học, tiếng Anh cho trẻ
em, tổ chức các hoạt động thủ công, mỹ nghệ [1, 457-459].
Những năm vừa qua, nhằm đáp ứng nhu cầu và nguyện vọng của
Phật giáo Nam tông Khmer, Nhà nƣớc đã cho phép mở Học viện Phật giáo
Nam tông Khmer và một số trƣờng trung cấp Phật học ở các tỉnh có đông
ngƣời Khmer sinh sống nhƣ Sóc Trăng, Trà Vinh, An Giang, Kiên Giang
[1, 457-459].
1.2. Về Phật giáo Nam tông ở Kiên Giang
1.2.1. Khái quát về Phật giáo Nam tông ở Kiên Giang
Kiên Giang là tỉnh nằm ở phía Tây Nam của Tổ quốc, có diện tích tự nhiên 6.348km2, có đất liền, biển, rừng, đồi núi, biên giới, hải đảo. Nơi đây
tập trung nhiều nguồn tài nguyên cho sự phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội ở
địa phƣơng. Kiên Giang có ranh giới đất liền giáp với các tỉnh An Giang, Bạc
Liêu, Cà Mau, Hậu Giang, và TP Cần Thơ; có đƣờng biên giới giáp với
Campuchia dài 56 km và 198 km bờ biển. Trên biển có 105 đảo lớn nhỏ với diện tích tổng cộng 8.800 km2 nối liền với vùng biển Cà Mau thông ra vịnh
Thái Lan, Malaysia. Dân số toàn tỉnh có 1.792.549 ngƣời, trong đó có ba dân
tộc chính: Kinh chiếm 85,68%, Khmer chiếm 12,49%, Hoa chiếm 1,77% và
dân tộc khác chiếm 0,06% [17, 47].
Kiên Giang là tỉnh có đông ngƣời Khmer, đứng thứ ba khu vực Tây
Nam bộ (sau Sóc Trăng và Trà Vinh), sống xen kẽ với ngƣời Việt, Hoa, tập
trung đông nhất ở các huyện Gò Quao, Châu Thành, Giồng Riềng, Hòn Đất.
Ngƣời Khmer ở Kiên Giang cũng nhƣ ngƣời Khmer ở Nam bộ nói chung, có
ngôn ngữ và chữ viết riêng của dân tộc mình đó là chữ “muol” và chữ
“chrieng”, gọi chung là chữ Khmer.
15
Toàn tỉnh có 10 tôn giáo (trong đó có 21 tổ chức giáo hội thuộc 10 tôn
giáo đƣợc Nhà nƣớc công nhận), gồm: Phật giáo, Công giáo, Phật giáo Hòa
Hảo, Hồi giáo, Baha’i, Tịnh độ cƣ sĩ Phật hội Việt Nam, Minh Sƣ đạo, Tứ ân
Hiếu nghĩa, Tin Lành, Cao Đài, và ngoài ra là Phật giáo Hiếu Nghĩa Tà Lơn.
Có 590.756 tín đồ (chiếm 34,75% dân số tỉnh); 1.586 chức sắc, nhà tu hành;
3.580 chức việc. Có 1 tổ chức tôn giáo (giáo hội cấp toàn đạo), 450 tổ chức tôn giáo trực thuộc,2 399 cơ sở thờ tự [4, 2].
Phật giáo du nhập vào Việt Nam từ rất sớm, nhƣng cho đến khoảng thế
kỷ 12, Phật giáo Nam tông mới trở thành tôn giáo chính thống của ngƣời
Khmer, nhiều chùa Phật giáo Nam tông Khmer đƣợc thành lập ở các tỉnh
Nam bộ. Nhƣng đối với ngƣời Khmer tỉnh Kiên Giang, vào giai đoạn này vẫn
chƣa thấy xuất hiện chùa nào của họ. Đến năm 1412 mới xuất hiện chùa đầu
tiên của họ tại Rạch Giá (Kiên Giang): chùa Ăngkor Chum Vông Sa theo phái
Nam tông Khmer, do Hòa thƣợng Rích Thi Chiey từ tỉnh Kam Poong Kray
(Campuchia) sáng lập. Sau nhiều lần trùng tu, hiện chùa đƣợc đổi tên là
Ratanaransi, hay còn gọi là chùa Láng Cát. Sau đó, năm 1504 xuất hiện chùa
Uttam Mean Chiey, hay còn gọi là chùa Phật Lớn ở Rạch Giá; năm 1532 ở
huyện Giồng Riềng xuất hiện chùa Ganganadi, hay còn gọi là chùa Giồng Đá;
năm 1565 ở huyện Gò Quao xuất hiện chùa Thnol Chum, hay còn gọi là chùa
Thủy Liễu, năm 1578 xuất hiện chùa Manta Muni, hay gọi là chùa Tà Mum...
Từ thập niên 1990 đến nay, tại Kiên Giang xuất hiện thêm trên 30 chùa Nam
tông Khmer.
Tính đến năm 2019, Nam tông Khmer ở Kiên Giang có 76 chùa (trong
đó có 3 chùa và 1 tháp di tích văn hóa cấp quốc gia, 2 chùa di tích cấp tỉnh, 1
chùa Nam tông của ngƣời Kinh), có 205.945 tín đồ (chiếm 12,11% dân số
2 Có 2 tổ chức cấp tỉnh; 14 tổ chức cấp huyện; 8 tổ chức cấp đại diện, liên hiệp không phải là cấp giáo hội; 385 tổ chức tôn giáo trực thuộc (cấp cơ sở), 41 tổ chức tôn giáo trực thuộc dƣới cơ sở.
16
toàn tỉnh và chiếm 34,80% tín đồ các tôn giáo), 255 vị chức sắc, 310 nhà tu
hành (bậc sa di); 1.358 chức việc trong ban quản trị [4, 2].
Vào ngày 28-8-1968, Hội ĐKSSYN đƣợc thành lập tại chùa Xẻo Cạn,
huyện An Biên, tỉnh Rạch Giá, nay thuộc huyện U Minh Thƣợng, tỉnh Kiên
Giang [64]. Hội đã sát cánh cùng nhân dân vận động sƣ sãi và ngƣời Khmer
cùng đồng bào các dân tộc tích cực tham gia kháng chiến chống Mỹ cứu
nƣớc, đóng góp vào trang sử hào hùng của dân tộc [65].
Cho đến sau năm 1975, phần lớn ngƣời Khmer nơi đây đều có tôn giáo
truyền thống là Phật giáo Nam tông. Họ xem Phật là Đấng cứu độ và chỗ dựa
vững chắc về tinh thần. Quan niệm đó đã trở thành tập quán của ngƣời Khmer
ở Tây Nam bộ nói chung và Kiên Giang nói riêng. Họ xem ngôi chùa nhƣ là
trung tâm văn hóa, nơi sinh hoạt cộng đồng của phum, sóc, ấp. Ngƣời Khmer
Kiên Giang vẫn giữ đƣợc các phong tục tập quán gắn liền với Phật giáo Nam
tông nhƣ tục cúng Neak ta, tục hành lễ, tục mai táng, tục cúng ông bà, tục
cƣới hỏi… Về kiến trúc và văn học nghệ thuật của ngƣời Khmer Kiên Giang
không có gì khác so với ngƣời Khmer khu vực nam Bộ, tuy nhiên ở lĩnh vực
nghệ thuật, ngƣời Khmer Kiên Giang còn hai loại hình nghệ thuật sân khấu
nổi bật là kịch múa Rô Băm và kịch hát Dù kê. Đua ghe ngo vào dịp lễ hội Óc
Om bóc đƣợc xem là môn thể thao dân tộc, là loại hình kết nối cộng đồng độc
đáo của ngƣời Khmer Kiên Giang.
Các tín đồ Phật giáo Nam tông Khmer Kiên Giang tin tƣởng vào chủ
trƣơng, đƣờng lối của Đảng, chính sách, pháp luật Nhà nƣớc. Công tác quản
lý nhà nƣớc về tôn giáo đƣợc các cấp, các ngành quan tâm, nhu cầu tín
ngƣỡng chính đáng đƣợc xem xét giải quyết đúng quy định pháp luật. Tuy
nhiên, công tác quản lý nhà nƣớc về hoạt động tôn giáo ở một số địa phƣơng
vẫn còn một số bất cập. Qua kiểm tra, phát hiện nhiều vụ việc về tôn giáo
nhƣng đề xuất xử lý chƣa kịp thời nhƣ: việc xây dựng, sửa chữa cơ sở thờ tự
không xin phép, tụ tập đông ngƣời sinh hoạt tôn giáo mà không xin phép cơ
17
quan quản lý nhà nƣớc. Bên cạnh đó, cán bộ, công chức làm công tác tôn giáo
các cấp chƣa thật sự đáp ứng yêu cầu trong tình hình mới [5]. Đi cùng là vấn
đề dân tộc trong tỉnh vẫn còn tiềm ẩn nhiều yếu tố phức tạp [16, 1].
Ngƣời Khmer ở Kiên Giang chủ yếu sản xuất nông nghiệp. Mặc dù
đƣợc Nhà nƣớc quan tâm phát triển kinh tế, đầu tƣ nhiều công trình và mô
hình sản xuất nông nghiệp, đƣa tiến bộ KHKT vào sản xuất, nhƣng phần lớn
đồng bào còn nghèo, sản xuất thiếu kế hoạch, lãng phí trong chi tiêu [44, 11];
trình độ dân trí tuy đã đƣợc quan tâm hơn, trình độ học vấn có cao hơn trƣớc,
nhƣng so với mặt bằng chung vẫn còn thấp; nhận thức chính trị, pháp luật còn
hạn chế mặc dù đã đƣợc các cấp ủy Đảng, chính quyền, Mặt trận, và đoàn thể
chính trị xã hội quan tâm tuyên truyền, giải thích.
Bên cạnh đó, nhƣ trên đã đề cập, gần đây một bộ phận ngƣời Khmer đi
theo các tôn giáo khác nhƣ Tin Lành (754 ngƣời), Công giáo (556 ngƣời) [40].
Đây là hiện tƣợng đáng quan tâm, bởi Phật giáo Nam tông gắn liền với đời
sống văn hóa tinh thần ngƣời Khmer, nên sự thay đổi này ít nhiều ảnh hƣởng
đến văn hóa, phong tục, tập quán, và tín ngƣỡng truyền thống của họ.
1.2.2. Vai trò của Phật giáo Nam tông đối với người Khmer tỉnh Kiên
Giang
Với mục tiêu phấn đấu trở thành tỉnh khá trong cả nƣớc vào năm 2020,
Kiên Giang đã không ngừng đẩy mạnh cơ cấu lại các ngành kinh tế mũi nhọn
và tập trung phát triển những lĩnh vực tiềm năng, thế mạnh của địa phƣơng.
Đồng thời, tỉnh chú trọng đầu tƣ xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế, nâng cao
chất lƣợng giáo dục, y tế, văn hóa-xã hội và tăng cƣờng công tác quốc phòng,
an ninh, đẩy mạnh công tác đối ngoại, hợp tác và hội nhập quốc tế nhằm tạo
động lực thúc đẩy kinh tế-xã hội của tỉnh phát triển nhanh và bền vững [69].
Kiên Giang cũng tập trung quan tâm đến lĩnh vực đời sống văn hóa tinh thần,
tín ngƣỡng tôn giáo của đồng bào các dân tộc, nhất là đối với ngƣời Khmer.
18
Để giữ gìn tiếng nói, chữ viết, các loại hình văn nghệ dân gian, hầu hết
các chùa Phật giáo Nam Tông Khmer tại tỉnh Kiên Giang đều tổ chức các lớp
dạy chữ Khmer, dạy hát múa, dạy sử dụng nhạc cụ, và dạy làm một số nghề
truyền thống nhƣ đan lát, đắp hoa văn, sửa chữa đóng mới ghe ngo… Giai
đoạn 2014-2019, tại các chùa Phật giáo Nam tông trong tỉnh Kiên Giang đã
mở 46 lớp Kinh Luận giới với 897 học viên, 9 lớp Pali với 431 học viên, tổ
chức 5 kỳ thi tốt nghiệp Pali, Kinh Luận Giới và lớp ngữ văn Khmer có 862
lƣợt tăng sinh và Phật tử dự thi. Qua đó, trình độ Phật học, chữ viết của chƣ
tăng và đồng bào Khmer trên địa bàn tỉnh từng bƣớc đƣợc nâng cao. Vận
động đóng góp từ thiện với số tiền gần 42,3 tỉ đồng, trong đó, vận động xây
dựng 62 căn nhà tình thƣơng, nhà đại đoàn kết; trên 110 cây cầu bê tông cốt
thép; cấp phát 79 áo quan cho ngƣời nghèo; phát trên 15.000 cuốn tập và trên
2.000 cây viết cho học sinh đi học chữ Khmer trong dịp hè; tham gia hiến
máu với 196 đơn vị máu; phát trên 25.000 phần quà cho hộ nghèo… Ký kết
chƣơng trình phối hợp giữa UBMTTQ Việt Nam tỉnh, Sở Tài nguyên và Môi
trƣờng với các tôn giáo về bảo vệ môi trƣờng, ứng phó biến đổi khí hậu giai
đoạn 2016-2020, thành lập đƣợc 19 câu lạc bộ tại các điểm chùa Nam tông
Khmer [68].
Nhìn chung, Phật giáo Nam tông Khmer Kiên Giang không lánh xa
cuộc đời mà hòa nhập cùng tất cả cơ quan chính quyền, các ban, ngành đoàn
thể ở địa phƣơng để cùng hƣớng dẫn ngƣời Khmer xây dựng cuộc sống ngày
càng tốt đẹp hơn.
Sƣ sãi luôn tích cực trong việc triển khai các chủ trƣơng của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nƣớc đến ngƣời Khmer trong chƣ tăng và Phật
tử; vận động Phật tử tham gia thực hiện tốt các chính sách về xóa đói, giảm
nghèo, học tập ứng dụng các tiến bộ khoa học kỷ thuật vƣơn lên làm giàu
chính đáng; tuyên truyền các chính sách về văn hóa, giáo dục để Phật tử tích
cực tham gia bảo tồn các di sản văn hóa, lịch sử của tỉnh. Hầu hết các chùa
đều có những hoạt động tập trung giữ gìn và phát huy tốt các giá trị mang bản
sắc văn hóa dân tộc Khmer.
19
Với tinh thần “từ bi hỉ xả, vô ngã vị tha” của Phật giáo, công tác từ
thiện nhân đạo của Phật giáo Nam tông ngày càng phát triển và huy động
đƣợc đồng bào tham gia. Nếu nhƣ trƣớc đây các nhà sƣ chỉ chuyên tâm tu tập
và đời sống sinh hoạt chỉ nhờ vào cúng dƣờng của Phật tử, thì trong những
năm gần đây tại các chùa đã dần tổ chức quyên góp để hoạt động từ thiện
nhân đạo. Mỗi chùa là một địa chỉ đáng tin cậy để các mạnh thƣờng quân liên
lạc làm từ thiện xã hội. Bên cạnh đó, các sƣ sãi tham gia rất tích cực vào hội
bảo trợ bệnh nhân nghèo, Hội Chữ thập đỏ các cấp trong tỉnh nhƣ Hòa thƣợng
Trần Nhiếp, trụ trì chùa Đƣờng Xuồng (huyện Giồng Riềng); Đại đức Danh
Ri, Danh Hạnh, chùa Khlang Mƣơng, v.v... (Xem hình 1.2).
Tiểu kết chƣơng 1
Quá trình tiếp nhận Phật giáo Nam tông của ngƣời Khmer Nam bộ diễn
ra song song với dòng chảy lịch sử của vùng đất Nam bộ, trong đó có Kiên
Giang, và cùng với sự phát triển của dân tộc Khmer, Phật giáo Nam tông đã có
sự phát triển và thay đổi. Trong đó, Phật giáo Nam tông luôn thể hiện đƣợc vai
trò và vị trí của mình. Nhƣ trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, Mỹ, Phật
Comment [WU1]: Phật giáo Nam Tông ở đây đƣợc hiểu là một chủ thể, chủ thể đó bao gồm: Chùa chiền, sƣ sãi, giáo lý, Phật tử….
giáo Nam tông vừa là nơi giáo dục Phật tử lòng yêu nƣớc, vừa là căn cứ cách
mạng và là nơi lánh nạn cho đồng bào. Trong thời bình, Phật giáo Nam tông là
nơi lƣu giữ các giá trị văn hóa tinh thần của dân tộc Khmer, là chỗ dựa tinh
thần vững chắc cho ngƣời Khmer, củng cố và giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc
góp phần làm phong phú thêm đời sống tôn giáo, dân tộc tỉnh Kiên Giang.
Phật giáo Nam tông luôn phát huy những giá trị tích cực của giáo lý
nhà Phật. Những tƣ tƣởng của Phật giáo về hòa bình, từ bi, hỷ xả, vô ngã, vị
tha và tự giác ngộ luôn đƣợc lƣu truyền trong ngƣời Khmer Nam bộ. Phật
giáo Nam tông từ chỗ ngoại sinh, đã lan tỏa, thấm sâu vào tƣ tƣởng, và hòa
hợp cùng văn hóa dân tộc, tác động mạnh mẽ đến đời sống văn hóa tinh thần
dân tộc Khmer vùng đất Nam bộ, trở thành yếu tố nội sinh thúc đẩy sự phát
triển của dân tộc Khmer.
20
Chƣơng 2
HUYỆN GIỒNG RIỀNG VÀ ẢNH HƢỞNG CỦA PHẬT GIÁO
NAM TÔNG ĐỐI VỚI ĐỜI SỐNG VĂN HÓA TINH THẦN
NGƢỜI KHMER NƠI ĐÂY
2.1. Huyện Giồng Riềng và ngƣời Khmer huyện Giồng Riềng
2.1.1. Khái quát về huyện Giồng Riềng
Huyện Giồng Riềng nằm trong vùng Tây sông Hậu thuộc tỉnh Kiên
Giang. Địa giới hành chính của huyện đƣợc xác định nhƣ sau: Bắc giáp huyện
Tân Hiệp tỉnh Kiên Giang và TP Cần Thơ, Nam giáp huyện Gò Quao tỉnh
Kiên Giang và tỉnh Hậu Giang, Tây giáp huyện Châu Thành tỉnh Kiên Giang,
Đông giáp TP Cần Thơ.
Tổng diện tích tự nhiên toàn huyện 63.936 ha, trong đó đất sản xuất
nông nghiệp 56.601,36 ha; dân số năm 2017 là 219.166 ngƣời, trong đó dân
tộc Kinh 180.122 ngƣời (82,2%), Khmer 37.803 ngƣời (17,2%), Hoa 1.188
ngƣời (0,54%), dân tộc khác 53 ngƣời (0,02%). Giồng Riềng là huyện có quy
mô dân số lớn thứ hai tỉnh Kiên Giang (sau Rạch Giá). Phân bố dân cƣ ở
huyện khá đồng đều ở các xã, ngoại trừ thị trấn Giồng Riềng. Mật độ dân số 343 ngƣời/km2, chiếm 10,01% về diện tích và khoảng 12,26% về dân số của
tỉnh Kiên Giang. Là huyện có số đơn vị hành chính cấp xã nhiều nhất tỉnh và
cũng nhiều cấp xã nhất ở vùng ĐBSCL: 18 xã và 1 thị trấn [47, 6].
Nhờ sự tăng trƣởng khá cao trong phát triển kinh tế xã hội những năm
qua, nên đời sống của nhân dân cũng đƣợc nâng lên rõ rệt. Thu nhập bình
quân đầu ngƣời năm 2017 đạt 42,22 triệu đồng. Tỉ lệ hộ nghèo theo tiêu chí
mới còn 4,92%, hộ cận nghèo 6,85%; tỉ lệ hộ sử dụng điện đạt 98,42%; tỉ lệ
hộ sử dụng nƣớc hợp vệ sinh đạt 95%,… [47, 13].
21
Kiên Giang nói chung và Giồng Riềng nói riêng đã trải qua quá trình
lịch sử hình thành tƣơng đối dài, gắn liền với bao thăng trầm của lịch sử
ĐBSCL từ khi bắt đầu khai phá cho đến nay. Giồng Riềng xƣa kia là vùng đất
rừng tràm quanh năm ngập úng, ngày nay là vùng sản xuất lƣơng thực lớn của
tỉnh. Trong lịch sử, Giồng Riềng đã tham gia hai cuộc đấu tranh chống thực
dân Pháp và đế quốc Mỹ giải phóng dân tộc, hòa nhịp với nhân dân cả nƣớc
giành độc lập thống nhất cho Tổ quốc.
Quá trình phát triển kinh tế xã hội của Giồng Riềng gắn liền với lịch sử
của nền văn minh miệt vƣờn, có sự hội nhập của nhiều thành phần dân cƣ và
nhiều tôn giáo, dân tộc đến từ nhiều vùng khác nhau, tạo nên văn hóa rất đặc
trƣng Nam bộ [47, 10].
Về tôn giáo, huyện có bảy tôn giáo với tổng số 69.198 tín đồ, cùng một
số nhóm có tính tôn giáo khác, sống và sinh hoạt khắp địa bàn của 19 xã, thị
trấn. Cụ thể: Phật giáo Nam tông với 14 chùa và 40.401 tín đồ; 6 miếu Ông
Tà thuộc Nam tông Khmer; Phật giáo Bắc tông với 14 chùa, 3 tịnh xá, và
11.330 tín đồ; Cao Đài Ban chỉnh 1 họ đạo và 126 tín đồ; Cao Đài Tây Ninh 4
họ đạo và 1.099 tín đồ; Công giáo có 7 giáo xứ, 2 giáo họ và 13.855 tín đồ;
Tin Lành Việt Nam - miền Nam có 2 chi hội và 745 tín đồ; 2 nhóm Tin Lành
sinh hoạt theo Chỉ thị 01 của Chính phủ: Tin Lành Trƣởng lão liên hiệp có 32
tín đồ, Tin Lành Đất hứa có 25 tín đồ; Tịnh độ cƣ sĩ có 4 Ban trị sự và 942 tín
đồ; Phật giáo Hòa Hảo có 2 Ban trị sự và 531 tín đồ; Bửu sơn Kỳ hƣơng có 1
chùa và 96 tín đồ; Baha’i có 16 tín đồ [58]. Giồng Riềng chƣa có Phật giáo
Nam tông Kinh.
Trong 14 ngôi chùa Phật giáo Nam tông thì chùa Ganganadi (Giồng
Đá) đƣợc thành lập năm 1532, 6 ngôi chùa đƣợc xây dựng trƣớc năm 1986.
Sau khi đất nƣớc đổi mới, chính sách dân tộc, tôn giáo đƣợc quan tâm hơn,
ngƣời Khmer cũng nhƣ Phật giáo Nam tông đƣợc hỗ trợ và tạo điều kiện
22
nhiều hơn về cả tinh thần lẫn vật chất, từ đó có thêm 7 ngôi chùa đƣợc xây
dựng kể từ sau năm 1990.
Công tác xây dựng Đảng và xây dựng hệ thống chính trị đƣợc các cấp ủy
Đảng và chính quyền chăm lo thƣờng xuyên. Các hoạt động văn hóa, thông
tin, thể thao đƣợc chú trọng, phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống
văn hóa đƣợc duy trì tốt. Việc nâng cao chất lƣợng giáo dục luôn đƣợc quan
tâm, nhất là ở những vùng đặc biệt khó khăn, vùng ngƣời Khmer. Đảng, chính
quyền, UBMTTQ và các tổ chức chính trị-xã hội ở huyện Giồng Riềng luôn
tạo điều kiện cho các tôn giáo đƣợc hoạt động ổn định trong khuôn khổ pháp
luật. (Xem hình 2.1)
2.1.2. Đời sống kinh tế, xã hội của người Khmer huyện Giồng Riềng
Kể từ đổi mới (1986) đến nay, dƣới tác động của nền kinh tế thị trƣờng
và hội nhập quốc tế, đời sống kinh tế, xã hội của các tộc ngƣời đã có những
biến đổi sâu sắc. Ngƣời Khmer cũng không nằm ngoài quá trình này.
Ngƣời Khmer Giồng Riềng cũng nhƣ ngƣời Khmer trong toàn tỉnh
Kiên Giang nói riêng và Nam bộ nói chung, có các tổ chức xóm làng đƣợc gọi
là phum, sóc, ấp.
Trong tiếng Khmer, phum có nghĩa là một khu đất [43, 52]. Một phum
thƣờng có từ 3-8 hộ gia đình cƣ trú. Khi số lƣợng hộ gia đình trong phum quá
lớn, các thế hệ tiếp theo phải rời đến một khu đất mới để sinh sống và bắt đầu
một phum mới. Quá trình này lặp đi lặp lại khi cơ sở tồn tại của phum vẫn
còn [40, 74-79]. Gần đây số lƣợng các phum truyền thống còn lại rất ít. Các
hộ gia đình Khmer cƣ trú biệt lập trên những khu đất riêng trở nên phổ biến.
Có nhiều nguyên nhân tác động đến quá trình này; một trong số đó là do sức
ép về đất đai [40, 74-79].
Trong tiếng Khmer, sóc có nghĩa là xứ, vùng, địa phƣơng… Đối với
ngƣời Khmer ở ĐBSCL, sóc là từ chỉ một đơn vị cƣ trú, một thiết chế xã hội
23
tự quản truyền thống tƣơng tự nhƣ làng của ngƣời Việt, buôn hay plây của
một số tộc ngƣời ở Tây Nguyên [11, 97-98].
Nhiều ngƣời Khmer thƣờng gọi sóc bằng từ kép “phum sóc”. Để phân
biệt với phum – thiết chế xã hội nhỏ hơn, một số nhà nghiên cứu đã đƣa ra hai
thuật ngữ “phum lớn” hay “phum láng giềng” để chỉ sóc [11, 97-98]. Có ý
kiến cho rằng một sóc có thể đƣợc phát triển từ một phum. Sóc lấy tên phum
ban đầu nên dẫn đến sự lẫn lộn khi sử dụng từ kép “phum sóc” vốn là hai từ
chỉ hai thiết chế xã hội khác nhau.
Nhiều phum họp lại thành một sóc, trong mỗi sóc thƣờng có ít nhất một
ngôi chùa. Ngƣời Khmer Giồng Riềng sống tập trung, quần tụ quanh chùa để
tiện cho việc học kinh kệ, lễ Phật hằng ngày, cúng dƣờng sƣ sãi, và tham gia
các lễ hội gắn liền với tín ngƣỡng, tôn giáo của dân tộc mình.
Sóc có tổ chức tự quản. Ngƣời đứng đầu sóc đƣợc gọi là mê sóc, một số
ngƣời giúp việc cho mê sóc họ hợp thành knas kamaka srok (ban quản trị
sóc), đều do ngƣời dân bầu ra. Trong sóc, cùng với mê sóc, ban quản trị sóc,
nhà chùa cũng có vai trò quan trọng trong việc duy trì sóc. Các yếu tố văn hóa
nông nghiệp lúa nƣớc quyện với văn hóa Phật giáo ảnh hƣởng đậm nét đến lối
sống, sinh hoạt hằng ngày, khiến sóc Khmer có một diện mạo đặc thù, rất
khác so với làng của ngƣời Việt hay các buôn, plây của các tộc ngƣời ở Tây
Nguyên [40, 79-82; 11, 117-118].
Trong những năm gần đây, kinh tế, xã hội huyện Giồng Riềng không
ngừng phát triển đã làm cho đời sống của ngƣời Khmer có nhiều thay đổi.
Ngƣời Khmer có truyền thống canh tác nông nghiệp với lúa nƣớc là
chủ đạo, bên cạnh các loại cây trồng khác, và chăn nuôi lợn, gia cầm, cá chủ
yếu phục vụ nhu cầu trong gia đình. Hoạt động thủ công nghiệp của ngƣời
Khmer khá đa dạng, có nhiều sản phẩm đạt trình độ cao về thẩm mỹ và kỹ
thuật, tuy nhiên chỉ mang tính gia đình, phục vụ cho đời sống sinh hoạt hằng
ngày. Do tính chất phân tán, quy mô nhỏ và kém cạnh tranh trên thị trƣờng,
24
nên hoạt động này ở ngƣời Khmer đã không tạo thành một bộ phận kinh tế
độc lập [38, 35-46].
Ngƣời Khmer Giồng Riềng chủ yếu làm ruộng, nhƣng so với ngƣời
Khmer một số nơi, hoạt động kinh tế của ngƣời Khmer ở đây đa dạng hơn:
trồng trọt, chăn nuôi gia súc gia cầm, nuôi thủy hải sản, làm thuê, và buôn
bán. Ngày nay, ngƣời Khmer Giồng Riềng đã biết áp dụng những tiến bộ
khoa học kỹ thuật vào sản xuất nông nghiệp nhƣ mua máy cày, máy xới, máy
gặt đập liên hợp, tƣới tiêu bằng máy móc. Họ đa dạng hóa vật nuôi cây trồng
nhƣ: nuôi cá đồng trong vèo, nuôi gia súc, gia cầm, xây dựng các mô hình
“Vƣờn – ao – chuồng”, “Vƣờn – ao – ruộng”, đƣa các giống lúa, giống cây
mới có năng suất cao vào trồng trọt. (Xem hình 2.2).
Năm 2018, tình hình đời sống kinh tế vùng đồng bào Khmer trên địa
bàn huyện tiếp tục ổn định và phát triển, nhất là phum, sóc, ấp thuộc vùng khó
khăn và đặc biệt khó khăn, nhờ có sự đầu tƣ xây dựng kết cấu hạ tầng, đầu tƣ
vốn phát triển sản xuất cho các xã, ấp thuộc chƣơng trình 135, xã thuộc vùng
khó khăn, và hỗ trợ nhiều chính sách an sinh xã hội khác.
Tuy nhiên, tốc độ tăng trƣởng còn thấp, tỉ lệ hộ nghèo, cận nghèo là
ngƣời Khmer còn tƣơng đối cao, số hộ thiếu đất ở, đất sản xuất, thiếu vốn sản
xuất… trên địa bàn huyện còn nhiều. Năm 2017, tổng số hộ nghèo trên địa
bàn huyện là 2.586 hộ thì trong đó có 903 hộ Khmer (35%) [15, 181].
Mặc khác, yêu cầu của công cuộc đổi mới đòi hỏi ngƣời Khmer phải
không ngừng nỗ lực vƣơn lên về mọi mặt, nhƣng một bộ phận ngƣời dân đã
không đáp ứng đƣợc yêu cầu của xã hội, còn thụ động, thiếu sáng tạo, v.v…
Từ đó, họ càng tụt hậu hơn về kinh tế, một bộ phận dân cƣ đã không giữ đƣợc
đất sản xuất, đất ở, họ phải chuyển nhƣợng khi làm ăn thất bát.
Công tác giữ gìn, bảo tồn phát huy bản sắc văn hóa trong ngƣời Khmer
Giồng Riềng luôn đƣợc các cấp ủy Đảng, chính quyền quan tâm triển khai
thực hiện, thông qua các hoạt động lễ hội hằng năm nhƣ Tết cổ truyền Chôl-
25
Chnăm-Thmây, lễ Ok-Om-Bóc, lễ Sene Đôn-Ta, Hội diễn văn nghệ Khmer,
lễ hội cầu an, Tết nguyên đán, họp mặt cán bộ dân tộc. Thực hiện nghị quyết
Huyện ủy, UBND huyện đã xây dựng kế hoạch số 96/KH-UBND ngày 13-11-
2015, về nâng cao chất lƣợng hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục, thể thao,
giai đoạn 2016-2021. Trong đó quan tâm xây dựng trung tâm văn hóa các xã,
nhà thông tin ấp gắn với trụ sở làm việc của ban lãnh đạo các ấp. Đầu tƣ, phát
triển các bộ môn thi đấu thể thao và văn nghệ của bà con dân tộc Khmer…
Tính đến nay toàn huyện có 6 đội đua ghe ngo nam, 6 đội đua ghe ngo nữ và
12 đội đua thuyền truyền thống, nhiều đội đua vỏ máy, có 2 câu lạc bộ hát
Yu-kê, 4 câu lạc bộ văn nghệ Khmer; các điệu múa lâm vông, lâm thôn,
apsara. (Xem hình 2.3).
Các chƣơng trình y tế quốc gia trong vùng ngƣời Khmer Giồng Riềng
luôn đƣợc các cấp quan tâm khá tốt, việc khám chữa bệnh, hỗ trợ kinh phí cấp
thẻ BHYT cho ngƣời nghèo, cận nghèo nói chung đƣợc thực hiện tốt. (Xem
hình 2.4).
Nhìn chung đời sống văn hóa của ngƣời Khmer Giồng Riềng từng bƣớc
đƣợc nâng lên rõ rệt, khiến diện mạo nông thôn, vùng có đông đồng bào dân
tộc thay đổi, góp phần quan trọng thực hiện thắng lợi nghị quyết về phát triển
kinh tế-xã hội của huyện năm 2018 [57] .
2.1.3. Đặc điểm đời sống văn hóa tinh thần người Khmer huyện
Giồng Riềng
A.L. Kroeber và Kluckhohn (1952) trong Culture, a critical review of
concept and definitions (Văn hóa, điểm lại bằng cái nhìn phê phán các khái
niệm và định nghĩa) đã dẫn ra khoảng 160 định nghĩa về văn hóa của các nhà
khoa học ở nhiều nƣớc khác nhau. Điều này cho thấy, khái niệm “văn hóa” rất
phức tạp.
E. B. Tylor (1871) định nghĩa: “Văn hóa hay văn minh, theo nghĩa rộng
về tộc ngƣời học, nói chung gồm có tri thức, tín ngƣỡng, nghệ thuật, đạo đức,
26
luật pháp, tập quán và một số năng lực và thói quen khác đƣợc con ngƣời
chiếm lĩnh với tƣ cách một thành viên của xã hội.” [60, 13].
F. Boas (1921) định nghĩa: “Văn hóa là tổng thể các phản ứng tinh
thần, thể chất và những hoạt động định hình nên hành vi của cá nhân cấu
thành nên một nhóm ngƣời vừa có tính tập thể vừa có tính cá nhân trong mối
quan hệ với môi trƣờng tự nhiên của họ, với những nhóm ngƣời khác, với
những thành viên trong nhóm và của chính các thành viên này với nhau.” [7,
149].
Ở Việt Nam, văn hóa cũng đƣợc định nghĩa rất khác nhau. Hồ Chí
Minh (1943) cho rằng, “Văn hóa là sự tổng hợp của mọi phƣơng thức sinh
hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài ngƣời đã sản sinh ra nhằm thích ứng
với nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn.” [55, 431].
Nguyễn Đức Từ Chi xem văn hóa từ hai góc độ. Góc độ thứ nhất là góc
độ hẹp, mà ông gọi là “góc nhìn báo chí”. Theo góc nhìn này, văn hóa sẽ là
kiến thức của con ngƣời và xã hội. Còn góc nhìn thứ hai là “góc nhìn dân tộc
học.” [14, 565 và 570].
Theo UNESCO, văn hóa đƣợc hiểu theo hai nghĩa: nghĩa rộng và nghĩa
hẹp. Theo nghĩa rộng thì “Văn hóa là một phức hệ tổng hợp các đặc trƣng
diện mạo về tinh thần, vật chất, tri thức và tình cảm… khắc họa nên bản sắc
của một cộng đồng gia đình, xóm làng, vùng, miền, quốc gia, xã hội… Văn
hóa không chỉ bao gồm nghệ thuật, văn chƣơng mà còn cả lối sống, những
quyền cơ bản của con ngƣời, những hệ thống giá trị, những truyền thống, tín
ngƣỡng…” [8]; còn hiểu theo nghĩa hẹp thì “Văn hóa là tổng thể những hệ
thống biểu trƣng (ký hiệu) chi phối cách ứng xử và giao tiếp trong cộng đồng,
khiến cộng đồng đó có đặc thù riêng.” [35, 314].
Tác giả luận văn sẽ tiếp cận vấn đề đời sống văn hóa tinh thần ngƣời
Khmer từ góc độ này của UNESCO.
27
Về đời sống văn hóa tinh thần, ngƣời Khmer Giồng Riềng vừa mang
các đặc điểm chung nhƣ ngƣời Khmer Nam bộ, vừa có những nét riêng, sẽ
đƣợc tác giả luận văn phân tích dƣới đây.
Thứ nhất, và là đặc điểm lớn nhất, trong cộng đồng Khmer trƣớc đây
cũng nhƣ hiện nay, chùa Phật giáo Nam tông mà đại diện là các nhà sƣ luôn
đóng vai trò trung tâm. Nếu nhƣ các mối quan hệ ở làng của ngƣời Việt bị chi
phối bởi hƣơng ƣớc lệ làng, ở buôn làng của các dân tộc thiểu số Tây Nguyên
bị chi phối bởi luật tục, thì ở sóc của ngƣời Khmer lại bị chi phối bởi luân lý
của Phật giáo Nam tông. Giáo lý, lời răn dạy của tôn giáo này đã trở thành
chuẩn mực của ngƣời Khmer. Chính vì vậy, mặc dù ngƣời Khmer còn có tín
ngƣỡng và lễ hội dân gian chứa đựng nhiều yếu tố Ấn Độ giáo, nhƣng chúng
đƣợc lồng ghép vào Phật giáo và Phật giáo luôn có vị trí trung tâm [45]. Ở
những chùa có điều kiện nhƣ Cái Đuốc Nhỏ, Cây Trôm, Giồng Đá, Rạch
Chanh… chùa thật sự là trung tâm văn hóa của cộng đồng Khmer, hƣớng dẫn
thực hiện nếp sống mới của ngƣời Khmer theo tiêu chí “Nông thôn mới”.
Chùa không chỉ là trung tâm tôn giáo mà còn là nơi dạy học, là nơi duy trì
ngôn ngữ và chữ viết. Đặc biệt là chữ Pali cũng đƣợc dạy và duy trì trong
chùa. Các loại sách, kinh Phật và các tƣ liệu, sử sách về dân tộc Khmer luôn
đƣợc các vị sƣ sãi giữ gìn và truyền dạy lại cho thế hệ sau. Ngƣời Khmer
Giồng Riềng luôn gắn bó với ngôi chùa từ vật chất đến tinh thần thể hiện
trong nếp sống, nếp nghĩ hàng ngày. Phật tử luôn siêng năng đến chùa, tham
gia các lễ hội tôn giáo, lễ hội dân tộc, đóng góp vật chất để tích phƣớc, sống
chan hòa, đoàn kết, thƣơng yêu đùm bọc lẫn nhau... (Xem hình 2.5).
Thứ hai, ngƣời Khmer ở Giồng Riềng thuộc nhóm ngôn ngữ Môn-
Khmer, văn hóa thể hiện rõ những nét pha trộn của nhiều luồng văn hóa nhƣ
Bàlamôn giáo, Phật giáo Nam tông, và trong quá trình chung sống hòa hợp
với các cộng đồng ngƣời Việt, ngƣời Hoa, cũng đem lại cho họ những sự giao
thoa văn hóa phong phú và thú vị. Đối với mỗi ngƣời Khmer, từ khi sinh ra
28
cho đến lúc trƣởng thành, dựng vợ, gả chồng, rồi đau ốm, bệnh tật, từ giã cõi
đời, đều có những nghi lễ gắn liền với từng giai đoạn khác nhau trong cuộc
đời. Một số phong tục tập quán còn ăn sâu trong đời sống tinh thần của ngƣời
Khmer Giồng Riềng nhƣ:
Ngƣời Khmer Giồng Riềng vẫn còn tín ngƣỡng Neak Tà một cách sâu
sắc, Neak Ta là vị thần bảo hộ của một khu vực đất đai của đồng bào Khmer.
Ông Tà của đồng bào Khmer đƣợc ẩn dƣới nhiều hình thức: Neak Tà trông
coi phum sóc, giữ chùa, giữ đất đai. Ngoài ra còn có những ông Tà “quan sát”
ngã 3 ngã 4 sông. Thông thƣờng, ông Tà hay “ẩn thân” dƣới dạng những hòn
đá. Nên ngƣời Khmer Giồng Riềng thƣờng thời những hòn đá to trong những
cái miếu ở gốc cây lớn trong phum, sóc hay ở ngã 3, ngã 4 sông. Ngƣời
Khmer Giồng Riềng tin những thiên tai, dịch bệnh, tai họa đến cho con ngƣời
là do sự bất kính của con ngƣời đối với ông Tà. Vì thế mỗi khi có chuyện
không may xảy ra thì họ cúng ông Tà để cầu xin ông bớt giận hoặc che chở
cho họ.
Ngƣời phụ nữ Khmer Giồng Riềng nếu có thai họ đều tìm đến các thầy
cúng để làm phép trừ tà ma vì họ cho rằng, khi đƣợc các thầy cúng làm phép
thai nhi sẽ đƣợc khỏe mạnh phát triển tốt, thai phụ cũng không bị ốm đau.
Ngƣời phụ nữ mang thai còn đến chùa cầu khấn thần Reahu cho sinh nở đƣợc
mau mắn. Vì theo truyền thuyết, thần Reahu miệng rộng nuốt mặt trăng dễ
dàng và nhả ra cũng nhẹ nhàng. Chính vì thế, phụ nữ Khmer tin rằng khi họ
cầu xin Reahu sẽ sinh con đƣợc dễ dàng. Sản phụ sau khi sinh con, gia đình
mời thầy cúng đến đọc thần chú đồng thời lấy chỉ trắng cột quanh chân
giƣờng. Ngoài ra, ngƣời Khmer còn lấy xƣơng rồng hoặc lá dứa gai treo trƣớc
cửa nhà (cửa chính) để xua tà ma. Đứa trẻ sau khi sinh đƣợc 1 tháng, làm lễ
cắt tóc “trả ơn mụ” và làm lễ đặt tên cho bé. Trong thời gian nuôi con, nếu
đứa trẻ bị bệnh gia đình thƣờng cúng Arak “cầu xin hết bệnh”.
29
Hôn nhân của ngƣời Khmer Giồng Riềng thƣờng trải qua 3 bƣớc: làm
mối, dạm hỏi và lễ cƣới thƣờng đƣợc tổ chức ở bên nhà gái. Xƣa nay, ngƣời
Khmer Giồng Riềng luôn cho rằng cƣới xin là nét sinh hoạt truyền thống
thuộc lĩnh vực văn hóa dân gian gắn liền với phong tục tập quán của cộng
đồng. Đám cƣới của ngƣời Khmer với nhiều nghi thức bắt nguồn từ truyền
thuyết, truyện cổ tích và luôn có sự hiện diện của các sƣ sãi đọc tụng và tiến
hành các nghi thức trong lễ cƣới.
Tang ma của ngƣời Khmer Giồng Riềng có nhiều điểm khác biệt so với
cộng đồng các dân tộc khác cùng sinh sống trên địa bàn huyện Giồng Riềng.
Ngƣời Khmer Giồng Riềng không để tang cho ngƣời chết họ quan niệm, cái
chết chƣa phải là chấm dứt cuộc sống mà vẫn “sống” ở một thế giới khác. Khi
ngƣời Khmer chết, ngƣời thân trong gia đình tổ chức đám ma với nhiều nghi
thức phức tạp và con cháu thƣờng xuyên “làm phƣớc”, “gửi của”, mang nhiều
lễ vật cúng cho chùa và sƣ sãi, những lễ vật ấy sẽ theo khói nhang và tiếng kệ
lời kinh đến đƣợc với cha mẹ cũng nhƣ ông bà của họ ở thế giới bên kia. Con
cháu còn sống làm phƣớc ít hay nhiều thì cuộc sống của ngƣời đã chết sung
sƣớng hay chật vật. Ngƣời Khmer thấu hiểu và thực hành sâu sắc triết lý
“nhân quả” của nhà Phật. Chính vì thế, họ quan niệm lúc sống phải làm tích
phƣớc khi chết sẽ đƣợc giải thoát.
Thứ ba, nổi bật trong đời sống văn hóa tinh thần Khmer Giồng Riềng là
lễ hội. Lễ hội là món ăn tinh thần không thể thiếu trong đời sống văn hóa
cũng nhƣ tín ngƣỡng của dân tộc Khmer, góp phần tạo nên vẻ đẹp độc đáo
trong văn hóa truyền thống của họ. Nét văn hóa truyền thống đó đã in sâu
trong nếp sống hằng ngày của mỗi ngƣời dân.
Và thứ tƣ, đời sống văn hóa tinh thần ngƣời Khmer Giồng Riềng còn
thể hiện ở nghệ thuật tạo hình (kiến trúc, điêu khắc, chạm trổ, hội họa, trang
phục), đặc biệt trong chùa; nghệ thuật biểu diễn nhƣ kịch cổ điển Rô Băm và
kịch hát Dù kê. Tuy nhiên, nghệ thuật tạo hình của ngƣời Khmer Giồng Riềng
30
đƣợc lƣu giữ chủ yếu tại các chùa chiền và một vài ngôi nhà, trong khi hầu
hết nhà ở của ngƣời Khmer Giồng Riềng đƣợc xây cất nhƣ nhà ở của ngƣời
Kinh. Về trang phục, ngƣời Khmer chỉ mặc trang phục truyền thống khi tham
gia các hoạt động lễ hội, lễ cƣới, biểu diễn văn nghệ, còn trong sinh hoạt hàng
ngày họ mặc trang phục nhƣ ngƣời Kinh. Đây là điểm khác biệt của ngƣời
Khmer Giồng Riềng so với ngƣời Khmer ở các tỉnh nhƣ Trà Vinh, Sóc Trăng
và An Giang, là một thực tế đáng quan tâm nhằm có biện pháp bảo tồn các giá
trị văn hóa này trong ngƣời Khmer Giồng Riềng. (Xem hình 2.6).
2.2. Vai trò của Phật giáo Nam tông đối với ngƣời Khmer huyện
Giồng Riềng
2.2.1. Thời kỳ kháng chiến
Phật giáo Nam tông Khmer Giồng Riềng đóng vai trò tích cực trong sự
nghiệp độc lập dân tộc, thống nhất đất nƣớc trƣớc đây, luôn sát cánh cùng
cộng đồng các tôn giáo, dân tộc trên địa bàn huyện, đóng góp sức ngƣời, sức
của cho kháng chiến. Trong suốt hai thời kỳ chống Pháp và Mỹ, Phật giáo
Nam tông luôn thể hiện vai trò của mình trong đòi bình đẳng về tôn giáo,
chống lại âm mƣu lợi dụng dân tộc Khmer để chống phá cách mạng. Bên
cạnh đó, chùa không chỉ là nơi trao gửi tín ngƣỡng tôn giáo đời thƣờng mà
còn là nơi để ngƣời Khmer lánh nạn hay dùng làm căn cứ kháng chiến.
Sau năm 1954, Mỹ can thiệp vào Việt Nam, cùng với chính quyền
Sài Gòn thực hiện chính sách lấy Công giáo để đồng hóa tôn giáo. Đặc biệt
với ngƣời Khmer Nam Bộ, chúng tạo dựng mâu thuẫn, kích động tƣ tƣởng
hẹp hòi, chia rẽ dân tộc, bài xích Phật giáo Nam tông Khmer, cấm dạy chữ
Pali và chữ Khmer trong chùa. Vừa đàn áp cấm đoán, vừa dụ dỗ mua chuộc
bằng tiền bạc, cách ly sƣ sãi và Phật tử Khmer với cách mạng [9, 61-68].
Vào ngày 28-8-1968, Hội ĐKSSYN đƣợc thành lập. Ngày 10-6-1974,
sƣ sãi và Phật tử Khmer của 72 ngôi chùa Nam tông Khmer trong tỉnh, trong
đó có huyện Giồng Riềng đã biểu tình, chống lại việc bắt sƣ sãi đi lính. Bốn
31
vị sƣ đã hy sinh trong cuộc biểu tình này, để ngƣời Khmer Kiên Giang cũng
nhƣ ở huyện Giồng Riềng lấy đó làm niềm tự hào, tự tôn dân tộc.
2.2.2. Thời kỳ thống nhất đất nước và đổi mới
Phật giáo Nam tông Khmer Giồng Riềng luôn đồng hành cùng Phật tử,
hƣởng ứng và đóng góp vào công cuộc đổi mới đất nƣớc, giáo dục, nâng cao
nhận thức, ý thức của Phật tử, thực hiện tốt các chủ trƣơng của Đảng, chính
sách pháp luật của Nhà nƣớc, tích cực lao động, học tập nâng cao đời sống vật
chất lẫn tinh thần.
Phật giáo Nam tông Khmer Giồng Riềng góp phần cùng chính quyền
địa phƣơng quản lý chùa chiền, sƣ sãi, Phật tử, tổ chức các hoạt động tôn giáo
trong khuôn khổ pháp luật.
Các vị sƣ sãi cùng ngƣời Khmer Giồng Riềng tham gia trong các cấp
chính quyền, UBMTTQ Việt Nam và các đoàn thể chính trị-xã hội, phát huy
vai trò của mình là chiếc cầu nối thực hiện tốt các việc đời, việc đạo. Đặc biệt
là tham gia vào MTTQ huyện, ứng cử đại biểu HĐND xã, huyện, tỉnh. (Xem
hình 2.7).
Và đặc biệt, vai trò xuyên suốt của Phật giáo Nam tông đối với ngƣời
Khmer Giồng Riềng ở mọi thời kỳ, đó là trở thành hệ giá trị tinh thần không
thể thiếu để họ dựa vào trong quá trình tồn tại và phát triển.
2.3. Ảnh hƣởng của Phật giáo Nam tông đối với đời sống văn hóa
tinh thần ngƣời Khmer huyện Giồng Riềng
2.3.1. Ảnh hưởng đến tín ngưỡng
Ngƣời Khmer Giồng Riềng hầu hết là sống bằng nghề nông, trồng trọt
và chăn nuôi, một số ít làm nghề buôn bán, nên trong quan niệm dân gian
nƣớc, gió, lửa, trời, đất, Mặt trời, Mặt trăng… là những sự vật, hiện tƣợng gắn
liền với đời sống tâm linh của họ và có năng lực huyền bí: mƣa có thuận, gió
có hòa hay không hoàn toàn lệ thuộc vào các lực lƣợng này... Cuộc sống có
yên ổn hay không phải do các vị thần đó là Arak (thần bảo hộ dòng họ), Neak
32
ta (thần bảo hộ), Teevada (các thiên thần chăm sóc thế gian). Hằng năm,
ngƣời Khmer Giồng Riềng tổ chức các nghi lễ để cầu khẩn các vị thần này
ban cho cuộc sống gia đình bình an, hạnh phúc, mƣa gió thuận hòa, mùa
màng tƣơi tốt. Ở Giồng Riềng có hai vụ lúa Đông Xuân và Hè Thu kéo dài từ
tháng mƣời năm trƣớc đến tháng tƣ âm lịch năm sau, do vụ mùa ở đây không
hoàn toàn lệ thuộc vào mùa mƣa mà có thể chủ động về nguồn nƣớc ngọt
quanh năm. Đây là một đặc điểm tự nhiên thuận lợi cho ngƣời Khmer Giồng
Riềng, từ đặc điểm này mà các lễ hội tôn giáo, lễ hội dân tộc cũng diễn ra
nhiều nhất trong thời gian này.
Tôn giáo sơ khai ban đầu của ngƣời Khmer là Bàlamôn giáo, sau đó
Phật giáo Nam tông đã thay thế và trở thành tôn giáo dân tộc của ngƣời
Khmer. Cả hai tôn giáo này, đặc biệt là Phật giáo Nam tông, có ảnh hƣởng
mạnh mẽ đến tín ngƣỡng dân gian của ngƣời Khmer. Tín ngƣỡng dân gian
đƣợc hình thành trong quá trình sinh sống và phát triển lâu đời của ngƣời
Khmer, nhƣng hầu nhƣ các tín ngƣỡng dân gian này đều mang triết lý nhân
sinh của Phật giáo. Hầu hết trong các nghi thức hành lễ của tín ngƣỡng dân
gian đều có sƣ sãi tham gia hành lễ, tụng niệm kinh Phật hoặc chứng kiến.
Vai trò của sƣ sãi luôn ở vị trí quan trọng và đứng đầu các hoạt động này, từ
nội dung đến phân công thực hiện, và tất cả những ngƣời tham gia đều tuân
theo ý kiến của các nhà sƣ. (Xem hình 2.8).
2.3.2. Ảnh hưởng đến giá trị và bản sắc văn hóa
C. Mác viết: “…tôn giáo là sự tự ý thức và sự tự cảm giác của con
ngƣời chƣa tìm đƣợc bản thân mình hoặc đã để mất bản thân mình một lần
nữa. Nhƣng con ngƣời không phải là một sinh vật trừu tƣợng, ẩn náu đâu đó ở
ngoài thế giới. Con ngƣời chính là thế giới con ngƣời, là nhà nƣớc, là xã hội.
Nhà nƣớc ấy, xã hội ấy sản sinh ra tôn giáo, tức thế giới quan lộn ngƣợc.”
[42, 414].
33
Ph. Ăngghen viết: “…tất cả tôn giáo chẳng qua chỉ là sự phản ánh
hƣ ảo - vào trong đầu óc của con ngƣời - của những lực lƣợng ở bên ngoài
chi phối cuộc sống hàng ngày của họ; chỉ là sự phản ánh trong đó những
lực lƣợng ở trần thế đã mang hình thức những lực lƣợng siêu trần thế .”
[45, 329].
Tôn giáo là sản phẩm của con ngƣời, tôn giáo là một trong các lĩnh vực
của văn hóa. Tôn giáo và văn hóa có mối quan hệ hữu cơ chặt chẽ trong quá
trình hình thành và phát triển. Theo đó, Phật giáo Nam tông có ảnh hƣởng đến
đời sống văn hóa của ngƣời Khmer, trong đó có ngƣời Khmer Giồng Riềng.
Ngôi chùa Phật giáo Nam tông là nơi thể hiện tâm tƣ tình cảm, sự gắn
bó của Phật tử đối với Phật giáo Nam tông, sự đoàn kết của dân tộc Khmer
quá trình sinh sống cùng các dân tộc khác trên mảnh đất Giồng Riềng, là nơi
diễn ra lễ hội nhƣ một dịp để cộng đồng dân tộc này thể hiện bản sắc, và chùa
đƣợc xem là trung tâm lƣu giữ, bảo tồn những thƣ tịch cổ, kinh sách, là nơi
truyền thụ giáo lý kinh điển của Phật giáo, là nơi dạy chữ Pali cho các thế hệ
Khmer. Chùa gần giống nhƣ trƣờng, thực hiện chức năng giáo dục cho ngƣời
Khmer từ khi còn rất nhỏ, các sƣ sãi trong chùa đƣợc tôn sùng nhƣ hiện thân
của Phật, là ngƣời thầy khai sáng “vô minh” cho Phật tử. (Xem hình 2.9).
Nhƣ vậy, chùa với chức năng xã hội của mình đã phản ánh sắc thái văn
hóa của ngƣời Khmer nơi đây. Cũng chính chức năng đó đã gắn chặt ngƣời
Khmer với Phật giáo Nam tông, với họ, việc xa rời chùa cũng chính là tự
đánh mất bản sắc văn hóa của dân tộc mình. Cho đến nay, trải qua thời gian
khá dài, ngƣời Khmer cùng sinh sống với các dân tộc khác, nhƣng bản sắc
văn hóa của họ vẫn đƣợc thể hiện một cách đặc sắc và rõ nét, bởi Phật giáo
Nam tông đã góp phần quan trọng và cốt yếu trong việc cố kết cộng đồng này.
Dƣới đây là một số lĩnh vực cụ thể.
Về ngôn ngữ: ngƣời Khmer Giồng Riềng từ khi sinh ra và lớn lên đã
đƣợc sống trong một môi trƣờng thuần nhất, nên việc biết nói tiếng mẹ đẻ là
34
tất yếu. Ngƣời Khmer luôn dùng tiếng nói của dân tộc mình để giáo dục thế
hệ sau. Dù sử dụng tiếng nói, chữ viết phổ thông trong sinh hoạt, nhƣng khi
về với gia đình họ giao tiếp với nhau vẫn là tiếng Khmer. Việc học chữ
Khmer và chữ Pali đƣợc tổ chức tại các chùa hoặc tại các trƣờng dân tộc nội
trú. Một số ít ngƣời Khmer sống xen kẽ với dân tộc khác nên họ nói tiếng
Khmer còn hạn chế, một số ít ngƣời già, ngƣời không có điều kiện đi học
không biết viết chữ Khmer và Pali.
Ở lĩnh vực này, Phật giáo Nam tông Giồng Riềng đóng một vai trò rất
quan trọng trong việc bảo tồn và lƣu giữ tiếng nói, chữ viết Khmer và Pali,
khi mà toàn huyện chỉ có một trƣờng phổ thông dân tộc nội trú với khoảng
250-300 học sinh mỗi năm. Các chùa trong huyện đã góp phần giải quyết nhu
cầu học chữ Khmer, trở thành nơi dạy ngôn ngữ, sƣ sãi là thầy giáo. Hằng
năm vào dịp nghỉ hè, các chùa đều tổ chức lớp học song ngữ để góp phần giữ
gìn tiếng nói và chữ viết Khmer. Các dịp hè từ năm 2014 đến năm 2018, có
13/14 điểm chùa có tổ chức dạy chữ Khmer với 265 lớp và 7.155 em theo học
[50]. Có 10/14 điểm chùa có thƣ viện, dù lớn nhỏ khác nhau, đều trang bị
sách, báo, tài, liệu, tivi, video… phục vụ cho việc này [ 46].
Tuy nhiên, trong quá trình cộng cƣ, sự tác động của cuộc sống đòi hỏi
ngƣời Khmer phải tiếp thu nhiều nền văn hóa khác nhau, họ phải thay đổi
cuộc sống, phải thích nghi với yêu cầu xã hội… đã làm cho các giá trị văn
hóa, trong đó có ngôn ngữ, chữ viết có nguy cơ mai một. Việc dạy và học chữ
viết, tiếng nói của dân tộc đang gặp rất nhiều khó khăn. Phần lớn các em nhỏ
chỉ đƣợc học vào các dịp hè, không đủ thời gian để có thể đọc, viết, nói một
cách thuần thục. Bên cạnh đó, kinh phí, sách giáo khoa cũng là vấn đề. Một
nguyên nhân khác là, ngày trƣớc tục đi tu báo hiếu còn đƣợc thanh niên
Khmer tích cực tham gia nhƣ một nghĩa vụ cao cả và bắt buộc, nhƣng nay do
điều kiện kinh tế, họ phải bỏ xứ đi làm ăn xa, không vào chùa tu hoặc tu với
thời gian ngắn hơn. Từ đó, không đủ thời gian để lực lƣợng này tiếp tục học
35
chữ Khmer, có rất nhiều thanh niên huyện Giồng Riềng ngày nay nói thạo
tiếng mẹ đẻ nhƣng lại không viết đƣợc, một số ít nói không thông thạo và
không biết viết.
Về văn học nghệ thuật: văn học dân gian Khmer rất phong phú, gồm
tục ngữ, dân ca, truyện dân gian. Tục ngữ Khmer thƣờng là những tổng kết về
kinh nghiệm hay những nhận xét và khuyên răn, đƣợc gọi chung là Xôphia –
Xết. Đặc điểm nổi bật của truyện dân gian, truyền thuyết Khmer là “phản ánh
nét đặc thù trong quá trình khai thiên, lập địa, mở mang địa phận trên vùng
đồng bằng sông nƣớc Cửu Long sình lầy, hoang vu, ngập nƣớc và nhiều thú
dữ.” [12, 8-9].
Bên cạnh đó còn có các tác phẩm đƣợc chép trên các tập lá buông,
thƣờng gọi là Sa-tra rƣơng (Sa-tra truyện) [48, 50-54]. Hiện nay ở Giồng
Riềng vẫn còn lƣu truyền bốn loại chính nhƣ sau: Sa-tra rƣơng, Sa-tra lô
beng (Sa-tra giải trí), Sa-tra chơ băp (Sa-tra luật giáo huấn), Sa-tra tês (Sa-
tra kinh kệ).
Qua khảo sát tại các chùa, theo lời kể của sƣ sãi, hiện văn học dân gian
Khmer Giồng Riềng vẫn còn lƣu truyền những câu chuyện nhƣ Rìahu (sự tích
nhật thực, nguyệt thực), Nàng Mêkhalang (giải thích hiện tƣợng sấm sét), Một
kiếp luân hồi… Văn học dân gian Khmer Giồng Riềng hiện vẫn còn lƣu
truyền những câu chuyện giải thích về các lễ hội truyền thống dân tộc, mang
đậm dấu ấn của Phật giáo Nam tông, nhƣ: Chôl Chnam Thmây, Sene Đôn Ta,
Ok Om Bok….
Qua lời kể của những ngƣời Khmer lớn tuổi tại Giồng Riềng, các thế hệ
trong gia đình cũng thƣờng hay dùng ca dao, tục ngữ, bài hát dân gian mang ý
nghĩa giáo dục để dạy dỗ con cháu đời sau. Kho tàng tục ngữ, ca dao, dân
gian của ngƣời Khmer ngoài nói về lời dạy của ngƣời xƣa về cách làm ngƣời,
về phong tục tập quán, còn có những câu ca dao, tục ngữ nói về lời dạy của
Phật, nhƣ: “Ngƣời không đƣợc tu là tội lỗi”; “Chèo xuồng đừng quên cây
36
dầm, ngƣời theo đạo đừng quên chùa chiền”; “Muốn biết phải hỏi À cha.
Muốn ăn hoa quả phải đốt gốc cây”; “Vƣợn không quen rừng, ngƣời theo đạo
không quen chùa”; “Nƣớc chảy chƣa bao giờ mệt, Phật chƣa bao giờ giận”;
“Lúc trẻ phải biết trau dồi tri thức, lớn lên phải biết giữ của, đến khi già phải
biết tu thân, lúc lìa trần phải biết niệm Phật”…
Nghệ thuật Khmer thể hiện rõ nét nhất trên hai lĩnh vực: nghệ thuật
biểu diễn và nghệ thuật tạo hình.
Đối với nghệ thuật biểu diễn, có các loại hình nhƣ Dù Kê, sân khấu Rô
Băm, âm nhạc, múa… Tất cả các loại hình nghệ thuật biểu diễn này ít nhiều
đều chịu ảnh hƣởng của nhạc lễ Phật giáo. Nhƣng theo đà phát triển và trong
quá trình cùng sinh sống với các dân tộc Kinh, Hoa, Chăm… chúng đã trở
nên gần gũi hơn với đời sống ngƣời Khmer và mang hơi hƣớng của âm nhạc
vùng sông nƣớc Nam Bộ. Hiện ở Giồng Riềng không còn lƣu giữ sách hƣớng
dẫn hay ghi chép lại các loại hình nghệ thuật biểu diễn trên; tuy nhiên, các sƣ
sãi, nghệ nhân lớn tuổi có thể hƣớng dẫn cho mọi ngƣời biểu diễn các điệu
múa, biểu diễn âm nhạc bằng chính trí nhớ và kinh nghiệm của mình, có một
số ít nghệ nhân và các vị sãi cả, các vị thuộc ban quản trị ghi chép lại trong sổ
tay.
Nhƣng có một thực tế đáng buồn là nhiều năm qua ở nhiều chùa trên
địa bàn huyện đã không còn diễn Rô Băm nữa, vì các nghệ nhân của lớp trƣớc
nay đã mất, lớp trẻ không ai truyền dạy, mặt khác là kinh phí để phục dựng và
mua sắm đạo cụ, tập luyện không có hoặc không đủ. Tại các chùa Giồng Đá,
Thác Lác, Thạnh Lợi, một thời có các loại hình nghệ thuật biểu diễn rất sôi
nổi của ngƣời Khmer, nhƣng nay chỉ còn lại một số dụng cụ biểu diễn nhƣ
mặt nạ, mũ mão, dầm… Hiện nay, tại các chùa còn duy trì và gìn giữ đƣợc ca
múa nhạc và Dù Kê. Đây đƣợc xem là tâm huyết và là tinh thần dân tộc của
các vị sƣ sãi và ngƣời Khmer trƣớc những khó khăn khi hội nhập và giao thoa
37
văn hóa, sự cạnh tranh của các loại hình nghệ thuật cũng phần nào tác động
đến thị hiếu, sở thích của ngƣời thƣởng thức.
Chùa Khmer Giồng Riềng là một công trình mang tính nghệ thuật, là
nơi thể hiện rõ nhất tinh hoa văn hóa kiến trúc Khmer. Những nét kiến trúc
của chùa còn thể hiện triết lý Phật giáo rất sâu sắc, là sự hòa quyện giữa Phật
giáo và Bàlamôn giáo. Chùa Phật giáo Nam tông có thể nói vừa là trung tâm
văn hóa vừa là không gian văn hóa đặc sắc Khmer. Ngoài tƣợng Phật, trong
chùa còn có các tƣợng thần Bàlamôn giáo đã dung hợp với tƣ tƣởng Phật giáo
hoặc tƣ tƣởng Khmer. Chùa có cả các tƣợng linh vật trong truyền thuyết, nhƣ:
thần rắn Naga, tƣợng rồng; tƣợng Reach cha sei. (Xem hình 2.10).
Hội họa Khmer đƣợc thể hiện qua các bức tranh vẽ trong chính điện,
trên trần nhà hoặc trên các vách tƣờng của chùa. Những bức tranh kể về cuộc
đời của Phật trong suốt hành trình xuất gia, tu hành, đắc đạo, nhập Niết bàn…
Rồi các bức tranh về các vị thần Bàlamôn giáo. (Xem hình 2.11).
Trong những năm qua đã có 8 chùa đƣợc sửa chữa trùng tu hoặc xây
mới với tổng kinh phí trên 7,5 tỉ đồng, trong đó ngân sách tỉnh, huyện hỗ trợ
455 triệu đồng. Tuy nhiên, vẫn còn một số chùa việc sửa chữa trùng tu hoặc
xây mới kéo dài do thiếu kinh phí đầu tƣ xây dựng, ảnh hƣởng đến chất lƣợng
công trình, một số ít còn không xin phép [61, 2-13]. Một số chùa trong huyện
xuống cấp trầm trọng cần tôn tạo, trùng tu nhƣng chƣa có kinh phí. Mặt khác,
có hiện tƣợng Phật tử cúng dƣờng đến đâu xây dựng đến đó, nên xây dựng
đƣợc hạng mục này thì hạng mục khác lại xuống cấp. (Xem hình 2.12).
Về lễ hội: Ta có thể thấy tôn giáo và lễ hội có mối quan hệ khăng khít,
nhƣng không phải là đồng nhất. Thƣờng thì lễ hội nào cũng ít nhiều hàm chứa
yếu tố tín ngƣỡng, nhƣng không phải lễ hội nào cũng là lễ hội tôn giáo. Tôn
giáo có thể là tiền đề của lễ hội. Điều này dễ nhận thấy qua các lễ hội của
ngƣời Khmer Nam bộ. Đa số các lễ hội của họ đều mang dấu ấn Phật giáo.
Các lễ hội (dù bắt nguồn từ Phật giáo hay từ dân gian) đều thể hiện rõ vai trò
38
của nhà sƣ và chùa Khmer. Trong chừng mực nhất định, tôn giáo vẫn là chỗ
dựa tinh thần của lễ hội, qua đó góp phần giúp con ngƣời thêm sức mạnh
củng cố niềm tin vƣơn tới chân, thiện, mỹ, lạc quan hƣớng tới tƣơng lai.
Chính vì vậy, khi nói đến lễ hội tôn giáo là nói đến lễ hội gắn với niềm tin, tín
ngƣỡng [53, 6].
Lễ hội Khmer gồm hai loại là lễ hội dân tộc và lễ hội tôn giáo, trong đó
lễ hội tôn giáo có nguồn gốc từ Phật giáo và do các sƣ sãi tổ chức trong khuôn
viên chùa, lễ hội dân tộc là những ngày lễ bắt nguồn từ đời sống sinh hoạt
hằng ngày cũng nhƣ cuộc sống lao động của ngƣời Khmer, ít nhiều bị ảnh
hƣởng bởi yếu tố tôn giáo.
Ngƣời Khmer Giồng Riềng hằng năm có nhiều ngày lễ dân tộc gắn với
tín ngƣỡng, văn hóa, truyền thống của mình, đƣợc tổ chức trong khuôn viên
các chùa hoặc khoảng đất trống, với sự tham gia của toàn thể cộng đồng.
Chƣơng trình hành lễ do vị sƣ trụ trì soạn thảo. Vào dịp lễ, Phật tử tập trung
đến chùa để cử hành lễ. Ngƣời Khmer trong năm có khoảng 30 lễ lớn nhỏ
đƣợc tổ chức định kỳ và không định kỳ. Có những lễ nằm trong lễ nhƣ ở lễ tết
Chôl Chnăm Thmây có lễ tắm Phật, lễ cầu siêu cho những ngƣời đã khuất,
hay lễ đắp núi cát... Có một số lễ vẫn còn giữ đƣợc giá trị nguyên bản và có
một số lễ không còn nữa nhƣ lễ “cắt tóc để trả ơn mụ” giờ là đám đầy tháng
cho em bé, hay lễ cƣới của ngƣời Khmer hiện nay đã có nhiều thay đổi do quá
trình cùng sinh sống với các dân tộc khác trên địa bàn.
Xin đơn cử ba lễ hội dân tộc quan trọng dƣới đây, thể hiện rõ nét ảnh
hƣởng của Phật giáo Nam tông:
- Chôl Chnăm Thmây (lễ vào năm mới, tết chịu tuổi): Tết cổ truyền
Chôl Chham Thmây đƣợc tổ chức vào tháng Chết trong ba ngày 13, 14, 15
tháng 4 dƣơng lịch. Ngày thứ nhất (Sangkran): Buổi sáng, Phật tử tập trung về
chùa lễ bái Tam Bảo; buổi trƣa làm lễ trai tăng và đọc kinh hồi hƣớng phƣớc
báu, sau đó dùng cơm; buổi chiều, ngƣời dân đến chùa làm lễ đón năm mới,
39
xếp hàng đi ba vòng quanh chính điện, sau đó lễ bái Tam bảo; việc đi vòng
quanh chính điện ba lần là để tƣởng nhớ huyền thoại Thomabal và Kabil
Maha Prum – thần Bốn mặt – vì thua trí hoàng tử Thômabal nên đã tự cắt đầu
mình. Ngày thứ hai (Wonbót): Buổi sáng, lễ bái Tam bảo, chƣ tăng và Phật tử
tập trung ở chánh điện phát nguyện thọ trì tam quy ngũ giới; rồi các cấp các
ngành đến thăm chúc tết; đến trƣa là lễ đặt bát hội và lễ trì bình, sau đó sƣ
tăng đọc kinh và thọ thực; buổi chiều là lễ đắp núi cát, một số chùa thì đắp núi
gạo, ý nghĩa là tích đức, tích phƣớc; chiều và tối, lễ bái Tam bảo, nghe sƣ
thuyết pháp và chƣơng trình văn nghệ. Ngày thứ ba (Lơn Sắt): Buổi sáng và
trƣa, sƣ sãi cùng Phật tử hành lễ bái Tam bảo, trai tăng, tất cả tập trung trƣớc
giác linh hòa thƣợng, những vị sƣ đã quá cố để làm lễ cầu siêu tại tháp cốt của
chùa; buổi tối là chƣơng trình văn nghệ cộng đồng, lễ tết Chôl Chnăm Thmây
kết thúc. (Xem hình 2.13).
- Sene Đôn Ta (lễ cúng ông bà): Lễ đƣợc tổ chức vào cuối tháng 8 âm
lịch, cày cấy đã xong. Trƣớc khi vào những ngày lễ chính thức, từ ngày 16-8
âm lịch, các chùa tổ chức lễ cô hồn. Phật tử mang đồ cúng đến chùa đặt ở tám
hƣớng quanh chánh điện để vị Achar làm lễ cúng cô hồn. Sau lễ tụng kinh,
Phật tử thắp nhang, đốt nến, đặt đồ cúng quanh tháp cốt để cúng cô hồn.
Trong những ngày này, họ dâng cơm cho sƣ tăng, đƣợc vo thành nắm, và liên
tục hằng ngày không gián đoạn. Ngày nay, tại huyện Giồng Riềng đã có thay
đổi trong nghi lễ này, cơm đƣợc dâng cho sƣ tăng trong vài ngày mang tính
tƣợng trƣng. 30-8 là ngày chính thức của lễ Đônta. Buổi sáng, ngƣời Khmer
dâng cơm cho sƣ sãi và thỉnh vong linh ông bà về chùa để nghe kinh kệ, buổi
chiều là lễ thỉnh ông bà về nhà an nghỉ. Hôm sau gia đình lại thỉnh sƣ sãi về
nhà đọc kinh lần cuối trƣớc khi tiễn vong linh ông bà về cõi âm.
- Okombok (lễ cúng trăng, đút cốm dẹp): Lễ đƣợc tổ chức vào ngày
trăng tròn, 15-10 âm lịch. Theo truyền thuyết thì ngƣời Khmer cho rằng trăng
là một vị thần bảo hộ cho mùa màng, trong các tuần trăng trong năm thì tuần
40
trăng tròn tháng 10 là trăng sáng nhất. Mọi ngƣời đến tham dự đều đƣợc các
sƣ sãi hành lễ đút cốm dẹp và cầu chúc những điều tốt đẹp, thuận lợi trong
cuộc sống. Lễ Okombok mang ý nghĩa tín ngƣỡng thần nƣớc của cƣ dân nông
nghiệp lúa nƣớc. Và khi Phật giáo Nam tông trở thành tôn giáo của ngƣời
Khmer thì đã ảnh hƣởng rất rõ nét đến lễ Okombok. Hằng năm, lễ Okombok
đƣợc tổ chức ở hầu hết 14 chùa Phật giáo Nam tông trong huyện. Đầu giờ
chiều ngày 15-10 âm lịch, ngƣời tham dự mang đồt lễ đƣợc bày trên mâm nhƣ
cốm dẹp, chuối, khoai lang, dừa tƣơi, bánh, vải, nhãn… không cúng thức ăn
mặn. Họ tập trung trƣớc bàn thờ Chƣ thiên để nghe sƣ sãi đọc kinh, thuyết
pháp, kể về sự tích lễ Okombok. Sau đó các nhà sƣ rảy nƣớc ban phƣớc lành,
cầu mạnh khỏe, cầu chúc tốt đẹp đến mọi ngƣời. Cuối buổi lễ, các nhà sƣ sẽ
đút cốm dẹp cho ngƣời tham dự. Nhân dịp này, hằng năm ngƣời Khmer
Giồng Riềng đều tổ chức hội đua ghe ngo trên sông Thạnh Hƣng, thu hút
hàng chục nghìn lƣợt nhân dân và du khách đến xem và cổ vũ. Ngoài ra, một
số chùa còn tổ chức thả đèn gió, nhƣng hiện nay do điều kiện kinh phí và
nghệ nhân không còn nhiều nữa, kỹ thuật làm đèn gió dần mai một. Kỹ thuật
sửa chữa và đóng mới ghe ngo, kỹ thuật đua ghe ngo, hay dụng cụ, kỹ thuật
làm đèn gió đều đƣợc lƣu giữ tại các chùa và sƣ sãi vẫn đóng vai trò chủ chốt
trong việc gìn giữ, lƣu truyền các loại hình văn hóa này. (Xem hình 2.14).
Nhìn chung, ngƣời Khmer Giồng Riềng vẫn còn lƣu giữ đƣợc những
nội dung cơ bản của lễ hội dân tộc mình, trong đó yếu tố tôn giáo và vai trò
của sƣ sãi có ảnh hƣởng nhất định, thể hiện trong hầu hết các nội dung của lễ
hội, và đƣợc quy cách hóa thành những giá trị văn hóa cốt yếu bền vững của
dân tộc.
Tuy nhiên, những hoạt động lễ hội này cũng trở thành cơ hội cho các
phần tử xấu lợi dụng lúc ngƣời dân tụ họp đông đúc để thực hiện các hoạt
động mê tín nhƣ lên đồng, bói quẻ, đánh bạc… thậm chí tuyên truyền chống
phá. Bên cạnh đó, việc tham gia quá nhiều lễ hội đã ảnh hƣởng không nhỏ
41
đến đời sống vật chất lẫn tinh thần của ngƣời Khmer: sao nhãng công việc,
con em thiếu tập trung học hành, chi phí lễ hội làm tốn kém cho các gia đình,
tình hình an ninh trật tự tại các hoạt động lễ hội đôi lúc chƣa tốt. Có các chùa,
phum, sóc, ấp tổ chức lễ hội chƣa đúng quy định. Một số lễ hội bị biến tƣớng;
chƣa thể hiện đƣợc hết sắc thái văn hóa cổ truyền.
Về phong tục, tập quán: Phong tục, tập quán là hệ thống các quy tắc,
yêu cầu đòi hỏi đƣợc xác lập nhằm củng cố những mẫu mực giao tiếp, ứng xử
trong các cộng đồng ngƣời, các quy tắc sinh hoạt công cộng lâu đời của con
ngƣời đƣợc hình thành qua quá trình lịch sử lặp đi lặp lại nhiều lần, trở thành
thói quen trong lao động, trong cuộc sống hằng ngày, và trong bảo vệ môi
trƣờng của các cộng đồng xã hội [66].
Cũng nhƣ các dân tộc khác, ngƣời Khmer có những phong tục, tập
quán riêng của mình, gắn liền với cuộc sống, với vòng đời của mình, nhƣ các
nghi lễ trong đời ngƣời, chu kỳ lao động sản xuất. Tất cả các nghi lễ trong
phong tục tập quán đó lại chứa đựng yếu tố Phật giáo Nam tông. Hiện nay,
ngƣời Khmer Giồng Riềng còn những phong tục, tập quán nhƣ:
- Pithi kát chúp (tục giáp tuổi): Khi con trai đƣợc 12 tuổi, gia đình tổ
chức lễ giáp tuổi để mừng và cũng để tạ ơn thần thánh đã phù hộ cho con họ
đƣợc khỏe mạnh; lễ này còn có ý nghĩa xua đuổi ma quỷ không cho đến gần
đứa trẻ.
- Pithi Apea Pipea (tục cƣới hỏi): Lễ cƣới của ngƣời Khmer Giồng
Riềng đƣợc tổ chức theo nghi lễ truyền thống. Nó luôn có sự hiện diện của
nhà sƣ để tụng kinh. Họ quan niệm việc này sẽ đem lại hạnh phúc cho đôi trẻ.
- Kathin nat tean (tục dâng áo cà sa): Dành cho các nhà sƣ, bắt đầu sau
ngày xuất hạ, từ ngày 16-9 đến 15-10 âm lịch, ở Giồng Riềng mỗi chùa chỉ
đƣợc tổ chức lễ Kathin một lần và do nhà chùa quyết định ngày tổ chức lễ.
42
- Tục chúc thọ: Khi ông bà, cha mẹ, thầy cô đến tuổi thì con cháu tổ
chức chúc thọ nhằm thể hiện lòng hiếu kính. Trong buổi lễ có nhà sƣ tụng
niệm để cầu phƣớc cho những ngƣời có ơn đƣợc sống khỏe mạnh và sống thọ.
- Bon sâp (đám ma): Ngƣời Khmer Giồng Riềng hay nói là “Bon
lớtsop”. Theo quan niệm của ngƣời Khmer Giồng Riềng, chết không phải là
sự chấm dứt, mà linh hồn của ngƣời chết vẫn còn tồn tại ở thế giới bên kia,
chết là trả hết nợ đời, là giải thoát. Ngay khi còn sống mỗi ngƣời Khmer đề có
tâm nguyện khi chết đƣợc gửi tro cốt lên chùa, để đƣợc gần gũi Phật [10].
Ngƣời Khmer chết sẽ hỏa táng, một số ít địa táng giống nhƣ ngƣời kinh, có
trƣờng hợp địa táng một thời gian sau đó lấy cốt lên hỏa táng, trƣờng hợp này
hiện nay ở huyện Giồng Riềng không còn. Trong khi đó ngƣời Khmer ở tỉnh
Trà Vinh và Sóc Trăng vẫn còn phong tục địa táng một thời gian sau đó lấy
cốt lên hỏa táng gửi vào chùa. Ngƣời Khme quan niệm rằng “sống gửi của,
thác gửi cốt” [60, 136]. Các vị sƣ sãi và acha có mặt suốt trong quá trình làm
tang lễ, nhƣng nhìn chung đám tang của ngƣời Khmer Giồng Riềng đơn giản
và không quá bi lụy vì họ tin rằng ngƣời chết đã về với Phật. Tuy nhiên, đám
tang của các vị sƣ sãi đƣợc tổ chức linh đình và long trọng hơn để thể hiện sự
tôn kính của Phật tử đối với các vị sƣ sãi – hiện thân của Phật. Trƣớc đây,
ngƣời Khmer Giồng Riềng thƣờng hỏa táng ở những khoảng đất trống gần
nhà hoặc thổ táng trong khuôn viên chùa, tẩm liệm sơ sài. Phong tục này đã
gây ảnh hƣởng đến môi trƣờng. Ngày nay, tại các chùa đều có lò hỏa táng,
nhƣng vẫn rất sơ sài, đốt bằng củi, khói và mùi từ việc hỏa táng lan rộng ra
xung quanh, một số hộ dân còn tự tổ chức hỏa táng tại nhà. Đây là vấn đề mà
các tổ chức đoàn thể ở Giồng Riềng rất quan tâm tuyên truyền vận động họ
hỏa táng tập trung tại chùa, ngân sách hằng năm có hỗ trợ cho việc xây dựng,
sửa chữa các lò hỏa táng tại chùa. Tuy nhiên, việc chấp hành vẫn chƣa tốt.
(Xem hình 2.15).
43
- Bonđa (tục dâng phƣớc): Ngƣời Khmer Giồng Riềng thƣờng gọi tắt là
“đám làm phƣớc”, phong tục này giống nhƣ “đám mần tuần” của ngƣời Kinh
ở Nam bộ. Tổ chức khi ngƣời chết đƣợc bảy ngày (đối với trẻ con) hay chín
ngày (đối với ngƣời lớn) nhằm dâng phƣớc lành cho ngƣời đã khuất. Trong lễ
dâng phƣớc có các nghi thức Phật giáo đan xen.
- Bon khuop 100 thngai, khuop chnam (tục làm giỗ): Lễ này đƣợc tổ
chức khi ngƣời chết đƣợc 100 ngày hoặc một năm, thì ngƣời trong gia đình tổ
chức đám giỗ để tƣởng nhớ và cầu phƣớc cho vong hồn ngƣời chết. Vào buổi
tối, họ mời sƣ sãi đến tụng kinh, sáng hôm sau dâng cơm cho các vị sƣ sãi,
sau khi dùng cơm thì tiếp tục đọc kinh và kết thúc buổi lễ.
- Tục đi tu: Ngƣời Khmer có câu: “Ngƣời không đƣợc tu trong chùa là
ngƣời có nhiều tội lỗi trong đời sống”. Con trai Khmer lớn lên phải đi tu, tu
không phải để thành Phật mà để báo hiếu vừa để học làm ngƣời có tƣ cách, có
đạo đức, có trí tuệ, tu là để tích phƣớc cho gia đình, ngƣời Khmer từ khi sinh
ra đã là Phật tử, lớn lên lại đƣợc giáo dục theo giáo lý của Phật giáo.
- Pithi kat sâk bâng kâk chmâp (tục cắt tóc trả ơn mụ): Đƣợc tổ chức
khi đứa trẻ chào đời đƣợc bảy ngày, trong lễ này đứa trẻ sẽ đƣợc cắt tóc hay
cạo đầu, cột chỉ để cầu cho mau lớn, mạnh khỏe và sống lâu, thành đạt, đồng
thời cũng là để cúng bái trả ơn bà mụ đã phù hộ cho việc sinh nở đƣợc bình
an. Ngày nay, tại huyện Giồng Riềng tục này chỉ còn lƣu truyền qua lời kể.
Riêng tục buộc chỉ đỏ để cầu chúc sự tốt đẹp, may mắn, sức khỏe cho khách
mời, thân nhân vẫn còn. (Xem hình 2.16).
Những phong tục tập quán trên đây đã cho thấy tầm ảnh hƣởng sâu
rộng của Phật giáo trong đời sống Khmer. Đối với ngƣời Khmer Giồng Riềng,
giáo lý Phật giáo luôn tồn tại trong suy nghĩ, niềm tin và hành động của mỗi
ngƣời, bởi từ khi mới sinh ra họ hiển nhiên là Phật tử. Sƣ sãi là hiện thân của
Phật, họ thay mặt Phật để phổ độ chúng sinh. Ngƣời Khmer khi đƣợc các sƣ
44
nhận đồ cúng dƣờng đều thấy vinh hạnh và thấy mình đã tạo phƣớc. Ngƣời
Khmer Giồng Riềng quan niệm sống gửi của vào chùa, chết gửi cốt vào chùa,
họ không lo bản thân mình trong hiện tại, mà chỉ lo có tiền để góp xây chùa,
lo cho sƣ sãi để tạo phƣớc cho kiếp sau đƣợc lên Niết bàn, hạnh phúc của họ
đã gửi hết vào chùa và tinh thần đã dựa hết vào Phật. (Xem hình 2.17).
Bên cạnh những giá trị tốt đẹp do Phật giáo Nam tông mang đến, thì
việc sùng đạo quá mức lại khiến cho đời sống ngƣời Khmer Giồng Riềng có
những hạn chế, nhƣ chữa bệnh bằng việc cúng bái thiếu khoa học, bói toán, lễ
lộc chúc tụng gây tốn kém và lãng phí, kỹ thuật canh tác lạc hậu, công cụ lao
động thô sơ. Một bộ phận ngƣời Khmer gửi hết đời sống tinh thần lẫn tƣơng
lai của mình cho Phật, mơ hồ về mục đích sống nên ý chí vƣơn lên trong cuộc
sống còn hạn chế, không đáp ứng đƣợc so với yêu cầu của cuộc sống hiện đại.
Họ có khuynh hƣớng thu mình, bó hẹp vào đời sống tâm linh, còn thụ động
trong việc tiếp thu kiến thức mới, thành tựu khoa học kỹ thuật. Một yếu tố
nữa cần quan tâm là hiện nay một bộ phận không nhỏ ngƣời Khmer còn nhận
thức chƣa rõ ràng về lịch sử dân tộc, về quy luật phát triển.
Từ nhận thức và tín ngƣỡng tôn giáo của mình, ngƣời Khmer Giồng
Riềng đã tạo nên một sự khác biệt đối với các dân tộc khác trên địa bàn, sự
khác biệt đó vừa mang tính độc đáo về bản sắc của một dân tộc nhƣng cũng là
một sự trì trệ và thụ động, tạo nên một sức nặng trong sự phát triển chung của
kinh tế-xã hội Giồng Riềng, mặc dù Đảng và chính quyền đã thực hiện nhiều
chủ trƣơng và kế hoạch, vừa thể hiện sự quan tâm vừa thúc đẩy sự phát triển
cho dân tộc này. Nhƣ vậy, Phật giáo Nam tông bên cạnh những giá trị tốt đẹp
nó mang lại trong đời sống tinh thần con ngƣời, thì vẫn còn những hạn chế
nhất định gây ảnh hƣởng tiêu cực đến đời sống của cộng đồng ngƣời Khmer.
Đây là một vấn đề đòi hỏi sự quan tâm mạnh mẽ và lâu dài của cả hệ thống
chính trị trên địa bàn huyện Giồng Riềng.
2.3.3. Ảnh hưởng đến giáo dục và chuẩn mực đạo đức
45
Phật giáo Nam tông chỉ thờ Phật Thích ca, không thờ các vị Bồ Tát [50,
68]. Đối với chàng trai Khmer, muốn đƣợc coi là ngƣời có đạo đức, phải đi tu
và học tại chùa. Ngƣời Khmer dù tu ở chùa hay ở nhà đều tự coi mình là con
của Phật. Trong quan niệm Khmer, tu không phải để trở thành Phật, mà tu là
để làm ngƣời. Vì thế, “dù là sƣ sãi ở chùa hay dân chúng tại thế thì đều phải
rèn luyện theo đạo pháp: thọ giới, bố thí, niệm.” [19, 216-217].
Hình thức giáo dục “trƣờng-chùa” đã gắn liền với Phật giáo Nam tông
Khmer Giồng Riềng từ lâu đời. Tu tập là phải học và thực hành giới luật là
những điều không đƣợc làm nhằm khắc chế dục vọng của bản thân, từ bỏ việc
ác, thực hành việc thiện để đạt đến sự giải thoát. Giới luật quy định cho từng
đối tƣợng riêng: Đối với tín đồ tại gia phải thực hiện “Ngũ giới” và thập
thiện; sa-di phải giữ 105 giới; tì kheo phải thực hiện đầy đủ các giới, gọi là
“Cụ túc giới” gồm 250 giới.
Đối với cô gái Khmer, quá trình giáo dục đƣợc tiến hành liên tục và có
sự định hƣớng về giới rõ ràng. Trong đời sống truyền thống, khi việc đi tu đối
với chàng trai là phổ biến, tu trong thời gian dài, thì cô gái lại không, tuy
nhiên họ cũng đƣợc đi học chữ ở chùa. Cô gái chủ yếu có vai trò trong gia
đình. Họ phải đảm đƣơng việc nội trợ, chăm sóc, dạy dỗ con cái nhiều hơn...
Trong thời gian này, họ cũng đƣợc học các bài học về văn hóa và ý thức đƣợc
về bản thân mình. Trƣớc kia, một trong những tục quan trọng nhất đối với cô
gái trƣớc khi lấy chồng là tục Chol mo lúp (vào bóng mát). Ngoài việc đánh
dấu sự trƣởng thành của cô gái, nó còn đề cao vai trò của ngƣời phụ nữ trong
cộng đồng [41, 42-50].
Tại Giồng Riềng, trẻ em lên 5-6 tuổi đƣợc cho vào chùa học chữ. Bên
cạnh việc học chữ, các em đƣợc học về kiến thức văn hóa, về phong tục tập
quán dân tộc, tham gia vào các sinh hoạt văn hóa, tụng kinh, niệm Phật vào
các dịp lễ hội tôn giáo, lễ hội dân tộc, đám cƣới, đám ma... Chính các sinh
hoạt văn hóa này đã truyền thụ cho các thế hệ Khmer những chuẩn mực đạo
46
đức của dân tộc mình. Đó là một môi trƣờng vừa giáo dục vừa trải nghiệm,
làm các chuẩn mực đạo đức từ đó ngấm sâu và định hƣớng các hành vi của họ
suốt đời. (Xem hình 2.18).
Tiểu kết chƣơng 2
Ngƣời Khmer đã sinh sống từ lâu trên vùng đất Giồng Riềng. Qua quá
trình lịch sử, hệ thống tổ chức xã hội và đời sống của ngƣời Khmer đã có
nhiều thay đổi để phù hợp với sự đổi mới của đất nƣớc, ví dụ nhƣ nơi sinh
sống của cộng đồng Khmer đƣợc gọi là phum, sóc, và ở Giồng Riềng có thêm
tên gọi là ấp, một đơn vị cộng đồng dân cƣ giống nhƣ ngƣời Kinh. Tín
ngƣỡng tôn giáo, phong tục tập quán, lễ hội dân tộc, lễ hội tôn giáo có phần
thay đổi, có những lễ hội đã đƣợc lƣợc bớt nghi thức, có những phong tục
hiện nay không còn, nhƣng Phật giáo Nam tông vẫn là tôn giáo dân tộc
Khmer. Phật giáo Nam tông luôn đóng vai trò chủ đạo trong việc bảo tồn và
phát huy giá trị văn hóa Khmer, là nhân tố cốt lõi trong giá trị văn hóa Khmer.
Từ vai trò quan trọng đó mà Phật giáo Nam tông có những ảnh hƣởng nhất
định đối với đời sống văn hóa tinh thần ngƣời Khmer. Sự ảnh hƣởng đó có
mặt tích cực và hạn chế.
Tôn giáo, dân tộc và vấn đề đoàn kết tôn giáo, dân tộc là vấn đề đã và
đang đƣợc các quốc gia trên thế giới quan tâm. Bởi tôn giáo, dân tộc là hai
vấn đề gắn liền với sự tồn vong của một thể chế chính trị, và rộng hơn là vấn
đề hòa bình độc lập quốc gia, hòa bình chung của thế giới. Việt Nam trong
thời kỳ hội nhập quốc tế, đang trên đà thực hiện chủ trƣơng “công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nƣớc”, đòi hỏi các cấp các ngành ở huyện Giồng Riềng phải
có biện pháp để phát huy ảnh hƣởng tích cực, hạn chế ảnh hƣởng tiêu cực của
Phật giáo Nam tông trong đời sống văn hóa tinh thần của ngƣời Khmer,
hƣớng tới một đời sống văn hóa lành mạnh, tinh thần dân tộc trong sáng, đoàn
kết cùng các dân tộc khác trên địa bàn huyện Giồng Riềng trong xây dựng và
phát triển kinh tế-xã hội địa phƣơng.
47
Chƣơng 3
PHÁT HUY VAI TRÕ CỦA PHẬT GIÁO NAM TÔNG TRONG
ĐỜI SỐNG VĂN HÓA TINH THẦN NGƢỜI KHMER
HUYỆN GIỒNG RIỀNG
3.1. Đánh giá ảnh hƣởng của Phật giáo Nam tông đối với đời sống
văn hóa tinh thần ngƣời Khmer huyện Giồng Riềng và nguyên nhân
3.1.1. Đánh giá
Ảnh hƣởng tích cực
Nhƣ đã nêu, những ảnh hƣởng của Phật giáo Nam tông đến đời sống
văn hóa tinh thần ngƣời Khmer cho thấy tầm quan trọng của Phật giáo trong
đời sống Khmer. Giáo lý Phật giáo Nam tông đã hòa nhập vào cuộc sống của
ngƣời Khmer Giồng Riềng, trở thành một thứ đạo lý, ý thức xã hội, một triết
lý sống, chuẩn mực đạo đức gắn liền với cuộc sống của mọi thành viên. Đối
với ngƣời Khmer Giồng Riềng, giáo lý ấy là chỗ dựa tinh thần vững chắc
nhất, là điều thiêng liêng nhất trong niềm tin của họ. Và nó trở thành động lực
rất lớn cho ngƣời Khmer tham gia vào công cuộc phát triển kinh tế, văn hóa,
xã hội huyện Giồng Riềng.
Phật giáo Nam tông đóng vai trò quan trọng trong việc cố kết cộng
đồng Khmer, làm cho dân tộc Khmer không hòa lẫn vào một dân tộc nào
khác. Đây là vai trò mà rất ít tôn giáo có thể có đƣợc.
Phật giáo Nam tông không chỉ thực hiện chức năng của một tôn giáo
mà còn thực hiện cả chức năng xã hội, từ học chữ, học nghề, đến học văn hóa
nghệ thuật, đều đƣợc truyền dạy từ chùa và sƣ sãi. Các chức năng đó đã góp
phần duy trì trật tự xã hội trong cộng đồng Khmer, sản phẩm của Phật giáo
Nam tông không chỉ đơn thuần là những tín đồ sùng đạo mà còn là những con
ngƣời xã hội. Phật giáo Nam tông là một môi trƣờng giáo dục gắn với thực
hành. Phật tử có thể vận dụng đƣợc những giáo lý nhƣ Tam quy, Ngũ giới,
48
Giới-Định-Tuệ, Bi-Trí-Dũng… một cách nhuần nhuyễn trong cuộc sống
thƣờng nhật.
A. Einstein đã nói: “Nếu có một tôn giáo nào đƣơng đầu đƣợc với các
nhu cầu của khoa học hiện đại thì đó là Phật giáo… cây cầu Phật giáo đã kích
thích con ngƣời khám phá những tiềm năng lớn lao nằm sâu kín trong chính
con ngƣời và trong môi trƣờng sống chung quanh. Phật giáo vƣợt thời gian và
mãi mãi có giá trị” [34, 82]. Nhƣ vậy, có thể nói rằng những ảnh hƣởng tích
cực của Phật giáo Nam tông là điểm tựa tinh thần, dẫn dắt dân tộc Khmer đi
đến các giá trị chân thiện mỹ trong thời đại mới.
Ảnh hƣởng tiêu cực
Phật giáo Nam tông đã để lại một dấu ấn sâu đậm đối với dân tộc
Khmer trong một thời gian rất dài, góp phần hình thành nên truyền thống văn
hóa Khmer. Tuy nhiên, bên cạnh những ảnh hƣởng tích cực, nó cũng đem lại
những ảnh hƣởng tiêu cực, nhất là sự sùng tín quá mức nhiều khi dẫn đến mê
tín; cố chấp ít chịu thay đổi để phù hợp với xu thế phát triển; một số giáo lý,
một số phong tục, tập quán đã lỗi thời và tụt hậu so với cuộc sống hiện đại.
Hiện nay, hình ảnh của các vị chức sắc, chức việc – vốn đƣợc xem là
tiến bộ, chuẩn mực nhất của ngƣời Khmer, là hiện thân của Phật – có phần
giảm sút, đã làm ảnh hƣởng đến niềm tin của Phật tử. Chất lƣợng các hoạt
động tín ngƣỡng tôn giáo, lễ hội của Phật giáo Nam tông dần mang tính hình
thức, chịu ảnh hƣởng của cơ chế thị trƣờng, thƣơng mại hóa, phần nào làm
giảm sút lòng tin của Phật tử. Hình thức tụng niệm, hành lễ đã tinh giản phần
nào, nhƣng vẫn còn rƣờm rà, có nhiều lễ trong lễ, trong khi cuộc sống hiện
tại Phật tử còn phải tất bật với cuộc mƣu sinh, cho thấy Phật giáo Nam tông
còn chậm thay đổi để đồng hành cùng Phật tử trong đời sống xã hội.
Toàn bộ cơ sở vật chất để duy trì hoạt động tôn giáo của chùa chiền và
đời sống của các vị sƣ sãi đều trông nhờ vào Phật tử cúng dƣờng. Đây đƣợc
xem là gánh nặng kinh tế trong điều kiện đa phần Phật tử còn nghèo khó.
49
Chức năng trƣờng-chùa ngày càng không đáp ứng đƣợc yêu cầu của
nền giáo dục hiện đại, tại các chùa không đủ trang thiết bị, tài liệu và sách vở
giáo án đáp ứng đƣợc các bậc học, kỹ năng giáo dục hạn chế, nên việc thu
hút thanh thiếu niên vào học trong chùa không còn nhiều.
3.1.2. Nguyên nhân
Nguyên nhân khách quan
Trƣớc đây, ngƣời Khmer lao động nông nghiệp là chính, trong đó sản
xuất lúa là chủ đạo. Sau những giờ lao động, ngƣời Khmer dành thời gian đi
chùa làm phƣớc tích đức, cúng dƣờng chƣ tăng, nghe pháp, sinh hoạt văn hóa
lễ hội... Bên cạnh đó, sƣ sãi còn ra đồng phụ giúp ngƣời dân thu hoạch lúa.
Cuộc sống của ngƣời Khmer và sƣ sãi gắn bó mật thiết với nhau trên nhiều
khía cạnh. Từ sự gắn bó đó tạo điều kiện cho Phật giáo Nam tông có nhiều cơ
hội và thời gian để tác động, ảnh hƣởng đến đời sống văn hóa tinh thần của
ngƣời Khmer.
Trong toàn huyện có 19 xã, thị trấn nhƣng chỉ có 14 ngôi chùa, nhƣ vậy
có 5 xã, thị trấn không có chùa, trong khi ngƣời Khmer có mặt khắp các xã,
thị trấn. Điều này dẫn đến tình trạng có những ngôi chùa có rất đông Phật tử
nhƣ chùa Cây Trôm, chùa Giồng Đá ở xã Bàn Thạch, nhƣng lại có chùa có rất
ít Phật tử nhƣ chùa Thạnh Lợi xã Thạnh Phƣớc (xem Phụ lục 1). Tình trạng ít
Phật tử, việc coi sóc chùa không đƣợc đầy đủ về cả vật chất lẫn tinh thần, sƣ
sãi ít, có những ngôi chùa không có sƣ sãi trông giữ trong một thời gian dài
nhƣ chùa Đây Ông xã Thạnh Bình, đã làm cho hoạt động lễ hội dân tộc và lễ
hội tôn giáo tại các chùa sơ sài và kém phần sôi nổi. Ngày nay, số lƣợng
ngƣời tu tại các chùa rất ít, có chùa chỉ một vài tu sĩ, có nơi Ban quản trị phải
đi thỉnh các vị sƣ từ những chùa khác về giữ chùa cho phum, sóc mình. Đây
là tình trạng phổ biến thời gian qua tại các chùa Phật giáo Nam tông trên địa
bàn huyện Giồng Riềng. Kinh phí hoạt động của các chùa Khmer chủ yếu
trông cậy vào sự cúng dƣờng của Phật tử. Nhƣng Phật tử Khmer đa phần là
50
nghèo, nên chùa chỉ còn biết trông cậy vào sự quan tâm, hỗ trợ của Nhà nƣớc
để xây dựng và trang bị các nhạc cụ truyền thống. Nghệ nhân làm nhạc cụ
truyền thống trong huyện còn lại một vài ngƣời, nhƣng họ phải bỏ nghề vì
nhạc cụ làm ra bán không ai mua.
Xuất phát điểm về kinh tế, dân trí của ngƣời Khmer có phần thấp hơn
so với các dân tộc khác trên địa bàn huyện Giồng Riềng, trong bối cảnh kinh
tế thị trƣờng, một bộ phận ngƣời Khmer có phần tụt hậu hơn, dẫn đến chất
lƣợng đời sống vật chất lẫn tinh thần không cao. Từ đó, cũng làm ảnh hƣởng
đến các hoạt động tín ngƣỡng của ngƣời Khmer đối với Phật giáo Nam tông.
Tỉ lệ đói nghèo cao đã và đang là vấn đề bức xúc nhất ở các cộng đồng
Khmer ĐBSCL. Tình trạng thiếu đất canh tác, thiếu kỹ năng nghề nghiệp,
trình độ học vấn thấp khiến cho việc nâng cao đời sống của đồng bào gặp
nhiều khó khăn, bất chấp nhiều nỗ lực trợ giúp từ Nhà nƣớc và các tổ chức
quốc tế. Mặc dù sống giữa khu vực năng động về kinh tế-xã hội, nhƣng tỉ lệ
đói nghèo ở ngƣời Khmer còn cao, tốc độ xóa đói giảm nghèo chậm so với
các tộc ngƣời còn lại trong vùng. Khu vực nông thôn ở các tỉnh Trà Vinh, Sóc
Trăng, Kiên Giang, Cà Mau là những nơi có tỉ lệ ngƣời Khmer nghèo cao
nhất [37, 35-46], [23, 38]. Năm 2017, ngƣời Khmer Giồng Riềng có 903
hộ/2.586 hộ nghèo trong toàn huyện, chiếm 35%.
Từ sau 1986, một bộ phận không nhỏ ngƣời Khmer do không có đất
canh tác, ít đất, thiếu đói, nợ nần, mùa màng thất bát mà còn cầm cố, cho thuê,
bán ruộng đất, chuyển sang làm thuê nhƣ một nghề chính. Việc đi làm thuê là
hệ quả trực tiếp của đói nghèo và bất ổn về sinh kế. Trƣớc kia họ chỉ làm thuê
ở địa phƣơng và khu vực lân cận, nay nhiều ngƣời đi làm thuê ở các khu vực xa
nhƣ TP.HCM, Bình Dƣơng, Tây Nguyên... Ở mấy nơi giáp biên giới nhƣ An
Giang và Kiên Giang, nhiều ngƣời Khmer còn sang Campuchia làm thuê. Một
điều đáng chú ý là ở ĐBSCL những năm gần đây, số ngƣời đi làm thuê xa ngày
càng tăng. Thƣờng họ đi làm thuê trong một thời gian dài, chỉ về quê khi có
51
việc đột xuất hay vào các dịp lễ hội lớn. Nhiều cộng đồng Khmer ở nông thôn
chỉ còn chủ yếu là ngƣời già và trẻ em [49, 47-49]. Đây cũng là một thực trạng
ở ngƣời Khmer Giồng Riềng. Năm 2017, trong toàn huyện, ngƣời Khmer có
7.276/18.643 thanh niên đi làm ăn xa trong toàn huyện, chiếm 39% [31, 5].
Một số ít hộ khá giả có nhiều đất canh tác là còn bám vƣờn, bám ruộng, ở lại
với phum, sóc, ấp, và giữ nếp sinh hoạt nhƣ trƣớc nay.
Bên cạnh đó, số ngƣời Khmer di cƣ tới sinh sống ở các khu đô thị, đặc
biệt là TP.HCM, ngày càng tăng nhanh. Từ sự di cƣ này đã làm cho các sinh
hoạt văn hóa, tôn giáo, lễ hội, và trang phục của ngƣời Khmer Giồng Riềng
cũng thay đổi rất lớn, hầu nhƣ không có sự khác biệt so với các dân tộc khác
ở Giồng Riềng làm cho các giá trị văn hóa truyền thống Khmer phần nào bị
mai một.
Ngoài ra, sự phát triển nhƣ vũ bão của công nghệ thông tin kết hợp với
nhiều loại hình vui chơi giải trí phong phú đa dạng đã làm thay đổi thị hiếu
của ngƣời dân, đặc biệt là lớp trẻ, khiến các hoạt động lễ hội gắn liền với Phật
giáo Nam tông không còn hấp dẫn ngƣời Khmer tham gia nhƣ trƣớc đây,
những giá trị truyền thống dần bị phai nhạt. Các tín đồ trẻ của Phật giáo Nam
tông ngày nay có nhu cầu thƣởng thức văn hóa nghệ thuật đa dạng hơn, cởi
mở hơn, và có xu hƣớng hƣớng ngoại nhiều hơn, ít phụ thuộc vào các hoạt
động lễ hội gắn liền với Phật giáo Nam tông.
Hiện nay, trong toàn huyện chỉ còn 7 ghe ngo, 1 đội thuyền rồng nữ; 19
câu lạc bộ văn nghệ Khmer không chuyên; 1 đội nhạc đàn cò (xko-Thum); 1
dàn ngũ âm. Trong khi nhu cầu về âm nhạc lễ hội thì rất lớn, ít nhất mỗi ngôi
chùa phải có một dàn nhạc ngũ âm, nhƣng do kinh phí mua dàn nhạc này khá
cao (trên 60 triệu đồng/bộ) nên nhiều chùa không có khả năng trang bị. Các
chùa đều còn nhạc cụ dân tộc nhƣng đều đã bị cũ nát, hƣ hỏng không còn sử
dụng đƣợc. Mặt khác, các hoạt động tôn giáo tín ngƣỡng của Phật giáo Nam
tông đa phần là hoạt động cộng đồng không có thu, nhiều nghệ nhân không
52
thể ở lại với nghề, họ xa dần với các hoạt động lễ hội, hoạt động tín ngƣỡng,
từ đó không còn điều kiện để truyền lại cho lớp sau, dẫn đến các kỹ thuật biểu
diễn trong hoạt động lễ hội không còn hấp dẫn khán giả, trong khi các hoạt
động lễ hội lại là cầu nối, là sự gắn kết Phật tử Khmer với Phật giáo Nam
tông. (Xem hình 3.1).
Nguyên nhân chủ quan
Do lo sợ bị đồng hóa, mất bản sắc, ngƣời Khmer có xu hƣớng cố kết
với nhau, tăng cƣờng và củng cố văn hóa truyền thống, nhất là về tôn giáo
[22]. Đặc điểm này khiến ngƣời Khmer ngại thay đổi, không chịu tiếp thu cái
mới, lƣợc bỏ bớt những phong tục, tập quán, lễ nghi đã lạc hậu.
Cho đến nay, sƣ sãi Khmer vẫn là tầng lớp trí thức dân tộc, có ảnh
hƣởng lớn đến đời sống của ngƣời Khmer. Tuy nhiên, vẫn còn một bộ phận
ngƣời Khmer trình độ dân trí thấp, một số sƣ sãi còn hạn chế về trình độ nên
việc chuyển tải, tiếp thu các nội dung giáo lý Phật giáo, các chủ trƣơng của
Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nƣớc, các kiến thức mới còn hạn chế.
Phần lớn sƣ Cả có tuổi đời còn trẻ, hạn chế về kinh nghiệm và kiến thức để tổ
chức và duy trì các hoạt động tôn giáo, từ đó sức ảnh hƣởng đối với Phật tử
không cao. Đây cũng là một trong nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng một
số ngƣời Khmer ở huyện Giồng Riềng thiếu sự dạy bảo, thiếu sự gắn bó của
sƣ Cả đã bỏ tôn giáo dân tộc mình đi cải đạo.
Gần đây, có thể nói tình trạng đói nghèo và không đất sản xuất là vấn
đề bức xúc nhất ở các cộng đồng Khmer. Đời sống vật chất không đảm bảo,
khiến cho ngƣời Khmer không có điều kiện hoặc ít tham gia vào các hoạt
động văn hóa tinh thần và tín ngƣỡng, hoặc có tham gia nhƣng chất lƣợng
không cao.
Một số nơi các cấp ủy, chính quyền, ban ngành đoàn thể địa phƣơng
chƣa quan tâm đúng mức đến việc tạo điều kiện phát huy giá trị văn hóa phi
53
vật thể Khmer, chƣa có sự hỗ trợ, phối hợp tốt giữa các ban, ngành, đoàn thể
để thực hiện lồng ghép các hoạt động lễ hội một cách đồng bộ.
Sau năm 1975, đặc biệt là những năm gần đây, vấn đề phát triển giáo
dục, nâng cao trình độ học vấn cho ngƣời Khmer đã đƣợc Nhà nƣớc, các cấp
các ngành địa phƣơng quan tâm đặc biệt. Sự quan tâm này thể hiện ở nguồn
kinh phí đầu tƣ cho giáo dục, việc xây dựng thêm cơ sở hạ tầng cho giáo dục,
các chính sách miễn giảm học phí và các khoản đóng góp cho con em hộ
nghèo, việc xây dựng hệ thống trƣờng phổ thông dân tộc nội trú cấp tỉnh và
cấp huyện. Tuy vậy, việc tiếp cận giáo dục của ngƣời Khmer, nhất là ngƣời
nghèo, còn nhiều hạn chế. Họ thƣờng có trình độ học vấn thấp, thƣờng là hết
tiểu học hoặc bỏ học ở bậc tiểu học. Hộ nghèo biết chữ rất ít và thậm chí mù
chữ. Phần lớn họ là lao động nghèo, đi làm thuê, việc làm không ổn định, nên
không quan tâm lắm đến việc học chữ, học nghề [23, 167].
Ngƣời Khmer Giồng Riềng có những sự khác biệt nhất định đối với các
dân tộc khác trên địa bàn huyện về văn hóa, chữ viết, nguồn gốc tộc ngƣời
nên về giao tiếp, sinh hoạt có nhiều điểm khác nhau. Một số ngƣời bị sự kích
động, lôi kéo của các thế lực thù địch nên có biểu hiện đau buồn khi nói về
lịch sử của họ, e ngại, sợ sệt hoặc có thái độ mặc cảm trƣớc các dân tộc khác.
3.2. Một số giải pháp cơ bản nhằm phát huy ảnh hƣởng tích cực,
hạn chế ảnh hƣởng tiêu cực của Phật giáo Nam tông tại huyện Giồng
Riềng
3.2.1. Về phía sự lãnh đạo của Đảng bộ huyện
Điều 4 của Hiến pháp Việt Nam 2013 khẳng định vai trò lãnh đạo tuyệt
đối và toàn diện của Đảng: “Đảng Cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của
giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành quyền lợi của giai cấp
công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, theo chủ nghĩa Mác-Lênin
và Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh, là lực lƣợng lãnh đạo Nhà nƣớc và xã hội”.
54
Công tác tôn giáo, dân tộc vừa là nhiệm vụ, vừa là mục tiêu quan trọng
hàng đầu của Đảng. Tại Nghị quyết TW 5 của Đảng lần thứ 5 (khóa VIII) đã
xác định: cần xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà
bản sắc dân tộc, bảo tồn, phát huy và phát triển vốn văn hóa các dân tộc thiểu
số. Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX tiếp tục khẳng định: Bảo
tồn và phát huy các di sản văn hóa dân tộc, các giá trị văn hóa nghệ thuật,
ngôn ngữ viết và thuần phong mỹ tục của các dân tộc. Chỉ thị 68/CT-TW của
Ban Bí thƣ Trung ƣơng Đảng ngày 18-4-1991 về công tác vùng đồng bào
Khmer cũng đã xác định cụ thể về công tác văn hóa các dân tộc của Đảng.
Phật giáo Nam tông là tôn giáo dân tộc, đây là một tôn giáo gắn liền với đời
sống ngƣời Khmer trên nhiều phƣơng diện, trong đó vai trò và sức ảnh hƣởng
đến đời sống văn hóa tinh thần thể hiện rõ nét và nổi bật nhất. Do đó, Đảng
muốn làm tốt công tác lãnh đạo đối với tôn giáo này thì phải có những giải
pháp đồng bộ trên ba lĩnh vực dân tộc – tôn giáo – văn hóa.
Với vị trí, vai trò lãnh đạo của mình đối với cả hệ thống chính trị, Đảng
cần đóng vai trò chủ đạo trong việc đề ra các chủ trƣơng đƣờng lối trong công
tác tôn giáo, dân tộc. Xác định đƣợc tầm quan trọng đó, từ sau Đại hội Đảng
bộ huyện Giồng Riềng lần thứ X (2015-2020), Đảng bộ huyện đã quan tâm
tập trung cho sự phát triển vùng đồng bào dân tộc, tạo điều kiện cho đồng bào
các dân tộc phát triển một cách toàn diện về cả nhận thức, chính trị, vật chất,
và tinh thần, trong đó có ngƣời Khmer. Tuy nhiên, chúng ta cần khắc phục
những bất cập giữa nhận thức và thực tiễn. Chỉ có nhận thức đúng, nhận thức
sâu sắc về vai trò của Phật giáo Nam tông thì mới có những hành động đúng
hƣớng. Tạo điều kiện cho Phật giáo Nam tông hoạt động không đồng nghĩa
với việc khuyến khích đi tu hay sùng bái mù quáng, mà là tạo khuyến khích,
tạo điều kiện cho việc phát huy những giá trị tích cực của Phật giáo Nam tông
đối với đời sống văn hóa tinh thần ngƣời Khmer. Muốn thực hiện đƣợc những
55
mục tiêu đó, trong thời gian tới đối với Phật giáo Nam tông cần tập trung các
giải pháp nhƣ sau:
- Các cấp ủy Đảng địa phƣơng cần nâng cao ý thức trách nhiệm trong
việc tạo điều kiện để Phật giáo Nam tông có thể tồn tại và bảo tồn đƣợc vai
trò vốn có của nó, từ đó giữ gìn các giá trị văn hóa tốt đẹp của ngƣời Khmer.
Các cấp ủy Đảng địa phƣơng cần tuyên truyền nâng cao nhận thức cho mỗi
cán bộ, đảng viên, và nhân dân về vai trò của Phật giáo Nam tông trong việc
bảo tồn văn hóa dân tộc Khmer. Phải làm chuyển biến nhận thức của các cấp,
các ngành, các địa phƣơng, sƣ sãi và ngƣời Khmer, nhất là lớp trẻ có ý thức tự
hào về bản sắc văn hóa dân tộc.
- Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến các chỉ thị, nghị quyết của
Đảng, các quyết định của Chính phủ, UBND tỉnh, huyện có liên quan đến dân
tộc, tôn giáo cho đoàn viên, hội viên, và các tầng lớp nhân dân một cách
thƣờng xuyên, thông qua các đợt sinh hoạt chính trị, họp tổ nhân dân tự quản,
sinh hoạt của các đoàn thể. Trong chỉ đạo thực hiện Nghị quyết 25-NQ/TW,
các cấp ủy cần nắm vững quan điểm của Đảng về công tác tôn giáo trong tình
hình mới.
- Trong công tác tôn giáo ở cơ sở, cấp ủy phải luôn xác định công tác
vận động tín đồ các tôn giáo là vấn đề hết sức quan trọng, tuyên truyền làm
cho quần chúng hiểu rõ chủ trƣơng, chính sách của Đảng là mục tiêu dân
giàu, nƣớc mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh là điểm tƣơng đồng để
gắn bó đồng bào các dân tộc, tôn giáo với sự nghiệp chung. Mọi công dân
không phân biệt tín ngƣỡng, tôn giáo đều có quyền và nghĩa vụ xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc. Qua đó, vận động quần chúng các tôn giáo nêu cao tinh thần
yêu quê hƣơng, có ý thức bảo vệ đất nƣớc, không để kẻ xấu lợi dụng tôn giáo
phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Đẩy mạnh các phong trào thi đua yêu
nƣớc, nêu gƣơng Phật tử, sƣ sãi Phật giáo Nam tông sống tốt đời đẹp đạo,
56
nhằm tạo sức lan tỏa sâu rộng trong cộng đồng các dân tộc trên địa bàn
huyện.
- Quan tâm nâng cao trình độ hiểu biết của các sƣ sãi về pháp luật trong
các hoạt động tôn giáo để họ có thể quán triệt chủ trƣơng của Đảng, chính
sách pháp luật của Nhà nƣớc đến ngƣời Khmer trong phum, sóc nhân các lễ
hội của dân tộc, lễ hội tôn giáo, hoặc chỉ đạo các đoàn thể biên soạn nội dung
triển khai những chủ trƣơng, chính sách liên quan đến công tác dân tộc, tôn
giáo tại sân chùa để đồng bào Phật tử nắm vững. Kiên quyết đấu tranh chống
lại các hành động xuyên tạc, chống phá nhằm chia rẽ khối đại đoàn kết giữa
các dân tộc, gây chia rẽ giữa các tôn giáo.
- Đề ra các chủ trƣơng, biện pháp phát triển kinh tế-xã hội, nhằm nâng
cao đời sống vật chất, văn hóa cho nhân dân, trong đó chú trọng đối với đồng
bào dân tộc, tín đồ tôn giáo. Có mục tiêu cụ thể hoàn thiện an sinh xã hội
vùng có đông đồng bào dân tộc Khmer nhƣ xây dựng các mô hình kinh tế, hỗ
trợ chính sách về vốn vay, BHYT, điện, đƣờng, trƣờng, trạm…
3.2.2. Về phía sự quản lý của Nhà nước
Hiến pháp Việt Nam năm 2013, tại Điều 3 khẳng định: “Nhà nƣớc bảo
đảm và phát huy quyền làm chủ của nhân dân; công nhận, tôn trọng, bảo vệ
và bảo đảm quyền con ngƣời, quyền công dân; thực hiện mục tiêu dân giàu,
nƣớc mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, mọi ngƣời có cuộc sống ấm no, tự
do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện”; và tại Điều 24 có nêu rõ:
“Mọi ngƣời có quyền tự do tín ngƣỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một
tôn giáo nào. Các tôn giáo bình đẳng trƣớc pháp luật; Nhà nƣớc tôn trọng và
bảo hộ quyền tự do tín ngƣỡng, tôn giáo; Không ai đƣợc xâm phạm tự do tín
ngƣỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tín ngƣỡng, tôn giáo để vi phạm pháp luật”.
Hiến pháp đã thể chế hóa Cƣơng lĩnh xây dựng đất nƣớc trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội, kế thừa các Hiến pháp trƣớc đó vì mục tiêu dân giàu,
nƣớc mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
57
Với chức năng, nhiệm vụ của mình, Nhà nƣớc phải luôn tạo điều kiện
để nhân dân phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm thực hiện quyền làm
chủ của nhân dân. Trong đó có quyền tự do tín ngƣỡng đƣợc quy định tại
Điều 24, Chƣơng II, Hiến pháp năm 2013: “Mọi ngƣời có quyền tự do tín
ngƣỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Các tôn giáo bình
đẳng trƣớc pháp luật. Nhà nƣớc tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngƣỡng,
tôn giáo. Không ai đƣợc xâm phạm tự do tín ngƣỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng
tín ngƣỡng, tôn giáo để vi phạm pháp luật”. Tuy nhiên, trong quá trình hình
thành, tồn tại và phát triển của mình, tôn giáo có nhiều ảnh hƣởng đến nhiều
lĩnh vực của đời sống nhƣ chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội… có mặt tích cực
nhƣng cũng có mặt hạn chế. Do đó nhà nƣớc tạo điều kiện để nhân dân tự do
tín ngƣỡng tôn giáo, nhƣng đồng thời cũng phải đảm bảo các hoạt động, các
quyền và nghĩa vụ đó phải nằm trong khuôn khổ các quy định của Nhà nƣớc.
Từ đó, công tác quản lý nhà nƣớc đối với tôn giáo cần phải đƣợc tăng cƣờng
để đáp ứng đƣợc yêu cầu của sự nghiệp đổi mới đất nƣớc, đáp ứng các quá
trình cách mạng trên các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Phật giáo Nam tông là một tôn giáo mang tính dân tộc, nên muốn
thực hiện tốt chính sách tôn giáo, Nhà nƣớc cũng cần thực hiện tốt chính
sách dân tộc. Tại Nghị quyết Trung ƣơng 7 (khoá IX) về công tác dân tộc
chỉ rõ: “Vấn đề dân tộc và đoàn kết dân tộc là vấn đề chiến lƣợc, cơ bản, lâu
dài, đồng thời cũng là vấn đề cấp bách hiện nay của cách mạng Việt Nam.
Các dân tộc trong đại gia đình Việt Nam bình đẳng, đoàn kết tƣơng trợ giúp
nhau cùng phát triển, cùng nhau phấn đấu thực hiện thắng lợi sự nghiệp
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nƣớc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt
Nam xã hội chủ nghĩa. Kiên quyết đấu tranh với mọi âm mƣu chia rẽ dân tộc
của các thế lực thù địch”.
Về văn hóa đã có nhiều chủ trƣơng đƣợc triển khai, nhất là việc bảo tồn
và phát huy giá trị văn hóa phi vật thể. Cụ thể, hằng năm huyện Giồng Riềng
58
đã hỗ trợ kinh phí tổ chức nhiều cuộc liên hoan, hội diễn văn nghệ quần
chúng Khmer. Đồng thời tổ chức đƣa các đoàn văn nghệ đi tham gia hội diễn
ở trong và ngoài huyện. Ngoài ra hằng năm đã có nhiều lễ hội đƣợc tổ chức
gắn liền với các hoạt động tín ngƣỡng của dân tộc Khmer nhƣ hát, múa, đua
ghe ngo, thực hiện các nghi lễ trong Phật giáo Nam tông... cho thấy nỗ lực
của huyện trong việc bảo tồn các giá trị tốt đẹp của văn hóa Khmer. Hiện
trong toàn huyện có 14/14 chùa có bộ âm thanh và nhạc cụ, 1/14 chùa có dàn
nhạc ngũ âm, có 19 đội văn nghệ quần chúng Khmer với 386 thành viên tham
gia, các xã có đội văn nghệ hoạt động tốt nhƣ Bàn Thạch, Bàn Tân Định,
Vĩnh Thạnh, Vĩnh Phú. Đặc biệt, trung tâm văn hóa xã Long Thạnh là mô
hình thí điểm trong việc xây dựng trung tâm văn hóa xã của tỉnh, khuyến
khích đồng bào dân tộc phục hồi các nghề truyền thống nhƣ đan mây tre, dệt
chiếu, và một số nghề thủ công truyền thống khác để tham gia Ngày hội Văn
hóa-thể thao Khmer hàng năm của tỉnh Kiên Giang. (Xem hình 3.2).
Trong những năm qua, tuy đƣợc quan tâm hỗ trợ nhiều trong việc trùng
tu, sửa chữa chùa chiền và mua sắm các trang thiết bị, nhƣng chỉ phần nào
đáp ứng những nhu cầu thiết yếu trong hoạt động của nhà chùa và các hoạt
động văn hóa tinh thần. Thực tế này cho thấy nhu cầu kinh phí cho lĩnh vực
văn hóa Khmer ở Giồng Riềng chƣa đáp ứng đƣợc nhu cầu thực tế.
Do đó, HĐND huyện Giồng Riềng cần kiến nghị HĐND tỉnh Kiên
Giang tăng chi ngân sách để có cơ sở vật chất cho việc bảo tồn văn hóa
Khmer, trong đó có việc tôn tạo duy tu chùa chiền, khôi phục, giữ gìn và phát
huy các phong tục, tập quán, các giá trị văn hóa nghệ thuật tốt đẹp vốn có của
dân tộc Khmer.
Nhà nƣớc cần có kế hoạch tiếp tục thực hiện đổi mới chất lƣợng giáo
dục đào tạo, nâng cao trình độ dân trí trong huyện ngang bằng với trình độ
chung của tỉnh và vùng ĐBSCL. Sắp xếp, quy hoạch, đầu tƣ xây dựng hệ
thống trƣờng lớp các cấp, nâng tỉ lệ trƣờng học đạt chuẩn quốc gia, mở mới
59
một số trƣờng ở một số địa bàn dân cƣ, tăng tỉ lệ học sinh lên lớp và tốt
nghiệp phổ thông, hạn chế thấp nhất học sinh bỏ học. Đổi mới công tác quản
lý giáo dục, bổ sung số lƣợng giáo viên còn thiếu, nâng cao chất lƣợng đội
ngũ giáo viên đạt chuẩn. Tăng cƣờng công tác hƣớng nghiệp dạy nghề, củng
cố nâng cao chất lƣợng hoạt động của Trung tâm Giáo dục thƣờng xuyên, Hội
Khuyến học từ huyện đến cơ sở, và Trung tâm Học tập cộng đồng các xã, thị
trấn. Các ngành chức năng cần xem xét hỗ trợ kinh phí cho giáo viên dạy chữ
Khmer trong các chùa vào dịp hè và trong các trƣờng phổ thông và phổ thông
dân tộc nội trú. Tạo cơ chế, chính sách hỗ trợ cho việc in ấn sách, kinh bằng
chữ Khmer – Pali, đáp ứng việc học tập của các sƣ sãi và Phật tử Phật giáo
Nam tông Khmer [47, 65]. Động viên các nhà sƣ tham gia tổ chức các hoạt
động và sinh hoạt văn hóa, văn nghệ dân gian truyền thống, mở các lớp dạy ca
múa và sân khấu dân gian. Làm cho các vị chức sắc thấy đƣợc rằng ngoài việc
tu hành truyền đạo thì việc giữ gìn các giá trị tốt đẹp của văn hóa dân tộc còn
là trách nhiệm, là tinh thần yêu dân tộc, tinh thần sống “tốt đời, đẹp đạo”. Tuy
nhiên, chùa chiền là nơi tôn nghiêm, là trung tâm sinh hoạt cộng đồng của dân
tộc Khmer, nên các hoạt động đƣợc tổ chức phải phù hợp.
UBND huyện có biện pháp tăng cƣờng công tác quản lý Nhà nƣớc về
lĩnh vực y tế, phân công ngành chuyên môn có kế hoạch phù hợp với từng
giai đoạn, từng nội dung nhằm đạt đƣợc chất lƣợng tốt nhất về chăm sóc sức
khỏe cho nhân dân, nhƣ: Tập trung đầu tƣ trang thiết bị và củng cố đội ngũ
nhân lực trong ngành y tế, tăng cƣờng công tác đào tạo đội ngũ y, bác sĩ
chuyên sâu theo đúng chuyên khoa, phục vụ tốt hơn yêu cầu khám, chữa bệnh
cho ngƣời dân [47, 64]. (Xem hình 3.3).
Công tác củng cố quốc phòng, an ninh, giữ gìn trật tự an toàn xã hội
trong ngƣời Khmer phải đƣợc thực hiện thƣờng xuyên, quan tâm thực hiện
chính sách đối với thanh niên Khmer tham gia nghĩa vụ quân sự từ công tác
tuyên truyền vận động, bình nghị để tạo an tâm cho thanh niên khi lên đƣờng
60
nhập ngũ. Phát huy hơn nữa vai trò của ngƣời có uy tín, sƣ sãi trong vùng
đồng bào Khmer, tuyên truyền để mỗi một ngƣời Khmer hiểu rõ về vai trò
của mình trong công tác phòng, chống tội phạm, giữ gìn an ninh trật tự ở địa
bàn dân cƣ. Trong công tác tuyên truyền phải tạo đƣợc sự gắn kết ngƣời
Khmer vào khối đại đoàn kết toàn dân tộc trên địa bàn huyện Giồng Riềng.
Quan tâm hơn nữa đến việc quy hoạch, đào tạo cán bộ quản lý nhà
nƣớc về lĩnh vực tôn giáo, nhất là cán bộ chủ chốt ở cơ sở phải có hiểu biết cơ
bản về phong tục, tập quán Khmer, có kiến thức cơ bản về giáo lý, giáo luật
của các tôn giáo nói chung, và am hiểu về Phật giáo Nam tông Khmer nói
riêng, có cơ chế ƣu đãi hợp lý đối với lực lƣợng làm công tác này nhằm thực
hiện hiệu quả các chính sách về dân tộc và tôn giáo tại cơ sở.
Cần chú trọng giảm nghèo trong ngƣời Khmer vì đây là đối tƣợng có
những hạn chế trong việc tự lập, tự vƣơn lên phát triển kinh tế gia đình. Các
cấp chính quyền trong huyện cần tập trung hỗ trợ vốn vay và cho tăng mức
vay đối với hộ nghèo. Tổ chức dạy nghề và tạo việc làm nhằm tăng thu nhập,
nhất là các ngành nghề truyền thống vốn đã có lâu đời trong ngƣời Khmer
nhƣ đan lát, đan Lục Bình, đan giỏ, ghế bằng dây nhựa; làm các vật dụng gia
đình bằng tre, trúc... Nâng cao chất lƣợng các sản phẩm truyền thống này cả
về kỹ thuật lẫn mỹ thuật không chỉ đáp ứng cho nhu cầu sinh hoạt hàng ngày
mà còn đáp ứng cho nhu cầu trang trí, vật lƣu niệm tại các khu du lịch, liên
kết nhà đầu tƣ tìm đầu ra cho sản phẩm không chỉ ở thị trƣờng trong nƣớc mà
còn xuất khẩu ra nƣớc ngoài; triển khai các dự án kinh tế, quy hoạch vùng
nông nghiệp và bao tiêu sản phẩm nông nghiệp. Bên cạnh đó không ngừng
xây dựng và hoàn thiện cơ sơ hạ tầng nhƣ hỗ trợ xây dựng nhà cửa, kéo
đƣờng điện, khoan cây nƣớc, vệ sinh môi trƣờng và nƣớc sạch cho hộ Khmer
sử dụng. Cử cán bộ chuyển giao KHKT theo sát phum, sóc, ấp Khmer để
hƣớng dẫn kịp thời các tiến bộ KHKT vào sản xuất.
61
Không ngừng nắm bắt tình hình hoạt động của Phật giáo Nam tông để
kịp thời ngăn chặn những âm mƣu, hành động lợi dụng các vấn đề tôn giáo
nhằm hoạt động chống phá, gây chia rẽ trong nội bộ nhân dân. Đồng thời đấu
tranh phản bác các luận điệu xuyên tạc, vu khống Nhà nƣớc không thực
quyền tự do tôn giáo, bảo đảm nhân quyền trong các diễn đàn trong nƣớc và
quốc tế hằng năm.
3.2.3. Về phía các tổ chức chính trị-xã hội
Công tác dân tộc, tôn giáo đƣợc xác định là trách nhiệm chung của cả
hệ thống chính trị, trong đó các tổ chức chính trị-xã hội đóng vai trò rất quan
trọng. Các tổ chức chính trị-xã hội bao gồm MTTQ, Đoàn Thanh niên, Hội
CCB, Hội Phụ nữ, Hội Nông dân cần có những giải pháp cụ thể cho đoàn
viên, hội viên, và quần chúng nhân dân sao cho phù hợp với từng đối tƣợng
của tổ chức mình, trong đó MTTQ đóng vai trò quan trọng nhất.
Mặt trận Tổ quốc: Điều 9 Hiến pháp Việt Nam năm 2013 khẳng định:
“Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là tổ chức liên minh chính trị, liên hiệp tự
nguyện của tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị-xã hội, tổ chức xã hội và
các cá nhân tiêu biểu trong các giai cấp, tầng lớp xã hội, dân tộc, tôn giáo,
ngƣời Việt Nam định cƣ ở nƣớc ngoài. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là cơ sở
chính trị của chính quyền nhân dân; đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp, chính đáng của nhân dân; tập hợp, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn
dân tộc, thực hiện dân chủ, tăng cƣờng đồng thuận xã hội; giám sát, phản biện
xã hội; tham gia xây dựng Đảng, Nhà nƣớc, hoạt động đối ngoại nhân dân
góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”.
Từ vị trí, vai trò cũng nhƣ chức năng, nhiệm vụ của mình, Mặt trận các
cấp trong huyện luôn bám sát nhiệm vụ chính trị, phối hợp với chính quyền và
các tổ chức thành viên đẩy mạnh tuyên truyền, vận động các tầng lớp nhân
dân giữ vững truyền thống cách mạng, phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết
toàn dân tộc; kinh tế-xã hội của huyện đƣợc quan tâm đầu tƣ và có bƣớc
62
chuyển biến tích cực, luôn duy trì tăng trƣởng ở mức cao và ổn định; kết cấu
hạ tầng, lĩnh vực y tế, giáo dục, các chƣơng trình mục tiêu giảm nghèo, chính
sách an sinh xã hội đƣợc quan tâm và thực hiện có hiệu quả, tỉ lệ hộ nghèo
giảm bình quân từ 1-1,5%/năm, hộ khá, giàu tăng nhanh; đời sống vật chất,
tinh thần của nhân dân ngày càng đƣợc nâng lên; tình hình an ninh chính trị,
trật tự an toàn xã hội luôn đƣợc tăng cƣờng, giữ vững; giải quyết tốt những
vấn đề bức xúc của nhân dân, sự đồng thuận xã hội đƣợc tăng lên. Dân chủ xã
hội đƣợc mở rộng, quyền làm chủ của nhân dân ngày càng phát huy tích cực,
chất lƣợng hoạt động của Mặt trận và các tổ chức thành viên đƣợc nâng lên,
cơ bản đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ; hoạt động xã hội có khởi sắc, các giá trị
văn hóa truyền thống đƣợc tôn vinh, khối đại đoàn kết toàn dân tộc đƣợc giữ
gìn và phát huy. Để thực hiện tốt công tác dân tộc, tôn giáo trong tình hình
mới, UBMTTQ Việt Nam các cấp trong huyện cần:
- Tiếp tục triển khai thực hiện Kết luận số 02-KL/ĐCT, ngày
29/12/2015 của Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ƣơng MTTQ Việt Nam về “Đổi
mới nội dung, phƣơng thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong
công tác tôn giáo”. Tổ chức tuyên truyền, giới thiệu Luật tín ngƣỡng, tôn giáo
và hai Nghị định của Chính phủ hƣớng dẫn thi hành Luật tín ngƣỡng, tôn giáo
cho tổ chức, chức sắc, nhà tu hành, chức việc và tín đồ Phật giáo Nam tông.
- Phối hợp, hƣớng dẫn, giúp đỡ Hội ĐKSSYN của địa phƣơng tổ chức
tốt các hoạt động. Kiến nghị Trung ƣơng MTTQ Việt Nam phối hợp với Ban
tôn giáo Chính phủ có kế hoạch hƣớng dẫn Hội ĐKSSYN thực hiện đúng
chức năng, nhiệm vụ theo điều lệ Hội, do hiện nay có sự hoạt động chồng
chéo giữa tổ chức Giáo hội Phật giáo với Hội ĐKSSYN.
- Chủ trì phối hợp với các cơ quan Đảng, Nhà nƣớc, tổ chức chính trị-
xã hội ở địa phƣơng xây dựng và phát huy vai trò ngƣời tiêu biểu trong Phật
giáo Nam tông. Tăng cƣờng tiếp xúc, gặp gỡ, đối thoại, nắm bắt, tập hợp đầy
đủ, kịp thời tâm tƣ nguyện vọng; các đề xuất, kiến nghị; của chức sắc, tổ chức
63
và Phật tử Nam tông để kiến nghị với cấp ủy, chính quyền địa phƣơng giải
quyết theo quy định của pháp luật. Vận động, khuyến khích các vị sƣ sãi tham
gia tích cực vào HĐND, UB MTTQ Việt Nam, các tổ chức chính trị xã hội,
các CLB khuyến nông, HTX dịch vụ nông nghiệp... trong huyện nhằm phát
huy tối đa vai trò của các vị sƣ sãi trong vận động cộng đồng dân tộc Khmer
thực hiện nếp sống văn hóa mới, văn minh đô thị. Chủ trì phối hợp cùng Hội
ĐKSSYN, ban quản trị chùa có biện pháp trẻ hóa đội ngũ chức sắc Phật giáo
Nam tông để nắm bắt kịp thời những cái mới, cái tiến bộ trong xã hội cũng
nhƣ có sự nhạy bén khi tổ chức các hoạt động của chùa sao cho phù hợp với
đồng bào Phật tử. (Xem hình 3.4).
- Tăng cƣờng công tác biểu dƣơng, khen thƣởng đối với chức sắc, nhà
tu hành, chức việc, tín đồ tiêu biểu có nhiều thành tích trong các phong trào
thi đua yêu nƣớc, các cuộc vận động ở địa phƣơng. Phối hợp với Phật giáo
Nam tông thực hiện tốt các hoạt động từ thiện nhân đạo và tạo điều kiện cho
Phật giáo Nam tông phát huy vai trò trong hoạt động này. (Xem hình 3.5).
- Tiếp tục củng cố, nâng cao chất lƣợng Cuộc vận động “Toàn dân đoàn
kết xây dựng đời sống văn hóa, đô thị văn minh”. Trong đó chú trọng xây
dựng tình đoàn kết xóm làng, gia đình hạnh phúc, không để xảy ra bạo lực gia
đình, không có tội phạm và tệ nạn xã hội. Vận động và thu hút đông đảo nhân
dân tham gia tập luyện thể dục, thể thao [47, 63]. (Xem hình 3.6).
- Phối hợp với các cơ quan chức năng ở địa phƣơng quan tâm, hƣớng
dẫn, tạo điều kiện để các chức sắc, nhà tu hành, và đồng bào tôn giáo tổ chức
tốt các ngày lễ trọng đại của tôn giáo mình, đảm bảo trang nghiêm, chu đáo,
an toàn, tiết kiệm theo quy định của pháp luật. Phối hợp giúp đỡ, tạo điều kiện
cho đồng bào dân tộc tổ chức tốt những ngày lễ hội truyền thống: “Ngày hội
văn hóa các dân tộc” (19/4) và “Ngày hội Đại đoàn kết các dân tộc” (18/11)...
Tổ chức thăm hỏi, động viên, tặng quà những cá nhân tiêu biểu nhân các ngày
lễ hội của đồng bào dân tộc. (Xem hình 3.7).
64
Đoàn Thanh niên: Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh là tổ chức
chính trị-xã hội của thanh niên Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ
tịch Hồ Chí Minh sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện. Đoàn bao gồm những
thanh niên tiên tiến, phấn đấu vì mục tiêu, lý tƣởng của Đảng là độc lập dân
tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, dân giàu, nƣớc mạnh, dân chủ, công bằng,
văn minh. Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh là thành viên của hệ
thống chính trị, hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật Việt Nam.
Đoàn phối hợp với các cơ quan nhà nƣớc, MTTQ Việt Nam, các đoàn thể, tổ
chức kinh tế, xã hội, các tập thể lao động và gia đình chăm lo giáo dục, đào
tạo và bảo vệ thanh thiếu nhi; tổ chức cho đoàn viên, thanh niên tích cực tham
gia vào việc quản lý nhà nƣớc và xã hội [25].
Đoàn Thanh niên đóng vai trò quan trọng trong công tác dân tộc, tôn
giáo, bởi vì đây là tổ chức nắm giữ lực lƣợng trẻ, khỏe, tinh nhuệ của dân tộc
Việt Nam đòi hỏi tổ chức Đoàn cần có những phƣơng thức phù hợp và sáng
tạo. Để công tác đoàn kết tập hợp thanh niên dân tộc Khmer và thực hiện
công tác tôn giáo đối với Phật giáo Nam tông trên địa bàn huyện Giồng Riềng
thời gian tới đƣợc tổ chức thực hiện đạt hiệu quả, đòi hỏi:
- Tổ chức Đoàn cần vận dụng sáng tạo, triệt để tinh thần chỉ đạo trong
các nghị quyết của Đảng về công tác đoàn kết tập hợp thanh niên dân tộc, tôn
giáo của Đoàn, Hội. Đoàn phải tổ chức quán triệt các chủ trƣơng, chính sách
này đến tất cả cán bộ, đoàn viên, hội viên, thanh niên góp phần thực hiện có
hiệu quả công tác tuyên truyền tại cơ sở, nhƣ tuyên truyền Chỉ thị số 49-
CT/TW ngày 20/10/2015 của Ban Bí thƣ “Về tăng cƣờng và đổi mới công tác
dân vận của Đảng ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số”; tuyên truyền, phổ biến
Luật số 02/2016/QH14 ngày 18/11/2016 của Quốc hội nƣớc Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam về tín ngƣỡng, tôn giáo; Nghị định số 162/2017/NĐ-CP
ngày 30/12/2017 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi
hành Luật tín ngƣỡng, tôn giáo; Hƣớng dẫn số 25-HD/TWH, ngày 28/3/2019
65
của Trung ƣơng Hội LHTN Việt Nam về một số nội dung trọng tâm công tác
đoàn kết, tập hợp thanh niên dân tộc thiểu số, thanh niên tín đồ tôn giáo năm
2019.
- Tuyên truyền trong thanh niên dân tộc Khmer bài trừ các tập quán lạc
hậu, mê tín; không tảo hôn, kết hôn cận huyết; không nghe theo lời xúi giục,
kích động nhằm chia rẽ dân tộc; học tập, vui chơi, giải trí lành mạnh, không
sa vào tệ nạn xã hội; không sinh hoạt tôn giáo trái pháp luật; không tụ tập
đông ngƣời và khiếu kiện trái pháp luật; biết hát và phổ biến các bài hát, điệu
múa, phong tục tốt đẹp của dân tộc mình; sống “tốt đời, đẹp đạo”; tích cực lao
động, học tập phát triển kinh tế gia đình, tham gia tình nguyện vì cuộc sống
cộng đồng, tham gia các hoạt động tôn giáo tham bảo vệ môi trƣờng ứng phó
biến đổi khí hậu. (Xem hình 3.8).
- Cụ thể hóa ba phong trào lớn của Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí
Minh và Phong trào “Tôi yêu Tổ quốc tôi” của Hội Liên hiệp thanh niên Việt
Nam thành những tiêu chí cụ thể phù hợp với tín ngƣỡng, trình độ văn hóa,
phong tục tập quán của thanh niên ngƣời Khmer và lực lƣợng sƣ sãi còn trong
độ tuổi thanh niên đang tu, học tại các chùa Phật giáo Nam tông. Kịp thời
biểu dƣơng, khen thƣởng thanh niên Phật giáo Nam tông tiêu biểu trong các
phong trào thi đua yêu nƣớc của Đoàn, Hội.
- Phối hợp với các ban, ngành tham gia phát triển giáo dục đào tạo,
nâng cao chất lƣợng nguồn nhân lực, đội ngũ cán bộ trẻ là ngƣời dân tộc; lực
lƣợng cốt cán phong trào; củng cố an ninh, quốc phòng, trật tự an toàn xã hội
vùng dân tộc Khmer. Phát vai trò của các chức sắc, nhà tu hành, những cá
nhân tiêu biểu trong các tôn giáo tham gia hoạt động của Đoàn, Hội. Thành
lập các chi Đoàn, chi Hội đặc thù trong các phum, sóc, ấp, chùa nhƣ chi đoàn
thanh niên dân tộc Khmer, CLB Dù Kê, chi Hội đua nghe ngho, chi Hội biểu
diễn nhạc cụ dân tộc Khmer... để vừa kết hợp sinh hoạt văn hóa vừa lồng
ghép các nội dung sinh hoạt của Đoàn, Hội đến đoàn viên, thanh niên sao cho
66
phù hợp với đối tƣợng là thanh niên dân tộc Khmer, sƣ sãi trong các chùa.
Phối hợp triển khai các mô hình để sƣ sãi Phật giáo Nam tông tham gia dạy
nghề; khám, chữa bệnh, chăm sóc sức khỏe cho ngƣời nghèo, ngƣời khuyết
tật, trẻ em có hoàn cảnh khó khăn… Đoàn cần triển khai một số mô hình tăng
gia sản xuất lƣơng thực, thực phẩm theo hƣớng tự cung, tự cấp trong các chùa
nhằm giảm gánh nặng vật chất cho thanh niên Phật tử.
- Tổ chức thăm hỏi, tặng quà các vị sƣ sãi, nhất là các vị sƣ sãi trẻ tham
gia Ủy ban Hội các cấp và có nhiều hoạt động phối hợp hiệu quả với tổ chức
Đoàn, Hội; các đoàn viên, hội viên, thanh niên Phật tử tham gia lực lƣợng cốt
cán nhân các dịp lễ hội của Phật giáo Nam tông hoặc lễ hội dân tộc Khmer.
(Xem hình 3.9).
- Kịp thời báo cáo với các cấp ủy Đảng, chính quyền địa phƣơng những
vấn đề phát sinh trong thanh niên dân tộc Khmer; phối hợp với các ban, ngành
chức năng đề xuất, kiến nghị các giải pháp góp phần ổn định tình hình an ninh
chính trị xã hội theo quy định của pháp luật.
Hội Cựu chiến binh: Mục đích của Hội là tập hợp, đoàn kết, tổ chức,
động viên các thế hệ CCB giữ gìn và phát huy bản chất, truyền thống “Bộ đội
Cụ Hồ”, tích cực tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ thành quả
cách mạng, xây dựng và bảo vệ Đảng, chính quyền, chế độ xã hội chủ nghĩa,
bảo vệ nhân dân, bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng và hợp pháp của CCB,
chăm lo giúp đỡ nhau trong cuộc sống, gắn bó tình bạn chiến đấu, tình đồng
chí, đồng đội [26].
Các cấp hội CCB trong huyện thời gian qua luôn nắm chắc tình hình
thực hiện các chủ trƣơng, đƣờng lối của Đảng, kịp thời phản ảnh với cấp ủy
và chính quyền về tâm tƣ, nguyện vọng của hội viên và nhân dân. Cán bộ, hội
viên gƣơng mẫu chấp hành nghiêm Hiến pháp và pháp luật. Tham gia tốt
công tác hòa giải ở địa phƣơng, cơ sở và công tác tuyên truyền, vận động
quần chúng. Hoạt động của Hội CCB cho thấy các hội viên luôn gƣơng mẫu
67
đi đầu trên mọi mặt công tác, từ phát triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo đến
giáo dục con cháu; vận động nhân dân thực hiện nếp sống văn minh, đóng
góp xây dựng nông thôn mới, trong đó có công tác vận động đồng bào Phật
giáo Nam tông Khmer bên cạnh việc thực hiện các hoạt động tín ngƣỡng thì
đoàn kết cùng cộng đồng xã hội chung tay vào việc phát triển kinh tế, xã hội ở
địa phƣơng. (Xem hình 3.10).
Để phát huy vai trò của Hội CCB tốt hơn nữa trong công tác này, thời
gian tới các cấp Hội trong huyện cần phải:
- Thƣờng xuyên làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục, định hƣớng
cho cán bộ, hội viên dân tộc Khmer, sƣ sãi Phật giáo Nam tông nêu cao cảnh
giác phòng chống âm mƣu chống phá của các thế lực thù địch, lợi dụng dân
chủ, nhân quyền, dân tộc, tôn giáo xuyên tạc sự thật nhằm phá hoại thành quả
cách mạng của Đảng, dân tộc, góp phần xây dựng bản lĩnh chính trị, nâng cao
trách nhiệm của cán bộ, hội viên. Đặc biệt, thời gian gần đây có tình trạng cải
đạo trong ngƣời Khmer thì việc phát huy vai trò của các Hội viên Hội CCB là
ngƣời dân tộc Khmer là rất quan trọng, vì với những kiến thức đƣợc cung cấp
từ tổ chức Hội họ có thể vận động ngƣời Khmer, con em gia đình Phật tử hiểu
rõ về các tổ chức tôn giáo khác, và có sự lựa chọn phù hợp với nhu cầu tín
ngƣỡng của mình, tránh tình trạng họ bị lợi dụng, từ bỏ truyền thống dân tộc,
từ bỏ tôn giáo truyền thống vì mục đích chia rẽ dân tộc, gây mất đoàn kết giữa
các tôn giáo trên địa bàn huyện.
- Tích cực, chủ động xây dựng CLB Bảo vệ môi trƣờng do CCB quản
lý, củng cố các mô hình “Dân vận khéo”; mô hình CLB CCB phòng chống tội
phạm, đội dân phòng CCB… góp phần xây dựng ấp, khu phố, tổ nhân dân tự
quản an toàn, xanh, sạch, đẹp… trong phum, sóc, ấp Khmer.
- Huyện hội và Hội cơ sở phối hợp với Đoàn Thanh niên tổ chức tổng
kết chƣơng trình số 78 về xây dựng thế hệ trẻ giàu lòng yêu nƣớc, có lý tƣởng
cách mạng, có lối sống đẹp, có bản lĩnh văn hóa con ngƣời Việt Nam. Thƣờng
68
xuyên làm tốt công tác giáo dục truyền thống cho thế hệ trẻ, du khảo về
nguồn… Tích cực giúp đỡ, bồi dƣỡng đoàn viên ƣu tú vào Đảng. Trong các
mặt công tác này, các cấp bộ Hội cần quan tâm đối tƣợng là thanh niên dân
tộc Khmer, các tăng sinh Khmer đang tu học tại các chùa Phật giáo Nam tông
trong huyện. Kịp thời phát hiện những thanh niên, tăng sinh trẻ tuổi có lối
sống đẹp, có nhiều đóng góp cho cộng đồng xã hội để tuyên dƣơng khen
thƣởng và nhân rộng điển hình. Từ đó tạo sức lan tỏa trong cộng đồng dân tộc
Khmer nói chung và trong thế hệ trẻ nói riêng.
Hội Phụ nữ: Hội LHPN Việt Nam là tổ chức chính trị-xã hội trong hệ
thống chính trị, có tƣ cách pháp nhân, đại diện cho quyền và lợi ích hợp pháp,
chính đáng của các tầng lớp phụ nữ Việt Nam; phấn đấu vì sự phát triển của
phụ nữ và bình đẳng giới [24].
Công tác bình đẳng giới và tiến bộ phụ nữ huyện Giồng Riềng luôn
đƣợc các ngành, các cấp trong huyện quan tâm lãnh đạo và tổ chức thực hiện,
đạt đƣợc nhiều chuyển biến tiến bộ rõ nét. Từ đó phát huy đƣợc vai trò của
phụ nữ vào quá trình phát triển kinh tế-xã hội, trình độ năng lực của phụ nữ
ngày càng đƣợc nâng cao; phụ nữ, trẻ em gái vùng nông thôn, dân tộc Khmer
đƣợc quan tâm tạo điều kiện học tập, việc chăm sóc sức khỏe ngày càng tốt
hơn. Công tác gia đình, phòng, chống bạo lực gia đình có nhiều tiến bộ, trong
đó vai trò tham gia tích cực và chất lƣợng, hiệu quả hoạt động của phụ nữ trên
các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, dân tộc, tôn giáo ngày càng
đƣợc đánh giá cao. Trong đó không thể không kể đến kết quả các cấp Hội
trong huyện đã làm tốt công tác phụ nữ trong ngƣời Khmer, công tác tôn giáo
đối với Phật giáo Nam tông, bởi đây là lực lƣợng chiếm 20% hội viên Hội
LHPN trong toàn huyện. Tuy nhiên, thời gian qua, tình trạng hộ gia đình của
Hội viên Hội LHPN dân tộc Khmer còn chiếm tỉ lệ cao trong hộ nghèo, hộ
cận nghèo và hộ có hoàn cảnh khó khăn, công tác tôn giáo đối với Phật giáo
Nam tông từng lúc, từng nơi còn lúng túng, Phật tử là hội viên phụ nữ còn
69
tham gia các hoạt động tín ngƣỡng tôn giáo của dân tộc mình chƣa đúng quy
định. Các cấp Hội LHPN trong huyện cần xác định đây là công tác quan trọng
trong thực hiện nhiệm vụ của mình, cần đẩy mạnh các giải pháp nhƣ:
- Đẩy mạnh tuyên truyền, vận động các tầng lớp phụ nữ, đặc biệt là phụ
nữ dân tộc Khmer nỗ lực phấn đấu, vƣợt qua khó khăn, năng động sáng tạo,
tích cực tham gia các phong trào thi đua “Phụ nữ tích cực học tập, lao động
sáng tạo, xây dựng gia đình hạnh phúc” với việc “Đẩy mạnh học tập và làm
theo tƣ tƣởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”; Chƣơng trình hành động
số 08/CTr-ĐCT ngày 11/4/2014 của Đoàn Chủ tịch Trung ƣơng Hội LHPN
Việt Nam về thực hiện Chiến lƣợc Công tác dân tộc đến năm 2020. Phấn đấu
rèn luyện 4 phẩm chất “Tự tin - Tự trọng - Trung hậu - Đảm đang” đƣợc cụ
thể hóa vào các phong trào thi đua, các cuộc vận động của địa phƣơng, tạo
chuyển biến tích cực trong phong trào phụ nữ trên các lĩnh vực. Khuyến khích
cán bộ, hội viên, phụ nữ Khmer phát huy truyền thống đoàn kết, yêu quê
hƣơng, đất nƣớc, sáng tạo trong lao động, học tập, công tác, đóng góp tích
cực vào các mục tiêu phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng-an ninh
và có tác động lan tỏa đến các ngành, lĩnh vực của huyện. Nắm bắt kịp thời
tâm tƣ, nguyện vọng của phụ nữ Phật tử Nam tông, tổ chức Hội phải sâu sát
hơn nữa, phải chia sẻ hơn nữa, phải tạo ra niềm tin cho phụ nữ là Phật tử đối
với tổ chức Hội để vận động chị em tham gia, đóng góp vào hoạt động Hội và
phong trào chung của phụ nữ, cần phải đƣa ra các hoạt động phù hợp nhu cầu,
nguyện vọng, điều kiện, hoàn cảnh của phụ nữ tôn giáo trên địa bàn huyện.
Xây dựng nhiều mô hình phát triển kinh tế gia đình, tạo công ăn việc làm cho
phụ nữ Khmer để từ đó cải thiện cuộc sống của họ từ vật chất lẩn tinh thần. Khi
phụ nữ Khmer tìm thấy lợi ích thiết thực, đáp ứng với mong muốn của mình
thì họ sẽ sẵn sàng đến với Hội và thực hiện tốt quyền và nghĩa vụ của mình,
trong đó có các quyền, nghĩa vụ về tín ngƣỡng, tôn giáo.
70
- Triển khai công tác vận động phụ nữ nói chung và phụ nữ Phật tử
Nam tông Khmer nói riêng phải linh hoạt, sáng tạo, phù hợp. Các hoạt động
phải bám sát thực tiễn, bắt kịp những vấn đề thời sự của đất nƣớc, của các tổ
chức tôn giáo nhƣ ô nhiễm môi trƣờng, vệ sinh an toàn thực phẩm, xây dựng
nông thôn mới, đô thị văn minh... để thu hút hội viên, phụ nữ quan tâm,
hƣởng ứng, tham gia. (Xem hình 3.11).
- Các cấp Hội quan tâm cử cán bộ đi tập huấn, bồi dƣỡng kiến thức tôn
giáo và cần nghiên cứu kỹ Luật Tín ngƣỡng, tôn giáo để triển khai, đƣa Luật
vào cuộc sống. Chú trọng xây dựng phát triển tổ chức Hội vững mạnh, phát
huy vai trò nòng cốt của hội viên Khmer trong công tác vận động phụ nữ
Khmer. Kịp thời khen thƣởng, biểu dƣơng những tập thể, cá nhân có thành
tích xuất sắc trong hoạt động phong trào của Hội, đồng thời chọn mô hình làm
ăn có hiệu quả để nhân rộng trong hội viên Khmer.
- Thƣờng xuyên cập nhật thông tin, nắm bắt tình hình tƣ tƣởng, dƣ luận
xã hội, các vấn đề liên quan đến cán bộ, hội viên, phụ nữ địa bàn dân tộc
Khmer, các chùa Phật giáo Nam tông. Nắm tình hình hoạt động của các tổ
chức truyền đạo trái phép để phối hợp với ngành chức năng giải quyết kịp
thời các vấn đề phát sinh.
- Vận động cán bộ, hội viên phụ nữ Khmer phát huy và bảo tồn bản
sắc văn hóa dân tộc; thực hiện tốt quy ƣớc của phum, sóc, ấp... phát động
phong trào văn hóa, văn nghệ, thể thao trong ngƣời Khmer gắn với các lễ hội
dân tộc, lễ hội tôn giáo của dân tộc Khmer. Gặp gỡ, động viên các vị sƣ sãi
cùng tham gia vào các mặt công tác của Hội, nhằm phát huy vai trò của các
sƣ sãi trong các chùa Phật giáo Nam tông đối với Phật tử là nữ. Bởi lực
lƣợng này có những ảnh hƣởng rất lớn đến nhận thức và hành động của Phật
tử, những lời dạy bảo mang tính tích cực của các vị sƣ sãi sẽ là động lực cho
phụ nữ dân tộc Khmer sống “tốt đời, đẹp đạo”.
71
Hội Nông dân: Là tổ chức chính trị-xã hội đại diện cho giai cấp nông
dân, tham gia xây dựng Đảng, Nhà nƣớc, và khối đại đoàn kết toàn dân tộc;
tuyên truyền, vận động cán bộ, hội viên, nông dân hiểu và tích cực thực hiện
đƣờng lối, chủ trƣơng của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nƣớc, nghị
quyết, chỉ thị của Hội; khơi dậy và phát huy truyền thống yêu nƣớc, ý chí
cách mạng, tinh thần tự lực, tự cƣờng, lao động sáng tạo của nông dân, chăm
lo đời sống, vật chất tinh thần cho hội viên nông dân [27].
Thời gian qua cán bộ, hội viên nông dân trong huyện đã phát huy
truyền thống cách mạng, nêu cao ý thức tự lực, tự cƣờng, năng động, sáng
tạo, vƣợt qua mọi khó khăn thách thức, nổ lực lao động sản xuất đạt đƣợc
những thành tựu quan trọng, góp phần cùng với Đảng bộ và nhân dân huyện
nhà đƣa kinh tế-chính trị, văn hóa-xã hội phát triển khá, quốc phòng, an ninh
đƣợc giữ vững; đời sống vật chất và tinh thần của ngƣời dân không ngừng
đƣợc nâng cao; bộ mặt nông thôn có những thay đổi rõ nét, thực hiện thắng
lợi Nghị quyết Đại hội IX Hội Nông dân huyện đề ra.
Tuy nhiên, tình hình lao động việc làm ở nông thôn chƣa ổn định; ý
thức tự lực của một bộ phận nông dân còn trông chờ ỷ lại vào Đảng, Nhà
nƣớc. Tình hình tệ nạn xã hội ở nông thôn còn diễn biến phức tạp, môi
trƣờng ngày càng ô nhiễm, những bất cập về giáo dục, y tế, giao thông…
gây ảnh hƣởng đến sản xuất và đời sống của nông dân, nhất là một bộ phận
nông dân Khmer còn chậm ứng dụng tiến bộ KHKT vào trồng trọt, chăn
nuôi; các hoạt động tín ngƣỡng tôn giáo của Phật giáo Nam tông trên địa bàn
huyện có những ảnh hƣởng tích cực, tuy nhiên những ảnh hƣởng tiêu cực
của nó cũng gây khó khăn cho đời sống của hội viên nông dân Khmer trong
huyện. Việc đƣa ra các giải pháp để cùng các tổ chức chính trị khác thực
hiện tốt công tác dân tộc tôn giáo nói chung và công tác tôn giáo đối với
Phật giáo Nam tông là góp phần nâng cao đời sống vật chất và tinh thần Hội
72
viên Nông dân dân tộc Khmer. Những biện pháp đó chủ yếu tập trung vào
những nội dung cơ bản sau:
- Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, quán triệt các chủ trƣơng, đƣờng lối
của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nƣớc về tôn giáo; chính sách phát
triển kinh tế-xã hội vùng dân tộc Khmer và lực lƣợng sƣ sãi Phật giáo Nam
tông nhƣ: Nghị quyết số 26-NQ/TW, ngày 30/12/2008 của Ban Chấp hành
Trung ƣơng Đảng (khóa X) về nông nghiệp, nông dân, nông thôn; Luật Tín
ngƣỡng, tôn giáo số 02/2016/QH14, ngày 18/11/2016 của Quốc hội, Nghị
định số 162/2017/NĐ-CP, ngày 30/12/2017 của Chính phủ quy định chi tiết
một số điều và biện pháp thi hành Luật Tín ngƣỡng, Tôn giáo và các văn bản
quy phạm pháp luật liên quan đến tín ngƣỡng, tôn giáo; Nghị quyết số
06/NQ-HND của Ban Chấp hành Trung ƣơng Hội Nông dân Việt Nam
(khóa IV) về “Đẩy mạnh công tác Hội và phong trào nông dân vùng
đồng bào có đạo” và Kết luận số 123 - KL/HNDTW của Ban Chấp hành
Trung ƣơng Hội Nông dân Việt Nam (khóa V), ngày 23/02/2011 về tiếp tục
“Đẩy mạnh công tác Hội và phong trào nông dân vùng đồng bào có đạo”…;
- Tăng cƣờng công tác xây dựng, củng cố tổ chức Hội vững mạnh trên
cả ba mặt: chính trị, tƣ tƣởng và tổ chức; chú trọng nâng cao chất lƣợng và
hiệu quả hoạt động, quan tâm vận động, tuyên truyền, tập hợp nông dân
Khmer tham gia tổ chức Hội, coi trọng nâng cao chất lƣợng hội viên. Đổi
mới, nâng cao chất lƣợng sinh hoạt Chi hội, Ban Chấp hành Hội Nông dân cơ
sở; nội dung sinh hoạt phải thật sự thiết thực, phù hợp với điều kiện thực tế,
phát huy lợi thế những ngƣời có uy tín trong ngƣời Khmer, đáp ứng đƣợc
nguyện vọng chính đáng của hội viên, nông dân là ngƣời Khmer; chú trọng
bồi dƣỡng những cán bộ, hội viên Khmer là các Phật tử tiêu biểu, ƣu tú để
giới thiệu cho Đảng xem xét kết nạp, làm cơ sở tạo nguồn cán bộ cốt cán dân
tộc Khmer.
73
- Đẩy mạnh ba phong trào thi đua của Hội: Phong trào nông dân thi đua
sản xuất kinh doanh giỏi, đoàn kết giúp nhau làm giàu và giảm nghèo bền
vững; Phong trào nông dân thi đua xây dựng nông thôn mới; Phong trào nông
dân tham gia bảo đảm quốc phòng, an ninh. Trong đó tập trung vào Nghị
quyết số 34-NQ/HNDTW, ngày 26/7/2017 của Ban Chấp hành Trung ƣơng
Hội Nông dân Việt Nam khóa VI, về việc thực hiện ba nhiệm vụ trọng tâm:
Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nông dân; Tổ chức các hoạt
động tƣ vấn, hỗ trợ, dịch vụ và đào tạo nghề giúp nông dân có điều kiện phát
triển sản xuất, kinh doanh nâng cao thu nhập và đời sống; Xây dựng phát triển
mô hình kinh tế tập thể trong nông nghiệp, nông thôn. Đồng thời, tiếp tục
triển khai có hiệu quả Kết luận số 61/KL-TW, ngày 3/12/2009 của Ban Bí thƣ
Trung ƣơng Đảng và Quyết định số 673/QĐ-TTg, ngày 10/5/2011 của Thủ
tƣớng Chính phủ. Xác định đối tƣợng hội viên nông dân là đối tƣợng đặc thù,
nên công tác tuyên truyền phải gần gũi, thiết thực, kết hợp xây dựng các mô
hình kinh tế tiêu biểu để họ thấy đƣợc mục đích, hiệu quả của các mô hình
sản xuất, kinh doanh, từ lợi ích vật chất sẽ hỗ trợ cho việc xây dựng ý thức
tiến bộ của ngƣời Khmer. Đồng thời, không thể bỏ qua vai trò to lớn của các
vị sƣ sãi trong việc giáo dục và tuyên truyền đối với hội viên nông dân
Khmer. Đặc biệt, phát huy vai trò của các vị sƣ sãi trong việc tuyên truyền,
vận động hội viên nông dân Khmer, Phật tử xây dựng nếp sống văn hóa, văn
minh trong việc cƣới, việc tang và lễ hội; bài trừ mê tín; xây nhà vệ sinh gia
đình, nhà vệ sinh tại khu dân cƣ, và bảo vệ môi trƣờng. Hội Nông dân các cấp
trong huyện phải thƣờng xuyên nắm chắc tình hình công tác dân tộc, tôn giáo
tại địa phƣơng, tâm tƣ nguyện vọng, tình hình sản xuất, đời sống của hội viên
Khmer; trên cơ sở đó xây dựng kế hoạch tổ chức triển khai thực hiện sát với
tình hình địa phƣơng.
- Phối hợp cử cán bộ triển giao KHKT thƣờng xuyên bám sát phum,
sóc, ấp để tận tình hƣớng dẫn những kỹ thuật mới, những cây trồng vật nuôi
74
cho năng suất cao đến ngƣời Khmer, loại bỏ các phong tục, tập quán canh tác
đã lạc hậu, lỗi thời. Xây dựng những mô hình làm kinh tế có hiệu quả, từ đó
cho nhân rộng trong ngƣời Khmer. Đặc biệt, tận dụng diện tích đất trống
trong khu vực chùa chiền, lực lƣợng tăng sinh trẻ tuổi để tổ chức tăng gia, sản
xuất tạo ra lƣơng thực, thực phẩm hoặc các sản phẩm khác phục vụ lại cho
chùa. (Xem hình 3.12).
- Tranh thủ sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy Đảng, sự giúp
đỡ tạo điều kiện của chính quyền; phối hợp chặt chẽ với các ban, ngành, đoàn
thể trên địa bàn tập trung mọi nguồn lực, đẩy mạnh các phong trào thi đua yêu
nƣớc phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, xóa đói giảm nghèo, củng cố quốc
phòng, an ninh trong ngƣời Khmer. (Xem hình 3.13).
Liên đoàn Lao động: Công đoàn Việt Nam là tổ chức chính trị-xã hội
của giai cấp công nhân và của ngƣời lao động, đƣợc thành lập trên cơ sở tự
nguyện, đại diện cho ngƣời lao động, chăm lo và bảo vệ quyền, lợi ích hợp
pháp, chính đáng của ngƣời lao động; tham gia quản lý nhà nƣớc, quản lý
kinh tế-xã hội; tham gia kiểm tra, thanh tra, giám sát hoạt động của cơ quan
nhà nƣớc, tổ chức, đơn vị, doanh nghiệp về những vấn đề liên quan đến
quyền, nghĩa vụ của ngƣời lao động; tuyên truyền, vận động ngƣời lao động
học tập, nâng cao trình độ, kỹ năng nghề nghiệp, chấp hành pháp luật, xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc [28].
Các cấp công đoàn trong huyện luôn tổ chức thực hiện tốt vai trò, chức
năng của mình. Từ đó đời sống của CNVCLĐ ngày càng đƣợc cải thiện, cụ
thể nhƣ: các chính sách an sinh xã hội đƣợc quan tâm thực hiện, giảm nghèo,
xây dựng giao thông nông thôn, xây dựng nhà đại đoàn kết, nhà tình nghĩa,
nhà Mái ấm Công đoàn, chƣơng trình nhà ở cho ngƣời nghèo (nhà 167),…
Công tác đào tạo nghề, tƣ vấn, giới thiệu giải quyết việc làm đƣợc quan tâm
thực hiện, hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao có bƣớc tiến bộ, hoạt
động phong trào thi đua của đoàn viên và CNVCLĐ ở các cấp công đoàn luôn
75
đƣợc sự quan tâm chỉ đạo sâu sát của cấp ủy, công tác dân tộc, công tác tôn
giáo đƣợc triển khai thực hiện tốt. Trong toàn huyện, lực lƣợng CNVCLĐ là
ngƣời Khmer chiếm 6%. Tuy CNVCLĐ là dân tộc Khmer chiếm rất ít trong
CNVCLĐ toàn huyện, nhƣng đây là một trong những công tác mà Đảng và
Nhà nƣớc chỉ đạo cần tập trung thực hiện, nhằm phát triển đồng bộ lực lƣợng
CNVCLĐ trong toàn huyện, không để tình trạng chênh lệch quá xa về trình
độ, năng lực giữa dân tộc này với dân tộc khác, tạo điều kiện về tín ngƣỡng
tôn giáo cho CNVCLĐ là ngƣời Khmer, song song đó thực hiện các giải pháp
phát huy tính đặc thù của Phật giáo Nam tông nhằm tác động tích cực lên đời
sống văn hóa tinh thần CNVCLĐ ngƣời Khmer. Để phát huy đƣợc chức năng
này của Phật giáo Nam tông, các cấp Công đoàn cần tập trung những nội
dung sau:
- Kịp thời nắm chắc những diễn biến tƣ tƣởng trong CNVCLĐ, tích cực
đấu tranh chống lại những luận điệu xuyên tạc, âm mƣu chống phá và những
vấn đề lợi dụng chính sách dân tộc, tôn giáo, đất đai của Đảng, Nhà nƣớc làm
ảnh hƣởng đến khối đại đoàn kết toàn dân tộc Việt Nam. Tích cực tham gia
các phong trào thi đua yêu nƣớc. Ngƣời lao động Khmer không tham gia các
đạo lạ, không tham gia các hoạt động gây rối, không để các thế lực thù địch,
phản động lôi kéo, xúi giục vi phạm pháp luật. Tích cực tham gia các phong
trào thi đua do Công đoàn phát động nhƣ “Lao động giỏi, lao động sáng tạo”;
“Phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật”, phong trào học tập nâng cao trình độ,
học vấn, kỹ năng nghề nghiệp...
- Phối hợp tổ chức thăm hỏi, động viên các gia đình CNVCLĐ Khmer,
các chùa Phật giáo Nam tông trong các dịp lễ tết. Phải có những hoạt động,
nội dung tuyên truyền để cho CNVCLĐ Khmer, sƣ sãi tại các chùa Phật giáo
Nam tông trong huyện hiểu về yêu cầu nhiệm vụ đối với CNVCLĐ trong tình
hình mới, đó là cần năng động, sáng tạo, chuyên môn, nghiệp vụ, tay nghề
phải cao, không ngừng áp dụng tiến bộ KHKT, CNTT vào lao động, sản xuất.
76
Phát huy vai trò giáo dục, đào tạo từ các chùa Phật giáo Nam tông nhằm đào
tạo lực lƣợng lao động trẻ, khỏe đáp ứng đƣợc tiêu chuẩn của lực lƣợng lao
động thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Muốn vậy, đòi hỏi Đảng, Nhà
nƣớc cần có những chính sách thiết thực, tập trung nguồn ngân sách đào tạo
lực lƣợng sƣ sãi am hiểu về công nghệ thông tin, phát huy chức năng trƣờng-
chùa bằng việc trang bị cơ sở vật chất cho công tác giảng dạy, trong đó có
công tác đào tạo nghề cho ngƣời Khmer để họ trở thành lực lƣợng CNVCLĐ
đảm bảo chất lƣợng; tăng chi ngân sách đào tạo, cử tuyển đối với CNVCLĐ
để họ có điều kiện nâng cao trình độ, tay nghề đáp ứng cho vị trí lao động của
mình. (Xem hình 3.14).
Đối với sƣ sãi Phật giáo Nam tông trong huyện: Ngoài các giải pháp
mang tính khách quan, để Phật giáo Nam tông phát huy hiệu quả các ảnh
hƣởng tích cực của mình đến đời sống văn hóa tinh thần ngƣời Khmer Giồng
Riềng, thì cần thiết phải có các giải pháp mang tính chủ quan từ các sƣ sãi
Phật giáo Nam tông trong huyện. Bởi yếu tố nội lực bao giờ cũng quan trọng,
một chủ thể muốn phát triển thì không thể nào cứ trông chờ vào các yếu tố
ngoại lực từ bên ngoài, mà từ bên trong của nó cũng phải vận động, tác động,
hƣởng ứng trở lại các yếu tố bên ngoài để có những phát triển tích cực. Do đó,
các vị sƣ sãi trong huyện cần nỗ lực để thực hiện sứ mệnh cao cả, nhƣ là hiện
thân của Đức Phật mang đến an vui và hạnh phúc cho những ngƣời con của
Đức Phật.
Ban Quản trị tại các chùa Phật giáo Nam tông Khmer, Hội đồng Trị sự
Giáo hội Phật giáo ở cấp tỉnh, Trung ƣơng GHPG Việt Nam cần có kế hoạch
đào tạo, bồi dƣỡng đội ngũ chức sắc trẻ trong Phật giáo Nam tông Khmer đủ
sức kế thừa về lâu dài trong việc phát huy chánh pháp và tham gia vào công
tác tổ chức, công tác lãnh đạo của giáo hội các cấp.
Tăng sinh không chỉ học kinh điển Khmer mà còn phải học kinh điển
của các hệ phái Phật giáo khác, của các tôn giáo bạn để có sự so sánh, dung
77
hợp cho một nền giáo lý tiến bộ, sâu sắc, bền vững và hội nhập. Bên cạnh đó,
giáo dục bằng tiếng Khmer thôi chƣa đủ; còn phải tăng cƣờng thời lƣợng học
tiếng phổ thông (Kinh), học thêm tiếng quốc tế thông dụng (tiếng Anh), tiếng
một số nƣớc có Phật giáo Nam tông (tiếng Thái) để truyền đạt lời Phật dạy
đến tất cả mọi ngƣời, giao lƣu với quốc tế và thực hiện tốt công tác đối ngoại
nhân dân. Hệ phái Nam tông Khmer cần đầu tƣ nhiều về mặt nhân sự có đức
có tài, bồi dƣỡng đạo hạnh chƣ tăng [76]. KHKT ngày một phát triển, Phật
giáo Nam tông muốn thực hành giáo lý Phật giáo đem hạnh phúc đến cho
nhân dân thì phải học, hiểu, nắm bắt kịp thời sự phát triển về mọi mặt, kể cả
những thay đổi về tâm lý xã hội học con ngƣời trong cuộc sống hiện đại. Bên
cạnh đó phải chủ động học tập, bồi dƣỡng sự hiểu biết về chủ trƣơng, chính
sách, pháp luật; xây dựng và hình thành ý thức chính trị; không ngừng trau
dồi đạo hạnh, củng cố niềm tin, uy tín đối với tín đồ.
Có sự phân công, phân nhiệm rõ ràng giữa trách nhiệm giữa sƣ trụ trì
chùa và ban quản trị chùa Phật giáo Nam tông Khmer, tránh chồng chéo chức
năng và nhiệm vụ giữa sƣ trụ trì và ban quản trị chùa.
Quan tâm, tạo điều kiện cho các vị sƣ là lãnh đạo của Giáo hội thực
hiện tinh thần đoàn kết, gắn bó giữa hai hệ phái Nam tông và Bắc tông
trong ngôi nhà chung Phật giáo, xây dựng tổ chức Giáo hội Phật giáo Việt
Nam theo phƣơng châm “Đạo pháp – Dân tộc – Chủ nghĩa xã hội”. (Xem
hình 3.11).
Tiểu kết chƣơng 3
Sự tác động của nền kinh tế thị trƣờng, quá trình phát triển của xã hội,
sự tiếp nhận và giao lƣu văn hóa đã làm thay đổi ảnh hƣởng của Phật giáo
Nam tông đến đời sống văn hóa tinh thần ngƣời Khmer Giồng Riềng. Tuy
nhiên, đánh giá đúng các nguyên nhân sẽ đƣa ra đƣợc những giải pháp đúng
đắn cho việc phát huy ảnh hƣởng tích cực của Phật giáo Nam tông đến đời
sống văn hóa tinh thần ngƣời Khmer Giồng Riềng.
78
Khi các giá trị tốt đẹp của Phật giáo Nam tông đƣợc phát huy tích cực,
đời sống văn hóa tinh thần của ngƣời Khmer đƣợc nâng lên, đó sẽ là động lực
từ bên trong để dân tộc Khmer tồn tại và phát triển. Bởi vì đời sống văn hóa
tinh thần là nội lực, là sức mạnh từ bên trong của mỗi con ngƣời nói riêng và
cả dân tộc nói chung. Vì “văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội. Văn hóa
vừa là mục tiêu, vừa là động lực cho sự phát triển kinh tế-xã hội” (NQTW 4
ngày 14/1/1993, khóa VII). Song song đó, đời sống vật chất của ngƣời Khmer
đƣợc nâng lên và bắt nhịp với sự phát triển chung của các dân tộc khác trên
địa bàn huyện Giồng Riềng sẽ trở lại tác động tích cực đến Phật giáo Nam
tông. Điều đó là tất nhiên, vì khi đời sống của ngƣời dân đƣợc nâng lên thì
nhu cầu hƣởng thụ văn hóa ngày càng cao hơn. Sự tác động qua lại này sẽ góp
phần củng cố và xây dựng một dân tộc Khmer ngày càng đậm đà bản sắc.
Phật giáo Nam tông sẽ là nơi lƣu giữ các giá trị văn hóa tinh thần
Khmer và ảnh hƣởng tích cực đến đời sống văn hóa tinh thần ngƣời Khmer,
hay dần mai một theo quá khứ, phụ thuộc vào nhận thức của cả hệ thống
chính trị về giá trị tốt đẹp đó của Phật giáo Nam tông. Do đó, việc cùng
nhau thực hiện đồng bộ các giải pháp nhằm tạo điều kiện để Phật giáo Nam
tông phát triển hài hòa với xu thế hiện đại còn là nhu cầu, nguyện vọng của
nhân dân.
79
80
KẾT LUẬN
Phật giáo Nam tông với triết lý và nhân sinh quan mang đến sự an vui
và hạnh phúc cao cả, giáo dục Phật tử sống hòa thuận, làm lành, tránh xa việc
ác, sống gƣơng mẫu, con cháu thảo hiền, sống làm ngƣời có ích cho xã hội.
Có thể nói ngƣời Khmer sống xem nhẹ vật chất, coi trọng tinh thần, xem đức
Phật là lý tƣởng sống cao cả của dân tộc mình. Trong thời kỳ kháng chiến, sƣ
sãi và Phật tử Phật giáo Nam tông đã tham gia đấu tranh giành hòa bình độc
lập cho dân tộc. Đến thời kỳ đổi mới, sƣ sãi và Phật tử Phật giáo Nam tông
tiếp tục chung tay xây dựng và phát triển đất nƣớc, thực hiện tốt phƣơng châm
“Đạo pháp – Dân tộc – Chủ nghĩa Xã hội”.
Mỗi dân tộc ở từng vùng miền nƣớc ta có những nét văn hóa riêng, và
văn hóa Khmer đã góp phần làm cho kho tàng văn hóa các dân tộc Việt Nam
thêm phong phú và đa dạng. Đối với ngƣời Khmer Giồng Riềng, trải qua hai
cuộc kháng chiến chống Pháp, Mỹ, và đi vào công cuộc đổi mới xây dựng đất
nƣớc, họ đã cùng với các dân tộc anh em nhƣ Kinh, Hoa, Chăm đoàn kết
chung lòng chống giặc ngoại xâm cũng nhƣ tham gia tích cực phát triển kinh
tế xã hội huyện nhà. Truyền thống đoàn kết các dân tộc chính là động lực phát
triển toàn diện từ kinh tế, chính trị đến văn hóa xã hội của huyện Giồng
Riềng.
Vì Phật giáo Nam tông chiếm lĩnh hầu nhƣ toàn bộ đời sống văn hóa
tinh thần của ngƣời Khmer, nên nó đã chi phối sâu sắc và ảnh hƣởng rất lớn
đến đời sống của ngƣời Khmer từ lễ hội, ngôn ngữ, nghệ thuật, phong tục tập
quán… Sự ảnh hƣởng đó đã tạo nên một cộng đồng Khmer Giồng Riềng cố
kết, tƣơng thân, tƣơng ái, giàu truyền thống, thể hiện bản sắc dân tộc rõ nét,
cùng tiến bộ trong xã hội… Tuy nhiên, ảnh hƣởng của Phật giáo Nam tông
trong quá trình phát triển về mọi mặt của đời sống xã hội không chỉ là tích
cực, mà từ nhiều nguyên nhân chủ quan, khách quan, nó còn có hạn chế nhất
81
định, khiến cho dân tộc Khmer và ngay cả bản thân Phật giáo Nam tông khó
hòa nhập cùng xu thế phát triển chung.
Vì vậy, để xây dựng một cộng đồng dân tộc Khmer tiến bộ và đậm
đà bản sắc, để xây dựng và củng cố Phật giáo Nam tông luôn đồng hành
cùng dân tộc, để phát huy ảnh hƣởng tích cực và khắc phục hạn chế của
Phật giáo Nam tông đối với đời sống tinh thần của ngƣời Khmer Giồng
Riềng, tác giả luận văn đã đề xuất những giải pháp mang tính đồng bộ cho
cả hệ thống chính trị: chủ trƣơng của Đảng, chính sách của Nhà nƣớc, biện
pháp của MTTQ Việt Nam, và hành động của các tổ chức chính trị xã hội.
Bên cạnh đó, tác giả còn đề cập một số giải pháp đối với sƣ sãi trong Phật
giáo Nam tông trên địa bàn huyện. Để thực hiện đồng bộ và thành công các
giải pháp đó, đòi hỏi sự quan tâm lãnh chỉ đạo của Đảng, sự tăng cƣờng các
chính sách của nhà nƣớc, sự nỗ lực chung tay của MTTQ Việt Nam và các
tổ chức chính trị xã hội, trong đó sự chủ động, tích cực, nhiệt huyết thực
hiện các giải pháp từ phía các sƣ sãi Phật giáo Nam tông trong huyện là
không thể thiếu. Tất cả sẽ tạo thành sức mạnh tổng hợp để giúp Phật giáo
Nam tông luôn đồng hành cùng dân tộc trên con đƣờng hội nhập./.
82
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Phan An (2009), Phật giáo Nam tông của người Khơ - me, Nxb. Chính
trị Quốc gia, Hà Nội.
2. Phan An (2013), “Một vài ghi nhận về đời sống tôn giáo của ngƣời
Khmer Nam bộ trong thời gian gần đây”, Kỷ yếu Hội nghị Thông báo
Dân tộc học 2013, Viện Dân tộc học.
3. Phạm Thị Phƣơng Anh (2014), “Phật giáo Nam tông Khmer với đời
sống ngƣời dân miền Tây Nam bộ,” Kỷ yếu Jội thảo khoa học Phật giáo
Nam tông Khmer đồng hành cùng dân tộc, Kiên Giang.
4. Ban Tôn giáo tỉnh Kiên Giang (2017), Kết quả khảo sát số liệu các tôn
giáo địa bàn tỉnh Kiên Giang, Báo cáo số 26/BC-BTG, Rạch Giá, ngày
15-11-2017.
5. Ban Tôn giáo tỉnh Kiên Giang (2017), Báo cáo tình hình và công tác
quản lý nhà nước về tôn giáo năm 2017 và chương trình công tác tôn
giáo năm 2018, Kiên Giang.
6. Trần Văn Bính (2004), Văn hóa các dân tộc Tây Nam bộ - Thực trạng và
những vấn đề đặt ra, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
7. F. Boas (1921) (Ngô Phƣơng Lan dịch), Trí óc của người Nguyên Thủy,
Nxb. Văn hóa thông tin, Hà Nội.
8. Bộ môn Nhân học (2017), Nhân học đại cương, Trƣờng Đại học Khoa
học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia TP.HCM, Tài liệu đánh máy.
9. Thích Đồng Bổn (chủ biên) (2002), Tiểu sử danh tăng Việt Nam thế kỷ
XX, tập II, Nxb. Tôn giáo, Hà Nội.
10. Trần Văn Bổn (2002), Phong tục và nghi lễ vòng đời người Khmer Nam
Bộ, Nxb. Đại học Quốc gia, Hà Nội.
11. Nguyễn Khắc Cảnh (1998), Phum, sóc Khmer ở đồng bằng sông Cửu
Long, Nxb. Giáo dục, Hà Nội.
83
12. Thái Văn Chải (1997), Tiếng Khmer: Ngữ âm - từ vựng - ngữ pháp,
Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội.
13. Thái Văn Chải (2014), “Phật giáo Nam tông Khmer với việc xây dựng
xã hội bền vững,” Kỷ yếu Hội thảo khoa học Phật giáo Nam tông đồng
hành cùng dân tộc, Kiên Giang.
14. Nguyễn Đức Từ Chi (2003), Góp phần nghiên cứu văn hóa và tộc người,
Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
15. Chi cục Thống kê Giồng Riềng (2017), Niên giám thống kê, Kiên Giang.
16. Công an tỉnh Kiên Giang (2017), Báo cáo tổng kết công tác đấu tranh
chống phản động và chống khủng bố năm 2017, Kiên Giang.
17. Cục Thống kê tỉnh Kiên Giang (2017), Niên giám thống kê, Kiên Giang.
18. Nguyễn Mạnh Cƣờng (2002), Vài nét về người Khmer Nam Bộ, Nxb.
Khoa học xã hội, Hà Nội.
19. Nguyễn Mạnh Cƣờng (2008), Phật giáo Khơ Me Nam bộ, Nxb. Tôn
giáo, Hà Nội.
20. Nguyễn Đức Dũng và Ngô Quang Thắm (2012), “Một số đề xuất
chính sách đối với Phật giáo Nam tông Khmer ở Việt Nam,” Một số
vấn đề dân tộc và tôn giáo ở Nam bộ trong phát triển, Nxb. Khoa học
xã hội, Hà Nội.
21. Bộ Công an, Những vấn đề về công tác an ninh trong cộng đồng người
Khmer ở Việt Nam: Thực trạng và giải pháp, Nxb. Công an Nhân dân,
Hà Nội, 2001.
22. Phạm Đức Dƣơng (2008), Giáo trình bài giảng chủ đề văn hóa Phật
giáo Việt Nam trong tương tác với văn hóa Phật giáo khu vực và thế
giới, Đại học Quốc gia Hà Nội.
23. Nguyễn Ngọc Đệ và Trần Thanh Bé (2005), “Ngƣời Khmer ở Đồng
bằng sông Cửu Long: Những điều kiện thoát nghèo”, Tạp chí Nghiên
cứu Khoa học, số 4, tr 163-172.
84
24. Điều lệ Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, thông qua tại Đại hội đại biểu
Phụ nữ toàn quốc lần thứ XII ngày 9/3/2017.
25. Điều lệ Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh Khóa XI, đƣợc Đại
hội Đoàn toàn quốc lần thứ XI thông qua ngày 13/12/2017.
26. Điều lệ Hội Cựu chiến binh Việt Nam khóa VI, thông qua tại Đại hội
Đại biểu toàn quốc lần thứ VI Hội Cựu chiến binh Việt Nam ngày
15/12/2017.
27. Điều lệ Hội Nông dân Việt Nam, thông qua tại Đại hội đại biểu Hội
Nông dân Việt Nam lần thứ VII ngày 13/12/ 2018.
28. Điều lệ Công đoàn Việt Nam, thông qua tại Đại hội Công đoàn Việt
Nam lần thứ XI (nhiệm kỳ 2013-2018) ngày 26/9/2018.
29. Phạm Thị Phƣơng Hạnh và cs (2011), Văn hóa Khmer Nam bộ - Nét đẹp
trong bản sắc văn hóa Việt Nam, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
30. https://slideshare.vn/lichsuvanhoa/phat-giao-nam-tong-khmer-voi-su-
phat-trien-ben-vung-khu-vuc-tay-nam-bo-f9zbuq.html (truy cập lúc
17:00 ngày 7-3-2019).
31. Huyện Đoàn Giồng Riềng (2017), Báo cáo tổng kết công tác Đoàn và
Phong trào thanh thiếu niên năm 2017, Kiên Giang.
32. Lê Hƣơng (1970), Sử Cao – Miên, Công ty phát hành Huệ Quang, Sài
Gòn.
33. Sơn Phƣớc Hoan và cs (1999-2000), Vai trò của chùa đối với đời sống
văn hóa của đồng bào Khmer Nam bộ, Chuyên đề nghiên cứu khoa
học cấp bộ, cơ quan Đặc trách công tác Nam bộ chủ trì thực hiện.
34. Trần Hồng Liên (2010), Tìm hiểu chức năng xã hội của Phật giáo Việt
Nam, Nxb. Tổng hợp TPHCM.
35. Ngô Văn Lệ (2004), Tộc người và văn hóa tộc người, Nxb. Đại học
Quốc gia TP.HCM.
85
36. Ngô Văn Lệ (2011), Đặc trưng tín ngưỡng tôn giáo và sinh hoạt văn hóa
của các cộng đồng cư dân Nam Bộ, Đề tài khoa học cấp Nhà nƣớc, Khoa
Nhân học – Trƣờng Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn – Đại học
Quốc gia TP.HCM.
37. Ngô Văn Lệ (2013), “Đặc điểm xã hội và đói nghèo ảnh hƣởng đến sự
phát triển, phát triển bền vững của các dân tộc thiểu số: trƣờng hợp
ngƣời Khmer Nam Bộ”, Kỷ yếu Hội nghị Thông báo Dân tộc học 2013,
Viện Dân tộc học.
38. Vũ Đình Mƣời (2014), “Biến đổi kinh tế-xã hội của ngƣời Khơ-me từ
năm 1980 đến nay: Các nghiên cứu và nhận diện ban đầu”, Tạp chí Dân
tộc học, số 1,2, tr 35-46, Hà Nội.
39. Vũ Đình Mƣời (2014), “Các biến đổi về kinh tế-xã hội truyền thống của
ngƣời Khơ-me từ năm 1980 đến nay: Các nghiên cứu và nhận diện ban
đầu”, Tạp chí Dân tộc học, số 1 và 2, tr. 35-46.
40. Thạch Muni (2012), “Hội Đoàn kết Sƣ sãi Yêu nƣớc – thực trạng và giải
pháp”, Kỷ yếu Hội thảo khoa học Biến động tín ngưỡng, tôn giáo trong
quá trình hiện đại hóa, công nghiệp hóa (Nghiên cứu trường hợp Đồng
bằng sông Cửu Long), Cần Thơ.
41. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 3, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
42. C. Mác, Ph. Ăngghen, Toàn tập, tập 1, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
43. Nguyễn Xuân Nghĩa (1979), “Tàn dƣ tín ngƣỡng Arak và Nek tà ở ngƣời
Khmer vùng Đồng bằng sông Cửu Long”, Tạp chí Dân tộc học, số 3, tr.
41- 45.
44. Đoàn Thanh Nô (2002), Người Khmer ở Kiên Giang, Nxb. Văn hóa dân
tộc, Hà Nội.
45. Cao Xuân Phổ (2003), “Đạo Phật của ngƣời Khơ-me Sóc Trăng”, Tạp
chí Nghiên cứu Tôn giáo, số 5, tr 38-45.
86
46. Phòng Dân tộc huyện Giồng Riềng (2018), Báo cáo Kết quả tình hình và
công tác dân tộc huyện Giồng Riềng các năm 2014, 2015, 2016, 2017,
2018.
47. Phân viện Quy hoạch và Thiết kế nông nghệp (2018), Báo cáo thuyết
minh tổng hợp điều chỉnh quy hoạch sử dụng đất đến năm 2020 huyện
Giồng Riềng – tỉnh Kiên Giang, Kiên Giang.
48. Huỳnh Thanh Quang (2011), Giá trị văn hóa Khmer vùng đồng bằng
sông Cửu Long, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
49. http://opac.nlv.gov.vn/pages/opac/wpid-detailbib-id-668058.html (truy
cập lúc 13:00 ngày 17-3-2019).
50. Huỳnh Ngọc Trảng và cộng sự biên soạn (1987), Người Khmer tỉnh Cửu
Long, Sở Văn hóa-thông tin Cửu Long xuất bản.
51. Vƣơng Hoàng Trù-Phú Văn Hẳn và cs (2012), Một số vấn đề dân tộc và
tôn giáo ở Nam bộ trong phát triển, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.
52. Trƣờng Đại học Khoa học Xã hội & Nhân văn Hà Nội và Viện Nghiên
cứu Phật học Việt Nam, nhiều tác giả (2014), Phật giáo nguyên thủy từ
truyền thống đến hiện đại, Nxb. Hồng Đức, Hà Nội.
53. Nguyễn Phƣơng Thảo (1997), Văn hóa dân gian Nam Bộ, Nxb. Giáo
dục, Hà Nội,
54. Vƣơng Xuân Tình và cs (2017), Các dân tộc ở Việt Nam, Tập 3, Các dân
tộc nhóm ngôn ngữ Môn - Khơ-me, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
55. Tylor, E. B., “Văn hóa nguyên thủy,” Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, Hà
Nội.
56. UBND huyện Giồng Riềng (2017), Báo cáo tổng kết 25 năm thực hiện
Chỉ thị số 68-CT/TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa VI) về
công tác ở vùng đồng bào dân tộc Khmer, trên địa bàn huyện Giồng
Riềng, Kiên Giang.
87
57. UBND huyện Giồng Riềng (2018), Báo cáo Kết quả tình hình và công
tác dân tộc 9 tháng đầu năm 2018 và chương trình công tác dân tộc quý
IV năm 2018, Kiên Giang.
58. UBMTTQ Việt Nam huyện Giồng Riềng (2018), Báo cáo sơ kết 3 năm
thực hiện kết luận số 02KL/-ĐCT ngày 29/12/2015 của Đoàn Chủ tịch
Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam “Về đổi mới nội dung,
phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong công tác
tôn giáo”, Kiên Giang.
59. Viện Văn hóa (1988), Tìm hiểu vốn văn hóa dân tộc Khmer Nam bộ,
Nxb. Tổng hợp Hậu Giang.
60. Viện Dân tộc học (2014), Các dân tộc ít người ở Việt Nam (Các tỉnh
phía Nam), Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội.
61. Kỷ yếu Hội thảo khoa học Phật giáo Nam tông Khmer đồng hành cùng
dân tộc (2014), Nxb. Văn hóa – Văn nghệ, Kiên Giang.
62. Tapp, Nicholas (1993) “Karma and cosmology: Anthropology and
religion”, in Asia’s Cultural Mosaic: An Anthropological Introduction,
Grant Evans (ed), pp. 287-306.
63. http://btgcp.gov.vn/Plus.aspx/vi/News/38/0/162/0/1290/Gioi-thieu-so-
luoc-ve-Phat-giao-Nam-tong-Khmer (truy cập lúc 4:57 ngày 6-3-2018).
64. http://btgcp.gov.vn/Plus.aspx/vi/News/38/0/245/0/6790/Kien-Giang-Hoi-
Doan-ket-su-sai-yeu-nuoc-tinh-to-chuc-Dai-hoi-Dai-bieu-lan-thu-VI-
nhiem-ky-2014-2019 (truy cập lúc 16:00 ngày 7-3-2019).
65. http://www.phattuvietnam.net/tinh-than-ngay-10-6-1974-cua-phat-giao-
nam-tong-khmer/amp/ (truy cập lúc 19:00 ngày 7-3-2019).
66. http://ubdt.gov.vn/wps/wcm/uploads/TaiLieu/2013/01/NguyenVanTrong
/BaoCaoTomTat.doc
67. http://www.phatgiaonamtongkhmer.org/gioi-thieu-so-luoc-ve-phat-giao-
nam-tong-khmer-a-188.aspx (truy cập lúc 19:00 ngày 7-3-2019).
88
68. http://phatgiaonamtongkhmer.org/kien-giang--suy-cu-hoa-thuong-danh-
lan-lam-pho-chu-tich-thuong-truc-hoi-doan-ket-su-sai-yeu-nuoc-tinh-
nhiem-ky-2019-%E2%80%93-2024-a-20738.aspx (truy cập lúc 4:48
ngày 15-01-2020).
69. http://tindubao.vn/kien-giang-phan-dau-duy-tri-tang-truong-kinh-te---xa-
hoi-ben-vung/n/12065.html (truy cập lúc 4:41 ngày 6-3-2019).
89
PHỤ LỤC
Phụ lục 1
DANH SÁCH CÁC CHÙA PHẬT GIÁO TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN
GIỒNG RIỀNG HỆ PHÁI NAM TÔNG
(Nguồn: Phòng Nội vụ huyện Giồng Riềng năm 2019)
Số
Số lƣợng tín đồ
Năm
Trụ trì
Stt
Tên chùa
Địa chỉ
thành
lƣợng
hiện nay
lập
tu sĩ
Nam
Nữ
1.
Ấp Cây Thƣợng Chùa Trôm, xã 1931 tọa Danh 18 1.540 1.568 Cây Trôm Bàn Thạch Dỗ
2.
ấp Giồng Chùa Đại đức Đá, xã Bàn 1532 21 1.240 1.260 Giồng Đá Danh Nol Thạch
3.
ấp Tràm Chùa Đại đức Chẹt, xã Bàn 1812 17 984 875 Tràm Chẹt Danh Ky Tân Định
4.
ấp Huỳnh Đại đức Chùa Tố, xã Vĩnh 1733 13 2.105 2.100 Danh Nha Si Cũ Phú Quol
5.
ấp Vĩnh Lợi, Đại đức Chùa xã Vĩnh 1962 15 986 990 Danh Nha Si Mới Thạnh Hộp
Chùa ấp Đƣờng Đại đức
6.
Danh Đƣờng Xuồng Xuồng, xã 1658 11 876 792
Cũ Long Thạnh Sum
7.
Chùa ấp Hai Lành, Đại đức 1842 10 1.876 1.574 Thác Lác xã Ngọc Hòa Danh
1
Lậm
8.
ấp Ngọc Thƣợng Chùa Tân, xã 1900 tọa Danh 16 995 1.156 Cái Đuốc Nhỏ Ngọc Chúc Lợi
9.
ấp Ngọc Đại đức Chùa Bình, xã 1626 16 1.008 1.358 Danh Cái Đuốc Lớn Ngọc Chúc Luận
10.
ấp Ngọc Đại đức Chùa Bình xã 1953 17 1.559 1.250 Danh Cái Đuốc Vàm Ngọc Chúc Săng
11.
ấp Cây Quéo Đại đức Chùa xã Thạnh 1973 9 989 743 Danh Đây Ông Bình Nghệ
ấp Thạnh
12.
Chùa Đông, xã Đại đức 1813 7 796 679 Thạnh Lợi Thạnh Sơn Hiền
Phƣớc
13.
ấp Thạnh Đại đức Chùa Ngọc, xã 1927 5 987 898 Danh Mò Om Thạnh Hƣng Quang
14.
ấp Vĩnh Đại đức Chùa Hòa, thị trấn 1971 6 1.523 1.365 Danh Rạch Chanh Giồng Riềng Phúc
Tổng cộng 181 17.374 16.608
2
Phụ lục 2
MỘT SỐ HÌNH ẢNH TẠI HUYỆN GIỒNG RIỀNG