intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam và chiến lược bảo vệ chủ quyền biển, đảo: Phần 2

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:143

20
lượt xem
10
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Tiếp nội dung phần 1, Cuốn sách "Chiến lược bảo vệ chủ quyền biển, đảo và phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam" phần 2 cung cấp cho người đọc những kiến thức như: Bảo vệ các quyền và lợi ích của Việt Nam trên biển đông; chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam. Mời các bạn cùng tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam và chiến lược bảo vệ chủ quyền biển, đảo: Phần 2

  1. III BẢO VỆ CÁC QUYỀN VÀ LỢI ÍCH CỦA VIỆT NAM TRÊN BIỂN ĐÔNG 1. Các vùng biển “pháp lý” của quốc gia ven biển Công ước của Liên hợp quốc về Luật biển năm 1982 (gọi tắt là Công ước Luật biển năm 1982, viết tắt tiếng Anh là UNCLOS) là một văn bản pháp lý quốc tế quy định phạm vi điều chỉnh và chế độ pháp lý đối với việc triển khai các hoạt động khai thác biển và đại dương phù hợp với xu hướng phát triển chung, bảo đảm công bằng lợi ích cho các quốc gia có biển và không có biển. Công ước Luật biển năm 1982 bao gồm 320 điều và 9 phụ lục. Năm 1967, Liên hợp quốc đã bảo trợ tổ chức Hội nghị quốc tế về soạn thảo Công ước Luật biển theo sáng kiến khởi xướng của Đại sứ Arvid Pardo, một luật gia có tầm nhìn sắc sảo và vượt trước thời đại của Malta - một quốc gia ven biển nhỏ bé ở châu Âu. Sau 9 năm kiên trì đàm phán, ngày 30/4/1982 với sự tham gia của hơn 150 quốc gia, nhiều tổ chức 88
  2. quốc tế và tổ chức phi chính phủ, Hội nghị đã chính thức thông qua Công ước Luật biển. Công ước Luật biển năm 1982 ra đời ngay lập tức nhận được sự ủng hộ mạnh mẽ của đông đảo cộng đồng quốc tế với 107 quốc gia tham gia ký vào ngày 10/12/1982 tại Montego Bay, Jamaica. Đây là “một trong những công cụ pháp lý quan trọng nhất của thế giới”1. Thậm chí, Công ước Luật biển năm 1982 còn được ví như bản “Hiến pháp về biển và đại dương” của cộng đồng quốc tế sau Hiến chương Liên hợp quốc, thể hiện quá trình đấu tranh và nhượng bộ giữa hai trường phái: tự do biển cả và chủ quyền quốc gia. Sau khi Guyana (quốc gia thứ 60) phê chuẩn, Công ước Luật biển năm 1982 chính thức có hiệu lực từ ngày 16/11/1994. Đến nay đã có 164 quốc gia là thành viên Công ước Luật biển năm 1982, trong đó có Việt Nam. Công ước Luật biển năm 1982 là điều ước quốc tế yêu cầu các thành viên phải chấp thuận sự điều chỉnh “cả gói” (package deal); nghĩa là các quốc gia thành viên có trách nhiệm thực hiện toàn bộ các quy định của Công ước và không được phép đưa ra các bảo lưu, trừ việc có những tuyên bố được quy định cụ thể trong Công ước. Công ước Luật biển năm 1982 kế thừa các điều ước quốc tế ___________ 1. Đây là khẳng định của Tổng Thư ký Liên hợp quốc Ban Ki-Moon tại Hội nghị kỷ niệm 30 năm ngày ra đời Công ước Luật biển năm 1982. 89
  3. có trước về biển và pháp điển hoá các quy định mang tính tập quán quốc tế tồn tại qua một thời gian dài trong thực tiễn của các quốc gia, cũng như những xu hướng phát triển mới trong thực tiễn khai thác, sử dụng biển và đại dương. Hình 8: Sơ đồ các vùng biển và thềm lục địa theo UNCLOS Đặc biệt, Công ước Luật biển năm 1982 là văn bản luật pháp quốc tế đầu tiên đưa ra cách tiếp cận quản lý biển theo không gian. Công ước chia bề mặt biển và đại dương, cũng như đáy biển và đại dương ra thành 7 vùng biển có chế độ pháp lý khác nhau. Trên bề mặt biển có 5 vùng là: nội thủy, lãnh hải, tiếp giáp (lãnh hải), vùng đặc quyền kinh tế và vùng biển công (vùng biển quốc 90
  4. tế)1, còn dưới đáy có 2 vùng là: thềm lục địa (bao gồm lòng đất dưới thềm lục địa) và đáy đại dương (Hình 8). Như vậy, quốc gia ven biển như Việt Nam có chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán đối với 5 vùng biển là: nội thủy, lãnh hải, tiếp giáp, đặc quyền kinh tế và thềm lục địa. Ngoài ra, quốc gia ven biển còn được hưởng các quyền tự do trong vùng biển quốc tế và quyền khai thác nguồn lợi đáy đại dương trên cơ sở tuân thủ các quy định của luật pháp quốc tế. Căn cứ để phân chia các vùng biển như vậy là đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải được Công ước Luật biển năm 1982 xác định theo hai phương pháp: đường cơ sở thẳng và đường cơ sở theo ngấn nước thủy triều thấp nhất ven bờ biển2. - Nội thủy là toàn bộ vùng biển tiếp giáp với bờ biển và nằm ở phía trong đường cơ sở của quốc gia ven biển, bao gồm các thủy vực như: cửa sông, đầm phá, vũng, vụng và biển nông sát bờ, v.v. Trong vùng nội thủy, quốc gia ven biển có chủ quyền hoàn toàn và tuyệt đối như đối với lãnh thổ đất liền của mình. - Lãnh hải là vùng biển nằm phía ngoài đường cơ sở, mở rộng đến 12 hải lý tính từ đường cơ sở ___________ 1. Theo cách gọi của Luật Biển Việt Nam năm 2012. 2. Lê Quý Quỳnh: “Phạm vi và chế độ pháp lý các vùng biển Việt Nam”, trong Tài liệu tuyên truyền biển, đảo (Dành cho cán bộ làm công tác thông tin cơ sở), Nxb. Thông tin và Truyền thông, Hà Nội, 2017, tr.194-197. 91
  5. của quốc gia ven biển. Đối với vùng lãnh hải, quốc gia ven biển có chủ quyền hoàn toàn đối với vùng biển, đáy biển và lòng đất dưới đáy biển, và vùng trời phía trên lãnh hải, nhưng không tuyệt đối vì quốc gia ven biển phải tôn trọng quyền đi qua không gây hại trong lãnh hải của tàu thuyền nước ngoài, nhưng máy bay bay trên vùng trời lãnh hải vẫn phải xin phép. Quốc gia ven biển có quyền ban hành các quy định luật pháp để kiểm soát và giám sát tàu thuyền nước ngoài thực hiện quyền đi qua không gây hại trong lãnh hải của quốc gia ven biển (xem kỹ quy định về vấn đề này trong Luật Biển Việt Nam năm 2012). Ranh giới ngoài của vùng lãnh hải (cách đường cơ sở 12 hải lý) là đường “Biên giới quốc gia trên biển” của quốc gia ven biển và có giá trị pháp lý như đường biên giới quốc gia trên lãnh thổ đất liền (ví dụ: biên giới Việt Nam - Lào, Việt Nam - Trung Quốc, Việt Nam - Campuchia). - Vùng tiếp giáp (lãnh hải) được hiểu là vùng biển nằm ngoài lãnh hải và tiếp giáp với lãnh hải, có chiều rộng tối đa là 12 hải lý kể từ ranh giới ngoài của lãnh hải hay cách đường cơ sở tối đa 24 hải lý. Vùng tiếp giáp lãnh hải là vùng biển đặc thù nằm trong vùng đặc quyền kinh tế của quốc gia ven biển, nên có thể xem vùng này như một vùng đệm để ngăn ngừa và trừng trị các vi phạm xảy ra trong lãnh hải. Cụ thể, trong vùng tiếp giáp lãnh hải, quốc gia ven biển có quyền chủ 92
  6. quyền và quyền tài phán trong việc ngăn ngừa những vi phạm đối với các luật và quy định hải quan, thuế khoá, y tế hay nhập cư trên lãnh thổ hay trong lãnh hải của mình, có quyền tài phán trong việc trừng trị những vi phạm đối với các luật và quy định nói trên, xảy ra trên lãnh thổ hay trong lãnh hải của mình. Ngoài ra, Điều 303 của Công ước Luật biển năm 1982 còn mở rộng quyền của quốc gia ven biển đối với các hiện vật khảo cổ và lịch sử, theo đó, việc lấy các hiện vật từ đáy biển trong vùng tiếp giáp mà không được phép của quốc gia ven biển, sẽ được coi là vi phạm các luật và quy định của quốc gia ven biển ở trên lãnh thổ hoặc trong lãnh hải của mình. - Vùng đặc quyền kinh tế là vùng biển nằm phía ngoài lãnh hải, và tiếp liền với lãnh hải mở rộng về phía biển đến 200 hải lý tính từ đường cơ sở và có chiều rộng 188 hải lý tính từ rìa ngoài lãnh hải, gồm cả vùng tiếp giáp. Tại vùng biển này, quốc gia ven biển không có chủ quyền, chỉ có các quyền thuộc chủ quyền về việc thăm dò, khai thác, bảo tồn và quản lý các tài nguyên thiên nhiên, sinh vật hoặc không sinh vật, của vùng nước bên trên đáy biển, của đáy biển và lòng đất dưới đáy biển, cũng như về những hoạt động khác nhằm thăm dò và khai thác vùng này vì mục đích kinh tế, như việc sản xuất năng lượng từ nước, hải lưu và gió; và quyền tài phán đối với nghiên cứu khoa học về biển, bảo vệ và gìn giữ môi trường 93
  7. biển, lắp đặt và sử dụng... các thiết bị, công trình. Các quốc gia khác có quyền tự do hàng hải và hàng không, quyền tự do đặt cáp và ống dẫn ngầm trong và trên bầu trời của vùng đặc quyền kinh tế này. - Thềm lục địa của một quốc gia ven biển bao gồm đáy biển và lòng đất dưới đáy biển bên ngoài lãnh hải của quốc gia đó, trên toàn bộ phần kéo dài tự nhiên của lãnh thổ đất liền của quốc gia đó cho đến bờ ngoài của rìa lục địa, hoặc đến cách đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải 200 hải lý, khi bờ ngoài của rìa lục địa của quốc gia đó ở khoảng cách gần hơn, tối đa không quá 350 hải lý kể từ đường cơ sở hoặc không quá 100 hải lý kể từ đường đẳng sâu 2.500 m. Quốc gia ven biển thông báo những thông tin về ranh giới các thềm lục địa của mình, khi thềm này mở rộng quá 200 hải lý kể từ đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải, cho Ủy ban Ranh giới Thềm lục địa được thành lập theo Phụ lục II Công ước Luật biển năm 1982, trên cơ sở sự đại diện công bằng về địa lý. Ủy ban gửi cho các quốc gia ven biển những kiến nghị về các vấn đề liên quan đến việc ấn định ranh giới ngoài thềm lục địa của họ. Các ranh giới do một quốc gia ven biển ấn định trên cơ sở các kiến nghị đó là dứt khoát và có tính chất bắt buộc. Đồng thời quốc gia ven biển gửi cho Tổng Thư ký Liên hợp quốc các bản đồ và các điều chỉ dẫn thích đáng, kể cả các dữ kiện trắc địa, chỉ rõ một cách thường xuyên ranh giới ngoài của thềm lục địa của mình. 94
  8. Công ước Luật biển năm 1982 quy định trong phạm vi thềm lục địa của mình, quốc gia ven biển có các quyền thuộc chủ quyền về mặt thăm dò, khai thác tài nguyên thiên nhiên ở đó, như: dầu khí, băng cháy, sa khoáng chôn vùi của thiếc, đồng, chì kẽm,... Đặc biệt, khoản 2 Điều 77 của Công ước Luật biển năm 1982 nhấn mạnh quyền chủ quyền đối với thềm lục địa mang tính đặc quyền ở chỗ nếu quốc gia ven biển không thăm dò hay không khai thác tài nguyên thiên nhiên của thềm lục địa thì cũng không ai có quyền thăm dò, khai thác tại đây nếu không có sự thỏa thuận rõ ràng của quốc gia đó. Như vậy, các quy định của Công ước Luật biển năm 1982 về phạm vi và quy chế pháp lý các vùng biển chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của quốc gia ven biển rất rõ ràng và minh bạch. Quốc gia ven biển có các quyền hợp pháp và chính đáng đối với mỗi vùng biển của mình phù hợp với các quy định của Công ước. Khi thực hiện các quyền đó, quốc gia ven biển có nghĩa vụ tôn trọng các quyền tương tự của các quốc gia ven biển khác. Đó là yêu cầu khách quan của trật tự pháp lý trên biển mà cộng đồng quốc tế đã cùng nhau xây dựng nên; nghĩa là, quyền hạn phải đi cùng với nghĩa vụ theo các cam kết quốc tế1. ___________ 1. Xem Lê Quý Quỳnh: “Phạm vi và chế độ pháp lý các vùng biển Việt Nam”, Sđd, tr.198. 95
  9. 2. Quy chế pháp lý của vùng biển quốc tế và đáy đại dương Vùng biển quốc tế là vùng biển nằm ngoài vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý của quốc gia ven biển (còn có các tên gọi: vùng biển công, biển cả, vùng biển ngoài quyền tài phán quốc gia). Đây là nơi tất cả các quốc gia có biển và không có biển đều có 6 quyền tự do: tự do hàng hải, tự do hàng không, tự do đặt các dây cáp hoặc ống ngầm với điều kiện tuân thủ Phần VI Công ước Luật biển năm 1982, tự do xây dựng các đảo nhân tạo hoặc các thiết bị khác được pháp luật quốc tế cho phép với điều kiện tuân thủ Phần VI Công ước Luật biển năm 1982, tự do đánh bắt hải sản trong các điều đã được nêu ở Mục 2 Phần VI Công ước Luật biển năm 1982, tự do nghiên cứu khoa học với các điều kiện tuân thủ các phần VI, VIII của Công ước Luật biển năm 1982. Khi thực hiện các quyền tự do này, các quốc gia phải tôn trọng lợi ích của các quốc gia khác, cũng như phải tuân thủ các quy định liên quan của Công ước Luật biển năm 1982 về nghĩa vụ hợp tác bảo vệ môi trường, bảo tồn tài nguyên sinh vật biển, an toàn hàng hải, chống tội phạm, đặc biệt là tội phạm cướp biển, chuyên chở, buôn bán ma túy, chất độc hại, v.v.. Công ước cũng quy định vùng biển quốc tế được sử dụng vì mục đích hòa bình và không quốc gia nào được phép đòi một 96
  10. khu vực nào đó của vùng biển quốc tế thuộc chủ quyền của mình1. Đáy đại dương hay Đáy biển quốc tế là vùng đáy biển và lòng đất dưới đáy biển nằm phía ngoài thềm lục địa của quốc gia ven biển. Công ước Luật biển năm 1982 đã có những quy định mới trong luật biển quốc tế hiện đại. Đó là các quy định đáy đại dương là di sản (của để đời) chung của nhân loại và không một quốc gia nào có quyền đòi hỏi chủ quyền hay quyền chủ quyền ở đáy đại dương, kể cả tài nguyên ở đó. Khác với vùng biển quốc tế, các quốc gia không có quyền tự do khai thác các nguồn tài nguyên thiên nhiên ở đáy đại dương, nên Cơ quan Quyền lực quốc tế về đáy đại dương (trụ sở ở Jamaica) thay mặt các quốc gia thành viên điều chỉnh và quản lý mọi hoạt động liên quan tới đáy đại dương theo chế độ chung, như: thăm dò, khai thác tài nguyên ở đây. Đặc biệt, Công ước có hẳn một phần quy định chi tiết các nguyên tắc, thủ tục, cơ chế giải quyết các tranh chấp quốc tế bằng biện pháp hòa bình, v.v.. Ngoài ra, Điều 13 Công ước Luật biển năm 1982 định nghĩa: Bãi cạn lúc chìm lúc nổi (haut fonds découvrants) là những vùng đất nhô cao tự nhiên có biển bao quanh, khi thủy triều xuống thấp thì lộ ra, khi thủy triều lên cao thì bị ngập nước. Chế độ pháp lý của đảo: Các đảo có lãnh ___________ 1. Xem Lê Quý Quỳnh: “Phạm vi và chế độ pháp lý các vùng biển Việt Nam”, Sđd, tr.199. 97
  11. hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa theo đúng các quy định của Công ước Luật biển năm 1982 áp dụng cho các lãnh thổ đất liền khác. Riêng với các đảo, đá nào không thích hợp cho con người đến ở hoặc cho một đời sống kinh tế riêng thì không có vùng đặc quyền về kinh tế và thềm lục địa. Như vậy, Công ước Luật biển năm 1982 sau khi có hiệu lực (ngày 16/11/1994) đã trở thành khung khổ pháp lý bắt buộc đối với đại đa số các quốc gia trên thế giới là thành viên của Công ước, đối với các quốc gia khác Công ước Luật biển năm 1982 cũng có giá trị như một luật tập quán. Công ước đã được vận dụng khá hiệu quả. Tuy nhiên, trên thực tế Công ước không thể đề cập tới tất cả các khía cạnh luật pháp trong hoạt động thực tiễn của các quốc gia, lại càng không phải là nguồn luật duy nhất để các quốc gia hoạch định các vùng biển của mình và giải quyết phân định các vùng biển chồng lấn với các quốc gia khác. Trong việc đơn phương quy định các vùng biển của mình và phân định các vùng biển chồng lấn, các quốc gia còn vận dụng các luật pháp quốc gia, các thực tiễn quốc tế, án lệ quốc tế và các thoả thuận song phương và đơn phương khác1. ___________ 1. Xem Ban Tuyên giáo Trung ương: 100 câu hỏi - đáp về biển, đảo dành cho tuổi trẻ Việt Nam, Nxb. Thông tin và Truyền thông, Hà Nội, 2013. 98
  12. Chủ quyền là quyền làm chủ tuyệt đối của quốc gia độc lập đối với lãnh thổ của mình. Chủ quyền của quốc gia ven biển là quyền tối cao của quốc gia được thực hiện trong phạm vi nội thủy và lãnh hải của quốc gia đó. Quyền chủ quyền là các quyền của quốc gia ven biển được hưởng trên cơ sở chủ quyền đối với mọi loại tài nguyên thiên nhiên trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của mình, cũng như đối với các hoạt động nhằm thăm dò và khai thác vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của quốc gia đó vì mục đích kinh tế, bao gồm cả việc sản xuất năng lượng từ nước, hải lưu và gió, v.v.. Quyền tài phán là thẩm quyền riêng biệt của quốc gia ven biển trong việc đưa ra các quyết định, quy phạm và giám sát việc thực hiện chúng, như: cấp phép, giải quyết và xử lý đối với một số loại hình hoạt động, các đảo nhân tạo, thiết bị và công trình trên biển; bảo vệ và gìn giữ môi trường biển trong vùng đặc quyền kinh tế hay thềm lục địa của quốc gia đó. Nguồn: Ban Tuyên giáo Trung ương: 100 câu hỏi - đáp về biển, đảo dành cho tuổi trẻ Việt Nam, Sđd. 3. Các tranh chấp chủ quyền biển, đảo ở Biển Đông Như đã đề cập ở trên, Biển Đông là khu vực chứa đựng các quyền và lợi ích đan xen giữa các quốc gia không chỉ trong, mà còn cả ngoài khu vực liên quan đến quyền tự do hàng hải và hàng không. Các mối quan hệ lợi ích đan xen quá phức 99
  13. tạp giữa: (i) các nước láng giềng trong khu vực; (ii) các cường quyền chính trị nước lớn với các nước nhỏ hơn; (iii) các quốc gia trong khu vực và ngoài khu vực; (iv) các cường quyền chính trị nước lớn với nhau; (v) lợi ích đa phương và song phương; và (vi) lợi ích cốt lõi và lợi ích chung1. Các quan hệ lợi ích đan xen như vậy định hình các loại tranh chấp trong Biển Đông. Đây cũng là khu vực có tranh chấp chủ quyền biển, đảo kéo dài, phức tạp, chứa đựng yếu tố “khó lường”. Trên Biển Đông có 2 loại tranh chấp chủ yếu là: tranh chấp về chủ quyền lãnh thổ và tranh chấp về việc xác định ranh giới các vùng biển chồng lấn (tranh chấp về lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa) của các bên liên quan hay còn gọi là tranh chấp về phân định biển2. Ngoài ra, còn có các tranh chấp về tài nguyên biển và tranh chấp vùng trời trên biển (vùng thông báo bay - FIR). Tính phức tạp của các tranh chấp ở Biển Đông do 5 nguyên nhân chính3: (i) Nguyên nhân địa lý (Biển Đông là một biển nửa kín, có nhiều quốc gia bao quanh, tranh chấp ở đây liên quan nhiều ___________ 1. Xem Nguyễn Chu Hồi (Chủ biên), Vũ Hải Đăng: An ninh môi trường và hòa bình ở Biển Đông, Sđd, tr. 65-67. 2, 3. Ủy ban Biên giới Quốc gia: Tài liệu định hướng công tác tuyên truyền về biển đảo, Nxb. Dân trí, Hà Nội, 2016, tr.11, 11-12. 100
  14. nước, nhiều bên); (ii) Nguyên nhân do sự tồn tại dai dẳng các tranh chấp về chủ quyền đối với một số nhóm đảo, đá ở Biển Đông; (iii) Nguyên nhân có sự chồng lấn giữa các vùng biển (chủ yếu là chồng lấn giữa vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý và thềm lục địa) mà các quốc gia ven biển ở Biển Đông có quyền yêu sách theo quy định của luật pháp quốc tế hiện đại, đặc biệt là của Công ước Luật biển năm 1982; (iv) Nguyên nhân do yêu sách biển phi lý của Trung Quốc dựa trên “đường chín đoạn” (còn gọi là “đường lưỡi bò”) - một yêu sách không dựa trên luật pháp quốc tế và Công ước Luật biển năm 1982; (v) Nguyên nhân do các hoạt động đơn phương trên thực địa làm thay đổi nguyên trạng, gia tăng căng thẳng, đi ngược lại luật pháp quốc tế và các thỏa thuận khu vực như Tuyên bố về ứng xử của các bên tại Biển Đông (DOC). Trong số các nguyên nhân trên, theo Ủy ban Biên giới Quốc gia, nguyên nhân số (iv) và (v) là 2 nguyên nhân chủ yếu gây ra tính phức tạp, rất khó giải quyết bằng biện pháp hòa bình trên cơ sở luật pháp quốc tế. Có thể nói, chừng nào các tranh chấp chủ quyền biển, đảo như vậy còn chưa được giải quyết thỏa đáng thì chưa thể có hòa bình và ổn định thực sự trong khu vực Biển Đông và rộng hơn. Hậu quả của nó sẽ ảnh hưởng khôn lường đến phát triển kinh tế biển, đến khai thác và sử dụng hợp lý nguồn tài nguyên giàu có và đa dạng, đến phát triển bền vững khu vực Biển Đông 101
  15. nói chung và vùng biển của các quốc gia trong khu vực nói riêng, trong đó có Việt Nam. 4. Vấn đề chủ quyền của Việt Nam ở Biển Đông Liên quan đến Việt Nam có ba vấn đề chủ quyền nổi bật là: (i) Vấn đề tranh chấp chủ quyền lãnh thổ ở hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa; (ii) Yêu sách “đường chín đoạn” trên Biển Đông; (iii) Tranh chấp trong phân định các vùng biển với các nước láng giềng trong khu vực Biển Đông. 4.1. Chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa a) Việt Nam là Nhà nước đầu tiên xác lập chủ quyền và là quốc gia duy nhất quản lý liên tục, hòa bình, phù hợp với các quy định của luật pháp quốc tế đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa1 Cho đến thế kỷ XVII, hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là các đảo vô chủ. Vào nửa đầu thế kỷ XVII, Chúa Nguyễn tổ chức “đội Hoàng Sa” (Cát Vàng) lấy người dân ở xã An Vĩnh, huyện Bình Sơn, phủ Quảng Ngãi ra quần đảo Hoàng Sa thu lượm hàng hóa của các tàu mắc cạn, đánh bắt hải sản quý hiếm mang về dâng nộp và còn đo vẽ, ___________ 1. Ủy ban Biên giới Quốc gia: Những vấn đề liên quan đến chủ quyền biển, đảo của Việt Nam trên Biển Đông, Sđd, tr. 33-38. 102
  16. trồng cây, dựng mốc trên hai quần đảo. Theo hiểu biết địa lý lúc bấy giờ, địa danh quần đảo Hoàng Sa liền một dải, bao gồm cả Hoàng Sa và Vạn Lý Trường Sa. Vào nửa đầu thế kỷ XVIII, Chúa Nguyễn tổ chức thêm “đội Bắc Hải” cấp giấy phép cho người dân ở thôn Tứ Chính hoặc xã Cảnh Dương, phủ Bình Thuận ra quần đảo Trường Sa, cũng với nhiệm vụ như đội Hoàng Sa. Các hoạt động của nhà Nguyễn tại hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa được lưu lại không chỉ trong tài liệu lịch sử của nhiều tác giả trong nước như Toàn tập Thiên nam Tứ chí lộ đồ thư của Đỗ Bá tự Công Đạo (năm 1686) hay Phủ biên Tạp lục của Lê Quý Đôn (năm 1776) mà còn được người nước ngoài ghi chép lại khi họ đến làm ăn, sinh sống tại Việt Nam. Trong thời kỳ Pháp thuộc, Chính phủ Pháp đã có nhiều hành động củng cố chủ quyền của Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Từ những năm 1925 và 1927, Pháp đã tổ chức điều tra và duy trì tuần tra trên quần đảo Hoàng Sa. Liên tục trong các năm 1930-1933, Pháp đã đưa quân đội ra đóng ở quần đảo Trường Sa. Tiếp đó, để tiện quản lý, năm 1933, Pháp đã sáp nhập quần đảo Trường Sa vào tỉnh Bà Rịa (Nam Kỳ) và đến năm 1938 đã thành lập đơn vị hành chính ở Hoàng Sa thuộc tỉnh Thừa Thiên. Bên cạnh các hoạt động đó, Pháp còn cho đặt cột mốc, xây hải đăng, trạm khí tượng, trạm vô tuyến điện trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Trong quan hệ 103
  17. quốc tế, Pháp đã nhiều lần lên tiếng phản đối các đòi hỏi chủ quyền của Trung Quốc đối với quần đảo Hoàng Sa. Ngày 14 tháng 10 năm 1950, Pháp chính thức trao việc quản lý quần đảo Hoàng Sa cho Chính quyền Việt Nam Cộng hoà. Tại Hội nghị San Francisco tháng 9 năm 1951, với 48/51 phiếu, các nước đã bác bỏ đề nghị trao Hoàng Sa và Trường Sa cho Trung Quốc. Cũng tại Hội nghị này, đại diện chính quyền Việt Nam lúc đó đã tuyên bố chủ quyền không thể tranh cãi của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa mà không có nước nào phản đối. Như vậy, Hội nghị đã thừa nhận chủ quyền của Việt Nam. Về hành chính, năm 1956, Chính quyền Việt Nam Cộng hòa quyết định quần đảo Trường Sa thuộc tỉnh Phước Tuy và năm 1961 chuyển quần đảo Hoàng Sa từ tỉnh Thừa Thiên vào tỉnh Quảng Nam. Cùng với việc giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, tháng 4 năm 1975 Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam đã ra tuyên bố khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Liên tục từ đó đến nay, Chính phủ Việt Nam đã ban hành nhiều văn bản pháp luật quan trọng, khẳng định hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là một bộ phận không thể tách rời của lãnh thổ Việt Nam và Việt Nam có đầy đủ chủ quyền đối với hai quần đảo này, phù hợp với các quy định 104
  18. của luật pháp và thực tiễn quốc tế. Về quản lý hành chính, năm 1982, Chính phủ đã quyết định thành lập huyện đảo Trường Sa trực thuộc tỉnh Đồng Nai và huyện đảo Hoàng Sa trực thuộc tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng. Sau khi điều chỉnh địa giới hành chính, hiện nay huyện Hoàng Sa trực thuộc thành phố Đà Nẵng và huyện Trường Sa trực thuộc tỉnh Khánh Hoà. Ngày 11 tháng 4 năm 2007, để hoạt động quản lý hành chính hiệu quả hơn, Chính phủ ban hành Nghị định số 65/2007/NĐ-CP thành lập thị trấn Trường Sa và hai xã Song Tử Tây và Sinh Tồn thuộc huyện Trường Sa. Việt Nam có đầy đủ bằng chứng lịch sử, pháp lý để khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Việt Nam là Nhà nước đầu tiên xác lập chủ quyền và là quốc gia duy nhất đã chiếm hữu, quản lý thực sự hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa một cách liên tục, hoà bình và phù hợp với các quy định luật pháp quốc tế khi các quần đảo này chưa thuộc chủ quyền của bất cứ quốc gia nào. Trung Quốc chỉ bắt đầu yêu sách quần đảo “Tây Sa” (Hoàng Sa) từ đầu thế kỷ XX, khởi đầu là việc năm 1909 Đô đốc Quảng Đông Lý Chuẩn tiến hành đổ bộ chớp nhoáng lên một số đảo ở quần đảo Hoàng Sa, khi Việt Nam đã là chủ ở đó. Nhà nước Việt Nam luôn luôn bảo vệ tích cực các quyền và chủ quyền của mình trước mọi mưu 105
  19. đồ và hành động xâm phạm tới chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và quyền lợi của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. b) Tình hình thực tế ở hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa Năm 1956, Trung Quốc dùng vũ lực đánh chiếm phía đông quần đảo Hoàng Sa, năm 1974 đánh chiếm phần phía tây quần đảo Hoàng Sa do Việt Nam Cộng hòa chiếm giữ và từ đó Trung Quốc đang chiếm đóng bất hợp pháp quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam. Hành động này khi đó đã bị Việt Nam Cộng hòa phản đối mạnh mẽ. Trong giai đoạn 1954-1975, Việt Nam Cộng hòa đã áp dụng nhiều biện pháp hữu hiệu để bảo vệ và thực thi chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa1. Hiện nay một số nước ven Biển Đông cũng nêu yêu sách chủ quyền đối với một phần hoặc toàn bộ hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, tạo nên cục diện phức tạp. Trung Quốc nêu yêu sách chủ quyền và đóng quân trên toàn bộ quần đảo Hoàng Sa và một số (7) vị trí ở quần đảo Trường Sa. Đài Loan chiếm đóng đảo Ba Bình lớn nhất ở quần đảo Trường Sa. Philippines đóng quân ở 9 đảo, đá thuộc ___________ 1. Ủy ban Biên giới Quốc gia: Tài liệu định hướng công tác tuyên truyền về biển đảo, Sđd, tr.13-14. 106
  20. quần đảo Trường Sa (trong đó có đảo Song Tử Đông). Malaysia đóng quân ở 5 đảo, đá thuộc quần đảo Trường Sa. Việt Nam đang quản lý và đóng quân trên 21 đảo, đá. Còn Brunei nêu yêu sách đối với một phần vùng biển phía nam của quần đảo Trường Sa, nhưng không chiếm giữ bất kỳ đảo, đá hay bãi cạn nào ở quần đảo Trường Sa1 (Hình 9). Hình 9: Các vị trí chiếm đóng của các bên trên quần đảo Trường Sa Nguồn: Hải quân nhân dân Việt Nam. ___________ 1. Ủy ban Biên giới Quốc gia: Những vấn đề liên quan đến chủ quyền biển, đảo của Việt Nam trên Biển Đông, Sđd, tr.39. 107
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
4=>1