intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Phát triển cơ sở hạ tầng tại Việt Nam và những khó khăn thách thức đặt ra

Chia sẻ: Roong KLoi | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:19

205
lượt xem
21
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Nội dung của bài viết trình bày về sự phát triển của cơ sở hạ tầng ở nước ta trong thời gian vừa qua, hạ tầng giao thông, hạ tầng năng lượng, hạ tầng thủy lợi, hạ tầng đô thị, hạ tầng thông tin và truyền thông, hạ tầng khu công nghiệp, hạ tầng thương mại, hạ tầng giáo dục, đào tạo, hạ tầng y tế, hạ tầng văn hóa, thể thao, du lịch, những khó khăn, thách thức đặt ra và một số khuyến nghị nhằm phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng ở Việt Nam.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Phát triển cơ sở hạ tầng tại Việt Nam và những khó khăn thách thức đặt ra

PHÁT TRIỂN CƠ SỞ HẠ TẦNG TẠI VIỆT NAM<br /> VÀ NHỮNG KHÓ KHĂN THÁCH THỨC ĐẶT RA<br /> Vụ Kết cấu hạ tầng và đô thị<br /> Bộ Kế hoạch và Đầu tư<br /> <br /> 1. Sự phát triển của cơ sở hạ tầng ở nước ta trong thời gian<br /> vừa qua<br /> Trong những năm qua, Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đã dành sự<br /> quan tâm lớn đến đầu tư phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng (CSHT) kinh<br /> tế - xã hội. Nguồn lực đầu tư phát triển CSHT ngày càng lớn và đa dạng.<br /> Trong mười năm qua, tỷ lệ vốn đầu tư phát triển CSHT chiếm khoảng<br /> 24,5% tổng đầu tư xã hội, bằng khoảng 9% GDP, trong đó vốn đầu tư<br /> từ ngân sách nhà nước và có nguồn gốc từ ngân sách nhà nước chiếm<br /> 65%. Cơ cấu nguồn vốn ngày càng đa dạng, ngoài nguồn lực nhà nước,<br /> đã và đang mở rộng sự tham gia của toàn xã hội, đặt biệt là sự tham gia<br /> đóng góp tự nguyện của nhân dân với nhiều hình thức đa dạng trong<br /> phát triển hạ tầng nông thôn. Nhiều hình thức đầu tư phát triển CSHT<br /> cùng các mô hình, phương thức đầu tư, kinh doanh các dịch vụ hạ tầng<br /> được đa dạng hóa, mở rộng, các doanh nghiệp đầu tư vào các dự án giao<br /> thông theo hình thức BOT, BTO và BT ngày càng nhiều. Nhờ có sự đầu<br /> tư trên, hệ thống CSHT ở nước ta có bước phát triển mạnh cả về chiều<br /> rộng và chiều sâu, cơ bản đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước, góp<br /> phần bảo đảm tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh, phát triển các lĩnh vực<br /> văn hóa, xã hội, giảm nhẹ thiên tai và bảo đảm an ninh quốc phòng,<br /> nâng cao đời sống nhân dân, rút ngắn khoảng cách giữa các vùng, miền.<br /> Nhiều công trình hiện đại đã được đầu tư xây dựng đạt tiêu chuẩn quốc<br /> tế, tạo diện mạo mới của đất nước trong quá trình công nghiệp hóa, hiện<br /> đại hóa và hội nhập quốc tế. Năng lực công nghệ và chất lượng nguồn<br /> nhân lực trên các lĩnh vực xây dựng, quản lý và vận hành kết cấu hạ<br /> 625<br /> <br /> tầng được nâng lên. Sự phát triển của hệ thống CSHT được thể hiện trên<br /> các mặt sau:<br /> 1.1 Hạ tầng giao thông<br /> *) Về đường bộ<br /> Trong giai đoạn 2000-2010, tổng chiều dài đường bộ tăng 39.300<br /> km từ 217.100 km năm 2000 lên 256.500 vào năm 2020, trong đó,<br /> đường cao tốc từ 24 km năm 2000 tăng lên khoảng 150 km năm 2010,<br /> quốc lộ tăng từ 15.500 km lên 17.000 km. Trong mười năm, đã phát<br /> triển thêm 16.700 km đường xã và 12.400 km đường huyện, hơn 5.000<br /> km đường tỉnh. Mạng lưới đường bộ đã được cải thiện rõ rệt, mật độ<br /> đường bộ tăng lên đáng kể từ 0,66 km/km năm 2000 lên 0,77 km/km<br /> vào năm 2010. Hàng loạt các công trình giao thông quy mô lớn, nhiều<br /> tuyến đường trục giao thông chính yếu, nhiều cầu lớn đã và đang được<br /> nâng cấp, xây dựng mới, bước đầu thiết lập được mạng lưới đường<br /> huyết mạch tương đối đồng bộ, nâng cao đáng kể năng lực vận tải phục<br /> vụ phát triển kinh tế - xã hội, hội nhập quốc tế và bảo đảm quốc phòng,<br /> an ninh của đất nước.<br /> *) Về đường sắt<br /> Đã có bước cải thiện về chất lượng và tổ chức vận tải. Tổng chiều<br /> dài đường sắt đạt 2.654 km gồm ba loại: đường khổ 1.000 mm chiếm<br /> 85%, đường khổ 1.435 mm chiếm 6% và đường lồng chiếm 9%. Một<br /> số tuyến chính đã được cải tạo, nâng cấp, nâng cao an toàn và rút ngắn<br /> thời gian chạy tàu (tuyến đường sắt Bắc - Nam đã rút ngắn từ 42 giờ<br /> xuống còn 29 giờ).<br /> *) Về cảng biển<br /> Cả nước hiện có 49 cảng phân bố khắp chiều dài ven biển từ Bắc<br /> vào Nam, trong đó có 17 cảng loại I, 23 cảng loại II, chín cảng loại III,<br /> tổng cộng có 166 bến cảng các loại, khoảng 332 cầu bến với tổng chiều<br /> dài 39.951 m. Hệ thống cảng biển với quy mô và loại hình khác nhau,<br /> khai thác được lợi thế tự nhiên của quốc gia và các địa phương ven biển,<br /> đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội. Nhiều cảng biển tổng hợp<br /> như các cảng Cái Lân, Hải Phòng, Cửa Lò, Vũng Áng, Tiên Sa, Quy<br /> 626<br /> <br /> Nhơn, Nha Trang, Sài Gòn, Cần Thơ từng bước được đầu tư, nâng cấp.<br /> Đang xây dựng hai cảng cửa ngõ quốc tế là Cái Mép - Thị Vải (Bà Rịa<br /> - Vũng Tàu) và Lạch Huyện (Hải Phòng). Tổng lượng hàng qua cảng<br /> tăng nhanh từ 82,4 triệu tấn năm 2000 lên 254,9 triệu tấn năm 2010,<br /> tăng bình quân 11,2%/năm.<br /> *) Về hàng không<br /> Cả nước hiện có 22 cảng hàng không đang hoạt động, trong đó có<br /> tám cảng hàng không quốc tế. Nhiều cảng hàng không đã được chuyển<br /> đổi mục đích từ phục vụ quân sự sang khai thác lưỡng dụng. Đã và đang<br /> đầu tư cải tạo, nâng cấp các cảng hàng không Nội Bài, Tân Sơn Nhất,<br /> Điện Biên Phủ, Cát Bi, Vinh, Đồng Hới, Phú Bài, Đà Nẵng, Chu Lai,<br /> Phù Cát, Cam Ranh, Buôn Ma Thuột, Pleiku, Liên Khương, Cần Thơ và<br /> Phú Quốc, đáp ứng nhu cầu vận chuyển hành khách và hàng hóa ngày<br /> càng tăng.<br /> *) Về đường thủy nội địa<br /> Hiện nay, đã quản lý và khai thác được 15.436 km trên tổng chiều<br /> dài sông, kênh có thể khai thác được là 41.900 km. Vận tải đường thủy<br /> nội địa đã duy trì và giữ vững được thị phần ở mức 22% về hàng hóa và<br /> 17% về hành khách. Đã hoàn thành nâng cấp hai tuyến đường thuỷ phía<br /> Nam (thành phố Hồ Chí Minh - Cà Mau, thành phố Hồ Chí Minh - Kiên<br /> Lương); phát triển tuyến vận tải thủy phục vụ thủy điện Sơn La, tuyến<br /> vận tải thủy Đồng Tháp Mười và tứ giác Long Xuyên; kênh Chợ Gạo;<br /> các tuyến sông chính yếu khu vực Đồng bằng sông Cửu Long và Đồng<br /> bằng sông Hồng...<br /> *) Về giao thông nông thôn<br /> Hệ thống đường giao thông nông thôn được chú trọng đầu tư<br /> nâng cấp, là khâu đột phá trong xây dựng nông thôn mới. Đến đầu<br /> năm 2010, cả nước có khoảng 272.900 km đường giao thông nông<br /> thôn (gồm đường huyện, đường xã, đường thôn xóm, chưa tính đường<br /> ra đồng ruộng) chiếm 82% tổng chiều dài mạng đường bộ, trong đó:<br /> đường huyện 47.600 km, chiếm 14,30%; đường xã 148.300 km, chiếm<br /> 44,58%; đường thôn xóm khoảng 77.000 km, chiếm 23,16%. Tỷ lệ rải<br /> 627<br /> <br /> mặt nhựa, bê - tông, xi - măng đạt 28,1% (tương đương 76.600 km, mục<br /> tiêu đề ra đến hết năm 2010 là 30%).<br /> 1.2 Hạ tầng năng lượng<br /> Hệ thống hạ tầng năng lượng đã được đầu tư phát triển nhanh, cơ<br /> bản đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm an ninh năng<br /> lượng quốc gia. Tiêu thụ năng lượng sơ cấp tăng từ 32 triệu tấn dầu quy<br /> đổi vào năm 2000 lên khoảng 61 triệu tấn dầu quy đổi vào năm 2010.<br /> Trong mười năm qua, đã đầu tư mới và đưa vào khai thác hơn<br /> 13.361 MW công suất nguồn điện, trong đó: thủy điện là 3.991 MW,<br /> nhiệt điện là 4.723 MW, đưa tổng công suất lên 21.500 MW vào cuối<br /> năm 2010, công suất khả dụng đạt 19.713 MW; đồng thời đầu tư và<br /> đưa vào sử dụng khoảng 86.000 km đường dây truyền tải và 63.500<br /> MVA công suất các trạm biến áp lưới truyền tải và phân phối trung cao<br /> áp, đưa tổng công suất lên 21.500 MW, công suất khả dụng đạt 19.713<br /> MW và tổng chiều dài lưới truyền tải và phân phối điện lên 377.000<br /> km. Tổng lượng điện sản xuất tăng từ 26,6 tỷ kWh năm 2000 lên 100 tỷ<br /> kWh năm 2010, tăng 3,76 lần, đáp ứng nhu cầu phụ tải điện tăng nhanh<br /> với tốc độ bình quân 14,5%/năm.<br /> Hệ thống năng lượng được phát triển theo hướng đa dạng hóa<br /> nguồn cung cấp, từ chỗ phụ thuộc chủ yếu vào nguồn thủy năng, than<br /> sang cơ cấu nguồn đa dạng gồm năng lượng than, dầu khí, thủy năng<br /> và các dạng năng lượng khác. Tỷ trọng năng lượng tái tạo đã được<br /> khuyến khích phát triển, chiếm 3% vào năm 2010. Các nguồn năng<br /> lượng sơ cấp đã và đang được thăm dò, nâng cao trữ lượng xác minh<br /> nhằm bảo đảm yêu cầu phát triển. Việc đầu tư các công trình khai thác,<br /> vận chuyển và chế biến dầu khí đã làm giảm đáng kể sự phụ thuộc vào<br /> năng lượng nhập khẩu và đẩy nhanh quá trình đa dạng hóa các nguồn<br /> cung cấp năng lượng.<br /> Hệ thống khai thác, chế biến vận chuyển và phân phối khí có hai<br /> mạng đường ống vận chuyển khí tự nhiên và đồng hành từ các mỏ khí<br /> khu vực Nam Côn Sơn, Bạch Hổ (Bà Rịa - Vũng Tàu) và ở vùng biển<br /> Tây Nam (Cà Mau), cung cấp khí đốt cho các cơ sở sản xuất, chế biến<br /> 628<br /> <br /> khí, các cơ sở nhiệt điện khí, các nhu cầu phát triển công nghiệp và đáp<br /> ứng một phần khí đốt cho dân dụng.<br /> 1.3. Hạ tầng thủy lợi<br /> Tổng năng lực của các hệ thống hạ tầng thủy lợi đã bảo đảm tưới<br /> trực tiếp 3,45 triệu ha đất canh tác, tạo nguồn cho 1,13 triệu ha, tưới tiêu<br /> 1,72 triệu ha, ngăn mặn cho 0,87 triệu ha và cải tạo chua phèn 1,6 triệu<br /> ha; cấp nước cho sinh hoạt, công nghiệp và dịch vụ khoảng 5,5-6 tỷ m3/<br /> năm. Các công trình thủy lợi đã góp phần cải tạo môi trường, phát triển<br /> các vùng chuyên canh, phát triển nhanh và ổn định diện tích canh tác,<br /> năng suất, sản lượng lúa... đồng thời tạo điều kiện phát triển bền vững<br /> nuôi trồng thủy sản. Đến nay, cả nước đã có gần 100 hệ thống thủy lợi<br /> vừa và lớn, trong đó có 1.967 hồ chứa có dung tích trên 0,2 triệu m3,<br /> 10.000 trạm bơm (công suất 24,8 triệu m3/h), 1.000 km kênh trục lớn,<br /> 5.000 cống tưới tiêu lớn và 23.000 km đê bao các loại.<br /> Các hệ thống công trình phòng chống lũ và ứng phó với nước biển<br /> dâng, hiện có: 5.700 km đê sông, 3.000 km đê biển, 23.000 km bờ bao<br /> và hàng ngàn cống dưới đê, hàng trăm km kè và các hồ chứa lớn tham<br /> gia chống lũ cho hạ du. Hệ thống đê biển ở Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ<br /> có thể ngăn mặn và chịu được bão cấp 9 đồng thời với triều cường tần<br /> suất 10%. Hệ thống đê Trung Bộ, bờ bao Đồng bằng sông Cửu Long<br /> chống được lũ sớm và lũ tiểu mãn để bảo vệ sản xuất vụ Hè Thu và<br /> Đông Xuân.<br /> Đồng bằng sông Cửu Long có khoảng 7.000 km bờ bao chống lũ<br /> bảo vệ cho vụ lúa Hè - Thu. Đang đầu tư củng cố, nâng cấp 450km đê<br /> biển, 1.290 km đê sông và khoảng 7.000 km bờ bao ven các kênh rạch<br /> nội đồng để ngăn mặn cho vùng ven biển. Có hơn 200 km đê bao giữ<br /> nước chống cháy cho các khu rừng tràm tập trung.<br /> Các công trình hồ chứa lớn và vừa ở thượng lưu đã từng bước<br /> bảo đảm chống lũ cho công trình và tham gia cắt lũ cho hạ du. Các<br /> công trình chống lũ ở Đồng bằng sông Hồng vẫn được duy tu, củng cố<br /> thường xuyên bảo đảm chất lượng và an toàn trong hoạt động.<br /> Cấp nước sinh hoạt và bảo vệ môi trường cho khu vực nông thôn<br /> đã có bước tiến bộ. Tính đến cuối năm 2010 đã có 85% dân số nông<br /> 629<br /> <br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
6=>0