ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TT ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
NGUYỄN THỊ HUỆ
PHÁT TRIỂN DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ Ở TỈNH QUẢNG NINH
LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ
HÀ NỘI 2008
MỤC LỤC
T
r
a
n
g
Trang phụ bìa
Mở đầu 1
Chƣơng 1: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ 6
1.1 Một số vấn đề lý luận về phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ. 6
1.1.1 Khái niệm và các tiêu chí xác định loại hình doanh nghiệp vừa và nhỏ 6
1.1.2 Đặc điểm doanh nghiệp vừa và nhỏ 8
1.1.3 Vai trò doanh nghiệp vừa và nhỏ đối với phát triển kinh tế - xã hội 14
1.1.4 Các nhân tố tác động đến phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ …...18
1.2 Kinh nghiệm phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở một số tỉnh thành trong nƣớc và một số nƣớc trên thế giới. 21
1.2.1 Phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở thành phố Hồ Chí Minh 21
1.2.2 Tình hình phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Hà Nội 24
1.2.3 Bài học kinh nghiệm cho sự phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Quảng Ninh 26
1.3 Kinh nghiệm phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ của một số nƣớc trên thế
giới…………………………………………………………………… ……...27
1.3.1 Phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Đài Loan 27
1.3.2 Phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Nhật Bản 30
Chƣơng 2: Thực trạng phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở quảng ninh trong những năm gần đây. 34
2.1 Điều kiện phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Quảng Ninh 34
2.1.1 Cơ chế chính sách của nhà nƣớc đối với phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ 34
2.1.2 Các biện pháp hỗ trợ phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Quảng Ninh 45
2.2 Tình hình phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Quảng Ninh trong những năm gần đây 49
2.2.1 Tổng quan về doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Quảng Ninh 49
2.2.2 Đặc điểm hoạt động của doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Quảng Ninh 52
2.3 Đánh giá thực trạng phát triển và những vấn đề đặt ra đối với sự phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở tỉnh Quảng Ninh 61
2.3.1 Một số thành tựu và hạn chế của doanh nghiệp vừa và nhỏ ở tỉnh Quảng Ninh 61
2.3.2 Một số vấn đề đặt ra đối với việc phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở tỉnh Quảng Ninh 66
Chƣơng 3: Phƣơng hƣớng và giải pháp phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở tỉnh Quảng Ninh. 70
3.1 Quan điểm và phƣơng hƣớng phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở quảng ninh 70
3.1.1 Quan điểm và mục tiêu phát triển doanh nghiệp vừa và
nhỏ 70
3.1.2 Phƣơng hƣớng phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở tỉnh Quảng Ninh 72
3.2 Một số giải pháp phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Quảng Ninh .79
3.2.1 Tạo điều kiện và môi trƣờng đầu tƣ kinh doanh thuận lợi cho doanh nghiệp vừa và nhỏ 79
3.2.2 Xây dựng kết cấu hạ tầng sản xuất và tạo điều kiện về mặt bằng sản xuất kinh doanh đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ 82
3.2.3 Tạo nguồn vốn ƣu đãi cho sự phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ 85
3.2.4 Hỗ trợ phát triển nguồn nhân lực cho các doanh nghiệp doanh nghiệp vừa và nhỏ 87
3.2.5 Sớm hình thành "vƣờn ƣơm" doanh nghiệp vừa và nhỏ ở tỉnh Quảng Ninh…………………………………………………………… ………….89
Kết luận 93
Danh mục các tài liệu tham khảo 96
MỞ ĐẦU
Lý do chọn đề tài
Trong quá trình biến đổi, tự do hoá và cổ phần hoá ở Việt Nam các doanh nghiệp vừa và nhỏ đóng một vai trò quan trọng đƣợc chính quyền và xã hội thừa nhận cả về lý luận và thực tiễn. Trên thực tế, doanh nghiệp vừa và nhỏ đã trở thành một nhân tố năng động ở Việt Nam góp phần đáng kể tạo việc làm, nâng cao thu nhập, tăng trƣởng kinh tế mạnh mẽ và giảm đói nghèo.
Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ IX đã khẳng định đƣờng lối, định hƣớng, chiến lƣợc phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ: " Chú trọng phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ; xây dựng một số tập đoàn doanh nghiệp lớn cần thiết có hiệu quả đi đầu trong cạnh tranh và hiện đại hoá". Với định hƣớng này ta thấy chủ trƣơng của Đảng và nhà nƣớc đối với sự phát triển các doanh nghiệp là phát triển các loại hình doanh nghiệp một cách tổng thể, hài hoà, thống nhất trên cơ sở phân định chức năng, nhiệm vụ của mỗi loại hình doanh nghiệp, khẳng định vai trò quan trọng của doanh nghiệp vừa và nhỏ đối với sự ổn định xã hội, tạo thế vững chắc cho sự phát triển của nền kinh tế nƣớc nhà. Chính phủ đã đƣa ra nhiều nghị định, thông tƣ về trợ giúp phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ. Đƣờng lối và chính sách là của Đảng và Nhà nƣớc đối với phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ thƣờng ở tầm vĩ mô, còn thực hiện ở tầm vi mô lại là ở địa phƣơng nơi trực tiếp quản lý các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Vì vậy, việc thúc đẩy hay hạn chế sự phát triển doanh nghiệp phụ thuộc không nhỏ vào sự nhận thức và năng lực của các cấp chính quyền địa phƣơng.
Quảng Ninh là một tỉnh giàu tiềm năng để phát triển kinh tế, có ƣu thế về vị trí địa lý, du lịch và tài nguyên thiên nhiên( rừng, than, biển…). Tuy nhiên sự phát triển kinh tế của Quảng Ninh còn chƣa tƣơng xứng với tiềm năng, chƣa khai thác có hiệu quả các nguồn lực sẵn có…Phải chăng chƣa có những mô hình phát triển kinh tế phù hợp. Để khai thác đƣợc hết tiềm năng và giải quyết tốt các vấn đề kinh tế - xã hội đang đặt ra ở Quảng Ninh thì một trong những hƣớng cơ bản là phải đẩy mạnh phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Hiện nay, ở tỉnh Quảng Ninh doanh nghiệp vừa và nhỏ ngày càng quan trọng và đƣợc sự khuyến khích phát triển, nhƣng thực tế các doanh nghiệp vừa và nhỏ vẫn còn gặp nhiều khó khăn và hạn chế trong quá trình hoạt
động. Chính vì lý do trên cho nên tôi chọn đề tài : " Phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở tỉnh Quảng Ninh " làm luận văn thạc sỹ kinh tế để góp phần nghiên cứu, luận giải xu hƣớng vận động và giải pháp phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ nhằm đẩy mạnh tăng trƣởng kinh tế ở tỉnh Quảng Ninh.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Lịch sử phát triển của các doanh nghiệp vừa và nhỏ trên thế giới đã có từ rất lâu đời. Doanh nghiệp vừa và nhỏ đã đƣợc nhiều nƣớc nghiên cứu và áp dụng mô hình này thành công trong chiến lƣợc phát triển kinh tế.
Ở Việt Nam, từ năm 1986 trở lại đây tiến hành nhiều cải cách kinh tế, nhằm đƣa nền kinh tế kế hoạch, tập trung tiến tới một hệ thống kinh tế thị trƣờng. Đặc biệt văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đã đề cập đến sự phát triển các doanh nghiệp ngoài quốc doanh mà chủ yếu là các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Trƣớc yêu cầu thực tế đặt ra đã có rất nhiều đề tài nghiên cứu khoa học, sách, báo, tạp chí nghiên cứu doanh nghiệp vừa và nhỏ với các mức độ khác nhau để tìm ra những phƣơng hƣớng và giải pháp hợp lý nhằm phát triển loại hình kinh tế này ở Việt Nam:
Xung quanh đề tài này có thể nêu một số công trình nghiên cứu tiêu biểu: Nguyễn Đình Hƣơng "giải pháp phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam" NXB Chính trị Quốc gia, năm 2002; PGS.TS Nguyễn Cúc "chính sách phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam", NXB Chính trị Quốc gia, năm 1997; Phạm Thị Thu Hằng: "tạo việc làm tốt bằng chính sách phát triển doanh nghiệp nhỏ", NXB Chính trị Quốc gia, năm 2002; Khoa quốc tế học trƣờng Đại học quốc gia Hà Nội: "vai trò của doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nền kinh tế", NXB Thế giới, năm 2005.
Bên cạnh những công trình đã xuất bản thành sách, còn có một số công trình đáng chú ý là: Hồ Tiến Dũng, "Giải pháp phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở thành phố Hồ Chí Minh", Luận án tiến sĩ kinh tế, năm 1998; Phạm Văn Hồng “ Phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam trong quá trình hội nhập quốc tế", Luận án tiến sĩ kinh tế, năm 2007; Lê Việt Đông “Doanh nghiệp vừa và nhỏ trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam hiện nay”, Luận án thạc sỹ kinh tế, năm 2006.
Nhìn chung, các tác giả đều tập trung nghiên cứu đặc điểm, vai trò, thực trạng phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ, từ đó đƣa ra các giải pháp, chính sách phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam.
Ngoài ra, trên một số báo, tạp chí còn có nhiều tác giả viết về các vấn đề về doanh nghiệp vừa và nhỏ. Tuy nhiên, mỗi bài viết chỉ đề cập đến một khía cạnh nào đó của sự phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ chẳng hạn nhƣ: tạo vốn cho doanh nghiệp vừa và nhỏ; trợ giúp đào tạo cho doanh nghiệp vừa và nhỏ; hỗ trợ công nghệ thông tin cho doanh nghiệp vừa và nhỏ; vấn đề quản lý doanh nghiệp vừa và nhỏ…
Tuy nhiên, cho đến nay chƣa có công trình nào nghiên cứu về phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở tỉnh Quảng Ninh. Vì vậy, luận văn là công trình nghiên cứu đầu tiên đi sâu tìm hiểu thực trạng phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Quảng Ninh, từ đó tìm ra những giải pháp góp phần thúc đẩy sự phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ của tỉnh.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
Mục đích:
Làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận và thực tiễn phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ, đánh giá thực trạng phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở tỉnh Quảng Ninh trong những năm gần đây về thành tựu, hạn chế và những vấn đề đang đặt ra cần giải quyết. Trên cơ sở đó đề xuất những phƣơng hƣớng và giải pháp cơ bản nhằm đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Quảng Ninh hiện nay.
Nhiệm vụ:
+ Phân tích cơ sở lý luận và thực tiễn về doanh nghiệp vừa và nhỏ;
+ Đánh giá tình hình phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở tỉnh Quảng Ninh trong những năm gần đây;
+ Xác định phƣơng hƣớng và giải pháp nhằm phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở tỉnh Quảng Ninh hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
+ Nghiên cứu doanh nghiệp vừa và nhỏ ở tỉnh Quảng Ninh dƣới góc độ kinh tế chính trị.
+ Nghiên cứu doanh nghiệp vừa và nhỏ chủ yếu trong lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ.
+ Nghiên cứu doanh nghiệp vừa và nhỏ trong quá trình đổi mới đặc biệt là trong những năm gần đây ở tỉnh Quảng Ninh.
5. Phương pháp nghiên cứu
+ Quán triệt những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin, phƣơng pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử; Vận dụng quan điểm, đƣờng lối của Đảng và Nhà nƣớc vào việc xem xét đánh giá sự vận động và phát triển của doanh nghiệp vừa và nhỏ, để phân tích xu hƣớng vận động của doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Quảng Ninh; Trên cơ sở thực tiễn đƣa ra các phƣơng hƣớng và giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả phát triển của doanh nghiệp vừa và nhỏ góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội theo định hƣớng xã hội chủ nghĩa.
+ Ngoài ra, luận văn còn sử dụng các phƣơng pháp nghiên cứu nhƣ: trừu tƣợng hoá khoa học, phân tích tổng hợp, logic và lịch sử, thống kê so sánh…
6. Đóng góp của luận văn
Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo để các nhà hoạch định chính sách kinh tế của tỉnh Quảng Ninh nói riêng và các tỉnh khác nói chung đƣa ra dự thảo các văn bản, các quy chế, chính sách giúp các doanh nghiệp vừa và nhỏ của tỉnh phát triển.
Đồng thời các doanh nghiệp vừa và nhỏ của tỉnh Quảng Ninh có thể sử dụng luận văn để xác định cụ thể những mặt thuận lợi, cũng nhƣ những khó khăn bất cập của đơn vị mình, từ đó tìm ra giải pháp cụ thể cho sự phát triển của doanh nghiệp.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận văn đƣợc kết cấu thành 3 chƣơng:
Chƣơng 1: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nền kinh tế;
Chƣơng 2: Thực trạng phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Quảng Ninh trong những năm gần đây;
Chƣơng 3: Định hƣớng và giải pháp phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở
Quảng Ninh.
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ PHÁT TRIỂN DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ
1.1 Một số vấn đề lý luận về phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ
1.1.1 Khái niệm và các tiêu chí xác định loại hình doanh nghiệp vừa và nhỏ
Nói đến doanh nghiệp vừa và nhỏ là nói đến cách phân loại doanh nghiệp dựa trên độ lớn hay quy mô của các doanh nghiệp. Việc phân loại doanh nghiệp vừa và nhỏ phụ thuộc vào tiêu thức sử dụng quy trình giới hạn các tiêu chí phân loại quy mô doanh nghiệp. Điểm khác biệt cơ bản trong khái niệm doanh nghiệp vừa và nhỏ giữa các nƣớc chính là việc lựa chọn các tiêu chí đánh giá quy mô doanh nghiệp và lƣợng hoá các tiêu chí ấy thông qua những tiêu chuẩn cụ thể. Nhìn chung, tiêu chí phân loại quy mô doanh nghiệp thƣờng dựa trên:
+ Số vốn sản xuất
+ Số lao động thƣờng xuyên.
Tiêu chí về số lao động và vốn phản ánh yếu tố đầu vào, lƣợng hoá các tiêu chí này thành các tiêu chuẩn giới hạn cụ thể ở mỗi thời kỳ là khác nhau. Độ lớn của các tiêu chuẩn giới hạn phụ thuộc vào trình độ, hoàn cảnh, điều kiện phát triển kinh tế, định hƣớng chính sách và khả năng trợ giúp cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở mỗi thời điểm khác nhau.
Khái niệm doanh nghiệp vừa và nhỏ mang tính tƣơng đối, nó thay đổi theo từng giai đoạn phát triển kinh tế-xã hội, xác định và phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế - xã hội của từng giai đoạn, việc xác định giới hạn các tiêu chí về quy mô doanh nghiệp có ý nghĩa rất quan trọng. Đó là cơ sở để xác định cơ chế quản lý với những chính sách ƣu tiên thích hợp và xây dựng cơ cấu tổ chức, quản lý có hiệu quả đối với hệ thống các doanh nghiệp. Dựa
trên lý luận và thực tiễn, những đặc điểm riêng biệt ở trong nƣớc ta có thể định nghĩa doanh nghiệp vừa và nhỏ nhƣ sau:
Theo nghị định 90/2001/NĐ-CP ngày 23 tháng 11 năm 2001 về trợ giúp phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ quy định. "Doanh nghiệp vừa và nhỏ là các cơ sở sản xuất, kinh doanh độc lập đã đăng ký kinh doanh theo pháp luật hiện hành, có vốn đăng ký không quá 10 tỷ đồng hoặc số lao động trung bình hàng năm không quá 300 ngƣời". Doanh nghiệp vừa và nhỏ bao gồm doanh nghiệp nhà nƣớc, doanh nghiệp khu vực tƣ nhân trong nƣớc, hợp tác xã và các hộ kinh doanh cá thể.
Nhƣ vậy, doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam là những cơ sở sản xuất, kinh doanh có tƣ cách pháp nhân, không phân biệt thành phần kinh tế, có quy mô về vốn hoặc lao động thoả mãn các quy định của chính phủ đối với từng ngành nghề tƣơng ứng với từng thời kỳ phát triển của nền kinh tế.
Chính vì vậy mà mỗi thời kỳ phát triển khác nhau thì tiêu chí quy định doanh nghiệp vừa và nhỏ là khác nhau. Chẳng hạn nhƣ theo quy định của Thủ tƣớng Chính phủ tại Công văn số 681/CP-KTN ngày 20 tháng 06 năm 1998 xác định tiêu chí doanh nghiệp vừa và nhỏ tạm thời quy định trong giai đoạn này là những doanh nghiệp có vốn điều lệ dƣới 5 tỷ đồng và có số lao động trung bình hàng năm dƣới 200 ngƣời. Doanh nghiệp vừa và nhỏ là doanh nghiệp có số lao động dƣới 30 ngƣời và vốn dƣới 1 tỷ đồng. Doanh nghiệp vừa có từ 31 đến 200 lao động và vốn từ 1 đến 5 tỷ đồng. Đối với các doanh nghiệp công nghiệp, doanh nghiệp nhỏ có vốn từ 1 tỷ đồng trở xuống và số lao động từ 50 ngƣời trở xuống còn các doanh nghiệp thƣơng mại và dịch vụ số lao động dƣới 30 ngƣời. [29, tr.14]
Nhƣ vậy, so với giai đoạn hiện nay tiêu chí doanh nghiệp vừa và nhỏ đã có sự thay đổi tăng về quy mô. Theo quy định mới nhất thì doanh nghiệp vừa và nhỏ hiện nay số vốn đăng ký dƣới 10 tỷ, số lao động dƣới 300 ngƣời và tiêu chí này chỉ áp dụng trong giai đoạn hiện nay và cùng với tình hình phát triển kinh tế xã hội thì quy mô về vốn và lao động chắc chắn sẽ có sự thay đổi. Theo nghị định 90/2001/NĐ-CP ngày 23 tháng 11 năm 2001 thì doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam hiện nay chiếm 96% số doanh nghiệp đăng ký và hoạt động theo luật doanh nghiệp. [ 30, tr. 11]
1.1.2 Đặc điểm doanh nghiệp vừa và nhỏ
Cuộc cách mạng khoa học - công nghệ đã tạo ra những thay đổi trong công nghệ mới làm biến đổi kỹ thuật sản xuất và quản lý chung của các đơn vị sản
xuất trong nền kinh tế . Thời kỳ phát triển công nghiệp, tƣ bản phải tích luỹ đƣợc một lƣợng tiền lớn để có thể mở đựơc công xƣởng, mới có điều kiện, ứng dụng những thành tựu do cách mạng công nghiệp tạo ra. Đến giai đoạn chủ nghĩa tƣ bản độc quyền thì tƣ bản độc quyền công nghiệp phải dung hợp với tƣ bản độc quyền ngân hàng gọi là tƣ bản tài chính chiếm vị trí độc quyền và đứng vững trong cạnh tranh. Trái lại, dƣới tác động của cách mạng khoa học - công nghệ thì không hoàn toàn phải nhƣ vậy. Việc tìm ra những công nghệ hiện đại với chi phí thấp, cho phép không chỉ các doanh nghiệp có số vốn lớn mà ngay cả các doanh nghiệp trung bình, thậm chí loại nhỏ cũng có thể triển khai đƣợc việc ứng dụng. Hiệu quả ứng dụng nhiều khi còn cao hơn ở các doanh nghiệp lớn.
Các doanh nghiệp vừa và nhỏ có nhiều đặc điểm nổi bật nhƣ: hầu hết các doanh nghiệp vừa và nhỏ đều năng động, nhạy cảm với những thay đổi của thị trƣờng. Khi nhu cầu của thị trƣờng thay đổi, các doanh nghiệp vừa và nhỏ dễ thay đổi máy móc thiết bị, mặt hàng để đáp ứng những nhu cầu tức thì của thị trƣờng, đạt hiệu quả kinh tế cao trong một thời gian ngắn. Việc thành lập các doanh nghiệp vừa và nhỏ dễ hơn do các doanh nghiệp này chỉ cần một lƣợng vốn đầu tƣ không lớn, chi phí xây dựng cơ sở hạ tầng ít, nên các doanh nghiệp dễ dàng thâm nhập thị trƣờng, dám dầu tƣ trong sản xuất những mặt hàng lãi suất cao. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ khi thành lập xong nhanh chóng đi vào hoạt động do việc xây dựng các cơ sở hạ tầng nhanh chóng, không mất nhiều thời gian thành lập bộ máy quản lý nhƣ các doanh nghiệp lớn, vì vậy hiệu suất hoạt động của các doanh nghiệp vừa và nhỏ thƣờng cao hơn, thời gian thu hồi vốn nhanh hơn. Dù có quy mô nhỏ, các doanh nghiệp này vẫn có điều kiện sử dụng máy móc thiết bị hiện đại, hoạt động với năng suất và chất lƣợng cao nhƣ những doanh nghiệp lớn, nó có thể sản xuất những mặt hàng chất lƣợng cao ngay trong điều kiện kỹ thuật chƣa hiện đại. Dù có quy mô nhỏ các doanh nghiệp này tốn ít hơn những chi phí cho việc xây dựng cơ sở hạ tầng. Nó có thể đặt trụ sở doanh nghiệp ở nhiều nơi, nhiều địa phƣơng thuận lợi cho việc tiêu thụ và sản xuất sản phẩm. Doanh nghiệp vừa và nhỏ còn có thể tham gia vào việc giải quyết nhiều vấn đề xã hội nhƣ giải quyết nạn thất nghiệp, góp phần tạo thêm thu nhập cho ngƣời lao động và xoá dần khoảng cách về thu nhập, mức sống lao động ở những vùng khác nhau.
Nếu trƣớc đây việc tạo ra sản phẩm loại lớn và sản xuất hàng loạt là thu đƣợc lợi nhuận cao, thì ngày nay do nhu cầu của ngƣời tiêu dùng phát triển cao và nhiều ngƣời lao động lại có điều kiện tăng tiêu dùng, do đó việc sản xuất hàng loạt, lâu bền sẽ không đáp ứng đƣợc nhu cầu của thị trƣờng. Xu
hƣớng chung của các doanh nghiệp là sản xuất đa dạng, nhanh nhậy, sản phẩm, mẫu mã và chất lƣợng theo sự thay đổi của thị trƣờng. Xu hƣớng giảm số lƣợng lao động trong các doanh nghiệp là xu hƣớng do áp dụng công nghệ tự động tạo ra, điều này cũng góp phần làm cho quy mô doanh nghiệp nhỏ chuyển theo hƣớng tinh, gọn. Các hãng lớn có thể đặt mua các linh kiện ở các xí nghiệp gia công, vì vậy công dân có điều kiện mở các doanh nghiệp nhỏ ngay tại nhà để thực hiện các dịch vụ sản xuất. Trong các doanh nghiệp này chi phí tƣ bản bất biến không lớn, quy mô cỡ nhỏ là có thể thực hiện đƣợc các dịch vụ và thu đƣợc lợi nhuận mong muốn. Đó là lý do tồn tại và phát triển nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ trong các ngành kinh doanh và dịch vụ du lịch. Lãi suất cao ở những ngành này phần nhiều do sử dụng lao động sống mang lại, cho nên xu hƣớng di chuyển tƣ bản sang những ngành nghề và quy mô nhƣ trên là tất yếu. Nhƣ vậy, việc xuất hiện và phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ngày càng nhiều là phản ứng tích cực của cơ chế thị trƣờng trƣớc sự phát triển ngày một cao của sức sản xuất của xã hội dƣới tác động của cách mạng khoa học công nghệ.
Theo nghị định số 90/2001/NĐ-CP ngày 23 tháng 11 năm 2001 của Chính Phủ về trợ giúp phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ quyết định "doanh nghiệp vừa và nhỏ là đơn vị kinh doanh độc lập theo luật hiện hành, có số vốn đăng ký không quá 10 tỷ đồng hoặc sử dụng lao động bình quân hàng năm không quá 300 ngƣời". Tính đến năm 2004 ở Việt Nam có hơn 150.000 doanh nghiệp đăng ký kinh doanh chính thức, 16.899 công ty, 300.000 hợp tác xã và 2.400.000 hộ gia đình đăng ký kinh doanh trong lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ, hơn 10.000.000 hộ gia đình đăng ký kinh doanh trong lĩnh vực nông nghiệp, 13.000 trang trại (chƣa tính đến các doanh nghiệp có vốn đầu tƣ nƣớc ngoài). [9, tr. 1]
Số lƣợng doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam phát triển khá nhanh kể từ khi luật doanh nghiệp ra đời (tháng 1/2000) tình hình phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ nhƣ sau: Các số liệu thống kê về khu vực doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam, trên cơ sở kết quả Tổng Điều tra Cơ sở Kinh tế, Hành chính, Sự nghiệp năm 2002 do Tổng cục Thống kê thực hiện. Theo đó, các doanh nghiệp vừa và nhỏ đƣợc chia thành 3 nhóm nhƣ sau:
1. Doanh nghiệp Siêu nhỏ: Gồm không quá 9 nhân công;
2. Doanh nghiệp Nhỏ: Gồm không quá 49 nhân công;
3. Doanh nghiệp Vừa: Gồm không quá 299 nhân công.
Bảng 1.1.2. Số lượng đăng ký kinh doanh mới từ năm 2000:
TNHH Năm Tổng số DNNN DNDD Cty 1 Thành viên
2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 Tổng số 14.457 19.800 21.535 27.771 37.230 39.959 46.663 58.908 266.323 16 27 12 20 6 8 7 1 97 0 0 59 98 125 292 902 8404 9.880 14.441 19.773 21.464 27.653 37.099 39.659 45.754 50.504 256.347
(Nguồn: Trung tâm Thông tin Doanh nghiệp, Cục Phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ -Bộ Kế hoạch và Đầu tư, 2008)
Doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nƣớc ta có những đặc điểm cơ bản sau:
Thứ nhất, Doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam thƣờng gắn với công nghệ lạc hậu, thủ công. Tốc độ đổi mới công nghệ rất chậm, về trình độ sử dụng công nghệ, chỉ có khoảng 8% số doanh nghiệp đạt trình độ công nghệ tiên tiến mà phần lớn là các doanh nghiệp có vốn đầu tƣ nƣớc ngoài (FDI). Doanh nghiệp trong nƣớc đang sử dụng công nghệ cũ, lạc hậu và khả năng cạnh tranh về công nghệ của các doanh nghiệp là rất thấp.
Bên cạnh đó, chỉ tiêu về sử dụng công nghệ thông tin cũng cho thấy, tuy số doanh nghiệp có sử dụng máy vi tính lên đến hơn 80% nhƣng chỉ có 30,55% doanh nghiệp có sử dụng mạng nội bộ (LAN), số doanh nghiệp có Website là rất thấp chỉ 12,16%.[14]
Đây là một kết quả rất đáng lo ngại vì khả năng tham gia thƣơng mại điện tử và khai thác thông tin qua mạng của các doanh nghiệp nhỏ còn rất thấp, chƣa tƣơng xứng với mong muốn phát triển thƣơng mại điện tử của Chính phủ
Cuộc điều tra cũng chỉ ra một nghịch lý; trong khi trình độ về kỹ thuật công nghệ chƣa cao nhƣng nhu cầu đào tạo về kỹ thuật và công nghệ của doanh
nghiệp có tỷ lệ rất thấp, chỉ 10.65% doanh nghiệp đƣợc điều tra có nhu cầu về đào tạo công nghệ. [14]
Điều này cho thấy, các doanh nghiệp Việt Nam nói chung và các doanh nghiệp chƣa coi trọng đúng mức đến các vấn đề về kỹ thuật và công nghệ. Mặc dù đây là yếu tố quyết định sự thành bại của doanh nghiệp trên thƣơng trƣờng. Do đó, khả năng sản xuất, năng suất và chất lƣợng sản phẩm thấp các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam phân tán hơn, khả năng liên kết với nhau và với doanh nghiệp lớn yếu hơn.
Thứ hai, nói đến doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam trƣớc tiên và chủ yếu là nói đến các doanh nghiệp thuộc khu vực ngoài quốc doanh. Do tính lịch sử của quá trình hình thành và phát triển các thành phần kinh tế ở nƣớc ta , đại bộ phận các doanh nghiệp vừa và nhỏ đều thuộc khu vực ngoài quốc doanh.
Thứ ba, hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp vừa và nhỏ thuộc các thành phần kinh tế còn nhiều bất cập. Thành phần kinh tế tƣ nhân đóng góp 42% GDP (18% là từ doanh nghiệp tƣ nhân, 82% là từ các hộ gia đình), sử dụng 89% lao động trong tổng số lao động có việc, chỉ chiếm 28% tổng giá trị vốn đầu tƣ.
Trong khi 52,3% tổng giá trị vốn đầu tƣ đƣợc đầu tƣ cho các doanh nghiệp nhà nƣớc chỉ đóng góp 39% GDP và tạo ra 10% công việc. Nếu đứng trên góc độ xã hội, có thể nói các doanh nghiệp tƣ nhân đóng vai trò quan trọng trong việc tạo công ăn việc làm cho xã hội. Nhƣng điều này cũng có nghĩa lao động làm việc trong các doanh nghiệp vừa và nhỏ có hiệu quả không cao (phần lớn là lao động giản đơn) và một phần sự đóng góp của doanh nghiệp tƣ nhân vào GDP cao hơn doanh nghiệp nhà nƣớc là nhờ sử dụng nhiều lao động. [25, tr.45]
Số doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ chiếm tỷ lệ khá cao, tới 41,8% đây là một con số không bất bình thƣờng, nhƣng tại Việt Nam thì sự chênh lệch giữa các doanh nghiệp vừa và nhỏ với các doanh nghiệp lớn và doanh nghiệp nhà nƣớc là rất đáng kể. Nếu chia tỷ lệ bình quân thì một doanh nghiệp chỉ có 31 lao động, 4 tỷ đồng vốn, trong khi đó với các doanh nghiệp nhà nƣớc con số này là 421 lao động và 167 tỷ đồng và với doanh nghiệp có vốn đầu tƣ nƣớc ngoài là 299 lao động, 134 tỷ đồng vốn…[29, tr.15]
Thứ tƣ, quy mô của các doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam tƣơng đối nhỏ
bé cộng với sự thiếu hụt về vốn, lao động có trình độ tay nghề cao, công nghệ lạc hậu, thiếu kinh nghiệm, trình độ quản lý của chủ doanh nghiệp thấp, trình độ kinh doanh thấp, do đó tiềm lực và năng lực cạnh tranh yếu trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Đặc biệt trong những tháng đầu năm 2008, tình trạng thiếu vốn đang diễn ra tại hầu hết các doanh nghiệp vừa và nhỏ, 70% doanh nghiệp không có vốn để đẩy mạnh hoạt động sản xuất kinh doanh do hạn chế về vốn, công nghệ nên doanh nghiệp vừa và nhỏ rất khó tham gia những dự án lớn. Đó là chƣa kể các doanh nghiệp còn lại bị hạn chế bởi môi trƣờng kinh doanh chƣa thông thoáng, vẫn còn bị phân biệt đối xử so với các loại hình doanh nghiệp khác, thiếu mặt bằng, các rào cản về thuế, khả năng tiếp cận thị trƣờng kém… đang trở lên bức bách tại nhiều doanh nghiệp. Chất lƣợng và khả năng cạnh tranh về mặt quản lý chiến lƣợc, tái cơ cấu tổ chức quản lý là vấn đề sống còn với các doanh nghiệp.
Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tƣ đối với 63.000 doanh nghiệp vừa và nhỏ trên cả nƣớc cho thấy kết quả đáng lo ngại là 43% chủ doanh nghiệp có trình độ trung học trở xuống. Với trình độ học này, việc tiếp cận và tìm hiểu các công cụ quản lý đối với họ rất khó khăn. Cũng có tới 63% doanh nghiệp đang vƣớng phải chuyện không tuyển dụng đƣợc ngƣời tài, 55% trong việc giữ chân ngƣời giỏi… Nền kinh tế hội nhập hiện nay các doanh nghiệp vừa và nhỏ đang đứng trƣớc nhiều khó khăn. [14]
1.1.3 Vai trò doanh nghiệp vừa và nhỏ đối với phát triển kinh tế - xã hội
Thực tế ở nhiều nƣớc trên thế giới và Việt Nam, doanh nghiệp vừa và nhỏ đã có những đóng góp quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia.
Doanh nghiệp vừa và nhỏ là một phương tiện có hiệu quả để giải quyết việc làm và giảm tỷ lệ thất nghiệp, góp phần ổn định xã hội.
Với một lƣợng vốn không lớn thì các doanh nghiệp vừa và nhỏ dễ dàng đƣợc tạo lập nên loại hình này có số lƣợng nhiều. Vì thế, trong một doanh nghiệp vừa và nhỏ tuy số lƣợng lao động không nhiều nhƣng vẫn là nguồn chủ yếu tạo ra phần lớn việc làm cho xã hội. Nhìn chung ở các nƣớc phát triển số lƣợng doanh nghiệp vừa và nhỏ thƣờng chiếm từ 90-95% tổng số doanh nghiệp trong nền kinh tế và giải quyết việc làm cho khoảng 2/3 lực lƣợng lao động xã hội (tại Thụy Điển các doanh nghiệp vừa và nhỏ đã tạo việc làm cho hơn 60% số lao động của nƣớc này; Tại HungGaRy tỷ lệ này là
hơn 66%; Nhật Bản là 66,9%; Đài Loan là 78%; Chi Lê là 70,3%). Xét trên khía cạnh tạo việc làm, doanh nghiệp vừa và nhỏ luôn đóng vai trò hơn các doanh nghiệp lớn, nhất là trong thời kỳ kinh tế suy thoái. Với hơn 70% dân số sống tại vùng nông thôn và chủ yếu dựa vào sản xuất nông nghiệp, quỹ đất dành cho sản xuất nông nghiệp ở Việt Nam ngày càng trở lên hạn hẹp, sức ép của lao động lên đất đai, việc làm và thu nhập ở nông thôn ngày càng tăng mạnh gây ra nhiều vấn đề xã hội phức tạp. Còn khu vực miền núi trên nửa số lao động ở nông thôn hiện nay đa phần là ở trình độ thấp, chủ yếu là lao động giản đơn. Do vậy, cần phát triển ngành nghề sản xuất và dịch vụ thông qua phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ phân bố rộng rãi ở các vùng đặc biệt là nông thôn và miền núi, góp phần hình thành các đô thị vệ tinh xung quanh các thành phố lớn, thị xã. Hiện nay, trong cả nƣớc doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm khoảng 96% tổng số doanh nghiệp, tạo ra khoảng 49% việc làm phi nông nghiệp ở nông thôn và khoảng 25-26% cho lực lƣợng lao động cả nƣớc. Rõ ràng đây là một nhân tố quan trọng đối với những ngƣời chƣa có việc làm ở đô thị hoặc những ngƣời sống ở các vùng nông thôn đang tìm kiếm việc làm, những lao động dôi ra do việc sắp xếp lại các doanh nghiệp nhà nƣớc và ngƣời làm nông nghiệp trong những lúc nông nhàn. Các cơ hội tăng thêm việc làm sẽ đem lại lợi ích cho tất cả mọi ngƣời, kể cả những ngƣời đang thất nghiệp, phụ nữ và ngƣời tàn tật. [30, tr.62]
Doanh nghiệp vừa và nhỏ góp phần quan trọng trong việc tạo lập sự phát triển cân bằng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo vùng lãnh thổ.
Thông thƣờng, các doanh nghiệp lớn thƣờng tập trung ở các vùng đô thị, nơi có cơ sở hạ tầng phát triển. Theo chiều hƣớng đó, sẽ gây ra tình trạng mất cân đối nghiêm trọng về trình độ phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội giữa thành thị và nông thôn, giữa các miền trong một quốc gia. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ có thể đóng góp vào phân bổ các ngành công nghiệp đến nhiều vùng dân cƣ khác nhau, nhờ đó giảm bớt khoảng cách phát triển giữa các khu vực khác nhau và tạo thành sự phát triển cân đối giữa các vùng miền. Chính sự phát triển của các doanh nghiệp vừa và nhỏ đã góp phần quan trọng trong việc tạo lập sự cân đối trong phát triển giữa các vùng, giúp cho các vùng có thể khai thác đƣợc tiềm năng, lợi thế của vùng, của các địa phƣơng để phát triển các ngành sản xuất, dịch vụ, tạo ra sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hƣớng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Ngành nghề kinh doanh của các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam thƣờng tập trung chủ yếu vào lĩnh vực thƣơng mại và dịch vụ, với tỷ lệ 55,62% do kinh doanh lĩnh vực này đòi hỏi vốn ít, trình độ chuyên môn không cao, mức độ rủi do ít, vốn quay vòng nhanh…; lĩnh vực công nghiệp chiếm 16,14%, xây dựng
chiếm 15,11% và nông nghiệp chỉ còn là 13,13%. Nhƣ vậy, cơ cấu kinh tế đã chuyển dịch theo hƣớng tăng dần tỷ trọng sản phẩm công nghiệp, giá trị thƣơng mại - dịch vụ; giảm tỷ trọng sản phẩm nông nghiệp trong GDP. Đây cũng là vấn đề có ý nghĩa để thực hiện Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn. [30, tr.63]
Doanh nghiệp vừa và nhỏ góp phần làm cho hàng hoá trên thị trường phong phú đa dạng, thoả mãn nhu cầu thị hiếu người tiêu dùng.
Doanh nghiệp vừa và nhỏ là khu vực có khả năng thu hút tích cực nhất các nguồn vốn, nguồn lực đầu tư trong dân cư và sử dụng tối ưu các nguồn lực của xã hội cho tăng trưởn, phát triển kinh tế.
Trong tổng các nguồn vốn đầu tƣ phát triển của Việt Nam những năm qua nguồn vốn đầu tƣ từ ngân sách Nhà nƣớc khoảng 20-22%, từ khu vực doanh nghiệp nhà nƣớc khoảng 18-19%; nguồn vốn tín dụng đầu tƣ phát triển khoảng 12-13%; nguồn vốn FDI khoảng 16-17%; trong khi đó, nguồn vốn đầu tƣ trực tiếp từ khu vực dân cƣ, doanh nghiệp tƣ nhân chiếm tỷ trọng lớn khoảng 27-28% và có xu hƣớng ngày càng tăng nhanh. Việc tạo lập doanh nghiệp vừa và nhỏ không cần quá nhiều vốn, đã tạo cơ hội cho đồng đảo dân cƣ có thể tham gia đầu tƣ và trong quá trình hoạt động cũng có thể dễ dàng huy động vốn từ những ngƣời thân do vậy, doanh nghiệp vừa và nhỏ đƣợc xem là phƣơng tiện có hiệu quả trong việc huy động, sử dụng các khoản tiền nhàn rỗi trong dân cƣ và biến nó trở thành các khoản vốn đầu tƣ. Trong bốn năm (2001-2004) không kể số 2,6 triệu hộ kinh doanh cá thể và khoảng 18000 hợp tác xã thì các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong 147.311 doanh nghiệp đƣợc thành lập theo luật doanh nhiệp có tổng số vốn đăng ký tƣơng đƣơng với tổng vốn FDI đăng ký ở Việt Nam. Với số lƣợng doanh nghiệp vừa và nhỏ (6/2005 có 125.000 doanh nghiệp), cùng với các hình thức huy động vốn linh hoạt, đa dạng khác nhau đã sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn này cho phát triển kinh tế - xã hội của đất nƣớc. [27]
Với quy mô vừa và nhỏ, phát triển trải rộng ở hầu khắp các địa phƣơng, các vùng từ những khu vực có điều kiện thuận lợi đến các địa bàn vùng sâu, vùng xa nên các doanh nghiệp vừa và nhỏ có khả năng tận dụng mọi tiềm năng, nguồn lực về lao động, nguồn vật liệu với trữ lƣợng hạn chế. Trong đó có nhiều nguồn lực tuy không đáp ứng nhu cầu sản xuất quy mô lớn nhƣng lại sẵn có và có nhiều sản phẩm phụ hoặc phế liệu, phế phẩm của các doanh nghiệp lớn, các sản phẩm trung gian… mà doanh nghiệp vừa và nhỏ sử dụng đƣợc sẽ góp phần thúc đẩy khai thác tiềm năng của ngành nghề truyền thống
ở các địa phƣơng nhƣ các ngành nghề thủ công, mỹ nghệ, chế biến thuỷ hải sản…làm tăng khả năng cung ứng lao động dịch vụ cho xã hội, tăng sản phẩm, tăng giá trị xuất khẩu và tăng nguồn thu cho ngân sách. Nhờ những ƣu thế này mỗi năm các doanh nghiệp vừa và nhỏ đóng góp 31% giá trị tổng sản lƣợng công nghiệp 78% tổng mức bán lẻ, 64% tổng lƣợng vận chuyển hàng hoá; gần 60% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nƣớc và 100% giá trị sản lƣợng hàng hoá của một số ngành nghề thủ công Mỹ nghệ nhƣ thêu ren, trạm khảm…[27]
Ngoài ra, các doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng đóng vai trò quan trọng trong quá trình liên kết sản xuất của các doanh nghiệp, tập đoàn lớn; đào tạo bồi dƣỡng nâng cao chất lƣợng nguồn nhân lực của đất nƣớc.
1.1.4 Các nhân tố tác động đến phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ
* Cơ chế chính sách và cơ chế quản lý phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Chính sách phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ phù hợp sẽ góp phần thúc đẩy phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam.
Chính sách và cơ chế quản lý là yếu tố rất quang trọng ảnh hƣởng trực tiếp tới hoạt động của các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Một chính sách và cơ chế đúng đắn hợp lý sẽ tạo ra môi trƣờng thuận lợi cho sự phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Nếu không có sự hỗ trợ giúp đỡ của Nhà nƣớc các doanh nghiệp vừa và nhỏ sẽ khó có khả năng tồn tại và phát triển do khả năng nghiên cứu ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ thấp, chƣa có sự liên kết với doanh nghiệp lớn.
Chính sách ƣu tiên phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ đã trở thành một chính sách phổ biến và đƣợc thực tế khẳng định tính đúng đắn của nó qua thực tiễn phát triển kinh tế - xã hội của các nƣớc trên Thế giới kể cả các nƣớc công nghiệp phát triển. Chính sách và cơ chế sẽ tạo ra môi trƣờng pháp lý và những điều kiện cụ thể cần thiết để các doanh nghiệp vừa và nhỏ có khả năng phát triển một cách tự do. Ngoài ra , chính sách và cơ chế còn tạo ra sự liên kết chặt chẽ giữa các doanh nghiệp lớn vừa và nhỏ trong phát triển nền kinh tế của mỗi nƣớc phát huy sức mạnh tổng thể của toàn bộ nền kinh tế và của từng khu vực. Những chính sách ƣu tiên, những cơ chế hợp lý, kể cả những quy định về giới hạn dƣới và trên của từng loại hình doanh nghiệp sẽ là cơ sở để đánh giá, Chính phủ ở mỗi nƣớc đƣa ra những quy định về ƣu tiên. Những quy định này ảnh hƣởng trực tiếp tới sự tồn tại và khả năng phát triển của các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Những ƣu tiên về vốn tín dụng, chế
độ thuế, sử dụng công nghệ, quy chế mối quan hệ giữa các ngoại hình doanh nghiệp thuộc các loại quy mô khác nhau kể cả chính sách chống độc quyền… đều tác động đến hoạt động của các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Chính sách đất đai, lãi suất đào tạo…tạo ra những điều kiện cần thiết quan trọng hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ phát triển và thực hiện đƣợc những nhiệm vụ kinh tế - xã hội to lớn đặt ra đối với khu vực này.
* Vốn có vai trò quan trọng đối với sự phát triển của doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Vốn đƣợc hiểu theo nghia hẹp là một trong những yếu tố đầu vào phục vụ trong quá trình sản xuất. Hiện nay các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nƣớc ta đều trong tình trạng thiếu vốn, đây chính là một trong những rào cản đối với phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ. Vốn hiện vật ở các doanh nghiệp vừa và nhỏ nhƣ nhà xƣởng, máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu…đều trong tình trạng cũ nát, lạc hậu, xuống cấp cần đƣợc nâng cấp, thay đổi nếu không có vốn để thay đổi công nghệ thì sớm muộn các doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng sẽ rơi vào tình trạng phá sản. Trong khi nguồn vốn tài chính trong các doanh nghiệp vừa và nhỏ rất hạn hẹp, khả năng tích luỹ vốn còn rất hạn chế do quy mô nhỏ, công nghệ lạc hậu, năng lực cạnh tranh yếu...Chính vì lý do này nên khi thị trƣờng có chút "sóng, gió" là các doanh nghiệp rất khó trụ vững. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ phải tận dụng khai thác vốn từ bên ngoài, tuy nhiên để huy động đƣợc nguồn vốn bên ngoài đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ rất khó khăn vì vậy cần có sự trợ giúp của nhà nƣớc để có thể tiếp cận đƣợc với các nguồn vốn bên ngoài.
* Trình độ phát triển kinh tế - xã hội.
Trình độ phát triển kinh tế càng cao thì giới hạn tiêu thức phân loại càng đƣợc nâng lên. Các nƣớc có trình độ phát triển thấp thì tiêu chuẩn, giới hạn về vốn sẽ thấp hơn. Trình độ phát triển kinh tế càng cao thì sự phát triển của doanh nghiệp lớn càng nhiều, tính cạnh tranh càng gay gắt nhƣng có thuận lợi là mối quan hệ giữa các loại hình doanh nghiệp càng chặt chẽ, sự hỗ trợ của các doanh nghiệp lớn đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ càng nhiều. Mối quan hệ qua lại sẽ giúp cho cả doanh nghiệp lớn và nhỏ phát triển trong mối quan hệ thống nhất, ràng buộc với nhau, khắc phục những hạn chế, phát huy tính tích cực của từng loại hình quy mô. nhận thức của các bộ phận kinh doanh càng rõ ràng, cụ thể hơn. Các doanh nghiệp tự nhận thấy sự cần thiết
phải liên kết, hỗ trợ nhau.
Trình độ phát triển kinh tế xã hội càng cao sẽ tạo điều kiện cho sự phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ổn định hơn, có phƣơng hƣớng rõ ràng hơn, vững bền hơn.
* Đội ngũ các nhà sáng lập và quản lý doanh nghiệp vừa và nhỏ
Sự xuất hiện và khả năng phát triển của mỗi doanh nghiệp phụ thuộc rất lớn vào những ngƣời sáng lập ra chúng. Do đặc thù là số lƣợng doanh nghiệp vừa và nhỏ rất nhiều và thƣờng xuyên phải thay đổi để thích nghi với môi trƣờng kinh doanh, phản ứng với những tác động bất lợi do sự phát triển, xu hƣớng tích tụ và tập trung hoá sản xuất. Sự sát nhập, giải thể và xuất hiện doanh nghiệp vừa và nhỏ thƣờng xuyên diễn ra trong mọi giai đoạn. đó là một sức ép lớn buộc những ngƣời sáng và quản lý các doanh nghiệp vừa và nhỏ phải có tính linh hoạt cao trong quản lý điều hành, dám nghĩ, giám làm, chấp thuận mạo hiểm. Chính vì vậy, số lƣợng và chất lƣợng đội ngũ các nhà khởi sự doanh nghiệp, dám nghĩ dám làm, chấp nhận rủi ro, đầu tƣ phát triển sản xuất kinh doanh từ những nguồn vốn hạn hẹp, nhỏ bé có ảnh hƣởng đến phƣơng hƣớng tốc độ phát triển của các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong mỗi quốc gia.
Sự có mặt của đội ngũ doanh nhân này cùng với khả năng và trình độ nhận thức của họ về tình hình thị trƣờng và khả năng nắm bắt cơ hội kinh doanh sẽ tác động to lớn đến hoạt động của từng doanh nghiệp vừa và nhỏ. Họ luôn là những ngƣời đi đầu trong đổi mới.
1.2 Kinh nghiệm phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở một số tỉnh thành trong nước.
1.2.1 Phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở thành phố Hồ Chí Minh
Trong một thời gian dài trƣớc đây, chính sách của Nhà nƣớc đã không khuyến khích kinh tế tƣ nhân phát triển vì vậy các doanh nghiệp tồn tại trong quy mô nhỏ, trang thiết bị lạc hậu, sản phẩm chủ yếu cung cấp cho nhu cầu tiêu dùng trong địa phƣơng, trong nƣớc dƣới dạng nhƣ yếu phẩm, có gì sài lấy. Những năm qua nhờ chính sách đổi mới khuyến khích thành phần kinh tế tƣ nhân phát triển, thành phố Hồ Chí Minh có nhiều biện pháp trợ giúp các doanh nghiệp vừa và nhỏ đã tạo nên sinh khí mới cho kinh tế thành phố và cả nƣớc.
Thành phố Hồ Chí Minh là thành phố lớn. Năm 2006, số lƣợng doanh nghiệp vừa và nhỏ chỉ riêng thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội chiếm 42,46% tổng số doanh nghiệp vừa và nhỏ của cả nƣớc. Tại thành phố Hồ Chí Minh, năm 2007 đã có hơn 18.500 doanh nghiệp mới thành lập với tổng số vốn đăng ký là 160.000 tỷ đồng ( tƣơng đƣơng 10 tỷ USD) 4 tháng đầu năm 2008, số doanh nghiệp vừa và nhỏ thành lập tại thành phố Hồ Chí Minh vẫn tiếp tục tăng mạnh với 6.400 doanh nghiệp và tổng sô vốn là 90.000 tỷ đồng, gần bằng 50% tổng vốn năm 2007. Trong năm 2008, ƣớc tính đóng góp của các doanh nghiệp vừa và nhỏ vào GDP là 53%.[4]
Cũng nhƣ các tỉnh trong cả nƣớc quy mô doanh nghiệp của thành phố Hồ Chí Minh còn rất nhỏ, trong thời gian qua chƣa đƣợc đổi mới công nghệ và mở rộng năng lực một cách thoả đáng, khả năng cạnh tranh chƣa cao. Khi nền kinh tế nƣớc ta gia nhập WTO thì rất nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ (đặc biệt là doanh nghiệp nhỏ) đang có nguy cơ đứng bên bờ phá sản. Trƣớc thực trạng đó thành phố Hồ Chí Minh đã triển khai nhiều biện pháp hỗ trợ đồng bộ đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ . Đó là các hoạt động trợ giúp từ trung tâm xúc tiến thƣơng mại đầu tƣ (ITPC) trong thông tin, tổ chức các khoá đào tạo và huấn luyện quản trị doanh nghiệp. Lãnh đạo uỷ ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh và các cơ sở ngành thƣờng xuyên tổ chức các buổi gặp gỡ doanh nghiệp để tìm hiểu những khó khăn vƣơng mắc và tìm biện pháp tháo gỡ kịp thời; đầu tƣ các cụm công nghiệp và làng nghề trợ giúp công tác di rời và phát triển công nghiệp phụ trợ; xây dựng cổng giao dịch điện tử dành cho doanh nghiệp vừa và nhỏ giới thiệu sản phẩm thực hành kinh doanh trên mạng để giảm các chi phí và tiếp cận thị trƣờng tốt nhất. để các doanh nghiệp vừa và nhỏ tiếp cận đƣợc các thông tin về những chính sách trợ giúp trên thì Hiệp hội doanh nghiệp thành phố đã đóng vai trò quan trọng. Các cơ quan chức năng đã vào cuộc giúp đỡ doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Sở kế hoạch và Đầu tƣ, cục thuế thành phố chịu trách nhiệm tăng cƣờng phối hợp thực hiện một cửa liên thông trong việc đăng ký kinh doanh, đăng ký thuế, mã số thuế, khắc dấu và giảm thời gian giải quyết hồ sơ đăng ký kinh doanh. Thành phố Hồ Chí Minh đã đi đầu trong việc áp dụng công nghệ thông tin vào việc hƣớng dẫn đăng ký kinh doanh qua mạng Internet. Các cá nhân muốn đăng ký kinh doanh chỉ cần điền vào trang Web các nội dung đăng ký sẽ đƣợc chuyển về phòng đăng ký kinh doanh - Sở kế hoạch và Đầu tƣ thành phố Hồ Chí Minh thông qua mạng và thông tin phản hồi sẽ đƣợc gửi lại cho doanh nghiệp tối đa là sau 2 ngày làm việc. Nếu hồ sơ đƣợc chấp nhận, Sở kế hoạch và Đầu tƣ thành phố Hồ Chí Minh sẽ hẹn ngày và
doanh nghiệp đến phòng đăng ký kinh doanh để hoàn tất thủ tục đăng ký kinh doanh tại chỗ và nhận giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh trong vòng 1 giờ. Trong trƣờng hợp hồ sơ của doanh nghiệp chƣa phù hợp sẽ có hƣớng dẫn trên trang Web để doanh nghiệp bổ sung thêm.
Trung tâm xúc tiến thƣơng mại và đầu tƣ thành phố chủ trì phối hợp với hiệp hội doanh nghiệp thành phố, các hội ngành nghề đơn vị có liên quan có định kỳ tổng hợp những khó khăn, vƣớng mắc chung của doanh nghiệp vừa và nhỏ để lên kế hoạch tổ chức buổi đối thoại trực tiếp giữa các doanh nghiệp vừa và nhỏ với sở ngành dƣới sự chủ trì của Uỷ ban nhân dân thành phố để hƣớng dẫn và giải đáp những yêu cầu bức thiết. Uỷ ban nhân dân thành phố yêu cầu sở Khoa học và Công nghệ đẩy nhanh tiến độ triển khai Dự án trung tâm NEPTECH để sớm đƣa vào hoạt động nghiên cứu, chế tạo các thiết bị mới với chi phí thấp nhằm góp phần hỗ trợ doanh nghiệp đầu tƣ đổi mới công nghệ. Đồng thời tạo điều kiện liên kết giữa Nhà nƣớc - Nhà khoa học (của các viện, trƣờng) và doanh nghiệp trong việc nghiên cứu, phát triển các thiết bị mới có công nghệ tiên tiến với chi phí thấp, phát triển hiệu quả các chƣơng trình nghiên cứu có khả năng ứng dụng vào thực tiễn.
Sở công nghiệp phối hợp với Sở Quy hoạch - Kiến trúc xây dựng quy hoạch phát triển các cụm công nghiệp, cụm làng nghề có quy mô hợp lý phục vụ cho nhu cầu của các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Đồng thời nghiên cứu chính sách hỗ trợ đầu tƣ cơ sở hạ tầng các cụm công nghiệp, cụm làng nghề để đảm bảo giá thuê đất phù hợp với khả năng của doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Trung tâm xúc tiến thƣơng mại và đầu tƣ phối hợp với hiệp hội doanh nghiệp thành phố, viện kinh tế … mở các lớp phổ biến thông tin pháp luật, đào tạo khởi sự doanh nghiệp, quản trị doanh nghiệp, kiến thức hội nhập, đào tạo các ứng dụng công nghệ thông tin trong điều kiện điều hành và quản lý doanh nghiệp phục vụ sản xuất kinh doanh, xuất nhập khẩu, xúc tiến thƣơng mại và thƣơng mại điện tử.
Ngân hàng nhà nƣớc chi nhánh thành phố Hồ Chí Minh xây dựng chƣơng trình cải cách đơn giản thủ tục vay vốn và hƣớng dẫn để các doanh nghiệp tham gia.
1.2.2 Tình hình phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Hà Nội
Là một trung tâm kinh tế xã hội của cả nƣớc, Hà Nội cũng phải đối mặt với tất cả các khó khăn và thử thách mà đất nƣớc phải trải qua. Song nhờ những quyết sách hợp lý của đảng và nhà nƣớc, nhờ sự năng động sáng tạo của lãnh
đạo thành phố, nhờ sức sống của toàn dân, Hà Nội đã vƣơn mình trỗi dậy để tiếp tục xứng đáng với vị trí đầu não của mình.
Trong vòng 15 năm, từ năm 1995 đến năm 2005, tốc độ tăng trƣởng GDP bình quân hàng năm ở Hà Nội đạt 13,6% GDP bình quân đầu ngƣời từ 446 USD tăng lên 1290 Kết cấu hạ tầng kỹ thuật ở một số lĩnh vực đã phát triển , vốn đầu tƣ xây dựng cơ bản đã tăng 11 lần. Kết cấu hạ tầng đô thị ngày càng đƣợc nâng cấp, phát triển. Đời sống vật chất tinh thần của đại bộ phận dân cƣ đƣợc cải thiện. [15]
Góp mình vào sự phát triển toàn diện của thủ đô không thể không kể đến vai trò tích cực của các thành phần kinh tế khác nhau, trong đó có một số bộ phận không nhỏ là các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Số lƣợng các doanh nghiệp không ngừng tăng lên về số lƣợng và chất lƣợng.
Năm 1992 -1999, Hà Nội có 4.449 doanh nghiệp vốn 3.162 tỷ, đến năm 2000-2004. Hà Nội có tổng 15.760 doanh nghiệp mới với tổng số vốn đăng ký 26.511 tỷ tính đến 31 tháng 12 năm 2003 tổng doanh nghiệp trên địa bàn Hà Nội 20.209 đơn vị, tổng số vốn đăng ký trên 30.000 tỷ đồng kể cả vốn bổ sung tăng 60.400 tỷ.[34, tr.107]. Đến nay (năm 2007), Hà Nội chiếm gần 20% tổng số doanh nghiệp vừa và nhỏ trong cả nƣớc. [28]
Từ 1998 đến nay, lãnh đạo thành phố đã vƣợt qua sức ép từ nhiều phía để triển khai nhiều chƣơng trình, giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp tƣ nhân. từ cơ chế , chính sách đến các vấn đề cụ thể, liên quan đến lợi ích kinh doanh của doanh nghiệp nhƣ hỗ trợ vốn cho các doanh nghiệp đƣợc vay ƣu đãi (quỹ hỗ trợ phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ); hỗ trợ tài chính, miễn giảm tiền thuê đất và miễn giảm thuế thu nhập doanh nghiệp cho nhiều dự án.
Hỗ trợ mặt bằng sản xuất, Hà Nội đã và đang triển khai xây dựng 12 khu công nghiệp nhỏ và vừa, 5 làng nghề truyền thống.
Hỗ trợ kinh phí cho các doanh nghiệp xây dựng hệ thống quản lý chất lƣợng ISO. Mở các khoá đào tạo cho những ngƣời mới khởi sự doanh nghiệp. Khuyến khích các doanh nghiệp xuất khẩu, giảm thuế, thƣởng cho các doanh nghiệp xuất khẩu, xây dựng nhiều công trình bổ trợ khác nhau nhƣ: trạm khai báo hải quan, mạng lƣới chợ.
Hàng năm, Hà Nội tổ chức ngày hội tôn vinh những doanh nhân giỏi, đây là việc làm thể hiện sự quan tâm của lãnh đạo thành phố Hà Nội đối với các doanh nghiệp và đồng thời khích lệ ý chí tinh thần kinh doanh của doanh
nhân, tạo tâm lý xã hội tốt để tầng lớp này từ đây khơi dậy khát vọng làm giàu hợp pháp cho mọi ngƣời dân.
1.2.3 Bài học kinh nghiệm cho sự phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Quảng Ninh
Việc đăng ký kinh doanh phải đƣợc đơn giản hoá để khuyến khích ý chí kinh doanh của mỗi cá nhân các doanh nghiệp rất quan tâm đến phát kiến này vì sẽ nhận nhiều lợi ích nhƣ: tiết kiệm đƣợc các chi phí khác khi thành lập doanh nghiệp; tránh đƣợc việc gây khó khăn chủ quan của cán bộ làm thủ tục đăng ký kinh doanh;
Lãnh đạo tỉnh thƣờng xuyên gặp gỡ doanh nghiệp để tìm hiểu những khó khăn, vƣớng mắc và tìm biện pháp tháo gỡ kịp thời.
Các cơ quan ban ngành có liên quan phải cùng phối hợp và tạo mọi điều kiện tốt nhất, sẵn sàng giúp đỡ các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Thái độ của cán bộ công chức địa phƣơng trong quan hệ với doanh nghiệp là một trong những yếu tố ảnh hƣởng rất lớn đến các doanh nghiệp. Mặc dù các địa phƣơng đều cho rằng doanh nghiệp là đội quân chủ lực về kinh tế ở địa phƣơng, xong thực tế nhiều địa phƣơng cán bộ chủ chốt không biết tỉnh mình có bao nhiêu doanh nghiệp. Thực tế cho thấy, sự phát triển kinh tế nói chung, sự lớn mạnh của các doanh nghiệp vừa và nhỏ nói riêng gắn rất chặt với vai trò quản lý của chính quyền địa phƣơng. Những địa phƣơng có cán bộ chính quyền năng động, sáng tạo và quan tâm đến việc tạo lập môi trƣờng kinh doanh lành mạnh luôn đạt đƣợc tốc độ tăng trƣởng kinh tế nhanh và bền vững. Rõ ràng, không phải cứ có ƣu đãi đầu tƣ, hay có vị trí địa lý, cơ sở hạ tầng là có thể tạo nên sự khác biệt trong phát triển kinh tế giữa các địa phƣơng, chính tính năng động sáng tạo trong quản lý kinh tế của chính quyền địa phƣơng mới là yếu tố quyết định thành công trong phát triển kinh tế của nhiều địa phƣơng. Ngƣợc lại những địa phƣơng có cán bộ công chức tham nhũng, không tận tâm, môi trƣờng pháp lý không minh bạch sẽ có thể làm thui chột các doanh nhân giỏi, các doanh nghiệp có tiềm năng đóng góp lớn cho nền kinh tế.
Vai trò của chính quyền địa phƣơng không chỉ đơn thuần là việc thực thi linh hoạt chính sách của trung ƣơng, hay cố gắng tạo thuận lợi, giảm chi phí giao dịch cho doanh nghiệp. Hơn tất cả chính là thái độ của chính quyền địa
phƣơng đối với vai trò của khu vực kinh tế tƣ nhân, đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Sự ủng hộ của chính quyền địa phƣơng là điều mà các doanh nghiệp rất mong đợi. Điều này thể hiện việc chính quyền địa phƣơng chủ động hỗ trợ doanh nghiệp. Những cam kết ủng hộ phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ rất cần thể hiện bằng hành động tích cực. Bên cạnh việc tổ chức hội nghị hàng năm để biểu dƣơng các doanh nghiệp kinh doanh tốt, lãnh đạo tỉnh cần tổ chức các cuộc đối thoại trực tiếp với doanh nghiệp theo từng vấn đề, nhằm kịp thời cùng doanh nghiệp tháo gỡ khó khăn trong kinh doanh.
1.3 Kinh nghiệm phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ của một số nước trên thế giới
Chính sách của Đảng và nhà nƣớc chỉ áp dụng cho cả nƣớc nhƣng sự thành công và phát triển của địa phƣơng phụ thuộc vào sự năng động của đội ngũ cán bộ địa phƣơng. Để thúc đẩy sự phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ của địa phƣơng ta cũng cần nghiên cứu tham khảo một số nƣớc trên thế giới để có thể từ đó đƣa ra những ý tƣởng hay, khai thác và phát huy đƣợc tiềm thế của địa phƣơng.
1.3.1 Phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Đài Loan
Đài loan, một trong "bốn con rồng nhỏ Châu Á" doanh nghiệp vừa và nhỏ có vai trò rất quan trọng trong kỳ tích đó. Phát huy tiềm năng to lớn của các xí nghiệp vừa và nhỏ trong tăng trƣởng kinh tế và phát triển kinh tế xã hội là một đặc điểm nổi bật của mô hình phát triển của Đài Loan trong quá trình công nghiệp hoá. Từ một nền kinh tế lạc hậu và bị tàn phá trong chiến tranh thế giới thƣ hai, trong một bối cảnh rất khó khăn về điều kiện thiên nhiên và sức ép xã hội, đã từng bƣớc phát huy nội lực, hoàn thành công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá và tiếp tục phát triển nhƣ ngày nay. Những kinh nghiệm của Đài Loan trong vấn đề phát huy vai trò của các xí nghiệp vừa và nhỏ rất có nghĩa tham khảo đối với Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
Đài Loan phát huy vai trò của các xí nghiệp vừa và nhỏ không chỉ có tác dụng thúc đẩy tăng trƣởng kinh tế, mà còn có ý nghĩa xã hội to lớn nâng cao mức sống của cƣ dân, thu hẹp chênh lệch giàu nghèo, hạn chế tỷ lệ thất nghiệp… Đài Loan đất hẹp, tài nguyên trên đảo nhanh chóng cạn kiệt, thị trƣờng trong đảo nhanh chóng bão hoà và trở thành chƣớng ngại của phát triển kinh tế, lối thoát duy nhất của sự phát triển kinh tế Đài Loan là vƣơn ra thị trƣờng thế giới, nhập khẩu nguyên liệu và xuất khẩu hàng hoá chính các
xí nghiệp vừa và nhỏ đã đáp ứng và đóng góp to lớn cho yêu cầu nền kinh tế hƣớng ngoại của Đài Loan. Các xí nghiệp quy mô lớn của Đài Loan chủ yếu làm công nghiệp nặng, phục vụ nhu cầu bản địa, còn phục vụ xuất khẩu chủ yếu dựa vào các xí nghiệp vừa và nhỏ. Các mặt hàng xuất khẩu của các xí nghiệp vừa và nhỏ rất phong phú bao gồm nhiều ngành sản xuất. Thực phẩm và đồ uống, dệt may, đồ gỗ, giấy; da giầy, mặt hàng cao su, công nghiệp hoá chất, hàng nhựa, mặt hàng tạp phẩm, đồ dùng điện tử, công nghiệp cơ khí đều có tỷ lệ xuất khẩu trên 60%.Đồng thời, các xí nghiệp vừa và nhỏ đã đóng góp phần quan trọng vào sự trƣởng thành của các ngành sản xuất của Đài Loan. Năm 1976 giá trị sản lƣợng của các xí nghiệp vừa và nhỏ chiếm 44,88% tổng giá trị sản phẩm quốc dân, năm 1984 là 47, 56% riêng trong thƣơng nghiệp là 80%.[46, tr. 174-175]
Về mặt xã hội, sự phát triển của các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Đài Loan đã góp phần quan trọng vào việc rút ngắn khoảng cách giàu nghèo, tạo việc làm, tăng thu nhập cho ngƣời lao động.
Một số nhân tố làm cho vai trò doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Đài Loan vô cùng quan trọng đó là: Sự kết hợp hài hoà giữa công nghiệp và nông nghiệp, giữa các xí nghiệp quy mô lớn với xí nghiệp quy mô vừa và nhỏ, kiểu xí nghiệp vừa và nhỏ đóng vai trò "Vệ tinh" cho các xí nghiệp lớn, xí nghiệp lớn và xí nghiệp quy mô vừa và nhỏ vừa độc lập, vừa cạnh tranh nhau qua lại vừa hợp tác và hỗ trợ lẫn nhau.
Sự tác động của kinh tế - xã hội thúc đẩy doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Đài Loan phát triển đó là nhờ giáo dục, đào tạo phát triển vì vậy Đài Loan đã có một nguồn nhân lực chất lƣợng cao cung cấp cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Đài Loan áp dụng thành tựu khoa học công nghệ, trong đó có khoa học quản lý vào trong quá trình cải tiến quản lý đạt hiệu quả cao.
Tiếp theo phải kể đến nguyên nhân đƣa đến thành công của doanh nghiệp vừa và nhỏ đó là do sự quan tâm và hỗ trợ của chính quyền. Chính quyền Đài Loan rất quan tâm giải pháp giải quyết các chính sách hỗ trợ cho phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ nhƣ thành lập tổ công tác hƣớng dẫn các xí nghiệp vừa và nhỏ, Ban hành "điều lệ hƣớng dẫn các doanh nghiệp vừa và nhỏ". Nhu cầu doanh nghiệp vừa và nhỏ bao giờ cũng cần vốn để đáp ứng nhu cầu vốn cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Bộ tài chính Đài Loan đã thành lập "Quỹ tín dụng dành riêng cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ". Có thể nói rằng chính sách đúng đắn thể hiện tầm nhìn xa của chính quyền Đài Loan đã góp phần dẫn tới "kỳ tích" kinh tế của Đài Loan trong quá trình phát
triển kinh tế của đất nƣớc.
Để phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Quảng Ninh ta có thể tham khảo ở Đài Loan. Phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ, vấn đề ƣu tiên hàng đầu ở đây là phải tìm cách tháo gỡ khó khăn về vốn cho doanh nghiệp,về chất lƣợng nguồn lao động; thứ hai, phải có chính sách hợp lý, cơ chế thông thoáng cho doanh nghiệp. Trƣớc mắt ở tỉnh Quảng Ninh cần tập trung quan tâm giải quyết tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp vừa và nhỏ ở là giải quyết nhanh thủ tục hành chính, tạo vốn cho doanh nghiệp vừa và nhỏ bằng nhiều cách khác nhau. Tìm giải pháp khuyến khích, thúc đẩy doanh nghiệp vừa và nhỏ sản xuất hàng hoá xuất khẩu, chính quyền lên là ngƣời tạo ra mối liên hệ giữa doanh nghiệp vừa và nhỏ với doanh nghiệp lớn.
1.3.2 Phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Nhật Bản
Điều đáng lƣu ý ở Nhật Bản là ngay từ khi đất nƣớc bƣớc ra khỏi cuộc chiến tranh, Nhật Bản đã coi các doanh nghiệp vừa và nhỏ này nhƣ là những công cụ đắc lực cho việc tái thiết nền kinh tế. Từ những ngành công nghiệp thủ công truyền thống ở các vùng khác nhau, các doanh nghiệp vừa và nhỏ Nhật Bản đã thực hiện thành công " tích luỹ ban đầu "cho quá trình công nghiệp hoá đất nƣớc, làm tiền đề cho việc tăng trƣởng cao và ổn định cho nền kinh tế Nhật Bản trong cả một thời kỳ dài sau này. Không phải ngẫu nhiên mà ở Nhật Bản các loại hình luật về doanh nghiệp kiểu này xuất hiện rất sớm và liên tục đƣợc bổ sung, hoàn thiện. ở Nhật Bản, các tổ chức tài chính và ngân hàng, thực hiện việc hỗ trợ toàn diện các doanh nghiệp vừa và nhỏ xuất hiện sớm hơn so với lịch sử kinh tế các nƣớc. Các cơ quan này hợp thành một " hệ thống xã hội ' hoàn chỉnh, đáng tin cậy và là chỗ dựa vững chắc cho sự phát triển của các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Từ đó cho thấy việc nhận thức sớm và đúng đắn vai trò của các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nền kinh tế là nguyên nhân đầu tiên góp phần làm gia tăng tỉ trọng các doanh nghiệp loại hình này trong nền kinh tế và các ngành nghề khác nhau ở Nhật Bản. Đây có thể xem là bài học kinh nghiệm đầu tiên và quan trọng nhất trong việc phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Nhật Bản.
Quan hệ mật thiết gắn bó giữa các doanh nghiệp vừa và nhỏ với các doanh nghiệp lớn đã tạo nên nét cấu trúc độc đáo trong cơ cấu công nghiệp Nhật Bản - Cơ cấu 2 tầng.
Nếu ở đặc điểm về quy mô và phạm vi hoạt động của các doanh nghiệp vừa
và nhỏ Nhật Bản không có gì khác biệt lớn so với loại hình doanh nghiệp này ở các nƣớc thì đặc điểm về sự liên kết gắn bó mật thiết giữa các doanh nghiệp vừa và nhỏ với doanh nghiệp lớn lại là đặc điểm nổi bật, khác biệt hẳn so với hầu hết các nƣớc. Chính sự phối hợp có hiệu quả giữa các loại hình doanh nghiệp ở Nhật Bản đƣợc coi là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế từ sau chiến tranh thế giới thứ 2 đến nay và là bí mật của sức sống của các doanh nghiệp Nhật Bản nói chung, doanh nghiệp vừa và nhỏ Nhật bản nói riêng.
Ở Nhật bản, hầu hết các doanh nghiệp lớn sử dụng hàng trăm xí nghiệp gia công chế biến trở lên. Một doanh nghiệp lớn có thể hợp đồng gia công tới 50 % số lƣợng sản phẩm của nó. Ngƣợc lại hầu hết các doanh nghiệp vừa và nhỏ thực hiện các hợp đồng gia công với các doanh nghiệp lớn. Sự phối hợp các ƣu thế về quy mô tạo nên mô hình mới trong cơ cấu công nghiệp Nhật bản.
Sự phân công lao động theo kiểu này cho phép khai thác tối đa tiềm năng không chỉ của các cá nhân mà còn cả tiềm năng trong sự hiệp tác giữa các tổ chức. Sự phối hợp các loại doanh nghiệp cho phép tạo ra sản phẩm với chi phí đầu vào thấp, chất lƣợng sản phẩm cao, đáp ứng nhu cầu phong phú đa dạng trên bất kì thị trƣờng nào của nền kinh tế. Sự phối hợp các kiểu quy mô doanh nghiệp trong sự điều tiết của chính phủ có thể đƣợc coi là đặc trƣng vô cùng quan trọng của mô hình kinh tế Nhật bản và là bài học đáng để nƣớc ta nói chung và tỉnh Quảng Ninh nói riêng quan tâm nghiên cứu vận dụng trong chiến lƣợc phát triển kinh tế của mình.
Thành công của các doanh nghiệp vừa và nhỏ đóng góp vào qúa trình tăng trƣởng kinh tế nhanh của Nhật bản, không thể không kể đến vai trò của chính phủ trong việc thực hiện sự hỗ trợ toàn diện đối với các loại hình doanh nghiệp này.
Trong giai đoạn đầu của công cuộc tái thiết nền kinh tế những biện pháp cơ bản đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ là tìm đƣờng thoát khỏi tình trạng khó khăn bằng cách lập ra những hội hợp tác, qua đó chính phủ thực thi việc hỗ trợ tài chính và thiết lập các hệ thống tiếp cận cho doanh nghiệp vừa và nhỏ. Bƣớc vào thời kì tăng trƣởng cao, do có sự chênh lệch giữa các doanh nghiệp này so với các doanh nghiệp lớn, chính phủ tiến hành mạnh mẽ những biện pháp hợp lý hoá theo từng khu vực, hƣớng dẫn các doanh nghiệp chủ chốt hiện đại tổ chức - quản lý bằng các kế hoạch đầu tƣ và ra điều luật bảo hộ quyền lợi của các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong cạnh tranh gay gắt
với các doanh nghiệp lớn.
Trong quá trình tăng trƣởng nhanh bộc lộ các mâu thuẫn, chính phủ thông qua các chính sách hƣớng dẫn các doanh nghiệp vừa và nhỏ đáp ứng những thay đổi trong cơ cấu công nghiệp chú trọng những mặt hàng sản xuất giá trị phụ gia cao cấp cạnh tranh cùng các doanh nghiệp lớn trong, ngoài nƣớc. Các chính sách và các biện pháp mà chính phủ Nhật đã thực hiện đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ đã hình thành "hệ thống xã hội đa phƣơng " thực hiện sự hỗ trợ có hiệu quả cho các doanh nghiệp loại hình này, vì vậy các doanh nghiệp vừa và nhỏ của Nhật Bản đã vƣơn lên tự khẳng định vai trò trong nền kinh tế . Đó là đặc trƣng riêng có trong quá trình phát triển của các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Nhật Bản.
Chƣơng 2
THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ Ở QUẢNG NINH TRONG NHỮNG NĂM GẦN ĐÂY.
2.1 Điều kiện phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở tỉnh Quảng Ninh
2.1.1 Cơ chế chính sách của nhà nước đối với phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ
Môi trƣờng, thể chế phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ trong những năm gần đây đã đƣợc cải thiện đáng kể. Hàng loạt các luật và văn bản dƣới luật đã đƣợc ban hành và phát huy hiệu lực trong cuộc sống, huy động đƣợc nhiều nguồn nhân lực vào kinh doanh, các thủ tục hành chính đƣợc cải thiện đáng kể nhằm phục vụ tốt hơn hoạt động kinh doanh của toàn xã hội.
Cho đến nay, tất cả các thể chế, luật, thủ tục hành chính phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Quảng Ninh đều tuân theo sự lãnh đạo của đảng và nhà nƣớc.
Luật doanh nghiệp, sự ra đời của luật doanh nghiệp năm 2000 (và sau đó là luật doanh nghiệp năm 2005) đƣợc coi là một cuộc cách mạng trong kinh
doanh, đã khơi dậy các nguồn lực trong dân cƣ phục vụ sản xuất kinh doanh. Luật doanh nghiệp ra đời, thay thế cho luật doanh nghiệp tƣ nhân và luật công ty, quy định việc thành lập tổ chức quản lý và hoạt động của các loại hình doanh nghiệp: Công ty trách nhiệm hữu hạn, Công ty hợp danh và doanh nghiệp tƣ nhân, đƣợc coi là bƣớc đột phá quan trọng vào thành trì của cơ chế quan liêu bao cấp trì truệ và cơ chế "xin - cho" trƣớc đây. Luật doanh nghiệp ra đời cùng với các văn bản hƣớng dẫn thi hành là một điều kiện vô cùng thuận lợi cho sự phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ngoài quốc doanh. Sau khi luật doanh nghiệp đi vào cuộc sống, số doanh nghiệp ở tỉnh Quảng Ninh đƣợc thành lập trong năm 2000 tăng gấp 3 lần so với những năm 90, trong đó có đến 95% là các doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ. Rõ ràng đây là định hƣớng đúng đắn của nhà nƣớc về việc phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ. [ 38 ]
* Nghị định 90/2001/NĐ-CP ngày 23 tháng 11 năm 2001 về trợ giúp phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Chƣơng trình trợ giúp doanh nghiệp vừa và nhỏ của Nhà nƣớc là chƣơng trình mục tiêu dành cho doanh nghiệp vừa và nhỏ căn cứ vào ƣu tiên phát triển kinh tế, phát triển các ngành và các địa bàn cần khuyến khích. Chƣơng trình trợ giúp này đƣợc bố trí trong kế hoạch hàng năm và kế hoạch 5 năm do thủ tƣớng Chính phủ hoặc chủ tịch Uỷ Ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ƣơng quyết định.
Thành lập quỹ bảo lãnh tín dụng của doanh nghiệp vừa và nhỏ trên cơ sở quy hoạch phát triển kinh tế xã hội và kế hoạch sử dụng đất trên địa bàn tỉnh, thành phố đã đƣợc Thủ tƣớng Chính phủ phê duyệt, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ƣơng tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ có mặt bằng sản xuất phù hợp; chỉ đạo quỹ đất và thực hiện các chính sách khuyến khích để xây dựng các khu, cụm công nghiệp cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ có mặt bằng xây dựng tập trung cơ sở sản xuất hoặc di rời từ nội thành, nội thị đảm bảo cảnh quan môi trƣờng doanh nghiệp vừa và nhỏ đƣợc hƣởng các chính sách ƣu đãi trong việc thuê đất chuyển nhƣợng, thế chấp và các quyền khác về sử dụng đất đai theo quy định của pháp luật.
Chính phủ, yêu cầu các Bộ, Ngành, UBND tỉnh thành phố trực thuộc Trung ƣơng chỉ đạo, tạo điều kiện để doanh nghiệp vừa và nhỏ tiếp cận các thông tin về thị trƣờng, giá cả hàng hoá trợ giúp doanh nghiệp vừa và nhỏ mở rộng thị trƣờng, tiêu thụ sản phẩm. Các địa phƣơng trợ giúp việc trƣng bày, giới
thiệu quảng cáo, tiếp thị sản phẩm có tiềm năng của các doanh nghiệp vừa và nhỏ, để tạo điều kiện mở rộng thị trƣờng. Chính phủ tạo điều kiện để các doanh nghiệp vừa và nhỏ tham gia cung ứng hàng hoá và dịch vụ theo kế hoạch mua sắm bằng nguồn ngân sách nhà nƣớc, các bộ ngành và địa phƣơng có kế hoạch ƣu tiên đặt hàng và các đơn hàng theo hạn hạch phân bổ cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ sản xuất hàng hoá và dịch vụ đảm bảo chất lƣợng và đáp ứng yêu cầu. Chính phủ khuyến khích phát triển hình thức thầu phụ công nghiệp, tăng cƣờng sự liên kết giữa các doanh nghiệp vừa và nhỏ với doanh nghiệp khác về hợp tác sản xuất sản phẩm, sản xuất linh kiện, phụ kiện, phụ tùng, nhận thầu xây dựng…nhằm thúc đẩy chuyển giao công nghệ, mở rộng thị trƣờng tiêu thụ sản phẩm, nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp vừa và nhỏ. thông qua các chƣơng trình trợ giúp, các cơ quan chức năng tạo điều kiện cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ đổi mới công nghệ trang thiết bị, máy móc, phát triển sản phẩm mới, hiện đại hoá quản lý nhằm nâng cao chất lƣợng sản phẩm hàng hoá, tăng khả năng cạnh tranh trên thị trƣờng.
Nhà nƣớc khuyến khích doanh nghiệp vừa và nhỏ tăng cƣờng xuất khẩu, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ liên kết hợp tác với nƣớc ngoài, mở rộng thị trƣờng xuất khẩu hàng hoá, dịch vụ. Thông qua chƣơng trình trợ giúp xúc tiến xuất khẩu, trợ giúp một phần chi phí cho doanh nghiệp vừa và nhỏ khảo sát, học tập, trao đổi hợp tác và tham dự hội trợ triển lãm giới thiệu sản phẩm, tìm hiểu thị trƣờng ở nƣớc ngoài. Chi phí trợ giúp đƣợc bố trí trong quỹ hỗ trợ xuất khẩu. Chính phủ khuyến khích việc thành lập các "vƣờn ƣơm doanh nghiệp vừa và nhỏ" để hƣớng dẫn, đào tạo doanh nhân trong bƣớc đầu thành lập doanh nghiệp.
Thành lập cục phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ với nhiệm vụ và quyền hạn chủ yếu nhƣ sau: giúp Bộ trƣởng Bộ Kế hoạch và Đầu tƣ định hƣớng công tác xúc tiên doanh nghiệp vừa và nhỏ; Xây dựng hoặc tham gia xây dựng chính sách, các văn bản quy phạm pháp luật về xúc tiến doanh nghiệp vừa và nhỏ, trình độ có thẩm quyền ban hành; tổng hợp, xây dựng các chƣơng trình trợ giúp sau khi đƣợc duyệt. Tổ chức tập huấn nhằm nâng cao năng lực cho cán bộ các tổ chức trợ giúp doanh nghiệp vừa và nhỏ và bồi dƣỡng kỹ năng tác nghiệp trong việc xúc tiến doanh nghiệp vừa và nhỏ, thông qua cân đối nguồn lực và kêu gọi nguồn vốn từ bên ngoài để trợ giúp doanh nghiệp vừa và nhỏ. Phối hợp với các cơ quan, tổ chức liên quan để cung cấp các thông tin cần thiết cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong việc tƣ vấn kỹ thuật và tiếp cận công nghệ , trang thiết bị mới, hƣớng dẫn, đào tạo vận hành quản lý kỹ thuật và quản lý doanh nghiệp.
Thành lập hội đồng khuyến khích phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ làm nhiệm vụ tƣ vấn cho Thủ tƣớng Chính phủ về cơ chế chính sách khuyến khích phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ. Các thành viên của hội đồng kiêm nhiệm. Thủ tƣớng Chính phủ quyết định các chức năng, nhiệm vụ và thành viên hội đồng theo đề nghị của Chủ Tịch hội đồng do Bộ trƣởng Bộ Kế hoạch và Đầu tƣ làm chủ tịch.
Thành lập trung tâm hỗ trợ kỹ thuật doanh nghiệp vừa và nhỏ tại thành phố Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh và thành phố Đà Nẵng. trung tâm này có chức năng tƣ vấn cho cục phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ và là đầu mối tƣ vấn về công nghệ và kỹ thuật, trang tiến trang thiết bị, hƣớng dẫn quản lý kỹ thuật và bảo dƣỡng trang thiết bị, tạo điều kiện tiếp cận công nghệ trang thiết bị mới cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Chính phủ, các Bộ, ngành, và UBND địa phƣơng cung cấp các thông tin cần thiết qua các ấn phẩm và qua mạng Internet cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Chính phủ trợ giúp kinh phí để tƣ vấn và đào tạo nguồn nhân lực cho doanh nghiệp vừa và nhỏ thông qua chƣơng trình trợ giúp đào tạo kinh phí trợ giúp về đào tạo đƣợc bố trí từ ngân sách nhà nƣớc cho giáo dục và đào tạo. Khuyến khích các tổ chức trong và ngoài nƣớc trợ giúp các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong việc cung cấp thông tin, tƣ vấn và đào tạo nguồn nhân lực.
Xúc tiến doanh nghiệp vừa và nhỏ tại địa phƣơng: UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ƣơng xúc tiến doanh nghiệp vừa và nhỏ trên địa bàn với nhiệm vụ chủ yếu định hƣớng công tác xúc tiến doanh nghiệp vừa và nhỏ; xây dựng hoặc tham gia xây dựng các văn bản hƣớng dẫn thực hiện các quy định của Chính phủ, Thủ tƣớng Chính phủ và Bộ Kế hoạch và Đầu tƣ về xúc tiến phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở địa phƣơng. Tổng hợp xây dựng các chƣơng trình trợ giúp doanh nghiệp vừa và nhỏ, điều phối, hƣớng dẫn và kiểm tra thực hiện các chƣơng trình hỗ trợ giúp sau khi đƣợc duyệt.
- Định kỳ sáu tháng một lần, tổng hợp, báo cáo Bộ kế hoạch và Đầu tƣ về vấn đề cần giải quyết;
- Phối hợp với các Bộ, ngành tổ chức liên quan thực hiện việc xúc tiến phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở địa phƣơng theo quy định hiện hành;
- Các tổ chức trợ giúp doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Chính phủ khuyến khích việc thành lập và củng cố các tổ chức trợ giúp
doanh nghiệp vừa và nhỏ thuộc các cơ quan, các tổ chức chính trị xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp, nhằm thực hiện các chƣơng trình trợ giúp một cách thiết thực và có hiệu quả.
Chính phủ khuyến khích, tạo điều kiện để các doanh nghiệp vừa và nhỏ tham gia hiệp hội các doanh nghiệp đã có và thành lập các hiệp hội, câu lạc bộ doanh nghiệp, nhằm triển khai các hoạt động kể cả thu hút các nguồn lực từ nƣớc ngoài để trợ giúp một cách thiết thực trực tiếp cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các dịch vụ về thông tin, tiếp thị, mở rộng thị trƣờng, đào tạo, công nghệ…, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Các Bộ, Ngành, UBND địa phƣơng có trách nhiệm thƣờng xuyên gặp gỡ, giải quyết các vấn đề nảy sinh trong sản xuất kinh doanh với doanh nghiệp vừa và nhỏ; Tổ chức lấy ý kiến tham gia của hiệp hội doanh nghiệp trong quá trình sản xuất kinh doanh với doanh nghiệp vừa và nhỏ; Tổ chức lấy ý kiến tham gia của hiệp hội doanh nghiệp trong quá trình soạn thảo các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến doanh nghiệp vừa và nhỏ.
* Chỉ thị 09/2005 của Thủ Tướng Chính Phủ về tiếp tục thực hiện đẩy mạnh thực hiện Luật Doanh nghiệp, khuyến khích phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Chỉ thị nêu rõ: Luật doanh nghiệp sau 4 năm thực hiện đã tạo ra bƣớc đột phá trong đổi mới tƣ duy kinh tế, cải cách thể chế và thủ tục hành chính trong quản lý nhà nƣớc đối với doanh nghiệp cùng với việc thực hiện Luật doanh nghiệp, các chính sách khuyến khích và tạo điều kiện phát triển kinh tế dân doanh đƣợc ban hành đã tháo gỡ những vƣớng mắc khó khăn, phát huy mạnh mẽ tính sáng tạo, sức sản xuất của nhân dân trên khắp mọi vùng đất nƣớc, hƣớng vào đầu tƣ sản xuất, kinh doanh góp phần quan trọng vào tăng trƣởng, chuyển dịch cơ cấu kinh tế và giải quyết các vấn đề xã hội.
Bộ trƣởng, thủ trƣởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trƣởng cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ƣơng phải thực hiện đúng quy định của Hiến pháp là "tổ chức, cá nhân thuộc các thành phần kinh tế đƣợc sản xuất, kinh doanh trong những ngành nghề mà pháp luật không cấm"; Đảm bảo các doanh nghiệp vừa và nhỏ và doanh nghiệp dân doanh đƣợc đối xử bình đẳng trong đầu tƣ, tín dụng, thuế đất đai, xúc tiến thƣơng mại, xuất nhập khẩu và các lĩnh vực khác, đồng thời thực hiện ngay các việc sau:
- Khẩn trƣơng ban hành các nhiệm vụ đã đƣợc giao tại Nghị định số 90/2001/NĐ-CP của Chính Phủ về trợ giúp phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ, Quyết định số 94/2002/QĐ-TTg của Thủ Tƣớng Chính Phủ về chƣơng trình hành động của Chính phủ thực hiện nghị quyết Trung Ƣơng lần thứ 5 Ban chấp hành Trung Ƣơng Đảng khoá IX và chỉ thị số 08/2002/CT-TTg của Thủ Tƣớng Chính Phủ về nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của doanh nghiệp.
- Kiểm tra rà soát các văn bản pháp quy của Bộ, Ngành địa phƣơng có liên quan đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, bãi bỏ, bổ sung hoặc sửa đổi những quy định không còn phù hợp, xây dựng các văn bản mới cần thiết cho kinh doanh của doanh nghiệp phù hợp với tƣ tƣởng đổi mới của Đảng, Nhà nƣớc và phù hợp với trình độ hội nhập quốc tế.
Định kỳ tổ chức việc đối thoại giữa các cơ quan chức năng với đại diện của các doanh nghiệp về từng chủ đề, giữa Bộ với các doanh nghiệp có liên quan đến văn bản pháp quy mà Bộ ban hành qua đó tiếp thu những giải pháp mới do địa phƣơng và doanh nghiệp đề xuất bổ sung, hoàn chỉnh các văn bản pháp quy đồng thời, giải quyết kịp thời và dứt điểm những vƣớng mắc trong quá trình thi hành luật pháp và chính sách.
* Chỉ thị 40/2005/CT-TTg về việc tiếp tục đẩy mạnh công tác trợ giúp phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Nhằm khuyến khích phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ để thực hiện vai trò quan trọng đã đƣợc xác định trong chiến lƣợc phát triển kinh tế - xã hội ở nƣớc ta. Qua 4 năm triển khai thực hiện nghị định số 90/2001/NĐ-Chính Phủ ngày 23 tháng 11 năm 2001 về trợ giúp phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ, nghị định đã có tác động to lớn đến sự phát triển của các doanh nghiệp vừa và nhỏ góp phần phát triển kinh tế - xã hội của đất nƣớc thời gian qua. Tuy nhiên, việc triển khai thực hiện nghị định còn chậm, nhiều nội dung chƣa đƣợc thực hiện hoặc thực hiện nhƣng chƣa đáp ứng yêu cầu trong việc trợ giúp doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp vừa và nhỏ nói riêng. Nguyên nhân chủ yếu do nhận thức ý nghĩa và tầm quan trọng của các chính sách trợ giúp phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ trong chiến lƣợc phát triển kinh tế xã hội của các cấp, các ngành còn hạn chế; thiếu những giải pháp phù hợp với điều kiện và yêu cầu cụ thể của khu vực doanh nghiệp; sự phối hợp giữa các cơ quan Nhà nƣớc ở cả Trung Ƣơng và địa phƣơng còn lỏng lẻo, phân tán; chƣa tập trung chỉ đạo sát sao, kịp thời giải quyết dứt điểm khó khăn, vƣớng mắc của doanh nghiệp. Để đẩy mạnh công tác trợ giúp phát
triển doanh nghiệp vừa và nhỏ, tạo bƣớc chuyển tích cực trong thực thi chính sách, phát triển và góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp này, Thủ Tƣớng Chính Phủ chỉ thị Bộ trƣởng, Thứ trƣởng, cơ quan ngang Bộ, Thủ trƣởng cơ quan thuộc Chính Phủ, Chủ tịch UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung Ƣơng chỉ đạo sâu sát việc thực hiện có kết quả các giải pháp và nhiệm vụ về tạo lập môi trƣờng kinh doanh thuận lợi và hỗ trợ phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ tiếp tục đẩy mạnh công tác cải cách hành chính và đẩy mạnh thực hiện Luật doanh nghiệp, khuyến khích phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Các Bộ, Ngành và địa phƣơng chủ động trình Chính phủ, Thủ tƣớng Chính phủ ban hành các văn bản hƣớng dẫn theo thẩm quyền, đồng thời chuẩn bị các điều kiện cần thiết để tổ chức triển khai thực hiện Luật doanh nghiệp và Luật đầu tƣ đã đƣợc Quốc Hội thông qua.
- Bộ Kế hoạch và Đầu tư: trong quý I năm 2006 chủ trì, phối hợp với các bộ, Công an, tài chính thống nhất biện pháp để đẩy nhanh việc đăng ký kinh doanh, khắc dấu cấp mã số thuế, bán hoá đơn. Hệ thống cơ quan quản lý xúc tiến trợ giúp phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ phải cơ bản đƣợc hình thành và triển khai các hoạt động xúc tiến phát triển doanh nghiệp có hiệu quả. Hƣớng dẫn chỉ đạo các địa phƣơng, các Bộ, Ngành và Hiệp hội doanh nghiệp khẩn trƣơng triển khai chƣơng trình trợ giúp đào tạo nguồn nhân lực cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Phối hợp với các Bộ, ngành, địa phƣơng triển khai chƣơng trình trợ giúp thông tin cần thiết cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Hoàn thành bƣớc đầu việc nâng cấp trang Web thông tin doanh nghiệp trƣớc hết cung cấp các thông tin cơ bản về đăng ký kinh doanh, về quy phạm pháp luật về doanh nghiệp, các biện pháp hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ môi trƣờng đầu tƣ trong và ngoài nƣớc… Phối hợp với các Bộ, Ngành, Địa phƣơng hiệp hội doanh nghiệp khẩn trƣơng xây dựng chƣơng trình hỗ trợ cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Tăng cƣờng phối hợp điều hành để nâng cao hiệu quả thực hiện các dự án có sự trợ giúp của các tổ chức quốc tế nƣớc ngoài, trên cơ sở đó, đàm phán, thu hút nhiều hơn nguồn nhân lực từ bên ngoài cho việc trợ giúp doanh nghiệp vừa và nhỏ. Phối hợp với các bộ ngành địa phƣơng hàng năm tổng hợp tình hình phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ, kịp thời có các giải pháp tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp báo cáo Thủ tƣớng Chính phủ xem xét, giải quyết các vấn đề vƣợt thẩm quyền.
- Bộ tài chính: Trong quý II năm 2006, đánh giá việc triển khai lập Quỹ bảo
lãnh tín dụng trong thời gian qua, đề quyết giải pháp cụ thể trình Thủ tƣớng Chính phủ quyết định để đẩy nhanh việc thành lập quỹ bảo lãnh cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở các địa phƣơng góp phần tích cực giải quyết nhu cầu tín dụng của các doanh nghiệp vừa và nhỏ, trình Thủ tƣớng Chính phủ cơ chế, chính sách về tín dụng xuất nhập khẩu ; đổi mới hoàn thiện cơ chế, chính sách tài chính doanh nghiệp, đảm bảo bình đẳng, ổn định, thông thoáng và minh bạch nhằm tạo điều kiện khuyến khích phát triển sức sản xuất của doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế. Phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tƣ tiếp tục cải cách hành chính trong việc thực hiện các chế độ ƣu đãi đầu tƣ, đơn giản hoá các thủ tục để khuyến khích đầu tƣ vào lĩnh vực mới, các ngành dịch vụ có chất lƣợng cao và sản xuất sản phẩm mũi nhọn; đề xuất cơ chế khuyến khích hỗ trợ tín dụng cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở khu vực nông thôn, các địa phƣơng có nhiều tiềm năng phát triển tiểu thủ công nghiệp, làng nghề.
- Bộ thương mại: Chủ trì, phối hợp với các Bộ, Ngành, địa phƣơng và các hiệp hội ngành nghề nghiên cứu sửa đổi bổ sung các cơ chế, chính sách xúc tiến thƣơng mại trọng điểm quốc gia, thống nhất chỉ đạo triển khai các chƣơng trình xúc tiến thƣơng mại, xúc tiến xuất khẩu để nâng cao tính hiệu quả và tạo thuận lợi trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp vừa và nhỏ. thu thập và phổ biến thông tin thị trƣờng, phục vụ cho công tác dự báo; giúp cho việc định hƣớng sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp vừa và nhỏ.
- Bộ tài nguyên và môi trường: rà soát các cơ chế, chính sách về đất đai các văn bản quy phạm pháp luật hƣớng dẫn thực hiện luật đất đai năm 2003, trình cơ quan có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung cần thiết để giải quyết các vƣớng mắc đang cản trở doanh nghiệp đầu tƣ sản xuất kinh doanh, trong đó lƣu ý tạo điều kiện hơn nữa cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ về mặt bằng sản xuất kinh doanh. Có cơ chế ƣu tiên cho các doanh nghiệp đầu tƣ vào các khu vực nông thôn, địa bàn khó khăn kém phát triển. Hƣớng dẫn các địa phƣơng xây dựng hoặc sửa đổi bổ sung quy chế quản lý, khai thác sử dụng diện tích đất của các khu, cụm công nghiệp, tạo thuận lợi cho doanh nghiệp vừa và nhỏ thuê mặt bằng sản xuất kinh doanh.
- Bộ khoa học và Công nghệ: Nghiên cứu đề án thành lập cơ sở dữ liệu quốc gia, xây dựng cơ chế quản lý thích hợp để cung cấp thông tin về công nghệ, thiết bị, các tiêu chuẩn kỹ thuật, tiêu chuẩn chất lƣợng sản phẩm cho doanh nghiệp vừa và nhỏ. Nghiên cứu đề án hình thành mô hình doanh nghiệp công nghệ phù hợp với việc thiết lập thị trƣờng công nghệ; cơ chế khuyến
khích liên kết, hợp tác giữa các cơ sở nghiên cứu và cơ sở sản xuất của các doanh nghiệp vừa và nhỏ để các sản phẩm khoa học công nghệ đƣợc mua bán, trao đổi nhƣ các dạng hàng hoá khác. Chủ trì, phối hợp bộ tài chính và các bộ ngành xây dựng cơ chế phù hợp hỗ trợ cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ thực hiện nghiên cứu và bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp cho sản phẩm công nghệ và dịch vụ, mua bán, trao đổi góp vốn và hợp tác đầu tƣ. Bằng giá trị tài sản vô hình là quyền sở hữu công nghiệp.
- Bộ ngoại giao: hƣớng dẫn chỉ đạo, các cơ quan đại diện ở nƣớc ngoài nghiên cứu đề xuất các dự án, chƣơng trình hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ khảo sát thị trƣờng, tìm kiếm đối tác, quảng bá tiếp thị sản phẩm nƣớc ngoài. Nghiên cứu đề xuất giải pháp phù hợp khuyến khích ngƣời Việt Nam ở nƣớc ngoài cung cấp thông tin về khoa học công nghệ, thị trƣờng xuất khẩu sản phẩm cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ, thông tin về đối tác liên doanh hợp tác đầu tƣ về Việt Nam ra nƣớc ngoài.
- Chủ tịch UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương: chỉ đạo Sở Kế hoạch và Đầu tƣ trong năm 2006 củng cố tổ chức, bố trí cán bộ có đủ năng lực, thực hiện tốt chức năng quản lý Nhà nƣớc về xúc tiến phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ trên địa bàn. Chỉ đạo chặt chẽ các sở ngành thực hiện các chính sách của Nhà nƣớc về trợ giúp phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ, chủ động xây dựng các chƣơng trình trợ giúp doanh nghiệp vừa và nhỏ trên địa bàn, trƣớc hết tập trung triển khai thực hiện chƣơng trình trợ giúp đào tạo nguồn nhân lực trợ giúp cung cấp thông tin và chƣơng trình trợ giúp về công nghệ, kỹ thuật để nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Phối hợp với Bộ tài chính và các cơ quan liên quan tập trung chỉ đạo để sớm có tổ chức quỹ bảo lãnh tín dụng cho doanh nghiệp vừa và nhỏ trên địa bàn, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ tiếp cận các nguồn vốn đầu tƣ phát triển.
2.1.2 Các biện pháp hỗ trợ phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Quảng Ninh
* Trợ giúp các doanh nghiệp vừa và nhỏ tiếp cận các nguồn tín dụng vốn và vay vốn
Tiếp cận các nguồn tín dụng vốn và vay vốn luôn là một khó khăn của các doanh nghiệp vừa và nhỏ cho đến nay các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Quảng Ninh vẫn đang gặp nhiều khó khăn trong hoạt động. Tình trạng thiếu vốn đã làm cho các doanh nghiệp tƣ nhân gặp nhiều khó khăn trong việc quay vòng
để đầu tƣ cho sản xuất kinh doanh với quy mô nhỏ, vốn thấp, số lƣợng lao động ít, các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Quảng Ninh không đủ điều kiện để cạnh tranh hiệu quả trên thị trƣờng với mức độ tự do hoá ngày càng tăng.
Mặc dù đã có bƣớc tiến trong lĩnh vực tài chính song theo cục phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ thì vẫn còn không ít chính sách tín dụng vẫn chƣa đƣợc nghiên cứu sửa đổi, bổ sung kịp thời. Vi dụ nhƣ đối với chủ trang trại cho vay 30 triệu đồng, đối với doanh nghiệp sản xuất kinh doanh giống thuỷ sản 50 triệu đồng.
Hiện nay, tỉnh Quảng Ninh chƣa thành lập Quỹ đầu tƣ phát triển bảo lãnh tín dụng, thành lập quỹ hiện nay vẫn dựa vào nguồn ngân sách địa phƣơng là chính, vì thế khó khăn về vốn để thành lập quỹ còn rất nan giải, gần đây chính phủ đã có quyết định 115 sửa đổi quy chế thành lập tổ chức các hình thức huy động vốn của quỹ sẽ đa dạng hơn và mức cấp vốn tối đa của địa phƣơng cho quỹ không còn bị giới hạn ở mức 30% ngân sách địa phƣơng nhƣ trƣớc nữa. Các doanh nghiệp sẽ khó tiếp cận với nguồn vốn mang tính hỗ trợ còn bởi những bất cập về mặt pháp lý. Số vốn mà khu vực tƣ nhân vay đƣợc từ quỹ này chiếm 8% tổng số vốn vay đƣợc từ quỹ. Thủ tục và các điều kiện cho vay còn quá chặt chẽ. Các thủ tục pháp lý về điều kiện cho vay của quỹ còn bất bình đẳng giữa khu vực nhà nƣớc và khu vực tƣ nhân.
Hiện tại, các doanh nghiệp ở Quảng Ninh mới đăng ký thành lập nguồn vốn chủ yêú huy động từ bản thân chủ doanh nghiệp, ngƣời thân, bạn bè…Nguồn vốn huy động đƣợc từ các tổ chức tín dụng là rất khó khăn. Theo thông tƣ hỗ trợ phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ 69% doanh nghiệp sử dụng vốn tự tích luỹ, 45% doanh nghiệp vay vốn từ ngƣời thân, 21% doanh nghiệp và vốn đƣợc từ các ngân hàng thƣơng mại quốc doanh, 11% vay từ ngân hàng thƣơng mại cổ phần. Nguồn vốn vay từ các ngân hàng thƣờng nhỏ và chủ yếu là vốn vay ngắn hạn. Nhƣ vậy, việc tiếp cận thị trƣờng tín dụng chính thức của các doanh nghiệp vừa và nhỏ là rất khó khăn do hiệu quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp vừa và nhỏ còn thấp không đủ tin cậy để các ngân hàng cho các doanh nghiệp vay vốn. Tài sản của các doanh nghiệp vừa và nhỏ không lớn, lại khó khăn trong việc thuê đất làm mặt bằng sản xuất nên việc thế chấp còn ngặt nghèo, các doanh nghiệp khó đáp ứng đƣợc các điều kiện của ngân hàng đƣa ra. Thêm vào đó các doanh nghiệp thƣờng có vốn vay nhỏ, trong khi đó chi phí giao dịch, điều tra, giám sát lại cao. Vì vậy, ngân hàng thƣơng mại cho kinh tế khu vực nhà nƣớc vay là chính, do khu vực này thƣờng đƣợc nhà nƣớc bảo đảm. [39]
* Trợ giúp mặt bằng sản xuất
UBND tỉnh Quảng Ninh đã tạo điều kiện thuận lợi về mặt bằng kinh doanh cùng các dịch vụ hạ tầng với thủ tục nhanh chóng và chi phí hợp lý, quy hoạch các khu cụm công nghiệp, có chủ trƣơng hỗ trợ và có cơ chế ƣu đãi đối với dự án đầu tƣ vào các khu công nghiệp. Các cơ sở sản xuất, dịch vụ khi di dời vào các khu công nghiệp theo chủ trƣơng của UBND tỉnh để chỉnh trang đô thị, bảo vệ môi trƣờng mà không đủ điều kiện để chuyển quyền sử dụng đất tại cơ sở cũ đƣợc xét hỗ trợ tiền thuê lại đất có hạ tầng trong thời hạn 3 năm tại khu công nghiệp với diện tích đƣợc xét hỗ trợ tƣơng ứng với diện tích đất tại cơ sở cũ theo đơn giá thuê đất trả tiền hàng năm.
Các nhà đầu tƣ đầu tƣ dự án vào các khu công nghiệp đƣợc ƣu tiên về đất đai, miễn tiền thuê đất (đất chƣa có hạ tầng ) tại các khu đô thị dịch vụ bên cạnh khu công nghiệp để xây dựng khu chung cƣ và công trình phúc lợi cho ngƣời lao động làm việc tại doanh nghiệp.
Để có cơ sở hạ tầng khang trang ở các khu công nghiệp thì UBND tỉnh Quảng Ninh có cơ chế ƣu đãi đối với doanh nghiệp xây dựng và kinh doanh hạ tầng: đƣợc thuê đất với đơn gía thuê đất mức thấp nhất là 0,25% giá đất do UBND tỉnh ban hành, đƣợc hoàn trả và hỗ trợ chi phí bồi thƣờng, bồi thƣờng giải phóng mặt bằng trên diện tích khu công nghiệp. Việc hoàn trả và hỗ trợ đƣợc thực hiện bằng cách chủ đầu tƣ ứng vốn trƣớc, UBND tỉnh sẽ trừ vào tiền thuê đất, tiền sử dụng đất khu công nghiệp phải nộp cho nhà nƣớc; hỗ trợ khoản tiền tƣơng ứng với lãi vay ngân hàng đầu tƣ và phát triển Việt Nam theo lãi suất thời điểm đối với phần chi phí bồi thƣờng giải phóng mặt bằng ứng trƣớc chƣa đƣợc hoàn trả. Tuy nhiên, đây là cơ chế để quy hoạch và kinh doanh tổng thể các khu cụm công nghiệp. Song UBND tỉnh vẫn chƣa có quy chế phân bố mặt bằng sản xuất ƣu đãi cho doanh nghiệp vừa và nhỏ.
* Trợ giúp thông tin cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ
UBND tỉnh kết hợp với sở Kế hoạch và Đầu tƣ tổ chức triển khai trợ giúp cung cấp các thông tin cần thiết cho doanh nghiệp hàng năm phối hợp tổ chức 3-4 lần hội thảo tập huấn và hỗ trợ phát triển công nghệ thông tin trong kinh doanh, thị trƣờng chứng khoán, hội nhập kinh tế quốc tê… song nhìn chung kết quả đạt đƣợc còn hạn chế. Phần lớn các doanh nghiệp vừa và nhỏ gặp nhiều khó khăn trong việc tiếp cận công nghệ thông tin về sản phẩm thị trƣờng, công nghệ và các xu hƣớng phát triển, hạn chế khả năng cạnh tranh.
* Trợ giúp đào tạo nguồn nhân lực cho doanh nghiệp vừa và nhỏ
UBND tỉnh Quảng Ninh liên tục mở các khoá đào tạo khởi sự doanh nghiệp tại địa phƣơng, cụm công nghiệp trong tỉnh để cung cấp những kiến thức cần thiết cho các chủ doanh nghiệp vừa và nhỏ và những ngƣời có ý định thành lập doanh nghiệp. Hàng năm, tỉnh Quảng Ninh phối hợp với phòng Thƣơng mại và Công nghiệp tổ chức 3 – 4 hội thảo tập huấn về hỗ trợ phát triển công nghệ thông tin trong kinh doanh, thị trƣờng chứng khoán, hội nhập quốc tế. Tuy nhiên, vì nhiều lý do cho nên số doanh nghiệp tham gia có hạn đặc biệt là doanh nghiệp tƣ nhân, đối tƣợng tham gia chủ yếu là doanh nghiệp thuộc khu vực nhà nƣớc.
* Trợ giúp xúc tiến xuất khẩu cho doanh nghiệp vừa và nhỏ
Các tổ chức, hiệp hội doanh nghiệp đã tổ chức các cuộc hội thảo, toạ đàm, UBND tỉnh đã tổ chức đón tiếp và bố trí chƣơng trình làm việc cho nhiều đoàn với nhiều doanh nghiệp của nƣớc ngoài vào tỉnh nghiên cứu, khảo sát thị trƣờng và tìm hiểu cơ hội kinh doanh, đầu tƣ tổ chức cho các doanh nghiệp của tỉnh theo đoàn doanh nghiệp của Việt Nam ra nƣớc ngoài khảo sát thị trƣờng để góp phần duy trì xuất khẩu vào các thị trƣờng truyền thống nhƣ EU, Nhật Bản và các thị trƣờng mới ở Bắc Mỹ, Châu Phi, Trung Đông và nƣớc ta đã liên tục tổ chức các hội thảo triển lãm, tuần lễ doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nƣớc vào tổ chức đoàn doanh nghiệp tham gia các hội trợ, triển lãm ở nƣớc ngoài nhƣ: Trung Quốc, Nhật Bản, Mỹ, EU…
* Trợ giúp về công nghệ và kỹ thuật cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ
Nƣớc ta đã thành lập trung tâm hỗ trợ kỹ thuật doanh nghiệp vừa và nhỏ có chức năng tƣ vấn do cục phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ và là đầu mối tƣ vấn về công nghệ và kỹ thuật cải tiến trang thiết bị, hƣớng dẫn quản lý kỹ thuật vào bảo dƣỡng trang thiết bị, tạo điều kiện tiếp cận trang thiết bị công nghệ mới cho doanh nghiệp vừa và nhỏ. Song các doanh nghiệp vừa và nhỏ trên địa bàn tỉnh hầu nhƣ chƣa nhận đƣợc sự trợ giúp về công nghệ và kỹ thuật. Phần lớn các công nghệ và kỹ thuật do các doanh nghiệp vừa và nhỏ tự tìm hiểu, trong khi các nguồn thông tin và khả năng tiếp cận lại hạn chế nên việc khởi nghiệp cũng nhƣ đổi mới công nghệ, trang thiết bị của doanh nghiệp gặp rất nhiều khó khăn và điều này đã kìm hãm sự phát triển của các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Cho nên năng suất lao động thấp dẫn đến tính cạnh tranh thấp.
2.2 Tình hình phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở tỉnh Quảng Ninh
trong những năm gần đây
2.2.1 Tổng quan về doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Quảng Ninh
Nghị định 90/2001/NĐ-Chính Phủ ngày 23 tháng 11 năm 2001 về trợ giúp phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ quy định doanh nghiệp vừa và nhỏ là các cở sở sản xuất kinh doanh độc lập đã đăng ký kinh doanh theo pháp luật hiện hành, có vốn đăng ký không quá 10 tỷ đồng hoặc số lao động bình quân hàng năm không quá 300 ngƣời doanh nghiệp vừa và nhỏ bao gồm doanh nghiệp nhà nƣớc, doanh nghiệp khu vực tƣ nhân trong nƣớc, hợp tác xã và các hộ kinh doanh cá thể.
Theo tiêu chí này, doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Quảng Ninh chiếm trên 90% số doanh nghiệp đăng ký và hoạt động theo Luật doanh nghiệp, đóng vai trò quan trọng trong việc huy động nguồn lực cho đầu tƣ phát triển và giải quyết các vấn đề xã hội nhƣ xoá đói giảm nghèo, tạo việc làm, phát triển đồng đều giữa các khu vực trong tỉnh.
Trong những năm qua doanh nghiệp vừa và nhỏ đã có sự phát triển vƣợt bậc cả về số lƣợng và chất lƣợng. Tại thời điểm năm 1999 toàn tỉnh chỉ có 362 doanh nghiệp vừa và nhỏ với tổng số vốn kinh doanh hơn 900 tỷ đồng, tập trung chủ yếu ở các trung tâm kinh tế là thành phố Hạ Long, thị xã Cẩm Phả thì sau 8 năm (1999-2007) thực hiện luật doanh nghiệp, các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở tỉnh ta đã có sự chuyển biến mạnh mẽ cả về số lƣợng và chất lƣợng hoạt động, giá trị sản xuất đạt từ 8-20%/năm. Cuối năm 2006 toàn tỉnh đã có 3661 doanh nghiệp với tổng số vốn đăng ký gần 22.000 tỷ đồng). Năm 2007, tỉnh Quảng Ninh có 842 doanh nghiệp đƣợc thành lập tăng trên 26% so với năm 2006 với số vốn trên 12 nghìn tỷ đồng tăng 6 lần so với năm 2006. Số lƣợng hồ sơ Sở Kế hoạch và Đầu tƣ tiếp nhận là 1463, sáu tháng đầu năm 2008 số lƣợng doanh nghiệp thành lập: 582 với tổng số vốn 5.422.644 triệu đồng đƣa tổng số doanh nghiệp của tỉnh lên 4.500 doanh nghiệp, tổng vốn đăng ký 30.100 tỷ đồng trong đó doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm 96%. Số doanh nghiệp vừa và nhỏ phát triển trên tất cả các địa phƣơng toàn tỉnh chủ yếu tập trung ở các địa bàn trung tâm của tỉnh nhƣ Hạ Long, Cẩm Phả, Móng Cái, Uông Bí, trong đó có một số địa phƣơng nhƣ Móng Cái, Uông Bí, Đông Triều trƣớc đây số doanh nghiệp vừa và nhỏ rất ít thì nay ở các địa phƣơng này số lƣợng đăng ký kinh doanh hoạt động tại địa bàn ngày càng cao. [41; 40]
Doanh nghiệp vừa và nhỏ có vai trò rất quan trọng trong quá trình công
nghiệp hoá của tỉnh Quảng Ninh. Doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Quảng Ninh chiếm 95% tổng số doanh nghiệp trong tỉnh, đóng góp lớn vào tăng trƣởng kinh tế của tỉnh, giải quyết các vấn đề kinh tế xã hội đang đặt ra ở tỉnh nhƣ giải quyết việc làm, thu nhập, khai thác tối đa tiềm năng về tự nhiên, xã hội và con ngƣời vào công cuộc xây dựng đất nƣớc nói chung và xây dựng tỉnh Quảng Ninh nói riêng.
UBND tỉnh đã nhận thức đƣợc tầm quan trọng của doanh nghiệp vừa và nhỏ trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá của tỉnh vì vậy các doanh nghiệp luôn đƣợc sự quan tâm ủng hộ của các cấp chính quyền, các tổ chức đoàn thể. Về phía mình, các chủ doanh nghiệp vừa và nhỏ luôn lỗ lực học hỏi kinh nghiệm tìm mọi giải pháp để vƣơn lên tự đổi mới doanh nghiệp, đổi mới cách quản lý, kỹ thuật … làm sao cho doanh nghiệp của mình đứng vững và phát triển trên thị trƣờng. Xu thế muốn vƣơn lên làm chủ doanh nghiệp, làm giầu chính đáng cho bản thân mình, cho tỉnh đang phát triển trong tiềm thức của nhiều ngƣời dân Quảng Ninh đi cùng với xu thế này các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Quảng Ninh không ngừng phát triển cả về số lƣợng và chất lƣợng. Tuy nhiên, Sự phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Quảng Ninh hiện nay là vẫn chƣa tƣơng xứng với tiềm năng của tỉnh, chƣa phát huy hết tầm vóc và nhiệm vụ của nó.
2.2.2 Đặc điểm hoạt động của doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Quảng Ninh
* Khả năng tiếp cận các nguồn tín dụng của các doanh nghiệp vừa và nhỏ
Về phƣơng diện sở hữu có thể chia doanh nghiệp vừa và nhỏ thành 2 loại: doanh nghiệp nhà nƣớc và doanh nghiệp tƣ nhân. Một thực tế phổ biến ở nƣớc ta là trong khi các doanh nghiệp vừa và nhỏ nhà nƣớc còn có thể trông đợi nguồn huy động vốn từ nhà nƣớc thì các doanh nghiệp vừa và nhỏ tƣ nhân không thể huy động vốn bằng con đƣờng nào khác là từ thị trƣờng. Nhƣ vậy, hình thức sở hữu của doanh nghiệp có liên quan chặt chẽ với vấn đề huy động vốn cho doanh nghiệp, nó chi phối sự lựa chọn con đƣờng cũng nhƣ tính khả thi của con đƣờng huy động vốn của các doanh nghiệp. Điều này đã không chỉ tạo sự bất bình đẳng giữa doanh nghiệp nhà nƣớc và doanh nghiệp tƣ nhân mà còn là nguyên nhân gây ra tình trạng sử dụng vốn kém hiệu quả trong nền kinh tế. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trƣờng hai xu hƣớng sau sẽ ngày càng rõ rệt đó là:
1. Nguồn vốn từ nhà nƣớc sẽ ngày càng hạn hẹp, thay vào đó là vốn từ thị trƣờng. Việc kiên quyết chuyển đổi sang nền kinh tế thị trƣờng thì sự tồn tại
và phát triển của doanh nghiệp vừa và nhỏ sẽ chi phối bởi cơ chế thị trƣờng.
2. Vốn do nhà nƣớc cấp cũng phải đƣợc sử dụng ngày càng có hiệu quả tình trạng xin – cho, quản lý vốn lãng phí không hiệu quả sẽ phải đƣợc chấm dứt.
Nhƣ vậy, xu hƣớng chung giải quyết vốn cho doanh nghiệp dù là doanh nghiệp nhà nƣớc hay tƣ nhân vẫn chủ yếu trông đợi từ thị trƣờng, các doanh nghiệp muốn huy động đƣợc vốn trong nền kinh tế buộc phải sử dụng vốn một cách có hiệu quả. Đây là hai mặt của một vấn đề, chúng có mối quan hệ chặt chẽ và tác động lẫn nhau. Huy động vốn từ thị trƣờng tức là các doanh nghiệp phải thông qua vay mƣợn mới có đƣợc đồng vốn, các doanh nghiệp phải cam kết trả lãi và có khả năng hoàn trả tiền vay. Đây chính là sự vận động của dòng vốn mang tính thị trƣờng, khác về chất với dòng vận động của vốn mang tính cấp phát xin – cho.
Sự vận động này có khả năng cao trong việc hƣớng các doanh nghệp sử dụng vốn có hiêụ quả. Mức lãi suất càng cao, yêu cầu hoàn trả càng ngặt nghèo, các doanh nghiệp càng phải thận trọng hơn trong cả quyết định vay vốn và sử dụng đồng vốn đã huy động đƣợc. Kinh doanh trong môi trƣờng kinh tế thị trƣờng và chuẩn bị tích cực cho hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực, các doanh nghiệp có nhiều cơ hội để huy động vốn hơn từ thị trƣờng đây cũng là thách thức và khó khăn cho các doanh nghiệp. Hiện nay ở tỉnh Quảng Ninh hơn 70% doanh nghiệp không tiếp cận đƣợc với nguồn vốn nhà nƣớc, số ít các doanh nghiệp vay đƣợc vốn hỗ trợ của nhà nƣớc nhƣng số lƣợng ít từ 15-300 triệu đồng. Khả năng huy động vốn từ quỹ bảo lãnh tín dụng ít, không hiệu quả cho nên các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Quảng Ninh thƣờng tự chủ động về vốn. [39]
Những con đường huy động vốn mang tính thị trường:
Thứ nhất, nguồn vốn vay từ các ngân hàng thƣơng mại, ngân hàng thƣơng mại là trung gian tài chính quan trọng. Để vay đƣợc vốn của ngân hàng thƣơng mại, các doanh nghiệp phải chứng minh đƣợc tính khả thi cao và tính hiệu quả cao của các dự án đầu tƣ của các doanh nghiệp. Vì vậy, không phải tất cả các doanh nghiệp có nhu cầu vay vốn đều có thể tiếp cận đƣợc nguồn vốn của ngân hàng. Cơ hội cho các doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển trong nền kinh tế là phải hoạt động thực sự vì sự tăng trƣởng liên tục, bền vững. Nguồn vốn huy động đƣợc từ các tổ chức tín dụng. Ở Quảng Ninh chỉ có 21% doanh nghiệp vay vốn đƣợc từ ngân hàng thƣơng mại quốc doanh, 11% vay từ ngân hàng thƣơng mại cổ phần. Nguồn vay từ các ngân hàng
thƣờng nhỏ và chủ yêú lại là vốn ngắn hạn, nhƣ vậy việc tiếp cận thị trƣờng tín dụng chính thức của các doanh nghiệp vừa và nhỏ là rất khó khăn do hiệu quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp vừa và nhỏ còn thấp, không đủ tin cậy để các ngân hàng cho các doanh nghiệp này vay vốn. Tài sản của các doanh nghiệp vừa và nhỏ không lớn, lại khó khăn trong việc thuê đất làm mặt bằng sản xuất lên việc thế chấp còn ngặt nghèo, các doanh nghiệp khó đáp ứng đƣợc các điều kiện của ngân hàng đƣa ra. Thêm vào đó, các doanh nghiệp vừa và nhỏ thƣờng có lƣợng vốn vay nhỏ, trong khi đó chi phí giao dịch, điều tra, giám sát lại cao…[39]
Thứ hai, nguồn vốn từ thị trƣờng chứng khoán, các doanh nghiệp huy động vốn thông qua việc bán trái phiếu và cổ phiếu trên thị trƣờng. Các ngân hàng thƣơng mại không phải là nguồn cung ứng vốn cho các doanh nghiệp một cách đầy đủ, là tổ chức kinh doanh bằng tiền gửi của ngƣời khác thông qua hoạt động đi vay và cho vay, các ngân hàng thƣơng mại không thể đáp ứng đủ nhu cầu ngay càng tăng về vốn trung và dài hạn cho các doanh nghiệp, nhu cầu này chỉ có thể thông qua thị trƣờng chứng khoán. Hiện nay, ở Quảng Ninh chƣa có trung tâm giao dịch chứng khoán, 90% dân số Quảng Ninh không hiểu về thị trƣờng chứng khoán cho nên doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Quảng Ninh rất khó có thể huy động vốn bằng con đƣờng này. Những quy định về điều kiện để các doanh nghiệp vừa và nhỏ tham gia thị trƣờng chứng khoán vẫn còn nhiều bất cập, vẫn là rào cản cho các doanh nghiệp cần vốn tiếp cận đƣợc với nguồn vốn trên thị trƣờng. Ở Quảng Ninh ngƣời dân gần nhƣ không biết đến sự hoạt động của các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Theo phỏng vấn của trung tâm hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ thì gần nhƣ mọi ngƣời đều lắc đầu đầu tƣ vốn vào các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Mọi ngƣời dân đều có chung tâm lý không tin vào tính ổn định bền vững trong tƣơng lai phát triển của doanh nghiệp vừa và nhỏ. Đây lại là rào cản cho các doanh nghiệp cần vốn trên thị trƣờng.
Ngoài những nguồn huy động vốn kể trên các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nƣớc ta nói chung và Quảng Ninh nói riêng còn đƣợc hỗ trợ tài chính từ phía Chính Phủ thông qua các chính sách của nhà nƣớc và từ các dự án hỗ trợ tài chính của các tổ chức tài chính quốc tế cho phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam nhƣ dự án tài trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ do JBTC Nhật bản tài trợ. Cơ quan phát triển quốc tế Hoa Kỳ (USAID), ngân hàng phát triển Châu Á (ACB), ngân hàng đầu tƣ Bắc Âu, quỹ phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ (SMEDF) do liên minh Châu Âu tài trợ và do quỹ hỗ trợ phát triển Việt Nam quản lý… Tuy nhiên cùng với số lƣợng các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nƣớc ta ngày càng tăng thì những hỗ trợ tài chính trên
không thể đáp ứng đủ nhu cầu về vốn cho các doanh nghiệp đƣợc.
Từ thực trạng trên cho thấy vốn có vai trò rất quan trọng đối với sự phát triển của doanh nghiệp vừa và nhỏ nhƣng thực tế cho thấy việc tiếp cận với các nguồn vốn đối với doanh nghiệp rất khó khăn, đây là một rào cản lớn nhất cho sự phát triển của các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
* Trình độ khoa học công nghệ của các doanh nghiệp vừa và nhỏ
Doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Quảng Ninh chủ yêu tập trung ở các địa bàn trung tâm của tỉnh nhƣ ở Hạ Long, Cẩm Phả, Móng Cái, khu vực hải đảo xa xôi thì rất ít nhƣ Cô Tô, Đầm Hà, Ba Chẽ , Bình Liêu. Lĩnh vực hoạt động của các doanh nghiệp chủ yếu ở lĩnh vực thƣơng mại, dịch vụ (dịch vụ du lịch, khách sạn…) hạn chế hoạt động ở các ngành trực tiếp sản xuất, công nghiệp , xây dựng, giao thông vận tải, đặc biệt là sản xuất nông nghiệp (sản xuất phục vụ cho nông nghiệp, nông thôn). Một số cơ sở sản xuất kinh doanh nhỏ, chủ yếu sử dụng công cụ lao động thủ công. Còn đối với doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực thƣơng mại và dịch vụ thƣờng ít quan tâm đến khoa học công nghệ mới vào hoạt động quản lý dịch vụ kinh doanh .
Năm 2003 ngành dịch vụ, du lịch chiếm gần 50% doanh nghiệp vừa và nhỏ , năm 2003 thƣơng mại chiếm gần 20%, các ngành khác chiếm 30%. Các ngành kinh doanh dịch vụ, du lịch, thƣơng mại ít chú ý đến ứng dụng công nghệ hiện đại trong kinh doanh. Ở tỉnh Quảng Ninh rất ít doanh nghiệp quảng bá và bán hàng trên mạng Internet. Nhiều doanh nghiệp du lịch không biết gửi Email cho khách hàng, chỉ cần vài dòng thƣ điện tử giới thiệu, quảng bá… là một doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực khách sạn, nhà hàng du lịch có thể thu hút khách nƣớc ngoài đến. Việc đơn giản nhƣ vậy nhƣng đến giờ rất ít doanh nghiệp vừa và nhỏ của tỉnh quan tâm, nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ hoạt động trong ngành du lịch không biết hoặc ứng dụng sơ sài công nghệ thông tin trong kinh doanh du lịch. [41]
Bên cạnh đó số doanh nghiệp có sử dụng máy vi tính lên đến hơn 60% nhƣng chỉ có 11, 55% doanh nghiệp có sử dụng mạng nội bộ, số doanh nghiệp có Website là rất thấp khoảng 12%. Đây là một kết quả rất đáng lo ngại vì khả năng tham gia thƣơng mại điện tử và khai thác thông tin qua mạng của các doanh nghiệp còn rất thấp, chƣa tƣơng xứng với mong muốn phát triển thƣơng mại điện tử trong tƣơng lai. Yếu tố khoa học kỹ thuật là yếu tố quyết định sự thành bại của doanh nghiệp trên thƣơng trƣờng nhƣng các doanh nghiệp vừa và nhỏ hiện nay chƣa coi trọng đúng mức đến các vấn
đề kỹ thuật và công nghệ. [40]
Khi phó Chủ tịch UBND tỉnh gặp gỡ các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Quảng Ninh để tháo gỡ khó khăn vƣớng mắc thì các chủ doanh nghiệp chỉ cần quan tâm hỗ trợ về vốn, về cơ chế chính sách, rất ít doanh nghiệp kiến nghị về kỹ thuật và công nghệ, về đào tạo đội ngũ lao động có kỹ thuật cao. Điều này cho thấy, các doanh nghiệp vừa và nhỏ còn chƣa chú trọng đến ứng dụng khoa học - kỹ thuật trong hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp mình
* Chủ doanh nghiệp và lực lượng lao động trong các doanh nghiệp vừa và nhỏ
- Về chủ doanh nghiệp vừa và nhỏ:
Đến cuối tháng 6 năm 2008, trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh có trên 4500 doanh nghiệp đƣợc cấp phép kinh doanh, trong đó trên 95% là doanh nghiệp vừa và nhỏ. Nhƣng qua điều tra cho thấy, trình độ văn hoá, khả năng quản lý kinh doanh của chu doanh nghiệp vừa và nhỏ còn rất hạn chế, trên 68% giám đốc mới học hết trung học phổ thông và thấp hơn; hơn 63% yếu kém về khả năng quản lý doanh nghiệp. Trong số hơn 30% giám đốc doanh nghiệp đã qua đại học, (chủ yếu là đại học tại chức), nên khả năng và kinh nghiệp kinh doanh còn hạn chế. Ít chủ doanh nghiệp đƣợc đào tạo về kiến thức kinh tế và quản trị doanh nghiệp, điều này có ảnh hƣởng lớn đến việc lập chiến lƣợc phát triển, định hƣớng kinh doanh quản lý của các doang nghiệp Việt Nam. Bản thân các chủ doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn trong công tác quản lý, đặc biệt là các áp lực về pháp lý do không đƣợc đào tạo về quản lý doanh nghiệp cũng nhƣ tƣ vấn pháp lý thƣờng xuyên; các quy định về thủ tục quản lý doanh nghiệp (chế độ theo dõi, báo cáo và quản lý sổ sách) và thủ tục về thuế lại luôn thay đổi. 1/3 số doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh qua khảo sát tuy đăng ký đầy đủ thủ tục nhƣng lại không xây dựng hệ thống sổ sách theo quy định mà chỉ thực hiện thu chi báo sổ giống nhƣ một hộ kinh doanh. [2; 41]
Về độ tuổi: phần lớn các chủ doanh nghiệp vừa và nhỏ còn trẻ tuổi khoảng 45 tuổi trở xuống. Sự đông đảo của lớp trẻ trong đội ngũ những nhà lãnh đạo doanh nghiệp cho thấy hoạt động kinh doanh đang đƣợc lớp trẻ quan tâm mạnh mẽ và đang đƣợc xã hội nhìn nhận một cách tích cực hơn. Hiện nay trên địa bàn tỉnh chủ doanh nghiệp là nam giới vẫn chiếm tỷ lệ lớn 85%, doanh nghiệp do nữ làm chủ chiếm khoảng 15%.[37]
- Về lực lƣợng lao động:
Theo cục thống kê tỉnh Quảng Ninh – Niên giám thống kê năm 2003, dân số tỉnh Quảng Ninh năm 2003 là 1.058.752 ngƣời bằng 1,31% dân số cả nƣớc (dân số cả nƣớc năm 2003 là 80.902.400 ngƣời ). Sự phân bố dân cƣ không đồng đều, theo đơn vị hành chính thì thành phố Hạ Long có mật độ dân cƣ đông nhất 908 ngƣời/km2, tiếp đến là thị xã Cẩm Phả 469 ngƣời/km2, huyện Yên Hƣng 404 ngƣời/km2. thấp nhất là ở huyện Hoành Bồ 49 ngƣời/km2 và Ba Chẽ 30 ngƣời/km2. Cơ cấu nông thôn và thành thị năm 2003, dân số nông thôn có 569.446 ngƣời, chiếm 53, 78%; dân số thành thị 489.306 ngƣời, chiếm 46, 22%. Với tỷ lệ này, mức độ đô thi hoá của Quảng Ninh tƣơng đối cao, cao hơn nhiều so với mức trung bình trong cả nƣớc (25%). Cơ cấu dân số Nam-Nữ năm 2003 là 50,67-49,33%. [11]
Dân số tỉnh thuộc loại trẻ, nguồn lao động của tỉnh dồi dào, năm 2003 có 644, 8 nghìn ngƣời chiếm 61,3% so với dân số của tỉnh gần 50% dân số đã tốt nghiệp phổ thông cơ sở bằng 1,6 lần bình quân cả nƣớc là điều kiện thuận lợi cho việc đào tạo ngành nghề và tiếp thu nhanh tiến bộ khoa học kỹ thuật. số lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật chiếm trên 25% là tỷ lệ cao so với các tỉnh đồng bằng Sông Hồng (chỉ sau Hà Nội) là lợi thế lớn của tỉnh. Song vấn đề đặt ra là tuy lực lƣợng lao động dồi dào nhƣng lại thiếu lao động giỏi có trình độ chuyên môn tay nghề cao, lao động trong lĩnh vực có hàm lƣợng khoa học cao. [37]
Dự báo năm 2010 dân số của tỉnh Quảng Ninh nếu tính cả tăng cơ học có khoảng 1.500 và năm 2020 khoảng 1800 nghìn ngƣời. Đến năm 2010 khoảng 713,8 nghìn ngƣời trong độ tuổi lao động và đến năm 2020 có khoảng 780 nghìn ngƣời, tăng thêm trong thời kỳ 2003-2010 khoảng 69 nghìn ngƣời thời kỳ 2011-2020 ít hơn khoảng 64 nghìn ngƣời. Nguồn lao động tăng thêm là lực lƣợng lao động dồi dào bổ sung cho các ngành kinh tế của tỉnh song cũng đặt ra vấn đề cần giải quyết việc làm và đào tạo cho lực lƣợng lao động tăng thêm này để đáp ứng với công cuộc phát triển theo hƣớng Công nghiệp hoá, hiện đại hoá của tỉnh. [37]
Đây là thuận lợi cho việc tuyển chọn lao động cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong tổng số 644,8 nghìn ngƣời trong độ tuổi lao động hiện nay 63% đang làm việc tại các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ đã có những nỗ lực nâng cao trình độ lực lƣợng lao động của mình, hầu hết tỷ lệ công nhân qua đào tạo tăng lên qua các năm trong tất cả các ngành. [37]
* Mặt bằng sản xuất kinh doanh cho doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Toàn tỉnh có 601.000 ha đất, trong đó có 57.364 ha đất nông nghiệp đang sử dụng, 342.557 ha chƣa sử dụng, 196.019 ha đất nông nghiệp, 44.000 ha bãi triều , 80% là đất đồi núi. Nhƣ vậy, quỹ đất dành cho sản xuất kinh doanh, sản xuất ở tỉnh Quảng Ninh hiện nay vẫn còn nhiều. UBND tỉnh đã quy hoạch các khu, cụm nông nghiệp và làng nghề truyền thống để doanh nghiệp vừa và nhỏ sau khi thành lập có mặt bằng sản xuất và đã có chính sách khuyến khích các doanh nghiệp vừa và nhỏ tập trung về các khu, cụm công nghiệp có ở trên các địa phƣơng toàn tỉnh và chủ yếu là gần với trục đƣờng 18A thuận tiện cho vấn đề chuyên chở hàng hoá và các khu, cụm công nghiệp đều có hạ tầng cơ sở nhƣ điện, nƣớc, giao thông…). Quảng Ninh có bờ biền dài, nhiều khu vực kín gió, nƣớc sâu, ít lắng đọng để phát triển cảng biển, Quảng Ninh phát triển hệ thống cảng biến lớn: cảng Cái Lân, cảng than Cửa Ông, cảng nhà máy thép Cửa Ông, Hoành Bồ, Cầu trắng, núi Chùa, Đền Công thuận lợi cho việc xuất khẩu hàng hoá cho các doanh nghiệp. [12]
* Thị trường của các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Thị trƣờng tiêu thụ sản phẩm của các doanh nghiệp vừa và nhỏ, còn hẹp, chất lƣợng sản phẩm không đều, khó cạnh tranh đƣợc với sản phẩm của các tỉnh khác. Trình độ Maketing và bán hàng của các doanh nghiệp vừa và nhỏ còn hạn chế đây thực sự là một yếu điểm căn bản của các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Việc huy động tìm kiếm thị trƣờng, chủ động đƣa ra các chƣơng trình Maketing cho sản phẩm hàng hoá, dịch vụ của mình chƣa là thói quen của các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Bên cạnh đó các kỹ năng kinh doanh khác nhƣ kỹ năng đàm phán, kỹ năng thuyết trình và thuyết phục của ngƣời lao động và các chủ doanh nghiệp vừa và nhỏ là rất kém
Những sản phẩm xuất khẩu của các doanh nghiệp vừa và nhỏ tỉnh Quảng Ninh chủ yếu là thuỷ hải sản, những doanh nghiệp vừa và nhỏ sản xuất sản phẩm phụ trợ chủ yếu phụ thuộc vào các doanh nghiệp lớn nên sản xuất rất thụ động phải chờ sự chấp thuận của các doanh nghiệp lớn trong tỉnh, chƣa hề biết đến mở rộng thị trƣờng ra các tỉnh thành khác. Hơn 90% doanh nghiệp vừa và nhỏ chƣa biết đến thị trƣờng nƣớc ngoài và chƣa có khả năng tham gia xuất khẩu. Nguyên nhân của tình trạng trên do khả năng tài chính có hạn,doanh nghiệp chƣa nắm bắt đƣợc nhu cầu thị trƣờng thế giới, không hiểu pháp luật và phƣơng thức kinh doanh của các nƣớc khác, không có khả năng tiếp thị; năng lực cạnh tranh của sản phẩm thấp, sản phẩm của các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở tỉnh Quảng Ninh chƣa tạo đƣợc thƣơng hiệu
trong nƣớc và Quốc Tế. Đây là lý do khiến cho doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Quảng Ninh thƣờng thu hẹp quy mô sản xuất, nhiều doanh nghiệp tuổi thọ rất ngắn. Hiện nay, Quảng Ninh có 15% doanh nghiệp vừa và nhỏ có nguy cơ phá sản do nhiều nguyên nhân thiếu vốn, thiếu nguyên liệu đầu vào, sản phẩm sản xuất ra không cạnh tranh đƣợc trên thị trƣờng (trong số đó có khoảng 60% Quảng Ninh có nguy cơ phá sản do không tiêu thụ đƣợc sản phẩm ). Vấn đề mở rộng quy mô sản xuất đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ hiện nay là rất khó khăn. Tháng 11 năm 2006 nƣớc ta nhập WTO (tổ chức thƣơng mại thế giới) nhƣng nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ không quan tâm đến sự kiện này. Sự hiểu biết của các doanh nghiệp vừa và nhỏ về hội nhập kinh tế rất thấp. Các doanh nghiệp còn chƣa đƣợc thông tin đầy đủ về quá trình hội nhập cũng nhƣ những kiến thức cần thiết về hội nhập kinh tế Quốc tế, 43% doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Quảng Ninh chƣa biết đƣợc những thuận lợi và thách thức đối với doanh nghiệp mình trong tƣơng lai. [39]
2.3 Đánh giá thực trạng phát triển và những vấn đề đặt ra đối với sự phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở tỉnh Quảng Ninh
2.3.1 Một số thành tựu và hạn chế của doanh nghiệp vừa và nhỏ ở tỉnh Quảng Ninh
* Thành tựu:
Qua phân tích tình hình phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ trong những năm gần đây cho thấy doanh nghiệp vừa và nhỏ góp phần đáng kể vào sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Quảng Ninh. Các doanh nghiệp đã có nhiều đóng góp lớn thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn. Riêng năm 2006 các doanh nghiệp hoạt động trên lĩnh vực công nghiệp đã đóng góp hơn 19% vào tổng giá trị sản xuất công nghiệp của toàn tỉnh, nộp thuế 290 tỷ đồng. Trong hoạt động ngoại thƣơng, xuất nhập khẩu của tỉnh các doanh nghiệp vừa và nhỏ đã góp phần không nhỏ thúc đẩy lĩnh vực này của tỉnh phát triển nhất là xuất khẩu gốm, mỹ nghệ, gạch men cao cấp. Tổng giá trị sản xuất của doanh nghiệp vừa và nhỏ trong các ngành công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, thuỷ sản, thƣơng mại, dịch vụ tăng 8-20% với mức vốn đăng ký có tỷ lệ 32,9% trên tổng số doanh nghiệp kết quả nộp ngân sách tăng hàng năm, trong đó việc thực hiện nghĩa vụ nộp thuế của các doanh nghiệp hàng năm tăng 25-30%.[39]
Doanh nghiệp vừa và nhỏ hoạt động sản xuất kinh doanh trên mọi lĩnh vực nhƣng chủ yếu tập trung vào lĩnh vực du lịch, dịch vụ , khách sạn (ngành
dịch vụ đang là thế mạnh của tỉnh) hàng năm tăng hơn 19% đóng góp vào doanh thu từ hoạt động du lịch tăng 27%.[40]
Với gần 1.500 doanh nghiệp vừa và nhỏ hoạt động trong lĩnh vực du lịch, dịch vụ là lực lƣợng chính tạo nên một bộ mặt mới, diện mạo mới cho ngành du lịch trong những năm gần đây. Các doanh nghiệp thuộc lĩnh vực này đã huy động vốn xây dựng hệ thống nhà hàng, khách sạn hiện đại, quy mô lớn tạo cơ sở hạ tầng du lịch đồng bộ thu hút khách du lịch trong và ngoài nƣớc đến Quảng Ninh.
Nếu nhƣ trƣớc đây việc giải quyết việc làm cho lao động chủ yếu phụ thuộc vào các doanh nghiệp nhà nƣớc, công ty lớn thì nay chính các doanh nghiệp vừa và nhỏ là lực lƣợng chính giải quyết việc làm cho lao động phổ thông, nhất là lao động nông thôn. Trung bình mỗi doanh nghiệp vừa và nhỏ giải quyết việc làm cho khoảng 20 lao động với mức thu nhập khoảng 1,5 triệu đồng/ngƣời/tháng. [41]
Doanh nghiệp vừa và nhỏ đã giải quyết đƣợc công ăn việc làm cho nhiều lao động của tỉnh. Lao động việc làm trong doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm 63% tổng số doanh nghiệp trong tỉnh. Ngoài việc đóng góp trực tiếp vào ngân sách nhà nƣớc giải quyết việc làm; các doanh nghiệp vừa và nhỏ còn tích cực tham gia các hoạt động xã hội nhƣ trợ giúp xã nghèo trong tỉnh, nhận đỡ đầu hỗ trợ các gia đình thƣơng binh liệt sĩ, trẻ em có hoàn cảnh khó khăn…
Với quy mô vừa và nhỏ, phát triển trải rộng trên khắp các vùng trên địa bàn tỉnh, từ nơi có điều kiện thuận lợi đến các vùng sâu, vùng xa nên các doanh nghiệp vừa và nhỏ đã tận dụng mọi tiềm năng, nguồn lực về lao động, nguyên vật liệu với trữ lƣợng hạn chế. Sự phát triển của doanh nghiệp vừa và nhỏ đã giải quyết nhiều công ăn việc làm góp phần xoá đói giảm nghèo nâng cao đời sống vật chất, chất lƣợng nguồn lao động, rút ngắn khoảng cách giàu nghèo… đóng quan trọng trong quá trình công nghiệp hoá của tỉnh Quảng Ninh.
* Hạn chế:
- Hạn chế về năng lực tài chính, các doanh nghiệp vừa và nhỏ có tiềm lực tài chính nhỏ bé trung bình số vốn của các doanh nghiệp dƣới 3 tỷ đồng. Bên cạnh đó việc tiếp cận với các nguồn tài chính từ các tổ chức tín dụng của các doanh nghiệp vừa và nhỏ tuy đƣợc cải thiện nhƣng còn nhiều khó khăn, thời gian và thủ tục vay vốn còn phức tạp.
- Năng lực cạnh tranh của từng doanh nghiệp thấp với đặc thù là quy mô nhỏ, vốn ít hoạt động phân tán, rải rác khắp cả nƣớc, không đủ khả năng tham gia sản xuất kinh doanh ở các ngành nghề lĩnh vực đòi hỏi tập trung vốn lớn và công nghệ cao doanh nghiệp vừa và nhỏ thông tin về thị trƣờng đầu vào nhƣ thị trƣờng vốn, thị trƣờng lao động, thị trƣờng nguyên vật liệu, thị trƣờng thiết bị công nghệ, thông tin về chế độ chính sách và quy đinh nhà nƣớc dẫn tới tình trạng các doanh nghiệp chƣa thực sự nắm bắt đƣợc những cơ hội kinh doanh tốt, chƣa khai thác hiệu quả kinh doanh về thị trƣờng; trình độ quản lý, kiến thức khoa học – công nghệ và ý thức tuân thủ pháp luật chƣa cao.
- Phần lớn các doanh nghiệp vừa và nhỏ có trình độ khoa học công nghệ, trang thiết bị kỹ thuật lạc hậu; tiêu hao nguyên nhiên liệu cao; tay nghề công nhân thấp; do vậy chất lƣợng sản phẩm, hàng hoá dịch vụ không cao , sản phẩm khó tiêu thụ trên thị trƣờng trong nƣớc và xuất khẩu đồng thời gây thiệt hại cho tài nguyên môi trƣờng và hệ sinh thái. mức độ đầu tƣ đổi mới công nghệ của doanh nghiệp còn thấp so với yêu cầu phát triển. khu vực doanh nghiệp vừa và nhỏ hầu nhƣ chƣa có các hoạt động nghiên cứu và phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ chƣa nhận thức đầy đủ về thời cơ và thách thức của toàn cầu hoá và kinh tế và hội nhập kinh tế Quốc tế và khu vực tới nền kinh tế trong nƣớc tới hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. trên thực tế quá trình hội nhập đòi hỏi các nền kinh tế nói chung và các doanh nghiệp nói riêng phải nhận thức sâu sắc mức độ ảnh hƣởng của nó không ngừng phấn đấu nâng cao năng lực cạnh tranh để tồn tại và phát triển.
- Sự liên kết giữa các doanh nghiệp còn hạn chế, sự hợp tác giữa các doanh nghiệp lớn và doanh nghiệp vừa và nhỏ còn chƣa chặt chẽ dẫn tới sự hạn chế trong chất lƣợng, hiệu quả kinh doanh và sức cạnh tranh của cả doanh nghiệp vừa và nhỏ và doanh nghiệp lớn, chƣa khai thác đƣợc lợi thế nhờ quy mô của hai khu vực này. Đồng thời giữa các doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng chƣa có sự liên kết để nâng cao sức cạnh tranh. Hoạt động bị chi phối bởi nhiều bởi nhiều tƣ tƣởng tiểu nông, chụp giật. Điều này làm cho khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp vừa và nhỏ vốn đã hạn chế lại càng bị suy yếu thêm và dễ bị tổn thƣơng, chèn ép trên thị trƣờng.
- Việc theo dõi, kiểm tra, giám sát việc thực hiện các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ hầu nhƣ không đƣợc tiến hành thƣờng xuyên, việc tổ chức thực hiện chính sách hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ ở một số sở, ban, ngành vẫn chƣa tốt, cơ quan cấp dƣới không tuân thủ đúng quyết định của cấp trên, còn một số bộ liên quan đến giải quyết thủ tục hành chính cho
doanh nghiệp nhiều khi còn gặp khó dễ cho doanh nghiệp. Việc triển khai các văn bản quy phạm pháp luật của cấp trên nhiều khi còn chậm nên chƣa thực sự đi vào cuộc sống chƣa đáp ứng đƣợc các dòi hỏi của các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Quỹ bảo lãnh tín dụng cho doanh nghiệp vừa và nhỏ chƣa triển khai vì nguồn ngân sách địa phƣơng đóng góp ít, mặt khác tổ chức ngân hàng tín dụng đều là ngân hàng thƣơng mại, họ đều phải vay để cho vay, trong khi góp vốn để hình thành quỹ bảo lãnh tín dụng doanh nghiệp vừa và nhỏ không đủ hấp dẫn về lợi ích đối với các tổ chức tín dụng, do vậy các tổ chức tín dụng ít quan tâm đến việc tham gia đóng góp để thành lập quỹ bảo lãnh tín dụng cho doanh nghiệp vừa và nhỏ.
- UBND tỉnh cũng chƣa có giải pháp thích hợp để giải quyết mặt bằng sản xuất cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ. UBND tỉnh đã quy hoạch khu, cụm công nghiệp song rất ít doanh nghiệp vào khu, cụm công nghiệp vì chi phí ban đầu cao, thủ tục còn rƣơm rà…
- Hiện nay, thông tin thị trƣờng thế giới có sẵn trên Internet nhƣng việc truy cập đến các thông tin đó rất hạn chế đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ do hạn chế về ngôn ngữ, cơ sở hạ tầng, thông tin, thiếu kỹ năng sử dụng Internet.
- Về đào tạo nguồn nhân lực cho doanh nghiệp vừa và nhỏ trên thực tế trong những năm qua, một số khoá đào tạo mở ra thƣờng tập trung vào lý thuyết chƣa đáp ứng đƣợc yêu cầu của doanh nghiệp vừa và nhỏ một số tổ chức quốc tế cũng mở các khoá đào tạo cho doanh nghiệp vừa và nhỏ, song hiệu quả còn thấp. Nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ ít quan tâm đến đào tạo, các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở những vùng sâu, vùng xa, các địa bàn kinh tế khó khăn và đặc biệt không đủ khả năng tài chính để tham gia các khóa đào tạo này.
2.3.2 Một số vấn đề đặt ra đối với việc phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở tỉnh Quảng Ninh
- Môi trƣờng kinh doanh chƣa thực sự thuận lợi:
Trong thực tế vẫn còn sự phân biệt đối xử trong một số cơ quan quản lý nhà nƣớc giữa các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác nhau. Doanh nghiệp vừa và nhỏ, chủ yếu thuộc thành phần kinh tế tƣ nhân, ở nhiều địa phƣơng còn bị phân biệt đối xử trong các giao dịch về mặt bằng sản xuất
kinh doanh, vay vốn, tiếp cận thông tin thị trƣờng. Cơ chế bao cấp, nhiều đặc quyền còn tôn tại đối với một bộ phân doanh nghiệp đặc biệt là daonh nghiệp Nhà nƣớc, nhƣng doanh nghiệp đang kinh doanh hiệu quả đƣợc ƣu tiên trợ giúp nhanh về vốn mặt bằng sản xuất, còn doanh nghiệp nhỏ đang rơi vào tình trạng khó khăn để nhận đƣợc sự giúp đỡ. Sự bất ổn định trong cơ chế chính sách là những yếu tố làm cho các doanh nghiệp có xu hƣớng muốn tìm kiếm những đặc quyền từ những chính sách để có đƣợc lợi ích ngắn hạn hơn là xây dựng chiến lƣợc kinh doanh dài hạn, hơn nữa những chính sách những quy định chƣa ổn định để dẫn đến tình trạng các cán bộ phụ trách thƣờng gây khó dễ cho các doanh nghiệp, sự hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ còn nhỏ bé mang nặng tính hành chính, do vậy kém hiệu quả. Cơ chế chính sách phát triển doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp vừa và nhỏ nói riêng chƣa kịp thời, đồng bộ, thiếu nhất quán. Bên cạnh đó việc thực thi chính sách cũng thiếu sự thống nhất và gắn kết từ Trung Ƣơng đến đại phƣơng.
- Chính sách khuyến khích đầu tƣ của tỉnh Quảng Ninh đối với doanhnghiệp nhỏ và vừa còn bất cập:
Chính sách khuyến khích đầu tƣ trong tỉnh đã đƣợc ban hành và thực hiện, đã có những đóng góp đang kể cho sự phát triển của tỉnh. Tuy nhiên qua quá trình thực hiện còn có những bất cập. Hệ thống chính sách ƣu đãi đầu tƣ còn dàn trải, quá phức tạp, khập khững, chông chéo, chƣa thiết thực, chƣa tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp dễ dàng tiếp cận để đƣợc hƣởng ƣu đãi, chƣa tạo điều kiện thuận lợi cho nhà đầu tƣ yên tâm sản xuất kinh doanh. Sự vận dụng chính sách của Nhà nƣớc ở tỉnh nhiều khi cứng nhắc chƣa có sự vận dụng linh hoạt để phù hợp với đặc điểm của tỉnh Quảng Ninh, nhiều cơ sở chính quyền ở địa phƣơng chƣa tích cực tăng ra hỗ trợ các doanh nghiệp cùng cơ chế phân chia tỷ lệ thu chi ngân sách ở các địa phƣơng. Hệ thống hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ, sở Kế hoạch và đầu tƣ giải quyết thủ tục đăng ký kinh doanh, quỹ bảo lãnh tín dụng của tỉnh, ban điều phối thực hiện kế hoạch phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ của tỉnh, hiệp hội doanh nghiệp vừa và nhỏ, tổ chức doanh nghiệp trẻ Quảng Ninh. Tăng thêm hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ hiện nay mới trong giai đoạn hình thành nên vai trò trợ giúp đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ chƣa hiệu quả, cán bộ phụ trách các tổ chức này còn chƣa năng động, chƣa thích ứng với nền kinh tế thị trƣờng… Hạn chế trong vấn đề tƣ vấn trợ giúp doanh nghiệp.
- Các cơ quan chức năng của tinh đã nhận thấy tầm quan trọng của doanh
nghiệp vừa và nhỏ và đã có sự trợ giúp song các hình thức trợ giúp còn mang tính cứng nhắc, chƣa có sự vận dụng linh hoạt chính sách của nhà nƣớc:
Các cơ quan chức năng đã trợ giúp doanh nghiệp vừa và nhỏ theo nghị định 90/2001/NĐ – CP ngày 23 tháng 11 năm 2001, song do áp dụng không triệt để, thực hiện không quyết liệt, chƣa đƣa ra những biện pháp cụ thể cho từng giải pháp nên hoạt động trợ giúp doanh nghiệp vừa và nhỏ chƣa hiệu quả. Bên cạnh đó thái độ của một bộ phận không nhỏ cán bộ làm việc chƣa năng động, nhiệt tình, nhiều khi không trợ giúp mà còn gây khó khăn cho doanh nghiệp, gây tâm lý ngại tiếp xúc với vấn đề liên quan đến thủ tục hành chính đây là nguyên nhân dẫn đến tiêu cực, hối lộ quan chức để giải quyết công việc đƣợc nhanh.
Việc ứng dụng khoa học – công nghệ vào sản xuất – kinh doanh còn nhiều hạn chế:
Doanh nghiệp vừa và nhỏ ứng dụng công nghệ thông tin, ứng dụng khoa học công nghệ, sáng kiến cải tiến kỹ thuật vào sản xuất còn gian nan. Các chủ doanh nghiệp gần đây cũng thấy đƣợc vai trò của khoa học công nghệ trong sản xuất nhƣng "lực bất tòng tâm" vì họ thiếu cơ sở vật chất, trình độ các nguồn lực khác, trong đó nổi cộm lên là vấn đề vốn, con ngƣời. Với quy mô nhỏ, nguồn vốn ít, lại thiếu công nhân, kỹ sƣ giỏi vì lực lƣợng này ít làm việc ở doanh nghiệp vừa và nhỏ với lý do điều kiện làm việc thu nhập thấp hơn so với các doanh nghiệp có quy mô lớn, các công ty liên doanh.
- Vấn đề lớn nhất nhất hiện nay đối với phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ là thiếu vốn sản xuất kinh doanh:
Các doanh nghiệp đang trong tình trạng khó tiếp cận với nguồn vốn có nhiều nguyên nhân khi tiếp cận nguồn vốn tín dụng và ngân hàng phải có tài sản thế chấp một mặt doanh nghiệp vừa và nhỏ gặp nhiều khó khăn trong việc thế chấp tài sản do ở nƣớc ta thị trƣờng bất động sản kém phát triển. Mặt khác việc xacs định giá trị tài sản thế chấp hoàn toàn phụ thuộc vào phía ngân hàng do vậy tạo điều kiện thuận lợi cho ngân hàng hạ thấp giá trị tài sản thế chấp so với thực giá trên thị trƣờng. Con đƣờng mà các doanh nghiệp vừa và nhỏ đến với các nguồn tín dụng còn khá gian nan. Không có ƣu đãi riêng biệt nào cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ về mặt thủ tục. Để tiếp cận với nguồn tín dụng, thông thƣờng các doanh nghiệp vừa và nhỏ phải tiến hành các thủ tục tối thiểu do pháp luật quy định còn có nhiêu thủ tục
không rõ ràng, những quy định ngặt nghèo của chính sách tín dụng. Doanh nghiệp vừa và nhỏ có ít thông tin về các nguồn tín dụng cũng nhƣ cách tiếp cận tài chính. Họ ngại đến ngân hàng do thủ tục rƣờm rà và thái độ quan liêu, cửa quyền của cán bộ ngân hàng. 2/3 trong số các doanh nghiệp có nhu cầu tín dụng dài hạn nhƣng không dám vay vì cho rằng khó có thể vay đƣợc khoản đó. Ngoài tài sản thế chấp ngân hàng các doanh nghiệp vừa và nhỏ muón tiếp cận các nguồn tín dụng phải có cơ quan bảo lãnh thì hiện nay ở quảng Ninh chƣa thành lập quỹ bảo lãnh tín dụng nên tiếp cận các nguồn vốn là rất khó khăn đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ . Nếu tỉnh Quảng Ninh và doanh nghiệp không sớm có giải pháp trong tình hình hiện nay, nền kinh tế hội nhập, lạm phát cao, lãi suất ngân hàng cao, hàng hoá Trung Quốc (giá rẻ, tính cạnh tranh cao) đang tràn ngập thị trƣờng…nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ sẽ không thể đứng vững đƣợc.
Chƣơng 3
PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ Ở TỈNH QUẢNG NINH.
3.1 Quan điểm và phương hướng phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở tỉnh Quảng Ninh
3.1.1 Quan điểm và mục tiêu phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ
Quan điểm của UBND tỉnh Quảng Ninh về phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ phù hợp với quan điểm mục tiêu chung của đất nƣớc, nằm trong quan điểm chung về phát triển kinh tế. Tiếp tục thực hiện chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần, tạo mọi điều kiện thuận lợi để doanh nghiệp và công dân đầu tƣ phát triển sản xuất kinh doanh, thực hiện chính sách khuyến khích phát triển kinh tế tập thể, kinh tế cá thể, tiểu, thủ và tƣ nhân; hình thành đồng bộ các yếu tố thị trƣờng, tăng cƣờng hiệu lực của các công cụ, chính sách kinh tế vĩ mô nhằm trợ giúp các doanh nghiệp phát triển.
Mục tiêu tổng quát do đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XII đề ra là: Tiếp tục đổi mới toàn diện, mạnh mẽ đồng bộ và động viên mọi nguồn lực để đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, phấn đấu phát triển kinh tế với tốc độ cao, ổn định, bền vững gắn kết với các lĩnh vực văn hoá-xã hội,; nâng cao rõ rệt đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân... phấn đấu xây dựng Quảng Ninh thực sự là một địa bàn động lực, phát triển năng động trong vùng kinh tế trọng điểm Bắc bộ và cơ bản trở thành một tỉnh công nghiệp theo hƣớng hiện đại vào năm 2015.
* Mục tiêu năm 2006-2010:
"Tiếp tục đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá xây dựng Quảng Ninh trở thành một địa bàn động lực, là cầu nối thông thƣờng giữa các nƣớc ASEAN với Trung Quốc, một cửa khẩu lớn của Bắc bộ, một khu vực phát triển năng động về kinh tế biển, có tốc độ phát triển kinh tế cao và bền vững, phát triển theo hƣớng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, kinh tế hƣớng mạnh về xuất khẩu trên cơ sở khai thác tối đa và hài hoà các nguồn lực trong vùng, trong tỉnh, trong nƣớc và thu hút mạnh vốn đầu tƣ và công nghệ nƣớc ngoài. Tăng tỷ trọng các ngành công nghiệp và dịch vụ, đặc biệt là các ngành chủ đạo, chuyển mạnh cơ cấu nông, lâm nghiệp và thuỷ sản theo hƣớng sản xuất hàng hoá và xuất khẩu. Tiếp tục ƣu tiên đầu tƣ xây dựng kết cấu hạ tầng, chuẩn bị tiền đề tốt để phát triển nhanh hơn sau năm 2010. Kết hợp chặt chẽ tăng trƣởng kinh tế với phát triển lĩnh vực xã hội, thúc đẩy tiến bộ và công bằng xã hội nâng cao hiệu quả và chất lƣợng công tác xoá đói giảm nghèo, đặc biệt ƣu tiên vùng miền núi, hải đảo và các vùng đồng bằng dân tộc ít ngƣời; trƣớc hết là nâng cao dân trí và mức sống của nhân dân. Kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế với tăng cƣờng và củng cố an ninh quốc phòng, đặc biệt làm chủ biển đảo; giữa phát triển kinh tế với bảo vệ tốt tài nguyên môi trƣờng và đảm bảo bền vững". [19]
Khuyến khích các thành phần kinh tế phát triển thực hiện các quan điểm của Đảng về các chế độ sở hữu và các thành phần kinh tế. Tiếp tục tạo điều kiện để đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả hiệu quả kinh tế nhà nƣớc nhằm phát huy vai trò chủ đạo trong nền kinh tế, nâng cao hiệu quả hoạt động trong môi trƣờng cạnh tranh công khai, minh bạch và bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, tăng cƣờng quản lý và sử dụng có hiệu quả tài sản và phần vốn nhà nƣớc trong doanh nghiệp. Tiếp tục củng cố, đổi mới và phát triển kinh tế tập thể với nhiều hình thức hợp tác đa dạng. phát triển mạnh các hộ kinh doanh cá thể và các loại hình doanh nghiệp tƣ nhân không giới hạn quy mô trong tất cả các lĩnh vực ngành nghề sản xuất kinh doanh mà pháp luật không cấm, khuyến khích các dự án có vốn đầu tƣ nƣớc ngoài.
Trong quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá theo định hƣớng của Đảng và Chính Phủ đã xác định, đến năm 2010 nƣớc ta cơ bản thoát khỏi tình trạng kém phát triển thì cần tăng số doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả lên tới 500.000 vào năm 2010, trong đó lập mới khoảng 320.000 doanh nghiệp vừa và nhỏ, tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp hoạt động tạo thu nhập ổn định cho ngƣời lao động. [4]
UBND tỉnh đã thông qua kế hoạch phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ đến năm 2010, mục tiêu phấn đấu toàn tỉnh có 6000 doanh nghiệp vừa và nhỏ có vốn đăng ký trên 30.000 tỷ đồng. [41]
3.1.2 Phương hướng phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở tỉnh Quảng Ninh
* Định hướng phát triển vùng, ngành, lĩnh vực mà doanh nghiệp vừa và nhỏ có lợi thế. Phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ phải hướng vào phục vụ, thúc đẩy phát triển công nghiệp và du lịch Quảng Ninh
Quảng Ninh đã xác định cơ cấu kinh tế là một tỉnh công nghiệp, thƣơng mại và du lịch, trong đó ngành du lịch đƣợc xác định là một ngành kinh tế mũi nhọn của tỉnh.
Để thúc đẩy công nghiệp phát triển thì cần đẩy mạnh phát triển ngành công nghiệp phụ trợ: Đến năm 2010 Quảng Ninh trở thành trung tâm sản xuất than, nhiệt điện chạy than, xi măng, đóng tàu lớn hàng đầu của cả nƣớc. Để bốn ngành công nghiệp chủ lực này phát triển thì cần phát triển những ngành công nghiệp phụ trợ mặc dù công nghiệp phụ trợ đƣợc hiểu theo khái niệm bao hàm là những lĩnh vực sản xuất sản phẩm trung gian, nhƣng công nghiệp phụ trợ chính là ngành sản xuất nền tảng của ngành công nghiệp chính yếu. Đây là ngành rất cần, quy mô vốn của nó phù hợp với doanh nghiệp vừa và nhỏ. Tuy nhiên đối với Quảng Ninh cho đến thời điểm hiện nay công nghiệp phụ trợ đang trong thời kỳ "thai ngén". Trên thực tế ngành công nghiệp tỉnh Quảng Ninh đang có xu hƣớng phát triển mạnh với kim ngạch xuất khẩu, song nguồn đầu vào vẫn phải phụ thuộc rất nhiều vào nhập khẩu do vậy giá trị gia tăng mới còn thấp. Điển hình là ngành dệt may của tỉnh có tới 70% tổng giá trị hàng xuất khẩu phụ thuộc vào nguyên phụ liệu nhập khẩu. Ngành cơ khí sửa chữa, chế tạo máy mỏ và phƣơng tiện vận tải thuỷ bộ của Tập đoàn công nghiệp than khoáng sản Việt Nam trên địa bàn tỉnh, mặc dù đã phát triển thành ngành có doanh thu đạt 20% và cũng chỉ cung cấp sản phẩm phụ trợ ở một số sản phẩm đơn giản, giá trị thấp nhƣ khung, gầm, bộ dây điện trong xe ghế ngồi, một số chi tiết kim loại, nhựa, cao su…còn 80% linh kiện và các thiết bị lắp ráp vẫn do nƣớc ngoài cung cấp. Đến năm 2007, công nghiệp phụ trợ trên địa bàn tỉnh mới chỉ chiếm tỷ trọng khoảng 24% giá trị sản xuất công nghiệp toàn ngành. Hầu hết, các doanh nghiệp công nghiệp phụ trợ là thuộc loại nhỏ và vừa, do vậy phải có chính sách ƣu đãi giúp cho họ mở rộng sản xuất kinh doanh tạo điều kiện cho các doanh nghiệp liên kết với nhau cùng phát triển. [2]
Phát triển ngành du lịch, dịch vụ, thƣơng mại phát triển các lĩnh vực dịch vụ có tiềm năng dịch vụ mới chất lƣợng cao, dịch vụ du lịch, phát triển phong phú đa dạng các sản phẩm du lịch, dịch vụ du lịch mới chất lƣợng cao, góp phần đƣa Quảng Ninh trở thành một trung tâm du lịch có đẳng cấp khu vực và Châu Lục vào năm 2015 phát triển dịch vụ, thƣơng mại đặc biệt các dịch vụ thƣơng mại qua biên giới. Góp phần xây dựng khu kinh tế cửa khẩu Móng Cái trở thành cầu nối trong quan hệ Việt Trung. Mở rộng, đa dạng hoá các dịch vụ tài chính, phát triển các dịch vụ nhƣ giao dịch bất động sản tƣ vấn và bảo lãnh trái phiếu, cổ phiếu, dịch vụ trên thị trƣờng chứng khoán. Phát triển dịch vụ cho nuôi trồng thuỷ sản và hậu cần nghề cá, dịch vụ phục vụ cho sản xuất nông nghiệp, cung ứng máy móc, thiết bị, vật tƣ cho các ngành sản xuất, dịch vụ khoa học công nghệ, dịch vụ xuất khẩu lao động.
* Phát triển làng nghề truyền thống góp phần giải quyết các vấn đề kinh tế - xã hội trong tỉnh
Ở Quảng Ninh có rất nhiều làng nghề tiểu thủ công nghiệp đƣợc phân bố rộng khắp các địa phƣơng trong tỉnh và hoạt động hầu hết trong các ngành kinh tế chủ yếu nhƣ công nghiệp, nông lâm, thuỷ hải sản, thƣơng mại, chế biến lƣơng thực, thực phẩm…Làng nghề tiểu thủ công nghiệp hàng năm đã đóng góp một phần quan trọng vào phát triển kinh tế xã hội của tỉnh; nộp ngân sách, giải quyết việc làm cho ngƣời lao động. Các công ty cổ phần, công ty TTHH có vốn kinh doanh lớn, lợi nhuận cao song thƣờng sử dụng ít lao động. Ngƣợc lại, các làng nghề - tiểu thủ công nghiệp có vốn đầu tƣ thấp nhƣng tạo đƣợc nhiều công ăn việc làm cho ngƣời lao động. Chẳng hạn nhƣ làng nghề gốm sứ thuỷ tinh vốn đầu tƣ 2 tỷ đồng có thể giải quyết việc làm cho 4000 lao động. Nghề thêu ren đầu tƣ ít chỉ cần 200 triệu đồng là tạo đƣợc việc làm cho 1800 lao động. [38]
Làng nghề-tiểu thủ công nghiệp tỉnh Quảng Ninh còn nhiều tiềm năng chƣa đƣợc phát huy. Trong thời gian tới trên cơ sở các làng nghề tiểu thủ công nghiệp truyền thống đang hoạt động có hiệu quả, tỉnh Quảng Ninh sẽ khôi phục các làng nghề truyền thống bị mai một và tổ chức hình thành các làng nghề mới. Từng bƣớc phát triển công nghiệp làng nghề-tiểu thủ công nghiệp vừa và nhỏ theo hƣớng công nghệ tiên tiến kết hợp với cổ truyền. Ngành nghề tiểu thủ công nghiệp tỉnh Quảng Ninh chủ yếu nghề gốm sứ, thủ công mỹ nghệ nuôi trồng thuỷ hải sản, chế biến lâm sản – khoáng sản, sửa chữa đóng tàu thuyền nghề đúc rèn công cụ chế biến gỗ - đồ mộc, nghề thêu ren và sản xuất đũa tre. Quảng Ninh hình thành công nghiệp làng nghề vừa và nhỏ quy mô diện tích vài chục ha để từ đó có thể chuyền dịch cơ cấu kinh tế
nông nghiệp ở nông thôn trong toàn tỉnh. Xây dựng làng nghề mới, cải tạo làng nghề cũ gắn liền với làng nghề văn hoá – du lịch – sinh thái… phát triển nghề truyền thống phù hợp với quy mô nhỏ và vừa vì vốn đầu tƣ thấp song lợi nhuận của nó là góp phần xóa đói giảm nghèo ở các cùng miền tạo đƣợc nhiều việc làm, giải quyết các sản phẩm cần thiết cho sinh hoạt. UBND tỉnh Quảng Ninh cần có cơ chế ƣu đãi về vốn, mặt bằng, thuế suất đối với doanh nghiệp đầu tƣ phát triển ngành nghề truyền thống.
Phát triển ngành nghề truyền thống còn khắc phục hiện trạng lao động nông thôn di cƣ ra thành thị. Vì hiện nay hầu hết các doanh nghiệp thƣờng tập trung ở các đô thị lớn, ven đô, nơi có hạ tầng kinh tế phát triển nhƣ Móng Cái, Cẩm Phả, Hạ Long, Hòn Gai, Yên Hƣng, Uông Bí và Đông Triều. Ở những vùng nông thôn hoặc vùng sâu vùng sa nhƣ Ba Chẽ, Cô Tô, các quần đảo trên địa bàn tỉnh, Hoành Bồ…mặc dù chi phí thuê đất và lao động rẻ hơn nhƣng doanh nghiệp không muốn đầu tƣ. UBND tỉnh Quảng Ninh sớm hình thành chính sách hỗ trợ đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ đầu tƣ vào những vùng khó khăn đặc biệt là những doanh nghiệp đầu tƣ phát triển hạ tầng, hình thành những cụm, khu công nghiệp nhỏ để giải quyết việc làm cho lao động nông thôn từng bƣớc rút ngắn sự chênh lệch về mức sống thành thị và nông thôn tránh tình trạng lao động tập trung quá đông ở khu vực thành thị.
UBND tỉnh kết hợp các doanh nghiệp cùng đẩy mạnh xây dựng kết cấu hạ tầng những vùng này và hỗ trợ chi phí vận chuyền cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ khi đầu tƣ vào khu vực vùng sâu, xa trên địa bàn tỉnh.
* Hỗ trợ phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ là một nhiệm vụ quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh
Nền kinh tế nƣớc ta chuyển từ cơ cấu kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trƣờng nên các doanh nghiệp, các nhà đầu tƣ còn chƣa có nhiều kinh nghiệm về cơ chế thị trƣờng, sức ì còn lớn, tâm lý chụp giựt còn phổ biến, chƣa chú ý đến chiến lƣợc kinh doanh lâu dài. Trong tình hình đó phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ sẽ tạo điều kiện cho một đội ngũ kinh doanh ra đời. Phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ khuyến khích và tăng cƣờng tính cạnh tranh, làm nên kinh tế năng động.
Doanh nghiệp vừa và nhỏ có ƣu thế tạo đƣợc nhiều công ăn việc làm. Điều này hết sức quan trọng đối với một tỉnh phát triển có tiềm năng về lao động đồng thời đây là gánh nặng cho tỉnh Quảng Ninh. Phát triển doanh nghiệp
vừa và nhỏ vừa góp phần thu hút thêm lao động, giải quyết việc làm, tăng thêm thu nhập cải thiện đời sống cho ngƣời lao động, vừa góp phần sử dụng tốt hơn nguồn lực sẵn có nhất của nền kinh tế đó là lao động, để tạo điều kiện cho các giai đoạn phát triển sau.
Phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ khai thác và tận dụng tối đa các nguồn lực vào phát triển kinh tế góp phần thúc đẩy tăng trƣởng kinh tế. Phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Quảng Ninh giải quyết thất nghiệp, tăng thu nhập cho ngƣời lao động góp phần xóa đói giảm nghèo, giảm dần khoảng cách giàu nghèo giữa các vùng, khu vực, góp phần thực hiện mục tiêu tăng trƣởng kinh tế gắn với tiến bộ công bằng, xã hội…
* Phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ phải tạo điều kiện thúc đẩy sự liên kết với doanh nghiệp lớn để giải phóng sức sản xuất,khai thác mọi tiềm năng trong tỉnh
Doanh nghiệp nhỏ và doanh nghiệp lớn đều có những lợi thế so sánh riêng trong quá trình sản xuất và phân phối. Nếu hệ thống sản xuất có thể kết hợp đƣợc những yếu tố thuận lợi giữa quy mô sản xuất lớn và lợi thế linh hoạt của các doanh nghiệp nhỏ thì các nguồn lực sẽ sử dụng hiệu quả hơn. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ và các doanh nghiệp lớn chuyên môn hoá theo phƣơng thức bổ sung lẫn nhau, các doanh nghiệp nhỏ hoạt động chủ yếu nhƣ những nhà cung cấp, các doanh nghiệp nhỏ đƣợc nhƣợng quyền hoặc cung ứng dịch vụ cho các doanh nghiệp lớn và vừa các doanh nghiệp này có thể chuyên môn hoá sản xuất theo đơn đặt hàng nhỏ lẻ của các đối tƣợng nhất định. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ chỉ là bộ phận cơ bản trong cơ cấu sản xuất quốc gia hỗ trợ cho sản xuất quy mô lớn. Bằng việc chuyên môn hoá, các doanh nghiệp vừa và nhỏ phù hợp với dây truyền sản xuất tạo nên tính hiệu quả và năng lực cạnh tranh cho toàn bộ hệ thống. Doanh nghiệp vừa và nhỏ đóng vai trò là vệ tinh cho doanh nghiệp lớn, doanh nghiệp lớn hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ về vốn, công nghệ, kinh nghiệm quản lý, đào tạo nhân lực mô hình liên kết giữa doanh nghiệp vừa và nhỏ với doanh nghiệp lớn đã góp phần dẫn tới "kỳ tích kinh tế" của Đài Loan.
Các doanh nghiệp FDI là doanh nghiệp lớn, khi một doanh nghiệp FDI đầu tƣ vào một nơi nào đó, họ thƣờng kỳ vọng vào thị trƣờng cung ứng nội địa của quốc gia đó. Trừ các ngành có ứng dụng công nghệ cao và các ngành dịch vụ, chi phí cho lao động vẫn chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng chi phí của sản phẩm nên họ đặc biệt chú trọng tới nguồn nguyên phụ liệu.Ở nhiều nƣớc, doanh nghiệp nhỏ chính là đơn vị cung cấp nguyên phụ liệu cho
những doanh nghiệp vừa và những doanh nghiệp này lại cung ứng cho những doanh nghiệp lớn hơn, tạo thành một chuỗi cung ứng hiệu quả. Khi tìm hiểu vì sao Trung Quốc có thể sản xuất ra những sản phẩm có giá thành rất thấp, vì họ rất chú trọng tới tính liên kết thông qua việc phát triển các cụm công nghiệp.
Trong một cụm công nghiệp, các doanh nghiệp trong một chuỗi cung ứng sẽ đƣợc cụm lại với nhau. Khi đó không chỉ tiết kiệm đƣợc chi phí vận chuyển mà việc tìm kiếm thị trƣờng, đáp ứng những đơn hàng lớn cũng sẽ đƣợc thực hiện dễ dàng hơn.
Các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Việt Nam cần coi những doanh nghiệp FDI là những khách hàng tiềm năng của mình và cần có sự liên kết lại để đáp ứng những đơn hàng lớn của những đơn vị này. Thực tế, các doanh nghiệp FDI rất muốn có đƣợc nguồn nguyên phụ liệu tại chỗ, đƣợc cung cấp bởi các doanh nghiệp vừa và nhỏ nội địa.
Bởi nhƣ vậy, họ không chỉ giải quyết đƣợc vấn đề giá thành mà còn giảm đƣợc rất nhiều thời gian cũng nhƣ chi phí vận chuyển, đồng thời việc sản xuất của họ cũng trở nên ít phụ thuộc hơn vào những vấn đề liên quan đến việc nhập khẩu, tỷ giá hối đoái…
Điều này cho thấy các doanh nghiệp FDI cũng sẽ đƣợc lợi rất nhiều nếu các doanh nghiệp nội địa lớn mạnh và họ cũng rất mong chờ các doanh nghiệp vừa và nhỏ chủ động tìm đến họ để “chào mời". Thậm chí họ sẵn sàng có những sự trợ giúp tích cực để các doanh nghiệp này đủ lớn. Doanh nghiệp vừa và nhỏ Quảng Ninh phải phát triển xứng tầm vóc là nhà cung cấp nguyên vật liệu và nhận gia công chi tiết sản phẩm cho loại hình công ty này. UBND tỉnh cần phải có chính sách ƣu đãi để thu hút FDI đầu tƣ vào Quảng Ninh, điều này mang lại rất nhiều lợi ích và góp phần thúc đẩy doanh nghiệp vừa và nhỏ nhƣ (trợ giúp vốn, kỹ thuật, kinh nghiệm quản lý) vừa là thị trƣờng đầu ra của doanh nghiệp vừa và nhỏ khi quy hoạch khu công nghiệp, không nên tách biệt hẳn doanh nghiệp lớn và doanh nghiệp vừa và nhỏ để tạo điều kiện cho sự liên kết giữa doanh nghiệp lớn với doanh nghiệp vừa và nhỏ.
* Phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Quảng Ninh phải đi đôi với bảo vệ môi trường
Các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Quảng Ninh hiện nay thƣờng sử dụng công nghệ lạc hậu, chƣa có thiết bị sử lý chất thải vì vậy môi trƣờng ở Quảng
Ninh đang phải gánh chịu nặng nề những chất thải của các doanh nghiệp. Điều này ảnh hƣởng lớn đến ngành kinh tế mũi nhọn của tỉnh đó là ngành du lịch. Các tổ chức trợ giúp cần đẩy mạnh trợ giúp các doanh nghiệp vừa và nhỏ về công nghệ kỹ thuật, sử dụng công nghệ sạch không gây ô nhiễm môi trƣờng. Hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong việc giải quyết rác thải khuyến khích các doanh nghiệp vừa và nhỏ sử dụng nguyên liệu phế thải để tái sản xuất lại các sản phẩm có ích cho xã hội.
Để các doanh nghiệp vừa và nhỏ sản xuất kinh doanh không ảnh hƣởng đến đời sống nhân dân, đến môi trƣờng, không lặp lại hiện tƣợng nhƣ làng ung thƣ, hay xã ung thƣ ở một số tỉnh thành trong nƣớc do ô nhiễm môi trƣờng của các doanh nghiệp gây ra. Tỉnh Quảng Ninh cần sớm đẩy mạnh đầu tƣ hạ tầng các khu công nghiệp, khu chế xuất quy hoạch theo tuyến quốc lộ 18A. Phát triển các cụm công nghiệp nhỏ và vừa, chấn chỉnh công tác quản lý, khai thác hợp lý hiệu quả các nguồn tài nguyên đá vôi, đất sét, cát, than… ngăn ngừa các hoạt động khai thác làm ảnh hƣởng ảnh cảnh quan đô thị, danh lam thắng cảnh, di tích lịch sử, môi trƣờng…
Đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ đang nằm trên khu vực dân cƣ mà có dấu hiệu gây ô nhiễm môi trƣờng thì khuyến khích, trợ giúp di dời về cụm công nghiệp vừa và nhỏ.
Phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Quảng Ninh không chỉ chú trọng đến số lƣợng mà còn phải chú trọng đến chất lƣợng và hiệu quả, góp phần phát triển kinh tế của tỉnh theo hƣớng bền vững.
3.2 Một số giải pháp phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở tỉnh Quảng Ninh
3.2.1 Tạo điều kiện và môi trường đầu tư kinh doanh thuận lợi cho doanh nghiệp vừa và nhỏ.
* Định kỳ tổ chức đối thoại giữa cơ quan nhà nước với doanh nghiệp, qua đó hướng dẫn và giải đáp các yêu cầu bức thiết cho doanh nghiệp
Hiện nay, các doanh nghiệp đang phải hàng ngày đối mặt với vấn đề vốn, điện, nhân lực chi phí đầu vào tăng cao, thủ tục hành chính.
Lãnh đạo các cơ quan ban ngành thƣờng xuyên gặp gỡ doanh nghiệp để kịp thời tháo gỡ khó khăn thúc đẩy doanh nghiệp phát triển. Đối với những vấn đề thuộc thẩm quyển mà UBND tỉnh giải quyết đƣợc thì lập tức phải giải
quyết ngay, nhanh chóng và triệt để để đỡ gây thiệt hại cho doanh nghiệp gây tâm lý không tốt cho xã hội đặc biệt là các sở ban ngành chức năng không hỗ trợ mà gây khó khăn cho doanh nghiệp phải xử lý thật nghiêm. Đối với những vấn đề bất cập không thuộc UBND tỉnh giải quyết thì phải báo cáo, kiến nghị ngay với cấp trên.
- Tuyên truyền, sâu rộng đƣờng lối, chủ trƣơng của Đảng và chính sách của Nhà nƣớc, của tỉnh đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ.
- Động viên khích lệ, biểu dƣơng, khen thƣởng kịp thời, những ngƣời kinh doanh thành đạt, có nhiều đóng góp cho tỉnh.
- Cung cấp thông tin về mặt bằng sản xuất của tỉnh, về thị trƣờng cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
- Kịp thời thông báo cơ chế, chính sách trợ giúp phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ của tỉnh.
- Giáo dục và quán triệt nghị quyết của Đảng đến doanh nghiệp vừa và nhỏ.
- Phổ biến giáo dục pháp luật liên quan đến kinh doanh, đầu tƣ của doanh nghiệp vừa và nhỏ (đặc biệt là Luật doanh nghiệp).
* Cải cách hành chính, đơn giản hoá các thủ tục đăng ký kinh doanh, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp gia nhập thị trường
Thủ tục đăng ký kinh doanh mới doanh nghiệp ở Quảng Ninh hiện nay gói gọn trong 10 ngày nhận toàn bộ kết quả thuế và đăng kỹ mẫu dấu. Hiện nay, Quảng Ninh đang dần dần ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý hành chính. Đăng ký kinh doanh thông qua mạng, tránh đƣợc tiêu cực, tránh phiền hà nhũng nhiễu, giảm chi phí thời gian đi lại của doanh nghiệp. Tuy nhiên, Quảng Ninh cũng cần phải chú ý đến những vấn đề phát sinh mà một số tỉnh thành hiện nay đang gặp phải là nhiều khi đăng ký qua mạng mất nhiều thời gian hơn đến trực tiếp vì số lƣợng đăng ký trên mạng của đông trình độ nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ chuyên trách còn hạn chế. Quảng Ninh phải chú trọng đến việc đào tạo đội ngũ cán bộ công chức chuyên trách có nghiệp vụ và tay nghề vững bên cạnh đó phải thông thạo về vi tính, tiếng Anh để trợ giúp cho nghiệp vụ của mình, làm việc có hiệu quả, không gây ách tắc công việc do năng lực hạn chế.
Cán bộ công chức của tỉnh không đƣợc phân biệt đối xử về điều kiện hƣởng
thụ, nhất là trong việc thực hiện chính sách, thừa hành công cụ (vay ngân hàng, tiếp cận các ƣu đãi cao của Chính Phủ, thuê đất, tiếp cận thông tin về thị trƣờng xuất khẩu, trong việc đào tạo, bồi dƣỡng lao động…).
Để tạo điều kiện thuận lợi hơn cho hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp thì bộ máy chính quyền phải đƣợc xây dựng hoàn thiện từ trên xuống dƣới cùng hoạt động theo phƣơng thức phục vụ doanh nghiệp. Lắng nghe ý kiến, nguyện vọng của doanh nghiệp từng bƣớc hiện đại hoá bộ máy hành chính theo hƣớng áp dụng công nghệ quản lý tiên tiến và tin học hoá. Tiếp tục sắp xếp, kiện toàn bộ máy, quyết định rõ chức năng nhiệm vụ của các cơ quan quản lý nhà nƣớc đối với doanh nghiệp. Đề cao kỷ luật, kỷ cƣơng hành chính và trách nhiệm ngƣời đứng đầu trong việc tổ chức thực hiện nhiệm vụ đƣợc giao. Để khi các doanh nghiệp vừa và nhỏ phán ánh tình trạng, ách tắc ở khâu nào, giai đoạn nào thì có thể xác định đƣợc cơ quan chức năng nào, xác định ngƣời phụ trách công việc đó, từ đó dễ tìm đƣợc cách tháo gỡ về thủ tục hành chính.
Xây dựng tinh thần phục vụ doanh nghiệp cho các cán bộ nhà nƣớc để phát huy tinh thần kinh doanh. Cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức và tiếp tục đào tạo bồi dƣỡng theo yêu cầu nâng cao chất lƣợng về cả phẩm chất đạo đức và năng lực công tác để đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong điều kiện hội nhập. Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức thực sự là công bộc của dân; đấu tranh để khắc phục tình trạng hành chính quan liêu "vô cảm" trong cán bộ công chức. Thực hiện cơ chế bãi miễn những ngƣời không xứng đáng, loại bỏ những cán bộ, công chức phẩm chất xấu, năng lực kém ra khỏi cơ quan nhà nƣớc. Tiếp tục thực hiện chính sách, cơ chế đãi ngộ đối với công chức hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ đƣợc giao đƣợc sự ủng hộ tín nhiệm, tin yêu của dân. Có nhƣ vậy mới góp phần hạn chế tiêu cực trong các cơ quan hành chính (một trong những nguyên nhân chủ yếu gây cản trở phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ. Thúc đẩy sự phát triển của kinh tế xã hội của tỉnh nói chung và phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ nói riêng.
3.2.2 Xây dựng kết cấu hạ tầng sản xuất và tạo điều kiện về mặt bằng sản xuất kinh doanh đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ
Các công trình xây dựng là các yếu tố không thể thiếu đƣợc đối với các doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp vừa và nhỏ. Không có đƣợc quyền sử dụng đất, thuê đất và các công trình xây dựng cần thiết một cách lâu dài, chắc chắn sẽ không có doanh nghiệp công nghiệp hoặc nông nghiệp nào có thể tiến hành kinh doanh hoặc sản xuất. Do đó, việc xác định rõ ràng các quy
định về đất đai, các công trình xây dựng và quyền sử dụng thích đáng đối với đất đai trở thành một yếu tố quan trọng trong việc thúc đẩy các doanh nghiệp có thể tồn tại đƣợc trên thực tế. Để khắc phục đƣợc tình trạng đất hoang hoá, sử dụng không đúng mục đích gây lãng phí, trong khi các doanh nghiệp cần có đất để xây dựng doanh nghiệp. Tỉnh Quảng Ninh phải sớm rà soát thu hồi lại đất hoang hoá và sử dụng không đúng mục đích để cho các doanh nghiệp thuê. UBND tỉnh cần đẩy nhanh tiến độ triển khai xây dựng hạ tầng các khu, cụm công nghiệp".
Công khai các quy hoạch, kế hoạch chi tiết sử dụng đất nhằm minh bạch hoá việc tiếp cận nguồn lực đất đai, mặt bằng sản xuất đảm bảo chắc chắn cho việc giao đất, cho thuê đất nhằm giúp các doanh nghiệp vừa và nhỏ bình đẳng trong việc tiếp cận đất đai phục vụ sản xuất.
Thống nhất và hiện đại hoá việc đăng ký đối với đất đai và các công trình xây dựng và hợp lý hoá các thủ tục đăng ký đất đai và công trình xây dựng.
Làm rõ và đẩy nhanh các thủ tục cấp quyền sử dụng đất cho doanh nghiệp vừa và nhỏ, quy định các thủ tục rõ ràng, đơn giản và hợp lý để giải quyết các tranh chấp và kiện tụng nhằm giải quyết vấn đề quyền sở hữu và sử dụng đất.
Các cơ quan chức năng cùng với doanh nghiệp giải quyết giải phóng mặt bằng nhanh chóng giải quyết dứt điểm đền bù cho dân di dời, để lấy mặt bằng cho doanh nghiệp sản xuất. Các thủ tục phải rõ ràng để tránh tình trạng kiện tụng và tranh chấp gây ảnh hƣởng, cản trở đến tiến trình xây dựng của doanh nghiệp.
Ngăn cản và sử lý kịp thời hành vi tham mô chiếm dụng đất và những hành vi gây cản trở khó khăn đến quá trình thuê đất và sử dụng đất của doanh nghiệp.
Tóm lại, để tạo điều kiện và môi trƣờng đầu tƣ kinh doanh thuận lợi cho doanh nghiệp vừa và nhỏ các cơ quan nhà nƣớc cần tôn trọng và bảo vệ quyền tự do kinh doanh theo pháp luật của các tổ chức cá nhân tại tỉnh Quảng Ninh; xoá bỏ việc đặt ra các ràng buộc, điều kiện trái luật định của Nhà nƣớc đối với việc thực thi quyền tự do kinh doanh; các nhà đầu tƣ đƣợc quyền chọn hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh trong những ngành, nghề có lợi cho quốc tế dân sinh mà pháp luật không cấm, không bị hạn chế về quy mô, đƣợc khuyến khích đầu tƣ làm ăn lâu dài. Tích cực giúp đỡ các doanh nghiệp vừa và nhỏ các hộ nhóm kinh doanh giải quyết những khó
khăn về vốn, khoa học công nghệ, tiếp thị, đa dạng hoá phƣơng thức liên doanh, liên hệ với kinh tế nghèo với kinh tế tƣ nhân trong nƣớc, với các nhà đầu tƣ nƣớc ngoài, giảm thuế, tiến tới xoá bỏ sự phân biệt trong các quy định quản lý kinh tế, dẫn đến sự không bình đẳng trƣớc pháp luật giữa các thành phần kinh tế. Tiếp tục rà soát bãi bỏ các giấy phép trái với luật doanh nghiệp và các giấy phép không hợp lý cản trở đầu tƣ kinh doanh; chế độ khen thƣởng và sử phạt nghiêm minh cả với ngƣời kinh doanh và ngƣời thi hành công vụ. Tăng cƣờng phát triển dịch vụ tƣ vấn hỗ trợ đối với kinh tế tƣ nhân nhất là hộ kinh doanh cá thể, đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao hiệu quả của bộ máy quản lý nhà nƣớc đối với khu vực kinh tế tƣ nhân theo hƣớng đảm bảo sự phân công, phân cấp rõ ràng cụ thể trong việc thực hiện đúng chức năng quản lý của Nhà nƣớc đối với khu vực kinh tế tƣ nhân.
Tiếp tục tạo môi trƣờng tâm lý xã hội tích cực cho khu vực kinh tế tƣ nhân thông qua việc tuyên truyền sâu rộng đƣờng lối, chủ trƣơng của Đảng và chính sách của nhà nƣớc đối với khu vực kinh tế tƣ nhân.
3.2.3 Tạo nguồn vốn ưu đãi cho sự phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ
Nhiều doanh nghiệp đƣợc hỏi cho rằng sự hỗ trợ tốt nhất của cơ quan quản lý nhà nƣớc đối với doanh nghiệp là việc tạo điều kiện cho doanh nghiệp tiếp cận tín dụng một cách dễ dàng và ít tốn kém. Tiếp sau đó là hỗ trợ mặt bằng sản xất kinh doanh, cải thiện chính sách cho doanh nghiệp tƣ nhân, dỡ bỏ các thủ tục hành chính, hỗ trợ hoạt động tiếp thị.
Các doanh nghiệp vừa và nhỏ luôn ở trong tình trạng thiếu vốn để hoạt động sản xuất kinh doanh, đặc biệt là vốn trung hạn và dài hạn. Do vậy phải có giải pháp giải quyết khó khăn về tài chính cho các doanh nghiệp này trƣớc mắt tiếp tục thực hiện chủ trƣơng đã đƣợc nhà nƣớc cho phép. Đa dạng hoá các nguồn vốn để tạo cơ hội huy động vốn cho sản xuất kinh doanh của khu vực này.
- Về phía cơ quan nhà nƣớc trên địa bàn tỉnh cần nhanh chóng thành lập và đƣa vào hoạt động ngay quỹ bảo lãnh tín dụng của tỉnh để tạo vốn cho doanh nghiệp vừa và nhỏ vay.
Quỹ bảo lãnh tín dụng cho doanh nghiệp vừa và nhỏ đã đƣợc Thủ Tƣớng Chính Phủ quyết định cho các địa phƣơng thành lập từ năm 2001. Tuy nhiên, cho đến nay tỉnh Quảng Ninh vẫn chƣa thành lập quỹ. Một trong những chính sách quan trọng để trợ giúp doanh nghiệp vừa và nhỏ phát triển là việc giúp các doanh nghiệp tiếp cận các nguồn vốn của các tổ chức tín
dụng thông qua quỹ bảo lãnh tín dụng cho doanh nghiệp vừa và nhỏ. Quỹ bảo lãnh tín dụng cho doanh nghiệp vừa và nhỏ là một tổ chức hoạt động tài chính không vi mục tiêu lợi nhuận nhƣng phải bảo toàn vốn và bù đắp đƣợc chi phí. Doanh nghiệp vừa và nhỏ ở tỉnh Quảng Ninh vốn khó tiếp cận các nguồn vốn tín dụng bởi mức độ tín nhiệm về tài chính chƣa cao khiến các ngân hàng ngần ngại khi quyết định các khoản vay dài hạn. Khi bản thân các doanh nghiệp năng lực cạnh tranh còn thấp, trình độ quản lý thấp thì với sự bảo lãnh của quỹ bảo lãnh tín dụng các doanh nghiệp sẽ có cơ hội vay vốn đầu tƣ sản xuất, thay đổi công nghệ, nâng cao năng lực cạnh tranh.
Vì vậy, tỉnh Quảng Ninh nhanh chóng dành vốn ngân sách địa phƣơng thành lập quỹ bảo lãnh tín dụng và khuyến khích các đơn vị tích cực góp vốn và tham gia cơ chế bảo lãnh tín dụng để quỹ nhanh chóng đi vào hoạt động có hiệu quả tạo kênh giúp doanh nghiệp vừa và nhỏ huy động vốn.
Hiện nay, thu nhập của ngƣời lao động ngày càng cao, lƣợng tiền tích luỹ trong mỗi gia đình tăng đáng kể. Để thu hút đƣợc tiền nhàn rỗi trong dân cƣ thì tỉnh cân tập trung chỉ đạo phổ biến, tập huấn cho ngƣời dân hiểu biết về thị trƣờng chứng khoán, để từ đó tham gia vào thị trƣờng này một cách chủ động tích cực góp phần tạo vốn trên thị trƣờng cho các công ty, giảm thiểu vốn nhàn rỗi trong dân cƣ.
Khuyến khích ngân hàng thay đổi cơ chế, thủ tục cho vay, đơn giản hoá thủ tục thế chấp, giảm thời gian định giá tài sản, mở rộng diện cho vay bằng tài sản hình thành từ vốn vay.
Các doanh nghiệp FDI là khách hàng tiềm năng của các doanh nghiệp vừa và nhỏ nên tỉnh cần tìm giải pháp tháo gỡ, tạo cơ chế chính sách để thu hút FDI vào Quảng Ninh. Có thể nói, FDI là thị trƣờng lớn của các doanh nghiệp vừa và nhỏ đó là thị trƣờng vốn, thị trƣờng tƣ liệu sản xuất, thị trƣờng khoa học kỹ thuật, thị trƣờng tiêu thụ sản phẩm…, thu hút doanh nghiệp FDI và tạo đƣợc mối liên kết giữa doanh nghiệp FDI với doanh nghiệp vừa và nhỏ sẽ góp phần quan trọng trong việc giải quyết khó khăn cho doanh nghiệp vừa và nhỏ nói chung và khó khăn về vốn của doanh nghiệp vừa và nhỏ nói riêng.
3.2.4 Hỗ trợ phát triển nguồn nhân lực cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ
Để đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Quảng Ninh giai đoạn 2006-2010, Chính Phủ đã chỉ đạo tỉnh Quảng Ninh "có kế hoạch đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ quản lý, khoa học kỹ thuật và công nhân kỹ
thuật, để đến năm 2010 đạt từ 40-45% trong tổng số lao động trên địa bàn, đáp ứng yêu cầu phát triển các khu công nghiệp, khu công nghệ trong vùng này".
Theo quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Quảng Ninh đến năm 2010 định hƣớng đến năm 2020. (tại quyết định số 269/2006/QĐ-TTg ngày 24/11/2006) thì năm 2005, dân số trong độ tuổi lao động của Quảng Ninh tính là 616.089 ngƣời chiếm 54,8% dân số toàn tỉnh. Nguồn nhân lực đã qua đào tạo 203.380 ngƣời (chiếm 33% tổng số lao động hoạt động kinh tế thƣờng xuyên, trong đó trình độ cao đẳng, đại học trở lên chiếm trên 6%; trung cấp chuyên nghiệp chiếm trên 5,95%; công nhân nghề chiếm gần 21,2%); số lao động chƣa đƣợc đào tạo là 412.620 ngƣời (7%).[12]
Quảng Ninh nay có một trƣờng đại học Công Nghiệp, 6 trƣờng cao đẳng: cao đẳng sƣ phạm, cao đẳng văn hoá-nghệ thuật, cao đẳng y tế, cao đẳng Công nghiệp và Xây dựng, cao đẳng nghề mỏ Hồng Cẩm, trƣờng Cao đẳng nghề mỏ Hữu Nghị; 4 trƣờng trung học: trung học công nghiệp Cẩm Phả, Trung học Nông-Lâm-Ngƣ nghiệp, trung học Lâm nghiệp Trung Ƣơng 1, trung học kinh tế; ngoài ra còn có các trƣờng dậy nghề.
Nhƣ vậy, quy mô phát triển giáo dục đào tạo Quảng Ninh tƣơng đối rộng khắp, nhƣng vấn đề chất lƣợng đào tạo còn chƣa đáp ứng đƣợc nhu cầu của các doanh nghiệp. Một trong những khó khăn hiện nay mà nhiều doanh nghiệp gặp phải là thiếu đội ngũ lao động có trình độ có khả năng đáp ứng, yêu cầu phát triển trong điều kiện hội nhập kinh tế và khu vực. Có thể nói trình độ học vấn của cả ngƣời lao động và chủ doanh nghiệp vừa và nhỏ là rất thấp , để phát triển nguồn lao động phục vụ doanh nghiệp vừa và nhỏ thì cần tập trung giải quyết vấn đề sau:
- Thực hiện quán triệt quan điểm của Đảng và nhà nƣớc ta coi giáo dục là quốc sách hàng đầu, đầu tƣ cho giáo dục là đầu tƣ cho sự phát triển.
- Khuyến khích đầu tƣ vào lĩnh vực đào tạo, chuyển phần lớn các cơ sở đào tạo và dạy nghề và một phần các cơ sở giáo dục không đảm nhiệm vụ giáo dục phổ cập sang hoạt động theo cơ chế cung ứng dịch vụ. Tiếp tục thực hiện và bổ sung chính sách ƣu đãi thu hút nhân tài về công tác tại tỉnh, hỗ trợ, khuyến khích cán bộ, công chức học tập nâng cao trình độ.
- Khuyến khích liên kết giữa các trƣờng Đại học, Cao đẳng với doanh nghiệp vừa và nhỏ nhằm nâng cao trình độ chuyên môn, kinh nghiệm thực tiễn cho học sinh sinh viên khi ra trƣờng đáp ứng ngay đƣợc nhu cầu tuyển
dụng của doanh nghiệp không cần phải mất thời gian đào tạo lại.
- Khuyến khích liên kết trung tâm dạy nghề với các cơ sở sản xuất kinh doanh theo hƣớng đào tạo những ngành nghề mà các cơ sở sản xuất kinh doanh đang cần từ đó học sinh ở các trung tâm dạy nghề ra trƣờng đƣợc nhận vào làm việc ngay. Ban hành chính sách ƣu đãi đối với cơ sở dạy nghề, giáo viên dạy nghề, ngƣời học nghề, nhất là vùng kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn.
- Tăng năng lực đào tạo thông qua việc tổ chức các khoá đào tạo giảng viên cấp tỉnh, cử đi học tập tìm hiểu kinh nghiệm, bổ sung kiến thức về tổ chức, chuyên môn và kỹ năng đào tạo. Từ đó các giảng viên về tập huấn để nâng cao trình độ cho ngƣời lao động.
- Khuyến khích các trƣờng trên địa bàn tỉnh liên kết với các trƣờng Đại học Trung ƣơng và Hà Nội nhƣ trƣờng Đại học kinh tế, Đại học luật, Đại học Bách khoa… để mở lớp học nâng cao trình độ cho đội ngũ quản lý doanh nghiệp và nhu cầu nâng cao trình độ học vấn của ngƣời lao động.
Đào tạo đội ngũ có trình độ tay nghề, công nhân kỹ thuật cao, đội ngũ quản lý năng động tài ba, năng động, kinh nghiệm để giải quyết khó khăn về lao động cho doanh nghiệp vừa và nhỏ của tỉnh Quảng Ninh.
3.2.5 Sớm hình thành "vườn ươm" doanh nghiệp vừa và nhỏ ở tỉnh Quảng Ninh
Hiện nay, trên thế giới có rất nhiều hình thức hỗ trợ phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ. Có một loại hình hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ đang có xu hƣớng phát triển tại các nƣớc đó là loại hình "incubator" (Vƣờn ƣơm doanh nghiệp). Trong kinh tế học hiện đại, vƣờn ƣơm doanh nghiệp là một đơn vị kinh tế hoạt động với nhiệm vụ hỗ trợ một cách có lựa chọn đối với một số doanh nghiệp vừa và nhỏ ở giai đoạn đầu hình thành để có thể phát triển nhanh, bền vững và có lợi nhuận. Đơn vị kinh tế này cung cấp hàng loạt những dịch vụ, nhằm giúp các doanh nghiệp vừa và nhỏ mới thành lập giảm thiểu rủi ro trong quá trình hoạt động và tăng cƣờng sức mạnh trên thƣơng trƣờng.
Vƣờn ƣơm doanh nghiệp vừa và nhỏ là nơi tập hợp các doanh nghiệp mới hình thành, nhƣng có tiềm năng phát triển tốt để nuôi dƣỡng trƣớc khi đƣa ra hoạt động ngoài cộng đồng, giúp những chủ doanh nghiệp mới tiếp cận với các khoản vay, trợ giúp doanh nghiệp nhỏ về mặt quản lý và kỹ thuật, tạo
điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp nhỏ thâm nhập vào thị trƣờng nội địa và quốc tế... Khi hội đủ các điều kiện, các doanh nghiệp nhỏ có thể ra khỏi vƣờn ƣơm để tự khẳng định khả năng hoạt động độc lập của mình trong cộng đồng các doanh nghiệp.
Các doanh nghệp hoạt động trong vƣờn ƣơm này có trách nhiệm thanh toán và trả tiền cho việc sử dụng các khoảng không gian và thiết bị, cũng nhƣ các dịch vụ hỗ trợ nhất định trong vƣờn ƣơm doanh nghiệp. Thời hạn trung bình mà các doanh nghiệp vừa và nhỏ đƣợc nuôi dƣỡng và trợ giúp trong các vƣờn ƣơm là 3 năm.
- Các vƣờn ƣơm doanh nghiệp có 5 đặc điểm chủ yếu sau:
+ Cung cấp các dịch vụ tƣ vấn kinh doanh có hiệu quả.
+ Tập trung các doanh nghiệp vào một địa điểm.
+ Các doanh nghiệp có thể có chung các dịch vụ tƣ vấn kinh doanh cũng nhƣ dùng chung các thiết bị văn phòng.
+ Thúc đẩy doanh nghiệp tăng trƣởng và hoạt động có hiệu quả ngoài cộng đồng.
+ Tự hạch toán.
Việc hình thành vƣờn ƣơm doanh nghiệp vừa và nhỏ có những lợi ích rất quan trọng đối với sự phát triển kinh tế, nó đem lại lợi ích cho tất cả các thành viên có liên quan cũng nhƣ cả cộng đồng xã hội.
- Lợi ích của "vƣờn ƣơm" đối với các doanh nghiệp:
Hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong giai đoạn đầu hình thành và phát triển, nhằm giảm thiểu các rủi ro nhƣ tăng cƣờng năng lực quản lý cho các doanh nhân; giảm các chi phí đầu tƣ cơ sở hạ tầng ban đầu; cung cấp các dịch vụ tƣ vấn, làm cầu nối để giúp DN mở rộng thị trƣờng và tham gia vào các thị trƣờng mới. Điều này thể hiện trong các dịch vụ hỗ trợ về lập kế hoạch kinh doanh, kế hoạch tài chính, kế hoạch marketing...
Hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ hoà đồng với mạng lƣới rộng lớn trong cộng đồng các nhà kinh doanh có cùng chung vấn đề và những mối quan tâm. Trên cơ sở đó, cùng nhau tìm ra các giải pháp chung để nâng cao hiệu
quả kinh tế. Xây dựng văn hóa kinh doanh trong cộng đồng các doanh nghiệp của địa phƣơng.
Tƣ vấn về cách làm việc và tiếp xúc với các cơ quan của chính phủ trong quá trình hoàn thành các thủ tục thành lập, cũng nhƣ tăng cƣờng mối quan hệ trong quá trình phát triển.
Tiết kiệm đƣợc chi phí thông qua việc chia sẻ các dịch vụ và nguồn lực cơ sở hạ tầng nhƣ máy photo, lễ tân, thiết bị vi tính, thiết bị viễn thông...
- Lợi ích của "vƣờn ƣơm" đối với kinh tế địa phƣơng:
Tăng việc làm cho các tầng lớp dân cƣ; Giảm bớt các ảnh hƣởng tiêu cực của việc phá sản, hoặc đóng cửa doanh nghiệp vừa và nhỏ ngay từ những ngày đầu thành lập; Phát triển các ngành nghề và sản phẩm mới do có đƣợc sự gắn bó trong việc hỗ trợ kinh doanh; Phát triển các kỹ năng và thái độ làm việc mới, xây dựng phong cách làm việc trên tinh thần hợp tác cùng tiến bộ; Thu hút vốn từ các nhà đầu tƣ cho hoạt động sản xuất kinh doanh, tăng sản phẩm cho nền kinh tế; Có các ảnh hƣởng tích cực đến các cơ quan chức năng, nhân viên làm việc trong các cơ quan chức năng của tỉnh, giúp họ có những thái độ hợp tác với các doanh nhân và ủng hộ các chủ doanh nghiệp phát triển sản xuất kinh doanh trong vùng. Các vƣờn ƣơm doanh nghiệp vừa và nhỏ có thể phối hợp chặt chẽ với các doanh nghiệp nhà nƣớc trong việc xây dựng và hoàn thiện các qui trình quản lý mới, giảm các tính quan liêu và thích ứng nhanh với các thay đổi của môi trƣờng, tạo ra sự phát triển bền vững cho cả cộng đồng. Giúp các nhà lãnh đạo tỉnh Quảng Ninh nhanh chóng có đƣợc các phản hồi về tác động của các chính sách mà họ đƣa ra đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ . Qua đó, các nhà lập chính sách sẽ hiểu đƣợc chính sách đƣa ra có gây khó khăn cho doanh nghiệp hay không đẻ từ đó kịp thời điều chỉnh sao cho vừa đảm bảo sự phát triển thành công của doanh nghiệp, vừa đảm bảo lợi ích của cộng đồng và các nhu cầu của đất nƣớc.
KẾT LUẬN
1. Trong nền kinh tế thế giới hiện nay, loại hình doanh nghiệp vừa và nhỏ ngày càng đƣợc mở rộng và phổ biến ở các nƣớc trên thế giới. Thực tế phát triển trong nhiều thập kỷ qua, doanh nghiệp vừa và nhỏ đã chứng minh đƣợc
sức sống mãnh liệt của nó. Sở dĩ doanh nghiệp vừa và nhỏ có vai trò to lớn trong chiến lƣợc phát triển kinh tế - xã hội ở các nƣớc là do ƣu thế về quy mô vừa và nhỏ của nó: Có khả năng thích ứng nhanh với sự biến đổi của thị trƣờng. Ở những nƣớc phát triển hiện nay, cùng với quá trình tập trung hoá sản xuất, hình thành những doanh nghiệp quy mô lớn thì sự phát triển quy mô thì sự phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng ngày càng tăng trở thành "quĩ đạo", "vệ tinh" cho các doanh nghiệp lớn.
2. Ở Việt Nam từ sau đổi mới đến nay, phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ đƣợc Đảng và nhà nƣớc quan tâm. Phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ là một chủ trƣơng lâu dài và đúng đắn của Đảng và Nhà nƣớc nhằm phát huy mọi nguồn lực phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội đất nƣớc. Nhờ có chính sách đúng đắn mà các doanh nghiệp vừa và nhỏ đã đạt đƣợc sự phát triển vƣợt bậc trong thời gian qua và ngày càng khẳng định vai trò quan trọng của mình trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội.
3. Trên cơ sở thực hiện chủ trƣơng chính sách của Đảng và nhà nƣớc, tỉnh Quảng Ninh đang nỗ lực đẩy mạnh sự phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ để góp phần khai thác mọi nguồn lực trong tỉnh. Trên thực tế sự phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở tỉnh Quảng Ninh đã góp phần tích cực giải quyết những vấn đề kinh tế - xã hội quan trọng nhƣ: đóng góp đáng kể vào tăng trƣởng kinh tế của tỉnh; góp phần giải quyết việc làm, giảm thất nghiệp; góp phần tích cực xoá đói giảm nghèo, giảm tệ nạn xã hội trong tỉnh… Tuy nhiên sự phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ hiện nay vẫn chƣa tƣơng xứng với tiềm năng vốn có của nó.
4. Hiện nay, Việt Nam đã trở thành thành viên của WTO, các doanh nghiệp vừa và nhỏ phải đƣơng đầu với cạnh tranh khắc nghiệt và biến độngdữ dội trên thị trƣờng. Nếu chỉ có sự nỗ lực đơn lẻ của bản thân các doanh nghiệp vừa và nhỏ thì chƣa đủ mà cần phải có sự hỗ trợ tích cực từ phía các cơ quan nhà nƣớc về môi trƣờng pháp lý, thể chế sản xuất kinh doanh thuận lợi, trợ giúp các doanh nghiệp về vốn, mặt bằng sản xuất kinh doanh , xúc tiến thƣơng mại, nguồn nhân lực…một cách hiệu quả nhất.
5. Trong những năm qua Quảng Ninh đã phát huy mọi nguồn lực, tập trung hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ trên các phƣơng diện về: cơ chế chính sách, vốn, mặt bằng sản xuất kinh doanh, thông tin, dịch vụ thƣơng mại, kỹ thuật, công nghệ và đào tạo nguồn nhân lực…Nhƣng doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Quảng Ninh vẫn bị ràng buộc bởi: Còn có sự phân biệt đối xử giữa doanh nghiệp nhà nƣớc với doanh nghiệp vừa và nhỏ tƣ nhân nên sự hỗ trợ còn
nhiều bất cập, chƣa đánh giá đúng vai trò và tiềm năng của doanh nghiệp vừa và nhỏ; Môi trƣờng pháp lý và cơ sở hạ tầng sản xuất kinh doanh còn nhiều khó khăn… Vì vậy, để thúc đẩy nhanh sự phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Quảng Ninh cần quán triệt những phƣơng hƣớng chủ yếu sau: Hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ là một nhiệm vụ quan trọng trong chiến lƣợc phát triển kinh tế của tỉnh; phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ phải hƣớng vào phục vụ, thúc đẩy phát triển công nghiệp và du lịch; hƣớng doanh nghiệp vừa và nhỏ vào phát triển các ngành nghề truyền thống để góp phần giải quyết các vấn đề kinh tế - xã hội đang đặt ra; Doanh nghiệp vừa và nhỏ phải thực sự liên kết với doanh nghiệp lớn, trở thành "vệ tinh" của các doanh nghiệp lớn; Phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ không chỉ nhằm mục tiêu phát triển kinh tế mà cần phải đi đôi với bảo vệ môi trƣờng sinh thái.
6. Với sự thực hiện đồng bộ các giải pháp trợ giúp doanh nghiệp vừa và nhỏ từ phía các cơ quan ban ngành chức năng của địa phƣơng về vốn, mặt bằng sản xuất, môi trƣờng kinh doanh, đào tạo nguồn nhân lực, cung cấp thông tin thị trƣờng, hình thành và phát triển vƣờn ƣơm doanh nghiệp…để khuyến khích vọng làm giàu chính đáng và sự quyết tâm, dũng cảm, năng động sáng tạo của đội ngũ chủ doanh nghiệp. Tất cả những giải pháp này cùng với tiềm lực và lợi thế về mặt tự nhiên của Quảng Ninh hiện nay, chắc chắn trong tƣơng lai doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Quảng Ninh sẽ phát triển nhanh về số lƣợng và chất lƣợng, vƣơn lên tầm cao mới góp phần nhanh chóng thực hiện thành công mục tiêu chung mà Đại hội Đảng bộ tỉnh Quảng Ninh lần thứ XII (khoá 2006-2010) đã đề ra “… Phấn đấu xây dựng Quảng Ninh thực sự là một địa bàn động lực phát triển năng động trong vùng kinh tế trọng điểm Bắc bộ và cơ bản trở thành một tỉnh công nghiệp theo hƣớng hiện đại vào năm 2015".
DANH MỤC CÁC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.Trần Thị Vân Anh (2008), "vƣờn ƣơm cho doanh nghiệp vừa và nhỏ" Tạp chí Kinh tế quản lý (6), tr. 34.
2. Báo Kinh tế hợp tác Việt Nam (2007), "Liên minh HTX Quảng Ninh: Giúp doanh nghiệp vừa và nhỏ vƣơn ra biển lớn", www.baokinhteht.com.vn.
3. Báo Quảng Ninh (2007), "Sự lớn mạnh của DNDD, phát triển công nghiệp phụ trợ ở Quảng Ninh" . www.baoquangninh.com.vn.
4. Báo Sài Gòn Giải Phóng (2008), "Doanh nghiệp nhỏ và vừa lớn nhƣng chƣa mạnh". (www.sggp.org.vn/kinh tế/2008).
5. Báo Việt Báo (15/5/2008), "Thành phố Hồ Chí Minh ƣu tiên phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ", www.vietbao.vn/chinh tri
6. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Giáo trình kinh tế chính trị Mác – Lênin (dùng cho các khối ngành Kinh tế - Quản trị kinh doanh trong các trường đại học, cao đẳng)(2006), NXB Chính trị Quốc gia.
7. Bộ Kế hoạch và Đầu tƣ (2006), Báo cáo tóm tắt đánh giá tình hình thi hành Luật doanh nghiệp (tài liệu phục vụ hội nghị sơ kết thi hành Luật doanh nghiệp năm 2006), WWW.Mpi.gov.vn.
8. Chính phủ (2003), Báo cáo tình hình triển khai Nghị quyết số 90/2001/- CP ngày 23/11/2001 về trợ giúp phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ.
9. Cục phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa (2007), "các doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Việt Nam", www.business.gov.vn.
10. Cục phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa (2008), "Các chính sách phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa". www.business.gov.vn
11. Cục thống kê tỉnh Quảng Ninh (2004), Niên giám thống kê 2003, NXB Thống kê.
12. Cục thống kê tỉnh Quảng Ninh (2006), Niên giám thống kê 2005, NXB Thống kê.
13. Nguyễn Cúc (1997), Chính sách phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam, NXB Chính trị Quốc gia.
14. Lƣu Khánh Cƣờng (2008), "Để doanh nghiệp vừa và nhỏ phát triển bền vững" Tạp chí Kinh tế quản lý (8), tr .23.
15. Hồ Tiến Dũng (1998), Giải pháp phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở TP HCM. Luận án tiến sĩ kinh tế, Đại học kinh tế thành phố Hồ Chí Minh.
16. Đảng Bộ tỉnh Quảng Ninh (1991), Văn kiện Đại hội Đảng bộ tỉnh Quảng Ninh lần IX.
17. Đảng Bộ tỉnh Quảng Ninh (1996), Văn kiện Đại hội Đảng bộ tỉnh Quảng Ninh lần X.
18. Đảng Bộ tỉnh Quảng Ninh (2001 ), Văn kiện Đại hội Đảng bộ tỉnh Quảng Ninh lần XI.
19. Đảng Bộ tỉnh Quảng Ninh ( 2006), Văn kiện Đại hội Đảng bộ tỉnh Quảng Ninh lần XII.
20.21. Đảng Cộng Sản Việt Nam (1986), Văn kiện Đại hội Đảng Cộng Sản Việt Nam toàn quốc lần VI, NXB Sự Thật, Hà Nội.
21. Đảng Cộng Sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội Đảng Cộng Sản Việt Nam toàn quốc lần VII, NXB Sự Thật, Hà Nội.
22. Đảng Cộng Sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội Đảng Cộng Sản Việt Nam toàn quốc lần VIII, NXB Sự Thật, Hà Nội.
23. Đảng Cộng Sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội Đảng Cộng Sản Việt Nam toàn quốc lần XIX, NXB Sự Thật, Hà Nội.
24. Đảng Cộng Sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội Đảng Cộng Sản Việt Nam toàn quốc lần X, NXB Sự Thật, Hà Nội.
25.26. Phạm Thị Thu Hằng (2002), tạo việc làm tốt bằng chính sách phát triển doanh nghiệp nhỏ, NXB Chính trị Quốc gia.
26. Phạm Thị Thu Hằng (2005), "một số vấn đề pháp lý đối với sự phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam" Tạp chí Dân chủ và Pháp luật (10) Tr.27-32.
27.Hoàng Hải (2005), "Doanh nghiệp nhỏ và vừa đƣợc gì", Tạp chí cộng sản (10), tr22.
28. Hiệp hội doanh nghiệp vừa và nhỏ Hà Nội. www.hasmea.org.vn.
29. Nguyễn Đình Hƣơng (2002), Giải pháp phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam, NXB Chính trị Quốc gia.
30.30. Khoa quốc tế học trƣờng Đại học Quốc Gia Hà Nội (2005), Vai trò của doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nền kinh, kinh nghiệm trong nước và quốc tế, NXB Thế giới.
31. Đặng Danh Lợi (2003), Kinh tế tƣ nhân Việt Nam: Những thuận lợi khó khăn trong quá trình phát triển, Tạp chí Phát triển kinh tế (4), tr.22
32. Luật doanh nghiệp năm 2000 (2001), NXB Thống Kê.
33. Luật Doanh nghiệp 2005(2006), NXB Thông kê
34. Trịnh Thị Hoa Mai (2005), kinh tế tư nhân Việt Nam trong tiến trình hội nhập, NXB Thế giới.
35. Nguyễn Minh Phong (2004), Phát triển kinh tế tư nhân tại Hà Nội, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
36. Phòng Thƣơng mại và Công nghiệp Việt Nam (2006), Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh năm 2005 của Việt Nam, www.vcci.com.vn.
37. Sở Công Thƣơng Quảng Ninh (24/4/2004), Dân số Quảng Ninh; Lao động Quảng Ninh, www.quangninh.industry.gov.vn.
38. Sở Công Thƣơng Quảng Ninh (27/2/2005), ngành nghề, làng nghề truyền thống; Định hướng phát triển làng nghề - tiểu thủ công nghiệp thời kỳ 2006-2015 của tỉnh Quảng Ninh, www.quangninh.industry.gov.vn/new
39. Sở Kế hoạch và Đầu tƣ tỉnh Quảng Ninh (2007), Báo cáo về tình hình phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Quảng Ninh trong 6 tháng cuối năm 2006.
40. Sở Kế hoạch và Đầu tƣ tỉnh Quảng Ninh (2008), Báo cáo về tình hình phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Quảng Ninh 6 tháng đầu năm 2008.
41. Sở Thƣơng Mại Quảng Ninh(2007), "Doanh nghiệp dân doanh: lực lƣợng quan trọng của nền kinh tế", www.quangninhtrade.gov.vn.
42. Lê Văn Tâm (1996), Phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Hà Nội, NXB Chính trị Quốc gia.
43. Vũ Quốc Tuấn, Hoàng Thu Hoà (2001), Phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ; kinh nghiệm nước ngoài và phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam, NXB Thống kê.
44. Võ Thanh Thu (2008), "Doanh nghiệp vừa và nhỏ thuộc khu vực dân doanh sau một năm gia nhập WTO", Tạp chí Cộng Sản (5), tr.149.
45. Thủ tƣớng Chính phủ (23/1/2001), Nghị định 90/NĐ-CP về trợ giúp phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ.
46. Thủ tƣớng Chính phủ (2003), Quyết định số 12/2003/QĐ-TTg về chức năng, nhiệm vụ và thành viên Hội đồng khuyến khích phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ.
47. Thủ tƣớng Chính phủ (10/8/2004), Quyết định số 143/2004.QĐ –TTg về phê duyệt chƣơng trình trợ giúp đào tạo nguồn nhân lực cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
48. Thủ tƣớng Chính phủ (2004), Quyết định số 115/2004/QĐ-TTg về việc sửa đổi, bổ sung Quy chế thành lập, tổ chức và hoạt động của quỹ bảo lãnh tín dụng cho doanh nghiệp vừa và nhỏ.
49. Thủ tƣớng Chính phủ (2005), Chỉ thị số 40/2005/CT-TTg về việc tiếp tục đẩy mạnh công tác trợ giúp phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ.
50. Viện nghiên cứu Tài chính (2000), Tạo lập môi trường tài chính bình
đẳng giữa các loại hình doanh nghiệp vừa và nhỏ, NXB Tài chính.
51. Viện nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ƣơng (2004), "Hội thảo phát triển cụm làng nghề - thực trạng và giải pháp tháng 12 năm 2004", Tạp chí Kinh tế (8), tr.43.