ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ _________________________
ĐỖ THỊ NGÂN
PHÁT TRIỂN DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ Ở THỊ XÃ SƠN TÂY
LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ CHÍNH TRỊ
HÀ NỘI - 2012
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ _________________________
ĐỖ THỊ NGÂN
PHÁT TRIỂN DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ Ở THỊ XÃ SƠN TÂY
Chuyên ngành: Kinh tế chính trị
Mã số : 60 31 01
LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ CHÍNH TRỊ
Người hướng dẫn khoa học: GS. TS. VŨ VĂN HIỀN
HÀ NỘI - 2012
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ................................................................................................................................. 1 Chƣơng 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ DOANH NGHIỆP VỪA
VÀ NHỎ .................................................................................................... 7 1.1. Khái niệm và đặc điểm của các doanh nghiệp vừa và nhỏ .............................. 7 1.1.1. Khái niệm và tiêu chí xác định doanh nghiệp vừa và nhỏ .................... 7 1.1.2. Đặc điểm của các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam ................... 11
1.2. Vai trò và những nhân tố tác động đến sự phát triển của các doanh
nghiệp vừa và nhỏ .................................................................................. 13 1.2.1. Vai trò của các doanh nghiệp vừa và nhỏ ........................................... 13 1.2.2. Những nhân tố tác động đến sự phát triển của các doanh
nghiệp vừa và nhỏ .................................................................................. 17
1.3. Kinh nghiệm về phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ của một số
nước và một số địa phương ở nước ta ................................................... 23
1.3.1. Kinh nghiệm về phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ của một
số nước ................................................................................................... 23
1.3.2. Kinh nghiệm về phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ của một
số địa phương ở nước ta ........................................................................ 27
Chƣơng 2. THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ
Ở THỊ XÃ SƠN TÂY GIAI ĐOẠN 2000 - 2010 .......................................... 30
2.1. Điều kiện kinh tế - xã hội của thị xã Sơn Tây - tiềm năng cho sự phát
triển của các doanh nghiệp vừa và nhỏ .................................................. 30 2.1.1. Về nguồn lực tự nhiên ......................................................................... 30 2.1.2. Điều kiện kinh tế xã hội ..................................................................... 32
2.2. Thực trạng hoạt động của doanh nghiê ̣p vừ a và nhỏ ở thị xã Sơn Tây
giai đoạn 2000 - 2010 ............................................................................ 34 2.2.1. Nguồn hình thành doanh nghiệp vừa và nhỏ .............................. 34 2.2.2. Số lượng và cơ cấu các loại hình doanh nghiê ̣p vừ a và nhỏ ............... 35 2.2.3. Tiềm lực doanh nghiê ̣p vừ a và nhỏ ở thị xã Sơn Tây ........................... 38 2.2.4. Thị trường và sức cạnh tranh doanh nghiê ̣p vừ a và nhỏ ..................... 44 2.2.5. Hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiê ̣p vừ a và nhỏ ..................... 44 2.2.6. Tác động đối với kinh tế của Thị xã .................................................... 45
2.3. Đánh giá chung tình hình hoạt động của doanh nghiê ̣p vừ a và nhỏ ở
thị xã Sơn Tây ........................................................................................ 51 2.3.1. Những kết quả đạt được ...................................................................... 51 2.3.2. Những vấn đề đang đặt ra đối với việc phát triển doanh nghiê ̣p
vừ a và nhỏ ở Sơn Tây ............................................................................ 53 2.3.3. Nguyên nhân của những hạn chế và những vấn đề nổi cộm ............... 57
3.1. Những mục tiêu và phương hướng phát triển doanh nghiê ̣p vừ a và
Chƣơng 3. PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ Ở THỊ XÃ SƠN TÂY TRONG THỜI GIAN TỚI ......................................................................................................... 59
nhỏ ở thị xã Sơn Tây ................................................................................. 59 3.1.1. Mục tiêu chung theo quan điểm của thị xã Sơn Tây ........................... 59 3.1.2. Định hướng phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ theo quan
điểm của tác giả luận văn....................................................................... 61
3.2. Những giải pháp chủ yếu để phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở thị
xã Sơn Tây ............................................................................................. 62
3.2.1. Hoàn thiện môi trường pháp lý cho việc phát triển kinh doanh
vừa và nhỏ .............................................................................................. 62
3.2.2. Hoàn thiện các chính sách hỗ trợ phát triển doanh nghiệp vừa
và nhỏ ..................................................................................................... 64 3.2.3. Tạo lập và mở rộng thị trường cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ ......... 71 3.2.4. Nâng cao trình độ quản lý của chủ doanh nghiệp và đào tạo
nghề cho người lao động ....................................................................... 73
3.2.5. Thực hiện sự liên kết và hợp tác giữa các doanh nghiệp vừa và
nhỏ với nhau .......................................................................................... 76 3.2.6. Nhóm giải pháp đối với bản thân các doanh nghiệp ........................... 76 KẾT LUẬN ................................................................................................... 79 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................... 81
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
CNH, HĐH Công nghiệp hóa, hiện đại hóa :
DN : Doanh nghiệp
DNNN : Doanh nghiệp nhà nước
DNTN : Doanh nghiệp tư nhân
DNVVN
Doanh nghiệp vừa và nhỏ
:
ĐKKD
:
Đăng ký kinh doanh
HTX
:
Hợp tác xã
SXKD
:
Sản xuất kinh doanh
UBND
:
Uỷ ban nhân dân
DANH MỤC CÁ C BẢ NG
Bảng 1.1: Tiêu chí phân loại doanh nghiệp vừa và nhỏ ở một số quốc
gia .......................................................................................................... 8
Bảng 2.1: Số lươ ̣ng doanh nghiê ̣p đươ ̣c thành lâ ̣p từ 2001-2010 ......................... 35 Bảng 2.2: Số lượng các doanh nghiệp phân theo loại hình................................... 36
Bảng 2.3: Tổng số vốn kinh doanh của các DNVVN trên địa bàn thị xã
Sơn Tây năm 2010 .............................................................................. 39
Bảng 2.4: Trình độ kỹ thuật và công nghệ của các DNVVN trên địa bàn
thị xã Sơn Tây năm 2010 .................................................................... 41
Bảng 2.5: Trình độ chuyên môn của đội ngũ giám đốc các DNVVN
(DNTN, công ty TNHH, CTCP) trên địa bàn thị xã Sơn Tây
năm 2010 ............................................................................................. 43
DANH MỤC CÁ C BIỂ U ĐỒ
Biểu 2.1: Tổng số doanh nghiệp thành lập theo năm giai đoạn 2001-2010 ....... 36
Biểu 2.2: Cơ cấu doanh nghiệp theo loại hình năm 2010 (%) ............................ 37
Biểu 2.3: Cơ cấu DNVVN phân theo ngành (%) ................................................ 38
Biểu 2.4: Tổng giá trị sản xuất giai đoạn năm 2006-2010 .................................. 37
Biểu 2.5: Tổng sản phẩm giai đoạn 2006-2010 .................................................. 48
MỞ ĐẦ U
1. Tính cấp thiết của đề tài
Sau hơn 25 năm thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, các doanh
nghiệp vừa và nhỏ đã đóng một vai trò quan trọng vào sự phát triển kinh tế xã
hội của đất nước. Nghị quyết đại hội lần thứ IX của Đảng đã chỉ rõ “khuyến
khích mọi thành phần kinh tế tham gia đầu tư phát triển sản xuất công nghiệp
với nhiều quy mô, nhiều trình độ, chú trọng các doanh nghiệp vừa và nhỏ,
phù hợp với định hướng chung và lợi thế của từng địa phương” [12].
Từ khi thực hiện luật doanh nghiệp (1999) tới nay, với sự quan tâm của
Đảng và Nhà nước, số lượng các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nước ta tăng lên
nhanh chóng, đạt được nhiều thành tựu. Theo kết quả điều tra của Tổng cục
thống kê, hiện nay ở nước ta các doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm tới 99% số
lượng cơ sở sản xuất kinh doanh của cả nước, thu hút 77% lực lượng lao động
phi nông nghiệp. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp vừa và nhỏ còn góp phần
không nhỏ vào nguồn thu ngân sách quốc gia. Điều này cho thấy các doanh
nghiệp vừa và nhỏ có vai trò rất quan trọng đối với nền kinh tế của nước ta
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Vì vậy, ưu tiên phát triển doanh
nghiệp vừa và nhỏ là một yêu cầu cần thiết và khách quan đối với nền kinh tế
đất nước.
Sơn Tây là một Thị xã thuộc tỉnh Hà Tây cũ, nay thuộc thành phố Hà
Nội, cách trung tâm Hà Nội hơn 40km về phía tây. Sơn Tây có vị trí địa lý
thuận lợi, có nhiều tiềm năng để phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Thời
gian qua, các doanh nghiệp hoạt động trên địa bàn Thị xã đã đóng góp một
phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế xã hội của Thị xã nói riêng và của
thành phố nói chung, thu hút được nhiều lao động trong và ngoài Thị xã, thúc
đẩy các ngành kinh tế khác phát triển, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế
1
của thị xã theo hướng hiện đại và hợp lý.
Tuy nhiên, so với những điều kiện và tiềm năng thuận lợi sẵn có, tình
hình phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Thị xã Sơn Tây trong thời gian qua
còn nhiều hạn chế như: số lượng các doanh nghiệp còn ít, trình độ công nghệ
còn lạc hậu, sức cạnh tranh yếu, ít vốn; yếu kém trong việc tiếp cận thông tin
và các dịch vụ hỗ trợ kinh doanh, năng lực của đội ngũ cán bộ quản lý còn
nhiều hạn chế… Do vậy, phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Thị xã Sơn
Tây là một yêu cầu cần thiết vừa có ý nghĩa cơ bản lâu dài, vừa là vấn đề thời
sự cần được quan tâm đúng mức. Đề tài “Phát triển doanh nghiệp vừa và
nhỏ ở Thị xã Sơn Tây” được lựa chọn làm luận văn thạc sĩ góp phần đáp ứng
yêu cầu đó.
2. Tình hình nghiên cứu
Cho tới nay đã có nhiều công trình khoa học, nhiều bài viết, bài báo
nghiên cứu về vấn đề doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nước ta. Trong đó đáng lưu
ý là cuốn “Giải pháp phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam” do
Giáo sư, tiến sĩ Nguyến Đình Hương (Đại học Kinh tế Quốc dân làm chủ
biên). Trong cuốn này, tác giả đề cập đến những vấn đề cơ bản nhất, khái quát
nhất về phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nước ta trong nền kinh tế thị
trường, một số vướng mắc, hạn chế trong việc phát triển doanh nghiệp vừa và
nhỏ trong thời gian qua. Trên cơ sở đó, tác giả đề ra một số giải pháp và
khuyến nghị nhằm phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ trong thời gian tới.
Bài viết của Tiến sĩ Trịnh Thị Hoa Mai, Đại học Kinh tế, Đại học Quốc
gia Hà Nội về “Vấn đề huy động vốn của các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt
Nam”. Ở đây, tác giả đề cập đến những vấn đề huy động vốn của Việt Nam
và những con đường huy động vốn mang tính trị trường. Trên cơ sở đó khẳng
định vai trò của nhà nước trong việc rà soát các thủ tục hành chính, cơ chế,
chính sách để tạo điều kiện cho doanh nghiệp hoạt động tốt hơn.
Bài viết của Tiến sĩ Nguyễn Hồng Nhung (tạp chí Nghiên cứu Đông
2
Nam Á, số 3, 2003) “Vai trò của Chính phủ trong việc phát triển doanh
nghiệp vừa và nhỏ ở các nước ASEAN”. Trong bài này, tác giả đã phân tích
các chính sách khuyến khích hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ của các
Chính phủ Singapore, Thái Lan, Malaysia, Indonesia. Từ đó, tác giả rút ra bốn
kết luận trong các chính sách hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở các nước
này là: Hỗ trợ phải thường xuyên, toàn diện và rộng khắp thông qua kế hoạch,
chương trình cụ thể; thu hút các cơ quan, các tổ chức, các bộ ngành liên quan;
xác định nguyên nhân chủ yếu cần hỗ trợ và xây dựng quan hệ qua lại giữa
các doanh nghiệp vừa và nhỏ với doanh nghiệp lớn, các công ty nước ngoài
để tạo mạng lưới sản xuất quy mô quốc gia, trong đó doanh nghiệp vừa và
nhỏ đóng vai trò là vệ tinh.
Bài viết của Vũ Văn Hà - Đặng Ngọc Hiếu, báo Điện tử Đảng cộng sản
Việt Nam về “Kinh nghiệm phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ của Nhật
Bản”. Trong đó, tác giả trình bày tình hình phát triển doanh nghiệp vừa và
nhỏ ở Nhật Bản trên cở sở đó rút ra kinh nghiệm, kiến nghị một số giải pháp
phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam.
Bài viết của Thạc sĩ Hoàng Thị Thi Thư, Bộ Thương Mại về kinh
nghiệm của Mĩ và Trung Quốc trong việc hỗ trợ và thúc đẩy phát triển các
doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam”. Trong bài viết này, tác giả nói về vai
trò của chính phủ Mĩ và Trung Quốc trong việc thúc đẩy các doanh nghiệp
vừa và nhỏ, những kinh nghiệm về quản lý, phát triển và hỗ trợ doanh nghiệp
vừa và nhỏ, từ đó đặt ra yêu cầu: Việt Nam phải có cái nhìn như thế nào về
doanh nghiệp vừa và nhỏ, cách thức quản lý phát triển doanh nghiệp vừa và
nhỏ ở Việt Nam ra sao.
Ngoài ra, còn một số luận văn, luận án nghiên cứu về doanh nghiệp vừa
và nhỏ ở các địa phương trong cả nước.
Nhưng nhìn chung, các công trình đó đều nghiên cứu về doanh nghiệp
3
vừa và nhỏ ở các khía cạnh như:
- Thực trạng doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nước ta trong thời gian qua về:
quy mô, công nghệ, vốn, trình độ quản lý, tạo việc làm,…
- Kinh nghiệm của một số nước trong khu vực và trên thế giới về phát
triển doanh nghiệp vừa và nhỏ.
- Những thuận lợi và khó khăn của các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt
Nam trong xu thế mở cửa hội nhập với khu vực và thế giới…
Như vậy đã có nhiều công trình nghiên cứu về doanh nghiệp vừa và
nhỏ ở nhiều khía cạnh và góc độ khác nhau. Những kết quả nghiên cứu đó là
những luận cứ quan trọng để tác giả luận văn tiếp thu có chọn lọc cho công
trình nghiên cứu của mình. Tuy nhiên, trong những công trình khoa học đó
chưa có công trình nào nghiên cứu về việc phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ
ở thị xã Sơn Tây hiện nay một cách có hệ thống dưới góc độ khoa học Kinh tế
Chính trị. Do vậy, đề tài luận văn sẽ là một công trình khoa học độc lập,
không trùng lặp với các công trình khác.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích:
Trên cơ sở làm rõ vai trò của các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong quá
trình phát triển kinh tế xã hội của Thị xã Sơn Tây nói riêng và thực trạng hoạt
động của các doanh nghiệp đó. Luận văn đề xuất những giải pháp và kiến
nghị nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động và phát triển của các doanh nghiệp
vừa và nhỏ trên địa bàn quan trọng này trong thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ:
Để đạt được những mục đích trên, luận văn cần thực hiện các nhiệm vụ
cơ bản sau:
- Làm rõ quan niệm cũng như vị trí, vai trò của doanh nghiệp vừa nhỏ
trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Chỉ ra được tiêu chí xác định quy mô của doanh nghiệp vừa và nhỏ ở
4
nước ta.
- Phân tích, đánh giá thực trạng phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở
thị xã Sơn Tây giai đoạn 2000 - 2010, những kết quả đã đạt được và những
vấn đề còn tồn tại.
- Đề ra một số giải pháp khả thi nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động và
phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở thị xã Sơn Tây trong thời gian tới.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng:
Các doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ ở Thị xã Sơn Tây thuộc tất cả
các ngành: công nghiệp, nông nghiệp, xây dựng, thương mại, du lịch, dịch vụ…
4.2. Phạm vi:
Luận văn ngiên cứu các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở thị xã Sơn Tây từ
năm 2000 đến năm 2010.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử,
luận văn sử dụng các phương pháp như: phương pháp khảo sát thực tế, thống
kê, phân tích tổng hợp, so sánh đối chiếu…
6. Đóng góp khoa học của luận văn
- Góp phần khái quát và nêu rõ hơn vị trí, vai trò của doanh nghiệp vừa
và nhỏ trong tiến trình phát triển kinh tế xã hội của Thị xã Sơn Tây nói riêng
và của đất nước nói chung.
- Nêu bật được bức tranh sinh động của doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Thị
xã Sơn Tây trong thời gian qua.
- Kiến nghị những giải pháp, chính sách cho việc phát triển doanh
nghiệp vừa và nhỏ cho Thị xã Sơn Tây trong thời gian tới.
- Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho các cấp có thẩm
quyền trong việc hoạch định đường lối, chính sách phát triển doanh nghiệp
5
vừa và nhỏ ở Thị xã Sơn Tây trong thời gian tới.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo luận văn
được bố cục với 3 chương, 8 tiết.
Chƣơng 1: Một số vấn đề lý luận chung về doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Chƣơng 2: Thực trạng phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở thị xã Sơn
Tây giai đoạn 2000 - 2010.
Chƣơng 3: Phương hướng và các giải pháp cơ bản phát triển doanh
6
nghiệp vừa và nhỏ ở thị xã Sơn Tây trong thời gian tới.
Chƣơng 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ
1.1. Khái niệm và đặc điểm của các doanh nghiệp vừa và nhỏ
1.1.1. Khái niệm và tiêu chí xác định doanh nghiệp vừa và nhỏ
Ngày nay, trên thế giới nói chung và ở Việt Nam nói riêng, cụm từ
doanh nghiệp vừa và nhỏ đã được sử dụng một cách phổ biến. Đối với các
nước phát triển, khái niệm DNVVN được biết đến từ những năm đầu của thế
kỷ XX và đã được quan tâm phát triển khu vực DNVVN từ những năm 50
của thế kỷ XX. Ở Việt Nam khái niệm DNVVN được nhắc đến nhiều là từ
những năm 1990 đến nay. Dù đã được biết từ lâu, nhưng quan niệm về
DNVVN thì mỗi nước có những quan niệm khác nhau. Điểm giống nhau duy
nhất trong quan niệm về DNVVN là khái niệm này dùng để chỉ một loại hình
doanh nghiệp được phân loại theo quy mô sản xuất của DN với những tiêu chí
như vốn, lao động, doanh thu…
Dựa vào quy mô, người ta căn cứ vào số lượng lao động thường xuyên
có trên thực tế và tổng vốn đầu tư thể hiện tổng giá trị tài sản hoặc doanh thu
trong năm của một doanh nghiệp. Các nước trên thế giới đã dựa vào hai tiêu
thức này để xác định quy mô của loại hình DNVVN, nhưng ở mỗi nước, mức
độ định lượng rất khác nhau. Việc xác định quy mô DNVVN trên thế giới chỉ
mang tính chất tương đối vì nó chịu tác động của các yếu tố như trình độ phát
triển của nền kinh tế, tính chất ngành nghề hay mục đích phân loại doanh
nghiệp trong từng thời kỳ nhất định. Một số nước trên thế giới còn căn cứ vào
tính chất ngành nghề kinh doanh của DN để xác định quy mô phân loại
DNVVN.
Nhìn chung, các tiêu chí để xác định thế nào là một DNVVN ở các nước
trên thế giới tương đối rõ ràng, đó là dựa vào các tiêu chí như số lao động, tổng
7
giá trị tài sản (hay tổng vốn), doanh thu (hay lợi nhuận) như Bảng 1.1.
Bảng 1.1: Tiêu chí phân loại doanh nghiệp vừa và nhỏ ở một số quốc gia
Phân loại Tất cả các ngành
Tên nƣớc Mỹ Nhật Bản Chế tác
EU
Bán Buôn Bán lẻ Dịch vụ DN cực nhỏ DN nhỏ DN vừa
Số lao động 500 300 100 50 100 < 10 < 50 < 250 < 100
Australia Chế tác nhỏ Chế tác vừa Số vốn < 300 triệu yên 100 triệu yên 50 triệu yên 100 triệu yên Doanh thu 7 triệu ero 40 triệu ero
100 199 < 20
Dịch vụ nhỏ Dịch vụ vừa
< 5 triệu CND
Canađa 20 199 < 100
Chế tác nhỏ Chế tác vừa
100 500 < 50 520 triệu CND < 5 triệu CND
Dịch vụ nhỏ Dịch vụ vừa
50 500 50 triệu bạt 50 - 200 triệu bạt triệu bạt 50 - 100 triệu bạt 30 triệu bạt 30 - 60 triệu bạt
Thái Lan Sản xuất nhỏ Sản xuất vừa Bán buôn nhỏ Bấn buôn vừa Bán lẻ nhỏ Bán lẻ vừa DN nhỏ Philipin 520 triệu CND 10 99 1,515 triệu pêxô
DN vừa
1660 triệu pêxô 200.000 USD
Inđônêxia DN nhỏ DN vừa 100 199
< 100 < 200
Xingapo Malaixia 100000 USD 20.000 - 100.000 100000500000 < 1,2 triệu đô la < 2,5 triệu ringít
8
Nguồn: APEC 1998 và OECD 2000.
Ở Việt Nam, sự hình thành quan niệm và các cách phân loại DNVVN
cũng rất khác nhau qua các thời kỳ phát triển của đất nước. Năm 1993, chúng
ta đã tiến hành phân loại DNVVN thành 5 hạng: hạng đặc biệt, hạng I, hạng
II, hạng III và hạng IV. Việc xác định các hạng doanh nghiệp trên dựa vào hai
tiêu thức là độ phức tạp của quản lý và hiệu quả sản xuất kinh doanh thông
qua tám tiêu chí là: Vốn sản xuất kinh doanh, trình độ công nghệ, phạm vi
hoạt động, số lượng lao động, mức độ đóng góp cho nhà nước, lợi nhuận thực
hiện, doanh thu và tỷ suất lợi nhuận trên vốn. Việc xếp hạng các doanh nghiệp
như vậy chủ yếu chỉ là để sắp xếp tổ chức bộ máy quản lý doanh nghiệp và trả
lương cho cán bộ quản lý chứ không mang tính chất định hướng cho sự phát
triển của DNVVN.
Trước năm 1998, Chính phủ chưa có văn bản pháp luật nào quy định
tiêu chí cụ thể của DNVVN. Do đó, mỗi tổ chức, địa phương đưa ra một quan
niệm khác nhau về DNVVN nhằm định hướng mục tiêu và đối tượng hỗ trợ
của tổ chức, địa phương mình. Một số cách phân loại đáng chú ý đó là:
- Ngân hàng Công thương đưa ra tiêu chí DNVVN đó là những doanh
nghiệp có giá trị tài sản cố định dưới 10 tỷ đồng, vốn lưu động dưới 8 tỷ
đồng, doanh thu dưới 8 tỷ đồng và số lao động thường xuyên dưới 500 người.
- Thành phố Hồ Chí Minh lại xác định những doanh nghiệp có vốn
pháp định trên 1 tỷ đồng, lao động thường xuyên có trên 100 người và doanh
thu hàng năm trên 10 tỷ đồng là doanh nghiệp có quy mô vừa. Những doanh
nghiệp dưới mức tiêu chuẩn trên là những doanh nghiệp nhỏ.
- Tổ chức phát triển công nghiệp của Liên hợp quốc (UNIDO) tại Việt
Nam lại đưa ra tiêu thức xác định DNVVN dựa trên mục tiêu hỗ trợ của họ.
Tổ chức này dựa vào quy mô vốn, số lao động, doanh thu và cả hình thức sở
hữu để xác định DNVVN. Theo UNIDO, doanh nghiệp nhỏ là doanh nghiệp
9
có ít hơn 50 lao động, tổng số vốn và doanh thu ít hơn 1 tỷ đồng; doanh
nghiệp vừa là doanh nghiệp có số lao động thường xuyên tử 51 đến 200
người, tổng số vốn và doanh thu từ 1 tỷ đến 5 tỷ đồng.
Sở dĩ UNIDO xác định DNVVN là DNTN vì theo quan điểm của họ,
DNNN đã được Chính phủ hỗ trợ rồi. Mục tiêu hỗ trợ của UNIDO và các tổ
chức quốc tế khác chỉ là DNTN - đối tượng chưa được Chính phủ hỗ trợ và
chưa nhận được sự quan tâm thỏa đáng của Chính phủ. [19]
Ngày 20/6/1998, Chính phủ đã ban hành Văn bản số 681/CP-KTN về
hỗ trợ phát triển DNVVN ở Việt Nam. Theo đó, các DNVVN trong ngành
công nghiệp là các doanh nghiệp có số vốn điều lệ dưới 5 tỷ đồng (tương
đương 387.600 USD) và số lao động trung bình hàng năm dưới 300 người;
trong ngành thương mại, dịch vụ là những doanh nghiệp có vốn sản xuất dưới
3 tỷ đồng và số lao động dưới 200 người. Trong đó, doanh nghiệp có vốn
dưới 1 tỷ đồng và số lao động dưới 50 người trong công nghiệp và dưới 30
người trong thương mại dịch vụ là doanh nghiệp nhỏ. Văn bản số 681/CP-
KTN của Chính phủ là căn cứ pháp lý quan trọng đầu tiên để xác định các đối
tượng là DNVVN Việt Nam. Tiêu thức phân loại này không tính đến hình
thức sở hữu, không phân biệt DNVVN hay DNTN. Do đó, căn cứ theo tiêu
thức phân loại này thì có trên 90% doanh nghiệp Việt Nam thuộc diện
DNVVN.
Ngày 23/11/2001, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 90/2001/NĐ-
CP về trợ giúp phát triển DNVVN. Nghị định này đã đưa ra một định nghĩa
chung về DNVVN để các ban ngành, địa phương, các tổ chức trong và ngoài
nước có căn cứ xác định đối tượng thực hiện chính sách và các biện pháp trợ
giúp phát triển. Theo định nghĩa này, DNVVN là các cơ sở sản xuất kinh
doanh độc lập đã ĐKKD theo pháp luật hiện hành, có vốn đăng ký không quá
10 tỷ đồng hoặc số lao động trung bình hàng năm không quá 300 người.
Như vậy, đối tượng được xác định là DNVVN bao gồm:
10
- Các doanh nghiệp thành lập và hoạt động theo Luật doanh nghiệp;
- Các doanh nghiệp thành lập và hoạt động theo Luật DNNN;
- Các HTX thành lập và hoạt động theeo Luật HTX;
- Các hộ kinh doanh cá thể đăng ký theo quy định của Chính phủ.
Tất cả các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế có ĐKKD và
thỏa mãn hai tiêu thức lao động và vốn đưa ra tại Nghị đinh đều được coi là
DNVVN Việt Nam. Theo cách phân loại này, số DNVVN chiếm khoảng 95%
tổng số doanh nghiệp hiện có tại Việt Nam.
Tiêu thức phân loại DNVVN theo Nghị định số 90/2001/NĐ-CP là
tương đối phù hợp với điều kiện của Việt Nam. Để xác định DNVVN hay
không chỉ căn cứ vào quy mô của doanh nghiệp chứ không thể căn cứ vào
loại hình sở hữu. Như vậy, sẽ có DNVVN là các DNNN và có DNVVN là
doanh nghiệp thuộc sở hữu tư nhân và cũng có DNVVN là các HTX. Điều đó
sẽ đảm bảo tính bình đẳng giữa các doanh nghiệp trong điều kiện phát triển
một nền kinh tế thị trường.
Trên cơ sở lý thuyết và thực tế đã nêu trên, tác giả luận văn cho rằng:
doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam là các cơ sở sản xuất kinh doanh độc
lập hoạt động theo luật doanh nghiệp và pháp luật hiện hành, có số vốn đăng
ký dưới 10 tỷ đồng và số lao động dưới 300 người.
1.1.2. Đặc điểm của các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam
Đặc điểm cơ bản của DNVVN ở Việt Nam thể hiện trên một số điểm
như sau:
Một là, quy mô doanh nghiệp nhỏ nên năng lực sản xuất - kinh doanh
bị hạn chế, bao gồm cả năng lực về thiết bị - công nghệ, năng lực về vốn,
năng lực về quản lý. Doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ chiếm đại đa số trong
DNVVN. Do đó, nhìn chung vốn kinh doanh của các DNVVN là ít và khả
năng huy động vốn của các doanh nghiệp này cũng có những hạn chế nhất
định, đặc biệt là việc tiếp cận với các nguồn tín dụng thương mại của nhà
11
nước còn gặp nhiều khó khăn. Thiết bị - công nghệ của DNVVN thường ở
mức dưới trung bình do không đủ tài chính cho nghiên cứu triển khai hay tiếp
nhận công nghệ tiên tiến. Khả năng quản lý tại các DNVVN có nhiều hạn chế,
số lượng chủ doanh nghiệp có trình độ học vấn cao hay đã qua các lớp đào tạo
quản lý chính quy của nhà nước không nhiều. Trình độ của người lao động
thấp do tính hấp dẫn của thu nhập, tính ổn định khi làm việc không cao cũng
như cơ hội phát triển thấp tại các DNVVN làm cho nhiều lao động có kỹ năng
không muốn làm việc cho khu vực này. Mặt khác, người lao động ít được đào
tạo nên trình độ và kỹ năng thấp. Cơ cấu tổ chức trong doanh nghiệp thường
bị bó hẹp, người quản lý phải thực hiện nhiều công việc kiêm nhiệm khác
nhau, tính chuyên nghiệp không cao. Khả năng tiếp cận thị trường kém, đặc
biệt là thị trường nước ngoài. DNVVN thường là những doanh nghiệp mới
hình thành, khách hàng truyền thống không nhiều, quy mô thị trường thường
bị bó hẹp trong phạm vi địa phương; mặt khác, khả năng tài chính cho hoạt
động maketing không có, do đó khả năng mở rộng thị trường mà đặc biệt là
thị trường nước ngoài là rất khó khăn.
Hai là, Hình thức tổ chức các DNVVN rất đa dạng. Các DNVVN ở
Việt Nam thuộc nhiều thành phần kinh tế với nhiều hình thức tổ chức doanh
nghiệp khác nhau, bao gồm từ DNNN, DNTN đến các HTX. Doanh nghiệp
thuộc thành phần kinh tế tư nhân là chủ yếu được thành lập và hoạt động theo
Luật công ty, Luật DNTN (trước đây) và Luật Doanh nghiệp hiện nay. Trong
suốt thời gian chuyển đổi vừa qua, đặc biệt là những năm 90 của thế kỷ XX,
DNVVN thuộc các thành phần kinh tế khác nhau không được đối xử bình
đẳng, bị phân biệt đối xử. Thể hiện tập trung nhất trong việc tiếp cận các
nguồn lực như mặt bằng sản xuất, vay vốn ngân hàng... Điều đó ảnh hưởng
đến tâm lý, phong cách kinh doanh của các doanh nghiệp hiện nay. Đặc điểm
này đã làm cho DNVVN gặp không ít khó khăn trong quá trình hoạt động sản
12
xuất kinh doanh của mình.
Ba là, Ngành nghề kinh doanh rất đa dạng. DNVVN có mặt trong nhiều
ngành nghề, lĩnh vực, có mặt ở tất cả các vùng, miền, địa phương. Ngoài sản
xuất cung ứng các sản phẩm mang tính độc lập, DNVVN còn có quan hệ liên
kết với các doanh nghiệp lớn trong việc cung ứng nguyên vật liệu, thực hiện
thầu phụ, dần hình thành mạng lưới công nghiệp bổ trợ và đặc biệt là tạo ra
mạng lưới vệ tinh phân phối sản phẩm, có thể nói DNVVN là bộ phận không
thể thiếu trong quá trình sản xuất và phân phối sản phẩm.
1.2. Vai trò và những nhân tố tác động đến sự phát triển của các
doanh nghiệp vừa và nhỏ
1.2.1. Vai trò của các doanh nghiệp vừa và nhỏ
1.2.1.1. Vai trò kinh tế
Hiện nay, ở hầu hết các nước trên thế giới, đặc biệt là các nước đang
phát triển, các DNVVN chiếm tỷ trọng cao, đóng một vai trò rất quan trọng
trong nền kinh tế. Điều này cũng đúng với tình hình của Việt Nam, được thể
hiện trên các khía cạnh như sau:
Thứ nhất, các DNVVN chiếm tỷ trọng cao trong tổng số các cơ sở sản
xuất kinh doanh và ngày càng gia tăng mạnh. Phần lớn các nước trên thế giới,
số lượng các DNVVN chiếm khoảng 90% tổng số doanh nghiệp. Tốc độ gia
tăng số lượng các DNVVN nhanh hơn số lượng doanh nghiệp lớn. Các
DNVVN hoạt động phổ biến trong tất cả các ngành công nghiệp, dịch vụ, từ
công nghiệp thủ công truyền thống đến các ngành công nghiệp kỹ thuật cao,
tạo khả năng gia công, thầu phụ cho các doanh nghiệp lớn.
Thứ hai, các DNVVN góp phần quan trọng trong việc thu hút vốn đầu
tư trong dân cư và sử dụng tối ưu các nguồn lực tại địa phương.
Với việc phân bố rộng khắp, yêu cầu số lượng vốn ban đầu không
nhiều nên các DNVVN có vai trò và tác dụng rất lớn trong việc thu hút các
nguồn vốn nhàn rỗi trong các tầng lớp dân cư đầu tư vào sản xuất kinh doanh.
13
Mặt khác, trong quá trình hoạt động, các DNVVN có thể dễ dàng huy động
vốn dựa trên quan hệ họ hàng, bạn bè thân thuộc. Chính vì vậy, DNVVN
được coi là phương tiện có hiệu quả trong việc huy động, sử dụng các khoản
tiền nhàn rỗi trong dân cư và biến nó thành các khoản vốn đầu tư. Sự phát
triển có hiệu quả của các DNVVN đã dẫn đến quá trình tích lũy của cải không
ngừng của nhân dân. Trước đây, tiết kiệm của dân chúng không đáng kể.
Nhưng trong những năm gần đây, tiết kiệm của dân chúng đã đủ để sản xuất.
Nguồn vốn quay vòng nhanh của các DNVVN không những đã nâng cao tích
lũy tài sản trong nước, mà nguồn vốn tích lũy do các DNVVN xuất khẩu hàng
hóa cũng tăng đều qua các năm. Với quy mô vừa và nhỏ, lại được thành lập
tới mọi địa bàn ở hầu khắp các địa phương, các khu vực, nên DNVVN có khả
năng tận dụng các tiềm năng về lao động, về nguyên vật liệu với trữ lượng
hạn chế, không đáp ứng nhu cầu sản xuất quy mô lớn nhưng sẵn có địa
phương, sử dụng sản phẩm phụ hoặc phế liệu, phế phẩm của các doanh
nghiệp lớn.
Thứ ba, các DNVVN có vai trò quan trọng trong sự tăng trưởng của
nền kinh tế. Các doanh nghiệp này góp phần quan trọng vào sự gia tăng thu
nhập quốc dân của các nước trên thế giới, bình quân chiếm khoảng 50% GDP
ở mỗi nước. Riêng ở Việt Nam, trong những năm qua, mỗi năm các DNVVN
đóng góp khoảng 25% GDP của cả nước. [1]
Thứ tư, các DNVVN là nhân tố tạo sự năng động nền kinh tế trong cơ
chế thị trường, đóng góp quan trọng trong việc làm tăng lưu thông và sản xuất
xuất khẩu hàng hóa. Do lợi thế của quy mô nhỏ là năng động, linh hoạt, sáng
tạo trong kinh doanh cùng với hình thức tổ chức kinh doanh, sự kết hợp
chuyên môn hóa và đa dạng hóa mềm dẻo, hòa nhịp với những đòi hỏi của
nền kinh tế thị trường nên các DNVVN có vai trò to lớn góp phần làm năng
động nền kinh tế trong cơ chế thị trường, DNVVN có nhiều khả năng thay đổi
mặt hàng, chuyển hướng sản xuất, đổi mới công nghệ và đang là lực lượng
14
chủ yếu đảm bảo lưu thông hàng hóa trong xã hội.
Thứ năm, các DNVVN có vai trò quan trọng trong việc chuyển dịch cơ
cấu kinh tế. Đặc biệt đối với khu vực nông thôn, sự phát triển của các
DNVVN sẽ thúc đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, làm cho
công nghiệp phát triển mạnh, đồng thời thúc đẩy các ngành thương mại, dịch
vụ. Sự phát triển của DNVVN ở thành thị cũng góp phần làm tăng tỷ trọng
khu vực công nghiệp trong cơ cấu kinh tế quốc dân. Các DNVVN còn đóng
vai trò quan trọng trong việc làm thay đổi và đa dạng hóa cơ cấu công nghiệp.
Thứ sáu, các DNVVN góp phần dân chủ hóa nền kinh tế, duy trì sự tự
do cạnh tranh và có khả năng ứng biến nhanh nhạy.
DNVVN chiếm tỷ trọng lớn và đóng vai trò quan trọng trong việc tập
trung lực lượng kinh tế, lực lượng lao động. Sự phát triển không ngừng của
các DNVVN góp phần phân phối theo chiều hướng tương đối công bằng, mặt
khác huy động được nguồn sức lao động lớn trong xã hội vào hoạt động sản
xuất theo quy trình phân công lao động xã hội.
Thứ bảy, các DNVVN là nơi đào tạo doanh nhân.
Các DNVVN góp phần đào tạo, bồi dưỡng, rèn luyện một đội ngũ
doanh nhân ươm mầm các tài năng kinh doanh. Kinh doanh quy mô nhỏ sẽ là
nơi đào tạo, các nhà doanh nghiệp làng quê với môi trường kinh doanh. Bắt
đầu từ kinh doanh quy mô nhỏ và thông qua điều hành quản lý kinh doanh
quy mô vừa và nhỏ, một số nhà doanh nghiệp sẽ trưởng thành lên thành
những doanh nghiệp lớn, tài ba biết đưa doanh nghiệp của mình nhanh chóng
phát triển. Các tài năng kinh doanh sẽ được ươm mầm trong các DNVVN.
1.2.1.2. Vai trò xã hội
DNVVN góp phần quan trọng tạo công ăn việc làm và tăng thu nhập
cho người lao động. Đây là một thế mạnh rõ rệt của các DNVVN và là một
trong những lý do chủ yếu khiến chúng ta phải đặc biệt chú trọng phát triển
15
các loại hình doanh nghiệp này. Sự lớn mạnh của các DNVVN đã làm tăng
thu nhập của công nhân và giảm tỷ lệ thất nghiệp của mỗi địa phương nói
riêng và toàn lãnh thổ nói chung.
DNVVN không chỉ trực tiếp tạo việc làm cho số lao động làm việc
thường xuyên ở các doanh nghiệp, mà còn tạo điều kiện để lao động ngoài
doanh nghiệp có được việc làm thông qua các hoạt động cung ứng đầu vào,
tiếp nhận đầu ra và phục vụ SXKD. Xét trên góc độ giải quyết việc là thì
DNVVN luôn đóng vai trò quan trọng hơn các doanh nghiệp lớn, đặc biệt
trong thời kỳ suy thoái kinh tế. Lịch sử phát triển của các nước công nghiệp
phát triển cũng như ở Việt Nam trong thời kỳ đầu đổi mới đã cho thấy rằng:
khi nền kinh tế suy thoái, các DN lớn phải giảm lao động để giảm chi phí đến
mức có thể tồn tại được vì cầu của thị trường thấp hơn cung. Nhưng đối với
các DNVVN, do đặc tính linh hoạt, uyển chuyển dễ thích ứng với thay đổi
của thị trường nên nó vẫn có thể hoạt động được. Do đó, các DNVVN không
những không giảm lao động mà còn có thể thu hút thêm lao động. Chính vì
vậy, Hội đồng doanh nghiệp nhỏ thế giới đã cho rằng: DNVVN là liều thuốc
cuối cùng chữa trị bệnh thất nghiệp khi nền kinh tế suy thoái [8]; [14].
Ở Việt Nam hiện nay, tỷ lệ thất nghiệp tương đối cao và không ổn định,
sức ép dân số, lao động, việc làm ở nông thôn chính là nguyên nhân của dòng
di dân từ nông thôn ra thành phố, gây ra nhiều vấn đề xã hội phức tạp. Khu
vực DNVVN thuộc các thành phần kinh tế tạo ra khoảng 49% việc làm phi
nông nghiệp ở nông thôn, khoảng 25 - 26% lực lượng lao động cả nước, triển
vọng thu hút lao động rất lớn vì suất đầu tư cho một chỗ làm việc ở đây thấp
hơn rất nhiều so với doanh nghiệp lớn, chủ yếu là do chi phí thấp và thu hút
được các nguồn vốn rải rác trong dân.
Do các DNVVN có thể phát triển ở khắp mọi nơi trong nước nên
khoảng cách giữa nhà sản xuất và thị trường được rút ngắn, tạo nên sự phát
16
triển cân bằng giữa các vùng. Phát triển DNVVN ở thành thị cũng như nông
thôn là biện pháp chủ yếu để tăng thu nhập, đa dạng hóa thu nhập của các
tầng lớp nhân dân khắp các vùng trong nước.
1.2.2. Những nhân tố tác động đến sự phát triển của các doanh
nghiệp vừa và nhỏ
Doanh nghiệp vừa và nhỏ là những doanh nghiệp năng động, nhạy cảm
với sự thay đổi của thị trường, có thể thâm nhập vào những thị phần nhỏ lẻ, có
khả năng thỏa mãn các nhu cầu có hạn của thị trường, có khuynh hướng sử
dụng nhiều lao động với trình độ kỹ thuật trung bình thấp,... Tuy nhiên, các
DNVVN lại là những doanh nghiệp hạn chế về vốn, khoa học công nghệ, khả
năng cạnh tranh kém... Vì vậy khi có những biến động về thị trường, về cơ
chế chính sách… thì DNVVN là những doanh nghiệp bị tác động đầu tiên. Có
rất nhiều nhân tố tác động đến sự phát triển của các doanh nghiệp vừa và nhỏ,
sau đây là một số nhân tố cơ bản:
1.2.2.1. Trình độ phát triển kinh tế - xã hội.
Trình độ phát triển kinh tế - xã hội càng cao thì giới hạn các tiêu thức
phân loại doanh nghiệp càng được nâng lên. Các nước có trình độ phát triển
thấp thì tiêu chuẩn, giới hạn về vốn sẽ thấp hơn. Trình độ phát triển càng cao
thì sự phát triển của doanh nghiệp lớn càng nhiều, tính cạnh tranh càng gay
gắt nhưng có thuận lợi là mối quan hệ giữa các loại hình doanh nghiệp càng
chặt chẽ, sự hỗ trợ của các doanh nghiệp lớn đối với các DNVVN càng nhiều.
Mối quan hệ tác động qua lại sẽ giúp cho cả doanh nghiệp lớn và doanh
nghiệp nhỏ phát triển trong mối quan hệ thống nhất, ràng buộc nhau, khắc
phục được những hạn chế, phát huy tích cực của từng loại hình quy mô, nhận
thức của các bộ phận kinh doanh càng rõ ràng, cụ thể hơn. Các doanh nghiệp
tự nhận thấy sự cần thiết phải liên kết, hỗ trợ nhau.
Trình độ phát triển kinh tế - xã hội càng cao sẽ tạo điều kiện cho sự
phát triển của các doanh nghiệp vừa và nhỏ ổn định hơn, có phương hướng rõ
17
ràng hơn, vững bền hơn.
1.2.2.2. Chính sách và cơ chế quản lý
Đây là yếu tố rất quan trọng ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động của các
doanh nghiệp vừa và nhỏ. Một chính sách và cơ chế đúng đắn hợp lý sẽ tạo ra
môi trường thuận lợi cho sự phát triển của các doanh nghiệp vừa và nhỏ. So
với các doanh nghiệp lớn, các DNVVN có những bất lợi trong kinh doanh của
môi trường cạnh tranh gay gắt như hiện nay. Khi sự cạnh tranh trên thị trường
được quyết định bởi các tập đoàn kinh doanh lớn. Các tập đoàn kinh doanh
này khống chế thị trường. Vì vậy, hầu hết các nước đều phải có những chính
sách ưu tiên hỗ trợ cho sự phát triển của các DNVVN. Ở Việt Nam có các
chính sách hỗ trợ như:
Thông tư số 01/2006/TT - HNN ngày 20 tháng 02 năm 2006 của Ngân
hàng nhà nước Việt Nam hướng dẫn một số nội dung về góp vốn thành lập
quỹ bảo lãnh tín dụng cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ, Chỉ thị số
40/2005/CT - TTg ngày 16 tháng 12 năm 2005 của Thủ Tướng chính phủ về
việc tiếp tục đẩy mạnh công tác trợ giúp phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Các DNVVN thường xuyên bị đe dọa của các lực lượng cạnh tranh
hùng mạnh, to lớn trên thị trường. Nếu không có sự hỗ trợ giúp đỡ của nhà
nước sẽ khó có khả năng tồn tại và phát triển do khả năng nghiên cứu thị
trường thấp và thường phải phụ thuộc rất lớn vào hoạt động, chiến lược của
các doanh nghiệp lớn.
Chính sách ưu tiên phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ đã trở thành
một chính sách phổ biến và được thực tế khẳng định tính đúng đắn của nó qua
thực tiễn phát triển kinh tế - xã hội của các nước trên thế giới kể cả ở những
nước công nghiệp phát triển. Chính sách và cơ chế sẽ tạo ra môi trường pháp
lý và những điều kiện cụ thể cần thiết để các doanh nghiệp vừa và nhỏ có khả
năng phát triển một cách tự do, không bị sự chèn ép thiếu công bằng của các
lực lượng lớn. Ngoài ra chính sách và cơ chế còn tạo ra sự kết hợp chặt chẽ
18
giữa các doanh nghiệp lớn, vừa và nhỏ trong phát triển nền kinh tế của mỗi
nước. Phát huy sức mạnh tổng thể của toàn bộ nền kinh tế và của từng khu
vực. Những chính sách ưu tiên, những cơ chế hợp lý, kể cả những quy định về
giới hạn dưới và trên của từng loại hình doanh nghiệp sẽ là cơ sở đánh giá, để
chính phủ mỗi nước đưa ra những quy định về ưu tiên. Những quy định này
ảnh hưởng trực tiếp tới sự tồn tại và khả năng phát triển của các DNVVN.
Những ưu tiên về vốn tín dụng, chế độ thuế, sử dụng công nghệ, quy chế mối
quan hệ giữa các loại hình doanh nghiệp thuộc các loại quy mô khác nhau kể
cả chính sách chống độc quyền đều tác động đến hoạt động của các DNVVN.
Các chính sách đất đai, chính sách lãi suất, đào tạo… tạo ra những điều kiện
cần thiết quan trọng hỗ trợ các DNVVN phát triển và thực hiện được những
nhiệm vụ kinh tế - xã hội to lớn đặt ra đối với khu vực này.
Trong điều kiện Việt Nam hiện nay, cơ chế, chính sách đang được từng
bước hoàn thiện nhằm tạo điều kiện và môi trường pháp lý cần thiết, thuận lợi
cho các doanh nghiệp hoạt động. Tuy nhiên, hệ thống chính sách vẫn còn
nhiều bất cập, thiếu, không đồng bộ và cơ chế khuyến khích DNVVN chủ yếu
vẫn tập trung vào doanh nghiệp nhà nước. Trong thực tế vẫn còn sự phân biệt
đối xử trong việc cho vay tín dụng giữa khu vực ngoài quốc doanh và khu vực
nhà nước. Tất cả những yếu tố đó gây ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động
của các DNVVN ở nước ta.
1.2.2.3. Đội ngũ các nhà sáng lập và quản lý doanh nghiệp
Sự xuất hiện và khả năng phát triển của mỗi doanh nghiệp phụ thuộc rất
lớn vào những người sáng lập ra chúng. Do đặc thù là số lượng DNVVN rất
nhiều và thường xuyên phải thay đổi để thích nghi với môi trường kinh
doanh, phản ứng với những tác động bất lợi do sự phát triển, xu hướng tích tụ
và tập trung hóa sản xuất. Sự sáp nhập, giải thể và xuất hiện của các DNVVN
thường xuyên diễn ra trong mọi giai đoạn. Đó là một sức ép lớn buộc những
người sáng lập và quản lý các doanh nghiệp vừa và nhỏ phải có tính linh hoạt
19
cao trong quản lý điều hành, dám nghĩ, dám làm, chấp nhận mạo hiểm. Chính
vì vậy, số lượng và chất lượng đội ngũ các nhà khởi sự doanh nghiệp dám
nghĩ, dám làm, chấp nhận rủi ro, đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh từ
những nguồn vốn hạn hẹp, nhỏ bé có ảnh hưởng lớn đến phương hướng, tốc
độ phát triển của các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong mỗi quốc gia.
Sự có mặt của các nhà khởi sự doanh nghiệp này cùng với khả năng và
trình độ, nhận thức của họ về tình hình thị trường, khả năng nắm bắt cơ hội
kinh doanh sẽ tác động to lớn đến hoạt động của từng DNVVN. Họ luôn là
những người đi đầu trong đổi mới, dám tìm kiếm những phương hướng mới,
đặt ra những nhiệm vụ chuyển đổi cho thích hợp với môi trường kinh doanh.
Đội ngũ các nhà kinh doanh có khả năng, có kiến thức và có quyết tâm, sẵn
sàng chấp nhận rủi ro tham gia đầu tư sản xuất kinh doanh. Đối với mỗi quốc
gia, sự phát triển kinh tế phụ thuộc rất lớn vào sự có mặt của đội ngũ này.
Việc xây dựng đội ngũ các nhà sáng lập là nhiệm vụ quan trọng đối với mỗi
quốc gia. Đây cũng là một khâu yếu trong chiến lược phát triển của các
DNVVN ở nước ta trong những năm qua. Phần lớn các chủ DNVVN chưa
được đào tạo bài bản, chủ yếu hoạt động dựa trên kinh nghiệm. Thiếu những
kiến thức cơ bản về kinh tế thị trường và chưa được hỗ trợ những thông tin
cần thiết. Nhà nước chưa xác định chiến lược và quy hoạch phát triển đội ngũ
các chủ doanh nghiệp. Đây là nguyên nhân cơ bản làm cho khả năng cạnh
tranh và vươn lên của các DNVVN ở Việt Nam còn yếu kém.
1.2.2.4. Sự phát triển và khả năng ứng dụng tiến bộ công nghệ
Sự phát triển của khoa học công nghệ và đặc biệt là công nghệ thông
tin đã mở ra khả năng rộng lớn hơn cho sự phát triển của các DNVVN. Một
mặt nó tạo điều kiện và khả năng cho các doanh nghiệp có thể trang bị kỹ
thuật hiện đại hơn, năng động, linh hoạt hơn trong việc lựa chọn và đưa vào
ứng dụng và khai thác công nghệ mới. Quy mô nhỏ nhưng khả năng sản xuất
cao hơn, nhanh hơn, rẻ hơn nhờ công nghệ mới ứng dụng được trong
20
DNVVN. Mặt khác nó tạo ra khả năng liên kết chặt chẽ với nhau hơn, đặc
biệt là khả năng nắm bắt thông tin và khả năng điều hành từ xa từ một trung
tâm đối với các DNVVN. Sự phát triển của công nghệ nói chung và công
nghệ thông tin nói riêng đã ảnh hưởng lớn đến xu hướng phát triển của các
DNVVN, đến sự thay đổi về tổ chức sản xuất và phương pháp điều hành
trong các doanh nghiệp lớn.
Phát triển các DNVVN, phân bố rộng khắp ngay tại thị trường tiêu thụ
nhưng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau trong một tổ chức thống nhất có cơ
cấu lỏng hoặc cứng đã và đang trở thành xu thế phát triển của các doanh
nghiệp hiện nay. Với hình thức tổ chức này sẽ kết hợp được lợi thế của doanh
nghiệp có sự tập trung phối hợp các nguồn lực với DNVVN tạo ra một hệ
thống sản xuất linh hoạt đáp ứng nhanh, kịp thời những đòi hỏi của thị trường.
Trình độ và khả năng ứng dụng công nghệ hiện đại của các doanh nghiệp vừa
và nhỏ ở Việt Nam có nhiều hạn chế là một trong những nhân tố quan trọng
ảnh hưởng đến năng suất, chất lượng và hiệu quả của chúng. Qua một cuộc
khảo sát toàn bộ các doanh nghiệp ở 30 tỉnh, thành phố phía bắc (từ Quảng
Bình trở ra) do Trung tâm hỗ trợ DNVVN tại Hà Nội (Bộ Kế hoạch và Đầu
tư) với sự tài trợ về kinh phí và kinh nghiệm của Cơ quan hợp tác quốc tế
Nhật Bản (JICA) cho thấy nhóm doanh nghiệp có trình độ tiên tiến và nhóm
doanh nghiệp có trình độ công nghệ lạc hậu là tương đương, chiếm 12%;
nhóm doanh nghiệp có trình độ công nghệ trung bình là 76%. Nếu gộp nhóm
doanh nghiệp có trình độ công nghệ lạc hậu và trung bình với nhau thì nhóm
doanh nghiệp có trình độ công nghệ trung bình, lạc hậu chiếm 88%. Đây là
một con số quá lớn.
Ngoài những khó khăn về vốn là một trong những nguyên nhân dẫn
đến công nghệ lạc hậu, chậm đổi mới trong các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở
Việt Nam, còn có khó khăn nữa là do chưa quan tâm đúng mức tới phát triển
công nghệ, thiếu thông tin về công nghệ và trình độ tiếp nhận, khai thác công
21
nghệ mới của đội ngũ lao động còn hạn chế.
1.2.2.5. Tình hình thị trường
Trước hết tình hình và tính chất cạnh tranh trên từng thị trường sẽ tác
động trực tiếp tới hoạt động của các DNVVN. Một thị trường cạnh tranh gay
gắt với các doanh nghiệp lớn là chủ yếu, cộng với môi trường luật pháp không
hoàn hảo sẽ là khó khăn lớn cho sự tồn tại và phát triển của các DNVVN.
Trong thị trường này, nếu có sự liên kết giữa các doanh nghiệp lớn thì khả
năng hoạt động của các DNVVN rất khó khăn, thậm chí khó có thể tồn tại. Vì
vậy, tính chất cạnh tranh trên thị trường là yếu tố quan trọng ảnh hưởng tới
hoạt động của các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Mặt khác, tính chất, quy mô, nhu cầu sẽ là yếu tố thứ hai trong thị
trường tác động trực tiếp tới các hoạt động của các DNVVN. Thị trường với
nhu cầu đa dạng, thay đổi nhanh, khối lượng nhu cầu không lớn sẽ là điều
kiện thuận lợi cho hoạt động của các DNVVN. Ngược lại, thị trường dung
lượng lớn, chủng loại ít, tương đối ổn định sẽ là cơ sở cho các doanh nghiệp
lớn tham gia, tăng cường tính cạnh tranh, làm khó khăn cho hoạt động của các
DNVVN. Với đặc điểm của sự phát triển nhu cầu hiện nay theo hướng nhu
cầu ngày càng đa dạng, nhiều chủng loại, khối lượng không nhiều nhưng thay
đổi nhanh là một thuận lợi lớn cho các DNVVN phát triển hoạt động có hiệu
quả. Thị trường là một vấn đề nan giải và khó khăn nhất cho các DNVVN ở
nước ta, bao gồm cả thị trường đầu vào và thị trường đầu ra. Do thị trường
nước ta còn phát triển ở trình độ chưa cao, nhu cầu thấp, đặc biệt ở các vùng
nông thôn. Hơn nữa, sản phẩm nhập lậu, trốn thuế gây khó khăn không nhỏ
cho hoạt động của các DNVVN. Việc quản lý thị trường đầu ra còn nhiều sơ
hở, buông lỏng tạo điều kiện cho các đối tượng làm ăn phi pháp phát triển,
còn các doanh nghiệp hoạt động trung thực sẽ khó khăn vì cạnh tranh không
lành mạnh. Thị trường các yếu tố đầu vào như đất đai, vốn đang là khó khăn
22
lớn, là những thách thức đặt ra đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
1.3. Kinh nghiệm về phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ của một
số nƣớc và một số địa phƣơng ở nƣớc ta
1.3.1. Kinh nghiệm về phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ của một
số nước
Ở hầu hết các nước trên thế giới, dù là nước phát triển cũng như đang
phát triển, họ đều dành sự quan tâm và hỗ trợ đặc biệt cho loại hình DNVVN.
Loại hình DN này được đánh giá là những “hạt nhân” của những hoạt động có
tính chất đổi mới và đóng vai trò quan trọng trong một cơ cấu kinh tế năng
động. Chính vì vậy, các chính sách và biện pháp của Nhà nước đều nhằm vào
thúc đẩy quá trình ra đời và phát triển loại hình DN này. Chúng ta có thể tham
khảo kinh nghiệm thành công của một số nước trên thế giới.
1.3.1.1. Cộng hòa Liên bang Đức
Ở CHLB Đức, DNVVN tập trung chủ yếu trong ngành tiểu thủ công
nghiệp có truyền thống lâu đời, hiện nay có khoảng 700.000 DN, tổng số lao
động khoảng 4,8 triệu người, tạo ra giá trị tổng sản phẩm bằng khoảng 10%
GDP của cả nước [8, tr.36].
Mặc dầu CHLB Đức đã có một nền công nghiệp phát triển mạnh, với
nhiều DN lớn nhưng DNVVN vẫn có vai trò quan trọng như góp phần tăng
trưởng kinh tế; tạo việc làm, giải quyết nạn thất nghiệp; bảo vệ và phát huy
các ngành nghề thủ công truyền thống… Cũng như nhiều nước Châu Âu
khác, các DNVVN ở CHLB Đức gặp không ít khó khăn và bất lợi cho chính
quy mô nhỏ gây ra. Do đó DNVVN cần có sự hỗ trợ từ phía Chính phủ. Sự hỗ
trợ các DNVVN ở CHLB Đức được quan tâm từ rất lâu, thể hiện từ các mặt:
Thứ nhất, Nhà nước tạo ra môi trường pháp lý cho DNVVN hoạt động.
Do DNVVN ở Cộng hòa Liên bang Đức chủ yếu thuộc ngành tiểu thủ công
nghiệp, nên năm 1953 Quốc hội CHLB Đức đã thông qua quy chế tiểu thủ
23
công nghiệp, quy định về mặt pháp lý từ khái niệm, nội dung hoạt động , các
điều khoản liên quan quy định những ngành nghề gì được coi là tiểu thủ công
nghiệp. Năm 1976, Chính phủ Đức đã thông qua “Các nguyên tắc trong chính
sách cơ cấu đối với kinh doanh vừa và nhỏ”. Năm 1980, một số văn bản pháp
quy cho phép DNVVN được hưởng hơn 180 loại ưu đãi ra đời,…
Thứ hai, tổ chức hoạt động tư vấn cho DNVVN như tư vấn về quản lý
kinh doanh, tư vấn về pháp lý, tư vấn về thuế, về đào tạo nghề, về kỹ thuật,…
Thứ ba, hỗ trợ về tài chính, Nhà nước giúp DNVVN bằng chính sách
tài chính thông qua con đường tín dụng và trợ cấp; hình thành hoạt động bảo
lãnh vay tín dụng; hỗ trợ kinh phí cho tư vấn và đào tạo; áp dụng ưu đãi về
thuế,… để tạo cho các DNVVN tự chủ tài chính.
Thứ tư, hỗ trợ về đào tạo, ở CHLB Đức có hệ thống dạy nghề dưới
hình thức liên doanh nhà máy với trường học. Các DN có chức năng và nghĩa
vụ đào tạo miễn phí cho công nhân. Kinh phí cho dạy nghề một phần nhỏ do
Ngân sách của Chính phủ liên bang chi, phần lớn do các DN đóng góp.
1.3.1.2. Đài Loan
Đài Loan đặc biệt coi trọng các DNVVN. Sự tăng trưởng kinh tế siêu tốc
của Đài Loan trong những thập kỷ vừa qua gắn liền với những đóng góp to lớn
về mọi mặt của DNVVN, đặc biệt trong lĩnh vực tạo việc làm và xuất khẩu.
Với vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế, các DNVVN ở Đài Loan
luôn được sự quan tâm, hỗ trợ của Nhà nước để phát triển. Các cơ quan, tổ
chức hỗ trợ phát triển được lập như: Thiết lập các cơ cấu chuyên trách để thúc
đẩy sự phát triển của DNVVN (1954); thành lập các ngân hàng chuyên
nghiệp cung cấp vốn và tín dụng cho các DNVVN (1964); thành lập Bộ kinh
tế của các DNVVN (1970), thành lập Trung tâm dịch vụ DNVVN ở các địa
phương, Trung tâm giải pháp nhanh, Trung tâm đào tạo DNVVN,…
Qua gần nửa thế kỷ đến nay, Đài Loan đã hình thành được một hệ
24
thống chính sách và biện pháp trợ giúp DNVVN tương đối ổn định. Hệ thống
này đã được thể chế hóa bởi văn bản “Đại cương các chính sách và biện pháp
nhằm vào các DNVVN” do Cục quản lý DNVVN phát hành. Theo văn bản
này, khuôn khổ chính sách và biện pháp trợ giúp DNVVN của Đài Loan tập
trung vào ba nhóm lớn. Đó là:
- Xây dựng môi trường kinh doanh tối ưu: Duy trì sự cạnh tranh công
bằng hợp lý, cải thiện hệ thống tài chính, giúp DNVVN cải thiện điều kiện lao
động và môi trường,…
- Thúc đẩy sự hợp tác giữa các DNVVN và giữa các DNVVN với các
DN lớn.
- Thúc đẩy sự tăng trưởng độc lập của DN: Trợ giúp các DN tối ưu hóa
quản lý, thành lập DN mới, thúc đẩy các hãng hoạt động ở nước ngoài,…
Mỗi chính sách lớn trên đều được thực hiện bởi nhiều biện pháp cụ thể.
Một số biện pháp nổi bật đang được Chính phủ Đài Loan thực hiện để trợ
giúp các DNVVN hiện hành là:
- Xây dựng và hoàn thiện khung pháp lý hỗ trợ giúp cho sự phát triển
của các DNVVN, thành lập “Nhóm đặc trách thúc đẩy DNVVN” có chức
năng soát xét và kiến nghị sửa đổi luật lệ để tạo điều kiện thuận lợi nhất cho
các DNVVN,…
- Thành lập các quỹ trợ giúp tài chính cho các DNVVN gồm Quỹ bảo
lãnh tín dụng cho DNVVN, Quỹ bảo lãnh tương hỗ, Quỹ phát triển DNVVN
và Tập đoàn pháp triển DNVVN. Ngoài ra các DNVVN còn được nhận các
khoản vay đặc biệt nhằm vào các mục đích như giảm ô nhiễm, giảm chi phí
hoạt động,… thông qua nhiều quỹ đặc biệt là Chính phủ.
- Hình thành hệ thống tư vấn DN cho các DNVVN, bao gồm: Hệ thống
hướng dẫn tài chính và tín dụng, hệ thống hướng dẫn quản lý,…
Với bối cảnh mới của nền kinh tế Đài Loan hiện nay đang dần chuyển
25
sang một giai đoạn phát triển dựa trên các ngành sử dụng nhiều vốn và tri
thức, tầm quan trọng tương đối của các DNVVN trong nền kinh tế Đài Loan
có phần suy giảm, sức mạnh cạnh tranh giảm. Song với tính chất linh hoạt,
cùng với hệ thống chính sách trợ giúp thích hợp của Chính phủ, các DNVVN
Đài Loan hoàn toàn có khả năng thích ứng và tiếp tục phát triển.
1.3.1.3. Nhật Bản
Hình thức tổ chức DN của Nhật Bản ra đời cách đây 100 năm với hai
loại chính: Hình thức tổ chức kiểu “cái ô” và hình thức tổ chức “mắt xích”.
Cả hai hình thức tổ chức DN này rất phù hợp với loại hình DNVVN. Do vậy
loại hình này phát triển rất sớm ở Nhật Bản và đã khẳng định được vai trò của
mình trong đời sống kinh tế - xã hội Nhật Bản. Trên cơ sở nhận thức đúng vai
trò của các DNVVN trong nền kinh tế, Nhà nước Nhật Bản đã ban hành nhiều
chính sách nhằm phát triển DNVVN. Có thể phân chia chính sách phát triển
DNVVN thành hai nhóm chính:
Một là, hỗ trợ để tăng cường năng lực kinh doanh của DNVVN: cho
vay vốn qua tín dụng nhà nước, cải thiện về vốn qua các CTCP, định thuế ưu
đãi,…
Hai là, hỗ trợ thay đổi cơ cấu, bao gồm các biện pháp hỗ trợ cho việc
tạo ra môi trường kinh doanh mới; hỗ trợ phát triển kỹ thuật;…
Toàn bộ việc thực hiện các chính sách giúp đỡ DNVVN được thực hiện
bởi hoạt động của Liên đoàn các DN nhỏ của Nhật Bản (JSBC).
Từ đầu năm 1990 đến nay, nền kinh tế Nhật Bản lâm vào suy thoái. Đặc
biệt gần đây, với sự phát triển nhanh của quá trình toàn cầu hóa kinh tế, sự phát
triển kinh tế tri thức,… đã làm cho DNVVN gặp không ít khó khăn, song khu
vực DN này với những ưu việt vốn có cộng với các chính sách trợ giúp của
Chính Phủ sẽ tiếp tục phát triển mạnh và sẽ trở thành một nguồn lực năng động
26
tạo đà cho sự phục hồi và tăng trưởng mới của nền kinh tế Nhật Bản.
1.3.2. Kinh nghiệm về phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ của một
số địa phương ở nước ta
1.3.2.1. Tỉnh Bình Dương
Bình Dương là một tỉnh ở miền Đông Nam Bộ, là một trong những tỉnh
có tăng trưởng kinh tế cao vào loại bậc nhất cả nước; tốc độ tăng trưởng GDP
bình quân giai đoạn 1991 - 1995 là 17,52%, giai đoạn 1996-2000 là 13,5%, từ
năm 2000 đến năm 2010 khoảng trên 10%. Những thành tựu Bình Dương đạt
được là nhờ sự đóng góp đáng kể của loại hình DNVVN (chiếm trên 98%
tổng số DN của cả tỉnh). Tác động to lớn của các DNVVN đối với kinh tế - xã
hội của tỉnh được thể hiện:
- Góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế của tỉnh theo hướng CNH,
HĐH; giảm mạnh tỷ trọng giá trị nông nghiệp, tăng tỷ trọng công nghiệp và
dịch vụ.
- Phát huy mọi tiềm năng về đất đai, lao động, ngành nghề truyền thống
và nguồn vốn trong dân để phát triển kinh tế của tỉnh: thu hút được hàng ngàn
tỷ đồng. Các DNVVN trong công nghiệp, dịch vụ đã tạo việc làm cho hơn
120.000 người (tính đến cuối năm 2010); các DNVVN đóng góp khoảng 50%
GDP của tỉnh.
- DNVVN góp phần nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân
dân. Thu nhập bình quân đầu người năm 1997 đạt 5,6 triệu đồng thì năm 2010
đạt 15 triệu đồng; năm 2000 còn 6% hộ nghèo thì nay chỉ còn 4% hộ nghèo
(theo tiêu chí mới), không có hộ đói.
Mặc dù có tác động không nhỏ đến sự phát triển kinh tế - xã hội của
tỉnh nhưng các DNVVN ở Bình Dương cũng gặp không ít khó khăn như hoạt
động tự phát, phân tán, sức cạnh tranh yếu nên khó thích ứng với sự biến
động của thị trường; thiết bị công nghệ còn lạc hậu vừa gây hạn chế chất
lượng sản phẩm, vừa gây ô nhiễm môi trường, tỷ lệ đầu tư đổi mới công nghệ
27
chưa quá 15% doanh thu; trình độ quản lý kinh doanh của các chủ DN nhìn
chung còn nhiều hạn chế, có đến 32% chủ DN chưa qua đào tạo hoặc chỉ qua
một lớp học quản lý ngắn hạn;…
Nhận thấy được sự tầm quan trọng của DNVVN cũng như những khó
khăn mà các DNVVN gặp phải, lãnh đạo tỉnh Bình Dương đã có sự quan tâm
thích đáng đối với sự phát triển của DNVVN; đã có nhiều chủ trương và
chính sách thông thoáng nhằm phát huy nội lực, thu hút ngoại lực để phục vụ
chiến lược phát triển của tỉnh với khẩu hiệu “Trải tảm đỏ mời khách đầu tư”
như xây dựng các khu công nghiệp tập trung để kêu gọi đầu tư; tiến hành cải
cách thủ tục hành chính theo mô hình “một cửa”, tập trung đầu mối xét và cấp
giấy phép đầu tư cho Sở Kế hoạch và Đầu tư với thủ tục nhanh, gọn; tạo điều
kiện thuận lợi để các DN được tiếp xúc dễ dàng với các nhà lãnh đạo chủ chốt
của tỉnh để trình bày các khó khăn trong quá trình đầu tư và nhờ đó khó khăn
được tháo gỡ kịp thời.
1.3.2.2. Tỉnh Bắc Ninh
Cũng như nhiều địa phương khác, DNVVN ở Bắc Ninh chiếm tỷ trọng
rất lớn trong tổng số DN của tỉnh, gần 97% số DN và Công ty tư nhân, 93%
DNNN địa phương, 100% HTX… thuộc loại DNVVN và có mặt trong nhiều
ngành, nghề khác nhau. Vai trò của các DNVVN thể hiện trên các mặt:
- Tạo thêm nhiều việc cho người lao động, giảm tỷ lệ thất nghiệp, trên
cơ sở đó góp phần tăng thu nhập dân cư, đa dạng hóa các nguồn thu nhập.
- Thu hút vốn vào SXKD: Theo số liệu của tỉnh, vốn đầu tư của các
DNVVN ngoài quốc doanh và đầu tư của dân cư năm 2010 chiếm hơn 50,2%
tổng số vốn đầu tư trên địa bàn tỉnh.
- Các DNVVN đóng góp không nhỏ vào GDP, tăng trưởng kinh tế của
tỉnh. Chỉ tính riêng trong công nghiệp, các DNVVN chiếm trên 40% giá trị
sản xuất công nghiệp toàn tỉnh. Các cơ sở sản xuất trong các làng nghề của
28
tỉnh hàng năm đã tạo ra của cải trị giá trên 300 tỷ đồng.
- Các DNVVN góp phần làm cho nền kinh tế năng động và hiệu quả,
đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu của thị trường.
Bên cạnh những thuận lợi, những kết quả đạt được, trong quá trình phát
triển các DNVVN còn gặp phải nhiều khó khăn trở ngại. Ngoài những khó
khăn, trở ngại từ phía bản thân, các DNVVN còn gặp phải khó khăn, trở ngại
từ phía môi trường, từ phía các cơ quan nhà nước như chưa thật sự bình đẳng
giữa các DN; việc cung cấp thông tin cho các DNVVN chưa được chú trọng;
việc quy hoạch các khu công nghiệp chưa tính đến vấn đề môi trường trong
dài hạn nên có thể xảy ra tình trạng ô nhiễm; việc định hướng, hướng dẫn các
DN của một số cơ quan chức năng còn lúng túng và còn yếu; sự hỗ trợ cho
các DNVVN từ phía các cấp chính quyền có lúc, có nơi còn chưa được chú
trọng đúng mức; sự phối hợp giữa các cơ quan quản lý chưa ăn khớp;… Do
đó, để thúc đẩy phát triển DNVVN tỉnh Bắc Ninh, các cấp chính quyền, các
sở, ban, ngành của tỉnh đã quán triệt Nghị quyết Trung ương 5 (khóa IX) tiếp
tục đổi mới chính sách hỗ trợ, tạo điều kiện thuận lợi cho các DNVVN phát
29
triển.
Chƣơng 2
THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ
Ở THỊ XÃ SƠN TÂY GIAI ĐOẠN 2000 - 2010
2.1. Điều kiện kinh tế - xã hội của thị xã Sơn Tây - tiềm năng cho sự
phát triển của các doanh nghiệp vừa và nhỏ
2.1.1. Về nguồn lực tự nhiên
Thị xã Sơn Tây là trung tâm hành chính, chính trị, kinh tế, văn hóa xã
hội của tỉnh Sơn Tây trước đây và là một địa bàn vệ tinh nhiều tiềm năng của
thủ đô Hà Nội hiện nay. Trải qua những lần nhập và tách địa giới hành chính
cấp tỉnh, thị xã tiếp tục khẳng định được vai trò là trung tâm kinh tế - văn hóa
khu vực phía tây bắc của tỉnh Hà Tây trước đây và nay là thủ đô Hà Nội.
Những năm gần đây, thị xã Sơn Tây đang chuyển mình với những bước đi
vững chắc, tiếp tục thu hút các dự án phát triển kinh tế- xã hội trong đó có các
doanh nghiệp vừa và nhỏ, xây dựng cơ sở hạ tầng theo hướng văn minh, hiện
đại, mang tầm vóc của một đô thị du lịch, dịch vụ và công nghiệp phát triển
bền vững.
Thị xã Sơn Tây thuộc vùng trung du, trong đó có 3/4 diện tích là đồi
gò, nối liền với vùng núi huyện Ba Vì, trải dài thoai thoải từ Tây Bắc đến
Đông Nam khu vực phụ cận núi Tản Viên đến ven sông Tích là đất đồi gò.
Khu vực từ nội thị đến đê sông Hồng là vùng đồng bằng tương đối màu mỡ
do thường xuyên được phù sa sông Hồng bồi đắp.
- Thị xã Sơn Tây có nhiều thuận lợi cả về đường thủy và đường bộ,
cách trung tâm thủ đô Hà Nội hơn 40km có Quốc lộ 11A nay là Quốc lộ 32
chạy qua đến cầu Trung Hà, nối Hà Nội với các tỉnh Tây Bắc. Quốc lộ 21A từ
Sơn Tây đi qua một số huyện như Thạch Thất, Quốc Oai, Chương Mỹ, qua
Lạc Thủy (Hòa Bình) rồi đi vào Ninh Bình, Thanh Hóa. Các tỉnh lộ 413, 414,
30
416, 417, 418 nối Thị Xã với các huyện Ba Vì, Phúc Thọ, Thạch Thất. Bên
cạnh việc bồi đắp phù sa và cung cấp nước tưới tiêu cho cả vùng phía tây Hà
Nội, sông Hồng được coi là huyết mạch giao thông đường thủy, ngược lên nối
liền với các tỉnh phía Bắc, xuôi về kết nối với thủ đô Hà Nội và các tỉnh phía
Nam. Cảng Sơn Tây cũng đang được lập quy hoạch, triển khai các dự án đầu
tư xây dựng kết cấu hạ tầng. Hiện tại, đường cao tốc Láng - Hòa Lạc đã được
mở rộng, nâng cấp liên kết Hà Nội với khu công nghệ cao Hòa Lạc, Trường
Đại học Quốc Gia, Làng văn hóa du lịch các dân tộc Việt Nam và thị xã Sơn
Tây. Đặc biệt việc đầu tư, nâng cấp Quốc lộ 21A, đường tránh Quốc lộ 32,
đường từ Thành Cổ - Đền và đến khu di tích lịch sử - văn hóa Đường Lâm,
cầu Vĩnh Thịnh, đường Hoàng Quốc Việt kéo dài, dự án tiếp nước, cải tạo,
khôi phục sông Tích… sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của Thị Xã
trong đó có các DNVVN.
- Sơn Tây là địa phương có nhiều danh lam thắng cảnh, có nhiều di tích
lịch sử, có tiềm năng lớn về du lịch, là một trong những trọng điểm du lịch
quốc gia. Tài nguyên du lịch của thị xã Sơn Tây khá phong phú và đa dạng,
có thể đáp ứng nhu cầu cho du khách du lịch trên nhiều mặt: lịch sử, văn hóa,
thiên nhiên kỳ thú với 172 di tích, trong đó có 63 di tích đã được xếp hạng.
Tiêu biểu là: Thành Cổ Sơn Tây, đền Và (Trung Hưng), đình Mông Phụ, đền
thờ Phùng Hưng, Lăng Ngô Quyền, chùa Mía, Văn Miếu (Đường Lâm); đàn
Xuyên Sơn, đền Tiên Nông (Viên Sơn), đền Măng (Sơn Đông)… đặc biệt là
Làng cổ Đường Lâm được coi là một trong những ngôi làng cổ nhất, kết tinh
hàng nghìn năm lịch sử của nền văn minh sông Hồng, là ngôi làng cổ đầu tiên
của đất nước được công nhận Di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia; là làng duy
nhất của Việt Nam sinh ra hai vị vua, anh hùng dân tộc Phùng Hưng, Ngô
Quyền cùng nhiều bậc quốc sĩ làn rạng danh cho quê hương đất nước.
Đặc biệt các địa danh nổi tiếng kể trên lại ở ngay Thị Xã hoặc liền kề
với các cụm công nghiệp trong đó có các DNVVN. Sự gắn bó giữa thiên
31
nhiên có vị trí cảnh quan đẹp, các địa danh và di tích lịch sử với các cụm công
nghiệp đang hình thành và phát triển, là động lực thúc đẩy ngành công nghiệp
không khói của thị xã Sơn Tây phát triển vượt bậc trong giai đoạn sắp tới.
2.1.2. Điều kiện kinh tế - xã hội.
Hiện nay cộng đồng các doanh nghiệp Việt Nam nói chung và cộng
đồng các doanh nghiệp trên địa bàn thị xã Sơn Tây nói riêng có nhiều thuận
lợi để tăng trưởng, phát triển kinh tế. Tình hình giá cả thế giới và khu vực lên
cung khá thấp, kinh tế của cả nước được dự báo tăng trưởng khá cao, xu
hướng chuyển dịch nguồn vốn bên ngoài đầu tư vào địa bàn thủ đô Hà Nội có
chiều hướng tăng lên trong đó có thị xã Sơn Tây được lựa chọn là địa bàn thu
hút đầu tư có nhiều tiềm năng và triển vọng.
Thực hiện nghị quyết lần thứ XIX của Đảng bộ thị xã Sơn Tây về phát
triển kinh tế; Ban chấp hành Đảng bộ thị xã Sơn Tây đã ban hành Nghị quyết
số 14 - NQ/TU ngày 31/8/2011 về tiếp tục đẩy mạnh phát triển công nghiệp,
trung tâm công nghiệp đến năm 2015; Nghị quyết số 15-NQ/TU về tiếp tục
đẩy mạnh phát triển thương mại, du lịch, dịch vụ đến năm 2015; các nghị
quyết đã đề ra các nhiệm vụ, giải pháp cụ thể và các cơ chế ưu tiên, khuyến
khích thu hút đầu tư để phát triển kinh tế xã hội của địa phương.
Mặt khác, các DNVVN trên địa bàn Thị Xã hiện đang sản xuất kinh
doanh các sản phẩm chủ yếu phục vụ nhu cầu người tiêu dùng trong nước đã
chiếm được niềm tin của khách hàng và có thị phần ổn định trên thị trường.
Điển hình như Công ty cổ phần Sơn Tây, Công ty cổ phần Thêu ren Ngọc
Kiên… Bên cạnh đó đội ngũ doanh nhân quản lý các doanh nghiệp của Thị xã
không ngừng lớn mạnh về mọi mặt được xác định là yếu tố quan trọng để
thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ phát triển kinh tế.
- Về công tác quy hoạch.
Thực hiện Nghị quyết số 1029/QĐ - UBND ngày 13/10/2004 của
32
UBND tỉnh Hà Tây (trước đây) phê duyệt quy hoạch chung thị xã Sơn Tây và
một số quy hoạch xây dựng khu, cụm điểm công nhiệp, quy hoạch phát triển
kinh tế xã hội, UBND Thị xã đã triển khai thực hiện cụ thể:
+ Điểm công nghiệp Phú Thịnh (8,5 ha - nay đổi tên thành cụm công
nghiệp làng nghề Phú Thịnh): Đã triển khai quy hoạch, xây dựng cơ sở hạ
tầng xong đến nay đã có 12 doanh nghiệp, hộ kinh doanh thuê đất đi vào hoạt
động ổn định. UBND Thị xã đã thành lập Ban quản lý cụm công nghiệp làng
nghề Phú Thịnh để hỗ trợ các doanh nghiệp phát triển đặc biệt là các DNVVN
vì nó phù hợp với làng nghề.
+ Điểm công nghiệp Sơn Đông được quy hoạch xây dựng với quy mô
60 ha.
+ Cụm công nghiệp Xuân Sơn - Thanh Mỹ giai đoạn 1 xây dựng cụm
công nghiệp có quy mô 100ha, giai đoạn 2 mở rộng thành khu công nghiệp
200 ha.
- Về công tác khuyến công dạy nghề, phát triển làng nghề, làng có nghề
Được sự hỗ trợ kinh phí của Sở Công thương, Chi cục phát triển nông
thôn kết hợp với kinh phí hỗ trợ cho công tác khuyến công của UBND Thị xã
sự phối hợp của các Doanh nghiệp nên công tác khuyến công dạy nghề trên
địa bàn xã, phường đã được đẩy mạnh và nhân cấy được một số nghề mới tạo
thêm được nhiều việc làm cho người lao động. Trong 5 năm từ 2005 - 2010
công tác khuyến công dạy nghề, nhân cấy nghề được quan tâm Thành phố và
Thị xã đã hỗ trợ 4.051,4 triệu đồng, mở 155 lớp cho 7.943 học viên, giải
quyết việc làm cho 6.754 lao động; trong đó có các DNVVN đã tham gia dạy
nghề khuyến công và tuyển dụng 4.327 lao động sau khi đào tạo.
Thị xã đã xây dựng được thêm 2 làng nghề là làng nghề bánh tẻ Phú
Nhi (phường Phú Thịnh) và làng nghề thêu ren Ngọc Kiên. Một số xã,
phường, DNVVN đã quan tâm mở các lớp dạy nghề nhiều ngành nghề được
duy trì và phát triển như: đồ gỗ, may mặc, thêu, kẹo thủ công, thêu đính
33
cườm, chiếu trúc… Đến nay, toàn Thị xã 70% tổng số làng, khu phố có nghề.
- Về công tác thu hút đầu tư, tài chính - ngân hàng.
UBND Thị xã đã tạo điều kiện thuận lợi để khuyến khích đầu tư vào địa
bàn. Trong 5 năm trở lại đây thu hút được 38 dự án đầu tư với tổng diện tích
đất cho thuê 152,93ha với tổng vốn đầu tư gần 400 tỷ đồng. Nâng tổng số đến
nay lên 80 dự án đầu tư vào địa bàn Thị xã, tạo việc làm thường xuyên cho
hàng ngàn lao động, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của Thị xã.
Hoạt động tín dụng - ngân hàng cũng được mở rộng và phát triển. Tổng
huy động vốn của các ngân hàng trên địa bàn Thị xã đạt trên 5.500 tỷ đồng,
đảm bảo nhu cầu vay vốn cho các thành phần kinh tế trong đó có các
DNVVN đã thúc đẩy phát triển sản xuất - kinh doanh, tỷ lệ nợ xấu thấp.
2.2. Thực trạng hoạt động của doanh nghiê ̣p vƣ̀ a và nhỏ ở thị xã
Sơn Tây giai đoạn 2000 - 2010
2.2.1. Nguồn hình thành doanh nghiệp vừa và nhỏ
Nguồn hình thành DNVVN của thị xã Sơn Tây khá đa dạng, từ hầu
khắp các thành phần, tầng lớp trong xã hội như: Chủ các cơ sở sản xuất, chủ
trang trại, chủ hộ kinh doanh thương mại, tầng lớp trí thức, cán bộ, công nhân
viên từ các Doanh nghiệp nhà nước, Hợp tác xã vì nhiều lý do ra kinh doanh
độc lập.
Tuy nhiên nguồn chủ yếu tập trung vào:
- Chủ các cơ sở sản xuất kinh doanh tư nhân.
- Chủ các hộ kinh doanh thương mại.
Có thể tạm phân loại nguồn hình thành DNVVN theo một số tiêu chí
như sau:
- Các đối tượng có kinh nghiệm sản xuất kinh doanh, am hiểu thị
trường: Chủ các cơ sở sản xuất kinh doanh tư nhân lớn, chủ các hộ kinh
doanh thương mại lớn, một số nhà trí thức, cán bộ, công nhân từ DNNN,
34
HTX.
- Các đối tượng am hiểu pháp luật, có kiến thức kinh doanh hiện đại:
tầng lớp trí thức, một phần trong số chủ các cơ sở sản xuất kinh doanh tư
nhân, chủ các hộ kinh doanh thương mại, một phần cán bộ, công nhân từ
DNNN, HTX.
- Các đối tượng có tiềm lực tài chính: Chủ các cơ sở sản xuất kinh
doanh tư nhân lớn, chủ các hộ kinh doanh thương mại lớn.
Như vậy có thể thấy chỉ có một bộ phận nhỏ các đối tượng trong nguồn
hình thành DNVVN có đủ các yếu tố để thành lập và có thể duy trì, phát triển
doanh nghiệp. Còn lại phần lớn các đối tượng này hoặc thiếu kinh nghiệm sản
xuất, hoặc thiếu kiến thức, thiếu vốn hoặc thiếu am hiểu thị trường. Do vậy để
DNVVN ổn định và phát triển sản xuất kinh doanh đòi hỏi sự nỗ lực rất lớn từ
phía chủ các doanh nghiệp và trong thời gian đầu rất cần tới vai trò “bà đỡ”
của Nhà nước.
2.2.2. Số lượng và cơ cấu các loại hình doanh nghiê ̣p vừ a và nhỏ
* Về số lượng doanh nghiệp
Từ năm 2001 đến cuối năm 2010 có tổng số 339 doanh nghiệp được
cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Số doanh nghiệp được thành lập
qua từng năm cụ thể như sau:
Bảng 2.1. Số lƣơ ̣ng doanh nghiê ̣p đƣơ ̣c thành lập từ 2001-2010
Năm 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010
Số
6 8 7 12 23 44 51 47 67 74 lượng
DN
35
Nguồn: Theo số liệu của Phòng Kinh tế Thị xã Sơn Tây (tháng 2 năm 2011).
Biểu 2.1: Tổng số doanh nghiệp thành lập theo năm giai đoạn 2001-2010
Nguồn: Theo số liệu của Phòng Kinh tế Thị xã Sơn Tây (tháng 2 năm 2011).
Trong quá trình hoạt động bên cạnh những doanh nghiệp kinh doanh hiệu
quả, từ 2001 - 2010 có 12 doanh nghiệp phải giải thể và thu hồi giấy chứng
nhận đăng ký kinh doanh chiếm 3,5% tổng số doanh nghiệp đã thành lập.
* Về cơ cấu doanh nghiệp
Tính đến năm 2010 toàn Thị xã có 327 doanh nghiệp và khoảng 900 hộ
kinh doanh cá thể. Trong đó: Công ty cổ phần: 121 công ty; Công ty TNHH:
132 công ty; Công ty TNHH - 1TV: 14 công ty; Doanh nghiệp tư nhân: 60
doanh nghiệp (bảng 2.1, biểu 2.2).
Bảng 2.2: Số lƣợng các doanh nghiệp phân theo loại hình
(Đơn vi ̣ tính: doanh nghiệp)
Loại hình Công ty cổ Công ty Công ty DN tư nhân
DN phần TNHH TNHH-1TV
Số lượng 121 132 14 60
36
Nguồn: Theo số liệu của Phòng Kinh tế Thị xã Sơn Tây
19%
37%
4%
Công ty cổ phần
Công ty TNHH
Công ty TNHH-1TV
DN tư nhân
40%
Biểu 2.2: Cơ cấu doanh nghiệp theo loại hình năm 2010 (%)
Nguồn:Theo số liệu của Phòng Kinh tế Thị xã Sơn Tây
* Về phân bố ngành nghề hoạt động
Theo luật Doanh nghiệp tư nhân, Luật Công ty (1990), Luật Doanh
nghiệp (1999) quy định DN được phát triển đa ngành nghề tùy theo khả năng
của DN (trừ những ngành nghề bị pháp luật cấm). Các DNVVN ở Sơn Tây
được mở ra với các ngành nghề tương đối đa dạng hướng vào những ngành
nghề mà Thị xã có thế mạnh như: hàng dệt may, thêu ren, cơ kim khí - điện,
công nghiệp chế biến thực phẩm và đồ uống, ngành sản xuất vật liệu xây
dựng, gốm, ngành công nghiệp sản xuất đồ mộc dân dụng và chế biến lâm
sản… đã góp phần đáp ứng nhu cầu SXKD, nhu cầu tiêu dùng cho nhân dân,
góp phần phát triển kinh tế xã hội của Thị xã. Cụ thể phân chia theo các lĩnh
vực chính sau: công nghiệp - xây dựng: 105 doanh nghiệp; thương mại - dịch
37
vụ: 140 doanh nghiệp; tiểu thủ công nghiệp: 82 doanh nghiệp (Biểu 2.3).
Biểu 2.3: Cơ cấu DNVVN phân theo ngành (%)
Nguồn: Theo số liệu của Phòng Kinh tế Thị xã Sơn Tây.
Nhìn chung các DNVVN chủ yếu đầu tư vào các ngành nghề truyền
thống hoặc các ngành ít vốn, sinh lời khá cao và đặc biệt là khả năng thu hồi
vốn nhanh.
Về địa bàn hoạt động, các DNVVN ở Sơn Tây phân bố không đều, chủ
yếu tập trung ở trung tâm Thị xã hoặc những điểm có nhiều làng nghề, các
điểm du lịch… Chính sự phân bố không đều này đã chỉ ra rằng trong những
năm qua các DNVVN được hình thành một cách tự phát, thường tập trung
trong nội thị, đan xen vào các khu dân cư, từ đó gây ra những bất hợp lý về
quy hoạch ngành nghề, về vận tải, về tiêu thụ, và gây ra ô nhiễm môi trường.
Việc bố trí lại các doanh nghiệp trên địa bàn Thị xã không chỉ là tránh gây ô
nhiễm môi trường mà quan trọng hơn là tạo sự phát triển đồng đều giữa các
vùng trong Thị xã, thực hiện chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của Thị xã .
2.2.3. Tiềm lực doanh nghiê ̣p vừ a và nhỏ ở thị xã Sơn Tây
* Vốn
Tiềm lực về vốn của một DN có ý nghĩa cực kỳ quan trọng đối với sự
tồn tại và phát triển của DN. Đặc biệt trong cơ chế thị trường hiện nay, nếu
tiềm lực vốn của DN càng lớn thì DN có khả năng cạnh tranh trên thương
trường. Đối với các DN thuộc khu vực kinh tế tư nhân, với sự thông thoáng
38
của môi trường pháp lý, với cơ chế chính sách phù hợp, khu vực kinh tế này
đã thu hút một lượng vốn lớn trong dân cư để đầu tư vào sản xuất kinh doanh;
số cơ sở SXKD, quy mô vốn ngày càng tăng lên. So với thời điểm năm 2001,
năm 2010 vốn đăng ký kinh doanh bình quân một DN tăng gấp 2,6 lần. Song
số DN ở Sơn Tây có số vốn dưới 5 tỷ đồng còn chiếm tỷ lệ lớn, thậm chí có
nhiều DN vốn dưới 500 triệu đồng.
Bảng 2.3: Tổng số vốn kinh doanh của các DNVVN
trên địa bàn thị xã Sơn Tây năm 2010
Số tiền (triệu Vốn bình quân Loại hình DN Số DN đồng) (triệu đồng/DN)
CTCP 121 954.755,3 8.601,9
Công ty TNHH 132 200.424,7 1.656,5
Công ty TNHH- 14 41.238,8 2.945,6 1TV
DNTN 60 27.765 617
Nguồn: Theo số liệu của Phòng Kinh tế Thị xã Sơn Tây.
Mặc dù có sự tăng lên đáng kể về lượng vốn được đầu tư và kinh doanh
so với nhu cầu vốn thực tế cần thiết để đơn vị có đủ điều kiện mua sắm trang
thiết bị hiện đại, cải tiến công nghệ… thì lượng vốn như trên còn quá thấp.
Trong khu vực kinh tế tư nhân có đến gần 50% DN có số vốn dưới 500 triệu
đồng, 70% DN có số vốn dưới 1 tỷ đồng. Nguyên nhân:
- Đối với các DNTN bất lợi nhất và trước hết là chế độ chịu trách
nhiệm của cá nhân chủ sở hữu tài sản. Có nghĩa là, tài sản cá nhân của các chủ
sở hữu tài sản không đầu tư vào kinh doanh đều có thể bị bên thứ ba thu giữ
để thực hiện nghĩa vụ cam kết. Điều đó làm cho DN sợ đầu tư mở rộng để
39
phát triển DN với quy mô lớn hơn.
- Khi chủ DNTN bị ốm hoặc mất khả năng làm việc thì DN hoạt động
kinh doanh kém hiệu quả, có thể bị giải thể hoặc phá sản. Nếu chủ DNTN bị
chết thì sự tồn tại của DN cũng chấm dứt; sự bất ổn này cũng là yếu tố gây
khó khăn trong việc vay, mượn tiền từ nhiều người khác.
- Khả năng tiếp cận các nguồn vốn của DNTN rất hạn chế, ngoài nguồn
vốn tự có, kinh tế tư nhân trong tỉnh chủ yếu là vay tín dụng qua ngân hàng để
đầu tư vào sản xuất và mở rộng SXKD. Đối với các nguồn vốn như: vốn vay
ưu đãi từ Quỹ hỗ trợ phát triển, các dự án Chính phủ, các nguồn vốn từ nước
ngoài,… chưa được tiếp cận.
- Do trình độ chuyên môn nghiệp vụ của đội ngũ chủ DN chưa qua đào
tạo đầy đủ nên khả năng liên doanh, liên kết trong kinh doanh còn nhiều hạn
chế.
- Do khả năng kinh doanh thấp, lợi nhuận thấp nên tích lũy vốn của các
DNVVN còn hạn chế.
* Về trình độ công nghệ.
Khoa học và công nghệ là yếu tố sản xuất đầu vào quan trọng. DN
muốn thu lợi nhuận cao đòi hỏi phải đổi mới dây chuyền, công nghệ sản xuất
ứng dụng những công nghệ sản xuất hiện đại, tăng năng suất lao động, hạ giá
thành sản phẩm, tăng sức cạnh tranh. Nhận thức được điều đó, thời gian qua
hoạt động ứng dụng khoa học công nghệ trong sản xuất kinh doanh của các
DNVVN ở thị xã Sơn Tây đã có những bước tiến đáng kể. Nhiều DNVVN đã
mạnh dạn đầu tư mới, ứng dụng công nghệ mới để tạo ra các sản phẩm có
chất lượng và sức cạnh tranh cao.
Đối với các DNVVN, phần lớn các DN này trước khi thành lập thiếu sự
chuẩn bị về kiến thức kinh doanh, công nghệ, thị trường cộng thêm vào là số
vốn ít ỏi nên trang thiết bị sản xuất hầu hết là sản xuất trong nước. Song với
tính linh hoạt, nhanh nhẹn của thành phần kinh tế này, để đáp ứng nhu cầu
40
của kinh doanh trong cơ chế thị trường, các DN đã tìm mọi cách xoay sở để
đổi mới, cải tạo trang thiết bị phục vụ sản xuất, song tuyệt đại đa số cũng chỉ
ở trình độ trung bình. Năm 2010, trong số 313 DN có 16 DN (5,1%) có trình
độ kỹ thuật và công nghệ tiên tiến, trung bình 290 DN (92,7%), lạc hậu có 7
DN (2,2%).
Bảng 2.4: Trình độ kỹ thuật và công nghệ của các DNVVN trên địa bàn
Tổng số
Trình độ kỹ thuật và công nghệ
Tiên tiến
Trung bình
Lạc hậu
TT
Loại hình DN
Số
%
Số
Số
Số
lượng
%
%
%
lượng
lượng
lượng
DNTN
1
60
100
3
5
51
85
6
10
Công ty TNHH
2
132
100
6
4,5
126
95,5
0
Công ty cổ phần
3
121
100
7
5,8
113
93,37
1
0,83
Tổng cộng
5,1
7
2,2
313
100
16
290
92,7
thị xã Sơn Tây năm 2010
Nguồn: Theo số liệu của Phòng Kinh tế Thị xã Sơn Tây.
Nhận thức được sự cần thiết của vấn đề, các DN càng đặc biệt quan tâm
đổi mới công nghệ để đáp ứng yêu cầu sản xuất và khả năng cạnh tranh trên
thị trường, đặc biệt là các DN sản xuất kinh doanh những sản phẩm có thế
mạnh của Thị xã. Qua thực tế, nhiều doanh nghiệp đã chú trọng đầu tư đổi
mới, cải tiến trang thiết bị công nghệ để đáp ứng và nâng cao khả năng cạnh
tranh trên thị trường.
Nhưng khu vực sản xuất cá thể hầu hết máy móc thiết bị, công nghệ lạc
hậu, lao động thủ công là chủ yếu. Giá trị máy móc thiết bị chiếm tỉ trọng nhỏ
trong tổng vốn kinh doanh của cơ sở sản xuất. Điều đó dẫn đến năng suất lao
động thấp, mẫu mã sản phẩm xấu, giá thành sản phẩm cao, khả năng cạnh
41
tranh trên thị trường kém.
* Về nhân lực.
Thời gian qua DNVVN ở thị xã Sơn Tây đã đóng vai trò tích cực và
quan trọng trong việc giải quyết việc làm cho người lao động trong và ngoài
thị xã. Cùng với đà tăng trưởng nhanh về số lượng các DNVVN, quy mô lao
động cũng tăng tương ứng. Nhiều DNVVN đã giải quyết việc làm cho một số
lượng lao động tương đối lớn: Công ty cổ phần Tập đoàn xây dựng và du lịch
Bình Minh, công ty TNHH Mây tre Xuân Lạng, công ty cổ phần thêu ren
Ngọc Kiên… Theo số liệu thống kê, tổng số lao động trong các DNVVN gồm
cả 900 hộ kinh doanh cá thể tính đến cuối năm 2010 là hơn 14 nghìn người.
Bên cạnh đó số DN trong các làng nghề là 12 DN (tính đến tháng 12
năm 2010 toàn thị xã có 14 làng nghề). Hoạt động của các DN đã và đang có
nhiều đóng góp tích cực vào việc phát triển làng nghề như: thu hút lao động,
tăng thu nhập hộ nông dân. Các làng nghề thu hút khoảng 3000 hộ và 12.500
lao động.
Trình độ chuyên môn và tay nghề của lao động trong các DNVVN
không ngừng được nâng cao. Thu nhập bình quân của người lao động đạt 850
đồng/ tháng/ người. Năng lực trình độ chuyên môn của người lao động đã
được các DNVVN quan tâm đúng mức. Tuy nhiên do hạn chế về vốn, trình
độ quản lý nên hiệu quả kinh tế của các DNVVN chưa cao, chưa thu hút được
nhiều nhân tài. Đây cũng là khó khăn chung của các DNVVN trên cả nước.
Ngoài việc thu hút lao động làm việc tại các DNVVN, các DNVVN đã
quan tâm đến quyền lợi của người lao động. Số lao động được tham gia đóng
bảo hiểm xã hội ngày càng tăng. Nhờ đó, người lao động yên tâm công tác, ổn
định tâm lý để làm việc.
Mặc dù thu hút và giải quyết được nhiều việc làm và thu nhập cho lao
động cũng được cải thiện đáng kể nhưng việc thực hiện đúng các chính sách
theo quy định cũng còn rất nhiều tồn tại, hạn chế (như ký kết hợp đồng lao
42
động, đóng bảo hiểm xã hội, xây dựng thỏa ước lao động).
* Về trình độ quản lý sản xuất kinh doanh.
Trong nền kinh tế thị trường, thiết yếu đòi hỏi cần phải có một đội ngũ
những người quản lý DN có kinh nghiệm, có bản lĩnh đồng thời phải nắm
vững lý thuyết quản trị DN, hiểu biết pháp luật… Nhận thức được sự cần thiết
đó, những năm qua thị xã Sơn Tây đã chú trọng việc đào tạo và đào tạo lại đội
ngũ quản lý DN, nhất là đối với các DNNN. Đến nay, thực trạng trình độ
chuyên môn của đội ngũ quản lý DNVVN trên địa bàn thị xã như sau: rất
nhiều DNTN, công ty TNHH, CTCP được hình thành trên cơ sở sắp xếp lại
sản xuất, đổi mới cơ chế quản lý DNNN và HTX nên nhiều chủ DN là cán bộ
công nhân viên nhà nước. Do vậy số có trình độ cao đẳng, đại học trở lên
chiếm 26,6% , trình độ trung cấp chiếm 21,4%, công nhân kỹ thuật chiếm
16% và chưa qua đào tạo là 36%. (Bảng 2.5 ).
Bảng 2.5: Trình độ chuyên môn của đội ngũ giám đốc các DNVVN
(DNTN, công ty TNHH, CTCP) trên địa bàn thị xã Sơn Tây năm 2010
Chia theo trình độ chuyên môn
TT
Loại hình DN
Trung cấp
Công nhân kỹ
Trên đại học
Cao đẳng, đại học
Chưa qua đào tạo
thuật
1 DNTN
3
8
12
21
16
2 Công ty TNHH
4
38
18
12
60
3 Công ty CP
8
23
37
17
36
4
Tổng cộng
15
69
67
50
112
(Đơn vi ̣ tính: người)
Nguồn: Theo số liệu của Phòng Kinh tế Thị xã Sơn Tây.
Đối với các chủ cơ sở sản xuất cá thể, phần lớn các chủ cơ sở sản xuất
này được kèm cặp qua thực tế, được gia đình truyền nghề, tự học hoặc nâng
cao kiến thức qua các lớp bồi dưỡng ngắn,… Nhìn chung có thể nói, phần lớn
các chủ DNVVN rất ít được trang bị kiến thức quản lý một cách hệ thống,
43
nhiều chủ DN chưa qua đào tạo, kiến thức quản lý thông qua kinh nghiệm là
chủ yếu. Chính vì vậy mà khả năng quản lý kinh doanh còn nhiều hạn chế,
tiếp cận thị trường chưa được mở rộng, khả năng liên doanh, liên kết chưa
được mạnh dạn. Thêm vào đó tình trạng khá phổ biến trong các DNVVN là
các chủ DN ít hiểu biết về pháp luật, chính sách kinh tế, chế độ kế toán,… Đó
là những trở ngại không nhỏ đối với DNVVN trong hoạt động SXKD trong
cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước.
2.2.4. Thị trường và sức cạnh tranh doanh nghiê ̣p vừ a và nhỏ
Cùng với sự phát triển về số lượng DN, ngành nghề kinh doanh ngày
càng đa dạng, các sản phẩm, dịch vụ do các DNVVN thực hiện ngày càng
tăng về số lượng, đa dạng về chủng loại, làm phong phú thêm thị trường.
Một số DN đã có những sản phẩm đạt chất lượng được thị trường trong
và ngoài nước chấp nhận như các sản phẩm thủ công mỹ nghệ truyền thống
(thêu ren, mây tre đan, may mặc…). Còn lại hầu hết sản phẩm của các DN
sức cạnh tranh còn yếu do kỹ thuật công nghệ lạc hậu, cùng với trình độ quản
lý và khả năng tài chính hạn chế. Nhìn chung các DNVVN gặp khó khăn về
thị trường, hạn hẹp thị phần, sản phẩm chủ yếu tiêu thụ tại địa phương, sức
cạnh tranh kém. Năm 2010 ở thị xã Sơn Tây có khoảng 26,3% số DN có ưu
thế chiếm lĩnh thị trường, 62% số DN kinh doanh trong thế chưa vững chắc
và 11,6% số DN không có khả năng cạnh tranh để có thị trường trong nước.
2.2.5. Hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiê ̣p vừ a và nhỏ
Với quy mô vừa và nhỏ, các DNVVN dễ dàng phát huy những lợi thế
của mình: tính linh hoạt cao, thích ứng với sự biến động của thị trường, khả
năng thay đổi mặt hàng, mẫu mã nhanh theo thị hiếu của khách hàng, sử dụng
nguyên liệu, vật liệu sẵn có ở địa phương,… để từ đó dẫn đến hoạt động
SXKD đạt hiệu quả. Đặc biệt đối với DN thuộc khu vực kinh tế tư nhân, xét
trên giác độ quản lý cá nhân chủ DN có toàn quyền quyết định độc lập, do đó
có thể đưa ra quyết định một cách nhanh chóng, mọi hoạt động SXKD tiến
44
hành một cách linh hoạt ứng phó nhanh và có hiệu quả thiết thực. Cá nhân
chủ sở hữu được quyền hưởng tất cả lợi nhuận tạo ra, điều đó thúc đẩy và tạo
động lực cho người chủ làm việc chăm chỉ, cần cù hơn. Phần lớn DNTN đều
có quy mô nhỏ, giữa người chủ và người thợ có mối quan hệ bà con, họ hàng,
bạn bè, quen biết tin cậy nhau, có thiên hướng tạo ra sự hòa hợp trong DN. Vì
vậy đa số các DN đều có những điều kiện thuận lợi để kinh doanh có hiệu quả
tốc độ chu chuyển của vốn nhanh, điển hình như DN Bình Minh trong năm
2009 có doanh thu 11.107 triệu đồng tương ứng với số vốn đầu tư: 600 triệu
đồng, công ty TNHH Hà Dũng có doanh thu 2.134 triệu đồng trong khi vốn
đầu tư chỉ có 450 triệu đồng… Gần đây, một số DN ngành thủ công mỹ nghệ
đã tham gia làm hàng xuất khẩu, tạo hướng đi mới, nhằm khai thác lợi thế,
góp phần tăng trưởng kinh tế địa phương. Song với thực trạng khó khăn hiện
tại (vốn, công nghệ, trình độ lao động, quản lý kinh doanh…) nên hầu hết các
DN mới chỉ có khả năng tồn tại được trong thị trường cạnh tranh, số lãi đạt
được của từng DN còn thấp, hiệu quả sinh lời của đồng vốn chưa cao. Theo
số liệu thống kê chưa đầy đủ của Phòng Kinh tế thị xã Sơn Tây trong số
200/313 DNVVN gửi báo cáo năm 2010, tổng số doanh thu thuần của các DN
đạt được là 578.845 triệu đồng, số DN hoạt động hòa vốn và có lãi là 161/200
DN với số lãi 5.978 triệu đồng, số DN hoạt động còn bị lỗ là 39/200 DN với
số lỗ là 1.552 triệu đồng, hiệu suất sinh lời của đồng vốn là 0.0269.
2.2.6. Tác động đối với kinh tế của Thị xã
DNVVN có vai trò hết sức quan trọng đối với sự phát triển kinh tế
trong giai đoạn hiện nay. Đối với thị xã Sơn Tây, khi việc đầu tư hình thành
các DN quy mô lớn đang có nhiều hạn chế về vốn, về kết cấu hạ tầng, về trình
độ công nghệ, trình độ quản lý… thì việc phát triển DNVVN có ý nghĩa quyết
định để tạo ra sự tăng trưởng kinh tế năng động và bền vững.
Thực tế đã kiểm nghiệm điều đó, nền kinh tế thị xã Sơn Tây từ năm
2001 trở lại đây, tốc độ tăng trưởng kinh tế liên tục tăng, cơ cấu kinh tế
45
chuyển dịch theo hướng giảm tỷ trọng nông nghiệp, tăng tỷ trọng công
nghiệp, dịch vụ. Đó là nhờ sự đóng góp đáng kể của các DNVVN. Chúng ta
có thể nhận thấy vai trò đó thể hiện qua các mặt cụ thể sau:
Một là, DNVVN góp phần quan trọng tạo ra công ăn việc làm cho
người lao động, tăng thu nhập,… Đây là một thế mạnh rõ rệt của DNVVN và
là nguyên nhân chủ yếu khiến chúng ta đặc biệt chú trọng phát triển DNVVN.
Trong những năm qua bình quân hàng năm toàn Thị xã đã tạo việc làm mới
và thêm việc làm cho hàng nghìn người lao động. Số lượng các DN lớn trên
địa bàn Thị xã quá ít chỉ vài đơn vị nên thu hút lực lượng lao động không
đáng kể. Do vậy kết quả đạt được là nhờ vào loại hình DNVVN. Trong những
năm đổi mới vừa qua, với chủ trương sắp xếp lại DNNN và khuyến khích các
DN từ các thành phần kinh tế khác phát triển, số lượng các DNVVN ở thị xã
Sơn Tây tăng lên đáng kể và đã thu hút một lực lượng lao động lớn. Chỉ tính
riêng với hơn 900 hộ kinh doanh cá thể và 313 DN kinh tế tư nhân, đã giải
quyết việc làm cho gần 14.000 lao động. Bên cạnh đó sự phát triển của các
DNVVN đã tạo thêm một phần đáng kể công việc “ngoài DN” thông qua các
hoạt đồng thời vụ, hợp đồng gia công hộ gia đình, góp phần tăng thêm thu
nhập cho người lao động, góp phần xóa đói, giảm nghèo cho không ít một bộ
phận nhân dân: hộ đói, nghèo giảm từ 15,5% năm 2006 còn 5,6% năm 2010.
Hai là, các DNVVN đóng góp không nhỏ vào tăng trưởng kinh tế của
Thị xã, với số lượng cơ sở SXKD khá lớn cùng với tổng lượng vốn huy động
được cũng như lực lượng lao động đông đảo, các DNVVN đóng góp không
nhỏ vào tăng trưởng kinh tế của Thị xã thể hiện:
- Về giá trị sản xuất.
Tổng giá trị sản xuất qua các năm (theo giá so sánh năm 1994) ước đạt:
Năm 2006 đạt: 487,26 tỷ đồng; Năm 2007 đạt: 536,32 tỷ đồng; Năm
2008 đạt: 649,28 tỷ đồng; Năm 2009 đạt: 816,51 tỷ đồng; Năm 2010 đạt:
46
1.052 tỷ đồng. Tổng giá trị sản xuất của khối này tăng rất nhanh, giá trị sản
xuất năm 2010 gấp 6,47 lần so với giá trị sản xuất năm 2005 góp phần làm
tăng nhanh giá trị sản xuất của khối ngoài quốc doanh (Biểu 2.4).
Tổng giá trị sản xuất của khối ngoài quốc doanh giai đoạn 2006 -2010
luôn chiếm tỷ trọng từ 25 - 35% tổng giá trị sản xuất của nền kinh tế Thị xã
và có xu hướng ngày càng tăng; Năm 2006 chiếm khoảng 24,9% đến năm
2010 chiếm khoảng 44,6% tổng giá trị sản xuất của nền kinh tế trong Thị xã.
(Đơn vi ̣ tính: tỷ đồng).
Biểu 2.4: Tổng giá trị sản xuất giai đoạn năm 2006 - 2010
Nguồn: Theo số liệu của Phòng Kinh tế Thị xã Sơn Tây.
- Về tổng sản phẩm.
Tổng sản phẩm (GDP) qua các năm (theo giá so sánh năm 1994):
Năm 2006 đạt: 162,36 tỷ đồng; Năm 2007 đạt 223,4 tỷ đồng; Năm
2008 đạt: 274,6 tỷ đồng; Năm 2009 đạt: 308,2 tỷ đồng; Năm 2010 đạt: 371,7
47
tỷ đồng. Tổng sản phẩm của khối này cũng tăng rất nhanh, tổng sản phẩm
năm 2010 gấp 2,3 lần so với tổng sản phẩm năm 2006 và góp phần làm tăng
nhanh giá trị tổng sản phẩm của khối ngoài quốc doanh (Biểu 2.5).
Tổng sản phẩm của khối ngoài quốc doanh này giai đoạn 2006 - 2010
luôn chiếm tỷ trọng từ 30 - 40 % tổng sản phẩm của nền kinh tế trong Thị xã
và có xu hướng ngày càng tăng. Năm 2006 chiếm 33,4% đến năm 2010 chiếm
45,4% giá trị tổng sản phẩm nền kinh tế trong Thị xã.
(Đơn vi ̣ tính: tỷ đồng)
Biểu 2.5: Tổng sản phẩm giai đoạn 2006 - 2010
Nguồn: Theo số liệu của Phòng Kinh tế Thị xã Sơn Tây.
- Về đóng góp cho ngân sách địa phương
Tổng số nộp ngân sách của khối DNVVN qua các năm:
Năm 2004 đạt: 0,58 tỷ đồng; Năm 2005 đạt: 1,05 tỷ đồng; Năm 2006
đạt: 1,38 tỷ đồng; Năm 2007 đạt: 3,67 tỷ đồng; Năm 2008 đạt: 8,38 tỷ đồng;
Năm 2009 đạt: 14,56 tỷ đồng; Năm 2010 đạt: 26,76 tỷ đồng. Do số lượng DN
48
phát triển khá nhanh và đã từng bước đi vào ổn định sản xuất kinh doanh nên
số nộp ngân sách của các doanh nghiệp tăng rất mạnh. Nếu tính thêm cả số
nộp ngân sách của các hộ kinh doanh cá thể (nguồn chủ yếu phát triển DN) thì
tổng nộp ngân sách qua các năm là:
Năm 2004 đạt: 2,43 tỷ đồng; Năm 2005 đạt: 3,03 tỷ đồng; Năm 2006
đạt: 3,43 tỷ đồng; Năm 2007 đạt: 6,18 tỷ đồng; Năm 2008 đạt: 10,9 tỷ đồng;
Năm 2009 đạt: 17,5 tỷ đồng; Năm 2010 đạt: 30,3 tỷ đồng.
Nếu như năm 2005 số nộp ngân sách của khối ngoài quốc doanh chỉ
chiếm 30,9 % tổng số nộp ngân sách của doanh nghiệp, thì năm 2010 chiếm
72,7% tổng số nộp ngân sách của các doanh nghiệp.
Ba là, các DNVVN góp phần chuyển đổi cơ cấu kinh tế của Thị xã. Với
mức đóng góp ngày càng tăng vào GDP của Thị xã, các DNVVN góp phần
chuyển đổi cơ cấu kinh tế của Thị xã theo hướng CNH, HĐH, chuyển từ nông
nghiệp sang công nghiệp, xây dựng và dịch vụ. Đồng thời với số lượng ngày
càng tăng, quy mô ngày càng phát triển nên các DNVVN đã giải quyết một
lượng lớn lao động ở nông thôn, góp phần chuyển lao động chuyên nông
nghiệp sang hoạt động công nghiệp, dịch vụ, góp phần tạo ra một cơ cấu lao
động hợp lý.
Bốn là, các DNVVN giữ vai trò quan trọng trong việc huy động, khai
thác và tận dụng mọi nguồn lực cho phát triển. Với quy mô vừa và nhỏ, gắn
với nhiều làng nghề truyền thống nên các DNVVN dễ huy động được nhân
dân tham gia hoạt động, qua đó thu hút được nhiều nguồn vốn trong dân,
trong các thành phần kinh tế vào SXKD. Mặt khác, do có quy mô vừa phải và
hợp lý nên hoạt động kinh doanh rất linh hoạt và có tỷ suất lợi nhuận cao nên
dễ kích thích được nhiều người góp vốn làm ăn. Chỉ tính riêng năm 2006, vốn
đầu tư vào SXKD của các DNVVN ngoài quốc doanh tăng thêm khoảng 108
tỷ đồng. Về lao động, do không đòi hỏi phải có trình độ cao, phải được đào
tạo nhiều thời gian và chi phí tốn kém nên có thể dễ dàng thu hút được một
49
lượng lớn lao động giản đơn của xã hội vào SXKD. Về kỹ thuật - công nghệ,
dễ dàng kết hợp giữa kỹ thuật thủ công dùng nhiều lao động với công nghệ
tiên tiến để tiến tới hiện đại hóa kỹ thuật sản xuất. DNVVN còn có khả năng
sử dụng tốt nguồn nguyên liệu ở địa phương.
Năm là, các DNVVN góp phần làm cho nền kinh tế năng động và hiệu
quả hơn. Do quy mô nhỏ nên các DNVVN rất linh hoạt, năng động trong cơ
chế thị trường, dễ chuyển hướng kinh doanh sang lĩnh vực hiệu quả hơn.
Ngoài ra do số lượng cơ sở kinh doanh tăng lên, sản phẩm đa dạng, phong
phú nên đáp ứng tốt hơn nhu cầu của thị trường, đồng thời làm tăng tính cạnh
tranh trong nền kinh tế, làm cho nền kinh tế hiệu quả hơn. Qua khảo sát thực
tế cho thấy trong các làng nghề: thêu ren, mộc, gạch ngói, chế biến đường
phèn, mạch nha, chế biến thịt bò khô,… số loại sản phẩm và chủng loại rất
phong phú, chất lượng ngày càng tốt hơn, đáp ứng mọi nhu cầu, thị yếu người
tiêu dùng.
Sáu là, khôi phục và phát triển các làng nghề truyền thống. Các
DNVVN có tầm quan trọng đặc biệt trong việc phát triển các ngành nghề
truyền thống bởi hình thức tổ chức sản xuất phù hợp với các ngành nghề này
là các cơ sở kinh tế khu vực tư nhân, chủ yếu là quy mô vừa và nhỏ. Theo
thống kê ban đầu năm 2010, Sơn tây hiện nay có 14 làng nghề, với hơn 3000
hộ và hơn 12000 lao động tham gia ở mức độ khác nhau, được phân bổ ở
nhiều ngành nghề thủ công như: thêu ren, bánh tẻ, đường phổi, đường phèn,
kẹo lạc,… Các làng nghề đã tạo ra thu nhập từ 20 - 25 tỷ đồng.
Bảy là, các DNVVN, đặc biệt là các DNVVN ở ngoại Thị góp phần thực
hiện đường lối của Đảng, xây dựng nông thôn mới. Các DNVVN, đặc biệt là
các DNVVN ở ngoại Thị đã tạo ra cơ hội việc làm cho một bộ phận lớn lao
động nhàn rỗi ở nông thôn, làm tăng thu nhập và cải thiện đời sống nông dân,
góp phần thực hiện xóa đói giảm nghèo, rút ngắn khoảng cách chênh lệch
giữa thành thị và nông thôn từ đó làm cho bộ mặt nông thôn có nhiều đổi
50
thay.
Vai trò quan trọng và tác động mang tính động lực trên đây của
DNVVN khẳng định sự tất yếu khách quan phải thúc đẩy và hỗ trợ sự phát
triển của các DNVVN trên địa bàn thị xã Sơn Tây.
2.3. Đánh giá chung tình hình hoạt động của doanh nghiê ̣p vƣ̀ a và
nhỏ ở thị xã Sơn Tây
2.3.1. Những kết quả đạt được
Những năm qua Quốc hội đã thông qua nhiều bộ luật liên quan tới việc
phát triển DN và tiếp tục sửa đổi bổ sung nhằm tạo ra khung khổ pháp lý
đồng bộ, môi trường kinh doanh thuận lợi cho các thành phần kinh tế cũng
phát triển. Bên cạnh đó các chính sách của Nhà nước, Thành phố,thị xã đã
đẩy mạnh thực hiện cải thiện môi trường đầu tư, khuyến khích phát triển
DNVVN nhằm nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của DN. Trong tình hình
chung đó Uỷ ban Nhân dân thị xã Sơn Tây đã sớm xây dựng quy hoạch, kế
hoạch phát triển kinh tế xã hội ở địa phương, định kỳ xây dựng, rà soát, điều
chỉnh quy hoạch cho phù hợp với thực tiễn. Xây dựng kế hoạch phát triển
kinh tế xã hội 5 năm và hàng năm. Quy hoạch và kế hoạch này đề cập đến
nhiều nội dung có liên quan đến phát triển doanh nghiệp:
- Xây dựng cơ cấu về kinh tế, trong đó chú trọng nâng cao tỷ trọng
công nghiệp và dịch vụ.
- Quy hoạch khu vực phát triển công nghiệp.
- Quy hoạch các khu công nghiệp, cụm công nghiệp.
- Xây dựng đề án phát triển nghề và làng nghề.
- Xây dựng đề án chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp như xác định
cơ cấu cây trồng, vật nuôi có giá trị sản xuất cao.
Có thể nói những chính sách của Thành phố, Thị xã đã tạo động lực to
lớn cho các DNVVN có điều kiện phát triển và đạt được nhiều thành tựu. Qua
phân tích ở trên có thể khái quát về thực trạng DNVVN trên địa bàn thị xã
51
Sơn Tây như sau:
Thứ nhất: Số lượng các DNVVN tăng nhanh và có sự biến đổi cơ cấu
theo hướng DNNN giảm do giải thể, sát nhập, chuyển đổi hình thức sở hữu.
Các đơn vị thuộc kinh tế tập thể giảm do làm ăn không hiệu quả, quản lý lỏng
lẻo không bảo toàn được vốn phải giải thể. Các DNTN, cá thể, TNHH tăng
nhanh từ những năm 1999, đặc biệt từ khi Luật DN ra đời. Sự tăng lên về số
lượng và sự chuyển dịch về cơ cấu sở hữu của các DNVVN là phù hợp với
nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa. Bước đầu khắc phục tình trạng duy ý
chí muốn phát triển tràn lan doanh nghiệp nhà nước và hợp tác hóa không tôn
trọng nguyên tắc tự nguyện.
Thứ hai: Việc tăng nhanh về số lượng DNVVN, nhất là các cơ sở sản
xuất kinh doanh cá thể đã tạo nên nhiều việc làm và tự giải quyết việc làm cho
hàng chục ngàn người lao động, nhất là lao động phổ thông chưa có việc làm
và lao động dôi dư trong các DNNN sau khi sắp xếp lại. Điều này đã giảm
hẳn tính bức xúc về giải quyết việc làm cho lao động từ đó giải quyết được
hàng loạt vấn đề kinh tế - xã hội như đa dạng hóa và tăng thu nhập của dân
cư, nhất là khu vực nông thôn, tạo điều kiện tăng sức mua của thị trường, tăng
khả năng tích lũy. Thực tế những năm qua cho thấy, ở nơi nào có ngành nghề
phát triển, có nhiều DNVVN phát triển thì thu nhập dân cư tăng nhanh, tiêu
dùng được mở rộng, sản xuất có điều kiện và năng động phát triển.
Thứ ba: Trong những năm gần đây, sự phát triển mạnh của DNVVN đã
thúc đẩy quá trình đa dạng hóa sản phẩm, đáp ứng nhu cầu ngày càng đa dạng
của xã hội, nhất là các nhu cầu nhỏ lẻ mà các DN lớn không muốn hoặc
không có khả năng sản xuất. Chính sự xuất hiện của các DNVVN thuộc các
thành phần kinh tế khác nhau đã đáp ứng được điều đó, không những thế nó
đã tạo lập môi trường cạnh tranh lành mạnh, thúc đẩy các DN tự đổi mới thiết
bị và công nghệ, nâng cao chất lượng, hạ giá thành sản phẩm, bảo vệ lợi ích
52
người tiêu dùng. Đó cũng chính là môi trường bồi dưỡng đào tạo những
doanh nhân cả trong và ngoài quốc doanh theo cơ chế thị trường có sự định
hướng của nhà nước.
Thứ tư: Hoạt động sản xuất kinh doanh và tổ chức quản lý trong nội bộ
DNVVN thuộc các thành phần kinh tế đã chuyển đổi theo hướng tích cực,
thiết thực hơn, năng động hơn, gắn sản xuất với thị trường nhằm tạo ra động
lực phát triển mới. Các hợp tác xã không dựa dẫm, ỷ lại nhau và tập thể hóa
tràn lan như trước đây.
Thứ năm: Các DNVVN đã thâm nhập vào mọi ngành kinh tế. Các
DNVVN đã thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế để chuyển nền sản
xuất tiểu nông lên sản xuất lớn, được công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Tuy
nhiên quá trình này cũng cần phải chú ý tới sự kết hợp chặt chẽ giữa công
nghệ hiện đại và công nghệ truyền thống, phát huy vai trò của các làng nghề
trong chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp và kinh tế nông thôn.
Thứ sáu: Nhờ sự phát triển theo hướng tích cực trên nên các DNVVN
bước đầu đã đóng góp một tỷ lệ đáng khích lệ về giá trị sản xuất của các
ngành, giá trị tăng thêm cũng như đóng góp vào ngân sách hàng năm của thị
xã, góp phần tạo nên tốc độ tăng trưởng kinh tế và sự đổi mới nhiều mặt kinh
tế - xã hội của thị xã theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
2.3.2. Những vấn đề đang đặt ra đối với việc phát triển doanh nghiê ̣p
vừ a và nhỏ ở Sơn Tây
* Về việc thực thi chính sách phát triển doanh nghiê ̣p vừ a và nhỏ nói
chung:
Mặc dù đã rất nỗ lực trong việc tạo ra khung khổ pháp lý đồng bộ, môi
trường kinh doanh thuận lợi cho DN nhưng đến nay các thể chế, chính sách và
các yếu tố liên quan đến phát triển DN vẫn còn có một số tồn tại hạn chế sau:
- Hệ thống cơ quan hỗ trợ doanh nghiệp mới chỉ được thành lập ở
Trung ương. Các địa phương thực sự vẫn chưa có cơ quan đứng ra làm đầu
53
mối trong việc quản lý và hỗ trợ DN. Do vậy dẫn đến thiếu sự điều hành
thống nhất, sự phối hợp đồng bộ trong hoạt động. Đây là khó khăn rất lớn
trong quản lý và hỗ trợ DN.
- Công tác ban hành văn bản hướng dẫn thi hành Luật còn chậm và còn
có một số quy định chưa phù hợp với thực tế do vậy hạn chế việc nhanh
chóng áp dụng các Bộ luật vào cuộc sống.
- Chế độ kế toán, tài chính và thuế còn phức tạp và khó áp dụng đặc
biệt đối với các DN nhỏ. Các DN nhỏ trên thực tế đều không có khả năng và
không cần thiết phải tổ chức một bộ máy kế toán theo quy định của Luật kế
toán, ở các DN này phát sinh kinh tế không nhiều do vậy họ thường chỉ thuê
người làm kế toán một vài ngày trong tháng tuy nhiên quy định về cấp chứng
chỉ hành nghề kế toán lại đòi hỏi khá cao như phải tốt nghiệp đại học chuyên
ngành và có 5 năm kinh nghiệm, với quy định như vậy và với tốc độ phát
triển DN như hiện nay thì khó có thể có đủ nhân lực làm công tác kế toán cho
DN theo đúng quy định. Ngoài ra nội dung của Báo cáo tài chính theo quy
định khá phức tạp đối với các DN nhỏ.
- Các chính sách liên quan tới đất đai và mặt bằng sản xuất cho DN vẫn
cần được xem xét bổ sung cho phù hợp hơn. Đất đai là vấn đề lớn và khó giải
quyết đối với các cấp chính quyền, doanh nghiệp và toàn xã hội. Những tồn
tại trong việc khẳng định quyền tài sản đối với đất đai được xem là cản trở lớn
đối với đầu tư sản xuất, kinh doanh; hồ sơ, thủ tục thuê đất cần được quy định
theo hướng đơn giản hóa, rõ ràng minh bạch nhưng vấn đảm bảo cho thuê đất
đúng đối tượng (doanh nghiệp có khả năng thực thi dự án).
* Đối với thị xã Sơn Tây
- Việc tổ chức thực hiện pháp luật về DN và kinh doanh còn có lúc, có
nơi chưa thực sự nhất quán.
- Tại thị xã chưa có một cơ quan đứng ra làm đầu mối ( kiểu cơ quan
54
chủ quản của DN) để theo dõi, tổng hợp tình hình, phát triển và đề xuất những
biện pháp tháo gỡ khó khăn, hỗ trợ DN và chủ động uốn nắn những sai phạm
của DN.
- Việc trợ giúp DN chưa làm được nhiều:
Hỗ trợ việc đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ cho cán bộ quản lý DN chưa
làm được nhiều. Ngân sách thị xã dành cho việc hỗ trợ đào tạo bồi dưỡng
chưa đáp ứng được nhu cầu của DNVVN.
Hỗ trợ DN về vốn: Một số chính sách cơ bản của Nhà nước và Địa
phương đã kích thích DN phát triển sản xuất kinh doanh, tuy vậy DN còn luôn
thiếu nguồn lực vật chất rất quan trọng đó là vốn: vốn cho đầu tư và vốn cho
kinh doanh, nhìn chung Ngân hàng chưa đáp ứng đủ vốn cho DN, điều kiện
vay, thủ tục vay còn phức tạp. Chính sách ưu đãi đầu tư hỗ trợ lãi suất còn ở
mức khiêm tốn trong khi đó các DN rất cần có nguồn vốn này giúp cho đổi mới
công nghệ, đầu tư mở rộng quy mô sản xuất, đầu tư liên doanh liên kết.
Hỗ trợ DN về mặt bằng sản xuất: Mặc dù đã quy hoạch mạng lưới các
khu công nghiệp, cụm công nghiệp trên toàn thị xã với tổng diện tích trên 300
ha nhưng do ngân sách của thị xã hẹp nên chưa có điều kiện hỗ trợ DN tốt
hơn nữa về mặt bằng sản xuất.
* Những hạn chế và các vấn đề nổi cộm của các doanh nghiê ̣p vừ a và
nhỏ nói chung
Đã có khá nhiều nghiên cứu về DNVVN trên thế giới cũng như ở Việt
Nam chỉ ra những tồn tại, hạn chế của các DN này. Nhìn chung các DNVVN
những tồn tại, hạn chế cơ bản như sau:
- Rất khó tiếp cận với các nguồn vốn chính thức của ngân hàng.
- Khó có điều kiện để đầu tư mở rộng sản xuất, đầu tư công nghệ mới,
nhất là công nghệ đòi hỏi vốn lớn.
- Hạn chế đầu tư cho nghiên cứu, đào tạo, vì vậy khó nâng cao được
55
năng suất, hiệu quả; khả năng cạnh tranh của sản phẩm thấp.
- Lương và thu nhập của người lao động thường không ổn định, chế độ
đối với người lao động nhìn chung còn hạn chế.
- Thường bị lệ thuộc vào các DN lớn, dẫn đến bị động trong các quan
hệ thị trường: định giá, cung ứng sản phẩm.
- Rất khó thiết lập và mở rộng hợp tác với các DN nước ngoài; hạn chế
nhiều về thông tin.
- Trình độ quản trị DN rất hạn chế, yếu và thiếu kinh nghiệm cũng như
am hiểu về pháp luật. Còn có một bộ phận không nhỏ, ý thức chấp hành pháp
luật kém.
Những vấn đề đặt ra trong hoạt động của các doanh nghiê ̣p vƣ̀ a và
nhỏ ở Sơn Tây:
- Về quy mô, chất lượng DN.
Đa số DN ở Sơn Tây đều thuộc loại nhỏ, hoặc quá nhỏ, thiết bị công
nghệ lạc hậu, năng lực tài chính hạn chế nên rất khó khăn trong việc đầu tư
đổi mới công nghệ.
+ Sức cạnh tranh của DN và sản phẩm, dịch vụ thấp: yếu tố vốn của
DN cấu thành trong sản phẩm thấp, hàm lượng tri thức, công nghệ và tính độc
đáo trong sản phẩm không cao, giá trị gia tăng trong tổng giá trị sản phẩm
thấp. Do vậy sản phẩm làm ra kém hấp dẫn, mới tập trung vào sản xuất, kinh
doanh các mặt hàng tiêu dùng thông thường phục vụ cho thị trường tại chỗ, số
lượng sản phẩm vươn ra được thị trường bên ngoài chưa nhiều.
- Công tác quản trị của các DNVVN có nhiều hạn chế, còn yếu, thiếu
chiến lược kinh doanh và xây dựng thương hiệu, phát triển thị trường.
- Chưa phát huy tính chủ động của bản thân DN trong việc khai thác
thế mạnh của địa phương, liên doanh liên kết để tự vươn lên, đáp ứng yêu cầu
56
của nền kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế.
- Trình độ quản lý của DN còn thấp nên tình trạng lệch lạc trong phát
triển DN (phát triển còn mang tính tự phát, vi phạm pháp luật, gây ô nhiễm
môi trường) vẫn diễn ra ở một bộ phận các DN.
- Tình trạng chưa ký kết hợp đồng lao động, đóng bảo hiểm xã hội, xây
dựng thỏa ước lao động, đảm bảo điều kiện lao động, chăm lo đời sống của
người lao động, chưa dành kinh phí để đào tạo nâng cao tay nghề cho người
lao động còn diễn ra phổ biến dẫn đến người lao động chưa gắn bó với DN,
và bản thân người lao động khó có điều kiện nâng cao tay nghề.
- Hiệu quả SXKD của DNVVN trên địa bàn tỉnh còn thấp.
2.3.3. Nguyên nhân của những hạn chế và những vấn đề nổi cộm
Sở dĩ vẫn còn có những tồn tại hạn chế trên, nguyên nhân trước hết là
từ phía bản thân các DNVVN về đội ngũ nhà quản lý DN, về quy mô DN, về
cách thức quản lý, về trình độ chuyên môn của người lao động… sau đó là
nguyên nhân từ phía các cơ quan quản lý nhà nước về việc ban hành, phổ biến
các quy định, chính sách hỗ trợ phát triển DNVVN, chính sách đào tạo, thủ
tục hành chính… Cụ thể là:
Nguyên nhân từ phía các DN.
- Chủ DN và cán bộ quản lý DN nhiều người chưa được đào tạo cơ bản,
thiếu kiến thức về quản trị kinh doanh, về pháp luật kinh tế. Thậm chí một số
không nhỏ trong họ chưa quan tâm nghiên cứu pháp luật; hoặc chưa có ý thức
thực hiện kinh doanh theo quy định của pháp luật.
- Đa số DN ở thị xã Sơn Tây đều thuộc loại nhỏ, hoặc quá nhỏ, người
góp vốn chủ yếu vẫn là những thành viên trong cùng gia đình, những người
thân trực hệ, bạn bè thân thiết… Vì vậy, các mối quan hệ gia đình, huyết
thống, bạn bè được điều chỉnh bởi phong tục, tập quán truyền thống coi nhẹ
quy định của pháp luật về quan hệ góp vốn kinh doanh và quản lý DN. Sự
thiếu minh bạch, không rõ ràng, tính phi chính thức và thậm chí không hợp
57
pháp trong quản lý còn khá nhiều.
- Vấn đề đảm bảo điều kiện cho người lao động, nâng cao chất lượng
lao động chưa được các DN quan tâm đúng mức.
- Thiếu liên kết, hợp tác giữa các DN lớn với DNVVN dẫn đến chất
lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh thấp của cả DNVVN và DN lớn.
Nguyên nhân từ phía cơ quan quản lý nhà nước.
- Việc phổ biến và tổ chức thực hiện pháp luật về DN và kinh doanh
chưa được các cấp ủy Đảng và chính quyền địa phương quan tâm đúng mức.
- Việc hỗ trợ đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ cho cán bộ quản lý DN còn
rất hạn chế, kinh phí hạn hẹp, tổ chức chưa thống nhất.
- Công tác quản lý Nhà nước chưa theo kịp sự phát triển của các DN,
không minh bạch. Hiện tượng phải chạy vạy, lo lót cho các cơ quan quản lý
mới thành lập được DN còn diễn ra ở một số nơi. Điều đáng lưu tâm hơn là
việc quản lý các DN đã được phép kinh doanh rất lỏng lẻo, bất cập. Nhiều DN
lập ra rồi phá sản mà các cơ quan quản lý không hay biết. Bên cạnh đó lúng
túng trước hàng loạt các hiện tượng tiêu cực xã hội vốn đã tồn tại trước khi
ban hành Luật doanh nghiệp như: Mua bán hóa đơn, lợi dụng hoàn thuế giá trị
gia tăng mà không xử lý được như mong muốn; hoạt động của DN bị buông
58
lỏng, chưa thống nhất, thiếu kiểm tra, giám sát.
Chƣơng 3
PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN DOANH NGHIỆP
VỪA VÀ NHỎ Ở THỊ XÃ SƠN TÂY TRONG THỜI GIAN TỚI
3.1. Những mục tiêu và phƣơng hƣớng phát triển doanh nghiê ̣p
vƣ̀ a và nhỏ ở thị xã Sơn Tây
3.1.1. Mục tiêu chung theo quan điểm của thị xã Sơn Tây
Phát triển DNVVN là một nhiệm vụ quan trọng trong chiến lược phát
triển kinh tế xã hội, đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước.
Nhà nước khuyến khích và tạo thuận lợi cho DNVVN phát huy tính chủ
động sáng tạo, nâng cao năng lực quản lý, phát triển khoa học - công nghệ và
nguồn nhân lực, mở rộng các mối liên kết với các loại hình doanh nghiệp
khác, tăng hiệu quả kinh tế và khả năng cạnh tranh trên thị trường; phát triển
sản xuất, kinh doanh, tạo việc làm và nâng cao đời sống người lao động.
Đối với Thị xã Sơn Tây, Ban Chấp hành Đảng bộ đã đề ra mục tiêu
kinh tế - xã hội của thị xã đến năm 2015: Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh
tế theo hướng CNH, HĐH, tăng nhanh tỷ trọng công nghiệp - xây dựng,
thương mại - dịch vụ đồng thời giảm tỷ trọng nông - lâm nghiệp, thủy sản
trong cơ cấu kinh tế của thị xã.
- Tốc độ giá trị tăng thêm (VA) bình quân hàng năm từ 15,5% -17%;
+ Giá trị sản xuất công nghiệp - xây dựng tăng bình quân hàng năm từ
18% - 20%.
+ Giá trị sản xuất nông - lâm nghiệp, thủy sản tăng bình quân hàng năm
từ 3% - 4%.
- Cơ cấu kinh tế: Công nghiệp - xây dựng chiếm 47% - 48%; ngành
59
dịch vụ chiếm 46% - 47%; nông - lâm nghiệp, thủy sản chiếm 5% - 6%.
- Thu nhập giá trị tăng thêm bình quân đầu người đến năm 2015 phấn
đấu đạt từ 40 - 45 triệu đồng.
Đối với công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp thị xã đề ra mục tiêu: tập
trung khai thác mọi nguồn lực, tiềm năng và lợi thế, khuyến khích các thành
phần kinh tế đầu tư, xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật phục vụ phát triển công
nghiệp - tiểu thủ công nghiệp theo hướng CNH, HĐH. Duy trì tỷ trọng
nghành công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp và xây dựng trong cơ cấu kinh tế
của thị xã. Tiếp tục quy hoạch và xây dựng hạ tầng các khu, cụm công nghiệp
để thu hút các DN đầu tư vào thị xã. Phát triển các làng nghề sản xuất các mặt
hàng có sức cạnh tranh trên thị trường trong nước và ngoài nước; góp phần
giải quyết việc làm tăng thu nhập, nâng cao đời sống nhân dân và phát triển
kinh tế thị xã. Chỉ tiêu đến năm 2015: giá trị sản xuất công nghiệp - xây dựng
đạt 1.950 tỷ đồng trong đó giá trị sản xuất công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp
đạt 1.287 tỷ đồng (giá cố định năm 1994); phấn đấu đạt 80% số làng, khu phố
có nghề; khôi phục, xây dựng thêm 5 - 10 làng nghề trên địa bàn.
Riêng đối với các DNVVN, thị xã đã đặt ra mục tiêu phát triển là: phát
huy nội lực, năng động sáng tạo, bám sát nhu cầu thị trường định hướng
XHCN, phát triển về số lượng, từng bước củng cố chất lượng quản lý, SXKD
cùng với các loại hình DN khác thực hiện hoàn thành mục tiêu chiến lược
phát triển kinh tế - xã hội của thị xã. Xây dựng và hoàn thiện các chương
trình. Trợ giúp phát triển DN đạt hiệu quả cao. Tạo bước chuyển biến toàn
diện và sâu sắc trong nhận thức và hành động về việc hỗ trợ, phát triển
DNVVN. Ngày càng có nhiều DN xây dựng được thương hiệu uy tín trên thị
trường trong nước và quốc tế, tất cả các DN đều có cơ hội và tiếp cận với các
chương trình trợ giúp để nâng cao năng lực sản xuất.
- Phấn đấu đến năm 2015 toàn thị xã có khoảng hơn 400 DN, bình quân
60
mỗi năm tăng khoảng 15 DN.
- Nâng tỷ lệ DN có vốn đăng ký từ 1 tỷ đồng trở lên đến năm 2015 là
80%, vốn bình quân của một DN trên 1,5 tỷ đồng.
- Các DN tập trung vào nâng cao năng lực sản xuất và sức cạnh tranh
đặc biệt là các DN công nghiệp phấn đấu giá trị sản xuất đạt nhịp độ tăng
trưởng bình quân giai đoạn 2011 - 2015 từ 20% - 25%, giai đoạn 2016 - 2020
từ 27% - 32%.
- Đóng góp ngân sách: trên 40% tổng thu ngân sách địa phương.
- Thu hút lao động bình quân 1500 người/năm.
3.1.2. Định hướng phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ theo quan
điểm của tác giả luận văn
Xuất phát từ những quan điểm, định hướng chỉ đạo chung của Đảng,
Chính phủ và những nghị quyết của thị xã Sơn Tây về phát triển DNVVN, tác
giả luận văn nêu một số hướng cơ bản đối với đặc thù thị xã Sơn Tây để phát
triển DNVVN như sau:
Một là, khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi phát triển các DNVVN
hoạt động sản xuất có tính chuyên môn cao, hiệu quả, ổn định; nhất là các
ngành sản xuất có thế mạnh và mang tính truyền thống như sản xuất hàng thủ
công, mỹ nghệ, dệt may, sản xuất vật liệu xây dựng, cơ khí…
Hai là, khuyến khích tạo điều kiện thành lập và phát triển nhiều
DNVVN, chú trọng sự phát triển một số DN có uy tín, đầu đàn, tạo ra các sản
phẩm có chất lượng, uy tín cao trên thị trường Thủ đô và cả nước.
Ba là, ban hành một số cơ chế chính sách đặc thù để phát triển nhanh,
mạnh và hiệu quả các DNVVN.
Bốn là, vừa tạo điều kiện thuận lợi nhất cho việc ra đời các DN mới,
vừa chăm lo, theo dõi, nâng đỡ và quản lý tốt toàn bộ hệ thống các DN.
Năm là, khuyến khích và có các chính sách ưu đãi đầu tư đối với các
doanh nghiệp kinh doanh ngành nghề thu hút nhiều lao động, doanh nghiệp
61
tiêu thụ sản phẩm cho các làng nghề, làm đầu tàu trong phát triển làng nghề.
Sáu là, tiếp tục ưu tiên phát triển nghề và làng nghề, khuyến khích các
tổ chức, cá nhân đưa các nghề mới có hiệu quả kinh tế và tạo việc làm cho
khu vực nông thôn.
Bảy là, coi việc phát triển DNVVN cũng là nhiệm vụ chung của tổ
chức Đảng, chính quyền, đoàn thể và của cả cộng đồng để phát huy sức mạnh
tổng hợp chung.
3.2. Những giải pháp chủ yếu để phát triển doanh nghiệp vừa và
nhỏ ở thị xã Sơn Tây
Từ thực tiễn những hạn chế và nổi cộm đang đặt ra đối với hoạt động
của các DNVVN ở Sơn Tây đã trình bày cuối chương 2, trên cơ sở những
định hướng vừa nêu trên, tác giả luận văn khuyến nghị một số giải pháp chủ
yếu để phát triển DNVVN như sau:
3.2.1. Hoàn thiện môi trường pháp lý cho việc phát triển kinh doanh
vừa và nhỏ
Đây là giải pháp kinh tế vĩ mô được quyết định của cấp Nhà nước,
Chính phủ và Thành phố. Tuy nhiên đó cũng là vấn đề quyết định đối với một
địa bàn địa phương như thị xã Sơn Tây.
Thể chế kinh tế và môi trường pháp lý là nhân tố quan trọng hàng đầu
ảnh hưởng đến phát triển DNVVN. Môi trường thể chế là tổng hợp các quy
định pháp quy và các quy ước của cộng đồng mà phụ thuộc vào chúng, các
doanh nghiệp sẽ hình thành, tồn tại, phát triển hay tiêu vong.
Ở Việt Nam, môi trường pháp lý cho việc phát triển DNVVN đã được
hình thành thông qua việc Nhà nước ban hành các luật như Luật doanh nghiệp
nhà nước, Luật công ty, Luật doanh nghiệp tư nhân, Luật hợp tác xã, Luật
khuyến khích đầu tư trong nước và nhiều chính sách có liên quan đến phát triển
DNVVN. Tuy nhiên môi trường đó chưa thật hoàn chỉnh vì hầu hết các luật đó
đều áp dụng chung cho các doanh nghiệp, trong đó có DNVVN. Các chính
62
sách cho DNVVN còn tản mạn, chưa có hệ thống chính sách riêng cho phát
triển DNVVN, các chính sách chưa đầy đủ và đồng bộ, chưa thực sự tạo được
sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế. Vì vậy đã đến lúc Nhà nước sớm ban
hành các hệ thống chính sách, các quy định chính thức về DNVVN, xác định
ngành nghề, lĩnh vực, đối tượng các doanh nghiệp được ưu đãi, hỗ trợ.
* Về hoàn thiện khung hình pháp lý.
Để đẩy mạnh hơn nữa việc hoàn thiện khung khổ pháp lý cần thực hiện
một số giải pháp sau:
- Đổi mới quản lý nhà nước đối với các DNVVN. Thực hiện phương
châm Nhà nước không can thiệp sâu vào nội bộ và hoạt động sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp. Đảm bảo quyền tự do, tự chủ, tự chịu trách nhiệm
trước pháp luật của các DNVVN. Xây dựng một môi trường bình đẳng giữa
các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế. Tôn vinh những doanh
nghiệp, doanh nhân tiêu biểu, làm ăn có hiệu quả theo quy chế khen thưởng
doanh nghiệp của thị xã.
- Trong quá trình xây dựng văn bản pháp luật cần có sự tham gia rộng
rãi của các cơ quan quản lý nhà nước có liên quan, các nhà khoa học, các nhà
nghiên cứu và đặc biệt là có sự tham gia của các hiệp hội doanh nghiệp, các
doanh nghiệp, doanh nhân bởi họ là đối tượng chịu sự điều chỉnh của các văn
bản đó. Quá trình thực hiện cũng cần thường xuyên tiếp nhận thông tin, đối
thoại với các đối tượng thuộc khu vực tư nhân (bởi phần lớn DNVVN là
doanh nghiệp tư nhân). Điều này sẽ giúp việc soạn thảo và thực thi tốt hơn
các chính sách đối với DNVVN, nhờ đó tiến tới hoàn thiện khung khổ pháp lý
cho sự phát triển các DNVVN của tỉnh và rộng hơn nữa là trên cả nước.
- Thường xuyên công khai các chính sách, quy định mới và tiến hành
đánh giá các tác động của các chính sách đó tới các doanh nghiệp, xây dựng
hệ thống thu nhập thông tin một cách chính thức các ý kiến thắc mắc của
DNVVN. Một mặt, nhằm phát triển những quy định trái với lợi ích của doanh
63
nghiệp và trái với quy phạm pháp luật khác, Mặt khác, giúp các doanh nghiệp
nắm rõ các cơ chế chính sách có ảnh hưởng đến hoạt động SXKD của mình
theo hướng tích cực, hiệu quả. Việc thu thập cần tiến hành có tính định kỳ và
trở thành việc làm thường xuyên. Các cơ quan này phải có trách nhiệm thông
báo lịch trình giải quyết các khiếu nại của DNVVN và xử lý nghiêm những
trường hợp cán bộ, công chức làm sai. Có như vậy mới tạo được lòng tin
trong giới doanh nhân vào lập trường, quyết tâm của chính quyền là cùng
nhau xây dựng và phát triển. Đây là một trong những yếu tố quyết định tốc độ
phát triển của doanh nghiệp nói chung và của DNVVN nói riêng.
* Đẩy mạnh cải cách hành chính.
Theo đánh giá của WEF (World Economic Forum), chi phí ngoài luật
mà doanh nghiệp Việt Nam phải chịu rất cao. Đây là hậu quả của hệ thống
hành chính rườm rà, thiếu minh bạch. Để cải thiện tình hình này, Chính phủ
cần đẩy nhanh tốc độ cải cách hành chính trên cơ sở tạo thuận lợi nhưng
không buông lỏng các hoạt động SXKD của các loại hình doanh nghiệp.
Đặc biệt đối với thị xã Sơn Tây cần tiếp tục chỉ đạo các phòng, ban
chức năng, các xã, phường đổi mới phương pháp làm việc, chủ động phối hợp
giải quyết công việc tạo cơ chế, chính sách thông thoáng trong các thủ tục
hành chính để thu hút đầu tư, có biện pháp tháo gỡ khó khăn cho các doanh
nghiệp phát triển sản xuất. Tăng cường trách nhiệm trong công tác quản lý
nhà nước về công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp tại các xã, phường.
Với thủ tục hành chính đơn giản, thuận tiện, hiệu quả sẽ giúp cho tỷ lệ
đầu tư tăng lên, qua đó giúp các doanh nghiệp có khả năng cạnh tranh tốt hơn,
đóng phần tăng trưởng kinh tế và tạo việc làm.
3.2.2. Hoàn thiện các chính sách hỗ trợ phát triển doanh nghiệp vừa
và nhỏ
Muốn các doanh nghiệp, đặc biệt là các DNVVN của thị xã Sơn Tây
64
phát triển thì phải thực hiện đồng thời các giải pháp về chính sách sau:
* Chính sách tín dụng
Tình hình phổ biến của các DNVVN tại Sơn Tây hiện nay là vấn đề về
tài chính, nhất là khó khăn về vốn. Đa phần vốn của các DNVVN tại thị xã
được là vốn tự có, vay mượn của người thân mà nguồn vốn nhàn rỗi trong dân
cư chủ yếu lại được cất trữ, nên các DNVVN gặp rất nhiều khó khăn trong
việc huy động vốn. Đặc biệt, nguồn vốn tín dụng Nhà nước đối với các
DNVVN tiếp cận được còn rất xa vời.
Trên thực tế những quy định hiện hành và quy tắc điều chỉnh về việc
tiếp cận với tín dụng của ngân hàng dài hạn và trung hạn đã có sự phân biệt
đối xử với các DNVVN, thường chỉ ưu tiên các doanh nghiệp nhà nước. Bởi
vậy, cần phải tạo ra một “sân chơi bình đẳng” về tín dụng trung và dài hạn
để tất cả người đi vay đều tuân thủ những thể lệ giống nhau. Đặc biệt cần đơn
giản hóa các thủ tục để các DNVVN nhất là các doanh nghiệp siêu nhỏ có thể
tiếp cận vốn vay một cách nhanh chóng, kịp thời triển khai các phương án
hoạt động SXKD. Cải tiến để đơn giản nữa thủ tục cho vay vốn, với số lượng
tiền cho vay và thời hạn cho vay phù hợp với yêu cầu SXKD của từng ngành
nghề. Mặt khác, tăng cường các dịch vụ thanh toán, bảo lãnh, tư vấn cho
DNVVN.
Nghiên cứu, rà soát đổi mới chính sách theo hướng thực hiện tốt hơn
chính sách khuyến khích, ưu đãi các nhà đầu tư SXKD tại Sơn Tây.
* Chính sách thuế
Đây là một chính sách quan trọng và được áp dụng phổ biến trên thế
giới trong việc hỗ trợ các DNVVN. Để vừa đảm bảo nguồn thu cho ngân sách
vừa góp phần thúc đẩy phát triển các DNVVN, ngoài việc kiến nghị Trung
ương tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách thuế như đơn giản hóa hệ thống thuế
theo hướng giảm bớt thuế suất, đảm bảo tính ổn định tương đổi của chính
sách thuế (ít nhất từ 3 - 5 năm), đảm bảo tính công bằng trong chính sách
65
thuế, đổi mới tư duy thu thuế, chuyển từ ý tưởng “tận thu” sang ý tưởng “nuôi
dưỡng nguồn thu”… thì địa phương cần đổi mới trong khâu triển khai thực
hiện tốt chính sách thuế trên địa bàn thị xã. Cụ thể:
- Tăng cường công tác phổ biến, tuyên truyền pháp luật và chính sách
thuế để các DNVVN, nhất là các hộ kinh doanh cá thể nắm được đầy đủ các
thông tin về thuế và các ưu đãi về thuế. Các ưu đãi về thuế cần được hướng
dẫn kịp thời, rõ ràng và triển khai đồng bộ, tránh tình trạng mỗi ngành hiểu
một cách nên triển khai thực hiện không thống nhất.
- Tăng cường công tác quản lý thu thuế nhằm đảm bảo tính công bằng
về nghĩa vụ thuế giữa các chủ thể kinh doanh. Đây là vấn đề có ý nghĩa rất
quan trọng, nhằm khuyến khích xu hướng lành mạnh, tạo điều kiện cho các
doanh nghiệp làm ăn đúng đắn, nghiêm túc. Điều cấp bách hiện nay là phải
hạn chế tình trạng trốn thuế khá phổ biến trong khu vực ngoài quốc doanh,
đặc biệt là các hộ kinh doanh cá thể. Để thực hiện điều đó, cần giảm dần và
tiến tới xóa thuế khoán, tiến tới áp dụng hệ thống tự kê khai báo thuế. Muốn
vậy các chủ thể kinh doanh thực hiện tốt các chế độ chứng từ, sổ sách kế toán,
thống nhất cách thức tính thuế giá trị gia tăng để tránh sự khác biệt không
đáng có.
- Cơ quan thuế phối hợp cùng các hữu quan tích cực giúp đỡ và thúc
đẩy các doanh nghiệp thực hiện tốt chế độ số sách kế toán. Đây là khâu chủ
yếu để thực hiện tốt việc tính thuế và thu thuế. Việc trợ giúp có thể được thực
hiện dưới nhiều hình thức: Tổ chức bồi dưỡng, tập huấn nghiệp vụ kế toán,
phát triển các dịch vụ kế toán… Đối với các DNVVN mới thành lập cần phải
cam kết thực hiện chế độ kế toán như là một điều kiện để được ĐKKD.
- Đối với các DNVVN chưa có điều kiện thực hiện đầy đủ, đúng đắn
chế độ kế toán, hóa đơn, chứng từ (phải chịu hình thức thuế khoán) cần có
phương thức tính và thu thuế hợp lý. Mức thuế khoán phải công khai, phù hợp
với quy mô, điều kiện kinh doanh của doanh nghiệp trong từng thời kỳ hay
66
chu kỳ kinh doanh. Tránh tình trạng gây khó khăn cho hoạt động SXKD của
doanh nghiệp hoặc hiện tượng thông đồng giữa cán bộ thuế với chủ doanh
nghiệp để trốn lậu thuế.
- Cùng với việc trợ giúp cần kiên quyết xử lý nghiêm minh những hành
vi vi phạm chế độ kế toán, chế độ thuế đối với tất cả các doanh nghiệp, với
cán bộ thuế.
- Thường xuyên tổ chức, bồi dưỡng, tập huấn để nâng cao trình độ đội
ngũ cán bộ thuế, tổ chức công tác thu thuế…
- Tăng thời gian ưu đãi thuế đối với các DNVVN mới thành lập nhằm
giúp cho các doanh nghiệp có điều kiện tích lũy, ổn định sản xuất và phát
triển sản xuất tới mức đứng vững trên thị trường, qua đó tạo nguồn thu ổn
định, lâu dài. Đối với các hoạt động đổi mới công nghệ, đầu tư vào sản xuất
sản phẩm mới, có thể miễn thuế. Đồng thời mở rộng đối tượng ưu đãi, quan
tâm ưu đãi theo quy mô để tạo điều kiện cho các DNVVN vượt lên sự yếu ớt
của họ và kinh doanh có hiệu quả. Ngoài ra, cần có thêm sự ưu đãi đối với các
doanh nghiệp thu hút nhiều lao động và thu hút được nhiều vốn.
* Chính sách đất đai
Đất đai và các công trình xây dựng và các yếu tố không thế thiếu được
đối với doanh nghiệp, bao gồm cả DNVVN. Tuy nhiên vấn đề đất đai vẫn là
một trong những thách thức lớn nhất đối với các doanh nghiệp đặc biệt là
DNVVN do hệ thống cấp phép của Chính phủ đối với thực hiện quyền sử
dụng đất rất phiền toái, quan liêu, không có hiệu quả kinh tế và tạo những cơ
hội đòi hối lộ và lạm dụng chức quyền… Bởi vậy cần phải:
- Thống nhất và hiện đại hóa việc đăng ký đối với đất đai và các công
trình xây dựng và hợp lý hóa các thủ tục đăng ký đất đai và công trình xây
dựng.
67
- Làm rõ và đẩy nhanh các thủ tục cấp quyền sử dụng đất đai và nhà cửa.
- Khuyến khích nhân dân, DN đăng ký quyền sử dụng đất bằng cách
loại bỏ những biện pháp tài chính nặng nề đối với đăng ký sử dụng đất và các
công trình xây dựng.
- Quy định các thủ tục rõ ràng, đơn giản và hợp lý để giải quyết các
tranh chấp và kiện tụng nhằm giải quyết vấn đề sở hữu và quyền sử dụng,
thậm chí trong trường hợp những tài liệu cần thiết không có.
Ở thị xã Sơn Tây cần tiếp tục thu hút và tạo điều kiện cho các DN vào
địa bàn thị xã thuê đất đầu tư sản xuất công nghiệp để tạo ra sản phẩm mới có
thế mạnh cạnh tranh trên thị trường trong nước và có khả năng xuất khẩu. Ưu
tiên phát triển công nghiệp sạch như điện tử, cơ kim khí, dệt may… và các
DN thu hút nhiều lao động. Cải thiện môi trường đầu tư, triển khai thực hiện
chính sách khuyến khích thu hút đầu tư của thành phố. Tạo điều kiện thuận
lợi cho các nhà đầu tư, các nghệ nhân giỏi đầu tư vào thị xã phát triển sản
xuất công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp để đào tạo đội ngũ cán bộ, công
nhân, thợ thủ công nhằm nâng cao trình độ, chất lượng quản lý lao động, quản
lý sản xuất và trình độ chuyên môn cho người lao động. Khuyến khích, tạo
điều kiện để các doanh nghiệp đầu tư đổi mới công nghệ sản xuất sản phẩm
công nghiệp.
Tăng cường công tác quản lý nhà nước về công nghiệp - tiểu thủ công
nghiệp, đôn đốc các dự án thuê đất phát triển công nghiệp - tiểu thủ công
nghiệp khẩn trương đầu tư phát huy hiệu quả sử dụng đất và góp phần phát
triển kinh tế thị xã. Rà soát, sắp xếp và xử lý tồn tại của các hợp tác xã sản
xuất tiểu thủ công nghiệp nhằm tạo điều kiện cho các hợp tác xã phát triển và
phát huy vai trò của kinh tế tập thể trong sản xuất công nghiệp - tiểu thủ công
nghiệp.
Tuyên truyền, phổ biến cơ chế chính sách của thành phố và những cơ
chế chính sách của địa phương đến các phòng ban, tổ chức đoàn thể, các xã,
68
phường, DN, hộ sản xuất kinh doanh để động viên, khuyến khích việc thuê đất
đầu tư phát triển công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp trên địa bàn. Hỗ trợ kinh
phí đào tạo nghề cho các DN mới đầu tư thuê đất tại khu, cụm công nghiệp để
đào tạo, nâng cao trình độ, tay nghề cho công nhân làm việc tại DN.
Triển khai xây dựng hạ tầng kỹ thuật khu công nghiệp Xuân Sơn -
Thanh Mỹ theo Quyết định số 1081/QĐ - TTg ngày 06/07/2011 của Thủ
tướng Chính phủ, cụm công nghiệp Sơn Đông quy mô 50 ha, xác định vị trí
để quy hoạch thêm một số cụm công nghiệp trên địa bàn phấn đấu tổng diện
tích xây dựng khu, cụm công nghiệp mới đạt 300 - 350 ha. Kêu gọi các DN
đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng các khu, cụm công nghiệp đồng bộ, kịp thời,
tạo quỹ đất sạch và khuyến khích các hình thức kêu gọi, thu hút đầu tư phát
triển công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp vào địa bàn theo các quy định của
Nhà nước và những ưu đãi của thị xã.
Thực hiện tốt công tác quản lý đất đai, thường xuyên kiểm tra, rà soát
để thu hồi những diện tích đất được giao, thuê không sử dụng để giải quyết
cho các DN khác có nhu cầu thuê nhằm tăng hiệu quả sử dụng đất phát triển
kinh tế thị xã.
* Chính sách công nghệ và môi trường
Công nghệ là một trong những yếu tố then chốt, quyết định sự thành
bại của mỗi DN trong cạnh tranh trên thị trường. Hiện nay, một trong những
vấn đề lớn đối với các DNVVN trên địa bàn thị xã là trình độ công nghệ thấp
dẫn đến chất lượng thấp, khả năng cạnh tranh kém. Vì vậy đổi mới công nghệ
ở các DNVVN và các làng nghề truyền thống của thị xã là vấn đề cấp bách
nhưng cũng vô cùng khó khăn. Để có thể đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế
vừa đảm bảo được các mục tiêu xã hội khi giải bài toán “công nghệ” này
chúng ta cần có những giải pháp mang tính thổng thể, đồng bộ từ chiến lược
phát triển DNVVN.
Đối với DNVVN, điều quan trọng trong việc thay đổi công nghệ là lựa
69
chọn và ứng dụng công nghệ thích hợp, không nhất thiết cứ phải là công nghệ
hiện đại, mà cần tìm loại công nghệ thích hợp với khả năng về vốn, trình độ
công nhân cũng như trình độ quản lý của chủ DN nhưng cũng phải phù hợp
với xu thế hiện đại.
Thị xã cần phải có các giải pháp cụ thể để hỗ trợ các DNVVN trong
việc thay đổi công nghệ:
- Tạo môi trường thuận lợi cho DNVVN đổi mới công nghệ.
Phổ biến và hỗ trợ thông tin để các DN nắm bắt kịp thời về công
nghệ mới, giúp DN lựa chọn đánh giá công nghệ.
Tạo điều kiện để các DNVVN nhập cuộc thị trường, qua đó sẽ làm
tăng sự cạnh tranh và tạo ra động lực thúc đẩy đổi mới công nghệ.
UBND thị xã và các ngành chức năng hỗ trợ giúp tác động tạo áp
lực ở mức cần thiết để các DN phải sớm thay đổi công nghệ tiên tiến – thiết bị
hiện đại thông qua các văn bản pháp quy của thị xã như quy định về thời gian,
thời hiệu đình chỉ hoạt động đối với các DNVVN sử dụng công nghệ cần thay
thế, loại bỏ công nghệ tạo mức độ ô nhiễm môi trường môi sinh lớn.
Cho phép các DNVVN đầu tư máy móc thiết bị mới được tiến hành
trích khấu hao nhanh. Theo kinh nghiệm của một số nước, đây là một trong
những biện pháp ưu đãi thuế thành công nhất được sử dụng để khuyến khích
các DN đầu tư thiết bị và máy móc mới [4, tr.137].
- Khuyến khích DNVVN chú trọng đầu tư đổi mới công nghệ thông
qua nguồn vốn vay các dự án đổi mới công nghệ với lãi suất ưu đãi.
- Khuyến khích các hợp đồng thuê tài chính, bán trả góp để các
DNVVN có thể đổi mới hoặc nâng cấp máy móc thiết bị mới một cách tốt
hơn.
- Mở rộng các hoạt động cho thuê máy móc thiết bị. Đây là giải pháp
phù hợp với thực trạng không đủ tài sản thuế chấp và năng lực lập dự án của
70
DNVVN.
- Tăng cường quản lý nhà nước về chất lượng các dự dán đầu tư đổi
mới công nghệ. Hầu hết DNVVN hạn chế về khả năng này nên UBND thị xã
và các ngành chức năng giúp DN làm tốt khâu phân tích môi trường kinh
doanh và công nghệ, phân tích thực trạng công nghệ của DN…, xác định cho
DN mục tiêu đổi mới công nghệ để thẩm định và lựa chọn dự án đầu tư đổi
mới DN phù hợp, hiệu quả.
- Phải có chiến lược, kế hoạch đào tạo đội ngũ cán bộ kỹ thuật, công
nhân kỹ thuật đồng bộ, tương ứng với chiến lược, kế hoạch đổi mới công
nghệ để có thể vận hành và phát huy ngay hiệu quả của công nghệ mới, của
máy móc thiết bị hiện đại.
Về môi trường, với đa số công nghệ cũ, thiết bị lạc hậu của các DN và
với nhận thức chưa đầy đủ, đúng đắn của các nhà quản lý sản xuất, người sử
dụng lao động nên hầu hết các cơ sở sản xuất trong thị xã đều không đảm bảo
được các quy định về bảo vệ môi trường, đã tác động rất xấu đến sức khỏe
con người. Để giải quyết vấn đề này phải:
- Tuyên truyền, giáo dục cho các cơ sở sản xuất nhận thức đầy đủ, đúng
đắn về tính cấp thiết của vấn đề xử lý chất thải, bảo vệ môi trường. Từ đó, yêu
cầu các đơn vị phải thực hiện đúng luật môi trường.
- Tăng cường công tác thẩm định báo cáo đánh giá tác động môi
trường, cấp giấy chứng nhận kiểm soát ô nhiễm, giấy phép về môi trường,
đồng thời đẩy mạnh hoạt động thanh tra môi trường.
3.2.3. Tạo lập và mở rộng thị trường cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ
Thị trường là yếu tố mang tính chất tổng hợp, là nhân tố quan trọng
hàng đầu tạo ra môi trường kinh doanh thuận lợi cho các DN. Đối với các
DNVVN trên địa bàn thị xã Sơn Tây hiện nay thì khó khăn lớn nhất là vấn đề
thị trường, đặc biệt là thị trường đầu ra cho sản phẩm. Trong quá trình hội
nhập kinh tế quốc tế, nhất là từ sau khi Việt Nam trở thành thành viên thứ 150
71
của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), các DNVVN Việt Nam nói chung
và ở thị xã Sơn Tây nói riêng đứng trước những khó khăn và thách thức lớn.
Bởi vậy, cần nhất là phải có một chiến lược thị trường hữu hiệu để các
DNVVN có thể đứng vững trên thị trường, nâng cao sức mạnh cạnh tranh của
bản thân doanh nghiệp. Cụ thể:
- Tạo điều kiện pháp lý, hoàn thiện môi trường vĩ mô để hình thành
thị trường vốn, thị trường lao động, thị trường tài chính… phát triển làm tiền
đề cho thị trường thương mại phát triển với tốc độ cao.
- Chiến lược phát triển kinh tế của thị xã phải được xây dựng chính
xác, ổn định để giúp các DN xây dựng chiến lược và định hướng điều chỉnh
hoạt động của mình sao cho phù hợp với chiến lược chung của thị xã.
- Tích cực hỗ trợ tìm kiếm thị trường tiêu thụ mới cho DN đồng thời
phải tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát thị trường, chống buôn lậu, hàng
giả và gian lận thương mại, buôn bán hàng quốc cấm và kinh doanh trái phép,
xử lý nghiêm minh các hành vi vi phạm pháp luật; bình ổn thị trường xã hội,
tạo môi trường kinh doanh lành mạnh, thông thoáng giữa các vùng miền trong
tỉnh, hội nhập với thị trường trong và ngoài nước.
- Tổ chức tốt công tác thông tin, dự báo thị trường cho các DN, tổ
chức các dịch vụ tư vấn tiếp thị để giúp các DN nắm bắt các cơ hội đầu tư
kinh doanh; tạo điều kiện cho các doanh nhân trong thị xã tiếp cận, tham
quan, khảo sát tìm đối tác, khai thác thị trường trong và ngoài nước để liên
doanh, liên kết có hiệu quả, chiếm lĩnh được thị trường trong và ngoài nước.
Nâng cao chất lượng thông tin, dự báo thị trường xu hướng biến động về cung
cầu và giá. Tăng cường thông tin, giới thiệu các chủ trương, hiệp định, chính
sách hội nhập của Nhà nước ta tạo điều kiện cho các DN trong thị xã chủ
động hội nhập tốt hơn.
- Tiếp tục đẩy mạnh hoạt động xúc tiến thương mại với xúc tiến đầu
tư tìm kiếm thị trường. Thị xã cần hỗ trợ cho các DN trong việc xây dựng
72
thương hiệu như: tăng cường các hoạt động quảng bá giới thiệu sản phẩm, thủ
công mỹ nghệ của các làng nghề, dịch vụ du lịch, tham gia hội chợ triển lãm,
đăng ký bảo hộ độc quyền thương hiệu.
- Tạo điều kiện, khuyến khích đối với các dự án đầu tư cho phát triển
thương mại như: Dự án xây dựng trung tâm thương mại hội chợ và triển lãm,
các siêu thị, chợ trung tâm.
3.2.4. Nâng cao trình độ quản lý của chủ doanh nghiệp và đào tạo
nghề cho người lao động
Thị trường lao động mở ra nhiều hình thức và theo hướng công nghiệp
hóa đang đòi hỏi nguồn nhân lực phải được đào tạo để có trình độ tay nghề
chuyên môn cao, đáp ứng các yêu cầu của sản xuất. Tuy nhiên, nguồn nhân
lực trên cả nước cũng như của thị xã Sơn Tây chất lượng còn thấp, cơ cấu
trình độ ngành nghề chưa hợp lý, năng lực đào tạo, giảng dạy hạn chế. Đội
ngũ chủ doanh nghiệp đặc biệt là DNVVN còn thiếu kiến thức về quản trị
doanh nghiệp, về trình độ chuyên môn. Theo một nghiên cứu của Tổng cục
Thống kê: Tỷ lệ chủ DN không có bằng cấp chuyên môn về lĩnh vực kinh
doanh ở khu vực DNVVN là cao nhất, chiếm tới 43,38% (con số này ở doanh
nghiệp nhà nước là 2,79%, ở doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là
11,55%); chủ DN có trình độ cao đẳng trở lên chỉ chiếm 35%, nhiều chủ DN
trình độ còn chưa hết phổ thông trung học. Do đó, việc đào tạo bồi dưỡng
nguồn nhân lực của thị xã cần phải có tính chiến lược lâu dài, lại vừa có thể
giải quyết được những vấn đề cấp bách. Trong thời gian tới, việc đào tạo, bồi
dưỡng nguồn nhân lực và đội ngũ chủ DN cần tập trung vào một số nhiệm vụ
chủ yếu sau:
* Về đào tạo đội ngũ chủ DN.
Cần đa dạng hóa các loại hình đào tạo, bồi dưỡng bằng nhiều phương
pháp khác nhau để phù hợp với yêu cầu đa dạng của chủ DN và xây dựng hệ
thống đào tạo như các cơ sở chính quy của nhà nước, các trường lớp của các
73
ngành, các tổ chức xã hội, tổ chức kinh tế, các cơ sở của DN và tư nhân mở;
phương thức đào tạo khác nhau nhưng phải có sự thống nhất trong quản lý, có
kỷ cương trong đào tạo trên cơ sở ban hành những chính sách và quy định cụ
thể. Chiến lược đào tạo phải đáp ứng yêu cầu về trình độ, kỹ năng quản lý sản
xuất kinh doanh hiện đại gắn với thực tế của thị xã, hướng về những vướng
mắc trong thực tế quản lý hoạt động sản xuất kinh doanh trong nền kinh tế thị
trường hiện nay.
Tạo điều kiện thường xuyên cho cán bộ quản lý, kỹ thuật giao lưu trong
và ngoài nước để kịp thời nắm bắt được các thông tin, cập nhật về thị trường
và các đối tác cạnh tranh.
Bên cạnh đó thị xã cần chú trọng đào tạo nâng cao nghiệp vụ quản lý
và tư vấn, hỗ trợ, khuyến khích cá nhân sản xuất kinh doanh thành lập doanh
nghiêp.
Hỗ trợ về kinh phí để tổ chức lớp học cho những người quản lý DN,
người dại diện theo pháp luật của DN về pháp luật nói chung và pháp luật về
DN nói riêng những kiến thức cơ bản về quản lý, về thị trường và phân tích
tình hình tài chính. Cần thống nhất chương trình, nội dung và đối tượng được
hỗ trợ đào tạo giữa các đơn vị được giao quản lý các nguồn kinh phí hỗ trợ
đào tạo (Quỹ khuyến công, khuyến thương, khuyến nông và nguồn kinh phí
hỗ trợ đào tạo cho DNVVN).
Hỗ trợ về kinh phí để phổ biến, tuyên truyền, hướng dẫn Luật DN, pháp
luật có liên quan và kiến thức cơ bản về thành lập và quản lý DN đến các cá
nhân sản xuất kinh doanh và các đối tượng có nhu cầu thành lập DN.
* Về đào tạo đội ngũ người lao động.
Để phát triển kỹ năng và nâng cao chất lượng lao động, tỉnh cần thực
hiện một số giải pháp sau:
Phải có các chính sách sử dụng hợp lý và đãi ngộ thỏa đáng, khai thác
một cách có hiệu quả nhất các nguồn nhân lực để phục vụ cho sự nghiệp phát
74
triển kinh tế - xã hội trên địa bàn như chính sách thu hút nhân tài, các chính
sách ưu đãi, trọng dụng đối với các nghệ nhân trong các làng nghề truyền
thống để phục vụ và phát triển nghề, khuyến khích họ sáng tạo, truyền nghề
cho con cháu, chính sách khuyến khích vật chất và tinh thần cho những người
lao động có tay nghề cao, cán bộ quản lý giỏi có đóng góp nhiều cho DN, tạo
nên phong trào thi đua rộng khắp trong các DN.
Đẩy mạnh công tác khuyến công và phát triển làng nghề:
- Quan tâm phát triển ngành nghề, làng nghề mới; đặc biệt là chế biến
nông sản, các sản phẩm phục vụ đời sống dân sinh và phục vụ khách du lịch.
- Phát huy hiệu quả các Trung tâm học tập cộng đồng; thực hiện đa
dạng hóa ngành nghề đào tạo thông qua việc liên kết với các trường dạy nghề,
liên kết với các nghệ nhân, chủ DN chế biến và xuất khẩu sản phẩm tiểu thủ
công nghiệp để nhân cấy, dạy nghề cho lao động chưa có việc làm tại địa
phương.
- Khuyến khích Đoàn thanh niên, Hội phụ nữ, Hội cựu chiến binh,
Hội sinh vật cảnh và các đoàn thể xây dựng các chương trình đào tạo nghề
cho thanh niên, nhân rộng các điển hình doanh nhân và mô hình kinh doanh
giỏi nhằm giải quyết việc làm và thu nhập tại chỗ cho người lao động.
- Đẩy mạnh công tác khuyến công, đào tạo nghề; xây dựng thêm các
làng nghề phát triển công nghiệp chế biến sản phẩm nông sản phục vụ dân
sinh, du lịch và xuất khẩu. Hàng năm trích một phần kinh phí từ ngân sách thị
xã cùng Quỹ khuyến công thành phố và khuyến công quốc gia phục vụ cho
việc đào tạo nhân cấy nghề, đặc biệt quan tâm đầu tư cho việc xây dựng, hình
thành các làng nghề tại xã, phường.
- Khuyến khích các DN, doanh nhân, các hợp tác xã dịch vụ thực hiện
liên kết, liên doanh với các đối tác nhằm tìm kiếm mở rộng thị trường, thúc
đẩy sản xuất và tiêu thụ hàng hóa sản xuất ra.
Nâng cấp cơ sở vật chất cho các cơ sở dạy nghề, bồi dưỡng và đào tạo
75
giáo viên dạy nghề; nghiên cứu hoàn thiện nội dung, chương trình giảng dạy;
hình thành hệ thống đào tạo kỹ thuật thực hành, liên thông giữa các trình độ
đào tạo và các bậc đào tạo trong hệ thống giáo dục quốc gia. Dạy nghề trình
độ sơ cấp nhằm tạo cho người lao động năng lực thực hành một số nhiệm vụ
của một nghề; dạy nghề trình độ trung cấp nhằm tạo cho người lao động năng
lực thực hành tất cả các nhiệm vụ của một nghề, có khả năng làm việc độc
lập; dạy nghề trình độ cao đẳng nhằm rạo cho người lao động năng lực thực
hành tất cả các nhiệm vụ và công việc của một nghề, có tính sáng tạo, có khả
năng làm việc độc lập và ứng dụng kỹ thuật, công nghệ vào công việc. Hệ
thống dạy nghề theo ba cấp trình độ sẽ đào tạo được một đội ngũ công nhân
có sự thay đổi về chất, đặc biệt là đội ngũ công nhân có trình độ cao, được
trang bị kiến thức chuyên môn, kỹ năng nghề thành thạo, có tư duy sáng tạo.
3.2.5. Thực hiện sự liên kết và hợp tác giữa các doanh nghiệp vừa và
nhỏ với nhau
Tạo mọi điều kiện thuận lợi để các DN hoạt động theo ngành nghề và
tham gia xây dựng các hội, hiệp hội, đồng thời đổi mới, nâng cao chất lượng,
hiệu quả hoạt động của các hội, hiệp hội. Thông qua các hội, hiệp hội,
DNVVN có thể liên kết với nhau, hỗ trợ nhau về vốn, kỹ thuật trong quá trình
sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Qua đó, các DNVVN có thể trao đổi kinh
nghiệm, và tìm kiếm cơ hội kinh doanh, hỗ trợ nhau trong phát triển sản xuất
và nâng cao năng lực cạnh tranh của DN trên thị trường.
Để thực hiện liên kết các DN có hiệu quả, cần phải có quy hoạch tốt,
quy hoạch đó cần chú ý đầy đủ đến mối quan hệ kết hợp giữa các DN, đến
phân nhóm chuyên ngành, theo đó các khu, cụm công nghiệp đã và đang hình
thành cần phải có sự quy hoạch để các DNVVN hoạt động trong đó, để sự hỗ
trợ lấn nhau giữa các DN có hiệu quả hơn.
3.2.6. Nhóm giải pháp đối với bản thân các doanh nghiệp
Bên cạnh việc các cấp chính quyền tạo điều kiện môi trường kinh
76
doanh, môi trường pháp lý, về chính sách… để các DN phát triển thì tự bản
thân các DNVVN cũng phải chủ động tìm tòi, sử dụng các biện pháp nhằm
nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp mình, để nâng cao
sức cạnh tranh của DN trong nền kinh tế đang mở cửa hội nhập như hiện nay.
Một số giải pháp đó là:
Thứ nhất: DNVVN cần xác định cho đúng chiến lược phát triển sản
xuất kinh doanh để có quyết định đầu tư đúng, có hiệu quả cao tạo thế chủ
động hội nhập trong và ngoài nước, huy động và quản lý có hiệu quả vốn và
tài sản DN. Các DNVVN cần hình thành kỹ năng xây dựng dự án SXKD
mang tính khả thi làm cơ sở tạo lòng tin đối với ngân hàng. Để dễ dàng tiếp
cận với nguồn vốn, DNVVN cần liên kết lại thành các nhóm kinh doanh theo
ngành nghề với sự bảo trợ của chính quyền thị xã hoặc các tổ chức xã hội
đoàn thể. Để nâng cao năng lực cạnh tranh trong điều kiện quy mô vốn nhỏ
bé, các DNVVN cần chủ động liên kết, sát nhập lại với nhau.
Thứ hai: Các DNVVN cần nhanh chóng đổi mới công nghệ. Trước mắt
để cải thiện tình hình lạc hậu về công nghệ trong điều kiện trong nước không
đáp ứng được DNVVN cần phải nhập khẩu thiết bị máy móc. Tuy nhiên
không phải cứ công nghệ cao, hiện đại là tốt mà điều quan trọng là DN phải
lựa chọn cho mình công nghệ phù hợp với điều kiện sản xuất, đặc thù sản
phẩm, trình độ tay nghề của người lao động nhằm tối ưu hóa việc kết hợp các
nguồn lực để đạt được hiệu quả cao, từ đó tạo điều kiện tăng năng suất lao
động, hạ giá thành sản phẩm.
Đẩy mạnh hoạt động của DN trên thị trường công nghệ, trong đó chú
trọng tới việc liên tục cải tiến và chuyển giao công nghệ đã tiếp nhận của các
DNVVN cho các tổ chức có nhu cầu. DNVVN cần chủ động tìm kiếm để cập
nhật thông tin về thị trường công nghệ, khai thác thông tin qua mạng, tham
khảo các hướng công nghệ mới để từ đó đưa ra các giải pháp công nghệ phù
77
hợp nhất với khả năng tài chính, năng lực sử dụng, cải tiến và làm chủ công
nghệ, đặc biệt là tính đồng bộ của công nghệ. Có đủ thông tin, DN mới xây
dựng được phương án lựa chọn đối tác để có được công nghệ tối ưu.
Thứ ba: DNVVN cần tự nhận thức một cách sâu sắc về trách nhiệm của
mình trong việc tạo ra một lực lượng lao động phù hợp với nhu cầu. Muốn
vậy cần tăng cường mối liên hệ giữa DN với nhà trường, kết hợp đào tạo để
có được nguồn lao động đủ về số lượng, chất lượng cao, đúng chuyên môn.
Với cách làm này, DNVVN sẽ rút ngắn khoảng cách giữa đào tạo và sản xuất,
người lao động vừa học vừa làm, tạo nguồn thu cho DN và người lao động.
Thực hiện tốt hoạt động này, DNVVN sẽ luôn chủ động được về số lượng và
chất lượng của lực lượng lao động. Ngoài ra doanh nghiệp cần thực hiện đúng
chế độ chính sách đối với người lao động, đặc biệt đảm bảo điều kiện lao
động, nâng cao tay nghề và chăm lo tới đời sống của người lao động để tạo sự
gắn bó lâu dài của họ với DN.
Thứ tư: DNVVN phải chú trọng đầu tư xây dựng và quảng bá thương
hiệu. Để tạo được thương hiệu, DN cần định hình chiến lược xây dựng thương
hiệu, gắn với chiến lược sản phẩm, chiến lược đầu tư và kế hoạch tài chính
của DN. Xây dựng thương hiệu luôn đi liền với bảo vệ thương hiệu. Trong đó,
đăng ký bảo hộ thương hiệu là việc đầu tiên mà DN cần phải làm để bảo vệ
thương hiệu. DNVVN cần phát triển thương hiệu và khai thác thương hiệu
thông qua tuyên truyền quảng bá tỉ mỉ cho thương hiệu và hàng hóa trên các
phương tiện khác nhau. Tiến hành giới thiệu sản phẩm, các chiến lược tiếp
thị, tăng cường công tác quan hệ công chúng nhằm tạo ra một mối thiện cảm
và chiếm được lòng tin của người tiêu dùng đối với hàng hóa của DN. Bên
cạnh đó, để duy trì và phát triển thương hiệu, DNVVN cần thường xuyền rà
soát lại chính sách thương hiệu để bổ sung hoặc điều chỉnh cho phù hợp với
từng thị trường và từng giai đoạn như xây dựng và bổ sung thương hiệu cá
78
biệt cho những hàng hóa mới, điều chỉnh khẩu hiệu của thương hiệu.
KẾT LUẬN
Phát triển DNVVN trong nền kinh tế quốc dân có ý nghĩa chiến lược
rất quan trọng và mang tính lâu dài. Việc thúc đẩy sự phát triển các DNVVN
sẽ góp phần rất quan trọng vào sự nghiệp CNH, HĐH đất nước, tạo việc làm,
tăng thu nhập, góp phần quan trọng vào chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tăng
trưởng kinh tế, xóa đói giảm nghèo…
Sơn Tây có nhiều tiềm năng để phát triển kinh tế - xã hội, trong đó có
những tiềm năng quan trọng như vị trí địa lý, có nhiều làng nghề truyền
thống, có lực lượng lao động dồi dào, người dân năng động, sáng tạo, cần cù.
Tuy nhiên, thị xã cũng có không ít khó khăn trong việc phát triển kinh tế nói
chung và các DNVVN nói riêng.
Trong những năm qua thị xã Sơn Tây đã đạt được nhiều thành tựu quan
trọng về kinh tế - xã hội. Trong những thành công đó có sự đóng góp đáng kể
của các DNVVN. Các DN này với những lợi thế của mình đã góp phần không
nhỏ trong việc giải quyết việc làm, tăng thu nhập dân cư, góp phần tăng trưởng
kinh tế và giải quyết có hiệu quả nhiều vấn đề xã hội của thị xã hiệu quả.
Thời gian qua, các cấp, các ngành ở thị xã đã tạo điều kiện thuận lợi và
hỗ trợ tích cực cho các DNVVN trong hoạt động kinh doanh dưới nhiều hình
thức, trong đó đặc biệt thông qua cơ chế, chính sách hỗ trợ. Tuy vậy, đến nay
các DNVVN trên địa bàn thị xã vẫn còn gặp nhiều khó khăn, trở ngại như
thiếu vốn, trình độ tay nghề thấp, công nghệ lạc hậu, thiếu thông tin, môi
trường kinh doanh chưa bình đẳng… Để hỗ trợ các DNVVN phát triển
SXKD, tăng cường vai trò của các DN này trong sự nghiệp CNH, HĐH, thị
xã cần tích cực hơn nữa trong việc giúp đỡ và có các biện pháp hỗ trợ thiết
thực. Đồng thời cần thực hiện đồng bộ những giải pháp xuất phát từ chủ
trương của Đảng và Nhà nước, phù hợp với điều kiện thực tế của địa phương.
79
Trong khuôn khổ đề tài này, tác giả đã đưa ra một số giải pháp chủ yếu nhằm
góp phần phát triển DNVVN trên địa bàn thị xã Sơn Tây. Đồng thời, tác giả
cũng đưa ra một số kiến nghị sau đây:
Một là, các địa phương muốn thúc đẩy phát triển DNVVN còn phụ
thuộc rất lớn vào pháp luật, đường lối, chính sách ở Trung ương, do đó kiến
nghị Trung ương tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách như chính sách đất
đai, chính sách thuế, chính sách vốn - tín dụng,… để tạo điều kiện thuận lợi
cho các địa phương triển khai thực hiện tốt hơn nhằm khuyến khích, hỗ trợ
tích cực cho các DNVVN phát triển.
Hai là, Trung ương cần xây dựng và thực hiện một cơ chế, một kế
hoạch cung cấp các thông tin cơ bản về mọi DN đã ĐKKD để các cơ quan
nhà nước cũng như công chúng có thể dễ dàng thu nhập được các thông tin về
một DN nào đó nhằm tạo ra sự tin tưởng, ngăn ngừa tình trạng lừa đảo trong
quan hệ kinh doanh.
Ba là, Sơn Tây là một thị xã có nhiều làng nghề với nhiều sản phẩm thủ
công mỹ nghệ truyền thống thích hợp với quy mô của các DNVVN. Do đó rất
mong được sự quan tâm, hỗ trợ tích cực của Thành phố Hà Nội để thúc đẩy sự
80
phát triển của các làng nghề truyền thống xứ Đoài.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lê Xuân Bá, TS. Trần Kim Hào, TS. Nguyễn Hữu Thắng (2005), Doanh
nghiệp vừa và nhỏ của Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc
tế, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
2. Ban cán sự Đảng Chính phủ (2001), Đề án tiếp tục sắp xếp, đổi mới,
phát triển DNNN, Hà Nội.
3. Vũ Đình Bách (2001), Đổi mới, tăng cường thành phần kinh tế Nhà nước
- Lý luận, chính sách và giải pháp, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
4. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (1999), Báo cáo nghiên cứu hoàn thiện chính
sách kinh tế vĩ mô và đổi mới các thủ tục hành chính nhằm thúc đẩy sự
phát triển của các DNVVN tại Việt Nam, Hà Nội.
5. Bô ̣ Kế hoa ̣ch và Đầu tư (2005), Thực trạng doanh nghiệp khu vực phía Bắc năm 2005, khảo sát do Trung tâm hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ
Hà Nội (Bộ Kế hoạch và Đầu tư) phối hợp cùng Cơ quan hợp tác quốc
tế Nhật Bản thực hiện.
6. Trần Minh Châu (2000), "Hỗ trợ DNVVN trong lĩnh vực đào tạo nguồn
nhân lực", Nghiên cứu lý luận, (3), tr.29-31.
7. Nguyễn Cúc, Hồ Văn Vĩnh, Đặng Ngọc Hợi (1998), Chính sách hỗ trợ
phát triển DN vừa và nhỏ ở Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
8. Nguyễn Cúc (2000), Đổi mới cơ chế và chính sách hỗ trợ phát triển
doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam đến năm 2005, Nxb. Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
9. Đảng Cộng sản Việt Nam (1986), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ VI, Nxb. Sự thật, Hà Nội.
10. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
81
lần thứ VII, Nxb. Sự thật, Hà Nội.
11. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ VIII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
12. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ IX, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
13. Vũ Bá Định (2001), "Từ kinh nghiệm về chính sách hỗ trợ vốn đối với
DNVVN", Thương mại, (1), tr.31-32.
14. Đỗ Đức Định (2002), Kinh nghiệm và cẩm nang phát triển doanh nghiệp
nhỏ và vừa ở một số nước trên thế giới, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội.
15. Vũ Văn Hà - Đặng Ngọc Hiếu, “Kinh nghiệm phát triển doanh nghiệp
vừa và nhỏ của Nhật Bản”, báo Điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam.
16. Phạm Thị Thu Hằng (2002), Tạo việc làm tốt bằng các chính sách phát
triển doanh nghiệp nhỏ, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
17. Phạm Thị Thu Hằng (2006), Chuyển đổi hộ kinh doanh cá thể thành
doanh nghiệp tại Việt Nam, Báo cáo kết quả dự án, Hà Nội.
18. Hoàng Văn Hoa (2002), "Tạo điều kiện để DNVVN phát triển", Báo
Nhân dân, (17.128), tr.6.
19. Trần Thị Vân Hoa (2003), Tác động của cá chinh sách điều tiết kinh tế
vĩ mô của Chính phủ đối với DN vừa và nhỏ, luận án tiến sĩ, Đại học
Kinh tế quốc dân, Hà Nội.
20. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2000), Báo cáo kết quả
nghiên cứu dự án chính sách hỗ trợ phát triển DNVVN trong nông thôn
Việt Nam, Hà Nội.
21. Phạm Thúy Hồng (2004), Chiến lược cạnh tranh cho các DN vừa và
nhỏ ở Việt Nam hiện nay, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
22. Nguyễn Đình Hương - Đại học Kinh tế quốc dân (chủ biên, 2002), Giải
pháp phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam, Nxb. Chính trị
82
quốc gia, Hà Nội.
23. Đỗ Mạnh Khởi (2000), "Một số kiến nghị hoàn thiện chính sách kinh tế
vĩ mô, nhằm thúc đẩy sự phát triển các DNVVN ở Việt Nam", Kinh tế
và dự báo, (3), tr.17-18.
24. Vương Liêm (2000), Doanh nghiệp vừa và nhỏ, Nxb. Giao thông vận
tải, Hà Nội.
25. Lương Tấn Luận (2002), "Để tạo điều kiện phát triển kinh tế tư nhân.
Cơ chế tài chính cần đi trước một bước", Thuế nhà nước, (8), tr.62-63.
26. Nguyễn Hồng Nhung (2003), “Vai trò của Chính Phủ trong việc phát
triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở các nước ASEAN”, Tạp chí Nghiên
cứu Đông Nam Á, (3).
27. Phòng Kinh tế Thị xã Sơn Tây (2005), Báo cáo tình hình phát triển DN
vừa và nhỏ giai đoạn 2001- 2005.
28. Phòng Kinh tế Thị xã Sơn Tây (2010), Báo cáo tình hình phát triển DN
vừa và nhỏ giai đoạn 2006-2010.
29. Phan Trọng Phức (2006), Nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh
nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
30. Dương Bá Phượng (1996), Phát triển DNVVN ở nông thôn trong quá
trình công nghiệp hóa và chuyển sang nền kinh tế thị trường, Nxb. Nông
nghiệp, Hà Nội.
31. Chu Tiến Quang (2003), "Tháo gỡ những ách tắc trong chính sách phát
triển đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ", Nghiên cứu kinh tế, (297).
32. Schumacher (1994), "Nhỏ là đẹp. Về lợi thế của quy mô vừa và nhỏ
trong kinh tế", Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội.
33. Nguyễn Thanh Sơn (2002), "Cơ chế tài chính đối với kinh tế tư nhân:
Nắm cái gì và thả cái gì?", Tài chính, (451), tr.91-92.
34. Lê Viết Thái, Trần Đình Hào, Nguyễn Đình Cung, Tô Đình Thái, Hoàng
Văn Thành (2000), Báo cáo nghiên cứu DNVVN - Hiện trạng và những
83
kiến nghị giải pháp, Nxb. Giao thông vận tải, Hà Nội.
35. Hoàng Công Thi, Phạm Thị Hồng Vân (2000), Tạo lập môi trường tài
chính bình đẳng giữa các loại hình doanh nghiệp tại Việt Nam, Nxb. Tài
chính, Hà Nội.
36. Phạm Ngọc Thước (1999), DNVVN trên địa bàn tỉnh Phú Thọ - Thực
trạng và giải pháp, Luận văn thạc sĩ Kinh tế, Học viện Chính trị quốc
gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
37. Nguyễn Minh Tú (2001), Một số vấn đề cơ bản về đổi mới kinh tế vĩ mô
trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam, Nxb. Chính
trị quốc gia, Hà Nội.
38. Vũ Quốc Tuấn (2001), "Khuyến khích doanh nghiệp nhỏ và vừa", Thời
báo kinh tế Việt Nam, (147), tr.12.
39. Vũ Quốc Tuấn (2001), Doanh nghiệp doanh nhân trong kinh tế thị
trường, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
40. Vũ Quốc Tuấn, Hoàng Thái Hòa (2001), Phát triển doanh nghiệp nhỏ
và vừa: Kinh nghiệm nước ngoài và phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa
ở Việt Nam, Nxb. Thống kê, Hà Nội.
41. Đỗ Minh Tuấn (2002), "Sử dụng chính sách tài chính hỗ trợ phát triển
doanh nghiệp vừa và nhỏ", Tài chính, (7), tr.24-27.
42. Nguyễn Mỹ Trinh (2000), "DNVVN ở nước ta. Tiềm năng và hạn chế",
Phát triển kinh tế, (114), tr.23-24.
43. Phạm Quang Trung, Vũ Đình Hiền, Lê Thị Lan Hương (2009), Tăng
cường năng lực cạnh tranh của các DN vừa và nhỏ, Nxb Đại học Kinh
tế quốc dân, Hà Nội.
44. VCCI - Chi nhánh TP. Hồ Chí Minh (1998), Doanh nghiệp vừa và nhỏ -
Thực trạng và giải pháp, Nxb. Thống kê, Hồ Chí Minh.
45. VCCI, ILO (2004), Hướng dẫn thành lập, quản lý và phát triển các
84
Hiệp hội doanh nghiệp, Hà Nội.
46. VCCI, ILO (2004), Tạo môi trường thuận lợi để phát triển doanh
nghiệp nhỏ nhằm góp phần tăng trưởng kinh tế và xoá đói giảm nghèo,
Hà Nội.
47. Viện Chiến lược phát triển (2001), Cơ sở khoa học của một số vấn đề
trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam đến năm 2010 và
tầm nhìn 2020, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
48. Báo Điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam: www.cpv.org.vn;
49. Trang web của Bộ Thương mại: www.mot.gov.vn;
50. Trang web của Tổng cục Thống kê: www.gso.gov.vn;
51. www.google.com.vn;
85
52. wikipedia tiếng Việt…