BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
LUẬN VĂN THẠC SĨ
PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG TRÁI PHIẾU
DOANH NGHIỆP TẠI VIỆT NAM
Ngành: Tài Chính - Ngân Hàng
NGÔ VIỆT TRUNG
Hà Nội – 2021
Tên thành phố-năm
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
LUẬN VĂN THẠC SĨ
PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG TRÁI PHIẾU
DOANH NGHIỆP TẠI VIỆT NAM
Ngành: Tài chính ngân hàng
Mã số: 8340201
Họ và tên học viên: Ngô Việt Trung
Người hướng dẫn: PGS, TS Nguyễn Thị Lan
Hà Nội – 2021
i
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU ........................................................................... iv
DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ - BIỂU ĐỒ .............................................................. v
DANH MỤC CÁC CHỮ VIếT TẮT ..................................................................... vi
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN THỊ TRƯỜNG TRÁI PHIẾU VÀ PHÁT TRIỂN
THỊ TRƯỜNG TRÁI PHIẾU DOANH NGHIỆP ................................................. 8
1.1. Lý luận cơ bản về thị trường trái phiếu doanh nghiệp ..................................... 8
1.1.1. Trái phiếu doanh nghiệp ........................................................................... 8
1.1.2. Thị trường trái phiếu doanh nghiệp ........................................................ 14
1.2. Phát triển thị trường trái phiếu doanh nghiệp ................................................ 24
1.2.1. Khái niệm ................................................................................................ 24
1.2.2. Tiêu chí để đánh giá sự phát triển của thị trường trái phiếu doanh nghiệp
........................................................................................................... 25
1.2.3. Các nhân tố ảnh hưởng tới sự phát triển của thị trường trái phiếu doanh
nghiệp ........................................................................................................... 29
1.2.4. Vai trò của thị trường trái phiếu doanh nghiệp ...................................... 33
1.3. Kinh nghiệm quốc tế trong phát triển thị trường trái phiếu doanh nghiệp .... 36
1.3.1. Kinh nghiệm phát triển thị trường trái phiếu doanh nghiệp của một số
nước ........................................................................................................... 36
1.3.2. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam ......................................................... 43
Kết luận chương 1 ................................................................................................. 45
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG TRÁI PHIẾU
DOANH NGHIỆP TẠI VIỆT NAM ...................................................................... 46
2.1. Tổng quan thị trường trái phiếu doanh nghiệp tại Việt Nam ......................... 46
ii
2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển ......................................................... 46
2.1.2. Khuôn khổ và quy định pháp lý về thị trường trái phiếu doanh nghiệp Việt
Nam ........................................................................................................... 56
2.2. Tình hình phát triển thị trường trái phiếu doanh nghiệp tại Việt Nam .......... 66
2.2.1. Quy mô thị trường trái phiếu doanh nghiệp ........................................... 66
2.2.2. Thanh khoản và giao dịch trên thị trường thứ cấp ................................. 67
2.2.3. Cơ cấu kỳ hạn của thị trường trái phiếu ................................................. 68
2.2.4. Cơ sở Tổ chức phát hành và Nhà đầu tư ................................................ 69
2.2.5. Cơ sở hạ tầng phục vụ thị trường ........................................................... 72
2.3. Đánh giá thực trạng phát triển thị trường trái phiếu doanh nghiệp Việt Nam
............................................................................................................................... 72
2.3.1. Những kết quả đạt được .......................................................................... 72
2.3.2. Những hạn chế của thị trường trái phiếu doanh nghiệp ......................... 75
2.3.3. Nguyên nhân của các hạn chế................................................................. 80
Kết luận chương 2 ................................................................................................. 87
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP NHẰM PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG TRÁI PHIẾU
DOANH NGHIỆP TẠI VIỆT NAM ...................................................................... 88
3.1. Phát triển thị trường trái phiếu doanh nghiệp ở Việt Nam thời gian tới ........ 88
3.1.1. Xu hướng và cơ hội phát triển thị trường trái phiếu doanh nghiệp ....... 88
3.1.2. Thách thức phát triển thị trường trái phiếu doanh nghiệp ..................... 90
3.2. Quan điểm và định hướng phát triển thị trường trái phiếu doanh nghiệp Việt
Nam trong thời gian tới ......................................................................................... 91
3.3. Một số giải pháp phát triển thị trường trái phiếu doanh nghiệp tại Việt Nam
............................................................................................................................... 93
3.3.1. Hoàn thiện và tổ chức triển khai các chính sách mới ............................. 94
iii
3.3.2. Phát triển về cơ sở nhà đầu tư .............................................................. 104
3.3.3. Thúc đẩy hoạt động của các định chế trung gian ................................. 107
3.4. Các kiến nghị khác ....................................................................................... 110
3.5. Đóng góp của luận văn ................................................................................. 111
3.6. Một số hạn chế của luận văn và hướng nghiên cứu tiếp theo ...................... 112
Kết luận chương 3 ............................................................................................... 114
KẾT LUẬN ............................................................................................................ 115
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................. 117
iv
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Bảng 1.1 Quy mô và tốc độ tăng trưởng của thị trường trái phiếu một số quốc gia . 38
Bảng 2.1 Tổng hợp tình hình phát hành TPDN giai đoạn 2006 – 2010 ................... 48
Bảng 2.2 Văn bản pháp luật liên quan đến TPDN .................................................... 56
Bảng 2.3 Tỷ lệ luân chuyển của thị trường TPDN niêm yết..................................... 68
Bảng 2.4 Cơ cấu phát hành theo loại hình doanh nghiệp năm 2020 HNX ............... 70
Bảng 2.5 Các hệ thống CNTT liên quan đến TPDN ................................................. 76
Bảng 2.6 Cơ cấu kỳ hạn của TPDN phát hành năm 2020 trên HNX ........................ 79
v
DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ - BIỂU ĐỒ
Hình 1.1 Cơ cấu thị trường trái phiếu doanh nghiệp thứ cấp .................................... 21
Hình 2.1 Dư nợ thị trường TPDN tại Việt Nam (nghìn tỷ VND) ............................. 66
Hình 2.2 Kỳ hạn bình quân (năm) của TPDN trong năm 2020 ................................ 69
Hình 2.3 Thống kê nhà đầu tư TPDN ....................................................................... 71
Hình 2.4 Thống kê nhà đầu tư TPDN thông qua thông tin công bố ......................... 72
vi
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Từ viết tắt Từ viết đầy đủ
Trái phiếu doanh nghiệp TPDN
Sở Giao dịch Chứng khoán Hà Nội HNX
HOSE, HSX Sở Giao dịch Chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh
Doanh nghiệp Nhà nước DNNN
Công nghệ thông tin CNTT
Bất động sản BĐS
Tài chính Ngân hàng TCNH
UBCKNN Ủy ban Chứng khoán Nhà nước
NĐT Nhà đầu tư
1
MỞ ĐẦU
1. Sự cần thiết của đề tài
Hệ thống tài chính luôn đóng một vai trò quan trọng tới sự phát triển của nền
kinh tế. Sự tăng trưởng kinh tế tổng thể của mỗi quốc gia phụ thuộc một phần không
hề nhỏ từ việc tạo lập các hệ thống, mạng lưới trung gian tài chính cũng như thị trường
tài chính một cách an toàn và hiệu quả tại chính quốc gia đó.
Xét kỹ hơn về hệ thống tài chính, để phát triển một thị trường vốn một cách hiệu
quả, một trong những điều quan trọng đó là mở rộng các cơ hội đầu tư dẫn đến thu
hút số lượng lớn các nhà đầu tư nhỏ bên cạnh các tổ chức kinh tế đang có mặt trên thị
trường. Bên cạnh đó, thị trường nợ có vai trò phân bổ vốn từ nơi đến nơi thiếu hụt, là
nơi diễn ra việc trao đổi mua bán các các công cụ nợ (hối phiếu, công trái, tín phiếu,
trái phiếu …). Sự phát triển ngày càng mạnh mẽ của thị trường trái phiếu chính là
tiền đề cho sự phát triển của thị trường vốn cũng như sự tăng trưởng kinh tế của một
quốc gia. Và thực sự, một thị trường trái phiếu phát triển là một trong số nền móng
xây dựng nên sự ổn định của hệ thống tài chính bằng cách đóng góp thêm các công
cụ tài chính, làm đa dạng hóa nguồn vốn của doanh nghiệp, tổ chức, thành phần trong
nền kinh tế. Hơn nữa, chính sự đa dạng này có thể giảm thiểu các tác động bất lợi của
các cuộc khủng hoảng tài chính hoặc giảm khả năng xảy ra khủng hoảng trong tương
lai khi cung cấp nguồn tài trợ khi nguồn lực từ ngân hàng cạn kiệt. Vì vậy có thể nói,
sự ổn định kinh tế phụ thuộc rất nhiều vào một thị trường trái phiếu phát triển.
Việt Nam là một quốc gia có nền kinh tế mới nổi, nơi phát hành trái phiếu doanh
nghiệp chưa chiếm tỷ trọng cao trong hệ thống tài chính. Thị trường trái phiếu nói
chung của Việt Nam đang đóng vai trò tương đối thấp khi so sánh với các nền kinh
tế trong khu vực và láng giềng như Indonesia, Philippines hay Thái Lan. Dù đã có sự
cải thiện nhất định theo từng năm, thị trường trái phiếu doanh nghiệp vẫn còn nhiều
dư địa để tiếp tục mở rộng. Cụ thể, số dư trái phiếu dù tăng trưởng mạnh cả về con
số tuyệt đối lẫn con số tương đối (tính theo theo quy mô GDP) nhưng vẫn ở mức khá
khiêm tốn. Tính theo quy mô của nền kinh tế, khối lượng trái phiếu doanh nghiệp
hiện hành tăng mạnh từ 5,27% năm 2016 và 6,19% GDP năm 2017 lên 7,86% GDP
2
năm 2018. Quy mô này được xem là chưa đáp ứng được nhu cầu đa dạng hóa danh
mục trái phiếu của các tổ chức tài chính đặc biệt trong bối cảnh mặt bằng lợi suất của
Trái phiếu chính phủ đang ở mức thấp. Có thể nói, Việt Nam hiện có một triển vọng
tươi sáng cho thị trường trái phiếu doanh nghiệp khi các thị trường vốn khác có sự
hạn chế trong việc mở rộng.
Dựa trên quan điểm này, luận văn sẽ nghiên cứu đề tài: “Phát triển thị trường
Trái phiếu doanh nghiệp tại Việt Nam” nhằm khám phá triển vọng phát triển của thị
trường trái phiếu doanh nghiệp bền vững tại Việt Nam. Để đạt được mục tiêu chính,
nghiên cứu sẽ chỉ ra các trở ngại lớn và đưa ra một số giải pháp, chính sách đối với
sự phát triển của thị trường trái phiếu doanh nghiệp dựa trên thực trạng và các bài học
từ các Thị trường Trái phiếu doanh nghiệp trên trường quốc tế.
2. Tổng quan nghiên cứu trong và ngoài nước
Phát triển thị trường trái phiếu doanh nghiệp là đề tài được quan tâm nghiên cứu
ở cả trong nước cũng như nước ngoài. Do các nghiên cứu xem xét tại những khía
cạnh khác nhau, đối tượng nghiên cứu cũng có chút khác biệt, tình hình phát triển
kinh tế xã hội giữa các thời kỳ cũng có sự biến động dẫn đến mỗi công trình nghiên
cứu mới chỉ giải quyết được một phần nào đó liên quan đến vấn đề lý luận về trái
phiếu và phát triển thị trường trái phiếu doanh nghiệp.
2.1. Các nghiên cứu nước ngoài
Thị trường trái phiếu và các lý thuyết của thị trường được nghiên cứu ở nước
ngoài đã có bề dày lịch sử, việc tham khảo kinh nghiệm của các tác giả nước ngoài là
hết sức cần thiết khi tiến hành nghiên cứu đối với thị trường tại Việt Nam. Các nghiên
cứu trên thế giới thông qua đánh giá nhiều khía cạnh đã khẳng định vai trò quan trọng
của thị trường trái phiếu doanh nghiệp nói riêng và thị trường vốn nói chung đối với
mỗi nền kinh tế.
Akter et al. (2019) đã thực hiện nghiên cứu về triển vọng và các điều kiện tiên
quyết cần thiết cho sự phát triển của thị trường trái phiếu doanh nghiệp của
Bangladesh. Đây là một kinh tế mới nổi tương tự Việt Nam với tiềm năng phát triển
thị trường trái phiếu doanh nghiệp tương đối tốt. Bằng việc so sánh giữa thị trường
3
cổ phiếu và trái phiếu của Bangladesh và các nước Châu Á, tác giả đã chỉ ra các lý
do bao gồm: Số lượng trái phiếu hạn chế, lợi nhuận cao trên thị trường chứng khoán
và tiền tệ, thiếu nhận thức của nhà đầu tư là 3 hạn chế lớn đối với sự phát triển thị
trường trái phiếu doanh nghiệp ở nước này.
Tendulkar et al. (2014) đã khảo sát và cung cấp tình hình phát triển thị trường
Trái phiếu doanh nghiệp của các nước trên thế giới, phân tích về độ sâu rộng của thị
trường đồng thời đưa ra những rủi ro tiềm ẩn có thể trong tương lai trong báo cáo
nghiên cứu của IOSCO (International Organization of Securities Commissions).
Thông qua số liệu về quy mô của Trái phiếu doanh nghiệp toàn cầu (theo mẫu điều
tra của công trình là 82 nước trong đó có Việt Nam), công trình cũng khẳng định sự
phát triển của thị trường Trái phiếu doanh nghiệp là nhân tố quan trọng của ổn định
thị trường tài chính và tăng trưởng kinh tế.
Với sự kết quả từ nghiên cứu tại thị trường Bangladesh có nhiều điểm tương
đồng, cùng với cách tiếp cận các số liệu như báo cáo của IOSCO, luận văn tiếp tục
xem xét và đánh giá thực trạng phát triển thị trường trái phiếu doanh nghiệp tại Việt
Nam, chỉ ra các hạn chế và nguyên nhân, dựa vào đó đề xuất các giải pháp riêng cho
Việt Nam.
2.2. Các nghiên cứu trong nước
Thị trường tài chính ở Việt Nam vẫn còn là một thị trường mới nổi, còn non trẻ,
do vậy các nghiên cứu trong nước phần lớn vẫn tập trung vào các vấn đề về sự hình
thành, thiết lập thị trường; vào cách thức hoạt động và các giải pháp để phát triển thị
trường vốn, thị trường chứng khoán. Các tác giả đã khái quát được các vấn đề lý luận
và thực trạng về thị trường vốn nói chung, thị trường chứng khoán, thị trường trái
phiếu nói riêng theo các giai đoạn tương ứng của thị trường.
Nguyễn Thị Hoàng Lan (2016) trong nghiên cứu phát triển thị trường trái phiếu
doanh nghiệp đã đưa ra các giải pháp bao hàm các nội dung mô hình tổ chức thị
trường giao dịch, các phương án quan trọng như cải cách phát hành, phát triển các hệ
thống nền tảng cơ sở cho thị trường, đặc biệt là hệ thống thông tin. Các vấn đề pháp
lý, cơ chế chính sách, định giá, định mức tín nhiệm sẽ được nghiên cứu kiến nghị lộ
4
trình áp dụng. Ngoài ra, đề tài đã nghiên cứu và kiến nghị một số nền tảng cơ bản mà
các nước Asean +3 đang hướng tới để Việt Nam có thể triển khai kết nối thị trường
trái phiếu Asean +3 vào khoảng cuối năm 2020.
Đề tài đã đưa ra các hạn chế về nền tảng cơ sở thị trường đối với thị trường Việt
Nam giai đoạn 2015, đến hiện tại các vấn đề này tiếp tục được luận văn làm rõ thêm
sau 5 năm đổi mới và phát triển thị trường, các hạn chế trên đã được khắc phục và xử
lý hay chưa, các vướng mắc trong việc thực hiện đề xuất của tác giả như thế nào.
2.3. Khoảng trống nghiên cứu
Luận văn sử dụng các tiêu chí đánh giá sự phát triển của thị trường trái phiếu
doanh nghiệp của các bài nghiên cứu đã thực hiện nhằm đưa ra đánh giá chính xác
nhất đối với hiện trạng tại Việt Nam. Các tiêu chí chính được đưa đánh giá có thể kể
đến các 4 tiêu chí phát triển thị trường vốn của Andritzky (năm 2007) hay 5 tiêu chí
chính mà Ngân hàng Phát triển Châu Á đưa ra khi đánh giá tình hình phát triển thị
trường trái phiếu các thị trường Châu Á tại các báo cáo định kỳ.
Dựa vào các đánh giá thực trạng thị trường TPDN Việt Nam trong giai đoạn
2017 – 2020 trên các khía cạnh môi trường kinh tế; khuôn khổ pháp lý cho thị trường
TPDN; thực trạng thị trường sơ cấp và thứ cấp; luận giải được những mặt còn hạn
chế của thị trường TPDN của Việt Nam trong thời gian qua theo các tiêu chí của
thông lệ quốc tế; từ đó đưa ra đề xuất các nhóm giải pháp phát triển thị trường TPDN
tại Việt Nam.
Do đối tượng nghiên cứu có sự khác biệt hoặc do tính hạn chế về địa lý và lịch
sử, cũng như cho đến nay đã có nhiều sự biến động của kinh tế xã hội nên các nghiên
cứu nói trên mới chỉ giải quyết được một phần liên quan đến huy động vốn thông qua
phát hành TPDN, các giải pháp chưa mang tính đồng bộ nhằm tăng cường vai trò của
kênh huy động vốn này đối với doanh nghiệp Việt Nam trong bối cảnh hiện nay.
3. Mục tiêu, câu hỏi và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục tiêu nghiên cứu
Thị trường trái phiếu doanh nghiệp tại Việt Nam được đánh giá là còn rất nhiều
5
tiềm năng để phát triển. Mục tiêu nghiên cứu là hoàn thiện và phát triển bền vững thị
trường trái phiếu doanh nghiệp Việt Nam trong thời gian tới, góp phần từng bước
phát triển thị trường vốn, đáp ứng nhu cầu vốn đầu tư phát triển ngày càng cao cho
nền kinh tế Việt Nam nói chung và các doanh nghiệp Việt Nam nói riêng.
3.2. Câu hỏi nghiên cứu
Luận văn sẽ áp dụng phương pháp nghiên cứu phù hợp nhằm trả lời các câu hỏi
dưới đây:
- Những yếu tố nào ảnh hưởng tới sự phát triển của thị trường trái phiếu
doanh nghiệp?
- Đánh giá thực trạng phát triển của thị trường trái phiếu doanh nghiệp tại
Việt Nam, hạn chế và nguyên nhân?
- Các giải pháp phát triển thị trường trái phiếu doanh nghiệp tại Việt Nam?
3.3. Nhiệm vụ nghiên cứu
Nhiệm vụ nghiên cứu bao gồm:
Tổng hợp các lý luận cơ bản về trái phiếu doanh nghiệp và thị trường trái
phiếu doanh nghiệp.
Đánh giá thị trường trái phiếu doanh nghiệp tại một số quốc gia, tìm ra
một số hành động, giải pháp của quốc gia đó trong việc xây dựng thị trường trái phiếu
doanh nghiệp phát triển.
Thống kê quá trình hình thành và phát triển thị trường trái phiếu doanh
nghiệp gắn với sự phát triển của kinh tế xã hội tại Việt Nam. Từ đó tổng hợp những
thành tựu, kết quả đạt được cũng như chỉ ra sự hạn chế của thị trường.
Dựa trên kinh nghiệm thế giới và các nguyên nhân kìm hãm thị trường,
xây dựng hệ thống giải pháp nhằm hoàn thiện và phát triển bền vững thị trường trái
phiếu doanh nghiệp Việt Nam.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
6
Đề tài nghiên cứu tổng quát kênh huy động vốn thông qua phát hành trái phiếu
nhằm mục đích đáp ứng nhu cầu vốn cho đầu tư phát triển của các doanh nghiệp tại
Việt Nam. Tuy nhiên, đây cũng là một lĩnh vực nghiên cứu rất phức tạp, đòi hỏi phải
có sự phối hợp đồng bộ của nhiều yếu tố, nhiều lĩnh vực khác nhau.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu thị trường trái phiếu doanh nghiệp ở tầm vĩ mô,
trên cơ sở tập hợp thông tin hoạt động của thị trường từ năm thành lập thị trường đến
thời điểm hiện tại, đặc biệt phân tích, so sánh các số liệu trong giai đoạn 2018 – 2020,
từ đó nhận định tình hình chung và đề ra những giải pháp hoàn thiện về cơ chế, chính
sách nhằm đẩy mạnh thị trường trái phiếu doanh nghiệp tại Việt Nam phát triển hơn
nữa.
5. Phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp thu thập số liệu
Luận văn sử dụng nguồn thông tin thứ cấp liên quan đến đến thống kê dữ liệu
thị trường trái phiếu doanh nghiệp, số liệu về tình hình phát triển kinh tế xã hội tại
Việt Nam thông qua các kênh thông tin uy tín trực thuộc các Cơ quan Nhà nước.
Đồng thời đối với dữ liệu các thị trường trái phiếu nước ngoài trong luận văn, số liệu
thu thập được thông qua các báo cáo tổng hợp của các tổ chức lớn như Ngân hàng
Phát triển châu Á (ADB).
5.2. Phương pháp phân tích
Sử dụng số liệu đã thu thập, luận văn nghiên cứu tổng hợp cơ sở lý luận, thông
qua phương pháp thống kê lịch sử và phương pháp tổng hợp, so sánh để đánh giá thực
trạng hoạt động của thị trường trái phiếu doanh nghiệp Việt Nam trong thời gian qua,
từ đó vận dụng kinh nghiệm của một số quốc gia trong khu vực và trên thế giới làm
cơ sở để đề xuất những giải pháp khả thi nhằm thúc đẩy thị trường trái phiếu doanh
nghiệp Việt Nam phát triển hơn.
6. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, các danh mục bảng biểu, kết luận và phụ lục; đề tài được
7
chia thành 3 chương như sau:
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN THỊ TRƯỜNG TRÁI PHIẾU VÀ PHÁT TRIỂN
THỊ TRƯỜNG TRÁI PHIẾU DOANH NGHIỆP.
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG TRÁI PHIẾU
DOANH NGHIỆP TẠI VIỆT NAM.
CHƯƠNG 3. GIẢI PHÁP NHẰM PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG TRÁI
PHIẾU DOANH NGHIỆP TẠI VIỆT NAM.
8
CHƯƠNG 1
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN THỊ TRƯỜNG TRÁI PHIẾU VÀ PHÁT TRIỂN THỊ
TRƯỜNG TRÁI PHIẾU DOANH NGHIỆP
1.1. Lý luận cơ bản về thị trường trái phiếu doanh nghiệp
1.1.1. Trái phiếu doanh nghiệp
1.1.1.1. Khái niệm, đặc điểm trái phiếu
Khái niệm về trái phiếu
Trước hết nói đến khái niệm trái phiếu, Trái phiếu đơn giản là một hình thức
cho vay bởi Chính quyền hoặc các doanh nghiệp. Cụ thể theo quy định tại Khoản 3,
Điều 4 Luật Chứng khoán 2019, Trái phiếu là loại chứng khoán xác nhận quyền và
lợi ích hợp pháp của người sở hữu đối với một phần nợ của tổ chức phát hành. Đó là
giấy chứng nhận nợ dài hạn do chính tổ chức phát hành cam kết với người sở hữu trái
phiếu sẽ thanh toán lợi tức và vốn gốc vào một ngày xác định trong tương lai.
Trái phiếu thuộc loại chứng khoán nợ, thông thường có tính chất trung và dài
hạn. Chủ thể phát hành trái phiếu thường được gọi là tổ chức phát hành với tư cách
người đi vay, người mua và sở hữu trái phiếu là người cho vay, thường được gọi là
trái chủ.
Thông thường, trên thị trường tài chính, trái phiếu có nhiều loại khác nhau và
có thể được phát hành dưới dạng khác biệt, tuy nhiên dù tồn tại ở bất kỳ hình thức
nào thì chúng đều phải bao gồm hoặc thể hiện rõ ràng các nội dung như dưới đây:
Mệnh giá: hay còn được gọi là giá trị danh nghĩa của trái phiếu, thể hiện số tiền
mà tổ chức phát hành phải thanh toán cho người sở hữu trái phiếu khi tới thời điểm
đáo hạn. Mệnh giá cũng là căn cứ để xác định lợi tức (nếu có) mà người cho vay được
hưởng.
Lãi suất trái phiếu: được ghi trên trái phiếu hoặc do tổ chức phát hành công bố.
Đây sẽ là căn cứ thứ hai để xác định lợi tức trái phiếu. Mỗi trái phiếu sẽ đều có một
mức lãi suất được tổ chức phát hành cam kết sẽ thanh toán cho người nắm giữ trái
phiếu một số tiền lãi vào thời điểm xác định được quy định cụ thể và thường là định
kỳ. Lãi suất thường sẽ được công bố theo tỷ lệ phần trăm (%) so với mệnh giá.
9
Thời hạn của trái phiếu: hay còn gọi là kỳ hạn của trái phiếu, là khoảng thời
gian từ ngày phát hành trái phiếu đến ngày tổ chức phát hành thanh toán toàn bộ phần
vốn gốc (hoặc có thể là lần cuối cùng thanh toán vốn gốc) cho người sở hữu. Thời
điểm trên cũng có thể gọi là ngày đáo hạn của trái phiếu. Có thể chia trái phiếu ra ba
loại tương ứng là ngắn hạn, trung hạn và dài hạn tùy thuộc vào kỳ hạn của trái phiếu
tương tự các khoản vay. Thông thường, kỳ hạn của trái phiếu càng dài thì tính biến
động giá trái phiếu càng lớn trước sự biến động của lãi suất thị trường.
Kỳ hạn trả lãi: là khoảng thời gian xác định mà tổ chức phát hành trái phiếu
thực hiện trả lãi cho người sở hữu trái phiếu. Lãi suất trái phiếu theo thông lệ thường
được xác định theo năm, tuy nhiên kỳ trả lãi được xác định tùy theo ý chí của tổ chức
phát hành.
Giá trái phiếu: là số tiền thực tế mà các nhà đầu tư bỏ ra để sở hữu trái phiếu.
Tùy vào các điều kiện của thị trường, đặc điểm nội tại của trái phiếu và các bên tham
gia mà giá trái phiếu thay đổi, giá giao dịch có thể lớn hơn, nhỏ hơn hoặc bằng mệnh
giá. Tuy nhiên, để xác định lợi tức hay lãi trái phiếu người ta dựa vào mệnh giá của
trái phiếu.
Trái phiếu trên thị trường tài chính có rất nhiều loại khác nhau, tùy theo tiêu chí
mà trái phiếu sẽ được phân thành từng loại tương ứng. Căn cứ vào tiêu chí là đối
tượng/chủ thể phát hành, trái phiếu có thể được phân thành hai loại là trái phiếu chính
phủ và trái phiếu doanh nghiệp.
Phát hành trái phiếu chính phủ là phương thức để nhà nước vay vốn (một loại
tín dụng nhà nước). Do đó, trái phiếu ghi nhận nghĩa vụ trả nợ của Nhà nước và quyền
lợi của người sở hữu trái phiếu. Trái phiếu chính phủ sẽ do Chính phủ hoặc chính
quyền địa phương phát hành với mục đích cân đối ngân sách, tài trợ công trình phúc
lợi công cộng tại địa phương, trung ương, tài trợ các hoạt động chi thường xuyên hoặc
có thể là một công cụ để điều tiết tiền tệ.
Về cơ bản trái phiếu doanh nghiệp mang đầy đủ các đặc trưng cơ bản của trái
phiếu thông thường, do chủ thể phát hành là các doanh nghiệp phát hành nhằm mục
đích huy động vốn trung và dài hạn để đầu tư, phát triển dự án, mở rộng quy mô hoạt
10
động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Do được đánh giá là rủi ro hơn so với
việc đầu tư trái phiếu chính phủ, vì vậy lãi suất kỳ vọng khi đầu tư trái phiếu doanh
nghiệp thường cao hơn lãi suất của trái phiếu chính phủ ở cùng kỳ hạn.
Khái niệm và đặc điểm trái phiếu doanh nghiệp
Trái phiếu doanh nghiệp là trái phiếu do doanh nghiệp phát hành. Về phía văn
bản quản lý của Nhà nước Việt Nam, cụ thể tại Khoản 1 Điều 4 Nghị định số
153/2020/NĐ-CP ngày 31/12/2020: “Trái phiếu doanh nghiệp” là loại chứng khoán
có kỳ hạn từ 01 năm trở lên do doanh nghiệp phát hành, xác nhận quyền và lợi ích
hợp pháp của người sở hữu đối với một phần nợ của doanh nghiệp phát hành.
Nhìn chung các khái niệm về Trái phiếu doanh nghiệp đều làm rõ bản chất của
trái phiếu doanh nghiệp chính là giấy chứng nhận nợ của doanh nghiệp phát hành,
theo đó người sở hữu trái phiếu hay trái chủ chính là người cho vay, doanh nghiệp
phát hành trái phiếu là người đi vay. Giấy chứng nhận này chính là sự chứng nhận về
mặt pháp lý, ghi nhận liên hệ giữa quyền lợi của chủ nợ đối với doanh nghiệp phát
hành và nghĩa vụ tài chính, các cam kết mà doanh nghiệp phải thực hiện.
Thông thường trái phiếu doanh nghiệp được trả lãi định kỳ hàng tháng, hàng
quý, nửa năm một lần hoặc thậm chí một năm một lần. Trong trường hợp doanh
nghiệp lâm vào tình trạng phá sản, các trái chủ tương tự chủ nợ của doanh nghiệp
được quyền ưu tiên thanh toán trước so với chủ sở hữu của doanh nghiệp – những
người nắm giữ cổ phiếu thường.
Các đặc điểm cơ bản của trái phiếu doanh nghiệp
Thứ nhất, các cam kết của tổ chức phát hành:
Trái phiếu phản ánh quan hệ vay mượn, sử dụng vốn lẫn nhau giữa trái chủ và
tổ chức phát hành dựa trên nguyên tắc hoàn trả và mối quan hệ về lòng tin – tương tự
các hình thức tín dụng truyền thống. Chủ thể phát hành của trái phiếu doanh nghiệp
là các công ty hoạt động theo quy định của luật doanh nghiệp cũng như pháp luật hiện
hành. Tổ chức phát hành cam kết trả một tỷ lệ phần trăm xác định tính trên mệnh giá
trái phiếu – được gọi là lãi coupon, mệnh giá hoặc một phần mệnh giá – thường gọi
là trả gốc theo lịch trả nợ đã được ấn định từ đầu. Như đã đề cập bên trên, khoảng
11
thời gian giữa các lần thanh toán thường được quy định theo tháng, quý, nửa năm hay
một năm, ngày thanh toán mệnh giá trái phiếu lần cuối cùng chính là ngày đáo hạn
của trái phiếu.
Thứ hai, về các điều kiện, điều khoản:
Cam kết của tổ chức phát hành và quyền lợi của nhà đầu tư được trình bày chi
tiết trong các văn kiện trái phiếu, trong đó bao gồm các điều kiện và điều khoản của
trái phiếu. Các văn kiện trái phiếu này là một thỏa thuận pháp lý giữa tổ chức phát
hành và các trái chủ trong đó tối thiểu nêu lên các quyền cơ bản của trái chủ như: lãi
suất coupon được hưởng, thời gian thanh toán lãi, kỳ hạn trái phiếu, lịch mua lại trái
phiếu, phương thức thanh toán, các điều kiện bảo đảm cho gói trái phiếu, khả năng
chuyển đổi của trái phiếu...
Trên thực tế các văn kiện trái phiếu có thể đặt ra những điều kiện áp đặt với hoạt
động của công ty trong tương lai. Thường thì những hạn chế này có tác dụng đảm
bảo khả năng thanh toán của tổ chức phát hành, củng cố vị thế của các nhà đầu tư hay
người chủ sở hữu trái phiếu. Nhiều trường hợp sẽ là sự giới hạn về việc sử dụng các
công cụ nợ, hạn chế dòng tiền cho việc chi trả cổ tức cho chủ sở hữu, mua bán sáp
nhập với doanh nghiệp khác hay thay đổi hoạt động kinh doanh cốt lõi của công ty.
Thứ ba, những đại diện được ủy thác – người được ủy thác:
Khi sử dụng hình thức phát hành trái phiếu để huy động vốn, có một vấn đề mà
tổ chức phát hành gặp phải trong quá trình thực hiện là trình độ của nhà đầu tư. Không
phải lúc nào các trái chủ cũng đều là những cá nhân hay tổ chức có chuyên môn để
thấu hiểu rõ ràng các văn kiện trái phiếu một cách đầy đủ, cũng như không đủ điều
kiện để giám sát việc tuân thủ các cam kết của tổ chức phát hành. Chính vì lý do đó,
để việc phát hành trái phiếu mang lại hiệu quả luôn cần có sự tham gia của các bên
thứ ba (có thể một hoặc nhiều bên) – những tổ chức đại diện cho các nhà đầu tư. Trên
thực tế, trong các đợt phát hành trái phiếu doanh nghiệp tại Việt Nam cũng như hầu
hết các thị trường khác, tổ chức phát hành luôn trả các khoản phí cho những người
được ủy thác – thường là các đơn vị uy tín như ngân hàng đầu tư, ngân hàng thương
mại hay các công ty chứng khoán.
12
1.1.1.2. Phân loại trái phiếu doanh nghiệp
Có thể nói, trái phiếu doanh nghiệp rất đa dạng và phong phú về hình thức và
chủng loại. Điều này giúp loại hình này đáp ứng được hầu hết nhu cầu và thị hiếu của
doanh nghiệp cũng như các nhà đầu tư trên thị trường. Dưới đây là một số loại doanh
nghiệp thường gặp được phân loại theo các tiêu chí khác nhau.
Căn cứ vào lãi suất trái phiếu
Trái phiếu có lãi suất cố định là loại trái phiếu mà lãi suất được tính toán
theo tỷ lệ phần trăm cố định trên mệnh giá.
Trái phiếu có lãi suất biến đổi (hay còn gọi là thả nổi) là trái phiếu mà lợi
tức mà các nhà đầu tư được nhận có sự biến đổi theo một mức lãi suất
tham chiếu từng thời điểm khác nhau.
Trái phiếu không có lãi suất (Zero-Coupon Bond) là loại trái phiếu mà
người sở hữu không nhận được lãi nhưng được mua với mức giá đã được
chiết khấu (giá mua thấp hơn so với mệnh giá), lợi nhuận được tạo ra tại
thời điểm đáo hạn của trái phiếu, khi trái phiếu được mua lại bằng mệnh
giá của nó.
Căn cứ vào mức độ bảo đảm của tổ chức phát hành
Trái phiếu có bảo đảm là loại trái phiếu được tổ chức phát hành dùng một
tài sản có giá trị làm bảo đảm cho việc phát hành. Tài sản thường là các
bất động sản hoặc các tài sản tài chính khác có giá trị cần thiết để khi tổ
chức phát hành mất khả năng thanh toán bất kỳ phần tiền lãi và gốc trái
phiếu nào, chủ nợ có quyền tịch thu và bán số tài sản đó để thu hồi số tiền
còn nợ. Trái phiếu có bảo đảm cũng có thể chia làm các loại dựa vào tính
chất của tài sản bảo đảm như trái phiếu có tài sản là bất động sản cầm cố,
trái phiếu bảo đảm bằng chứng khoán ký quỹ.
Trong khi đó, trái phiếu không có bảo đảm lại là loại trái phiếu không có
tài sản làm vật đảm bảo khi phát hành. Sự bảo đảm duy nhất mà người sở
hữu trái phiếu có được là uy tín (tín chấp) của tổ chức phát hành.
13
Căn cứ theo tính chất của trái phiếu
Trái phiếu thông thường là loại trái phiếu không kèm điều kiện ràng buộc
nào khác ngoài việc hoàn trả tiền gốc và lãi theo kỳ hạn cam kết.
Trái phiếu có khả năng chuyển đổi là loại trái phiếu được công ty theo mô
hình công ty cổ phần phát hành, sở hữu trái phiếu cho phép trái chủ được
chuyển đổi từ trái phiếu sang cổ phiếu (thông thường là cổ phiếu phổ
thông).
Trái phiếu kèm chứng quyền (quyền mua cổ phiếu) là loại trái phiếu mà
nhà đầu tư có thể hưởng thêm quyền mua một số lượng cổ phiếu xác định
của tổ chức phát hành.
Trái phiếu có thể mua lại là loại trái phiếu được quy định quyền mua lại
một phần hay toàn bộ trái phiếu trước thời điểm đáo hạn.
Trái phiếu có lãi suất trần, sàn. Loại trái phiếu này được hai bên mua bán
thỏa thuận biên độ lãi suất nằm dưới một mức trần hoặc nằm trên một mức
sàn nhằm hạn chế rủi ro cho cả hai bên.
Căn cứ vào hình thức của trái phiếu
Trái phiếu vô danh là loại trái phiếu không ghi tên người sở hữu trên trái
phiếu cũng như sổ của tổ chức phát hành. Tại thời điểm đáo hạn, trái chủ
mang giấy chứng nhận sở hữu trái phiếu đến nên chỉ định hoặc tổ chức
phát hành để nhận lại tiền gốc tương ứng với mệnh giá và lợi tức nếu có.
Trái phiếu vô danh có đặc trưng là dễ dàng chuyển nhượng, bất kỳ cá nhân
hay tổ chức nào nắm trái phiếu trong tay đều có quyền được thanh toán
gốc và lãi trái phiếu.
Trái phiếu ghi danh là loại trái phiếu có ghi tên và các thông tin định danh
của người nắm giữ trái phiếu trực tiếp trên trái phiếu và hệ thống lưu trữ
của tổ chức phát hành. Đặc điểm của trái phiếu ghi danh là việc chuyển
nhượng sẽ phải tuân theo các quy tắc nhất định do tổ chức phát hành đưa
ra hoặc pháp luật quy định. Do được tổ chức phát hành công nhận và bảo
14
đảm, danh sách người sở hữu trái phiếu luôn được doanh nghiệp nắm rõ.
1.1.2. Thị trường trái phiếu doanh nghiệp
1.1.2.1. Khái niệm và chức năng của thị trường trái phiếu doanh nghiệp
Khái niệm
Thị trường trái phiếu doanh nghiệp là thị trường tại đó diễn ra việc phát hành
và giao dịch các loại trái phiếu của các doanh nghiệp theo quy định của pháp luật.
Thông thường việc phát hành trái phiếu được thực hiện trên thị trường chứng
khoán sơ cấp bằng nhiều phương thức khác nhau như bảo lãnh phát hành, đại lý phát
hành hay đấu thầu...
Thị trường chứng khoán sơ cấp chính là thị trường dành cho việc phát hành mới
các chứng khoán, nói cách khác, tại thị trường sơ cấp tổ chức phát hành trái phiếu
nhận được được tiền từ việc phát hành. Sau khi đã được phát hành, các trái phiếu sẽ
được giao dịch trên thị trường thứ cấp. Thị trường thứ cấp là nơi mua đi bán lại các
chứng khoán đã được phát hành ở thị trường sơ cấp, thường được phân loại là thành
thị trường tập trung và phi tập trung.
Các chức năng chủ yếu của thị trường trái phiếu doanh nghiệp
Khi đầu tư trái phiếu doanh nghiệp, nhà đầu tư sử dụng số tiền của họ đưa cho
doanh nghiệp phát hành để phục vụ các mục đích sản xuất kinh doanh, mở rộng quy
mô doanh nghiệp cũng như mở rộng sản xuất xã hội. Nhờ đó, thị trường trái phiếu
doanh nghiệp có tác động quan trọng đối với sự phát triển của nền kinh tế.
Thị trường trái phiếu doanh nghiệp cung cấp một môi trường đầu tư lành mạnh,
phong phú và chuyên nghiệp cho các bên tham gia, là một trong những nền móng
quan trọng của thị trường chứng khoán. Thị trường trái phiếu doanh nghiệp còn giúp
đa dạng hóa các loại hàng hóa trên thị trường chứng khoán, cho phép nhà đầu tư có
nhiều lựa chọn hàng hóa phù hợp, thu hút đầu tư góp phần làm tăng mức tiết kiệm và
đầu tư quốc gia.
Một lợi ích mà thị trường trái phiếu doanh nghiệp mang lại là tạo ra tính thanh
khoản cho trái phiếu. Nhờ thị trường trái phiếu doanh nghiệp, nhà đầu tư có thể
15
chuyển đổi các tài sản tài chính mà họ sở hữu thành tiền hoặc loại chứng khoán khác
tùy thuộc nhu cầu và đặc trưng trái phiếu họ nắm giữ. Khả năng thu hồi vốn và lợi
tức là một trong những đặc tính hấp dẫn của trái phiếu, thị trường trái phiếu càng sôi
động và hiệu quả thì khả năng thanh khoản của các trái phiếu giao dịch trên thị trường
càng tăng cao, đảm bảo một phần cho khả năng thu hồi vốn của nhà đầu tư.
Môi trường mà thị trường trái phiếu doanh nghiệp tạo ra giúp Chính phủ thực
hiện các chính sách kinh tế vĩ mô dễ dàng và hiệu quả hơn. Các chỉ số của thị trường
chứng khoán nói chung và thị trường trái phiếu doanh nghiệp nói riêng đều phản ánh
động thái, xu hướng của nền kinh tế một cách tương đối chính xác và nhạy bén. Thông
thường, giá các chứng khoán được cho là phản ánh các dấu hiệu của nền kinh tế, khi
giá tăng có thể nhìn nhận việc đầu tư đang mở rộng, kinh tế tăng trưởng, ngược lại
khi giá giảm có thể đem đến các dấu hiệu tiêu cực cho nền kinh tế. Là một bộ phận
cấu thành thị trường chứng khoán, thị trường trái phiếu là một trong những công cụ
giúp các nhà quản lý thực hiện các chính sách kinh tế vĩ mô. Chính phủ có thể thông
qua thị trường này để mua hoặc bán trái phiếu (giảm bớt hoặc tăng số lượng tiền lưu
thông ngoài thị trường) nhằm các mục đích cụ thể như tăng thu ngân sách, quản lý
cung tiền, quản lý lạm phát... Chính phủ còn có thể sử dụng một số biện pháp tác
động vào thị trường mà không cần mua bán trực tiếp để định hướng đầu tư đảm bảo
sự phát triển cân đối của nền kinh tế.
1.1.2.2. Các chủ thể tham gia thị trường trái phiếu doanh nghiệp
Tổ chức phát hành – chủ thể phát hành
Tổ chức phát hành hay chủ thể phát hành là tổ chức có nhu cầu và đứng ra huy
động vốn từ hoạt động phát hành trái phiếu. Tổ chức phát hành trái phiếu doanh
nghiệp là các doanh nghiệp, bao gồm các hình thức tổ chức như công ty cổ phần,
công ty trách nhiệm hữu hạn, doanh nghiệp vốn nhà nước, doanh nghiệp vốn tư nhân,
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài... có nhu cầu về vốn để đầu tư, sản xuất kinh
doanh hay mở rộng quy mô doanh nghiệp.
Nhà đầu tư – chủ thể đầu tư
Chủ thể đầu tư là những người mua trái phiếu doanh nghiệp. Chủ thể đầu tư chia
16
thành hai loại là các nhà đầu tư tổ chức và các nhà đầu tư các nhân. Nhà đầu tư cá
nhân thường là các cá nhân nhà đầu tư hoặc các hội nhóm có quy mô như hộ gia đình.
Trong khi đó nhà đầu tư tổ chức thường bao gồm các công ty chứng khoán, công ty
bảo hiểm, ngân hàng đầu tư, ngân hàng thương mại, quỹ đầu tư, quỹ hưu trí... Thực
tế thị những tổ chức kinh doanh thực sự trên thị trường trái phiếu doanh nghiệp là các
nhà đầu tư tổ chức thường là ngân hàng đầu tư, ngân hàng thương mại và các quỹ đầu
tư. Đó là các tổ chức chuyên nghiệp trên thị trường chứng khoán, sử dụng số tiền huy
động từ dân cư đầu tư vào trái phiếu nhằm thu lợi nhuận. Hoạt động đầu tư vào trái
phiếu doanh nghiệp của các tổ chức này vừa tạo ra lợi nhuận vừa tạo điều kiện thực
hiện các nghiệp vụ liên quan đến quản lý ngân quỹ, vừa thiết lập và điều chỉnh mức
độ đa dạng hóa danh mục đầu tư của tổ chức.
Các tổ chức tài chính trung gian
Tổ chức bảo lãnh phát hành là tổ chức đứng ra thay mặt doanh nghiệp phát hành
thực hiện các thủ tục trước, trong và sau các đợt chào bán trái phiếu như tư vấn tài
chính, chuẩn bị hồ sơ chào bán, xin phép phát hành, phân phối trái phiếu tới các nhà
đầu tư...
Thông thường để phát hành trái phiếu, tổ chức phát hành cần được sự bảo lãnh
của một tổ chức bảo lãnh phát hành như ngân hàng đầu tư, ngân hàng thương mại có
chức năng nhận bảo lãnh phát hành công cụ nợ theo quy định của pháp luật. Các tổ
chức bảo lãnh phát hành sẽ được hưởng phí bảo lãnh, thường sẽ là một tỷ lệ hoa hồng
nhất định trên khối lượng phát hành thành công hay số tiền tổ chức phát hành nhận
được. Phí bảo lãnh phát hành sẽ là mức chênh lệch giữa giá bán trái phiếu cho các
trái chủ và số tiền doanh nghiệp thực tế được nhận. Phí bảo lãnh cao hay thấp tùy
thuộc vào hình thức bảo lãnh, mức độ rủi ro, tính chất của đợt phát hành, lãi suất trái
phiếu cũng như thỏa thuận giữa bên bảo lãnh và bên được bảo lãnh.
Hoạt động bảo lãnh phát hành trái phiếu doanh nghiệp bao gồm các hoạt động
cơ bản như sau:
Nghiên cứu và tư vấn cho tổ chức phát hành cách thức phát hành, cơ cấu
phát hành;
17
Thay mặt Tổ chức phát hành thực hiện và hoàn tất các thủ tục pháp lý cần
thiết cho đợt phát hành theo quy định;
Thỏa thuận hợp tác với bên bảo lãnh khác (nếu có) và các tổ chức thực
hiện công tác tiếp thị, phân phối trái phiếu (thông thường là công ty chứng khoán);
Quản lý công tác phân phối và thanh toán trái phiếu;
Thực hiện các công việc hỗ trợ và cung cấp dịch vụ sau phát hành.
Tổ chức đánh giá hệ số tín nhiệm là các pháp nhân có chuyên môn về đánh giá
mức độ uy tín của doanh nghiệp phát hành, khả năng thanh toán gốc và lãi trái phiếu
trong suốt kỳ hạn của trái phiếu.
Các tổ chức kinh doanh trái phiếu thường là các công ty chứng khoán, ngân
hàng thương mại, hay các tổ chức khác được phép kinh doanh trái phiếu theo quy
định của pháp luật. Các tổ chức này chủ yếu sẽ hoạt động và giao dịch trái phiếu trên
thị trường thứ cấp, là môi giới, trung gian mua bán cho các bên có nhu cầu mua bán
trái phiếu để hưởng phí môi giới. Ngoài ra họ còn giao dịch trái phiếu để kiếm lợi
nhuận cho chính tổ chức đó. Các tổ chức này cũng đồng thời cung cấp các dịch vụ tư
vấn đầu tư hay các dịch vụ liên quan đến giao dịch trái phiếu. Vì vậy các tổ chức kinh
doanh trái phiếu là chất xúc tác quan trọng trong việc thúc đẩy sự phát triển của thị
trường trái phiếu doanh nghiệp do có vai trò lớn trong việc đảm bảo tính thanh khoản
của các hàng hóa trên thị trường – trái phiếu doanh nghiệp.
1.1.2.3. Phân loại thị trường trái phiếu doanh nghiệp
Phân loại theo hình thức tổ chức thị trường
Sở giao dịch chứng khoán
Sở giao dịch là thị trường giao dịch chứng khoán được thực hiện tại một địa
điểm tập trung (có thể gọi là sàn giao dịch) hoặc thông qua hệ thống máy tính. Thị
trường hoạt động theo nguyên tắc trung gian, không có người mua, người bán cuối
cùng.
Theo cách thức như vậy, các nhà đầu tư phải mở tài khoản thanh toán và lưu ký
chứng khoán, ký hợp đồng kinh doanh với các công ty chứng khoán, công ty môi
18
giới. khi có nhu cầu mua bán chứng khoán hay trái phiếu doanh nghiệp, nhà đầu tư
sẽ ủy quyền cho các công ty chứng khoán, công ty môi giới đại diện cho họ thực hiện
mua bán thông qua hoạt động đấu giá hoặc thỏa thuận tập trung tại sàn giao dịch. Như
vậy tại thị trường tập trung chỉ có các thành viên chính thức mới trực tiếp thực hiện
các giao dịch tại sàn, các thành viên khác bắt buộc phải thực hiện giao dịch thông qua
các thành viên chính thức nói trên,
Phương thức giao dịch tại các Sở giao dịch là phương thức đấu giá, trong đó các
lệnh mua và bán được ghép với nhau dựa trên cơ sở hình thành giá cả cạnh tranh tốt
nhất (lãi suất, giá trái phiếu). Trên cơ sở cạnh tranh như vậy, giá cả sẽ phản ánh chính
xác nhu cầu trên thị trường, từ đó cung cấp thông tin chính xác về chi phí vốn/chi phí
huy động cho các bên phát hành. Bên cạnh phương thức đấu giá, sở giao dịch còn
thực hiện phương thức giao dịch thỏa thuận, nhất là đối với trái phiếu. Các giao dịch
này thường có khối lượng lớn và do các nhà đầu tư tổ chức thực hiện.
Để được giao dịch tại thị trường chứng khoán tập trung thì trái phiếu phải niêm
yết trên Sở giao dịch chứng khoán, đặt dưới sự kiểm soát chặt chẽ của Ủy ban chứng
khoán quốc gia. Các giao dịch phải tuân theo các quy định của Nhà nước về chứng
khoán và thị trường chứng khoán.
Thị trường phi tập trung
Thị trường phi tập trung hay còn được gọi là thị trường OTC là thị trường của
các nhà tạo lập thị trường. Việc mua bán, giao dịch trái phiếu không diễn ra tại một
địa điểm tập trung mà thông qua hệ thống giữa các thành viên của thị trường. Thông
thường khối lượng giao dịch trên thị trường OTC thường rất lớn. Việc mua bán trên
thị trường OTC được thực hiện thông qua thương lượng giữa bên mua và bên bán.
Thị trường OTC không có sàn giao dịch cũng như quầy giao dịch các loại trái phiếu,
tuy nhiên có sự xuất hiện của những công ty chuyên kinh doanh những loại trái phiếu
nhất định, sẵn sàng mua hoặc bán theo giá mà họ niêm yết. Tùy từng điều kiện cụ thể
mà công ty đó có thể yết giá chắc chắn là sẵn sàng mua hoặc bán với số lượng chào
bán và đặt mua theo mức giá yết đưa ra; yết giá phụ thuộc, giá mà người tạo thị trường
tiến hành "yết giá" phụ thuộc vào sự xác nhận của đối tác giao dịch; yết giá có chủ
19
định, trong trường hợp này người tạo thị trường tập trung các nhu cầu giao dịch mà
họ đã biết rồi tìm cách thương lượng một giao dịch. Đối với các nhà giao dịch trái
phiếu thì nguồn thông tin tốt nhất bao gồm tất cả các mối quan hệ của họ trong hoạt
động kinh doanh.
Phân loại theo cách thức luân chuyển vốn
Thị trường sơ cấp
Như đã đề cập, thị trường trái phiếu sơ cấp là thị trường mà các giao dịch, mua
bán các trái phiếu doanh nghiệp lần đầu tiên phát hành. Khi doanh nghiệp phát sinh
nhu cầu huy động vốn kinh doanh và lựa chọn nguồn vốn tài trợ từ các chứng khoán
nợ, doanh nghiệp đó sẽ có thể phát hành trái phiếu cho các tổ chức hay các nhân đầu
tư trên thị trường sơ cấp. Có thể nói thị trường trái phiếu doanh nghiệp sơ cấp là nơi
trực tiếp cung cấp nguồn vốn kinh doanh cho doanh nghiệp. Thị trường sơ cấp không
nhất thiết phải là một địa điểm cố định hay sàn giao dịch cụ thể, các bên có thể tiến
hành phát hành trái phiếu doanh nghiệp trực tiếp tại doanh nghiệp thông qua các trung
gian tài chính hoặc Sở giao dịch chứng khoán. Thị trường trái phiếu doanh nghiệp sơ
cấp chỉ hoạt động khi có đợt phát hành trái phiếu mới mà không có tính chất liên tục.
Phương thức phát hành trên thị trường trái phiếu doanh nghiệp sơ cấp có thể
phân thành hai loại là phát hành riêng lẻ hoặc chào bán ra công chúng.
(i) Phát hành riêng lẻ là hình thức phát hành trong đó trái phiếu được bán ra
trong phạm vi một số nhà đầu tư nhất định (thông thường là các nhà đầu
tư tổ chức) với các điều kiện hạn chế, không tiến hành phát hành một cách
rộng rãi ra công chúng. Trái phiếu được phát hành bằng hình thức này
không phải đối tượng giao dịch tại Sở giao dịch chứng khoán.
(ii) Chào bán ra công chúng là việc phát hành trái phiếu một cách rộng rãi cho
một số lượng lớn các nhà đầu tư và khối lượng phát hành cũng phát đạt
một mức nhất định.
Trên thực tế, dù là hình thức nào hoạt động phát hành trái phiếu cũng đề phải
chịu sự chi phối của pháp luật về chứng khoán và phải được cơ quan quản lý Nhà
nước cấp phép. Các tổ chức phát hành phải thực hiện các chế độ báo cáo, công bố
20
thông tin công khai, chịu sự giám sát riêng, đặc biệt là phát hành trái phiếu ra công
chúng.
Thị trường thứ cấp
Sau khi trái phiếu doanh nghiệp được phát hành trên thị trường sơ cấp, thị trường
trái phiếu doanh nghiệp thứ cấp là nơi mua bán giao dịch các loại trái phiếu này. Đây
là thị trường tạo ra sự thanh khoản cho cho trái phiếu doanh nghiệp. Không giống thị
trường sơ cấp, thị trường thứ cấp hoạt động liên tục, trái chủ của trái phiếu – chủ nợ
của doanh nghiệp phát hành thay đổi khi nhà đầu tư chuyển quyền sở hữu trái phiếu
cho nhà đầu tư khác.
Thị trường thứ cấp không tạo ra thêm nguồn vốn tài trợ cho doanh nghiệp phát
hành, cũng không làm tăng vốn cho nền kinh tế nhưng có ý nghĩa quan trọng trong
việc thu hút tiền tập trung vào hoạt động đầu tư, phát triển sản xuất. Thị trường thứ
cấp bao gồm thị trường phi tập trung và tập trung.
Cách thức hoạt động của thị trường thứ cấp
Dù thực tế các sàn giao dịch chứng khoán tập trung lớn trên thế giới đều niêm
yết các trái phiếu doanh nghiệp, tuy nhiên phần lớn phân khúc này được giao dịch
trên thị trường phi tập trung. Thị trường này được thành hình nhờ một mạng lưới các
công ty trung gian môi giới và các nhà tạo lập thị trường. Các nhà tạo lập thị trường
thường là các ngân hàng đầu tư, đã xây dựng kết nối với các công ty môi giới trên thị
trường tạo nên các thị trường bán buôn.
Thị trường trái phiếu doanh nghiệp thứ cấp chủ yếu hoạt động dựa vào hệ thống
thông tin liên lạc giữa các thành viên, nó có thể là điện thoại hoặc hệ thống mạng điện
tử... Các mạng điện tử có thể hiển thị mức giá chào bán, chào mua và khối lượng đặt
hàng từ các thành viên khác nhau. Trên thị trường bán lẻ, các nhà tạo lập thị trường
cùng bên môi giới thiết lập mạng lưới, diễn đàn giúp các nhà đầu tư có thể lựa chọn
và mua bán trái phiếu một cách dễ dàng. Trên thế giới, ngoài các sàn giao dịch có tên
tuổi như BondPro của Mỹ, TradeWeb của anh, Bondscape tại Châu Âu... còn có sự
góp mặt của các hệ thống thông tin điện tử lớn trong lĩnh vực tài chính của thế giới
là Bloomberg và Reuters cũng cung cấp dịch vụ kết nối điện tử cho thị trường này.
21
Hình 1.1 Cơ cấu thị trường trái phiếu doanh nghiệp thứ cấp
Do các giao dịch chủ yếu tập trung trên thị trường phi tập trung, vì vậy để giảm
thiểu tình trạng thông tin bất cân xứng và tăng cường sự minh bạch, các nước có thị
trường trái phiếu doanh nghiệp phát triển thường yêu cầu các tổ chức môi giới, các
nhà tạo lập thị trường phải báo cáo thông tin giao dịch cho một số cơ quan quản lý
nhất định như hệ thống thông tin trái phiếu quốc gia hay các hệ thống của Bloomberg
và Reuters như đã nêu bên trên. Sau khi các giao dịch thành công, tất cả thông tin
mua bán sẽ được chuyển đến bên cung cấp dịch vụ chuyên môn để thực hiện thanh
toán và chuyển giao trái phiếu.
Quan hệ giữa thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp
Thị trường thứ cấp đảm bảo tính thanh khoản của các hàng hóa trên thị trường
là trái phiếu doanh nghiệp – các sản phẩm của thị trường thứ cấp. Chính do tính thanh
khoản của các khoản nợ này sẽ làm giảm rủi ro nhất định cho các nhà đầu tư. Họ có
thể dễ dàng hơn trong việc sàng lọc, lựa chọn thay đổi cơ cấu danh mục đầu tư vừa
22
có lợi cho chính nhà đầu tư đó, vừa làm giảm chi phí cho các tổ chức phát hành trong
việc huy động và sử dụng vốn. Tăng tính thanh khoản cùng giúp tạo điều kiện cho
việc chuyển đổi kỳ hạn, thời hạn vốn giúp phân phối vốn hiệu quả. Sự di chuyển vốn
của cả thị trường và một phần nền kinh tế được thực hiện thông qua cơ chế bàn tay
vô hình, cơ chế xác định giá chứng khoán thông qua hoạt động trên thị trường thứ
cấp.
Thứ hai, thị trường thứ cấp xác định giá của khoản nợ đã được phát hành trên
thị trường sơ cấp. Thị trường thứ cấp có thể coi là thị trường định giá các khoản nợ
một cách chính xác hơn do đây là nơi có sự tham gia đông đảo các nhà đầu tư, nơi
nhu cầu mua và bán đáp ứng lẫn nhau, giá trị thị trường được phản ánh qua quan hệ
cung cầu.
Thông qua việc xác định giá trị các trái phiếu, thị trường thứ cấp cung cấp một
danh sách chi phí vốn tương ứng cho các mức độ rủi ro khác nhau cả các phương án
đầu tư khác nhau, tạo cơ sở tham chiếu cho các tổ chức phát hành và các nhà đầu tư
trên thị trường sơ cấp.
Như vậy thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp có mối quan hệ rất mật thiết và
hỗ trợ lẫn nhau. Nếu không có thị trường sơ cấp thì không có thị trường thứ cấp, đồng
thời thị trường thứ cấp lại tạo ra các điều kiện cần thiết để thúc đẩy thị trường sơ cấp
phát triển. Ví dụ minh họa về mối quan hệ giữa hai thị trường như bánh xe và động
cơ của một chiếc xe, thị trường sơ cấp như là bánh xe, cơ sở của một chiếc xe, thị
trường thứ cấp là động cơ, cung cấp động lực cho bánh xe. Nếu không có thị trường
sơ cấp sẽ chẳng có các khoản nợ nào được sinh ra và lưu thông trên thị trường, nếu
không có thị trường thứ cấp thì việc giao dịch mua bán, hoán đổi các chứng khoán sẽ
gặp khó khăn, khiến số lượng nhà đầu tư bị thu nhỏ lại, hạn chế đi khả năng huy động
vốn tiềm năng của nền kinh tế. Điểm khác nhau căn bản giữa hai thị trường chính là
mục đích riêng của từng loại thị trường. Việc phát hành cổ phiếu, trái phiếu hay bất
kỳ tài sản tài chính nào trên thị trường sơ cấp là nhằm thu hút nguồn vốn đầu tư tiết
kiệm và công cuộc phát triển kinh tế. Trong khi đó, có thể nói thị trường thứ cấp có
hoạt động giao dịch rất nhộn nhịp với quy mô mua đi bán lại gấp rất nhiều lần thị
trường sơ cấp lại không làm tăng thêm quy mô vốn đầu tư, không tạo ra thêm nguồn
23
tài chính bổ sung cho hoạt động của doanh nghiệp. Nó đơn giản là phân phối lại quyền
sở hữu của các chứng khoán từ chủ thể này sang chủ thể khác và đảm bảo tính thanh
khoản của chứng khoán đó. Do đó, các nhà quản lý thường tập trung tăng cường huy
động vốn trên thị trường sơ cấp, nơi nguồn vốn thực sự chuyển dịch từ người tiết
kiệm sang người đầu tư khác với thị trường thứ cấp không tác động tới việc tích tụ
và tập trung vốn. Phân biệt thị trường sơ cấp và thứ cấp có thể chỉ mang ý nghĩa lý
thuyết vì trên thực tế tổ chức thị trường chứng khoán ít có sự phân biệt đâu là thị
trường sơ cấp, đâu là thị trường thứ cấp. Tức là một thị trường chứng khoán vừa có
giao dịch của thị trường sơ cấp, vừa có giao dịch của thị trường thứ cấp. Tuy nhiên
hiểu được đâu là thị trường sơ cấp và thứ cấp là giúp các cơ quan quản lý thực hiện
các chính sách khác nhau nhằm thúc đẩy thị trường phát triển. Đối với thị trường sơ
cấp cần các chính sách tăng cường đầu tư cũng như phân phối vốn cho các thành phần
của nền kinh tế một cách hợp lý. Đối với thị trường thứ cấp cần các biện pháp quản
lý chặt chẽ, tránh tình trạng đầu cơ, lũng đoạn thị trường đảm bảo cho thị trường là
một công cụ hữu hiệu của nền kinh tế.
Phân loại theo phương thức giao dịch
Thị trường giao ngay: là thị trường mua bán trái phiếu theo giá tại thời
điểm giao dịch nhưng việc thực hiện thanh toán và giao hàng có thể diễn ra sau đó
một vài ngày theo thỏa thuận.
Thị trường kỳ hạn: Là thị trường mua bán trái phiếu theo một loại hợp
đồng định sẵn, giá cả được thỏa thuận trong ngày giao dịch, nhưng việc thanh toán
và giao hàng xảy ra trong một thời hạn ở tương lai.
1.1.2.4. Các hình thức huy động vốn bằng phát hành trái phiếu doanh
nghiệp
Đối với hầu hết các thị trường chứng khoán phát triển, việc phát hành trái phiếu
doanh nghiệp để huy động vốn thường được thực hiện theo hai phương thức là phát
hành riêng lẻ và phát hành ra công chúng như đã đề cập ở phần trước.
Phát hành riêng lẻ
Dù vẫn phải chịu sự quản lý từ các cơ quan nhà nước, tuy nhiên điều kiện và
24
thủ tục phát hành riêng lẻ trái phiếu doanh nghiệp thường đơn giản hơn so với chào
bán ra công chúng. Do đó, việc phát hành riêng lẻ trái phiếu thường được các doanh
nghiệp sử dụng nhiều hơn, thích hợp với các doanh nghiệp vừa và nhỏ cho các đợt
phát hành nhỏ hay các doanh nghiệp dự án có mục đích huy động vốn từ trái phiếu
để đầu tư dự án. Việc phát hành riêng lẻ trái phiếu được thực hiện theo phương thức
bảo lãnh phát hành hoặc là phương thức đấu thầu.
Chào bán ra công chúng
Chào báo trái phiếu doanh nghiệp ra công chúng là phương thức trái phiếu được
chào bán rộng rãi cho tất cả các nhà đầu tư có nhu cầu bao gồm các nhà đầu tư cá
nhân hay nhà đầu tư chuyên nghiệp với những điều kiện như nhau.
Những đợt phát hành trái phiếu có khối lượng lớn thường được doanh nghiệp
lựa chọn phương thức phát hành là chào bán trái phiếu ra công chúng. Thủ tục cần
thiết để chào bán trái phiếu doanh nghiệp ra công chúng phức tạp hơn nhiều nếu so
với hình thức phát hành riêng lẻ dù chúng đều chịu sự chi phối của pháp luật. Trên
thực tế, chi phí phát hành ra công chúng thường cao hơn so với chi phí phát hành
riêng lẻ.
Phân biệt hai phương thức phát hành nhằm bảo vệ quyền lợi cho nhà đầu tư và
phục vụ các công tác quản lý phát hành trái phiếu. Ngoài ra, việc phân biệt còn nhằm
xác định phạm vi thị trường của các loại trái phiếu, thường thì loại trái phiếu nào phát
hành rộng rãi cho công chúng mới được giao dịch trên thị trường chứng khoán và có
tính thanh khoản cao hơn. Các công ty chào bán trái phiếu doanh nghiệp ra công
chúng và niêm yết trái phiếu trên thị trường chứng khoán tập trung có lợi thế hơn
trong việc quảng bá và khẳng định tên tuổi của công ty. Nói chung thì những doanh
nghiệp có uy tín, quy mô lớn và tình hình hoạt động kinh doanh hiệu quả mới có đủ
điều kiện chào bán trái phiếu ra công chúng. Tương tự hình thức phát hành riêng lẻ,
chào bán trái phiếu doanh nghiệp ra công chúng cũng thực hiện theo phương thức
bảo lãnh phát hành hoặc đấu thầu.
1.2. Phát triển thị trường trái phiếu doanh nghiệp
1.2.1. Khái niệm
25
Theo triết học Mac - Lê nin: “Phát triển là quá trình vận động tiến lên từ thấp
đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn của một sự
vật. Quá trình vận động đó diễn ra vừa dần dần, vừa nhảy vọt để đưa tới sự ra đời của
cái mới thay thế cái cũ. Sự phát triển là kết quả của quá trình thay đổi dần về lượng
dẫn đến sự thay đổi về chất, quá trình diễn ra theo đường xoắn ốc và hết mỗi chu kỳ
sự vật lặp lại dường như sự vật ban đầu nhưng ở mức (cấp độ) cao hơn.”
Có thể hiểu đơn giản hơn, phát triển là quá trình vận động, tiến triển theo hướng
tăng lên. Phát triển thị trường trái phiếu doanh nghiệp là phạm trù kinh tế, trong khuôn
khổ định nghĩa ngắn gọn không thể bao hàm hết được nội dung của nó, song khái
niệm tối thiểu phải phản ánh được các nội dung cơ bản sau:
Sự tăng lên về quy mô thị trường, giá trị thị trường và có sự biến đổi tích
cực về cơ cấu thị trường.
Tác động của tăng trưởng thị trường trái phiếu doanh nghiệp làm thay đổi
cơ cấu thị trường tài chính và cải thiện chất lượng thị trường trong vai trò là cầu nối
giữa nơi thừa vốn và nơi thiếu vốn.
Sự phát triển là quy luật tiến hóa, song nó chịu tác động của nhiều nhân tố
mà nội lực của nền kinh tế có ý nghĩa quyết định.
Ở khía cạnh vận động đi lên của thị trường trái phiếu doanh nghiệp, sự phát
triển được thể hiện qua sự tăng lên về quy mô, số lượng, giá trị trái phiếu doanh
nghiệp được phát hành từ đó tăng cường nguồn cung vốn cho đầu tư, sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp, đóng góp nguồn lực phát triển toàn xã hội. Ở khía cạnh phát
triển về trình độ, sự phát triển được thể hiện qua chất lượng của thị trường trái phiếu
doanh nghiệp bao gồm sự ổn định và hiệu quả của môi trường pháp luật điều chỉnh
hay sự phù hợp và tiên tiến của môi trường hoạt động, giao dịch. Tóm lại, sự phát
triển thị trường trái phiếu doanh nghiệp bao gồm sự phát triển ở cả chất và lượng.
1.2.2. Tiêu chí để đánh giá sự phát triển của thị trường trái phiếu doanh
nghiệp
Thị trường vốn trong đó có thị trường trái phiếu doanh nghiệp đóng vai trò
không thể bàn cãi trong nền kinh tế khi cung cấp nguồn vốn cho các thành phần kinh
26
tế trong hoạt động đầu tư, sản xuất kinh doanh. Trái phiếu thường là công cụ để Chính
phủ và doanh nghiệp sử dụng để huy động vốn ở kỳ hạn dài, phục vụ các mục tiêu
riêng biệt. Do đó, để phát triển thị trường trái phiếu doanh nghiệp mỗi thị trường cần
phải có một hệ thống giải pháp lộ trình riêng, phù hợp với đặc thù từng quốc gia, tuy
nhiên vẫn dựa trên các yếu tố căn bản của thị trường như: nhà đầu tư, tổ chức phát
hành, hệ thống văn bản pháp luật...
Để đánh giá thực tế về sự phát triển của thị trường trái phiếu doanh nghiệp có
nhiều tiêu chí theo nhiều quan điểm khác nhau, tuy nhiên hầu hết sẽ tập trung vào các
yếu tố như quy mô thị trường, chất lượng các trái phiếu giao dịch trên thị trường...
Andritzky (năm 2007) đã đưa ra 4 tiêu chí nhằm đánh giá sự phát triển thị trường vốn
như sau:
(i) Quy mô thị trường;
(ii) Cơ sở Tổ chức phát hành và Nhà đầu tư;
(iii) Cơ sở hạ tầng kỹ thuật phục vụ các công tác phát hành, lưu ký và giao
dịch;
(iv) Hệ thống và khung pháp lý.
Trong bốn yếu tố kể trên, quy mô thị trường là thước đo cơ bản để đánh giá thị
trường vốn có phát triển hay không. Bên cạnh đó, với từng quốc gia và điều kiện cụ
thể khác nhau, các giải pháp và chính sách nhằm phát triển thị trường cần mức độ tập
trung vào các yếu tố là khác nhau để tạo sự cân bằng.
Cùng với chủ đề về phát triển thị trường vốn, các tác giả tại Ngân hàng Thế giới
(World Bank) lại có cách nhìn có sự khác biệt đôi chút về các tiêu chí đánh giá tình
hình phát triển thị trường vốn tại các quốc gia mới nổi. Tương tự nghiên cứu của
Andritzky (năm 2007), các tiêu chí của World Bank cũng nhấn mạnh vào yếu tố về
quy mô thị trường và khối lượng giao dịch. Thêm vào đó là yếu tố tham gia của khu
vực tư nhân vào thị trường dưới góc độ của nhà đầu tư lẫn tổ chức phát hành. Do dự
tham gia của doanh nghiệp và thị trường trái phiếu, cùng với thị trường trái phiếu
chính phủ, với tư cách là tổ chức phát hành hay nhà đầu tư đều sẽ giúp thị trường thể
hiện được vai trò là một kênh cung cấp vốn cho nền kinh tế thông qua đầu tư công
27
lẫn đầu tư tư nhân. Nhìn rộng ra phạm vi Châu Á, tại các quốc gia có thị trường vốn
phát triển mạnh đều có sự tồn tại không thể thiếu của bộ phận trái phiếu doanh nghiệp
phát triển với chất lượng tương ứng, thể hiện qua tỷ trọng của thị trường trái phiếu
doanh nghiệp trên quy mô phát hành và dư nợ của cả thị trường. Ví dụ như ở các quốc
gia Hàn Quốc, Malaysia hay Singapore đều có mức tỷ trọng khá lớn so với tổng quy
mô của thị trường. Theo số liệu tính đến năm 2014, dư nợ trái phiếu doanh nghiệp tại
Malaysia, Hàn Quốc và Singapore lần lượt tương ứng là 43% GDP, 72% GDP và
32% GDP.
Ngân hàng Phát triển châu Á (The Asian Development Bank; viết tắt: ADB)
cũng đưa ra 5 tiêu chí để phát triển thị trường trái phiếu là:
(i) Quy mô thị trường (bao gồm kích thước và độ sâu)
Thước đo quy mô thị trường có thế được thể hiện thông qua khối lượng trái
phiếu phát hành/lưu hành trên thị trường. Ngoài ra độ sâu thị trường trái phiếu là một
thước đo thay thế về quy mô thị trường, cho biết quy mô của thị trường so với nền
kinh tế trong nước. Nó cũng có thể cung cấp một số thông tin về tầm quan trọng của
thị trường đối với nền kinh tế như phản ánh được mức độ phát triển phù hợp của thị
trường đối với nhu cầu tài chính của nền kinh tế. Độ sâu của thị trường được tính
thông qua khối lượng trái phiếu phát hành/lưu hành trên thị trường so với GDP.
(ii) Thanh khoản và giao dịch trên thị trường thứ cấp
Sự tăng trưởng về quy mô thị trường chưa chắc đã đi cùng với thanh khoản của
thị trường. Thanh khoản thường là một khái niệm đa chiều, việc tính toán và đo lường
có thể thông qua độ chặt chẽ, độ sâu hoặc sự co giãn của thị trường. Độ chặt chẽ
thường phản ánh qua chênh lệch giá mua và bán (hoặc lãi suất). Độ sâu thì được thể
hiện bởi tỷ lệ quay vòng hoặc sự biến động của lợi suất trái phiếu, cho biết khối lượng
giao dịch diễn ra mà không ảnh hưởng tới giá thị trường hoặc số lượng lệnh trên sổ
lệnh của các nhà tạo lập thị trường tại một thời điểm nhất định. Sự co giãn của thị
trường có thể được định nghĩa là tốc độ biến động giá hoặc khả năng điều chỉnh lại
sự cân bằng giữa cung và cầu của thị trường.
Tuy vậy, dữ liệu về thanh khoản trên thị trường thứ cấp rất khan hiếm, ví dụ
28
như chênh lệch giá mua và bán của các trái phiếu doanh nghiệp thường không có sẵn
và ít được công khai. Các số liệu thường đầy đủ hơn tại thị trường trái phiếu chính
phủ hoặc trái phiếu doanh nghiệp niêm yết.
(iii) Cơ cấu kỳ hạn của thị trường
Cơ cấu kỳ hạn phản ánh qua thời hạn của trái phiếu phát hành trên thị trường,
khoảng thời gian còn lại tính đến khoản thanh toán cuối cùng đến hạn. Cơ cấu kỳ hạn
có ý nghĩa đối với rủi ro chuyển nhượng hoặc tái cấp vốn đối với từ góc độ nhà phát
hành, độ nhạy cảm của giá trái phiếu đối với những thay đổi của lãi suất hay các điều
kiện kinh tế từ góc độ nhà đầu tư. Mở rộng thời gian đáo hạn của trái phiếu doanh
nghiệp là một trong những mục tiêu dài hạn chính ở nhiều thị trường châu Á mới nổi.
Trong khoảng hơn một thập kỷ qua, việc phát hành trung và dài hạn trái phiếu doanh
nghiệp châu Á mới nổi đã tăng lên. Xu hướng này tiếp tục với sự khởi đầu của cuộc
khủng hoảng tài chính toàn cầu và môi trường lãi suất thấp sau đó góp phần kéo dài
thời gian đáo hạn.
(iv) Cơ sở Tổ chức phát hành và Nhà đầu tư
Cơ sở Tổ chức phát hành đa dạng và có chất lượng là yếu tố thiết yếu để phát
triển thị trường trái phiếu doanh nghiệp tốt nhất. Một số lượng lớn các công ty chất
lượng là cơ sở rất quan trọng để mở rộng quy mô thị trường. Các tổ chức có tài chính
thường là những tổ chức phát hành trong giai đoạn đầu phát triển của thị trường. Tuy
nhiên thách thức phát triển thị trường lại là tăng cường số lượng các công ty thành
công phát hành trái phiếu tại nhiều lĩnh vực khác nhau. Hoạt động này sẽ hỗ trợ tăng
trưởng và bảo vệ tốt hơn cả khu vực tư nhân và doanh nghiệp khỏi các cú sốc kinh tế
khác nhau.
Về phía các nhà đầu tư, thị trường tốt còn phản ánh bởi sự quan tâm hoặc tăng
trưởng trong cơ cấu của các nhà đầu tư như quỹ hưu trí, cơ quan bảo hiểm, tổ chức
nước ngoài. Khi các nhà đầu tư này cảm thấy thoải mái hơn với hồ sơ của các tổ chức
phát hành, dòng tiền có khả năng sẽ có sự dịch chuyển từ tiết kiệm sang thị trường
trái phiếu.
(v) Cơ sở hạ tầng phục vụ hoạt động của thị trường
29
Cơ sở hạ tầng bao gồm: hệ thống pháp luật và quản lý nhà nước (nguyên tắc và
cơ chế thực thi; nguồn lực và hệ thống giám sát, thực thi; cung cấp thông tin; hệ thống
thanh toán và hỗ trợ giao dịch. Khi các tiêu chí bên trên có sự phát triển, cơ sở hạ
tầng cần được chú trọng và phát triển một các tương ứng để phù hợp với một thị
trường sôi động hơn.
Đối với thị trường trái phiếu doanh nghiệp tại Việt Nam, cả 5 tiêu chí kể trên
đều có thể được sử dụng để đánh giá tình hình phát triển. Đối với tiêu chí về quy mô
và tính thanh khoản, 2 thước đo này sẽ so sánh và đưa ra vị trí của Việt Nam so với
các khu vực, ngoài ra còn phản ánh được tiềm năng và dư địa phát triển của thị trường
trong tương lai. Đối với cơ cấu kỳ hạn, cơ sở nhà phát hành và nhà đầu tư cho biết
đặc trưng tạm thời và nhu cầu hiện tại của thị trường, từ đó có thể đưa ra các gợi ý về
chính sách cũng như cơ chế để điều hướng thị trường phát triển một cách hiệu quả và
bền vững. Đối với cơ sở hạ tầng phục vụ thị trường, Việt Nam còn nhiều hạn chế dẫn
đến việc đi sau khu vực trong việc tiếp cận tới nguồn vốn ngoại, đây cũng là điểm
mấu chốt để phát triển về quy mô và tính thanh khoản của thị trường.
1.2.3. Các nhân tố ảnh hưởng tới sự phát triển của thị trường trái phiếu
doanh nghiệp
Môi trường kinh tế - tài chính vĩ mô
Dưới khía cạnh tổng quát, môi trường kinh tế vĩ mô luôn luôn có ảnh hưởng sâu
rộng đến mọi hoạt động trong nền kinh tế. Trong giai đoạn môi trường kinh tế vĩ mô
ổn định, nền kinh tế phát lạm, lạm phát được kiềm chế thì việc thu hút sự quan tâm
của nhà đầu tư đối với trái phiếu sẽ dễ dàng hơn.
Đối với doanh nghiệp phát hành, khi được hoạt động trong một môi trường kinh
tế tài chính thuận lợi và ổn định, tất nhiên là doanh nghiệp sẽ có nhiều cơ hội tăng
trưởng hoạt động kinh doanh của mình. Các chính sách về quản lý kinh tế tài chính
vĩ mô đều tác động tới chiến lược kinh doanh của các công ty từng thời kỳ. Vì thế mà
môi trường kinh doanh thuận lợi sẽ là yếu tố cộng hưởng đối với kết quả hoạt động
kinh doanh mà các doanh nghiệp đạt được. Hệ quả tất yếu là uy tín của doanh nghiệp
tăng cao, khả năng thanh khoản các chứng khoán doanh nghiệp phát hành tốt hơn,
30
tạo điều kiện thu hút các nhà đầu tư bỏ vốn vào trái phiếu mà doanh nghiệp phát hành.
Đối với nhà đầu tư, một khi môi trường kinh tế tài chính thuận lợi, nền kinh tế
phát triển ổn định đồng nghĩa với thu nhập của xã hội sẽ tăng lên. Khi đó sẽ nảy sinh
nhu cầu đầu tư nhằm tối đa hóa lợi nhuận từ dòng tiền nhàn rỗi, dẫn đến sự sôi động
trên thị trường chứng khoán nói chung và thị trường trái phiếu doanh nghiệp nói riêng.
Đối với chính thị trường chứng khoán, một môi trường kinh tế vĩ mô ổn định,
lành mạnh và phù hợp với tình hình phát triển của nền kinh tế sẽ là nhân tố quan trọng
trong việc hỗ trợ và tạo đà cho sự phát triển của thị trường chứng khoán. Nhờ đó, các
hoạt động trao đổi, mua bán giao dịch chứng khoán diễn ra sôi động, an toàn, thuận
lợi và tạo ra sức hút cho thị trường.
Môi trường pháp lý
Để thị trường trái phiếu doanh nghiệp có thể phát triển thì một trong những điều
kiện tiên quyết là phải có một khuôn khổ pháp lý phù hợp, có tính thống nhất, toàn
diện và phải đảm bảo sự phối hợp hiệu quả giữa cơ quan quản lý nhà nước và các chủ
thể tham gia thị trường, hướng thị trường hoạt động theo những nguyên tắc, mục tiêu
đã định ra.
Môi trường pháp lý quản lý thị trường bao gồm một hệ thống các văn bản quy
định pháp luật, hệ thống các cơ quan thực thi pháp luật và các cơ quan kiểm soát.
Theo đó, hệ thống các văn bản pháp luật sẽ điều chỉnh hoạt động của thị trường tài
chính, thông qua các nội dung quy định về hoạt động đầu tư, quản lý, kiểm soát hay
điều tiết thị trường dưới dạng Luật, Pháp lệnh, Nghị định, Thông tư, Hướng dẫn thực
hiện... Hệ thống các văn bản kể trên tạo ra hành lang pháp lý cho các tổ chức, cá nhân,
các bên có liên quan tham gia hoạt động trên thị trường nói chung và thị trường trái
phiếu doanh nghiệp nói riêng. Hệ thống sẽ được xây dựng một cách hợp lý nhằm
khuyến khích các tổ chức và cá nhân tham gia vào thị trường, tuy nhiên nếu không
phù hợp, hệ thống này ngược lại sẽ kìm hãm sự phát triển của thị trường.
Việc thực thi các văn bản pháp luật cũng có sức ảnh hưởng không nhỏ đến thị
trường chứng khoán nói chung. Nếu thực thi một cách nghiêm ngặt, chặt chẽ sẽ hạn
chế được các hành vi gian lận, gây thiệt hại đến lợi ích các bên tham gia thị trường
31
và từ đó góp phần giúp cho thị trường hoạt động một cách an toàn và hiệu quả, tạo ra
sự công khai minh bạch thúc đẩy đầu tư và phát triển.
Sự phát triển của các định chế tài chính trung gian và tiềm lực vốn của các
nhà đầu tư
Đầu tiên, khi nhắc đến đầu tư thì sẽ nhắc đến vốn, đến tiềm lực tài chính của
các bên tham gia bỏ vốn đầu tư vào thị trường thông qua các hình thức như là mua
các trái phiếu doanh nghiệp. Trường hợp tiềm lực vốn của các nhà đầu tư dù là cá
nhân hay tổ chức đủ mạnh, việc đầu tư vào thị trường trái phiếu sẽ vững chắc và ổn
định hơn. Nhà đầu tư nào có nguồn vốn dồi dào sẽ có đủ khả năng đối mặt với các
rủi ro có thể phát sinh từ thị trường, đồng thời có thể mở rộng quy mô đầu tư, tạo sự
đa dạng và sôi nổi trong hoạt động mua bán trao đổi các loại trái phiếu trên thị trường.
Các định chế tài chính trung gian là các chủ thể tham gia thị trường, đồng thời
họ tham gia với nhiều tư cách khác nhau như Nhà tạo lập thị trường, môi giới, nhà
đầu tư, thậm chí là tổ chức phát hành. Là một hạt nhân quan trọng có mặt trong mọi
khâu của thị trường, khi các tổ chức này có đầy đủ năng lực hoạt động một cách hiệu
quả sẽ là cơ sở vững chắc cho sự phát triển ổn định của thị trường trái phiếu doanh
nghiệp.
Cơ sở hạ tầng của thị trường trái phiếu doanh nghiệp
Tương tự thị trường cổ phiếu, thị trường trái phiếu nhất là trái phiếu doanh
nghiệp cần có điều kiện cơ sở vật chất kỹ thuật đảm bảo phục vụ cho hoạt động của
thị trường như hệ thống lưu ký, hệ thống giao dịch hay thanh toán bù trừ... Cơ sở hạ
tầng của thị trường trái phiếu là yếu tố quan trọng thúc đẩy các hoạt động phát hành
trái phiếu doanh nghiệp, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động đầu tư, hoạt động quản
lý, kiểm soát của cơ quan chức năng. Sự đầu tư và đồng bộ về cơ sở hạ tầng là rất cần
thiết và là tiền đề để thị trường trái phiếu doanh nghiệp hoạt động ổn định, phát triển.
Hệ thống các tổ chức đánh giá hệ số tín nhiệm trái phiếu
Đây là hoạt động nhằm đánh giá mức độ tín nhiệm của các tổ chức phát hành,
xếp hạng chúng theo một bản quy chuẩn về mức độ rủi ro, khả năng không thể thanh
toán của tổ chức phát hành để giúp các nhà đầu tư có được những thông tin cần thiết
32
làm cơ sở đưa ra các quyết định đầu tư phù hợp. Các trái chủ hay người chủ nợ có thể
gặp rủi ro khi bên vay mất khả năng thanh toán hay rơi vào tình trạng vỡ nợ. Khi trái
phiếu lần đầu được đưa ra thị trường, có khả năng phần lớn các nhà đầu tư không
nắm được thông tin tình hình tài chính hay tình trạng hoạt động sản xuất kinh doanh
của tổ chức phát hành. Vì thế, với mục đích hạn chế rủi ro cho những nhà đầu tư vào
trái phiếu doanh nghiệp, thị trường sẽ cần tới các tổ chức đứng ra cung cấp thông tin
khách quan và đánh giá mức độ rủi ro đối với trái phiếu của chủ thể phát hành. Hành
động đánh giá mức độ rủi ro tín dụng thường được xác định bằng một hệ số tín nhiệm.
Hệ số tín nhiệm phản ánh sự đánh giá về năng lực thanh toán gốc và lãi trái phiếu
theo kỳ hạn đã cam kết của tổ chức phát hành. Tại nhiều quốc gia đã hình thành các
tổ chức chuyên nghiệp phân tích và đánh giá hệ số tín nhiệm đối với các tổ chức phát
hành.
Việc sử dụng hệ thống xếp hạng tín nhiệm và hệ số tín nhiệm đã trở thành thông
lệ ở nhiều nước cũng như các trung tâm tài chính lớn trên thế giới. Tại một số quốc
gia, việc đánh giá hệ số tín nhiệm còn trở thành thủ tục bắt buộc về mặt pháp lý khi
phát hành trái phiếu doanh nghiệp. Các vai trò của hệ số tín nhiệm chủ yếu bao gồm:
Hệ số tín nhiệm sẽ cung cấp thông tin cần thiết cho nhà đầu tư về tình trạng
tài chính và hoạt động của chủ thể phát hành, giúp họ lựa chọn trái phiếu để đầu tư
một cách phù hợp.
Hệ số tín nhiệm tạo điều kiện cho việc huy động vốn một cách dễ dàng và
thuận lợi hơn. Khi có hệ số đánh giá tín nhiệm các doanh nghiệp, nhà đầu tư sẽ yên
tâm một phần nào, mang đến sự tin tưởng nhất định khi đầu tư vào trái phiếu của
doanh nghiệp đó phát hành. Điều này cũng tương đương với việc các tổ chức phát
hành dễ tiếp cận với các nguồn tài trợ hơn và có thể thực hiện huy động với quy mô
lớn, phạm vi rộng.
Hệ số tín nhiệm góp phần quan trọng trong việc giảm bớt chi phí sử dụng
vốn cho doanh nghiệp phát hành trái phiếu. Khi một tổ chức phát hành trái phiếu mà
có mức độ uy tín cao thì hệ số tín nhiệm sẽ giúp cho việc huy động vốn bằng hình
thức phát hành trái phiếu trở nên dễ dàng hơn. Với chủ thể phát hành trái phiếu doanh
33
nghiệp có hệ số tín nhiệm cao sẽ giúp doanh nghiệp đó phát hành trái phiếu với mức
lãi suất thấp mà vẫn thu hút được nhiều nhà đầu tư.
Hệ số tín nhiệm thúc đẩy các tổ chức phát hành trái phiếu doanh nghiệp
nâng cao trách nhiệm đối với các nhà đầu tư, các trái chủ tiềm năng. Hoạt động đánh
giá hệ số tín nhiệm liên quan chặt chẽ đến uy tín của tổ chức phát hành trái phiếu, vì
vậy doanh nghiệp luôn mong muốn giữ được mức độ uy tín cao cũng như duy trì
được hệ số tín nhiệm. Khi thực hiện tốt các cam kết đối với các trái chủ nhất là việc
đảm bảo việc thanh toán gốc và lãi trái phiếu, doanh nghiệp sẽ đạt được mong muốn
đó của mình.
1.2.4. Vai trò của thị trường trái phiếu doanh nghiệp
Thị trường trái phiếu doanh nghiệp có vai trò trong việc tạo ra một kênh huy
động vốn trung và dài hạn cho doanh nghiệp. Việc xây dựng và phát triển thị trường
trái phiếu doanh nghiệp có ý nghĩa rất quan trọng trong sự phát triển của nền kinh tế
nói chung và thị trường tài chính nói riêng.
Vai trò đối với nền kinh tế
Thị trường trái phiếu doanh nghiệp khuyến khích tiết kiệm và thu hút các nguồn
vốn trong xã hội. Phát hành trái phiếu doanh nghiệp ra thị trường tài chính sẽ tạo điều
kiện cho các tổ chức và các tầng lớp dân cư có thêm nhiều các cơ hội đầu tư, góp
phần tạo thói quen đầu tư cũng như kinh doanh chứng khoán, từ đó thúc đẩy sự hình
thành và phát triển các chủ thể khác trên thị trường như là các định chế tài chính đóng
vai trò trung gian. Thị trường trái phiếu doanh nghiệp còn là nơi khơi thông các dòng
vốn tích lũy từ nơi thừa sang nơi thiếu vốn, tích tụ các nguồn vốn nhỏ thành nguồn
vốn lớn hay chuyển đổi nguồn vốn ngắn hạn sang nguồn vốn dài hạn.
Vai trò đối với các doanh nghiệp
Thị trường trái phiếu tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tiếp cận với kênh huy
động vốn mới hiệu quả và linh hoạt hơn, song song với các kênh huy động truyền
thống như hoạt động vay ngân hàng và phát hành các chứng khoán vốn (cổ phần, cổ
phiếu). Đồng thời, doanh nghiệp phát hành trái phiếu cũng mang lại cơ hội tái cơ cấu
lại nguồn vốn doanh nghiệp sử dụng, giúp tăng lợi ích của các nhà đầu tư và giá trị
34
của doanh nghiệp trong tương lai. Bên cạnh đó, thị trường trái phiếu còn giúp các tổ
chức có thể đa dạng hóa danh mục các tài sản đầu tư của mình, gia tăng lợi nhuận
nhờ sử dụng hiệu quả và triệt để hơn nguồn vốn mà doanh nghiệp nắm giữ.
Trái phiếu doanh nghiệp là công cụ cho phép doanh nghiệp huy động vốn vay
trung và dài hạn với khối lượng lớn.
So với các ngân hàng thương mại hay tổ chức tài chính nào khác, huy động vốn
qua việc phát hành trái phiếu có một số ưu điểm nhất định như không cần tài sản bảo
đảm (tương tự vay tín chấp) hay được chủ động sử dụng số tiền huy động với sự giám
sát của các trái chủ ít chặt chẽ hơn so với sự giám sát của các ngân hàng và trung gian
tài chính khi sử dụng vốn vay. Bên cạnh đó, việc vay vốn dài hạn của ngân hàng
thương mại sẽ có những giới hạn nhất định do nguồn vốn của ngân hàng chủ yếu từ
đi vay, và phần lớn là nguồn vốn ngắn hạn. Thủ tục để được vay vốn cũng tương đối
phức tạp, đôi khi khiến doanh nghiệp lỡ mất cơ hội kinh doanh, cơ hội đầu tư của
mình. Do vậy, phát hành trái phiếu doanh nghiệp sẽ giúp các doanh nghiệp tiết kiệm
thời gian, chi phí huy động hơn là đi vay ngân hàng khi có nhu cầu huy động vốn vay
trung và dài hạn với quy mô lớn.
Huy động nguồn vốn bằng trái phiếu tương tự như vốn vay sẽ giúp doanh nghiệp
gia tăng tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu.
Lợi tức phải trả cho các trái chủ tương tự chi phí lãi vay, đều là các chi phí
được trừ khi xác định thu nhập chịu thuế của doanh nghiệp.
Khi doanh nghiệp sử dụng vốn vay nói chung, tiền lãi vay trả cho chủ nợ thường
sẽ được coi là một khoản chi phí hợp lý và được trừ đi khi tính toán nghĩa vụ thuế thu
nhập doanh nghiệp. Do đó, công ty sẽ chỉ phải nộp thuế thu nhập doanh nghiệp ít hơn
so với trường hợp sử dụng nguồn vốn chủ sở hữu. Đây là lợi ích chủ yếu của việc sử
dụng vốn vay nói chung. Khoản thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp ít hơn thường
được gọi là lá chắn thuế từ lãi vay (xác định bằng cách nhân lãi vay phải trả với thuế
suất thuế thu nhập doanh nghiệp áp dụng cho công ty).
Sử dụng trái phiếu làm khuếch đại tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu
35
Với cùng một mức độ sinh lời trên tổng tài sản, khi sử dụng vốn vay hay trái
phiếu doanh nghiệp, doanh nghiệp sẽ tăng chi phí tài chính dù chi phí này được trừ
khi tính thuế. Về mặt lý thuyết, khi tỷ suất sinh lời trên tổng tài sản cao hơn lãi suất
vay vốn, doanh nghiệp vay nợ càng nhiều hay sử dụng đòn bẩy tài chính càng lớn thì
đòn bẩy tài chính sẽ giúp làm khuếch đại tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu của
doanh nghiệp. Ngược lại, khi tỷ suất sinh lời của tài sản nhỏ hơn chi phí huy động
vốn vay, doanh nghiệp sẽ bị chính đòn bẩy tài chính làm sụt giảm tỷ suất sinh lời trên
vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp. Trong trường hợp còn lại, khi tỷ suất sinh lời trên
tài sản bằng với chi phí huy động vốn vay, tỷ suất sinh lời không ảnh hưởng nhiều
bởi cơ cấu vay nợ, tuy nhiên hoạt động của doanh nghiệp lại tiềm ẩn các rủi ro tài
chính khi sử dụng vốn vay tùy theo mức độ. Việc đẩy mạnh sử dụng nguồn vốn trái
phiếu dù có khả năng cải thiện tỷ suất sinh lời trên vốn chủ tuy nhiên tất yếu sẽ làm
nảy sinh các rủi ro tài chính. Các nhà quản trị, điều hành doanh nghiệp cần căn cứ
vào đặc thù hoạt động, lĩnh vực kinh doanh và tình hình của doanh nghiệp để đưa ra
các quyết định huy động vốn phù hợp.
Chi phí sử dụng trái phiếu doanh nghiệp thường thấp hơn so với các nguồn
tài trợ khác
Như đã đề cập, việc sử dụng trái phiếu doanh nghiệp hay huy động vốn từ nguồn
vay nợ sẽ giúp doanh nghiệp tận dụng được lá chắn thuế. Ngoài ra chủ sở hữu doanh
nghiệp không phải chia sẻ quyền quản lý hay sở hữu doanh nghiệp cho các trái chủ.
Khi doanh nghiệp phát hành trái phiếu, những người sở hữu trái phiếu sẽ là các chủ
nợ của doanh nghiệp, họ không có quyền biểu quyết hay tham gia quản lý.
Giúp doanh nghiệp chủ động điều chỉnh cơ cấu vốn tài trợ một cách linh
hoạt
Khi kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp tốt và có triển vọng phát
triển, doanh nghiệp có thể gia tăng huy động vốn vay từ phương thức phát hành trái
phiếu nhằm mở rộng thị trường và tăng tỷ suất sinh lời của vốn chủ sở hữu. Ngược
lại, khi thị trường có những biến động theo chiều hướng xấu hoặc bất lợi cho doanh
nghiệp, lúc này khi cân nhắc thu hẹp quy mô kinh doanh, doanh nghiệp có thể chủ
36
động giảm vốn vay bằng cách mua lại trái phiếu trước thời hạn (tùy vào thỏa thuận
khi phát hành trái phiếu có cho phép mua lại hay không). Thêm vào đó, trong trường
hợp dòng tiền của doanh nghiệp đang rất dồi dào và muốn giảm bắt áp lực thanh toán,
doanh nghiệp cũng có thể mua lại trái phiếu trước thời hạn để tái cơ cấu nguồn vốn
sử dụng. Với sự linh hoạt cần thiết, việc sử dụng trái phiếu doanh nghiệp sẽ đảm bảo
tính tiết kiệm và hiệu quả khi sử dụng vốn.
Đối với công chúng đầu tư
Cũng như các chủ thể khác trên thị trường, thị trường trái phiếu doanh nghiệp
giúp công chúng có thể sử dụng hiệu quả hơn nguồn tiền của bản thân. Khi nguồn
tiền nhàn rỗi được tích lũy đến một mức nhất định, người dân hoàn toàn có thể nghĩ
tới việc mua trái phiếu như một kênh sinh lời cố định bên cạnh việc gửi tiết kiệm
ngân hàng. Với việc cung cấp các công cụ đầu tư hiệu quả, thị trường trái phiếu doanh
nghiệp góp phần thúc đẩy đời sống các tầng lớp dân cư và toàn xã hội.
1.3. Kinh nghiệm quốc tế trong phát triển thị trường trái phiếu doanh
nghiệp
1.3.1. Kinh nghiệm phát triển thị trường trái phiếu doanh nghiệp của một
số nước
Khủng hoảng tài chính tiền tệ năm 1997 ở khu vực Châu Á với nguyên nhân
chủ yếu là do các ngân hàng sử dụng nguồn vốn ngắn hạn (nguồn tiền tiết kiệm trong
nước) để tài trợ cho các hoạt động đầu tư dài hạn với cơ cấu nợ tài chính lên đến 80%
trong khi thị trường trái phiếu chỉ chiếm tỷ trọng 20%. Sự không tương xứng về kỳ
hạn thanh toán ngắn và dài hạn dẫn đến các rủi ro về khả năng thanh toán của hệ
thống tài chính. Do đó, các nước nhận thấy cần có một thị trường vốn đa dạng và cân
bằng, trong đó thị trường trái phiếu doanh nghiệp sẽ là một thị trường cung cấp nguồn
vốn dài hạn cho nền kinh tế. Để phát triển thị trường trái phiếu doanh nghiệp, các thị
trường tại nhiều nước đã tập trung chủ yếu và các nội dung sau:
(i) Đa dạng hóa sản phẩm cung cấp trên thị trường tài chính;
(ii) Xây dựng một khuôn khổ pháp lý đầy đủ, tạo môi trường minh bạch và
hiệu quả cho thị trường trái phiếu doanh nghiệp hoạt động;
37
(iii) Phát triển thị trường trái phiếu chính phủ tạo cơ sở cho thị trường trái phiếu
doanh nghiệp phát triển;
(iv) Tăng cường hoạt động đánh giá tín nhiệm của các tổ chức xếp hạng;
(v) Chính sách tài chính hợp lý và hiệu quả.
Tăng trưởng của thị trường Trái phiếu doanh nghiệp các năm qua ngày càng lớn
mạnh, đóng vai trò quan trọng trong các nền kinh tế phát triển và đang phát triển. Xét
đến quy mô, theo báo cáo năm 2014 của IOSCO, quy mô thị trường trái phiếu doanh
nghiệp thế giới tăng năm 2013 đã tăng 3 lần so với năm 2000 (đạt 49 triệu tỷ năm
2013); Chiều sâu của thị trường (market depth - tổng dư nợ TPDN/GDP) đã tăng lên
ở các thị trường các nước phát triển và các nước mới nổi, lần lượt là 169% và 24%
vào năm 2013 ở các thị trường này. Việc tăng trưởng này đã đáp ứng cho việc phát
triển của nền kinh tế của các nước; Tỷ trọng của TPDN ngày càng được tăng lên trong
tổng số nguồn tài chính cung cấp cho doanh nghiệp toàn cầu (bao gồm TPDN, nguồn
vốn từ các ngân hàng và thị trường cổ phiếu), năm 2004 tỷ trọng này là 24% và tăng
lên 25% vào năm 2012. Ngân hàng vẫn chiếm tỷ trọng ưu thế là 52% vào năm 2012.
Trong giai đoạn khủng hoảng thì TPDN là nguồn vốn thay thế cho nguồn vốn từ các
ngân hàng và rất phù hợp với các doanh nghiệp vừa và nhỏ điều đó thể hiện ở các thị
trường TPDN tại các nước Châu Âu, Mỹ. Thị trường trái phiếu thứ cấp ngày càng
được hoàn thiện nhằm đáp ứng sự thay đổi của các điều chỉnh về hoạt động của môi
trường hoạt động và nền kinh tế.
Thị trường TPDN ở các nước Đông Á, đã có những tăng trưởng vượt bậc trong
những năm gần đây (Bảng 1.1). Trong đó đặc biệt như Malaysia đã có những bước
phát triển nhanh chóng, tại thời điểm Quý 4/2020 tổng huy động từ thị trường TPDN
của Malaysia đạt 187 tỷ USD, chiếm gần 47% trong huy động trên thị trường trái
phiếu (bao gồm trái phiếu chính phủ, trái phiếu của các tổ chức tín dụng, ngân hàng)
và tương đương 56% GDP. Thị trường trái phiếu của Trung Quốc phát triển nhảy vọt:
trái phiếu phát hành tăng; vốn hóa thị trường được mở rộng đáng kể; doanh thu từ thị
trường thứ cấp tăng; số lượng, sự đa dạng của các đối tượng tham gia thị trường và
các công cụ đang gia tăng nhanh chóng.
38
Bảng 1.1 Quy mô và tốc độ tăng trưởng của thị trường trái phiếu một số quốc gia
Chỉ tiêu
Q3.2020
Q4.2020
Tốc độ tăng
%
trưởng
GDP
Số tiền
Tỷ trọng
Số tiền
Tỷ trọng
Quý
Năm
(%)
(%)
(Tỷ USD)
(Tỷ USD)
Trung Quốc
1.574
100,0
1.294
100,0
-17,8
55,2
99,8
Tổng
866
55,1
590
45,6
-31,8
98,6
64,1
Chính phủ
707
44,9
703
54,4
-0,6
31,1
35,7
Doanh nghiệp
Hong Kong, Trung Quốc
145
100,0
145
100,0
0,4
13,0
88,3
Tổng
117
80,8
112
76,9
-4,4
2,1
43,7
Chính phủ
28
19,2
33
23,1
20,6
76,2
44,6
Doanh nghiệp
Indonesia
41
100,0
47
100,0
13,9
123,3
29,3
Tổng
39
93,9
46
76,9
17,3
144,7
26,5
Chính phủ
3
6,1
2
23,1
-39,1
-37,9
2,8
Doanh nghiệp
Hàn Quốc
189
100,0
210
100,0
11,1
7,2
143,8
Tổng
85
44,8
78
37,2
-7,7
30,8
589,0
Chính phủ
104
55,2
132
62,8
26,3
-3,2
84,9
Doanh nghiệp
Malaysia
22
100,0
22
100,0
3,1
9,1
119,6
Tổng
12
57,4
8
35,1
-36,9
-11,9
63,5
Chính phủ
9
42,6
14
64,9
56,9
25,3
56,0
Doanh nghiệp
Philippines
25
100,0
29
100,0
14,3
288,7
47,7
Tổng
23
89,8
28
95,8
22,0
417,8
38,7
Chính phủ
3
10,2
1
4,2
-52,8
-41,5
9,0
Doanh nghiệp
Singapore
39
Tổng
149
100,0
164
100,0
10,2
25,6
107,2
Chính phủ
145
97,5
160
97,9
10,7
25,0
70,2
Doanh nghiệp
4
2,5
3
2,1
-0,1
64,2
37,0
Thailand
Tổng
93
100,0
74
100,0
-20,3
-5,6
88,7
Chính phủ
83
89,0
65
87,6
-21,5
-1,2
65,2
Doanh nghiệp
10
11,0
9
12,4
-9,9
-27,9
23,5
Việt Nam
Tổng
8
100,0
7
100,0
-6,4
-66,4
26,1
Chính phủ
5
63,7
5
73,3
7,7
-75,2
21,6
Doanh nghiệp
3
36,3
2
26,7
-31,3 1.084,3
4,5
Nhật Bản
Tổng
533
100,0
771
100,0
44,6
84,3
232,0
Chính phủ
484
90,8
718
93,2
48,4
91,0
215,5
Doanh nghiệp
49
9,2
53
6,8
7,7
24,1
16,6
Nguồn: Asia Bond Monitor (March 2021)
Kinh nghiệm phát triển thị trường TPDN của các nước là bài học tốt cho Việt
Nam trong điều kiện nguồn vốn để phát triển của nước ta vẫn còn thiếu cũng như thị
trường TPDN của nước ta phát triển còn nhỏ bé. Cụ thể như sau:
Thứ nhất, đa dạng hoá các sản phẩm cung cấp trên thị trường TPDN, đây là yêu
cầu cần thiết để phát triển thị trường TPDN của các nước như Trung Quốc và
Malaysia. Theo báo cáo của Bank for International Settlements (BIS) về sự phát triển
thị trường trái phiếu doanh nghiệp tại các nước Châu Á năm 2006, Trung Quốc được
nhắc đến qua việc thực hiện đa dạng hóa các công cụ như hợp đồng mua lại, hợp đồng
kỳ hạn chính thức được sử dụng lần lượt từ tháng 5/2004 và 6/2005, ngoài ra còn có
các sản phẩm nợ khác như trái phiếu phát hành bởi ngân hàng và các tổ chức tài chính
phi ngân hàng, ngân hàng thương mại, TPDN ngắn hạn, TPDN phát hành bởi các tổ
chức phi tài chính… Việc đa dạng sản phẩm cung cấp của Malaysia thể hiện ở việc
phát triển TPDN Hồi giáo từ năm 1990, ước tính trong năm 2020, 45% của tổng số
trái phiếu Hồi giáo toàn cầu được phát hành tại Malaysia như bài báo “Malaysia leads
40
globally with largest sukuk market in 2020” (tạm dịch: Malaysia dẫn đầu toàn cầu tại
thị trường trái phiếu hồi giáo trong năm 2020) đăng trên tạp chí điện tử The Malaysia
Reserve ngày 10/03/2021. Các nguyên nhân chính là do các sản phẩm này có tính
thanh khoản và mức giá hấp dẫn; nhu cầu mạnh mẽ của các nhà đầu tư tạo cơ hội để
công ty phát hành tài trợ cho vay với chi phí thấp hơn; Chính phủ Malaysia góp phần
tạo ra mức giá hợp lý đối với chứng khoán Hồi giáo thông qua phát hành tín phiếu
Kho bạc Hồi giáo Malaysia (MITBs) và đầu tư Chính phủ (GIIs), dẫn đến việc thành
lập một đường cong lãi suất chuẩn cho TP Hồi giáo. Các sản phẩm cung cấp trên thị
trường TPDN của Việt Nam không được đa dạng, nguồn cung ít thể hiện trong năm
2014 có 9 doanh nghiệp lớn phát hành trong khi đó của Thái Lan là 31 doanh nghiệp;
Singapore là 30 doanh nghiệp; Malaysia là 30, Philippines là 30… . Do đó, tạo ra một
nguồn cung các sản phẩm cho thị trường TPDN là một trong những yêu cầu cần thiết
để phát triển thị trường TPDN.
Thứ hai, một khuôn khổ pháp lý đầy đủ tạo môi trường minh bạch cho thị trường
TPDN hoạt động. Kinh nghiệm quốc tế cho thấy muốn thị trường TPDN phát triển
thì cần phải tạo ra một sân chơi bình đẳng cho các nhà cung cấp sản phẩm (bên cung)
cũng như các nhà đầu tư (bên cầu), vai trò quan trọng của Nhà nước được thể hiện
trong việc tạo ra một khuôn khổ pháp lý.
Chính phủ Trung Quốc ban hành “Quy chế tạm thời về việc phát hành trái phiếu
công ty” vào năm 1987, thì việc phát hành TPDN được quản lý thống nhất, tạo điều
kiện cho thị trường TPDN phát triển mạnh mẽ. Năm 1993, Trung Quốc tiếp tục ban
hành “Quy định hành chính đối với TPDN” khiến cho việc phát hành TPDN được
kiểm soát chặt chẽ hơn, tuy nhiên TPDN Trung Quốc lúc này vẫn bị đánh giá là có
tính thanh khoản thấp. Đến năm 1996, chỉ có 5 TPDN được niêm yết tại Sở giao dịch
Thượng Hải và một TPDN được niêm yết tại Sở Giao dịch Thâm Quyến. Để cải thiện
tình hình đó, Trung Quốc đã có những cải cách mạnh mẽ, như (i) Định giá TPDN căn
cứ vào trái phiếu Chính phủ; (ii) Đưa ra các biện pháp nhằm nâng cao tính thanh
khoản của trái phiếu bằng cách xây dựng các tổ chức định mức tín nhiệm giúp cho
nhà đầu tư đánh giá tốt hơn mức độ rủi ro khi đầu tư vào từng trái phiếu của từng
doanh nghiệp. Từ đó đã góp phần gia tăng đáng kể số lượng doanh nghiệp tham gia
41
phát hành trái phiếu.
Malaysia đã ban hành hướng dẫn về việc chào bán chứng khoán nợ tư nhân có
hiệu lực từ năm 2000, hướng dẫn này có vai trò quan trọng trong việc nâng cao hiệu
quả thủ tục phát hành trái phiếu. Nhờ việc áp dụng các hướng dẫn về thị trường
TPDN, một công ty phát hành hiện nay có thể đảm bảo được phê duyệt trong vòng
14 ngày sau khi nộp đầy đủ tài liệu. Áp dụng chương trình tự đăng ký (self-
registration scheme) tạo điều kiện thuận lợi, linh hoạt về mặt thời gian cho các tổ
chức phát hành. Chương trình này cho phép các công ty đủ điều kiện phát hành chứng
khoán nợ nhiều lần trong khoảng thời gian 2 năm nhưng chỉ cần 1 lần phê duyệt, tùy
thuộc vào các tiêu chí nhất định. Hiệu quả của chương trình đã bắt đầu thuyết phục
được khu vực tư nhân đầu tư vào thị trường TPDN thay cho hình thức vay ngân hàng.
Thứ ba, phát triển thị trường trái phiếu Chính phủ tạo tiền đề cho thị trường
TPDN. Kinh nghiệm của các nước cho thấy thị trường trái phiếu Chính phủ phát triển
là cơ sở cung cấp đường cong lãi suất. Từ đó là căn cứ cho TPDN làm tiêu chuẩn để
đưa ra Các sàn giao dịch chứng khoán chính có nền tảng giao dịch đối với chứng
khoán nợ. Tổ chức thanh toán bù trừ (CCIL) thực hiện thành công thanh toán đối với
các giao dịch trái phiếu chính phủ, ngoại hối, các giao dịch thị trường tiền tệ khác.
phát triển thị trường TPCP là nền tảng để phát triển thị trường TPDN.
Thứ tư, tăng cường hoạt động của tổ chức xếp hạng tín nhiệm. Theo kinh nghiệm
của một số nước để phát triển thị trường TPDN, các nước đã thành lập các công ty
định mức tín nhiệm để đưa ra định mức tín nhiệm cho các đơn vị phát hành trái phiếu
nhằm giúp các doanh nghiệp tiếp cận với thị trường vốn và cung cấp các sản phẩm
tiết kiệm hiệu quả cho khách hàng. Ở Malaysia có RAM Holdings, trước đây là Rating
Agency Malaysia Berhad, thành lập vào tháng 11/1990, là cơ quan xếp hạng đầu tiên
của Malaysia hoạt động tổ chức thúc đẩy sự phát triển thị trường vốn và nợ nội địa.
Malaysian Ratings Corporation Berhad (MARC) được thành lập năm 1995 và trở
thành công ty xếp hạng tín dụng thứ hai ở nước này. Công ty cung cấp đầy đủ các
dịch vụ xếp hạng từ thương phiếu, trái phiếu, cổ phiếu ưu đãi đến cổ phiếu có tài sản
đảm bảo. Chính phủ Malaysia đã tăng cường hỗ trợ cho RAM và MARC. Ủy ban
Chứng khoán Malaysia ra hướng dẫn đối với việc phát hành TPDN, trong đó yêu cầu
42
các đơn vị phát hành phải có chỉ số đánh giá tín nhiệm từ một trong hai công ty nêu
trên.
Công ty TNHH TRIS thành lập từ năm 1993 là công ty Thái Lan đầu tiên cung
cấp dịch vụ này, sau đó đổi tên là Tập đoàn TRIS vào năm 2007. Công ty xếp hạng
tín nhiệm TRIS được tách ra độc lập vào ngày 3/6/2002, chuyên thực hiện đánh giá
mức độ tín nhiệm. PT. PEFINDO của Indonesia được thành lập ngày 21/12/1993,
theo sáng kiến của Ban Kiểm soát thị trường vốn và Ngân hàng Trung ương
Indonesia. Ngày 13/8/1994, PEFINDO được cấp phép hoạt động và duy trì là một
trong các tổ chức hỗ trợ thị trường vốn của Indonesia. Chức năng chính của PEFINDO
là cung cấp xếp hạng khách quan, độc lập và đáng tin cậy về mức độ rủi ro tín dụng
của chứng khoán nợ được phát hành ra công chúng. Một trong những nguyên nhân
để các công ty đánh giá tín nhiệm các nước này hoạt động thành công đó là nhận được
sự ủng hộ của chính phủ và liên kết chặt chẽ với các đối tác nước ngoài, họ có thể
đưa ra định mức tín nhiệm cho các đơn vị phát hành trên thị trường TPDN bằng đồng
nội tệ. Mức độ tín nhiệm trở thành một công cụ hữu hiệu giúp các doanh nghiệp tiếp
cận với thị trường vốn và cung cấp các sản phẩm tiết kiệm hưu trí. Hiện nay, Việt
Nam hiện thiếu những tổ chức xếp hạng độc lập, chất lượng thông tin của doanh
nghiệp còn hạn chế, thiếu minh bạch. Việt Nam hiện thiếu những tổ chức xếp hạng
độc lập, chất lượng thông tin của doanh nghiệp còn hạn chế, thiếu minh bạch.
Thứ năm, chính sách tài chính hợp lý nhằm thúc đẩy sự phát triển của thị trường
TPDN
Việc áp đặt mức thuế đối với các giao dịch trái phiếu ở thị trường sơ cấp hay thị
trường thứ cấp được cho là yếu chính cản trở sự thanh khoản và không khuyến khích
các doanh nghiệp phát hành TPDN. Trong quá khứ, việc áp dụng các loại thuế như
vậy được xác định là cản trở cho sự phát triển của thị trường trái phiếu ở các nước
phát triển như thuế đối với lợi nhuận từ vốn và doanh thu, bản chất của thuế chính là
chi phí của các doanh nghiệp, do đó nếu áp dụng các loại thuế như vậy sẽ làm giảm
mức lợi nhuận có thể thu được từ hoạt động kinh doanh, do đó làm cản trở đến việc
giao dịch của của các nhà đầu tư, đấy chính là nhân tố làm cản trở sự phát triển của
thị trường TPDN. Kinh nghiệm của các nước cho thấy hầu hết các nước chỉ áp dụng
43
thuế đối với các hoạt động giao dịch trên thị trường trái phiếu thứ cấp. Tuy nhiên theo
đánh giá của các nước cho thấy thì việc áp dụng các loại thuế này cũng chính là
nguyên nhân tạo ra sự cản trở đối với việc thanh khoản của TPDN Ví dụ như Đài
Loan. Nhằm khuyến khích sự phát triển của thị trường TPDN, một số nước không áp
dụng thuế đánh với thu nhập từ việc phát hành TPDN trên thị trường sơ cấp hoặc thị
trường thứ cấp hoặc đối với cả hai.
1.3.2. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
Qua nghiên cứu kinh nghiệm các nước cho thấy để phát triển thị trường TPDN
Việt Nam trong thời gian tới thì cần phải tiến hành đồng thời các biện pháp trong đó
nhấn mạnh đến các nội dung tạo nguồn cung đa dạng để từ đó kích thích tăng cầu đáp
ứng nhu cầu của mọi đối tượng; một hệ thống pháp lý đồng bộ và phát triển thị trường
trái phiếu chính phủ tạo một môi trường giao dịch thuận lợi minh bạch; có sự tham
gia hiệu quả của tổ chức trung gian đó là các tổ chức đánh giá tín nhiệm, các tổ chức
được sự ủng hộ về vốn, pháp lý của Chính phủ cũng như các tổ chức khác từ đó tạo
niềm tin cho các nhà đầu tư.
Thứ nhất, ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát. Kiềm chế lạm phát là điều
kiện tiên quyết để thị trường trái phiếu phát triển ổn định.
Thứ hai, môi trường pháp lý đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển thị
trường TPDN, khi có một môi trường pháp lý minh bạch, rõ ràng sẽ thúc đẩy các
doanh nghiệp phát hành TPDN đồng thời tăng khả năng chuyển đổi linh hoạt của
TPDN từ đó thu hút các nhà đầu tư;
Thứ ba, phát triển thị trường TPCP là nền tảng để phát triển thị trường TPDN.
Thứ tư, để trái phiếu có thể phát hành thành công cần nhấn mạnh vai trò của các
nhà kinh doanh trái phiếu sơ cấp.
Thứ năm, để thị trường trái phiếu thứ cấp phát triển thì cần chú trọng phát triển
hệ thống các nhà tạo lập thị trường đặc biệt là các nhà đầu tư có tổ chức như các quỹ
đầu tư, quỹ bảo hiểm; xây dựng lòng tin của nhà đầu tư bằng việc minh bạch hóa
thông tin, xây dựng hệ thống định mức tín nhiệm.
44
Thứ sáu, cần cập nhật số liệu của thị trường và xây dựng hệ thống chỉ số để
giám sát thay đổi của thị trường tạo điều kiện cho các thành viên tham gia thị trường
có điều kiện theo dõi và dự đoán diễn biến thị trường, kịp thời điều chỉnh danh mục
đầu tư.
Thứ bảy, cần phát triển các tổ chức định mức tín nhiệm làm cơ sở để đánh giá
rủi ro tín dụng và xác định lãi suất yêu cầu đối với từng trái phiếu có mức rủi ro tín
dụng khác nhau.
Thứ tám, chính sách thuế có vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy sự phát triển
của thị trường TPDN.
45
Kết luận chương 1
Trái phiếu là một chứng chỉ vay nợ phản ánh quan hệ giữa người đi vay (chủ
thể phát hành trái phiếu) với người cho vay (chủ sở hữu trái phiếu); trong đó chủ thể
phát hành trái phiếu cam kết trả cho người chủ sở hữu trái phiếu một số tiền nhất
định, vào những khoảng thời gian nhất định, và phải trả lại tiền gốc khi khoản tiền
vay đến hạn. Thị trường TPDN có vai trò tạo ra một kênh huy động vốn trung và dài
hạn cho doanh nghiệp. Việc xây dựng và phát triển thị trường TPDN có ý nghĩa quan
trọng đối với sự phát triển của thị trường tài chính nói riêng và nền kinh tế nói chung.
Nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế cho thấy phát triển thị trường TPDN là một trong
những giải pháp giúp doanh nghiệp tăng sẽ khơi thông các nguồn vốn trong xã hội,
tạo điều kiện tích tụ nguồn vốn, chuyển nguồn vốn ngắn hạn thành nguồn vốn dài
hạn. Chương 1 đã nghiên cứu được cơ bản về cơ sở lý luận về TPDN, vai trò của thị
trường TPDN, các nhân tố ảnh hưởng đến thị trường TPDN. Kết hợp với việc nghiên
cứu kinh nghiệm của Trung Quốc, Hàn Quốc, Malaysia… Chương 1 đã rút ra được
những bài học kinh nghiệm cho Việt Nam.
46
CHƯƠNG 2
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG TRÁI PHIẾU DOANH
NGHIỆP TẠI VIỆT NAM
2.1. Tổng quan thị trường trái phiếu doanh nghiệp tại Việt Nam
2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển
2.1.1.1. Sự ra đời của thị trường trái phiếu doanh nghiệp Việt Nam
Sự ra đời của thị trường TPDN Việt Nam gắn liền với thời điểm ban hành các
văn bản quy phạm pháp luật đầu tiên liên quan trực tiếp đến thị trường trái phiếu nói
chung và thị trường TPDN nói riêng.
Hệ thống văn bản pháp luật đầu tiên có liên quan đến việc phát hành và giao
dịch các loại trái phiếu đã được ban hành từ đầu những năm 90 của thế kỷ trước với
các quy định về phát hành trái phiếu của công ty cổ phần trong Luật Công ty 1990.
Tuy nhiên trên thực tế chưa có doanh nghiệp nào phát hành TPDN theo luật này. Năm
1994, Chính phủ ban hành Nghị định 120/CP ngày 17/9/1994 kèm theo quy chế tạm
thời về việc phát hành trái phiếu, cổ phiếu DNNN thì thị trường TPDN mới chính
thức được hình thành. Quy chế này hướng dẫn các vấn đề có liên quan đến việc phát
hành, mua bán, chuyển nhượng, các hình thức thanh toán, lãi suất trái phiếu và các
vấn đề khác có liên quan. Quá trình áp dụng văn bản này vào trong thực tế đã phát
sinh nhiều hạn chế như: phương thức phát hành chưa phù hợp với thông lệ chung của
thị trường trái phiếu (chưa quy định việc phát hành theo phương thức đấu thầu và bảo
lãnh phát hành, chưa gắn việc phát hành với niêm yết và giao dịch trên thị trường
chứng khoán tập trung); chưa bảo đảm nguyên tắc công khai, minh bạch về thông tin
khi phát hành TPDN. Ngoài ra, Nghị định này đưa ra những quy định về điều hành
lãi suất còn mang nặng tính hành chính, làm giảm tính chủ động của doanh nghiệp và
chưa thực sự gắn với thị trường. Bên cạnh đó điều kiện phát hành quá chặt chẽ, không
khuyến khích doanh nghiệp thực hiện huy động vốn trên thị trường như phải có lãi 3
năm trước khi phát hành, trái phiếu bắt buộc phải có 39 tổ chức bảo lãnh thanh toán.
Vì vậy, việc phát hành TPDN để huy động vốn cho các DN theo Nghị định này vẫn
còn rất hạn chế và chưa phổ biến.
47
Cùng với Nghị định 120/CP, trong năm 1994, Thống đốc Ngân hàng nhà nước
(NHNN) cũng đã ban hành Quyết định 212/QĐ/NH1 ngày 22/9/1994 về thể lệ phát
hành trái phiếu Ngân hàng thương mại, Ngân hàng đầu tư và hướng dẫn việc phát
hành trái phiếu của các tổ chức tín dụng.
2.1.1.2. Quá trình phát triển thị trường trái phiếu doanh nghiệp Việt Nam
Tình hình thị trường trái phiếu doanh nghiệp giai đoạn trước năm 2006
Phát hành trái phiếu doanh nghiệp được thực hiện theo Nghị định số 120/NĐ-
CP ngày 17/9/1994 của Chính phủ về phát hành cổ phiếu, trái phiếu của doanh nghiệp
Nhà nước. Thống kê cho thấy trong giai đoạn từ 1996-2005, chỉ có 12 doanh nghiệp
trong đó có đến 5 doanh nghiệp nhà nước phát hành với tổng vốn huy động đạt 2.101
tỷ đồng.
Giai đoạn 1996-2005 là giai đoạn đầu của thị trường trái phiếu doanh nghiệp ở
Việt Nam điều đó thể hiện ở số lượng chứng khoán được phát hành cũng như mức độ
vốn hóa trên thị trường (chủ yếu là thị trường sơ cấp). Tuy nhiên, thị trường trái phiếu
doanh nghiệp trong thời gian này chủ yếu là sự tham gia của ngân hàng thương mại,
doanh nghiệp, tập đoàn kinh tế lớn, trong khi đó các công ty vừa và nhỏ chưa tham
gia vào thị trường này. Cùng với đó là số lượng trái phiếu tham gia thị trường niêm
yết còn ít khiến cho cơ hội đầu tư của công chúng bị hạn chế, giao dịch trên các sàn
chứng khoán ít khi xuất hiện. Điều này dẫn đến hạn chế là không thu hút được sự
quan tâm của nhà đầu tư trên thị trường thứ cấp làm cho thị trường trái phiếu doanh
nghiệp ngày càng bị thu hẹp trên thị trường chứng khoán; nhà nước khó kiểm soát
được thị trường trái phiếu khi các giao dịch chỉ diễn ra trên thị trường phi tập trung,
từ việc không kiểm soát được dễ dẫn đến khả năng bảo vệ lợi ích của nhà đầu tư sẽ
bị giảm sút, rủi ro thị trường tăng cao, ảnh hưởng đến lòng tin của nhà đầu tư.
Tình hình thị trường trái phiếu doanh nghiệp giai đoạn 2006-2010
Trong giai đoạn 2006 - 2010, thị trường trái phiếu đã có bước phát triển tích
cực, đặc biệt là sau khi có Nghị định 52/2006/NĐ-CP. Nguyên nhân là Nghị định
52/CP đã mở rộng chủ thể phát hành trái phiếu (ngoài các doanh nghiệp nhà nước,
còn có các công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần và doanh nghiệp có vốn đầu
48
tư nước ngoài) trên nguyên tắc là các doanh nghiệp phải tự vay, tự trả, tự chịu trách
nhiệm và công khai minh bạch thông tin.
Bảng 2.1 Tổng hợp tình hình phát hành TPDN giai đoạn 2006 – 2010
Năm phát hành 2006 2007 2008 2009 2010
Giá trị phát hành (tỷ đồng) 13.030 24.323 5.453 36.413 31.261
Số lượng doanh nghiệp phát hành 8 18 4 24 32
Số lượng doanh nghiệp niêm yết trái 3 4 4 8 1 phiếu
Nguồn: Tổng hợp bản tin phát hành trái phiếu của HNX và HOSE
Bảng trên cho thấy số lượng cũng như quy mô phát hành trái phiếu doanh nghiệp
đã tăng đáng kể từ trong giai đoạn 2006 - 2010, đặc biệt tăng vọt trong năm 2007 và
năm 2009. Năm 2010 có giá trị phát hành hơn gấp đôi so với năm 2006 với số lượng
doanh nghiệp tăng gấp 4 lần. Đặc điểm của thị trường trái phiếu doanh nghiệp trong
giai đoạn 2006- 2010 là:
Chủ thể phát hành trái phiếu doanh nghiệp chủ yếu thuộc lĩnh vực tài
chính, xây dựng. Điều này được thể hiện rõ nhất qua năm 2010 các tổ chức phát hành
trái phiếu doanh nghiệp hàng đầu tại Việt Nam chiếm tới 84,93% tổng số trái phiếu
doanh nghiệp là các doanh nghiệp thuộc về lĩnh vực tài chính, xây dựng với giá trị
phát hành đạt được khoảng 26,55 nghìn tỷ đồng. Một số tổ chức tài chính phát hành
trái phiếu với số lượng lớn như ngân hàng VCB, ACB..., phần lớn trái phiếu có kỳ
hạn 3 - 5 năm, lãi suất thả nổi sau năm thứ nhất.
Mục đích phát hành trái phiếu doanh nghiệp huy động vốn của các doanh
nghiệp phục vụ cho đầu tư vào các dự án và để tái cấu trúc nguồn vốn.
Công ty cổ phần Đầu tư hạ tầng kỹ thuật TPHCM (CII) phát hành làm 3 đợt để
huy động vốn cho các dự án phát triển giao thông đường bộ. CTCP Tập đoàn Đức
Long Gia Lai (DLG) phát hành 2.134.000 trái phiếu chuyển đổi cho cổ đông hiện hữu
theo tỷ lệ 3:0,22 với giá bằng mệnh giá 100.000 đồng/trái phiếu, để bổ sung vốn lưu
động và tái cơ cấu nguồn vốn nhằm nâng cao hiệu quả đòn bẩy tài chính; hay trường
49
hợp của CTCP Alphanam (ALP) đã thông qua việc phát hành 2 triệu trái phiếu nhằm
bổ sung vốn lưu động, tái cấu trúc nguồn vốn v.v…
Hình thức phát hành trái phiếu riêng lẻ được mở rộng tạo ra sự đa dạng
của hình thức phát hành trái phiếu.
Giai đoạn 2006 - 2010 là giai đoạn nền kinh tế phát triển và với đà hồi phục. Để
tài trợ cho các dự án và tăng quy mô vốn hoạt động kinh doanh trong bối cảnh hệ
thống Ngân hàng không có đủ vốn trung - dài hạn để đáp ứng (dư nợ tín dụng từ hệ
thống ngân hàng đã giảm từ 37,73% năm 2009 xuống 27,6% vào năm 2010), nhiều
doanh nghiệp có phương án phát hành trái phiếu riêng lẻ và đã thành công. Việc thống
kê về số lượng các đợt phát hành trái phiếu doanh nghiệp trong năm 2010 không chỉ
nói lên quy mô của thị trường mà quan trọng là quy mô của từng đợt phát hành, đối
tượng phát hành, đối tượng mua, khả năng sử dụng đồng vốn và khả năng thu hồi nợ
của trái chủ. Các đợt phát hành riêng lẻ thường không công bố rộng rãi, trong khi nếu
DN phát hành trái phiếu ra công chúng thì phải công bố thông tin đầy đủ cho nhà đầu
tư. Ví dụ: Công ty Tập đoàn Vingroup - Công ty Cổ phần (VIC) phát hành trái phiếu
thu về 1.000 tỷ đồng, lãi suất 16% cho năm đầu nhưng không được coi là giao dịch
ra công chúng vì toàn bộ số trái phiếu được một ngân hàng quốc doanh lớn tư vấn
phát hành đồng thời mua toàn bộ.
Phạm vi phát hành TPDN được mở rộng
Các doanh nghiệp trong giai đoạn này không chỉ phát hành trái phiếu trong
nước, một số công ty đã triển khai phát hành trái phiếu ra thị trường quốc tế và bước
đầu đạt các kết quả khả quan. Cuối quý IV/2010, một số tập đoàn DNNN lớn đã triển
khai việc thăm dò khả năng phát hành trái phiếu ra thị trường quốc tế nhưng không
thành công. Ví dụ như Tập đoàn Dầu khí (PVN), Tập đoàn Điện lực (EVN), tập đoàn
Than - Khoáng sản (TKV) dự kiến phát hành từ 500 triệu USD đến 1 tỷ USD trái
phiếu quốc tế trong năm 2010. Tuy nhiên, việc đổ vỡ của Vinashin vào tháng 6/2010
đã ảnh hưởng đến các kế hoạch này. Theo đánh giá của Standard & Poor thì TKV bị
hạ bậc tín nhiệm từ BB xuống BB-, là mức dưới điểm đầu tư vì tổ chức tư vấn căn cứ
vào khả năng Chính phủ hỗ trợ cho TKV cũng như các tập đoàn khác trong việc trả
50
nợ là thấp do vậy việc gọi vốn của các DNNN không thành công. Trái ngược với các
DNNN, các DN ngoài quốc doanh lại khá thành công trong việc kêu gọi vốn vay
nước ngoài. Điển hình như Tập đoàn Hoàng Anh Gia Lai (HAG) phát hành 1.100 tỷ
đồng TPCĐ cho đối tác Temasek Holdings (Singapore). Công ty CII đã hai lần phát
hành TPCĐ cho Goldman Sachs Asset Management thu về 40 triệu USD tương
đương 833 tỷ đồng...
Lãi suất phát hành TPDN được dần nâng cao
Trong khi mặt bằng lãi suất huy động của Ngân hàng được giảm từ khoảng
12,5%/năm xuống 11,5%/năm thì lãi suất trái phiếu được chào ở mức rất cao. Lãi
suất TPDN phần lớn trong năm đầu tối thiểu từ 14% - 15%/năm, thả nổi từ năm thứ
hai và thường lấy lãi suất tiết kiệm 12 tháng của các Ngân hàng thương mại cộng biên
độ từ 4% - 5,5%/năm. Giữ kỷ lục lãi suất cao nhất là trái phiếu của Tập đoàn Vingroup
- Công ty Cổ phần (VIC), kỳ hạn 5 năm, lãi suất 16%/năm, năm sau thả nổi cộng biên
độ 5,5%. Do đó, TPDN đã thu hút sự quan tâm của các nhà đầu tư và việc nhiều
doanh nghiệp lớn phát hành trái phiếu trung dài hạn thành công cũng thể hiện sự phát
triển của thị trường tài chính khi đã đáp ứng một phần nhu cầu vốn cho tăng trưởng
của các doanh nghiệp. Năm 2010, nhiều doanh nghiệp đã phát hành trái phiếu nhằm
huy động vốn với tổng giá trị huy động lớn, lãi suất huy động thấp hơn so với lãi suất
vay vốn ngân hàng (từ 16 - 17%/năm). Nhìn chung doanh nghiệp đều lựa chọn hình
thức phát hành trái phiếu lãi suất thả nổi. Điều này là phù hợp với tâm lý của đại đa
số các nhà đầu tư do e ngại đồng tiền VND bị mất giá, do đó với mức lãi suất thả nổi
sẽ đảm bảo được tỷ lệ lãi thực cho các nhà đầu tư.
Trái phiếu chuyển đổi đã được phát hành thành công bởi các doanh nghiệp
có uy tín
Trái ngược với các ngân hàng, nhiều doanh nghiệp thuộc lĩnh vực xây dựng lại
thành công khi lựa chọn hình thức trái phiếu chuyển đổi khi huy động vốn. Lựa chọn
cách này, doanh nghiệp vừa có vốn, vừa tránh được lãi suất ngân hàng cao, đồng thời
không phải tìm Ngân hàng đánh giá định mức tín nhiệm và bảo lãnh. Trong năm
2010, có nhiều đợt phát hành trái phiếu thành công như Tập đoàn Vingroup - Công
51
ty Cổ phần, Tập đoàn Sông Đà, Tập đoàn Điện lực... Các hình thức huy động vốn
TPDN cũng ngày càng phong phú như: trái phiếu chuyển đổi, trái phiếu kèm chứng
quyền... đã thu hút được các nhà đầu tư. Số vốn huy động thông qua phát hành TPDN
năm 2010 lên đến hơn 30.000 tỷ đồng. Điều đó đã cho thấy sức hấp dẫn của kênh
phát hành trái phiếu. Bởi lẽ, doanh nghiệp có thể tránh bị pha loãng cổ phiếu, được
hưởng ưu đãi thuế đối với vốn vay và giảm chi phí sử dụng vốn.
Tình hình thị trường trái phiếu doanh nghiệp giai đoạn 2011-2020
Trong giai đoạn này thị trường đã sang một giai đoạn mới do Nghị định số
90/2011/NĐ-CP ngày 14/10/2011 ra đời, từng bước hoàn thiện về pháp lý cho thị
trường TPDN hoạt động, tuy nhiên giai đoạn này là giai đoạn nền kinh tế gặp khó
khăn do ảnh hưởng của nền kinh tế thế giới nên ảnh hưởng đến nhu cầu huy động của
của các doanh nghiệp. Kết quả là TPDN được phát hành với số lượng lớn TPDN đã
được phát hành trong năm 2010 là 30.000 tỷ, trong năm 2011 là 25.000 tỷ đồng, năm
2012 là 28.707 tỷ đồng, năm 2013 đã có 34.412 tỷ đồng, năm 2014 là 26.722 tỷ đồng.
Tính theo dư nợ trên GDP, tỷ lệ dư nợ TPDN/GDP của năm 2013 đạt 2,65%, cao hơn
so với tỷ lệ 1,95% của năm 2012.
Nghị định 88/2014/NĐ-CP về dịch vụ xếp hạng tín nhiệm chưa được triển khai
thực hiện nên tổ chức phát hành vẫn tập trung vào các doanh nghiệp lớn, có uy tín
trên thị trường như Tập đoàn Hoàng Anh Gia Lai, CTCK Sài Gòn, Công ty thủy sản
Minh Phú, CTCP Đầu tư hạ tầng kỹ thuật Tp. Hồ Chí Minh… Lãi suất TPDN thường
đặt cố định trong năm đầu tiên, cao hơn lãi suất huy động ngân hàng và được điều
chỉnh tăng thêm tại các kỳ thanh toán sau (có thể 3 - 6 tháng điều chỉnh 1 lần và có
thể lên mức cao hơn lãi suất NHTM cho doanh nghiệp vay vốn Tuy nhiên riêng đối
thị trường TPDN thì đánh giá cho thấy khả năng phát hành TPDN vẫn hạn chế vì các
ngân hàng thương mại còn quan ngại rủi ro về khả năng thu hồi vốn khi các doanh
nghiệp vẫn có khả năng vẫn còn gặp nhiều khó khăn trong sản xuất kinh doanh trong
năm 2014. Hơn nữa bản thân doanh nghiệp cũng không tìm kiếm được dự án đầu tư
mở rộng tốt (do hàng tồn kho vẫn cao, kể cả bất động sản và xây dựng) nên cũng
không có nhiều doanh nghiệp có nhu cầu huy động vốn.
52
Nguyên nhân của sự tăng trưởng thị trường TPDN trong năm 2015 so với các
năm trước đây là:
Thứ nhất, thay đổi cơ cấu cho vay. Khi NHTM mua TPDN có kỳ hạn dài của
các doanh nghiệp, điều này sẽ giúp các NHTM gia tăng cơ cấu dư nợ cho vay trung
và dài hạn, đồng thời cũng giúp các doanh nghiệp huy động được nguồn vốn trung
và dài hạn cho các dự án của mình. Với kỳ hạn TPDN phát hành trong năm 2015 ở
mức 3 - 5 năm, cơ cấu cho vay trung và dài hạn đã dần tăng lên so với trước đây.
Thứ hai, tăng khả năng cho vay với một khách hàng. Thông tư 36 quy định tổng
dư nợ tín dụng cấp cho 01 khách hàng không được vượt quá 15%, cho 01 khách hàng
và người có liên quan không được vượt quá 25% vốn tự có của NHTM. Trong bối
cảnh các doanh nghiệp có thể có nhu cầu vay một khoản tiền lớn thì TPDN trở thành
1 công cụ tài chính hữu hiệu để tránh quy định tại Thông tư 36. Thực tế cũng chứng
minh khi phần lớn nhà đầu tư của các đợt phát hành TPDN là NHTM hoặc tổ chức
tài chính.
Năm 2016, hoạt động của thị trường trái phiếu đạt được kết quả rất tốt, có sự
tăng trưởng và phát triển mạnh mẽ so với các năm trước, đáp ứng được yêu cầu huy
động vốn của Chính phủ, các NHCS của nhà nước, chính quyền địa phương và các
doanh nghiệp. Đối với TPCP, bên cạnh việc hoàn thành nhiệm huy động vốn cho
NSNN với khối lượng lớn nhất từ trước đến nay, còn thực hiện tốt các hoạt động tái
cơ cấu thị trường và danh mục nợ TPCP của Chính phủ nhằm tăng tính bền vững của
danh mục nợ Chính phủ. Thị trường TPDN phát triển mạnh so với năm 2015 cả về
số doanh nghiệp huy động vốn và khối lượng huy động vốn thông qua phát hành trái
phiếu. tổng khối lượng phát hành TPDN là 78.000 tỷ đồng, tăng khoảng 80% so với
năm 2015. Dư nợ TPDN ước đến hết năm 2016 đạt khoảng 4,27%GDP (tăng 0,97%
so với năm 2015).
Sau thời gian 4 năm (2013 - 2016) thực hiện phát triển thị trường trái phiếu theo
Lộ trình phát triển thị trường trái phiếu đến năm 2020 tại Quyết định số 261/2013/QĐ-
BTC, thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp cũng có bước tăng trưởng vượt bậc. Quy
mô thị trường tăng dần qua các năm, tính đến tháng 12/2015 đạt gần 868.000 tỷ đồng,
53
tương đương 22% GDP 2014, với riêng dư nợ thị trường TPDN là khoảng 580.000
tỷ đồng, tương ứng 14% GDP. Tuy TPDN đã từng bước khởi sắc qua các năm nhưng
tỷ lệ trong cơ cấu thị trường chung vẫn còn rất thấp so với TPCP. Việc thay đổi cơ
cấu kỳ hạn theo hướng kéo dài kỳ hạn vay qua phát hành TPCP trong nước giai đoạn
đoạn 2011 - 2016 trung bình khoảng từ 4 - 6 năm và giai đoạn 2016 - 2020 lên khoảng
từ 6 - 8 năm được bắt đầu thực hiện sau Nghị quyết số 78/2014/QH13 mặc dù có tác
động tiêu cực đến hoạt động huy động trên thị trường nhưng cũng đã bước đầu thành
công trong việc hướng thị trường đến những sản phẩm có kỳ hạn dài hơi hơn. Bên
cạnh đó, hệ thống giao dịch TPCP phiên bản 2 và đường cong lợi suất TPCP đã chính
thức đi vào vận hành ổn định. Hệ thống đấu thầu điện tử đã được triển khai, kết nối
đồng bộ với tổ chức phát hành, thị trường giao dịch và các thành viên đấu thầu.
Kể từ năm 2017, trong bối cảnh tăng trưởng tín dụng có xu hướng giảm, Ngân
hàng Nhà nước điều hành thận trọng tỷ lệ tăng trưởng tín dụng nhất là đối với một số
ngành nghề nhạy cảm nhằm giảm thiểu rủi ro cho hệ thống các tổ chức tín dụng, các
doanh nghiệp có xu hướng mở rộng việc huy động vốn thông qua phát hành TPDN
riêng lẻ để huy động vốn cho sản xuất kinh doanh.
Tốc độ tăng trưởng của thị trường TPDN đạt bình quân 48%/năm trong giai
đoạn 2017-2020. Đến năm 2018, TPDN bứt tốc khi có đến 107 thương vụ phát hành
TPDN của các công ty niêm yết trên sở giao dịch chứng khoán với khối lượng phát
hành thành công là 224.000 tỷ đồng, tăng 94,5% so với năm 2017. Theo đó, dư nợ
thị trường TPDN đã đạt mức 474.500 tỷ đồng, bằng 8,6% GDP năm 2018 và tăng
53% so với cuối năm 2017. Dù vậy, so với TPCP, quy mô TPDN vẫn còn khá nhỏ và
số lượng DN phát hành chiếm tỷ lệ không đáng kể nếu so với 700.647 DN đang hoạt
động (tại thời điểm cuối năm 2017) và khoảng hơn 1.565 DN niêm yết trên HNX,
HOSE và UPCoM.
Trong năm 2020, khối lượng phát hành trái phiếu tại thị trường trong nước tăng
29% so với năm 2019 đạt khoảng 430.000 tỷ đồng, trong đó: phát hành riêng lẻ chiếm
93,4% tổng khối lượng phát hành, tăng 30,4% so với năm 2019; phát hành ra công
chúng tăng 33% so với năm 2019.
54
Trước tình thị trường TPDN tăng trưởng quá nhanh, trong bối cảnh Luật Chứng
khoán năm 2010 vẫn cho phép nhà đầu tư cá nhân được tham gia mua và giao dịch
trái phiếu doanh nghiệp phát hành riêng lẻ, để tránh những rủi ro có thể xảy ra ảnh
hưởng đến sự ổn định của thị trường, Bộ Tài chính đã trình Chính phủ ban hành Nghị
định số 81/2020/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung ngay một số điều của Nghị định số
163/2018/NĐ-CP theo hướng nâng cao điều kiện phát hành, hạn chế khối lượng phát
hành, tần suất phát hành trái phiếu doanh nghiệp và tăng cường chế độ công bố thông
tin, báo cáo để giảm thiểu rủi ro trên thị trường TPDN.
Tình hình phát triển thị trường trái phiếu doanh nghiệp thứ cấp
Trong thời gian đầu khi thành lập sàn giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí
Minh và Hà Nội do các trái phiếu doanh nghiệp được phát hành chủ yếu theo hình
thức phát hành riêng lẻ, do vậy, số trái phiếu doanh nghiệp được niêm yết trên Sở
Giao dịch chứng khoán không nhiều.
Hoạt động phát hành của các công ty đại chúng vẫn còn mang tính tự phát,
không hoàn toàn dựa trên nhu cầu sử dụng vốn của doanh nghiệp, làm giảm hiệu quả
sử dụng vốn. Không ít tổ chức phát hành huy động vốn trên TTCK để đầu tư trở lại
vào chứng khoán mà không phải để mở rộng sản xuất kinh doanh, góp phần tạo nên
bong bóng thị trường và rủi ro mất vốn khi thị trường sụt giảm. Hoạt động chào bán
riêng lẻ không có sự điều chỉnh đầy đủ của pháp luật và quản lý của các cơ quan có
thẩm quyền dẫn đến các hành vi lạm dụng, ảnh hưởng đến sự lành mạnh của TTCK.
Bên cạnh đó, việc tuân thủ chào bán ra công chúng phải đăng ký với UBCKNN còn
hạn chế (đặc biệt vào thời kỳ ngay sau khi Luật chứng khoán mới ban hành) đã tạo
nên những rủi ro tiềm ẩn cho TTCK. Hoạt động phát hành TPDN còn nhiều bất cập,
công tác kế hoạch hoá phát hành trái phiếu chưa tốt, cơ chế phát hành trái phiếu còn
nhiều bất cập, chưa có các tổ chức tạo lập thị trường TPCP đúng nghĩa để đảm bảo
thành công cho các đợt phát hành cũng như tạo tính thanh khoản cho thị trường thứ
cấp. Thiếu đường cong lãi suất chuẩn và tổ chức định mức tín nhiệm.
Trong giai đoạn từ năm 2005 đến nay, thị trường chứng khoán đã có nhiều khởi
sắc Số lượng các nhà đầu tư tham gia TTCK ngày càng đông đảo. Số lượng nhà đầu
55
tư cá nhân và tổ chức, trong nước và nước ngoài đã gia tăng đáng kể. Từ khoảng gần
3.000 tài khoản nhà đầu tư tham gia khi mới mở cửa thị trường vào năm 2000, tính
đến 3/2021 đã có trên 3.029.000 tài khoản giao dịch, trong đó số nhà đầu tư tổ chức
trong nước là 11.600, số nhà đầu tư cá nhân trong nước là 2.981.400, số nhà đầu tư
nước ngoài là hơn 36.400 nhà đầu tư. Hệ thống nhà đầu tư tổ chức đang trên đà tăng
trưởng một cách bền vững, bắt đầu thúc đẩy sự phát triển của TTCK mà đặc biệt là
thị trường TPDN.
Hệ thống các tổ chức kinh doanh, dịch vụ chứng khoán phát triển nhanh về quy
mô và năng lực nghiệp vụ, với hệ thống mạng lưới chi nhánh, phòng giao dịch trải
khắp các tỉnh, thành phố lớn trong cả nước, góp phần giúp công chúng đầu tư tiếp
cận dễ dàng hơn với TTCK. Khi thị trường bắt đầu đi vào hoạt động, toàn thị trường
mới chỉ có 7 công ty chứng khoán và cho đến tận năm 2004 vẫn chưa có một công ty
quản lý quỹ nào. Sau gần 20 năm hoạt động, tính đến thời điểm hiện tại theo danh
sách của UBCKNN, đã có 105 công ty chứng khoán và 48 công ty quản lý quỹ đang
hoạt động tại Việt Nam. Số thành viên lưu ký của Trung tâm Lưu ký Chứng khoán
(TTLKCK) là 95 thành viên, trong đó, có 8 ngân hàng lưu ký nước ngoài và ngoài ra
còn có 26 tổ chức mở tài khoản trực tiếp. Số lượng người hành nghề tăng nhanh, phù
hợp với sự tăng trưởng của các Công ty chứng khoán. Từ năm 2007 đến 2009 đã có
gần 8.400 người hành nghề được cấp chứng chỉ. Số lượng công ty quản lý quỹ gia
tăng nhanh kể từ năm 2006 trở lại đây (năm 2005 mới chỉ có 6 công ty quản lý quỹ
thì đến cuối 2009 đã có 47 công ty được cấp phép hoạt động). Tuy nhiên, số lượng
các tổ chức kinh doanh và cung cấp dịch vụ cho TTCK tăng quá nhanh, với năng lực
về vốn và chuyên môn còn hạn chế, tiềm ẩn rủi ro hệ thống và chưa tương xứng với
hiệu quả hoạt động chung của thị trường.
Thị trường giao dịch TPDN còn manh mún, nhỏ lẻ và rất ít hoạt động so với thị
trường phát hành. Thanh khoản trên thị trường thứ cấp rất hạn chế, với ít giao dịch
được ghi nhận. Tuy có số liệu giao dịch thấp, việc giao dịch trái phiếu doanh nghiệp
vẫn được tổ chức và quản lý theo những quy định hiện hành. Trái phiếu doanh nghiệp
được giao dịch thứ cấp dưới hai hình thức: (1) giao dịch tập trung tại các Sở giao dịch
và (2) giao dịch mua bán trao tay OTC.
56
2.1.2. Khuôn khổ và quy định pháp lý về thị trường trái phiếu doanh
nghiệp Việt Nam
2.1.2.1. Khuôn khổ pháp lý
Để hình thành và phát triển thị trường trái phiếu doanh nghiệp đòi hỏi phải có
một hệ thống pháp lý đầy đủ, tạo điều kiện thuận lợi để thị trường được hoạt động
một cách minh bạch, công bằng và bảo vệ quyền lợi của các bên tham gia. Nhà nước
đóng vai trò không thể thiếu trong việc ban hành hệ thống pháp lý, điều đó thể hiện
trong suốt quá trình hình thành và phát triển thị trường trái phiếu doanh nghiệp của
Việt Nam trong thời gian qua.
Các văn bản luật và dưới luật mới nhất liên quan đến thị trường trái phiếu doanh
nghiệp có thể tóm tắt như bảng sau:
Bảng 2.2 Văn bản pháp luật liên quan đến TPDN
STT Văn bản Phạm vi điều chỉnh liên quan Trái phiếu doanh nghiệp
Luật/ dưới và các điểm chính và các vấn đề chính liên quan đến
Luật Trái phiếu doanh nghiệp
1 Luật Chứng Luật đã chuẩn hóa điều kiện, trình tự, thủ tục chào bán
khoán số chứng khoán phù hợp cho từng loại chứng khoán; sửa đổi,
54/2019/QH14 tách quy định về điều kiện chào bán chứng khoán ra công
chúng tại Luật Chứng khoán hiện hành thành chào bán cổ
phiếu lần đầu ra công chúng và chào bán thêm cổ phiếu ra
công chúng để phù hợp với tính chất của từng đợt chào
bán; đồng thời quy định điều kiện chặt chẽ hơn trong
trường hợp chào bán cổ phiếu lần đầu ra công chứng, phù
hợp với thông lệ quốc tế; bổ sung quy định nhằm gắn chào
bán chứng khoán ra công chúng với niêm yết, đăng ký giao
dịch tại sàn giao dịch chứng khoán.
2 Luật Doanh Quy định về chào bán, giao dịch trái phiếu doanh nghiệp
nghiệp số riêng lẻ, trình tự, thủ tục, (điều 128-130) với doanh nghiệp
57
59/2020/QH14 không phải là công ty đại chúng.
3 Nghị định Quy định về chào bán, giao dịch trái phiếu doanh nghiệp
153/2020/ NĐ- riêng lẻ tại thị trường trong nước và chào bán trái phiếu
CP doanh nghiệp ra thị trường quốc tế.
(i) Hoạt động chào bán trái phiếu riêng lẻ sẽ chỉ được
thực hiện với các nhà đầu tư chuyên nghiệp và nhà
đầu tư chiến lược.
(ii) Các giao dịch thứ cấp sẽ chỉ được tiến hành giữa các
nhà đầu tư chuyên nghiệp với nhau lợi trừ trường hợp
TP chuyển đổi và TP kèm chứng quyền khi đối với
các TP này đối tượng giao dịch được mở rộng thêm
NĐT chiến lược.
(iii) Loại bỏ quy định về tỷ lệ phát hành trên VCSH.
4 Nghị định Quy định chi tiết thi hành một số điều của luật chứng khoán
155/2020/ NĐ- trong đó có quy định điều kiện chào bán trái phiếu ra công
CP chúng với một số quy định nổi bật: (điều 19)
Hiện nay hoạt động phát hành trái phiếu doanh nghiệp chịu ảnh hưởng/ tác động
của Luật Doanh nghiệp, Luật Chứng khoán và các văn bản hướng dẫn thi hành. Cụ
thể:
Phát hành trái phiếu doanh nghiệp đại chúng (public offering): Thực hiện
theo quy định tại Luật Chứng khoán 2019 và Nghị định 155/2020/ NĐ-CP hướng dẫn
thi hành một số điều tại luật chứng khoán.
Phát hành trái phiếu doanh nghiệp riêng lẻ (private placement): Thực hiện
theo quy định tại Luật Chứng khoán 2019 và được quy định chi tiết tại Nghị định
153/2020/ NĐ-CP.
Nói sơ qua về các quy định về chào bán giao dịch trái phiếu doanh nghiệp riêng
lẻ, đây có lẽ là hệ thống văn bản được chăm chút và sửa đổi kỹ càng nhất để phù hợp
với sự phát triển và định hướng thị trường trái phiếu doanh nghiệp còn nhiều dư địa.
58
Trong 2 – 3 năm vừa rồi, Chính phủ đã thực hiện các dự thảo về quy định chào bán
trái phiếu riêng lẻ đồng thời xin ý kiến các bên tham gia thị trường, quan sát thị trường
trái phiếu doanh nghiệp và đưa ra 3 nghị định liên quan đến việc chào bán riêng lẻ
trái phiếu doanh nghiệp.
Sau năm 1994 nghị định số 120-CP ra đời ban hành quy chế tạm thời về việc
phát hành trái phiếu cổ phiếu doanh nghiệp nhà nước, nghị định số 90/2011/NĐ-CP
ra đời ngày 14/10/2011 đã mở rộng phạm vi phát hành Trái phiếu doanh nghiệp và
những ưu tiên áp dụng pháp luật chuyên ngành ngân hàng đối với việc phát hành trái
phiếu của các tổ chức tín dụng cũng đã được đưa ra tại Nghị định này. Theo đó, bên
cạnh việc tuân thủ quy định của Nghị định số 90/2011/NĐ-CP, các doanh nghiệp
thuộc lĩnh vực ngân hàng còn phải thực hiện theo quy định của pháp luật chuyên
ngành liên quan. Trường hợp quy định của pháp luật về ngân hàng khác với quy định
tại Nghị định số 90/2011/NĐ-CP, thì tổ chức tín dụng phát hành trái phiếu phải thực
hiện theo quy định của pháp luật chuyên ngành.
Tiếp nối Nghị định số 90/2011/NĐ-CP, là nghị định số 163/2018/NĐ-CP ra đời
nhằm siết chặt việc giám sát, quản lý thị trường trái phiếu doanh nghiệp đang tăng
trưởng “nóng” trong giai đoạn 2017 – 2018. Nghị định này tập trung sửa đổi bổ sung
3 vấn đề là: làm rõ phạm vi phát hành và giao dịch trái phiếu riêng lẻ; bổ sung điều
kiện phát hành và hồ sơ phát hành trái phiếu; minh bạch trong hoạt động công bố
thông tin, mang đến rất nhiều thay đổi tích cực giúp cho thị trường trái phiếu thêm
công khai, minh bạch.
Nghị định 81/2020/NĐ-CP sửa đổi Nghị định 163/2018/NĐ-CP, tiếp tục hoàn
thiện khung pháp lý, minh bạch thông tin, đảm bảo sự phát triển lành mạnh bền vững
của thị trường. Nghị định 81 có những điều khoản phần nào giúp hạn chế rủi ro mất
khả năng thanh toán đối với trái phiếu và giảm hiện tượng các doanh nghiệp xé nhỏ
các đợt phát hành tăng khả năng tiếp cận với nhà đầu tư cá nhân, phát hành trái phiếu
với quy mô lớn gấp nhiều lần vốn chủ sở hữu (khoản 1 Điều 10). Ngoài ra, đẩy mạnh
minh bạch thông tin, lành mạnh hóa thị trường tiếp tục là kim chỉ nam định hướng
trong việc xây dựng thị trường trái phiếu doanh nghiệp. Chế độ công bố thông tin đã
được quy định rõ về đầu mối quản lý thông tin về Bộ Tài chính. Đồng thời, tần suất
59
báo cáo cũng đã được tăng thêm định kỳ tháng đảm bảo tính cập nhật với các thành
viên trên thị trường. Thêm vào đó, sửa đổi chế độ công bố thông tin định kỳ đối với
phát hành trái phiếu xanh, theo hướng lược bớt báo cáo tiến độ giải ngân và tiến độ
thực hiện dự án, tuy nhiên duy trì báo cáo tình hình sử dụng vốn từ nguồn phát hành
trái phiếu có ý kiến soát xét của tổ chức kiểm toán và báo cáo đánh giá tác động đến
môi trường.
Ngày 31/12/2020, Chính Phủ đã ban hành Nghị định 153/2020/NĐ-CP quy định
về chào bán, giao dịch trái phiếu doanh nghiệp riêng lẻ tại thị trường trong nước và
chào bán trái phiếu doanh nghiệp ra thị trường quốc tế. Nghị định 153 là quy định
mới nhất về hoạt động chào bán riêng lẻ trái phiếu doanh nghiệp, một số điểm đổi
mới có thể kể tới là:
(1) Tiêu chí về nhà đầu tư trái phiếu: thêm quy định về nhà đầu tư trái phiếu,
điều khoản về trách nhiệm & quyền lợi nhà đầu tư trái phiếu nhằm hướng đến mục
tiêu đảm bảo sự phát triển bền vững của thị trường. Theo đó điều khoản quy định các
nhà đầu tư là nhà đầu tư chuyên nghiệp này cũng đảm bảo đảm tính thống nhất giữa
các văn bản pháp luật khi khái niệm nhà đầu tư chuyên nghiệp đã được quy định đầy
đủ trong Luật Chứng khoán (2019) có hiệu lực đầu năm 2021. Đồng thời việc quy
định rõ về trách nhiệm cũng như quyền lợi của nhà đầu tư trái phiếu sẽ góp phần nâng
cao nhận thức của nhà đầu tư với các sản phẩm.
(2) Điều kiện chào bán trái phiếu: các doanh nghiệp chứng minh được nhu
cầu huy động vốn ở các thời điểm khác nhau có thể được phát hành trái phiếu thành
nhiều đợt. Đây có thể được xem là thông tin tích cực với các doanh nghiệp tốt có nhu
cầu huy động theo tiến độ nhất định.
(3) Hồ sơ chào bán trái phiếu yêu cầu bổ sung một số hợp đồng ký kết giữa
doanh nghiệp và tổ chức cung cấp dịch vụ liên quan đến đợt phát hành. Văn bản này
sẽ thể hiện sự ràng buộc mang tính pháp lý của doanh nghiệp phát hành với các cam
kết về điều kiện chào bán trái phiếu nhằm giúp thị trường phát triển lành mạnh.
(4) Giao dịch trái phiếu: chỉ cho phép giao dịch trái phiếu giữa các nhà đầu tư
chuyên nghiệp, việc này sẽ tạo ra rào cản đối với các đối tượng có nhu cầu đầu tư trái
60
phiếu doanh nghiệp và theo đó tạo ra động lực cho quá trình “chuyên nghiệp hóa” và
chọn lọc đối tượng nhà đầu tư trên thị trường. Đây tiếp tục được xem là biện pháp
nhất quán của nhà lập pháp nhằm thiết lập sự phát triển bền vững của thị trường Trái
phiếu doanh nghiệp.
(5) Loại bỏ điều kiện về tỷ lệ phát hành/Vốn chủ sở hữu: là yếu tố thuận lợi
cho tổ chức phát hành khi tổ chức có thể chào bán trái phiếu trong điều kiện chứng
minh đáp ứng đủ các điều kiện chào bán.
Ngoài việc phải tuân thủ quy định trên, đối với một số doanh nghiệp đặc thù
muốn phát hành Trái phiếu doanh nghiệp vẫn phải xin giấy phép hoặc văn bản chấp
thuận của Bộ ngành liên quan đến mục đích phát hành. Ví dụ như: Đối với hoạt động
chào bán trái phiếu ra thị trường quốc tế yêu cầu tuân thủ quy định về quản lý vay,
trả nợ nước ngoài của các doanh nghiệp không được chính phủ bảo lãnh và pháp luật
về quản lý ngoại hối; hoặc Hồ sơ chào bán trái phiếu ra thị trường quốc tế bao gồm
văn bản của NHNN xác nhận hạn mức vay thương mại nước ngoài quốc gia.
2.1.2.2. Quy trình, thủ tục thực hiện phát hành trái phiếu doanh nghiệp
trên thị trường sơ cấp
Hiện nay hoạt động phát hành trái phiếu doanh nghiệp chịu ảnh hưởng/ tác động
của Luật Doanh nghiệp, Luật Chứng khoán và các văn bản hướng dẫn thi hành. Cụ
thể:
Phát hành trái phiếu doanh nghiệp riêng lẻ (private placement): Thực hiện
theo quy định tại Luật Chứng khoán 2019 và được quy định chi tiết tại Nghị định
153/2020/ NĐ-CP.
Phát hành trái phiếu doanh nghiệp đại chúng (public offering): Thực hiện
theo quy định tại Luật Chứng khoán 2019 và Nghị định 155/2020/ NĐ-CP hướng dẫn
thi hành một số điều tại luật chứng khoán.
Phát hành trái phiếu riêng lẻ
Đây là hình thức phát hành trái phiếu không sử dụng phương tiện thông tin đại
chúng.
61
(1) Phát hành trái phiếu riêng lẻ trong nước:
Bước 1: Xây dựng phương án phát hành trái phiếu và trình cấp thẩm quyền phê
duyệt:
Phương án phát hành trái phiếu bao gồm nội dung cơ bản sau:(a) Thông tin
chung về ngành nghề, lĩnh vực kinh doanh, tình hình tài chính và kết quả hoạt động
kinh doanh của doanh nghiệp; (b) Mục đích phát hành trái phiếu và phương án sử
dụng vốn phát hành trái phiếu; (c) Khối lượng, loại hình, kỳ hạn, lãi suất danh nghĩa
trái phiếu dự kiến phát hành; (d) Tỷ lệ chuyển đổi, thời hạn chuyển đổi, giá chuyển
đổi và biên độ biến động giá cổ phiếu (nếu có) đối với phát hành trái phiếu chuyển
đổi; giá và thời điểm thực hiện mua cổ phiếu đối với phát hành trái phiếu kèm chứng
quyền; (đ) Phương thức phát hành trái phiếu và các tổ chức tham gia bảo lãnh phát
hành, bảo lãnh thanh toán, đại lý phát hành, đại lý thanh toán gốc, lãi trái phiếu; (e)
Kế hoạch bố trí nguồn và phương thức thanh toán gốc, lãi trái phiếu; (f) Các cam kết
khác đối với chủ sở hữu trái phiếu.
Bước 2: Lập hồ sơ phát hành trái phiếu:
Hồ sơ phát hành trái phiếu do doanh nghiệp phát hành chuẩn bị để đăng ký phát
hành trái phiếu và công bố cho các đối tượng mua trái phiếu. Hồ sơ phát hành trái
phiếu bao gồm: (a) Phương án phát hành trái phiếu và quyết định phê duyệt, chấp
thuận phương án phát hành trái phiếu của các cấp có thẩm quyền quy định; (b) Các
tài liệu và văn bản pháp lý chứng minh doanh nghiệp đủ điều kiện để phát hành trái
phiếu theo quy định; (c) Kết quả xếp loại của tổ chức định mức tín nhiệm đối với chủ
thể phát hành trái phiếu và loại trái phiếu phát hành (nếu có); (d) Các hợp đồng bảo
lãnh phát hành, bảo lãnh thanh toán, hợp đồng đại lý và các tài liệu liên quan khác
(nếu có).(e) Văn bản pháp lý chứng minh các dự án sử dụng nguồn vốn trái phiếu đã
hoàn thành các thủ tục về đầu tư và đã có quyết định đầu tư của cấp có thẩm quyền
trong trường hợp phát hành trái phiếu để thực hiện các chương trình, dự án đầu tư của
doanh nghiệp.
Bước 3: Tiến hành phát hành trái phiếu:
Trái phiếu được phát hành thông qua các phương thức sau: (i)Đấu thầu phát
62
hành trái phiếu;(ii) Bảo lãnh phát hành trái phiếu; (iii) Đại lý phát hành trái phiếu;
(iv) Bán trực tiếp cho nhà đầu tư trái phiếu (đối với doanh nghiệp phát hành là tổ chức
tín dụng).
(2) Phát hành trái phiếu riêng lẻ ra thị trường quốc tế
Bước 1: Xây dựng phương án phát hành trái phiếu và trình cấp thẩm quyền phê
duyệt.
Doanh nghiệp phát hành xây dựng phương án phát hành trái phiếu trình cấp có
thẩm quyền phê duyệt, chấp thuận theo quy định. Phương án phát hành trái phiếu bao
gồm các nội dung quy định như phát hành trái phiếu riêng lẻ trong nước và thêm các
nội dung sau: (i) Dự kiến đồng tiền phát hành và thanh toán trái phiếu; (ii) Dự kiến
thị trường phát hành, phân tích về điều kiện thị trường phát hành và việc đáp ứng các
điều kiện của thị trường phát hành; (iii) Dự kiến lựa chọn nhà bảo lãnh phát hành, tư
vấn pháp lý, các đại lý liên quan; (iv) Kế hoạch bố trí nguồn vốn, phương thức thanh
toán gốc, lãi, và xử lý các rủi ro tài chính.
Bước 2: Xác nhận và đăng ký khoản vay phát hành trái phiếu quốc tế
Doanh nghiệp phát hành trái phiếu ra thị trường quốc tế phải làm thủ tục xác
nhận và đăng ký khoản vay thương mại nước ngoài với Ngân hàng Nhà nước Việt
Nam. Hồ sơ xác nhận và đăng ký khoản vay phát hành trái phiếu quốc tế bao gồm
văn bản đề nghị của doanh nghiệp và phương án phát hành trái phiếu đã được phê
duyệt.
Bước 3: Lập hồ sơ phát hành trái phiếu
Hồ sơ phát hành bao gồm các tài liệu sau:(a) Phương án phát hành trái phiếu đã
được cấp có thẩm quyền phê duyệt, và chấp thuận theo quy định tại Nghị định này;
(b) Bản cáo bạch; (c) Hợp đồng bảo lãnh phát hành; hợp đồng bảo lãnh thanh toán,
hợp đồng đại lý thanh toán (nếu có); (d) Hợp đồng tư vấn pháp lý; (đ) Ý kiến pháp
lý; (e) Các thỏa thuận đại lý; (g) Văn bản pháp lý chứng minh các dự án sử dụng
nguồn vốn trái phiếu quốc tế đã hoàn thành các thủ tục về đầu tư và đã có quyết định
đầu tư của cấp có thẩm quyền trong trường hợp phát hành trái phiếu để thực hiện các
chương trình, dự án đầu tư của doanh nghiệp; (h) Xác nhận của công ty đánh giá hệ
63
số tín nhiệm về hệ số tín nhiệm của doanh nghiệp phát hành; (i) Xác nhận của Ngân
hàng Nhà nước về việc doanh nghiệp đã đăng ký trị giá trái phiếu phát hành ra thị
trường quốc tế thuộc tổng hạn mức vay thương mại nước ngoài hàng năm của quốc
gia được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt; (k) Các tài liệu khác theo quy định tại thị
trường phát hành.
Bước 4: Tiến hành phát hành trái phiếu.
Chào bán trái phiếu ra công chúng
Chào bán trái phiếu ra công chúng liên quan đến lợi ích đông đảo công chúng
đầu tư. Để bảo vệ lợi ích của nhà đầu tư, nhà nước quy định chặt chẽ các thủ tục phát
hành, yêu cầu chủ thể phát hành trái phiếu phải tuân thủ một cách nghiêm ngặt. Cụ
thể như sau:
(1) Nộp hồ sơ đăng ký chào bán trái phiếu ra công chúng:
Để được cấp giấy phép phát hành trái phiếu ra công chúng, doanh nghiệp phát
hành phải nộp hồ sơ đăng ký chào bán trái phiếu ra công chúng cho UBCKNN. Hồ
sơ bao gồm: (a) Đơn đăng ký chào bán trái phiếu ra công chúng; (b) Bản sao hợp lệ
giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh của công ty; (c) Điều lệ công ty; (d) Quyết định
của HĐQT thông qua việc phát hành trái phiếu ra công chúng; (đ) Bản cáo bạch; (e)
Danh sách và sơ yếu lý lịch thành viên HĐQT, ban giám đốc, ban kiểm soát; (f) Các
báo cáo tài chính 2 năm liền kề trước năm đăng ký phát hành đã được kiểm toán; (g)
Cam kết bảo lãnh phát hành; (h) Cam kết thực hiện nghĩa vụ của tổ chức phát hành
đối với người đầu tư.
Nếu hồ sơ đăng ký phát hành đầy đủ và hợp lệ, Ủy ban chứng khoán sẽ chấp
nhận việc cấp giấy chào bán trái phiếu ra công chúng. Việc chấp nhận cấp giấy chỉ là
việc xác nhận hồ sơ đăng ký chào bán trái phiếu ra công chúng đáp ứng được đủ điều
kiện và thủ tục theo quy định của pháp luật mà không có hàm ý đảm bảo giá trị của
trái phiếu.
(2) Công bố việc phát hành: Sau khi hồ sơ đăng ký chào bán trái phiếu ra công
chúng có hiệu lực, tổ chức phát hành phải công bố bản thông báo phát hành trên các
phương tiện thông tin đại chúng theo quy định của pháp luật. Việc công bố nhằm phổ
64
biến thông tin rộng rãi tới công chúng, tạo sự bình đẳng cho công chúng về cơ hội
đầu tư như nhau.
(3) Phân phối trái phiếu ra công chúng:
Việc phân phối trái phiếu chỉ được thực hiện sau khi tổ chức phát hành đảm bảo
cho người mua Trái phiếu tiếp cận bản cáo bạch trong hồ sơ đăng ký chào bán có hiệu
lực tại các địa điểm nêu trong bản thông báo phát hành. Tổ chức phát hành phải hoàn
thành việc phân phối trái phiếu trong thời hạn tối đa là 90 ngày kể từ ngày hồ sơ đăng
ký chào bán trái phiếu có hiệu lực. Trường hợp tổ chức phát hành không thể hoàn
thành việc phân phối TP ra công chúng theo đúng thời hạn quy định trên, UBCKNN
xem xét gia hạn việc phân phối trái phiếu nhưng tối đa không quá 30 ngày. Trong quá
trình thực hiện việc phân phối trái phiếu, nếu cơ quan quản lý phát hiện tổ chức phát
hành có những hành vi vi phạm quy định phát hành trái phiếu ra công chúng thì có
thể đình chỉ đợt phát hành hoặc thu hồi giấy phép phát hành.
(4) Báo cáo kết quả đợt phát hành: Kết thúc đợt phát hành, tổ chức phát hành
phải chuyển giao trái phiếu cho người đầu tư hoàn thành việc thanh toán chuyển tiền.
Đồng thời, trong một thời gian nhất định sau khi kết thúc đợt phát hành theo quy định,
tổ chức phát hành phải báo cáo kết quả đợt phát hành với UBCKNN.
Nhìn chung, về quy trình phát hành trái phiếu doanh nghiệp đã đáp ứng được
yêu cầu cải cách hành chính của các doanh nghiệp, đạt mục tiêu nhằm tăng cường
công tác quản lý của nhà nước trong lĩnh vực này đồng thời dần từng bước tiến tới
phù hợp với thông lệ quốc tế trong lĩnh vực này, tạo điều kiện thu hút các nhà đầu tư
nước ngoài. Tuy nhiên, trong thời gian qua chủ yếu các doanh nghiệp theo hình thức
phát hành riêng lẻ, phần lớn trái phiếu phát hành hiện nay không được đưa lên sàn
niêm yết. Trong số đó, có nhiều trái phiếu không còn là chứng khoán nữa, mà là một
hình thức giấy nợ. Những trái phiếu này không đi qua những trình tự, thủ tục như ở
các nước phát triển - trái phiếu phải được phát hành bởi các công ty có năng lực trả
nợ, sau đó được bán như chứng khoán trên sàn và được nhà đầu tư đại chúng giao
dịch; trong quy trình đó, phải có một ngân hàng đầu tư đứng ở giữa làm trung gian
nghiên cứu, tư vấn cho cả bên phát hành và bên đầu tư.
65
2.1.2.3. Quy trình mua bán trái phiếu doanh nghiệp trên thị trường thứ cấp
Nghị định số 153 có quy định về việc tổ chức thị trường giao dịch thứ cấp đối
với TPDN phát hành riêng lẻ.
Để việc mua bán trao đổi Trái phiếu doanh nghiệp trên thị trường thứ cấp được
thuận lợi, các đơn vị đầu tư (thông thường là các ngân hàng đầu tư, ngân hàng thương
mại...) thường xây dựng một quy trình mua bán chặt chẽ nhằm mục tiêu: Thống nhất
về việc vận hành quy trình nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc kiểm soát các giao
dịch một cách chính xác, nhanh chóng hiệu quả và đảm bảo thực hiện đúng các quy
định về trình tự, thủ tục trong nghiệp vụ mua bán trái phiếu; xác định rõ trách nhiệm
của các cá nhân, bộ phận tham gia vào quy trình nghiệp vụ nhằm đảm bảo an toàn và
hiệu quả trong việc quản lý và điều hành hoạt động; Đảm bảo tính tuân thủ các quy
định và chính sách hiện hành của Nhà nước, Ủy ban Chứng khoán và các đơn vị bảo
lãnh phát hành, đơn vị kinh doanh chứng khoán…
Mỗi một nhà đầu tư, công ty kinh doanh chứng khoán có một quy trình riêng
nhưng về cơ bản đều có các bước cơ bản sau:
Thứ nhất, trao đổi, tìm hiểu thị trường: bao gồm tìm hiểu nhu cầu mua/bán trái
phiếu doanh nghiệp trên thị trường; Cán bộ nghiệp vụ thực hiện liên hệ với các đối
tác giao dịch trên thị trường bằng các phương tiện giao dịch để tìm hiểu nhu cầu
bán/mua loại Trái phiếu trong chủ trương đầu tư của Công ty: Sàng lọc, xếp hạng lựa
chọn các nhu cầu mua/bán trên thị trường...
Thứ hai, trình mua/bán Trái phiếu: Sau khi xác định được nguồn Trái phiếu phù
hợp với chủ trương của Công ty, cán bộ nhân viên đó tiến hành lập tờ trình đầu tư
trình Trưởng Phòng và Lãnh đạo phê duyệt tối đa trong vòng 03 ngày làm việc hoặc
trình bán tối đa trong vòng 01 ngày làm việc (tùy quy định riêng của từng tổ chức) ...
Thứ ba, thực hiện giao dịch: Căn cứ trên nội dung tờ trình đã được phê duyệt;
xác nhận giao dịch với tổ chức phát hành/đối tác giao dịch; Thực hiện trao đổi với Bộ
phận Quản lý vốn về nguồn vốn thực hiện giao dịch: số tiền thực hiện giao dịch, lãi
suất vay, ngày thực hiện được giao dịch. Xác nhận giao dịch với các đối tác mua/bán:
Căn cứ vào trao đổi với bộ phận quản lý nguồn về nguồn vốn thực hiện giao dịch,
66
Cán bộ nhân viên trao đổi với khách hàng về ngày thực hiện giao dịch. Cán bộ nhân
viên thực hiện xác nhận giao dịch mua, bán Trái phiếu với các đối tác qua thư điện
tử (email) các thông tin cơ bản: mã trái phiếu, giá thực hiện, khối lượng, ngày giao
dịch và ngày giá trị của các giao dịch mua bán; Ký kết hợp đồng
Thứ tư, luân chuyển và lưu trữ chứng từ: Tờ trình chủ trương mua bán được phê
duyệt (bản gốc); Hợp đồng mua bán trái phiếu bản photo; Phiếu lệnh (bản photo) nếu
là giao dịch Trái phiếu niêm yết sàn HOSE; Hồ sơ chuyển nhượng nếu là trái phiếu
chưa niêm yết: Giấy đề nghị chuyển nhượng (bản photo); Tờ trình xuất kho trái phiếu
(bản photo) - nếu có; Tờ trình chuyển tiền mua trái phiếu /thanh toán phí chuyển
nhượng (bản photo) - nếu có. Vào sổ theo dõi giao dịch giao dịch trái phiếu doanh
nghiệp; Theo dõi danh mục trái phiếu doanh nghiệp.
2.2. Tình hình phát triển thị trường trái phiếu doanh nghiệp tại Việt Nam
2.2.1. Quy mô thị trường trái phiếu doanh nghiệp
Tại Việt Nam quy mô thị trường TPDN đã trở nên khá lớn, tương đương 15,1%
GDP và 10,3% dư nợ tín dụng toàn hệ thống tại cuối năm 2020. Điều này cho thấy
kênh huy động vốn qua trái phiếu, một trong các cấu phần của thị trường vốn cùng
với kênh tín dụng và kênh cổ phiếu đã đóng vai trò quan trọng trong việc khai thông
nguồn vốn cho sự phát triển của doanh nghiệp Việt Nam.
Hình 2.1 Dư nợ thị trường TPDN tại Việt Nam (nghìn tỷ VND)
Nguồn: Báo cáo triển vọng thị trường TPDN Việt Nam (Fiin Ratings)
67
Với bối cảnh tăng trưởng tín dụng chỉ ở mức bình quân 13,7% trong 5 năm qua
(2016 – 2020), kênh huy động qua TPDN đã góp phần làm cho hệ thống ngân hàng
phát triển tốt và lành mạnh hơn bất chấp những khó khăn của Covid-19, cũng như
giúp giải quyết vấn đề về sử dụng nguồn vốn ngắn hạn cho vay trung và dài hạn đã
tồn tại của hệ thống ngân hàng Việt Nam trong nhiều năm qua. Thực tế, cơ cấu cho
vay trung và dài hạn trong tổng dư nợ tín dụng của hệ thống ngân hàng đã giảm đáng
kể, từ mức 50,3% tổng dư nợ trong năm 2015 về mức 48,1% vào cuối năm 2020.
So sánh với một số thị trường trong khu vực Đông Nam Á, quy mô thị trường
TPDN của Việt Nam tính theo tỷ trọng GDP tại cuối 2020 đã vượt qua Phillipines
(8,9%) và Indonesia (2,8%), nhưng vẫn thấp hơn nhiều so với Thái Lan (22,7%) hay
Malaysia (54,3%) theo số liệu báo cáo của Asian Bonds Online thuộc ADB.
Trên thực tế, mặc dù quy mô thị trường TPDN Việt Nam đã khá lớn trong tương
quan với GDP, thị trường TPDN Việt Nam vẫn đang ở giai đoạn mới phát triển khi
thị trường sơ cấp chuyên biệt chưa hình thành, các nhà phát hành và trái phiếu của họ
chưa được xếp hạng độc lập. Bên cạnh đó, hình thức phát hành vẫn là phát hành riêng
lẻ và người mua trái phiếu lớn nhất vẫn là các ngân hàng và còn thiếu vắng các quỹ
hưu trí, quỹ trái phiếu còn ở quy mô khiêm tốn và sự tham gia hạn chế của các định
chế tài chính đầu tư khác.
2.2.2. Thanh khoản và giao dịch trên thị trường thứ cấp
Thị trường thứ cấp TPDN chuyên biệt vẫn trong quá trình hình thành. Hiện nay,
các giao dịch TPDN thứ cấp tại Việt Nam được thực hiện thông qua 3 hình thức
chính: (i) niêm yết trên HSX; (ii) nền tảng giao dịch của các đơn vị phân phối; và (iii)
thỏa thuận trực tiếp giữa các nhà đầu tư trên thị trường OTC.
Giá trị TPDN niêm yết trên HSX đã tăng từ 14,2 nghìn tỷ VND năm 2017 lên
gần 26,4 nghìn tỷ VND vào cuối năm 2020, đạt tốc độ tăng trưởng trung bình 27%
mỗi năm. Tuy nhiên, quy mô này vẫn còn nhỏ, ước tính chỉ đạt khoảng 2,7% so với
tổng dư nợ TPDN theo mệnh giá của cả thị trường.
Tổng hợp thông tin 21 TPDN niêm yết trên HSX, thanh khoản của thị trường
này vẫn ở mức khiêm tốn với giá trị bình quân ở mức 131,3 tỷ VND/ngày trong năm
68
2020, giảm 22,9% so với năm trước. Tỷ lệ luân chuyển của thị trường TPDN (được
đo lường thông qua giá trị giao dịch trên thị trường thứ cấp so sánh với tổng dư nợ)
của Việt Nam chỉ ở mức 0,08 lần và vẫn đang ở mức rất nhỏ so với các quốc gia trong
khu vực.
Bảng 2.3 Tỷ lệ luân chuyển của thị trường TPDN niêm yết
Quốc gia Tỷ lệ luân chuyển của thị trường TPDN niêm yết
Indonesia 0,87
Hàn Quốc 0,62
Trung Quốc 0,32
Thái Lan 0,28
Malaysia 0,21
Việt Nam 0,08
Nguồn: AsianBondsOnline (ADB – 2020)
Các giao dịch thứ cấp hiện tại chủ yếu được thực hiện trên thị trường OTC qua
các nền tảng giao dịch riêng của các đơn vị phân phối, hoặc qua thỏa thuận trực tiếp.
Tuy nhiên, các nền tảng này mới chỉ bao gồm các TPDN mà đơn vị phân phối tư vấn
chứ chưa được giao dịch tập trung. Việc phát triển được một hệ thống giao dịch
chuyên biệt sẽ giúp thị trường TPDN thứ cấp giàu tiềm năng tại Việt Nam phát triển
mạnh mẽ. Tại thời điểm hiện tại, Sở giao dịch chứng khoán Hà Nội (HNX) đang bước
đầu tiến hành nghiên cứu thị trường giao dịch thứ cấp TPDN.
2.2.3. Cơ cấu kỳ hạn của thị trường trái phiếu
Kỳ hạn bình quân của TPDN năm 2020 hiện ở mức 4,3 năm. Trong đó, kỳ hạn
trái phiếu dài nhất thuộc về lĩnh vực Năng lượng với mức trung bình 8 năm, thể hiện
tính chất dài hạn của các dự án sản xuất điện.
69
Hình 2.2 Kỳ hạn bình quân (năm) của TPDN trong năm 2020
Nguồn: Tổng hợp báo cáo HNX, HSX, và Fiin Ratings
Các trái phiếu của doanh nghiệp Bất động sản có xu hướng kéo dài kỳ hạn hơn,
với mức trung bình khoảng 3,8 năm, dài hơn 1 năm so với năm 2019. Điều này cũng
thể hiện nhu cầu vốn dài hạn của doanh nghiệp BĐS, cũng như những ảnh hưởng bởi
triển vọng của ngành và những tác động của yếu tố dịch bệnh tới việc phải cơ cấu kỳ
hạn dài hơn của các nhà phát hành TPDN trong ngành BĐS.
Mức lãi suất bình quân danh nghĩa được chào bán bởi các nhà phát hành trong
năm 2020 ở mức 9,9%, tăng trung bình 90 điểm cơ bản so với năm 2019. Ngành Ngân
hàng vẫn duy trì được mức lãi suất thấp nhất trong các ngành ở mức bình quân 6,7%
trong năm 2020 với kỳ hạn bình quân 4,5 năm. Xét riêng ngành BĐS – ngành có giá
trị phát hành lớn nhất trong năm - có lãi suất trái phiếu bình quân đã tăng gần 210
điểm cơ bản lên mức bình quân 10,5% và với kỳ hạn trái phiếu được kéo dài lên mức
3,8 năm trong năm 2020.
2.2.4. Cơ sở Tổ chức phát hành và Nhà đầu tư
Thị trường trái phiếu doanh nghiệp đang tài trợ vốn trong các ngành ngân hàng,
tài chính, và bất động sản là nhiều nhất (tổng của các ngành này chiếm hơn 60% tổng
giá trị trái phiếu doanh nghiệp đã phát hành năm 2020). Điều này phản ánh dòng vốn
bổ sung vào thị trường qua kênh huy động trái phiếu doanh nghiệp phần lớn đầu tư
các ngành nghề ngân hàng và bất động sản. Việc kinh doanh, đầu tư bất động sản thu
70
hút lượng vốn lớn là bởi khả năng sinh lời quá lớn của nó trong giai đoạn này. Tuy
nhiên hệ lụy khi phát triển kinh tế dựa vào bất động sản cũng cũng đưa tới nguy cơ
gặp rủi ro do chưa đẩy mạnh đầu tư sản xuất, được coi là nền móng cho phát triển
bền vững trong dài hạn.
Bảng 2.4 Cơ cấu phát hành theo loại hình doanh nghiệp năm 2020 HNX
Loại hình doanh nghiệp Giá trị phát hành Tỷ trọng
(tỷ đồng)
1 - Tổ chức tín dụng 104.400 34,5%
2 - Chứng khoán 5.107 1,7%
3 - Bất động sản 80.258 26,5%
4 - Dịch vụ 29.793 9,9%
5 - Xây dựng 13.178 4,4%
6 - Khác 34.280 11,3%
7 - Sản xuất 8.983 3,0%
26.465 8,7% 8 - Tổ chức tín dụng phi ngân hàng
Tổng 302.465 100%
Nguồn: Tổng hợp bản tin phát hành TPDN (HNX, 2020)
NĐT cá nhân dù đang tăng lên tuy nhiên các Ngân hàng vẫn là nhà đầu tư Trái
phiếu doanh nghiệp chính. Sau khi thực hiện đối chiếu giữa giá trị lưu hành TPDN
và giá trị danh mục sở hữu TPDN của các ngân hàng và công ty chứng khoán thông
qua ước tính từ BCTC của 29 ngân hàng (chiếm 86% dư nợ toàn hệ thống) và 24
công ty chứng khoán (chiếm 80% tổng tài sản của ngành Chứng khoán). Một thực tế
là mặc dù tín dụng ngân hàng có xu hướng giảm cho các nhóm khách hàng là đơn vị
phát hành trái phiếu nhưng các ngân hàng lại là đơn vị chính hiện đang sở hữu các
trái phiếu này. Tính đến cuối 2020, các ngân hàng đang sở hữu 71,5% tổng giá trị
TPDN đang lưu hành. Các ngân hàng có dư nợ TPDN của các tổ chức tín dụng là các
ngân hàng thương mại cổ phần nhà nước, trong đó nổi bật là Vietcombank và
Vietinbank. Trong khi đó, nhóm ngân hàng tư nhân chủ yếu nắm giữ TPDN của doanh
71
nghiệp phi tài chính Techcombank, VPBank và Sacombank.
Hình 2.3 Thống kê nhà đầu tư TPDN
Nguồn: Tổng hợp từ BCTC Ngân hàng và CTCK niêm yết
Việc công bố thông tin về nhà đầu tư chỉ được thực hiện đến tháng 7/2020 do
HNX không có yêu cầu bắt buộc kể từ ngày 28/7/2020 theo Quyết định 384/QĐ-
SGDHN. Mặc dù không có số liệu cập nhật cho cả năm do những thay đổi về quy
định công bố thông tin, sự tham gia của nhà đầu tư cá nhân vào thị trường TPDN
cũng tăng lên đáng kể trong năm 2020 trong bối cảnh lãi suất tiền gửi ở mức thấp.
Tính đến cuối tháng 7 năm 2020, các nhà đầu tư cá nhân chiếm 13% giá trị trên thị
trường sơ cấp, tăng tỷ trọng gần gấp đôi so với năm 2019.
Điểm cần lưu ý là số liệu này được kê khai trên thị trường sơ cấp và do đó trên
thực tế, mức độ tham gia của nhà đầu tư cá nhân có thể cao hơn nhiều do các TPDN
có thể được phát hành theo các đợt riêng lẻ trước khi phân phối lại trên thị trường thứ
cấp bởi ngân hàng và công ty chứng khoán.
Với mặt bằng lãi suất tiền gửi duy trì ở mức thấp, các nhà đầu tư cá nhân vẫn sẽ
tham gia tích cực trên thị trường TPDN. Tuy nhiên, các thay đổi về khung pháp lý (ví
dụ: Nghị định 153/2020 quy định chỉ nhà đầu tư chuyên nghiệp mới được tham gia
mua trái phiếu) sẽ hạn chế sự tham gia của nhà đầu tư cá nhân vào các trái phiếu phát
hành riêng lẻ, thay vào đó họ sẽ tích cực hơn ở các trái phiếu phát hành ra công chúng.
72
Hình 2.4 Thống kê nhà đầu tư TPDN thông qua thông tin công bố
Nguồn: Tổng hợp công bố kết quả phát hành trái phiếu (website HNX)
2.2.5. Cơ sở hạ tầng phục vụ thị trường
Như đã đề cập qua, các giao dịch trái phiếu doanh nghiệp trên thị trường thực
hiện thông qua 3 hình thức chính: (i) niêm yết trên HSX; (ii) nền tảng giao dịch của
các đơn vị phân phối; và (iii) thỏa thuận trực tiếp giữa các nhà đầu tư trên thị trường
OTC.
Do tỷ trọng của các đợt phát hành riêng lẻ, giao dịch thỏa thuận trực tiếp giữa
các nhà đầu tư đang chiếm phần lớn thị trường, vì thế đây cũng chính là lý do dẫn
đến hạ tầng phục vụ giao dịch trái phiếu doanh nghiệp của Cơ quan quản lý Nhà nước
chưa được chú trọng. Các thành phần của thị trường bao gồm các tổ chức phân phối,
đầu tư trái phiếu thường sẽ tự xây dựng hệ thống giao dịch riêng để tự đảm bảo nhu
cầu phát triển.
2.3. Đánh giá thực trạng phát triển thị trường trái phiếu doanh nghiệp Việt
Nam
2.3.1. Những kết quả đạt được
Khuôn khổ pháp lý về trái phiếu đã và đang được hoàn thiện
Bên cạnh Luật doanh nghiệp, Luật chứng khoán, Chính phủ đã có Nghị định số
153/2020/ NĐ-CP và Nghị định 155/2020/ NĐ-CP sẽ có hiệu lực vào tháng 1/1/2021
73
được ban hành tạo nhiều cơ hội cho các doanh nghiệp tham gia thị trường trái phiếu.
Thông qua Nghị định 153/2020/ NĐ-CP, các doanh nghiệp được phát hành trái phiếu
riêng lẻ ra thị trường; Ngày 26/9/2014, Chính phủ ban hành Nghị định số
88/2014/NĐ-CP quy định về dịch vụ xếp hạng tín nhiệm, Nghị định này có hiệu lực
thi hành nhằm tạo khuôn khổ pháp lý cho việc hình thành và hoạt động của công ty
xếp hạng tín nhiệm tại Việt Nam. Ngày 17/4/2015, Thủ tướng Chính phủ ký ban hành
Quyết định số 507/QĐ-TTg phê duyệt quy hoạch phát triển dịch vụ xếp hạng tín
nhiệm đến năm 2020 và tầm nhìn đến 2030. Việc điều chỉnh các nghị định được hoàn
tất trong quãng thời gian qua đã tạo hành lang pháp lý cho các doanh nghiệp phát
hành TPDN trong thời gian qua.
Từng bước phát triển thị trường trái phiếu doanh nghiệp Việt Nam
Thứ nhất, phát hành trái phiếu đã trở thành một kênh huy động vốn lâu dài, ổn
định cho doanh nghiệp
Mặc dù thị trường trái phiếu vẫn thiếu bóng dáng các doanh nghiệp vừa và nhỏ,
nhưng với sự gia tăng lượng trái phiếu của những công ty, tập đoàn kinh tế lớn có thể
được xem là thành tích trong thời gian qua. Những đợt phát hành hàng nghìn tỷ đồng
từ các doanh nghiệp đã cho thấy thị trường trái phiếu đang dần thu hút được sự quan
tâm của các chủ thể trong nền kinh tế. Đặc biệt trong giai đoạn nền kinh tế gặp khó
khăn như hiện nay, nguồn vốn từ trái phiếu được đánh giá là ổn định, an toàn đối với
doanh nghiệp phát hành.
Thứ hai, TPDN là lựa chọn mới cho nhà đầu tư nhằm bảo toàn vốn và tạo khả
năng sinh lời
Trong giai đoạn nền kinh tế thế giới và trong nước đang gặp nhiều khó khăn, thị
trường cổ phiếu có nhiều biến động mạnh thì TPDN đã thu hút được sự quan tâm của
nhiều nhà đầu tư nhờ tính tương đối ổn định từ lợi tức trái phiếu. Những đợt phát
hành thành công của các doanh nghiệp lớn đã cho thấy nhà đầu tư đang đầu tư ngày
càng nhiều hơn cho TPDN. Sự xuất hiện của các đợt phát hành lớn cũng làm sôi động
thị trường trái phiếu doanh nghiệp hơn.
Tính trong 9 tháng năm 2020 có 23,5 nghìn tỷ TPDN được phát hành ra công
74
chúng gồm: 10 nghìn tỷ đồng của CTCP Tập đoàn Masan phát hành vào tháng 3, 5
và 6/2020; 9,46 nghìn tỷ đồng của Vietinbank vào tháng 7 và 9/2020; 2 nghìn tỷ của
Vincom Retail vào tháng 8; và 2 nghìn tỷ của Công ty TNHH Khai thác và chế biến
Khoáng sản Núi Pháo vào tháng 7/2020. Trái phiếu phát hành riêng lẻ chiếm tới 94%
tổng TPDN phát hành trong 9 tháng. Đối với các doanh nghiệp bất động sản, luôn là
các tổ chức phát hành nhiều nhất, một số công ty đã có dư nợ trái phiếu hơn 10.000
tỷ đồng (Công ty Vinhomes 12.000 tỷ đồng, Saigon Glory 10.000 tỷ đồng).
Thứ ba, thị trường chứng khoán ngày càng hoàn thiện tạo điều kiện thị trường
TPDN phát triển
Về cơ bản, Việt Nam đã tạo lập được một thị trường chứng khoán thông qua
việc thành lập HNX và HOSE. Trung tâm Lưu ký chứng khoán đi vào hoạt động ngày
01/05/2006 với nhiệm vụ tiếp nhận đăng ký, lưu ký và thanh toán bù trừ từ Trung tâm
Giao dịch chứng khoán đã hoàn thiện cấu trúc hạ tầng của thị trường chứng khoán
nói chung và thị trường trái phiếu nói riêng. Tính đến 2019, Trung tâm lưu ký chứng
khoán đã nhận lưu ký cho số mã trái phiếu là 523 mã, bao gồm 492 mã trái phiếu
chính phủ/trái phiếu được chính phủ bảo lãnh/trái phiếu chính quyền địa phương, 4
mã trái phiếu ngoại tệ, 27 mã trái phiếu doanh nghiệp. Hoạt động của Trung tâm lưu
ký giúp đảm bảo tính đồng bộ, an toàn, tiết kiệm trong vận hành hệ thống thanh toán
bù trừ, quản lý và lưu ký chứng khoán.
Trong năm 2014, các tổ chức kinh doanh chứng khoán tiếp tục được tái cơ cấu,
hợp nhất, sát nhập để tăng năng lực hoạt động, tăng quy mô vốn, quản trị doanh
nghiệp và khả năng kiểm soát rủi ro. Hoạt động tái cấu trúc các tổ chức kinh doanh
chứng khoán được thực hiện theo lộ trình, không làm xáo trộn thị trường và tuân thủ
quy định của pháp luật. Thông qua tái cấu trúc đã giảm số lượng và nâng cao chất
lượng hoạt động của công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ, số lượng công ty
chứng khoán giảm từ 105 xuống 85 công ty, số lượng công ty quản lý quỹ giảm từ 49
xuống 43 công ty; thay thế các quỹ đầu tư hoạt động theo dạng quỹ đóng, quỹ thành
viên bằng các quỹ mở hoạt động linh hoạt hơn và có cơ chế bảo vệ nhà đầu tư tốt
hơn.
75
Các công ty này không ngừng nâng cao năng lực chuyên môn, năng lực tài chính
và khả năng cạnh tranh để tìm được chỗ đứng trên thị trường. Các dịch vụ chăm sóc
khách hàng không ngừng gia tăng về số lượng và chất lượng (giảm phí giao dịch, đặt
lệnh trực tuyến, tư vấn qua điện thoại, giao lưu với các chuyên gia…) đã giúp nhà
đầu tư tiếp cận dễ dàng hơn với thị trường TPDN. Bên cạnh đó, hệ thống các quỹ đầu
tư, quỹ bảo hiểm, ngân hàng thương mại cũng đóng vai trò tích cực trong phát triển
thị trường trái phiếu Việt Nam thời gian qua.
2.3.2. Những hạn chế của thị trường trái phiếu doanh nghiệp
Cơ sở hạ tầng chưa đáp ứng được nhu cầu giao dịch của nhà đầu tư
Số lượng TPDN được niêm yết hiện nay rất hạn chế, nghĩa là các giao dịch trái
phiếu chủ yếu diễn ra trên thị trường OTC (tại Việt Nam chính xác hơn là thị trường
tự do hay thị trường “chợ đen”). Các giao dịch này thường khó kiểm soát bởi các lý
do sau đây:
Thứ nhất, Nhà nước chưa có cơ chế đầy đủ đối với các giao dịch OTC, chủ yếu
là thực hiện dựa vào những quy định do tổ chức phát hành đưa ra.
Thứ hai, giao dịch trái phiếu thường có giá trị lớn nên chủ yếu được thực hiện
thông qua phương thức thỏa thuận. Các giao dịch OTC được diễn ra dưới nhiều hình
thức như: nhà đầu tư rao mua - bán trên các diễn đàn chứng khoán, gặp gỡ trực tiếp
để thỏa thuận, giao dịch thông qua trung gian môi giới (cá nhân hoặc công ty chứng
khoán)…
Trong khi đó, thị trường OTC theo đúng nghĩa ở Việt Nam mới chỉ lên kế hoạch
phát triển của Sở Giao dịch Chứng khoán Hà Nội và dự kiến trong năm 2021 thị
trường thứ cấp giao dịch trái phiếu riêng lẻ dành cho nhà đầu tư chứng khoán chuyên
nghiệp sẽ ra đời. Như vậy trong giai đoạn hiện tại, nhà đầu tư sẽ gặp nhiều khó khăn
khi phát sinh nhu cầu mua - bán thực sự đối với các loại trái phiếu chưa niêm yết trên
thị trường tập trung.
Hạ tầng công nghệ hiện hành đối với thị trường cũng là yếu tố quan trọng đối
với phương án phát triển thị trường sau này. Theo thông lệ quốc tế, để phát triển thị
trường một cách hoàn chỉnh cần một số các điều kiện nhất định. Đối với thị trường
76
Việt Nam, thị trường TPDN có một ưu điểm là có thể kế thừa một phần kinh nghiệm
và hạ tầng của thị trường TPCP đã phát triển tương đối hoàn chỉnh. Bảng sau đây
tổng hợp thông tin về các hệ thống CNTT liên quan đến TPDN có so sánh với các hệ
thống CNTT thường thấy trên thị trường khu vực:
Bảng 2.5 Các hệ thống CNTT liên quan đến TPDN
TT Các hệ thống theo Thực trạng Việt Nam
thông lệ Trái phiếu doanh nghiệp Trái phiếu chính phủ
1 Hệ thống đăng ký phát Chưa có TPCP không cần thủ
tục đăng ký phát hành hành/ cấp phép phát
hành (UBCK, Ủy ban
giám quản tài chính)
2 Hệ thống đấu thầu tiêu Chưa có Hệ thống đấu thầu tiêu
chuẩn của HNX chuẩn hoặc hệ thống hỗ
trợ khảo sát phát hành
Bond building (Sở, Hiệp
hội)
3 Hệ thống cấp mã ISIN Chưa có Công cụ khai thác nội
trực tuyến (Sở hoặc bộ của VSD
Trung tâm lưu ký)
4 Hệ thống niêm yết thông Chưa có Hệ thống Infobond của
tin trái phiếu (Sở) HNX (đang xây dựng chuyên
trang thông tin trái phiếu,
sẽ tạo cơ sở cho hệ thống
niêm yết thông tin)
5 Hệ thống thỏa thuận Các hệ thống như Reuter, Các hệ thống như
giao dịch OTC (theo mô Bloombeg có thể được sử Reuter, Bloombeg có
hình Interdealer là chủ dụng như công cụ thay thể được sử dụng. Hệ
thế. Tuy nhiên ít phát huy thống của HNX có hỗ
77
đạo) hiệu quả với TPDN trợ các chức năng của
OTC
6 Hệ thống giao dịch tại TPDN được giao dịch Hệ thống giao dịch
Sở (theo mô hình Multi- trên hệ thống cổ phiếu TPCP chuyên biệt tại
dealer là chủ đạo) HNX
7 Hệ thống thanh toán Đối với TP niêm yết: Có đầy đủ theo DVP 1. Chưa
thanh toán tiền qua NHNN; Gateway tích hợp
chuẩn thanh toán ISO 15022, mới đang thử nghiệm
(thấp hơn khuyến nghị của ABMF là ISO 20022)
Đối với TP chưa niêm yết: Thanh toán trực tiếp tại
TCPH hoặc đại lý chuyển nhượng.
8 Hệ thống thông tin định Không có đường cong lợi Đường cong lợi suất
giá trái phiếu suất hay chỉ số TPDN; TPCP;
Không có bảng định giá Chỉ số trái phiếu;
TPDN được ghi nhận Có bảng định giá toàn
bộ TPCP trên đường
cong lợi suất TPCP
Tại HNX
8 Hệ thống thông tin cấp Thông tin về phát hành Hiện tại TPCP đấu
quốc gia về TPDN TPDN hiện được thống thầu, niêm yết, giao
kê bán thủ công tại Vụ dịch tại HNX.
Quản lý phát hành
UBCKNN và Vụ Tài
chính Ngân hàng - BTC
Nguồn: Tài liệu hướng dẫn thủ tục Hạ tầng CNTT (HNX)
Tính thanh khoản của thị trường trái phiếu doanh nghiệp còn thấp
Tính thanh khoản của TPDN thể hiện sự dễ dàng chuyển đổi từ nhà đầu tư này
78
sang nhà đầu tư khác, điều này đòi hỏi nhiều nhà đầu tư tham gia vào thị trường
TPDN. Trong khi đó thì TPDN còn chưa thực sự hấp dẫn do:
Thứ nhất, trái phiếu có lãi suất cố định, giá ít biến động nên các nhà đầu tư cá
nhân không thấy hấp dẫn khi nắm giữ trái phiếu, mà họ sẽ đầu tư vào các loại chứng
khoán khác, do vậy, việc mua đi bán lại các trái phiếu sẽ không được như mong đợi.
Hoặc là các nhà đầu tư sẽ đầu tư vào các trái phiếu có lãi suất cao hẳn và nắm giữ đến
khi đáo hạn.
Thứ hai, các nhà đầu tư tổ chức là các tổ chức như ngân hàng, các công ty bảo
hiểm hay các doanh nghiệp lớn. Họ nắm giữ trái phiếu nhằm mục đích quản lý danh
mục chứ không phải nhằm mục đích lợi nhuận. Chính vì thế, các giao dịch thứ cấp
TPDN rất ít, mà chủ yếu là trái phiếu Chính phủ. Tại một số ngân hàng hiện nay tỷ
trọng đầu tư vào TPDN thậm chí chiếm trên 90% cơ cấu chứng khoán đầu tư. Ngân
hàng mua TPDN vì lãi suất trái phiếu hấp dẫn, biên độ biến động lớn. Nhưng thực tế,
đây cũng là hình thức cho vay vốn, thậm chí là một cách để tránh giới hạn tín dụng.
Do đó, nhất là đối với các TPDN chưa niêm yết chính thức trên sàn thì các nhà
đầu tư nắm giữ cho đến ngày đáo hạn như là khoản cho vay đối với doanh nghiệp nên
tính thanh khoản của TPDN rất thấp. Do vậy để tăng thanh khoản cho TPDN cũng
cần phải hình thành các cơ cấu trung gian như lập các quỹ đầu tư trái phiếu dạng mở,
tạo các sản phẩm phái sinh trên trái phiếu.
Thứ ba, cấu trúc sản phẩm TPDN hạn chế về kỳ hạn và các loại lãi suất, trái
phiếu chuyển đổi thu hút nhà đầu tư nhưng thông tin cũng chưa được minh bạch nên
gây thiệt hại cho nhà đầu tư cụ thể như trường hợp trái phiếu chuyển đổi của
Vietcombank không có giá chuyển đổi, tỷ lệ chuyển đổi và thời hạn chuyển đổi hay
trái phiếu chuyển đổi của SSI đã không có điều khoản chống phát hành thêm cổ phiếu
làm loãng giá trị trái phiếu chuyển đổi v.v…
Thời gian đáo hạn của trái phiếu doanh nghiệp chủ yếu là ngắn hạn đến
trung hạn
Mục đích của doanh nghiệp khi phát hành trái phiếu là huy động được nguồn
vốn trung và dài hạn để phục vụ cho những dự án kinh doanh lâu dài (từ 5 đến 20
79
năm). Tuy nhiên thực tế ở Việt Nam, các doanh nghiệp thường phát hành trái phiếu
có thời hạn ngắn, phổ biến là từ 3 đến 5 năm. Nguyên do là các tổ chức phát hành đa
phần sử dụng tiền đầu tư thực hiện các dự án bất động sản.
Thời hạn của TPDN đa phần là ngắn hạn có nguyên nhân xuất phát từ cả hai
phía nhà đầu tư và doanh nghiệp phát hành.
Đối với nhà đầu tư, họ thường có tâm lý đầu tư ngắn hạn, khi cần có thể
dễ dàng rút vốn và do đó trái phiếu ngắn hạn được ưu tiên lựa chọn.
Đối với doanh nghiệp, do trái phiếu ngắn hạn được nhà đầu tư xem là độ
rủi ro thấp hơn nên dễ dàng phát hành hơn, điều này đồng nghĩa với chi phí sử dụng
vốn cũng thấp hơn so với phát hành trái phiếu dài hạn.
Bảng 2.6 Cơ cấu kỳ hạn của TPDN phát hành năm 2020 trên HNX
Kỳ hạn Giá trị phát hành Tỷ trọng
Dưới 3 năm 182.521 60,34%
Từ 3 đến 5 năm 58.168 19,23%
Từ 5 đến 10 năm 53.269 17,61%
Trên 10 năm 8.507 2,81%
Tổng 302.465 100,00%
Nguồn: Tổng hợp các bản tin phát hành TPDN trong năm 2020 (HNX)
Tuy nhiên, doanh nghiệp phát hành trái phiếu là để huy động vốn cho dự án dài
hạn. Nghĩa là khi phát hành trái phiếu ngắn và trung hạn nhưng lại sử dụng vốn thu
được cho dự án dài hạn, doanh nghiệp phải đối mặt với rủi ro tài chính trong tương
lai nếu quản lý không tốt dòng tiền, phải thanh toán nợ gốc khi dự án chưa sinh lời
làm hiệu quả sử dụng vốn thấp. Hạn chế này đã làm cho doanh nghiệp chưa thực sự
coi trọng công cụ trái phiếu để huy động vốn.
Đến đây chúng ta thấy xuất hiện vai trò của tổ chức định mức tín nhiệm và nhà
tạo lập thị trường. Những chủ thể này có thể giúp doanh nghiệp phát hành được trái
phiếu dài hạn, tạo ra nguồn vốn lâu dài và ổn định để phục vụ cho những kế hoạch
lớn. Trong trường hợp xảy ra biến cố bất lợi trong kinh doanh thì nhờ thời hạn dài,
80
doanh nghiệp sẽ có đủ thời gian để sửa chữa sai lầm, khắc phục hậu quả nhằm đảm
bảo nguồn thanh toán cho trái phiếu đáo hạn (đồng nghĩa với lợi ích của nhà đầu tư
được đảm bảo trong dài hạn). Ngược lại, với trái phiếu ngắn hạn, doanh nghiệp có
thể không kịp trở tay để khắc phục hậu quả, nguy cơ đối mặt với vỡ nợ là rất lớn.
2.3.3. Nguyên nhân của các hạn chế
Cơ sở pháp lý còn chưa đồng bộ và hoàn thiện
Trong thời gian qua Nhà nước đã nỗ lực hoàn thiện môi trường pháp lý nhằm
thúc đẩy sự phát triển của thị trường TPDN, nhưng bên cạnh đó còn một số hạn chế
đó là: chưa phát huy hết được tính hiệu lực và hiệu quả còn thấp, không ít trường hợp
mâu thuẫn và chưa phù hợp với thực tế và khó hướng dẫn thực hiện. Các Nghị định
số 90/2011/NĐ-CP, sau đó là nghị định số 163/2018/NĐ-CP, Nghị định 81/2020/NĐ-
CP sửa đổi ban hành trong năm 2018, 2020 quy định tương đối chặt chẽ đối với việc
phát hành trái phiếu riêng lẻ so với phát hành ra công chúng nên doanh nghiệp cũng
gặp không ít khó khăn khi huy động vốn. Trong khi doanh nghiệp gặp khó khăn trong
tìm kiếm vốn qua hệ thống tín dụng do lãi suất tăng cao, thì tình trạng tương tự khi
tìm vốn qua thị trường chứng khoán.
Nghị định 81 đã điều chỉnh các điều kiện phát hành TPDN theo hướng chặt chẽ
hơn. Việc phát hành TPDN sẽ phải thực hiện tốt yêu cầu về minh bạch thông tin.
Doanh nghiệp sẽ phải cân nhắc kỹ lưỡng kế hoạch phát hành về cả về quy mô và thời
gian. Chi phí phát hành cũng có thể gia tăng do đòi hỏi từ thuê tư vấn phát hành…
Đối với nhà đầu tư cá nhân, hiện cả Luật chứng khoán năm 2019 và Luật doanh
nghiệp năm 2020 (cả hai luật này đều hiệu lực từ 1/1/2021) đều không cho phép đối
tượng này tham gia mua, chuyển nhượng TPDN phát hành riêng lẻ. Theo đó, có khá
nhiều thay đổi trong một thời gian ngắn, đòi hỏi cơ quan quản lý cần có phương án
phù hợp, tránh gây tâm lý xáo trộn trên thị trường. Đây chỉ mới là giải pháp tạm thời
trong bối cảnh thị trường tăng trưởng nóng. Hầu hết các nhà đầu tư nhỏ lẻ tại Việt
Nam chưa có các kiến thức cơ bản về tài chính doanh nghiệp, thị trường chứng
khoán… mà thường chỉ tham gia thị trường trên cơ sở được chào mua với lãi suất hấp
dẫn. Vì vậy cũng có khả năng dẫn đến hệ lụy không đáng có cho các nhà đầu tư, việc
81
quy định nhà đầu tư phải là chuyên nghiệp là giải pháp hiệu quả để ngăn chặn tình
trạng này.
Đáng chú ý, kể từ khi Nghị định 81 có hiệu lực từ 1/9/2020, tổng khối lượng
phát hành trái phiếu doanh nghiệp trên thị trường đã giảm mạnh. Trên quan điểm
doanh nghiệp, với các quy định siết chặt phát hành trái phiếu doanh nghiệp trong
Nghị định 81 sẽ ngăn cản sự phát triển của thị trường trái phiếu doanh nghiệp cũng
như ảnh hưởng đáng kể đến việc huy động vốn của doanh nghiệp trong bối cảnh tiếp
cận vốn từ ngân hàng vẫn còn nhiều thủ tục khó khăn. Trái lại về mặt tích cực, những
rủi ro mà cơ quan quản lý nhà nước lo ngại sẽ được kiểm chế, cơ quan soạn thảo đã
cân nhắc giữa rủi ro và tính ổn định của thị trường.
Sau khi Nghị định 153/2020/NĐ-CP hay Nghị định 155/2020/NĐ-CP có hiệu
lực vào đầu năm 2021, các đơn vị quản lý nhà nước vẫn cần theo dõi xu hướng của
thị trường để kịp thời điều chỉnh các quy định cho phù hợp và tạo điều kiện thuận lợi
cho thị trường trái phiếu doanh nghiệp vừa bắt đầu phát triển mạnh mẽ.
Trái phiếu doanh nghiệp khi phát hành ra thị trường phụ thuộc rất nhiều vào hệ
số tín nhiệm của doanh nghiệp, đặc biệt là đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ. Hơn
nữa, trong giai đoạn hội nhập kinh tế thế giới hiện nay, việc xây dựng một hệ thống
định mức tín nhiệm theo chuẩn mực quốc tế là yêu cầu không thể bỏ qua. Mặc dù
khung pháp lý về định mức tín nhiệm ngày càng được hoàn thiện: ngày 26/9/2014,
Chính phủ ban hành Nghị định số 88/2014/NĐ-CP quy định về dịch vụ xếp hạng tín
nhiệm, Nghị định này có hiệu lực thi hành nhằm tạo khuôn khổ pháp lý cho việc hình
thành và hoạt động của công ty xếp hạng tín nhiệm tại Việt Nam. Ngày 17/4/2015,
Thủ tướng Chính phủ ký ban hành Quyết định số 507/QĐ-TTg phê duyệt quy hoạch
phát triển dịch vụ xếp hạng tín nhiệm đến năm 2020 và tầm nhìn đến 2030. Thông tư
số 99/2015/TT-BTC hướng dẫn về việc phát hành trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh
thay thế Thông tư số 34/2012/TT-BTC và Thông tư số 167/2013/TT-BTC. Tuy nhiên,
các chính sách này vẫn chưa có đủ thời gian đi vào thực tế, đồng thời năng lực hiện
nay của các doanh nghiệp Việt Nam vẫn chưa đủ để thành lập theo các điều kiện đặt
ra của Nghị định.
82
Chủ thể phát hành trái phiếu doanh nghiệp chưa đa dạng
Trái phiếu của những doanh nghiệp thường có lợi thế hơn các doanh nghiệp
ngoài quốc doanh ở chỗ những trái phiếu này luôn có sự đảm bảo thanh toán từ Ngân
sách Nhà nước. Chính nhờ lợi thế này, một lượng lớn TPDN được phát hành trong
thời gian từ khi thị trường được tạo lập là của doanh nghiệp nhà nước và ngân hàng
thương mại phát hành. Điều này dẫn tới thời gian ban đầu nguồn cung cho thị trường
TPDN chưa được đa dạng, chưa đáp ứng được yêu cầu của của các nhà đầu tư trong
việc đa dạng hóa danh mục đầu tư, phân tán rủi ro. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ
chưa thực sự quan tâm đến việc huy động từ nguồn vốn này mà vẫn dựa chủ yếu vào
nguồn vốn từ vay ngân hàng một phần vì bản thân các doanh nghiệp huy động số vốn
nhỏ thì việc huy động qua kênh này là không phù hợp vì như vậy tỷ lệ chi phí sẽ lớn
nếu phát hành số lượng vốn nhỏ, khả năng phát hành cũng không cao do nguồn lực
nhỏ, không được sự đảm bảo của các tổ chức tín nhiệm cũng như uy tín để phát hành
TPDN…. Đây chính là yếu tố dẫn đến sự chưa phát triển của thị trường TPDN Việt
Nam trong thời gian qua. Các nhà đầu tư cá nhân chưa có sự hiểu biết và phân tích
đầy đủ thị trường
Trong thời gian vừa qua các nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán chủ yếu là
theo yếu tố tâm lý số đông, nhiều nhà đầu tư không có sự hiểu biết đầu tư theo một
số các nhà đầu tư khác (hiện có khoảng 90% là nhà đầu tư nhỏ lẻ và 10% là nhà đầu
tư có tổ chức). Họ tham gia mua bán cổ phiếu, trái phiếu mà chưa thực sự quan tâm
đến kết quả kinh doanh của đơn vị phát hành. Vấn đề thứ hai là tâm lý mua và giữ
trái phiếu đến khi đáo hạn của nhà đầu tư. Hầu hết những trái chủ ở Việt Nam mua
trái phiếu không phải để bán lại trên thị trường thứ cấp nhằm kiếm lời từ chênh lệch
giá. Điều mà họ quan tâm là nếu giữ trái phiếu của một doanh nghiệp lớn, họ hy vọng
sẽ được hưởng lãi trái phiếu và những quyền lợi nhất định đối với cổ phiếu mà doanh
nghiệp đó sẽ phát hành trong tương lai nếu có. Như vậy, trái phiếu ngoài việc cung
cấp nguồn thu nhập ổn định cho trái chủ, nó còn là là một công cụ trung gian để đưa
nhà đầu tư hướng tới cái đích cuối cùng là cổ phiếu doanh nghiệp. Đây là một trong
những nguyên nhân phần nào khiến cho giao dịch TPDN trở nên kém sôi động trong
thời gian qua.
83
Chính vì những yếu tố này nên trái phiếu của các doanh nghiệp vừa và nhỏ mặc
dù có kết quả kinh doanh tốt nhưng vẫn không được các nhà đầu tư. Nguyên nhân
một phần là do trình độ, nhận thức của bản thân các nhà đầu tư nhưng một phần cũng
bởi họ không có những luồng thông tin chính thống (chẳng hạn từ các công ty định
mức tín nhiệm hay các công ty kiểm toán có uy tín) của những doanh nghiệp vừa và
nhỏ để đưa ra những quyết định bỏ vốn hợp lý. Trong khi đó, luồng thông tin chính
thống phải đến đồng thời từ hai nguồn: bản thân doanh nghiệp (có sự tham gia của
đơn vị kiểm toán) và các công ty định mức tín nhiệm lại không có nhiều, hoặc nhiều
nhà đầu tư không có khả năng tiếp cận.
Thiếu các tổ chức định mức tín nhiệm
Thiếu các tổ chức định mức tín nhiệm được xem là rào cản lớn của những doanh
nghiệp vừa và nhỏ khi muốn tiếp cận với thị trường trái phiếu. Hệ số tín nhiệm của
doanh nghiệp phản ánh những đánh giá hiện thời về năng lực thanh toán vốn vay và
tiền lãi theo kỳ hạn đã cam kết của chủ thể phát hành trái phiếu. Hệ số này giúp nhà
đầu tư nắm được tình trạng của tổ chức phát hành để từ đó lựa chọn khi đầu tư trái
phiếu một cách phù hợp với nhu cầu bản thân.
Không chỉ đối với những doanh nghiệp vừa và nhỏ, mà cả những doanh nghiệp
lớn cũng coi hệ số tín nhiệm là chìa khóa quan trọng quyết định sự thành công của
những đợt phát hành trái phiếu. Nhà đầu tư luôn quan tâm đến khả năng thanh toán
nợ của tổ chức phát hành khi trái phiếu đáo hạn, và hệ số tín nhiệm là cơ sở để đưa
ra quyết định đầu tư vốn. Tính đến nay, số lượng doanh nghiệp được đánh giá định
mức tín nhiệm chỉ rất hạn chế, nhà đầu tư thường chỉ biết được các mức đánh giá từ
các tổ chức nước ngoài đối với các doanh nghiệp phát hành trái phiếu quốc tế hoặc
các ngân hàng thương mại. Các mức điểm đánh giá của các tổ chức còn được nhiều
nhà đầu tư cho là không hợp lý đối với thị trường Việt Nam.
Hiện tại, Việt Nam mới có 2 công ty xếp hạng tín nhiệm được cấp phép cung
cấp dịch vụ xếp hạng tín nhiệm là FinnGroup và Sài Gòn Thịnh Phát. Theo quy hoạch
trong 10 năm tới, cả thị trường cũng chỉ có tối đa 5 công ty xếp hạng tín nhiệm.. Các
đơn vị này vẫn chưa phải là tổ chức đánh giá định mức tín nhiệm theo đúng nghĩa bởi
84
hoạt động chính vẫn chỉ là cung cấp các thông tin có liên quan tới các doanh nghiệp
mà chưa thực hiện nghiệp vụ đánh giá định mức tín nhiệm theo chuẩn mực quốc tế.
Hiện nay, Hiệp hội trái phiếu (VBMA) cũng đang tiến hành các thủ tục để tiến hành
thành lập công ty xếp hạng tín nhiệm tuy nhiên chưa thấy dấu hiệu khả quan nào..
Cũng vì sự hạn chế của các tổ chức định mức tín nhiệm ở Việt Nam (cả về số
lượng và chất lượng), nhà đầu tư chủ yếu vẫn phải tham khảo thông tin của doanh
nghiệp từ những báo cáo tài chính đã được kiểm toán. Trong khi đó các công ty kiểm
toán Việt Nam đến nay chỉ có chức năng xác nhận thông tin tài chính, kế toán của
đơn vị là phù hợp với chuẩn mực, chế độ mà không đưa ra bình luận về năng lực tài
chính. Nghĩa là nhà đầu tư phải tự tìm hiểu dựa vào những kiến thức thu thập được,
điều này khiến cho rủi ro đối với quyết định đầu tư bị đẩy lên cao nếu như nhà đầu tư
không có nhiều hiểu biết về lĩnh vực tài chính.
Về mặt thể chế, Việt Nam hiện chưa có một khung pháp lý, chuẩn mực nào về
xếp hạng tín dụng hay xếp hạng TPDN. Hai văn bản pháp lý quan trọng nhất cho thị
trường chứng khoán Việt Nam là Luật Chứng khoán và Luật doanh nghiệp chưa đề
cập gì đến định mức tín nhiệm và các vấn đề liên quan. Sự chuẩn bị từ các cơ quan
quản lý Nhà nước vẫn chỉ dừng lại ở giai đoạn “đặt vấn đề” tại các cuộc hội thảo, hội
nghị. Đây đồng thời là khó khăn đối với những tổ chức có ý định tham gia thị trường
xếp hạng tín dụng tại Việt Nam. Một khi yếu tố này còn bị bỏ ngỏ thì hoạt động định
mức tín nhiệm vẫn còn thiếu vắng sự tham gia của các công ty chuyên nghiệp, khả
năng thị trường TPDN ảm đạm vẫn có thể tiếp tục trong thời gian dài.
Về mặt nhận thức: thị trường trái phiếu Việt Nam vẫn còn rất non trẻ, nhà đầu
tư phần lớn không được coi là chuyên nghiệp khi chưa được đào tạo bài bản, kiến
thức còn chắp vá từ nhiều nguồn thông tin đại chúng. Bởi vậy đa số nhà đầu tư Việt
Nam thường dễ dàng chấp nhận những trái phiếu của những doanh nghiệp lớn, có uy
tín (ví dụ như Tập đoàn điện lực Việt Nam, Tổng Công ty Tài chính Dầu khí Việt
Nam, Công ty Chứng khoán Sài gòn, Ngân hàng Á châu…) mà không cần thông qua
đánh giá của tổ chức định mức tín nhiệm. Điều này phản ánh hoạt động đầu tư trái
phiếu ở Việt Nam còn mang nặng “cảm tính”, hệ quả của nó là: với sự thiếu vắng của
tổ chức định mức tín nhiệm, nhà đầu tư chỉ có thể lựa chọn những trái phiếu danh
85
tiếng, bỏ qua những doanh nghiệp vừa và nhỏ nhằm giảm thiểu rủi ro trong tương lai.
Ở chiều ngược lại, trong thời gian mà lãi suất ngân hàng rất thấp như hiện tại do ảnh
hưởng với dịch COVID 2019, nhu cầu đầu tư sản xuất kinh doanh cũng bị tác động
tiêu cực, thì nhu cầu có một mức lợi nhuận cố định hàng năm ở mức cao như trái
phiếu doanh nghiệp đang là hiện tượng. Tình hình thị trường sôi nổi do các nhà đầu
tư nhỏ lẻ mua trái phiếu doanh nghiệp đem đến mối lo cho cơ quan quản lý về việc
kiểm soát không chặt chẽ có thể gây ra hậu quả khó lường. Việc có một tổ chức đánh
giá các trái phiếu có thể mang đến sự lựa chọn đúng đắn hơn cho nhà đầu tư, hơn là
chỉ nhìn vào lãi suất được hưởng, giảm thiểu rủi ro hệ thống.
Chưa thực sự có các nhà tạo lập thị trường
Những nhà tạo lập thị trường có tiềm lực nhất bao gồm các ngân hàng thương
mại và các công ty chứng khoán. Vai trò của nhà tạo lập thị trường rất quan trọng đối
với hoạt động của thị trường trái phiếu, thể hiện ở một số khía cạnh sau đây:
Nhà tạo lập thị trường phải là người môi giới và bảo lãnh trái phiếu. Thực chất
các giao dịch trên thị trường là sự gặp gỡ của nhu cầu bán và nhu cầu mua chứng
khoán. Tại những nước có thị trường tài chính phát triển, hoạt động môi giới có vai
trò quyết định đối với các giao dịch trên thị trường. Đó là người kết nối nguồn cung
và cầu chứng khoán, đảm bảo cho các giao dịch diễn ra an toàn, thuận lợi và đáp ứng
tốt nhất yêu cầu của các bên. Nhà môi giới có trách nhiệm tư vấn, định hướng cho
các quyết định của nhà đầu tư nhằm tối đa hóa lợi ích cho khách hàng. Trong khi đó,
các công ty chứng khoán tại Việt Nam được tạm coi là nhà tạo lập thị trường mới chủ
yếu thực hiện môi giới cổ phiếu và chưa thực sự chuyên nghiệp. Bên cạnh công ty
chứng khoán, các ngân hàng thương mại cũng chưa phát huy hết vai trò là nhà môi
giới và bảo lãnh trên thị trường trái phiếu.
Nhà tạo lập thị trường phải là người kinh doanh trái phiếu thực thụ. Khi tham
gia thị trường, những nhà tạo lập thị trường được biết đến là những tổ chức chuyên
môn hóa cao với đội ngũ cán bộ có trình độ và năng lực tài chính dồi dào. Mọi hoạt
động giao dịch của nhà tạo lập thị trường sẽ có vai trò định hướng đối với diễn biến
chung của thị trường trái phiếu. Họ tham gia thị trường như những nhà đầu tư trái
86
phiếu thực thụ, thực hiện mua khi giá thấp, bán khi giá cao, hưởng lãi khi đáo hạn.
Tuy nhiên, khi thị trường có những biến động bất lợi thì vai trò của nhà tạo lập thị
trường mới thực sự phát huy để giảm bớt áp lực của tình trạng mất cân đối. Ví dụ:
khi lượng cung trái phiếu quá cao trong khi lượng cầu thấp, công ty chứng khoán sẽ
đứng ra gom trái phiếu để điều hòa cung - cầu, đồng thời kích thích nhu cầu mua vào
của những nhà đầu tư khác trên thị trường. Hoạt động này thực sự quan trọng đối với
thị trường chứng khoán còn chịu nhiều ảnh hưởng của yếu tố tâm lý như Việt Nam
hiện nay. Tuy nhiên, hoạt động tự doanh của các công ty chứng khoán Việt Nam vẫn
còn mang nặng tính kinh doanh lãi - lỗ mà chưa phát huy vai trò của nhà tạo lập thị
trường. Nguyên nhân là do năng lực tài chính có hạn, mức độ chuyên nghiệp hóa của
công ty chứng khoán chưa cao và những hạn chế vốn có của thị trường trái phiếu
doanh nghiệp thứ cấp ở Việt Nam.
Phương thức bảo lãnh chủ yếu thông qua đại lý phát hành
Hầu hết các công ty đều phát hành trái phiếu thông qua một tổ chức làm đại lý
phát hành. Đại lý phát hành được lựa chọn đảm nhận cung cấp dịch vụ tư vấn phát
hành bao gồm bảo lãnh, phát hành và thanh toán theo lãi suất coupon hay theo mệnh
giá. Các công ty chứng khoán là những thành viên chính trên thị trường này, ngoài ra
còn có sự tham gia của các ngân hàng cổ phần, các công ty bảo hiểm hay kiểm toán.
Với những lợi thế về thông tin và đội ngũ nhân viên chuyên nghiệp, họ là những nhà
cung cấp chính của dịch vụ này. Hiện tại, dịch vụ tư vấn bảo lãnh phát hành vẫn là
một trong những dịch vụ còn khá non trẻ ở các công ty chứng khoán, tỷ trọng doanh
thu từ dịch vụ này chỉ chiếm khoảng 5% đến 10% trong tổng doanh thu từ dịch vụ tư
vấn. Các công ty chứng khoán thuộc ngân hàng thường tận dụng hệ thống mạng lưới
chi nhánh và phòng giao dịch trên toàn quốc để làm đại lý phát hành cho doanh
nghiệp, nếu không, các công ty không thể bán trái phiếu với khối lượng lớn. TPDN
là công cụ nợ giúp cho doanh nghiệp có thể huy động vốn từ thị trường tài chính để
đầu tư cho các dự án kinh doanh với độ rủi ro thấp và tính hiệu quả cao.
87
Kết luận chương 2
Thị trường TPDN là một thị trường có cơ chế hoạt động tương đối phức tạp và
nhạy cảm. Chương này đã tổng hợp, phân tích và đánh giá thực trạng của thị trường
TPDN Việt Nam thời gian qua trên các khía cạnh: về khung pháp lý để phát triển thị
trường TPDN Việt Nam trong giai đoạn 1994-2020 cho thấy về cơ bản trong giai
đoạn vừa qua Nhà nước đã cố gắng tạo ra một khung thể chế nhằm tạo điều kiện cho
thị trường TPDN Việt Nam phát triển như việc ban hành Nghị định số 153/2020/NĐ-
CP thay thế Nghị quy định về việc phát hành TPDN theo hình thức riêng lẻ đã nâng
cao tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm của doanh nghiệp trong việc phát hành trái phiếu;
Bảo vệ quyền và lợi ích của nhà đầu tư, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp chủ
động trong công tác phát hành trái phiếu, giảm thiểu thủ tục hành chính tuy nhiên vẫn
còn một số vấn đề còn tồn tại gây cản trở cho sự phát triển đó là hoạt động phát hành
sơ cấp trên thị trường TPDN ở mức khá thấp với số lượng và khối lượng phát hành
còn hạn chế;… Nguyên nhân của những tồn tại trên có cả nguyên nhân chủ quan và
nguyên nhân khách quan. Với kết quả nghiên cứu của Chương 2 cho thấy thị trường
TPDN của Việt Nam còn nhỏ bé về khối lượng và chất lượng thì vẫn chưa đáp ứng
được nhu cầu của thị trường, hệ thống pháp lý cho phát triển thị trường TPDN vẫn
còn chưa được hoàn thiện. Để phát triển thị trường TPDN Việt nam trong thời gian
tới cần phải triển khai một cách toàn diện các giải pháp, cụ thể được trình bày ở
chương tiếp theo của Luận văn.
88
CHƯƠNG 3
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP NHẰM PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG TRÁI PHIẾU
DOANH NGHIỆP TẠI VIỆT NAM
3.1. Phát triển thị trường trái phiếu doanh nghiệp ở Việt Nam thời gian tới
3.1.1. Xu hướng và cơ hội phát triển thị trường trái phiếu doanh nghiệp
Nhu cầu vốn về trung và dài hạn của thị trường đang rất lớn
Thị trường đang cho thấy nhu cầu vốn trung và dài hạn có xu hướng tập trung
vào các nhóm ngành như Bất động sản, Xây dựng, Điện hay Vật liệu xây dựng khi
mức chi đầu tư mới hàng năm của các doanh nghiệp trong nhóm này lớn và khá ổn
định. Với đặc thù những nhóm ngành này thường yêu cầu mức đầu tư lớn và vòng
đời dự án tương đối dài, nhu cầu vốn trung và dài hạn ở các nhóm ngành này sẽ tiếp
tục ở mức cao trong thời gian tới.
Nhu cầu tái cấu trúc nợ do ảnh hưởng bởi Covid-19
Trong bối cảnh ảnh hưởng của Covid-19, thị trường cũng chứng kiến nhu cầu
này được tăng mạnh hơn nữa khi rất nhiều doanh nghiệp bị ảnh hưởng bởi dịch bệnh
và ảnh hưởng tiêu cực đến dòng tiền hoạt động ngắn hạn trong khi mô hình kinh
doanh về dài hạn và vị thế của họ vẫn rất tốt. Do đó, nhu cầu tái cấu trúc nợ (tương
tự như việc giãn nợ của kênh tín dụng ngân hàng qua Thông tư 01) sẽ là nhu cầu lớn
của kênh trái phiếu doanh nghiệp.
Kênh TPDN dần trở thành kênh huy động vốn thay thế
Trong bối cảnh tiêu chuẩn cho vay đang bị thắt chặt, đặc biệt với các ngành bị
hạn chế cấp tín dụng như Bất động sản, BOT giao thông và hạ tầng, và đại đa số các
doanh nghiệp đều không có tài sản thế chấp để có thể vay vốn trực tiếp từ ngân hàng,
kênh TPDN đã và đang trở thành một kênh huy động vốn thay thế. Với mặt bằng lãi
suất đang duy trì ở vùng thấp và khung pháp lý dần hoàn thiện kích thích nhu cầu đầu
tư vào thị trường TPDN, kênh TPDN sẽ tiếp tục đóng vai trò quan trọng cho chiến
lược tái cấu trúc vốn và đa dạng hóa nguồn huy động cho các doanh nghiệp.
Ngân hàng khó đáp ứng đủ vốn dài hạn cho doanh nghiệp
89
Trong xu hướng chung nhằm đảm bảo an toàn và sự phát triển bền vững của hệ
thống ngân hàng, mức tăng trưởng tín dụng dự kiến năm 2021 sẽ tiếp tục duy trì ở
mức 12-14% như trong 3 năm qua. Theo đó, các ngân hàng thương mại sẽ tập trung
vào kênh tín dụng ngắn hạn nhiều hơn còn kênh tín dụng trung và dài hạn sẽ hướng
đến kênh trái phiếu doanh nghiệp và phát hành trên thị trường cổ phiếu.
Trong bối cảnh nhu cầu vốn trung và dài hạn của doanh nghiệp rất lớn và thị
trường cổ phiếu nhiều biến động, kênh trái phiếu doanh nghiệp sẽ là một sự lựa chọn
mang tính chiến lược về vốn của cả các doanh nghiệp niêm yết và các doanh nghiệp
chưa niêm yết nói chung.
Mặc dù các ngân hàng thay vì đẩy mạnh cho vay dài hạn thì cũng đã gia tăng
danh mục đầu tư trái phiếu doanh nghiệp tuy nhiên các quy định mới gần đây của
NHNN cũng đã làm hạn chế hoạt động này. Thực tế, tỷ trọng danh mục đầu tư TPDN
tại tháng 9/2020 chiếm 7,12% dư nợ cho vay tín dụng của ngân hàng và đang có xu
hướng giảm.
Môi trường lãi suất thấp
Lãi suất cho vay hiện đang ở mặt bằng thấp và dự kiến sẽ tiếp tục duy trì ở mức
thấp trong năm 2021, đặc biệt là với lãi suất huy động hiện ở mức 5,0- 5,5% cho kỳ
hạn dài trên 12 tháng thì kênh đầu tư trái phiếu với lãi suất 8-12% sẽ vẫn thu hút vốn
của công chúng nói chung và người gửi tiền nói riêng.
Quy định mới sẽ khuyến khích phát hành ra công chúng nhiều hơn
Nghị định 153/2020 mặc dù gỡ bỏ các điều kiện phát hành trái phiếu cho doanh
nghiệp nhưng lại giới hạn đối tượng mua trái phiếu là các nhà đầu tư chứng khoán
chuyên nghiệp với điều kiện cụ thể. Điều này sẽ giảm mức hấp thụ của kênh phát
hành riêng lẻ trong ngắn hạn và do đó, ở góc độ “ép cầu” thì hoạt động phát hành
riêng lẻ có thể kém sôi động hơn trong năm 2021.
Việc chuẩn hóa về yêu cầu và quy trình cho phát hành ra công chúng sẽ giúp
kênh huy động này diễn ra sôi động hơn trong năm 2021 dù các thủ tục và yêu cầu
cao hơn về xin phê duyệt, công bố thông tin, và xem xét xếp hạng tín nhiệm độc lập
cho nhà phát hành và trái phiếu chào bán.
90
Hoạt động của thị trường TPDN năm 2021 có khả năng vẫn sẽ sôi động, nhưng
về quy mô thì sẽ khó đạt được giá trị phát hành như năm 2020 vừa qua. Các hoạt
động phát hành riêng lẻ vẫn sẽ chiếm tỷ trọng lớn, nhưng các hoạt động phát hành ra
công chúng sẽ được chú ý và chiếm tỷ trọng lớn hơn trong thời gian tới, thay vì chỉ
chiếm 6,5% tổng giá trị phát hành như trong năm 2020.
Xu hướng thị trường TPDN Việt Nam:
Về dài hạn, thị trường tiếp tục đà tăng trưởng về quy mô khi mà năng lực đáp
ứng vốn trung và dài hạn của ngân hàng không đủ trong khi chủ trương chung của
các cơ quan chính sách trong đó có Ngân hàng Nhà nước là ưu tiên kênh trái phiếu
doanh nghiệp và huy động trên thị trường chứng khoán. Nhiều ngành nghề chịu tác
động mạnh từ Covid 19 gây ra ảnh hưởng tạm thời tới dòng tiền hoạt động kinh
doanh, nhu cầu tái cấu trúc kỳ hạn nguồn vốn vay theo hướng dài hạn là rất lớn. Thêm
vào đó môi trường lãi suất thấp sẽ khuyến khích nhu cầu về đầu tư trái phiếu doanh
nghiệp.
Lĩnh vực có nhu cầu huy động vốn từ trái phiếu sẽ tiếp tục là Bất động sản, Xây
dựng, Năng lượng với cấu kỳ hạn thị trường được kéo dài. Nguyên nhân chính là việc
tiếp cận kênh ngân hàng của các lĩnh vực này có nhiều hạn chế và phương án tài trợ
đặc thù với thời hạn lâu dài. Chính sách về phát hành mới cũng sẽ giúp các hoạt động
phát hành trái phiếu doanh nghiệp ra công chứng được chú ý hơn.
3.1.2. Thách thức phát triển thị trường trái phiếu doanh nghiệp
Tồn tại chính đang cản trở thị trường trái phiếu DN chủ yếu do các thông lệ và
chuẩn mực mà DN Việt đang áp dụng còn độ lệch lớn so với thế giới. Thông tin DN
không được trình bày theo chuẩn báo cáo Tài chính quốc tế IFRS sẽ khiến các nhà
đầu tư rất quan ngại vì không thể hiểu hết giá trị tài sản thực, kết quả kinh doanh thực
và chiều hướng phát triển của DN trong tương lai. Hầu như hơn 10 năm qua Việt
Nam không có nhiều cập nhật trong khi thế giới thay đổi quá nhiều với 131 nước đã
áp dụng IFRS.
Quản trị công ty cũng là một rào cản để DN có thể huy động vốn qua kênh trái
phiếu. Theo đánh giá của Công ty Tài chính quốc tế IFC, dựa trên tiêu chuẩn của khối
91
OECD, mức độ quản trị công ty của DN Việt đang ở vị trí rất thấp so với các nước
trong ASEAN. DN có thực sự muốn minh bạch hay không khi đang vướng vào sở
hữu chéo, hay mắc mớ với các DN có liên quan? Bức tranh về tình hình của các DN
nhà nước sẽ ra sao khi áp dụng IFRS? Đây là một thách thức không nhỏ đối với các
doanh nghiệp Việt Nam trong quá trình phát triển thị trường trái phiếu doanh nghiệp.
3.2. Quan điểm và định hướng phát triển thị trường trái phiếu doanh
nghiệp Việt Nam trong thời gian tới
Luật Chứng khoán bao gồm 10 chương, 135 điều, có hiệu lực thi hành từ ngày
01/01/2021, thay thế Luật Chứng khoán số 70/2006/QH11 và Luật số 62/2010/QH12
sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chứng khoán.
Luật Chứng khoán được ban hành góp phần hoàn thiện thể chế, môi trường pháp
lý, nâng cao hiệu quả công tác quản lý nhà nước đối với thị trường chứng khoán
(TTCK); bảo đảm cho sự phát triển ổn định, an toàn, bền vững của TTCK; góp phần
thực hiện mục tiêu tạo môi trường kinh doanh bình đẳng, thông thoáng, thuận lợi,
công khai, minh bạch, đáp ứng yêu cầu cải cách hành chính nhà nước, yêu cầu hội
nhập quốc tế sâu rộng, phù hợp với sự phát triển tất yếu của TTCK nói riêng và kinh
tế - xã hội nói chung trong tình hình mới; bảo đảm TTCK là kênh huy động vốn trung
và dài hạn quan trọng của nền kinh tế, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu
tư.
Ngày 28/2/2019, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 242/QĐ-TTg
về việc phê duyệt Đề án “Cơ cấu lại thị trường chứng khoán và thị trường bảo hiểm
đến năm 2020 và định hướng đến năm 2025”.
Mục tiêu chung của Đề án là tiếp tục cơ cấu lại toàn diện để thị trường chứng
khoán trở thành kênh dẫn vốn trung và dài hạn quan trọng cho nền kinh tế, xây dựng
cơ cấu hợp lý, cân bằng giữa thị trường tiền tệ và thị trường vốn, giữa thị trường cổ
phiếu và trái phiếu, giữa trái phiếu chính phủ và trái phiếu doanh nghiệp; hỗ trợ tích
cực quá trình cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước, đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế
và thúc đẩy phát triển khu vực kinh tế tư nhân; tăng cường mở cửa và hội nhập với
thị trường khu vực và thế giới.
92
Theo đó các mục tiêu cụ thể đối với thị trường chứng khoán bao gồm:
Quy mô thị trường cổ phiếu đạt mức 100% GDP vào năm 2020 và 120%
GDP vào năm 2025, quy mô thị trường trái phiếu đạt mức 47%GDP vào năm 2020
và 55% GDP vào năm 2025. Số lượng công ty niêm yết đến năm 2020 tăng 20% so
với năm 2017.
Số lượng nhà đầu tư trên thị trường đạt mức 3% dân số vào năm 2020 và
5% dân số vào năm 2025. Đảm bảo cơ cấu hợp lý giữa nhà đầu tư trong nước và nhà
đầu tư nước ngoài, đồng thời thúc đẩy sự phát triển của các nhà đầu tư chuyên nghiệp
trên thị trường chứng khoán.
Đa dạng hóa sản phẩm trên thị trường chứng khoán; triển khai các sản
phẩm chứng quyền có đảm bảo, hợp đồng tương lai trái phiếu chính phủ và hợp đồng
tương lai trên các chỉ số mới ngoài chỉ số VN30 trước năm 2020 và từng bước triển
khai sản phẩm quyền chọn, hợp đồng tương lai trên cổ phiếu trước năm 2025.
Lành mạnh hóa tình hình tài chính, nâng cao năng lực quản trị của các tổ
chức kinh doanh chứng khoán theo quy định của pháp luật; nâng chỉ tiêu an toàn tài
chính của các tổ chức kinh doanh chứng khoán tăng 20% so với hiện tại.
Trước năm 2020, đổi mới toàn diện và đồng bộ công nghệ giao dịch và
thanh toán bù trừ trên thị trường chứng khoán.
Đến năm 2025, chất lượng quản trị công ty trong các công ty niêm yết của
Việt Nam đạt mức bình quân ASEAN-6.
Trước năm 2025, nâng hạng thị trường chứng khoán Việt Nam trên danh
sách các thị trường mới nổi.
Các quan điểm, mục tiêu phát triển và các giải pháp mà cơ quan quản lý đưa ra
khá toàn diện, không những quan tâm đến cầu đầu tư mà còn cả chất lượng của nguồn
cung chứng khoán trong đó có trái phiếu. Đây là những giải pháp và định hướng hết
sức quan trọng trong việc phát triển thị trường trái phiếu.
Để đạt mục tiêu theo Lộ trình phát triển thị trường trái phiếu Việt Nam đến năm
2025 của Bộ Tài chính, định hướng hoàn chỉnh chính sách tập trung hình thành các
93
công ty định mức tín nhiệm tại thị trường trong nước; phát triển quỹ hưu trí bổ sung
tự nguyện; xây dựng đường cong lãi suất trái phiếu Chính phủ; thí điểm áp dụng
phương thức đấu thầu đa giá đối với các sản phẩm trái phiếu đã có tính cạnh tranh
cao…
Có thể thấy, thị trường trái phiếu là kênh dẫn vốn trung và dài hạn bổ trợ cho
thị trường cổ phiếu và tín dụng ngân hàng. Thị trường trái phiếu cho phép huy động
các nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi trong toàn xã hội vào đầu tư phát triển kinh tế. Đặc
biệt, thị trường TPDN vừa có thể huy động được nguồn vốn dồi dào từ xã hội, vừa
góp phần thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế xã hội. Nếu trước đây doanh nghiệp chỉ có
nguồn vay duy nhất từ ngân hàng, thì bây giờ với sự tồn tại và phát triển hoạt động
của thị trường TPDN đã tạo thêm cho các doanh nghiệp nguồn vay nợ hữu hiệu. Gánh
nặng và rủi ro cho vay của các ngân hàng được san sẻ cho các nhà đầu tư trái phiếu
trên thị trường. Hiện nay, Việt Nam được xem là một thị trường đang phát triển. Do
đó, nhu cầu về vốn của doanh nghiệp là rất lớn. Vì vậy, xét về nhu cầu và xu hướng
phát triển, thị trường trái phiếu của Việt Nam trong tương lai còn nhiều tiềm năng.
Do đó để tăng cường phát hành trên thị trường Trái phiếu doanh nghiệp và thị trường
chứng khoán nói chung trong thời gian tới cần chú ý:
(i) Hoàn thiện cơ sở pháp lý;
(ii) Cơ cấu lại cơ sở hàng hóa, đa dạng và minh bạch hóa hàng hóa;
(iii) Cơ cấu lại cơ sở nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán;
(iv) Cơ cấu lại tổ chức kinh doanh chứng khoán;
(v) Cơ cấu lại tổ chức thị trường;
(vi) Nâng cao năng lực quản lý giám sát và cưỡng chế thực thi
(vii) Nâng hạng thị trường;
(viii) Tăng cường vai trò của hiệp hội nghề nghiệp.
3.3. Một số giải pháp phát triển thị trường trái phiếu doanh nghiệp tại Việt
Nam
Trong bối cảnh tình hình kinh tế và các hạn chế của thị trường như trên, một số
94
giải pháp dưới đây được đề xuất để làm cơ sở phát triển của thị trường TPDN Việt
Nam thời gian tới. Các giải pháp được chia thành ba nhóm chính, bao gồm: (1) Hoàn
thiện và tổ chức triển khai các chính sách mới; (2) Phát triển về cơ sở nhà đầu tư; (3)
Thúc đẩy hoạt động của các nhà tạo lập thị trường.
3.3.1. Hoàn thiện và tổ chức triển khai các chính sách mới
3.3.1.1. Hoàn thiện hệ thống văn bản pháp lý
Cho đến nay, qua rất nhiều lần chỉnh sửa các văn bản, chính sách liên quan đến
phát hành trái phiếu, nhìn chung khung pháp lý cho hoạt động phát hành trái phiếu
đã khá hoàn chỉnh và đồng bộ. Hiện tại, Bộ Tài chính đang trong quá trình giám sát
các tác động đến thị trường của Nghị định số 153/2020/NĐ-CP về phát hành riêng lẻ,
Luật chứng khoán 2019 cũng như Nghị định số 155/2020/NĐ-CP chi tiết về thi hành
một số điều của luật chứng khoán:
Cụ thể, một là, nâng cao tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm của nhà đầu tư chứng
khoán chuyên nghiệp khi mua TPDN riêng lẻ. Theo quy định mới tại Nghị định số
153/2020/NĐ-CP, nhà đầu tư mua trái phiếu có trách nhiệm tự đánh giá, tự chịu trách
nhiệm về quyết định đầu tư của mình và tự chịu các rủi ro phát sinh trong việc đầu
tư, giao dịch trái phiếu; Nhà nước không đảm bảo việc doanh nghiệp phát hành trái
phiếu thanh toán đầy đủ, đúng hạn lãi, gốc trái phiếu khi đến hạn và các quyền khác
cho nhà đầu tư mua trái phiếu. Do vậy, nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp cần
phải am hiểu quy định của pháp luật, tìm hiểu đầy đủ các thông tin để tự chịu trách
nhiệm về quyết định đầu tư và sẵn sàng chấp nhận rủi ro khi mua trái phiếu phát hành
riêng lẻ.
Hai là, phân định rõ về nhà đầu tư giữa TPDN phát hành riêng lẻ và TPDN phát
hành ra công chúng. TPDN phát hành ra công chúng được chào bán rộng rãi cho mọi
loại hình nhà đầu tư và được UBCKNN cấp phép chào bán; TPDN phát hành riêng
lẻ chỉ được bán cho nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp.
Ba là, mở rộng phạm vi nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp. Theo quy định
tại Luật Chứng khoán năm 2019 (Điều 11) nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp là
nhà đầu tư có năng lực tài chính hoặc có trình độ chuyên môn về chứng khoán bao
95
gồm cả nhà đầu tư tổ chức và nhà đầu tư cá nhân.
Bốn là, quy định rõ tổ chức có trách nhiệm xác định tư cách nhà đầu tư chứng
khoán chuyên nghiệp, cách thức xác định nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp và
trách nhiệm của các tổ chức xác định tư cách nhà đầu tư.
Năm là, quy định rõ về các hành vi và chế tài xử phạt đối với các hành vi vi
phạm liên quan đến lựa chọn và cung cấp dịch vụ về nhà đầu tư chứng khoán chuyên
nghiệp.
Theo quy định, Nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp bao gồm Ngân hàng
thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, công ty tài chính, tổ chức kinh doanh
bảo hiểm, công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ đầu tư chứng khoán, công ty
đầu tư chứng khoán, quỹ đầu tư chứng khoán, tổ chức tài chính quốc tế, quỹ tài chính
nhà nước ngoài ngân sách, tổ chức tài chính nhà nước được mua chứng khoán theo
quy định của pháp luật có liên quan; công ty có vốn điều lệ đã góp đạt trên 100 tỷ
đồng hoặc tổ chức niêm yết, tổ chức đăng ký giao dịch; người có chứng chỉ hành
nghề chứng khoán; cá nhân nắm giữ danh mục chứng khoán niêm yết, đăng ký giao
dịch có giá trị tối thiểu là 02 tỷ đồng; cá nhân có thu nhập chịu thuế năm gần nhất tối
thiểu là 01 tỷ đồng. Các quy định như vậy cơ bản sẽ hạn chế được các trường hợp
nhà đầu tư nhỏ lẻ chỉ quan tâm đến lợi suất trái phiếu mà không nhìn đến tình hình
kinh doanh của doanh nghiệp, không hiểu biết thị trường chứng khoán. Tuy nhiên,
lực lượng nhà đầu tư nhỏ lẻ cũng không hề nhỏ, nguồn vốn huy động từ các cá nhân
có thể phần nào thúc đẩy thị trường trái phiếu doanh nghiệp phát triển về quy mô. Vì
vậy, thị trường trái phiếu vẫn nên sử dụng phần vốn nhàn rỗi này tham gia thị trường.
Giải pháp đưa ra có thể là:
Tăng cường công tác đào tạo, tuyên truyền về các kiến thức liên quan đến
thị trường chứng khoán và đầu tư đối với công chúng. Mở rộng, phát triển các khóa
học quy mô hợp lý để các nhà đầu tư cá nhân có cơ hội được hiểu hơn về thị trường
chứng khoán. Nhiệm vụ của các nhà quản lý là đốc thúc các công ty chứng khoán,
các quỹ đầu tư, mở rộng các dịch vụ tư vấn tài chính, khóa đào tạo nhà đầu tư chứng
khoán chuyên nghiệp. Khi được trang bị những kiến thức vững chắc, mỗi nhà đầu tư
96
chứng khoán chuyên nghiệp sẽ là một thành viên của thị trường trái phiếu doanh
nghiệp, giúp thị trường ngày càng sôi động và phát triển hơn.
Chính các công ty chứng khoán, các quỹ đầu tư đủ điều kiện tham gia đầu
tư trái phiếu cũng là một kênh trung gian giúp các nhà đầu tư cá nhân đầu tư gián tiếp
vào thị trường. Các cơ quan nhà nước nên tạo điều kiện thuận lợi để các quỹ và công
ty chứng khoán phát triển các hoạt động ủy thác đầu tư, hoạt động đầu tư chứng chỉ
quỹ của các quỹ trái phiếu, tận dụng nguồn vốn từ các cá nhân để tăng quy mô giao
dịch trên thị trường chứng khoán nói chung và thị trường trái phiếu doanh nghiệp nói
riêng. Thị trường trái phiếu doanh nghiệp thứ cấp năng động nếu như có sự đa dạng
trong nhóm nhà đầu tư chuyên nghiệp.
Việc siết chặt các quy định về phát hành trái phiếu cũng có thể dẫn đến nguy cơ
thiếu hụt nguồn cung trái phiếu trên thị trường, các nhà quản lý nên cân nhắc điều
chỉnh các quy định kịp thời nếu như thị trường vốn mất cân đối khi áp lực huy động
vốn tín dụng từ kênh ngân hàng tăng cao, tránh tình trạng phụ thuộc quá lớn vào tín
dụng ngân hàng như đã diễn ra.
3.3.1.2. Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý, giám sát của Nhà nước
Để thị trường trái phiếu vận hành tốt đòi hỏi một hệ thống pháp lý hoàn thiện
mang lại một sân chơi công bằng, thông tin minh bạch cũng như một cơ quan quản
lý thị trường có năng lực. Dù các quy định hiện tại về phát hành trái phiếu doanh
nghiệp đã tương đối đồng bộ và đầy đủ, tuy nhiên vẫn cần các chế tài tăng cường
giám sát và quản lý thị trường trái phiếu doanh nghiệp. Định hướng thị trường đi theo
đúng phương hướng mục tiêu đã đề ra.
Hiện Việt Nam chưa có những quy trình uy tín đánh giá xếp hạng tín nhiệm
doanh nghiệp thống nhất, vì vậy các tổ chức tài chính tư vấn, bảo lãnh phát hành
thường đánh giá doanh nghiệp dưới lăng kính của các khoản vay (như một sản phẩm
tín dụng), điều kiện này dẫn đến thiệt thòi cho cả doanh nghiệp lẫn nhà đầu tư.
Thời gian tới, xu hướng phát hành trái phiếu ra công chúng sẽ có cơ hội phát
triển hơn loại phát hành riêng lẻ vì tính minh bạch của nó. Phát hành trái phiếu riêng
lẻ đặc biệt là dành cho các tổ chức tài chính như ngân hàng (mua lại), có thể sẽ xảy
97
ra rủi ro nếu doanh nghiệp lại dùng khoản tiền này để trả nợ ngân hàng nhằm giúp
ngân hàng xóa đi nợ xấu khiến cho đồng vốn đi lòng vòng, khó kiểm soát và ngân
hàng có thể gặp rủi ro. Do vậy, để thị trường trái phiếu phát triển tốt, đáp ứng nhu
cầu của doanh nghiệp và có thể kiểm soát tốt hướng phát triển ở tầm vĩ mô, Bộ Tài
chính cần sớm sửa đổi theo hướng phải chặt chẽ hơn và nâng cao việc kiểm soát từ
loại hình chào bán ra công chúng đến loại hình chào bán riêng lẻ.
3.3.1.3. Đổi mới trong khâu tổ chức thực hiện phát hành
* Đối với điều kiện phát hành
Điều kiện chào bán ra công chúng đã được quy định, tuy nhiên do thị trường
TPDN có đặc thù là tổ chức phát hành và các nhà đầu tư đều rất chuyên nghiệp và có
khả năng đánh giá rủi ro tốt nếu được cung cấp thông tin đầy đủ, do vậy, trong thời
gian tới, cần xem xét tiếp tục sửa đổi Nghị định 153 theo hướng ngoại trừ các điều
kiện cơ bản cần thiết để đảm bảo tính hợp pháp của đợt phát hành thì bỏ bớt các điều
kiện phát hành. Trong thời gian tới cần từng bước chuyển dịch theo cơ chế phát hành
dựa trên thông tin được công bố đầy đủ cụ thể như sau.
Giữ nguyên điều kiện đảm bảo tính hợp pháp của đợt phát hành: Sự phê
duyệt của hội đồng quản trị, hội đồng thành viên, cơ quan chủ quản;
Bổ sung điều kiện về chuẩn hóa trái phiếu phát hành: Quy định điều kiện
như TPCP để đảm bảo thống nhất thị trường như quy chuẩn mệnh giá 100.000 đồng,
quy chuẩn chu kỳ trả lãi coupon theo năm hoặc 06 tháng/ lần, quy chuẩn mức lãi suất
01 số thập phân v.v…;
Điều kiện minh bạch hóa thông tin để đảm bảo quyền lợi nhà đầu tư (điều
chỉnh, áp dụng có chọn lọc): yêu cầu phải có bản cáo bạch. Theo khuyến nghị của
ADB và ABMF, bản cáo bạch chỉ cần thiết đối với các đợt chào bán có ảnh hưởng
lớn đến quyền lợi của cổ đông doanh nghiệp hay NĐT như: (1) Phát hành đại chúng
hoặc phát hành TPDN chuyển đổi hoặc kèm chứng quyền; (2) Phát hành TPDN trong
trường hợp doanh nghiệp đang bị kiểm soát hoặc có chỉ số tài chính ở mức cần giám
sát theo quy định (DN lỗ trong năm gần nhất; DN có vốn chủ sở hữu âm….); (3) Phát
hành TPDN ra thị trường nước ngoài. DN nước ngoài phát hành TPDN tại thị trường
98
trong nước; (4) Các điều kiện khuyến khích (khuyến khích hoặc áp dụng từng trường
hợp. Chẳng hạn điều kiện định mức tín nhiệm
* Đối với thủ tục đăng ký/cấp phép phát hành
Hiện nay thủ tục đăng ký/cấp phép phát hành được quy định đối với hoạt động
phát hành ra công chúng tuy nhiên, để gắn hoạt động phát hành với đăng ký lưu ký
và đăng ký giao dịch, cần bổ sung quy định hướng dẫn việc đăng ký lưu ký ngay sau
khi phát hành và đăng ký giao dịch trên hệ thống giao dịch của các SGDCK.
Về lâu dài, chúng ta cần xem xét áp dụng cơ chế đăng ký điện tử gắn với cải
cách thủ tục hành chính và tăng cường minh bạch thông tin. Cơ chế đăng ký điện tử
hiện nay đang được các thị trường khu vực triển khai phổ biến cho thị trường TPDN.
Ví dụ tại Malaysia từ năm 2015 đã ban hành khung pháp lý hướng dẫn phát hành
TPDN có tên “Lodge and launch framework- đăng ký và triển khai phát hành ngay”.
* Công tác phát hành
Quy định đối với trường hợp phát hành ra công chúng là sau khi thực hiện đăng
ký và được chấp thuận phát hành TPDN, Doanh nghiệp lập thông báo phát hành cụ
thể cho mỗi đợt phát hành, công bố thông tin trên website của doanh nghiệp và
phương tiện thông tin đại chúng UBCKNN, Sở GDCK. Tổ chức phát hành thực hiện
phát hành theo một trong 03 hình thức: (1) Phát hành trực tiếp (bán lẻ); (2) Bảo lãnh
phát hành; (3) Đại lý phát hành. Kênh phát hành: Doanh nghiệp (hoặc tổ chức bảo
lãnh, đại lý) phát hành TPDN trên thị trường OTC hoặc phát hành thông qua hệ thống
hỗ trợ dựng sổ Book building của Sở GDCK. Hệ thống này cung cấp một kênh điện
tử qua Internet cho tổ chức phát hành hoặc tổ chức đại lý, bảo lãnh khảo sát nhu cầu
đăng ký mua TPDN của nhà đầu tư. Thông qua hệ thống này, mối liên kết giữa tổ
chức phát hành, tổ chức đại lý, bảo lãnh với hệ thống nhà đầu tư sẽ được thiết lập
ngay từ thị trường sơ cấp.
Quy định đối với trường hợp phát hành riêng lẻ là sau khi thực hiện đăng ký
phát hành TPDN với Bộ Tài chính, Doanh nghiệp thực hiện việc phát hành trực tiếp
cho nhà đầu tư (bảo đảm tuân thủ quy định không chào bán ra công chúng) hoặc thực
hiện phát hành qua hệ thống dựng sổ của HNX cho các nhà đầu tư chuyên nghiệp.
99
Trái phiếu doanh nghiệp ngay sau khi phát hành phải được báo cáo UBCKNN (trong
trường hợp phát hành ra công chúng) hoặc Vụ TCNH (trong trường hợp phát hành
riêng lẻ) và được Trung tâm lưu ký chứng khoán cấp mã ngay sau khi phát hành.
Việc cấp mã cho TPDN là cần thiết để xây dựng hệ thống thông tin chuẩn về thị
trường TPDN, bao gồm cả thị trường đăng ký giao dịch và OTC, hỗ trợ công tác thiết
kế, tổ chức hệ thống thông tin, tạo điều kiện cho NĐT trong nước, nước ngoài có thể
tra cứu, tìm hiểu thông tin TPDN một cách khoa học, thuận lợi.
Hiện tại HNX cũng đang triển khai chuyên trang thông tin trái phiếu doanh
nghiệp kể từ cuối năm 2020, tuy nhiên chuyên trang hiện chỉ bao gồm các thông tin
của Tổ chức phát hành và Tổ chức lưu ký đã đăng ký sử dụng Chuyên trang với Sở
Giao dịch Chứng khoán Hà Nội. Như vậy sẽ có một lượng lớn các doanh nghiệp
không thực hiện công bố thông tin chào bán và đầu tư. Đây là nhu cầu riêng của từng
nhà phát hành, nhà đầu tư trên thị trường, tuy nhiên việc cung cấp thông tin lên chuyên
trang sẽ có rất nhiều lợi ích đối với việc giao dịch trái phiếu trên thị trường thứ cấp
hoặc tăng lượng vốn huy động của Tổ chức phát hành. Vì khi đã thực hiện đưa thông
tin lên hệ thống, thị trường sẽ có cái nhìn đầy đủ hơn về hoạt động của doanh nghiệp
cũng như trái phiếu được phát hành, là cơ sở để đánh giá và so sánh với các hàng hóa
khác trên thị trường. Tạo ra quy chuẩn, thước đo chung cho toàn thị trường, góp phần
thúc đẩy các hoạt động đánh giá tín nhiệm trái phiếu còn đang thiếu ở Việt Nam. Như
vậy việc bắt buộc minh bạch thông tin các đợt phát hành trái phiếu là cần thiết đối
với tình hình thị trường trái phiếu doanh nghiệp hiện giờ.
3.3.1.4. Nâng điều kiện niêm yết trên sàn đối với các doanh nghiệp
Ví dụ quy định về qui mô DN phải dựa trên vốn chủ sở hữu chứ không phải
theo vốn điều lệ và quan trọng nhất là phải căn cứ trên doanh số hàng năm của DN.
Theo kinh nghiệm từ Trung Quốc, tiêu chuẩn phát hành trái phiếu của các doanh
nghiệp nhỏ và vừa ở Trung Quốc là đến thời điểm phát hành thì doanh nghiệp phải
có lãi thuần 3 năm gần nhất ≤30 triệu Nhân dân tệ (NDT); Tích lũy thu nhập trong 3
năm < 50 triệu NDT.
3.3.1.5. Tiến tới áp dụng các tiêu chuẩn quốc tế về công bố thông tin
100
Nhu cầu hội nhập quốc tế và vấn đề niêm yết trên thị trường quốc tế đang được
nhiều công ty quan tâm. Một trong những trở ngại khi thực hiện niêm yết ở thị trường
quốc tế và hiệu quả thu hút vốn sau khi công bố niêm yết chính là tính minh bạch và
hoạt động công bố thông tin chưa hiệu quả của các công ty dẫn đến giảm tính hấp dẫn
trong việc thu hút nhà đầu tư. Để đáp ứng được nhu cầu thông tin cao của các thị
trường phát triển trên thế giới các công ty có thể tham khảo những yêu cầu công bố
thông tin trên các thị trường phát triển trên thế giới, hay các tổ chức quốc tế đánh giá
xếp hạng công bố - minh bạch thông tin…, làm cơ sở để thực hiện hoạt động công bố
phù hợp và thỏa mãn nhu cầu nhà đầu tư trong và ngoài nước tốt hơn. Ngoài ra, các
công ty cũng nên công bố các dạng thông tin theo cả hai ngôn ngữ Việt- Anh, tạo
điều kiện tiếp cận thông tin một cách dễ dàng hơn đối với nhà đầu tư nước ngoài.
Trong thời gian tới, chúng ta cần tập trung cải cách vấn đề này. Các hướng xử
lý có thể cân nhắc gồm: (1) Đối với trường hợp phát hành ra công chúng: Doanh
nghiệp đăng ký kế hoạch phát hành và báo cáo kết quả phát hành điện tử với Bộ Tài
chính, Ủy ban chứng khoán nhà nước. Thông tin sau đó được công bố ngay ra thị
trường. Thông báo phát hành cụ thể cho mỗi đợt được công bố trước khi phát hành
thông qua website của TCPH hoặc qua hệ thống của Sở giao dịch chứng khoán; (2)
Đối với trường hợp phát hành riêng lẻ: Ngay sau hoàn tất đợt phát hành, doanh nghiệp
phải công bố thông tin về đợt phát hành trên hệ thống thông tin về TPDN. Mọi thông
tin thực hiện về trái phiếu (thông tin về quyền, đáo hạn, thay đổi thông tin về trái
phiếu, lãi suất, kỳ hạn, việc mua lại trái phiếu…), báo cáo tài chính, báo cáo về tiến
độ hoặc hiệu quả sử dụng vốn trái phiếu….; và các thông tin định kỳ, bất thường khác
của doanh nghiệp đã phát hành trái phiếu (kể cả phát hành đại chúng hay phát hành
riêng lẻ) đều phải công bố qua hệ thống thông tin về TPDN (profile listing).
3.3.1.6. Tạo điều kiện thuận lợi cho những tổ chức định mức tín nhiệm
tham gia thị trường
Khi thị trường TPDN còn ảm đạm và kém hấp dẫn, sự tham gia của những tổ
chức định mức tín nhiệm có vai trò quan trọng để kích cầu. Bởi vậy, việc tạo ra môi
trường thuận lợi để thu hút các tổ chức tín nhiệm sẽ góp phần nâng cao chất lượng
thông tin thị trường, tạo nên tính hấp dẫn của các trái phiếu cũng như đảm bảo được
101
lợi ích, hạn chế rủi ro cho nhà đầu tư.
Chính phủ ban hành Nghị định số 88/2014/NĐ-CP quy định về dịch vụ xếp
hạng tín nhiệm; điều kiện hoạt động của doanh nghiệp xếp hạng tín nhiệm được thành
lập và hoạt động tại Việt Nam. Nghị định trên quy định tổ chức được xếp hạng tín
nhiệm là doanh nghiệp, tổ chức được xếp hạng tín nhiệm hoặc có công cụ nợ được
xếp hạng tín nhiệm theo quy định.
Nghị định cũng nêu rõ, việc góp vốn thành lập doanh nghiệp xếp hạng tín nhiệm
phải thực hiện theo quy định của Luật Doanh nghiệp và phải đảm bảo tổ chức, cá
nhân đã góp vốn sở hữu trên 5% vốn điều lệ thực góp của một doanh nghiệp xếp hạng
tín nhiệm thì không được góp vốn thành lập hoặc mua, nắm giữ cổ phiếu hoặc phần
vốn góp của một doanh nghiệp xếp hạng tín nhiệm khác. Các tổ chức, cá nhân không
được sử dụng vốn ngân sách nhà nước để tham gia góp vốn thành lập doanh nghiệp
xếp hạng tín nhiệm.
Doanh nghiệp xếp hạng tín nhiệm được cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh
doanh không được góp vốn để thành lập doanh nghiệp xếp hạng tín nhiệm khác.
Về quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp xếp hạng tín nhiệm, Nghị định quy
định, doanh nghiệp xếp hạng tín nhiệm được quyền cung cấp dịch vụ xếp hạng tín
nhiệm đối với doanh nghiệp, tổ chức; xếp hạng tín nhiệm đối với công cụ nợ; các
dịch vụ liên quan đến hoạt động xếp hạng tín nhiệm (như dịch vụ thông tin về xếp
hạng tín nhiệm, đào tạo, bồi dưỡng, cập nhật kiến thức liên quan đến hoạt động xếp
hạng tín nhiệm).
Doanh nghiệp xếp hạng tín nhiệm chỉ được cung cấp dịch vụ xếp hạng tín nhiệm
khi được cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh và thực hiện công bố thông
tin trên phương tiện thông tin đại chúng và trang thông tin điện tử của doanh nghiệp
ít nhất 10 ngày làm việc trước ngày dự kiến khai trương hoạt động kinh doanh dịch
vụ xếp hạng tín nhiệm.
Việc tổ chức hoạt động cung cấp dịch vụ xếp hạng tín nhiệm phải độc lập và
khách quan; trung thực; minh bạch; tuân thủ quy định pháp luật hiện hành.
Nghị định cũng quy định rõ, doanh nghiệp xếp hạng tín nhiệm không được hoạt
102
động trong các lĩnh vực kế toán, kiểm toán; Chứng khoán (bao gồm: Môi giới, tư vấn,
bảo lãnh phát hành, đại lý phân phối chứng khoán, quản lý quỹ đầu tư, quản lý danh
mục đầu tư, đầu tư chứng khoán); Ngân hàng.
Tuy nhiên, để đáp ứng được các yêu cầu trên thì các tổ chức cá nhân ở Việt Nam
vẫn chưa nhiều. Vì vậy, giải pháp trước hết là sự tiên phong của Nhà nước trong thị
trường định mức tín nhiệm. Nghĩa là cần có các định chế tài chính thuộc sở hữu Nhà
nước thực hiện chức năng đánh giá doanh nghiệp phát hành, tạo ra định hướng ban
đầu cho các tổ chức khác lần lượt tham gia. Sự đi đầu của Nhà nước sẽ có một số ưu
thế sau đây:
Năng lực về vốn của tổ chức định mức luôn được đảm bảo nhờ sự hậu
thuẫn của Ngân sách.
Khả năng tiếp cận với chính sách, chế độ của Nhà nước nhanh chóng và
dễ dàng hơn.
Những tổ chức xếp hạng doanh nghiệp do Nhà nước đảm bảo thường có
uy tín và tạo được lòng tin lớn hơn đối với tâm lý nhà đầu tư.
Bên cạnh đó, việc mở đường của các tổ chức định mức tín nhiệm thuộc sở
hữu Nhà nước sẽ là cơ sở để những định chế tài chính nước ngoài tham gia vào thị
trường Việt Nam. Với năng lực tài chính và uy tín đã được khẳng định trên trường
quốc tế, các tổ chức này sẽ góp phần quan trọng để thúc đẩy sự phát triển của thị
trường TPDN Việt Nam.
Từ đó cho thấy, một công ty định mức tín nhiệm muốn thành công phải hội tụ
đủ những điều kiện dưới đây, theo đó, bản thân các công ty này cũng cần phải nỗ lực
để tạo được uy tín và thành công trên thị trường:
Tính độc lập: Đây là nhân tố quan trọng hàng đầu, bất kỳ một công ty định mức
tín nhiệm nào muốn thành công đều phải bảo đảm không chịu sức ép chính trị, sức
ép từ chủ thể phát hành trái phiếu. Công ty không thể vì mục đích chính trị mà ấn
định xếp hạng cao hơn hay thấp hơn cho một chủ thể phát hành trái phiếu. Kết quả
xếp hạng do công ty công bố cần phải đảm bảo tính khách quan, công bằng, phản ánh
103
trung thực tình hình thực tế của chủ thể phát hành trái phiếu, điều này sẽ quyết định
sự thành công hay thất bại của công ty. Có như vậy người đầu tư mới sử dụng xếp
hạng tín nhiệm do công ty công bố.
Tiềm lực tài chính: Khả năng tài chính là một yếu tố then chốt đối với bất cứ
loại hình công ty nào, nó đảm bảo cho công ty duy trì và mở rộng hoạt động sản xuất
kinh doanh. Song, đối với các công ty định mức tín nhiệm, tiềm lực tài chính còn cho
phép họ chống lại các sức ép từ bên ngoài để giữ địa vị độc lập của mình trong khi
ấn định xếp hạng tín nhiệm cho chủ thể phát hành trái phiếu.
Tiềm lực kỹ thuật: Tiềm lực kỹ thuật của một công ty xếp hạng tín nhiệm bao
gồm: Phương tiện làm việc, kỹ thuật xếp hạng và con người. Trang thiết bị tuy chỉ là
một yếu tố phụ, song nó trợ giúp khá đắc lực cho các chuyên gia xếp hạng tín nhiệm
hoàn thành công việc nhanh, chính xác. Vấn đề thứ hai là kỹ thuật xếp hạng tín nhiệm,
hay chính là công nghệ sản xuất của công ty định mức tín nhiệm, nó sẽ quyết định
chất lượng sản phẩm. Tuy nhiên, "công nghệ" này trong công ty định mức tín nhiệm
phần lớn nằm ở yếu tố con người, chính là đội ngũ chuyên gia xếp hạng tín nhiệm có
chuyên môn, kinh nghiệm. Họ là những người xử lí thông tin và đưa ra kết luận về
xếp hạng tín nhiệm của chủ thể phát hành trái phiếu, vậy nên trong xếp hạng tín nhiệm
có mang dấu ấn khá đậm nét tư duy và trình độ nghiệp vụ của các chuyên gia. Do đó,
bất cứ công ty định mức tín nhiệm nào cũng cần có một đội ngũ chuyên gia giỏi, có
kinh nghiệm để đảm bảo độ chính xác của các kết quả đưa ra, đảm bảo uy tín cho
công ty.
Khả năng tiếp cận thông tin: Nguyên liệu chính của công ty định mức tín nhiệm
là các loại thông tin. Thông tin càng đầy đủ, chính xác, càng tạo điều kiện thuận lợi
cho việc đưa ra một kết quả chính xác sau này. Do đó, công ty phải có khả năng tiếp
cận được nguồn thông tin đáng tin cậy về chủ thể phát hành trái phiếu dưới mọi hình
thức, trực tiếp hoặc gián tiếp, chính thức hoặc không chính thức.
Uy tín đối với thị trường: Cũng như bất kỳ một công ty nào, công ty định mức
tín nhiệm cũng cần phải tạo dựng được uy tín đối với thị trường, để kết quả định mức
tín nhiệm - sản phẩm mà công ty cung cấp, được "người tiêu dùng" - chính là công
104
chúng đầu tư, sử dụng.
3.3.2. Phát triển về cơ sở nhà đầu tư
3.3.2.1. Chính sách ưu đãi về thuế cho nhà đầu tư trái phiếu
Trong lĩnh vực đầu tư trái phiếu, Bộ Tài chính, Ủy ban Chứng khoán cân nhắc
nghiên cứu, rà soát một cách tổng thể các loại thuế suất trong lĩnh vực đầu tư trái
phiếu theo hướng khuyến khích kênh đầu tư dài hạn thông qua việc xem xét miễn,
giảm các loại thuế suất đối với thu nhập trái phiếu, thuế giao dịch đối với các giao
dịch repo trái phiếu, thuế thu nhập đối với các nghiệp vụ hoán đổi (swap)...
3.3.2.2. Xem xét chính sách thuế hợp lý cho quỹ mở
Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư số 183/2011/TT-BTC ngày 16/12/2011
hướng dẫn thành lập và quản lý quỹ mở và có hiệu lực thi hành từ tháng 3/2012. Tuy
nhiên, cho đến nay vẫn chưa có chính sách thuế cụ thể để khuyến khích nhà đầu tư
tham gia các loại hình quỹ mới như quỹ mở. Về chính sách thuế đối với quỹ mở, theo
quy định của pháp luật hiện hành, hoạt động phát hành chứng chỉ quỹ (CCQ) lần đầu
thuộc diện không chịu thuế GTGT, NĐT không phải trả thuế GTGT. Phát hành CCQ
tương tự như phát hành cổ phiếu lần đầu, không có thu nhập nên không phải nộp thuế
TNDN, điều này là hợp lý. Đến nay, Bộ Tài chính mới chỉ hướng dẫn những quy định
liên quan đến việc Công ty quản lý quỹ thực hiện quản lý danh mục đầu tư có trách
nhiệm khấu trừ thuế thu nhập TNCN với mức 0,1% trên doanh số bán đối với các
giao dịch chuyển nhượng chứng khoán của cá nhân ủy thác đầu tư thực.
Trong thời gian tới Bộ Tài chính cần sớm hoàn chỉnh hệ thống chính sách thuế
đối với lĩnh vực chứng khoán, trong đó, tập trung khắc phục những bất hợp lý của
chính sách thuế hiện tại. Ngoài ra, không nên áp dụng chính sách thuế đối với hoạt
động mua hay bán chứng chỉ quỹ mở. Do bản chất của quỹ mở là quỹ đầu tư có thể
phát hành liên tục chứng chỉ quỹ hay cổ phiếu ra công chúng và phải mua lại khi nhà
đầu tư có yêu cầu thu hồi vốn. Ngược lại, đối với quỹ đóng thì sau khi phát hành
chứng chỉ quỹ cho nhà đầu tư, quỹ sẽ không mua lại chứng chỉ quỹ khi nhà đầu tư có
yêu cầu. Để tạo tính thanh khoản cho chứng chỉ quỹ đóng thì sau khi kết thúc việc
huy động vốn, chứng chỉ quỹ sẽ được niêm yết trên Sở giao dịch chứng khoán hay
105
được giao dịch trên thị trường chứng khoán tập trung và nhà đầu tư có thể thu hồi vốn
bằng cách bán chứng chỉ quỹ trên các thị trường nói trên. Do chứng khoán của quỹ
mở không được niêm yết, giao dịch trên Sở giao dịch chứng khoán nên khi nhà đầu
tư có nhu cầu chuyển chứng chỉ quỹ thành tiền họ có quyền bán lại các chứng khoán
cho Quỹ và Quỹ có nghĩa vụ mua lại chứng khoán này theo giá trị tài sản thuần của
Quỹ tại thời điểm giao dịch. Do đó, về bản chất hoạt động mua bán chứng chỉ quỹ
mở là hoạt động đầu tư góp vốn và thoái vốn ra khỏi quỹ của các nhà đầu tư.
3.3.2.3. Nâng cao chất lượng đào tạo các kiến thức về thị trường TPDN
Về góc độ nhà đầu tư, hiện nay số nhà đầu tư nhỏ lẻ (cá nhân) chiếm tới 90%,
chỉ 10% còn lại thuộc về những tổ chức đầu tư chuyên nghiệp. Nhìn nhận trình độ
của nhà đầu tư cá nhân, phần lớn là những người không được đào tạo bài bản về thị
trường chứng khoán. Các hoạt động đầu tư trong qua thường mang tính chất bầy đàn,
không có sự phân tích, đánh giá kỹ lưỡng về thị trường dưới góc độ khoa học. Nguyên
nhân từ tình trạng này trước hết là do hệ thống giáo dục về thị trường chứng khoán
tại Việt Nam vẫn còn non kém.
Hầu hết nhà đầu tư chứng khoán Việt Nam chưa được đào tạo bài bản mà mới
chỉ tham gia các khóa học ngắn hạn từ 1 đến 3 tháng. Tại các trường đại học có chuyên
ngành Tài chính của Việt Nam có bộ môn thị trường chứng khoán nhưng tính thực tế
còn chưa được đáp ứng, mức độ cập nhật chưa đảm bảo đáp ứng yêu cầu cho sinh
viên khi ra trường. Nói cách khác, mức độ chuyên môn hóa về lĩnh vực chứng khoán
sự sâu và sát với thực tế.
Như vậy, giải quyết vấn đề con người trước hết là phải cải tiến công tác giáo
dục, đào tạo về thị trường chứng khoán. Các giáo trình học tập cần được các cơ quan
chuyên môn (đặc biệt là Ủy ban Chứng khoán Nhà nước, các viện nghiên cứu, Bộ
Giáo dục - Đào tạo) nghiên cứu, xây dựng và phổ cập trong các lớp học. Công tác
quản lý, kiểm soát các khóa học ngắn hạn, quy trình cấp chứng chỉ sau khóa học cũng
cần thắt chặt để đảm bảo chất lượng đầu ra của học viên.
Vấn đề tiếp theo cần giải quyết là nhận thức của nhà đầu tư đối với TPDN. Hiện
nay sự quan tâm của nhà đầu tư cá nhân đối với TPDN còn rất hạn chế. Nguyên nhân
106
bao gồm cả yếu tổ chủ quan và khách quan như: trình độ của nhà đầu tư, thiếu vắng
nhà tạo lập thị trường, đội ngũ môi giới chưa chuyên nghiệp, hệ thống chính sách
chưa hấp dẫn… Trong phần này, giải pháp về yếu tố con người là nhằm thu hút sự
quan tâm của giới đầu tư đối với TPDN thông qua công tác tuyên truyền, vận động.
Có ý kiến cho rằng thu nhập từ trái phiếu không hấp dẫn bằng cổ phiếu, và đó
là lý do cơ bản khiến nhà đầu tư ít để ý tới loại chứng khoán này. Tuy nhiên, những
lợi thế nhất định của TPDN đôi khi lại đảm bảo một mức thu nhập cao hơn cho nhà
đầu tư. Cụ thể:
Trong bối cảnh doanh nghiệp kinh doanh sa sút, giá trị cổ phiếu trên thị trường
sụt giảm sẽ khiến cho thu nhập của cổ đông bị ảnh hưởng. Nhưng nếu nhà đầu tư sở
hữu trái phiếu của doanh nghiệp đó, cho dù kết quả kinh doanh bị giảm sút thì khi trái
phiếu đáo hạn, thu nhập từ trái phiếu vẫn được đảm bảo theo một mức đã được thỏa
thuận từ trước. Thậm chí, trường hợp doanh nghiệp bị phá sản thì với vị trí là chủ nợ,
các trái chủ sẽ được ưu tiên thanh toán phần vốn đã bỏ ra trước khi trả cho các cổ
đông.
Ngược lại, nếu doanh nghiệp làm ăn phát đạt thì với những nhà đầu tư vào trái
phiếu chuyển đổi sẽ là cơ hội được sở hữu cổ phiếu có chất lượng trên thị trường.
Vấn đề nhà đầu tư cần quan tâm ở đây là tỷ lệ chuyển đổi, hình thức chuyển đổi, mức
lãi suất được doanh nghiệp công bố tại thời điểm phát hành.
Việc nắm trong tay những TPDN tốt, đồng thời thị trường TPDN hoạt động sôi
nổi cũng sẽ là cơ hội để nhà đầu tư kiếm lời từ các giao dịch mua - bán, lợi nhuận thu
về cũng không thua kém đầu tư cổ phiếu.
Từ phân tích trên đây, giải pháp cơ bản cần phải thực hiện là: Chính phủ, Ủy
ban Chứng khoán Nhà nước và doanh nghiệp cần có sự phối hợp chặt chẽ với nhau,
thường xuyên tổ chức các diễn đàn, các cuộc đối thoại về TPDN. Thông qua các sự
kiện này, nhận thức của nhà đầu tư đối với TPDN sẽ được nâng lên. Hơn nữa, đây là
cơ hội để doanh nghiệp nắm bắt được nhu cầu của nhà đầu tư để phát hành những trái
phiếu phù hợp, đồng thời, doanh nghiệp cũng có dịp quảng bá, giới thiệu hình ảnh
công ty nhằm tạo ra một lượng cầu trái phiếu nhất định. Một tác dụng nữa là cơ quan
107
quản lý Nhà nước sẽ có thêm nguồn thông tin về thị trường thông qua việc nắm bắt
tâm tư, nguyện vọng của doanh nghiệp và nhà đầu tư để từ đó có những quyết sách
phù hợp trong từng thời kỳ. Tóm lại, hoạt động này sẽ tạo ra sự kết nối giữa cơ quan
quản lý - doanh nghiệp - nhà đầu tư, là cơ sở quan trọng để thị trường TPDN duy trì
và phát triển đúng hướng.
3.3.3. Thúc đẩy hoạt động của các định chế trung gian
3.3.3.1. Phát huy vai trò của nhà tạo lập thị trường
Nhà tạo lập thị trường cho TPDN ở Việt Nam mới chỉ dừng lại ở một số ngân
hàng thương mại, các công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ… với vị trí là đại lý
phát hành, là nhà đầu tư chứng khoán tự doanh, trong khi hoạt động môi giới trái
phiếu mặc dù có nhưng vẫn rất hạn chế. Điều này đã khiến các giao dịch trái phiếu
diễn ra khá tẻ nhạt, thiếu nhân tố tạo nên những “cú huých” để thu hút sự quan tâm
của nhà đầu tư đại chúng.
Như vậy, giải pháp đưa ra là cần có sự can thiệp của Nhà nước. Cụ thể hơn, đó
là sự tham gia của Tổng công ty đầu tư và kinh doanh vốn Nhà nước (SCIC) trên thị
trường TPDN. Trong giai đoạn chứng khoán sụt giảm, SCIC đã thể hiện tương đối
tốt chức năng của mình thông qua các hoạt động mua - bán cổ phiếu của các doanh
nghiệp niêm yết. Nhưng đối với TPDN thì dường như SCIC chưa có sự quan tâm phù
hợp. Do đó, với vai trò của một nhà tạo lập thị trường thuộc quyền điều hành của Nhà
nước, SCIC cần có biện pháp điều tiết thị trường TPDN tốt hơn trong thời gian tới.
Việc định hướng nhu cầu giao dịch trái phiếu cho nhà đầu tư sẽ là yếu tố quan trọng
giúp nâng cao tính thanh khoản cho loại chứng khoán này đồng thời góp phần tạo ra
sự sôi động cho thị trường trong giai đoạn sắp tới.
Một giải pháp nữa là cần khuyến khích sự tham gia của các quỹ đầu tư đầu tư
vào TPDN. Đây là một trong các những thành viên tích cực của thị trường chứng
khoán góp phần tăng tính thanh khoản của trái phiếu. Các quỹ đầu tư sẽ tập hợp các
nguồn vốn nhỏ lẻ từ nhiều nhà đầu tư không chuyên nghiệp, đầu tư vào danh mục các
trái phiếu và cổ phiếu. Khi đó, một cách chuyên nghiệp và cơ hội tiếp cận thông tin
đầy đủ hơn, các quỹ đầu tư sẽ thực hiện việc mua bán trái phiếu kiếm lời. Với lợi thế
108
về tiềm lực tài chính và trình độ chuyên môn, những động thái giao dịch của các quỹ
đầu tư này sẽ tạo ra định hướng nhất định về cung - cầu trên thị trường trái phiếu thứ
cấp.
3.3.3.2. Tăng cường năng lực kết nối thị trường thông qua chuyên nghiệp
hóa đội ngũ môi giới chứng khoán
Tại những thị trường chứng khoán phát triển trên thế giới, đội ngũ môi giới luôn
được đánh giá rất cao và giữ vai trò quyết định trong các giao dịch. Ở Việt Nam hiện
nay, môi giới chứng khoán chưa thực sự phát triển, các môi giới viên tại các công ty
chứng khoán chưa đảm bảo được yêu cầu cần thiết cho một thị trường chuyên nghiệp,
trong khi môi giới ở thị trường chợ đen luôn tiềm ẩn những rủi ro đối với nhà đầu tư.
Đây là lực cản khá lớn đối với tính thanh khoản của TPDN. Bởi vậy, chuyên nghiệp
hóa đội ngũ môi giới chứng khoán sẽ là yêu cầu cấp thiết để tạo ra cầu nối giữa cung
và cầu trái phiếu trên thị trường. Một số biện pháp cơ bản để thực hiện yêu cầu này
gồm có:
Nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của những chuyên gia hoạt động môi
giới tại các công ty chứng khoán theo những chuẩn mực quốc tế nhằm đáp ứng yêu
cầu hội nhập.
Đề cao và bồi dưỡng đạo đức nghề nghiệp trong hoạt động môi giới chứng
khoán - một yêu cầu không thể thiếu của một nhà môi giới.
Tuyên truyền, hướng dẫn nhà đầu tư về vị trí, vai trò của nhà môi giới đối với
hoạt động giao dịch trái phiếu.
Tất cả những biện pháp này cần phải có sự tham gia hướng dẫn, điều hành và
quản lý chặt chẽ của cơ quan chức năng mà cụ thể là Ủy ban Chứng khoán Nhà nước.
Việc sớm ban hành những chuẩn mực cho người hoạt động môi giới sẽ là bước giải
quyết đầu tiên để xây dựng một đội ngũ chuyên viên môi giới có chất lượng cao.
3.3.3.3. Chuẩn hóa cách thức xác định lãi suất phát hành
Thông thường, các nhà đầu tư thường xây dựng đường cong lãi suất dựa vào
việc quan sát sự biến động của giá và lãi suất trên thị trường các trái phiếu Chính phủ.
Bởi vì trái phiếu Chính phủ không có rủi ro vỡ nợ, đồng thời đây cũng là thị trường
109
hoạt động sôi động nhất và lớn nhất do các trái phiếu Chính phủ có tính thanh khoản
cao, đây chính là đường cong lãi suất chuẩn trên thị trường.
Còn đối với loại TPDN, đường cong lãi suất chuẩn được xây dựng dựa vào các
trái phiếu của các công ty có uy tín. Các trái phiếu này được coi là có mức độ rủi ro
thấp hoặc bằng không. Do đó, các mức lãi suất của các trái phiếu này được sử dụng
làm lãi suất chuẩn cho các trái phiếu khác. Phần chênh lệch giữa lãi suất chuẩn và lãi
suất của các trái phiếu khác phản ánh mức độ rủi ro của các trái phiếu đó, mức chênh
lệch càng lớn thì trái phiếu đó càng rủi ro.
So với các nước trên thế giới, thị trường trái phiếu Việt Nam được đánh giá là
khá non trẻ khi giá trị còn nhỏ, tính thanh khoản chưa cao và kỳ hạn trái phiếu chưa
đa dạng… Tuy vậy, cùng với sự phát triển và hội nhập của thị trường trái phiếu, việc
đưa ra một đường cong lãi suất mang tính định hướng kỳ vọng của thị trường là điều
cần thiết. Thực tế cũng cho thấy, lãi suất trái phiếu dài hạn trong thời gian gần đây
đều nhỉnh hơn so với mức lãi suất ở các kỳ hạn ngắn hơn. Nhưng cần lưu ý rằng hình
dạng đường cong lãi suất sẽ luôn được điều chỉnh để phản ánh những biến động của
kỳ vọng thị trường.
Việc xây dựng đường cong lãi suất chuẩn cần tuân thủ nguyên tắc cơ bản sau:
Lãi suất TPDN phải được xác định dựa trên quan hệ cung cầu về vốn trên
thị trường.
Trái phiếu có thời hạn càng dài thì lãi suất càng cao.
Lãi suất TPDN phải cao hơn lãi suất huy động và thấp hơn lãi suất cho vay
của các Ngân hàng thương mại ở cùng kỳ hạn.
Để xác định mức lãi suất phát hành TPDN phù hợp, tạo sức hấp dẫn cho các
nhà đầu tư cần phải xây dựng lãi suất trái phiếu Chính phủ trở thành lãi suất chuẩn
cho thị trường tài chính nói chung và thị trường TPDN nói riêng. Mức lãi suất này
phải phản ánh đúng tình hình cung cầu vốn trên thị trường.
Phát hành TPCP có kỳ hạn dài từ 10-15 năm là cơ sở hình thành lãi suất
cho thị trường tài chính nói chung và thị trường TPDN nói riêng.
110
Trên cơ sở giao điểm giữa đường cong lãi suất với các kỳ hạn tương ứng, chủ
thể phát hành sẽ xác định mức lãi suất tương ứng. Mức lãi suất chuẩn này cộng với
tỷ lệ rủi ro khác nhau của từng loại trái phiếu sẽ hình thành nên mức lãi suất huy động
vốn trên thị trường. Do vậy, mức lãi suất TPCP sẽ là lãi suất cơ sở cho việc xác định
lãi suất phát hành TPDN.
Rủi ro khi đầu tư vào doanh nghiệp càng lớn thì nhà đầu tư đòi hỏi mức bù rủi
ro cao hơn để bù đắp rủi ro có thể gặp phải. Lãi suất phát hành phải đảm bảo mức lãi
suất thực và bù đắp được mức lạm phát.
3.4. Các kiến nghị khác
Tạo lập môi trường kinh tế vĩ mô ổn định. Kinh nghiệm thực tế cho thấy, khi
kinh tế càng khó khăn thì nhà đầu tư sẽ tìm đến với các kênh đầu tư an toàn như TPCP
thay vì TPDN. Do vậy, để có thể phát triển thị trường TPDN, cần phải tạo lập môi
trường kinh tế vĩ mô ổn định, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp kinh doanh có hiệu
quả bởi nếu doanh nghiệp không có tiềm lực kinh tế, hoạt động kinh doanh thua lỗ
và không tạo dựng được lòng tin đối với giới đầu tư thì việc huy động vốn qua thị
trường trái phiếu của doanh nghiệp vẫn sẽ gặp khó khăn, thị trường TPDN theo đó
cũng sẽ không thể phát triển được
Cần thực hiện tốt nhiệm vụ giữ ổn định kinh tế, chính trị, xã hội trong giai đoạn
khủng hoảng nhằm tạo đà cho sự phát triển đất nước. Trong đó, chính sách thuế và
chính sách tiền tệ cần được quan tâm đặc biệt bởi hai yếu tố này có tác động trực tiếp
đến những biến động trên thị trường chứng khoán trong ngắn hạn và dài hạn.
Ủy ban Chứng khoán Nhà nước cần tiếp tục phát huy vai trò quản lý của mình
đối với thị trường chứng khoán trong thời gian tới. Những chính sách, quy định mới
ban hành cần phải dựa trên cơ sở nghiên cứu, phân tích có khoa học và phù hợp với
yêu cầu trong từng thời kỳ phát triển. Việc lắng nghe và tiếp thu ý kiến của doanh
nghiệp, của nhà đầu tư là cần thiết bởi chính những chủ thể này sẽ tạo ra sự sôi động
của thị trường trái phiếu trong thời gian tới. Ngoài ra, cần có những ưu đãi nhất định
đối với doanh nghiệp phát hành cũng như nhà đầu tư để tạo thêm tính hấp dẫn của thị
trường. Công tác hoàn thiện hành lang pháp lý cho các chủ thể khác tham gia thị
111
trường (nhà môi giới, quỹ đầu tư, đại lý phát hành, các ngân hàng thương mại…)
cũng là cơ sở để nâng cao tính thanh khoản cho thị trường trái phiếu.
Tăng cường kiểm tra, giám sát thị trường trái phiếu, áp dụng các biện pháp
phòng ngừa rủi ro nhằm đảm bảo quyền lợi cho tổ chức phát hành cũng như nhà đầu
tư trái phiếu.
Cuối cùng, cần phân định rõ ràng chức năng, nhiệm vụ của từng cơ quan quản
lý nhà nước trong điều hành thị trường trái phiếu nhưng phải đảm bảo sự phối, kết
hợp chặt chẽ giữa các cơ quan này. Cụ thể:
Chính phủ có nhiệm vụ nghiên cứu, ban hành cơ chế, chính sách điều hành
chung cho thị trường, thành lập các cơ quan chuyên trách để giúp việc cho Ủy ban
chứng khoán Nhà nước.
Bộ Tài chính có nhiệm vụ điều tiết thị trường thông qua các công cụ thuế, tiền
tệ, ban hành các chính sách về thu nhập, quản lý tài chính doanh nghiệp…
Ngân hàng Nhà nước phối hợp với Bộ Tài chính quản lý các hoạt động của các
tổ chức tài chính - tín dụng có liên quan đến các nghiệp vụ về trái phiếu; điều hành
chính sách lãi suất cơ bản trong từng thời kỳ nhằm tạo cơ sở cho doanh nghiệp đưa
ra mức lãi suất hấp dẫn nhưng đảm bảo hiệu quả khi phát hành trái phiếu.
Ủy ban Chứng khoán Nhà nước là cơ quan trực tiếp điều hành thị trường, quản
lý phát hành và giao dịch trái phiếu; quản lý và giám sát các công ty chứng khoán,
các tổ chức định mức tín nhiệm, các tổ chức lưu ký và thanh toán; thiết lập các tiêu
chuẩn niêm yết và cấp phép phát hành trái phiếu; giám sát hoạt động của thị trường
giao dịch tập trung…
Trung tâm giao dịch chứng khoán kiểm soát các công ty thành viên và công ty
niêm yết để duy trì thị trường công bằng, có trật tự; quản lý các giao dịch trái phiếu
có niêm yết và không niêm yết trên thị trường OTC; thiết lập tiêu chuẩn niêm yết và
quản lý biến động giá; công bố thông tin, kiểm soát các giao dịch và giải quyết các
xung đột giữa các chủ thể khi tham gia thị trường trái phiếu.
3.5. Đóng góp của luận văn
112
Qua tìm hiểu, nghiên cứu nhiều đề tài nghiên cứu liên quan đến vấn đề huy động
vốn thông qua phát hành trái phiếu, do đối tượng nghiên cứu có sự khác biệt hoặc do
tính hạn chế về địa lý và lịch sử, cũng như cho đến nay đã có nhiều sự biến động của
kinh tế xã hội nên các công trình mới chỉ giải quyết được một phần liên quan đến huy
động vốn thông qua phát hành TPDN, các giải pháp chưa mang tính đồng bộ nhằm
tăng cường vai trò của kênh huy động vốn này đối với doanh nghiệp Việt Nam trong
bối cảnh hiện nay. Nghiên cứu về phát triển thị trường TPDN ở Việt Nam, luận văn
có những đóng góp mới cả về lý luận và thực tiễn:
Luận văn đã làm rõ được những vấn đề cơ bản về trái phiếu doanh nghiệp
và thị trường trái phiếu doanh nghiệp, đưa ra được quan điểm về phát triển thị trường
TPDN; phân tích chỉ rõ những nhân tố ảnh hưởng đến phát triển thị trường TPDN;
nêu ra kinh nghiệm quốc tế về phát triển thị trường TPDN của một số quốc gia và rút
ra một số bài học cho Việt Nam;
Đánh giá được thực trạng thị trường TPDN Việt Nam trên các khía cạnh
môi trường kinh tế, khuôn khổ pháp lý, thực trạng thị trường sơ cấp và thứ cấp; luận
giải được những mặt còn hạn chế theo các tiêu chí của thông lệ quốc tế về thực trạng
phát triển thị trường TPDN của Việt Nam trong thời gian qua (đặc biệt là giai đoạn
2017 – 2020);
Luận văn đã đề xuất được 03 nhóm giải pháp phát triển thị trường TPDN
trong thời gian tới bao gồm: hoàn thiện và tổ chức triển khai các chính sách mới, phát
triển cơ sở nhà đầu tư cũng như thúc đẩy hoạt động của các tổ chức trung gian.
3.6. Một số hạn chế của luận văn và hướng nghiên cứu tiếp theo
Mặc dù đã đạt được một số yêu cầu nêu trong mục đích nghiên cứu, nhưng luận
văn vẫn còn một số hạn chế:
Luận văn dựa vào nghiên cứu và thực tiễn tại các nền kinh tế khác đề xuất một
số giải pháp nhằm cải thiện các hạn chế của thị trường trái phiếu doanh nghiệp tại
Việt Nam. Tuy nhiên luận văn chưa thể khẳng định và đánh giá tuyệt đối các đề xuất
này có phù hợp với thị trường Việt Nam hay không.
Luận văn đưa ra quan điểm cá nhân tác giả đối với một số vấn đề phát sinh tại
113
cơ quan quản lý nhà nước, các tổ chức tham gia thị trường và các nhà đầu tư mà chưa
thực sự nhìn nhận ý kiến chính xác từ góc độ các đối tượng này.
Do giới hạn bởi thời gian, số liệu và năng lực thu thập, các thông tin đánh giá
thực trạng thị trường trái phiếu doanh nghiệp chưa được giải thích chi tiết, các lý luận
trong luận văn còn đơn giản.
Tác giả luận văn cảm nhận rằng để nghiên cứu đạt kết quả cao hơn cần phải tiếp
tục phân tích sâu hơn các khía cạnh của thị trường trái phiếu doanh nghiệp thông qua
một số hướng nghiên cứu mà tác giả dự định phát triển như sau:
Thu thập bảng hỏi đối với từng đối tượng là cơ quan chính sách, nhà đầu
tư tham gia thị trường hay các định chế trung gian về các đánh giá về thị trường, các
hạn chế cần khắc phục hoặc thậm chí là mong muốn cơ chế chính sách mới. Đối với
mỗi đối tượng sẽ có những câu hỏi tập trung vào vấn đề cần giải quyết, điều này có
thể đánh giá đúng đắn hơn nhu cầu cần thiết của thị trường, từ đó đề xuất được các
chính sách phù hợp.
Xem xét các phản ứng của thị trường khi các chính sách mới được ban
hành hoặc các sự kiện nổi bật, đánh giá hiệu quả, phản ứng của thị trường đối với các
sự kiện đó để rút ra tính chất nổi bật của thị trường Việt Nam. Từ các tính chất đặc
thù đó, rút ra được các gợi ý về tính hiệu quả của các đề xuất để phát triển thị trường.
114
Kết luận chương 3
Thị trường trái phiếu là kênh dẫn vốn trung và dài hạn bổ trợ cho thị trường cổ
phiếu và tín dụng ngân hàng. Thị trường trái phiếu cho phép huy động các nguồn vốn
tạm thời nhàn rỗi trong toàn xã hội vào đầu tư phát triển kinh tế. Tuy nhiên qua phân
tích thực trạng phát triển thị trường TPDN của Việt Nam trong thời gian qua cho thấy
thị trường TPDN còn phát triển chưa phát huy được hết vai trò của mình. Để phát
triển thị trường TPDN trong thời gian tới trên cơ sở định hướng và mục tiêu cả định
tính và định lượng, chương 3 đã tập trung đề xuất các nhóm giải pháp bao gồm Nhóm
giải pháp hoàn thiện và tổ chức triển khai các chính sách mới theo hướng tạo thuận
lợi hơn nữa cho các tổ chức tham gia hoạt động trên thị trường TPDN; Hoàn thiện
khung pháp lý, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý, giám sát của Nhà nước; Tiến tới
áp dụng các tiêu chuẩn quốc tế về công bố thông tin; Nhóm giải pháp triển cơ sở nhà
đầu tư trong đó các giải pháp được tập trung vào việc tạo môi trường thu hút các nhà
đầu tư; Nhóm giải pháp thúc đẩy hoạt động của các tổ chức trung gian như tạo điều
kiện để phát huy vai trò của nhà tạo lập thị trường; Tăng cường năng lực kết nối thông
qua đội ngũ môi giới… Để các giải pháp được triển khai một cách thuận lợi thì vai
trò của nhà nước trong ổn định môi trường vĩ mô, của các cơ quan quản lý nhà nước
trong lĩnh vực cũng phải được phát huy.
115
KẾT LUẬN
Thị trường TPDN là một bộ phận quan trọng của thị trường trái phiếu Việt Nam
nói riêng và hệ thống tài chính Việt Nam nói chung. Việc hình thành và phát triển thị
trường TPDN ở nước ta là một yêu cầu bức thiết, và với nền kinh tế, có tác động qua
lại tới sự phát triển của thị trường chứng khoán. Khi thị trường TPDN đạt hiệu quả,
không chỉ doanh nghiệp đạt được mục đích về nhu cầu vốn cho phát triển kinh doanh
mà còn tạo điều kiện để đa dạng hóa nâng cao chất lượng hàng hóa cho thị trường
trái phiếu, tạo tiền đề thuận lợi cho thị trường chứng khoán phát triển. Ngược lại khi
thị trường chứng khoán phát triển sẽ tạo môi trường thuận lợi cả về mặt pháp lý cũng
như kinh tế cho thị trường TPDN phát triển. Tuy nhiên nghiên cứu thực trạng huy
động vốn TPDN ở nước ta cho thấy còn nhiều bất cập. Các văn bản quy định đã có
nhưng chưa đồng bộ, chưa phù hợp với tình hình thực tế. Các nhà đầu tư cũng như
các doanh nghiệp phát hành trái phiếu vẫn chưa có một cái nhìn đúng đắn về trái
phiếu, thị trường thứ cấp vẫn chưa được tổ chức phù hợp để thúc đẩy thị trường sơ
cấp phát triển từ đó khiến việc phát hành trái phiếu của doanh nghiệp còn gặp nhiều
khó khăn. Trên cơ sở phân tích thực trạng, xu thế của môi trường cạnh tranh kinh tế
thế giới cũng như trong nước tác giả đã trình bày những giải pháp nhằm tăng cường
huy động vốn đầu tư tăng trưởng qua phát hành TPDN. Trong đó đặc biệt nhấn mạnh
03 nhóm giải pháp bao gồm:
Nhóm 1: Nhóm giải pháp hoàn thiện và tổ chức triển khai các chính sách mới
theo hướng tạo thuận lợi hơn nữa cho các tổ chức tham gia hoạt động trên thị trường
TPDN; Hoàn thiện khung pháp lý, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý, giám sát của
Nhà nước; Tiến tới áp dụng các tiêu chuẩn quốc tế về công bố thông tin;
Nhóm 2: Nhóm giải pháp triển cơ sở nhà đầu tư trong đó các giải pháp được tập
trung vào việc tạo môi trường thu hút các nhà đầu tư; Xây dựng các chính sách về
thuế; Nâng cao chất lượng đầu tư thông qua tăng cường phát triển kiến thức về thị
trường;
Nhóm 3: Nhóm giải pháp thúc đẩy hoạt động của các tổ chức trung gian như
tạo điều kiện để phát huy vai trò của nhà tạo lập thị trường; Tăng cường năng lực kết
116
nối thông qua đội ngũ môi giới; Chuẩn hóa cách xác định lãi suất trên thị trường.
Để đảm bảo tính khả thi của các giải pháp, Luận văn còn đề xuất các điều kiện
thực để triển khai thực hiện các giải pháp trong đó có điều kiện của Nhà nước bao
gồm tạo lập môi trường vĩ mô ổn định để các doanh nghiệp, nhà đầu tư hoạt động,
đồng thời phát huy vai trò của các tổ chức như Ủy ban chứng khoán nhà nước, các tổ
chức tài chính trung gian…
117
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu trong nước
1. Bạch Đức Hiển, Giáo trình Thị Trường Chứng Khoán, NXB Tài chính, Học viện
Tài chính, 2008.
2. Bạch Đức Hiển, Giáo trình Đầu Tư và Phân tích chứng khoán, NXB Tài chính,
Học viện Tài chính, 2009.
3. Bùi Văn Vần, TS.Vũ Văn Ninh, Giáo trình Tài chính doanh nghiệp, NXB Tài
chính, Học viện Tài chính, 2013.
4. Bộ Tài chính, Đề án phát triển Thị trường chứng khoán Việt Nam giai đoạn 2011
– 2020, 2011.
5. Bộ Tài chính, Báo cáo tình hình phát triển thị trường vốn năm 2014, Tài liệu phục
vụ phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 12/2014, 2014.
6. Bộ Tài chính, Báo cáo tình hình phát triển thị trường vốn năm 2014, Tài liệu phục
vụ phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 6/2015, 2015.
7. Chính phủ Việt Nam, Nghị định số 52/2006/NĐ-CP ngày 19/5/2009 của Chính
phủ về phát hành TPDN, 2009.
8. Chính phủ Việt Nam, Quyết định số 128/QĐ-TTg ngày 2/8/2007 về Phát triển thị
trường vốn ở Việt Nam đến năm 2010 và tầm nhìn đến năm 2020, 2007.
9. Chính phủ Việt Nam, Quyết định 242/QĐ-TTg ngày 28/02/2019 về phê duyệt Đề
án "Cơ cấu lại thị trường chứng khoán và thị trường bảo hiểm đến năm 2020 và
định hướng đến năm 2025, 2019.
10. Luật chứng khoán 2019 số 54/2019/QH14 ngày 26/11/2019.
11. Luật chứng khoán 2006 số 70/2006/QH11 ngày 29/06/2006.
12. Luật Doanh nghiệp 2020 số 59/2020/QH14 ngày 17/06/2020.
13. Nghị định 90/2011/NĐ-CP ban hành 14/10/2011 Về phát hành trái phiếu doanh
nghiệp.
14. Nghị định 81/2020/NĐ-CP ban hành ngày 09/07/2020 Sửa đổi, bổ sung một số
điều của Nghị định số 163/2018/NĐ-CP ngày 04 tháng 12 năm 2018 quy định về
118
phát hành trái phiếu doanh nghiệp.
15. Nghị định 163/2018/NĐ-CP ban hành ngày 04/12/2018 Quy định về phát hành
trái phiếu doanh nghiệp.
16. Nghị định 153/2020/NĐ-CP ban hành ngày 31/12/2020 Quy định về chào bán,
giao dịch trái phiếu doanh nghiệp riêng lẻ tại thị trường trong nước và chào bán
trái phiếu doanh nghiệp ra thị trường quốc tế.
17. Quyết định 242/QĐ-TTg năm 2019 về phê duyệt Đề án "Cơ cấu lại thị trường
chứng khoán và thị trường bảo hiểm đến năm 2020 và định hướng đến năm 2025"
do Thủ tướng Chính phủ ban hành 28/02/2019.
Tài liệu nước ngoài
18. A Akter, RH Himo, AB Siddik, Corporate Bond Market: The Case of Bangladesh
World Review of Business Research, 9 (1), tr.73 – tr.85.
19. OICU-IOSCO (2014), Corporate Bond Markets: A Global Perspective.
20. Jochen R. Andritzky - Monetary and Capital Markets Department - IMF (2007),
Capital Market Development in a Small Country
21. Asian Development Bank (03/2021), Asia Bond Monitor.
22. Bank Negara Malaysia Fully Automated System for Issuing/Tendering (FAST)
and Bloomberg LP.
Các thông tin cập nhật từ các Website:
23. https://asianbondsonline.adb.org/
24. https://www.gso.gov.vn/ Tổng cục thống kê
25. https://www.sbv.gov.vn/ Ngân hàng nhà nước
26. http://www.mpi.gov.vn/ Bộ Kế hoạch đầu tư
27. https://www.mof.gov.vn/ Bộ Tài chính
28. https://www.ssc.gov.vn/ UBCKNN
29. https://hnx.vn/vi-vn/ Sở Giao dịch Chứng khoán Hà Nội
30. https://www.hsx.vn/ Sở Giao dịch Chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯
¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯
Hà Nội, ngày 15 tháng 07 năm 2021
THEO BIÊN BẢN BUỔI BẢO VỆ HỘI ĐỒNG ĐÁNH GIÁ LUẬN VĂN THẠC SĨ
Họ và tên HVCH: Ngô Việt Trung
Chuyên ngành: Tài chính Ngân hàng
Mã số: 8340201
Đề tài: Phát triển thị trường trái phiếu doanh nghiệp tại Việt Nam
Người hướng dẫn khoa học: PGS, TS Nguyễn Thị Lan Căn cứ kết luận sau phiên họp ngày 01/07/2021 của Hội đồng đánh giá luận văn thạc sĩ (được thành lập theo Quyết định số 1271/QĐ - ĐHNT ngày 15/06/2021 của Hiệu trưởng Trường Đại học Ngoại thương), HVCH đã bổ sung, sửa chữa luận văn theo các nội dung như sau:
1. Sửa lại phần mở đầu: Viết lại phần tổng quan nghiên cứu; Bổ sung giai đoạn nghiên cứu;
2. Chỉnh sửa chương 1: Bổ sung chi tiết nội dung các tiêu chí, phương thức đo lường và đánh
giá; Sử dụng tiêu chí nào để đánh giá tình hình cho Việt Nam;
3. Đặt lại tên chương 2 thành thực trạng phát triển thị trường trái phiếu; Sửa lại kết cấu tương
ứng 5 tiêu chí; đánh giá và đưa ra hạn chế sau khi đánh giá;
4. Chương 3: Bổ sung xu hướng phát triển của thị trường; sửa lại kết cấu giải pháp phân theo 3
nhóm để phù hợp với các hạn chế đã nêu ra ở chương 2;
5. Chỉnh sửa trình bày luận văn.
Lưu ý: Nêu đầy đủ các kết luận của Hội đồng về những thiếu sót trong nội dung và hình thức luận văn mà HVCH cần bổ sung/sửa chữa; giải trình các phần HVCH đã bổ sung/sửa chữa; hoặc lý giải những phần HVCH muốn bảo lưu ý kiến ban đầu.
BẢN GIẢI TRÌNH SỬA CHỮA/BỔ SUNG LUẬN VĂN