intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Phẫu thuật một thì chữa lỗ đái lệch thấp dùng mảnh ghép niêm mạc bao quy đầu tự do tạo niệu đạo (kinh nghiệm cá nhân trên 300 bệnh nhân)

Chia sẻ: Trần Thị Hạnh | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:8

65
lượt xem
1
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Đề tài nghiên cứu này được thực hiện nhằm những mục tiêu nghiên cứu sau: Mô tả kỹ thuật mổ chữa lỗ đái lệch thấp dùng mảnh ghép niêm mạc bao qui đầu tụ do tạo niệu đạo và đánh giá kết quả. Nghiên cứu thực hiện trên những bệnh nhân bị lỗ đái lệch thấp được mổ một thì, tại bệnh viện Việt-Đức từ 7-2000 đến 7-2009.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Phẫu thuật một thì chữa lỗ đái lệch thấp dùng mảnh ghép niêm mạc bao quy đầu tự do tạo niệu đạo (kinh nghiệm cá nhân trên 300 bệnh nhân)

PHẪU THUẬT MỘT THÌ CHỮA LỖ ĐÁI LỆCH THẤP DÙNG MẢNH<br /> GHÉP NIÊM MẠC BAO QUY ĐẦU TỰ DO TẠO NIỆU ĐẠO<br /> (KINH NGHIỆM CÁ NHÂN TRÊN 300 BỆNH NHÂN)<br /> Trần Ngọc Bích*<br /> <br /> TÓM TẮT<br /> Mục tiêu: Đã có nhiều phương pháp mổ chữa dị tật lỗ đái lệch thấp (LĐLT). Từ 1989, chúng tôi mổ một thì<br /> chữa dị tật này, dùng mảnh ghép niêm mạc bao qui đầu để tạo niệu đạo. Chúng tôi thực hiện đề tài này với 2 mục<br /> tiêu sau: Mô tả kỹ thuật mổ chữa LĐLT dùng mảnh ghép niêm mạc bao qui đầu tụ do tạo niệu đạo và đánh giá<br /> kết quả<br /> Phương pháp: Đối tượng: Là những BN bị LĐLT được mổ một thì, tại bệnh viện Việt-Đức từ 7-2000 đến<br /> 7-2009. Phương pháp: Mô tả, tiền cứu<br /> Kết quả: Theo dõi trong 7 tháng. Với LĐL thể dương vật: Kết quả tốt 88,6% (187/ 211 BN), rò niệu đạo 9,5<br /> % (20/211 BN). Hẹp miệng nối niệu đạo 1,9% (4/211). Với LĐLT thể bìu- đáy chậu: Kết quả tốt đạt 86,5 %<br /> (77/89 BN), rò niệu đạo 10,1 % (9/89 BN), hẹp niệu đạo 3,4% (3/89 BN). Đang theo dõi kết quả lâu dài.<br /> Kết luận: Qua mổ 300 bệnh nhân bị dị tật lỗ đái lệch thấp bằng phẫu thuật một thì, dùng mảnh ghép niêm<br /> mạc bao qui đầu tự do tạo niệu đạo, chúng tôi thấy đây là kỹ thuật dễ thực hiện, cho tỷ lệ thành công cao và nên<br /> được áp dụng.<br /> Từ khóa: Lỗ đái lệch thấp.<br /> <br /> ABSTRACT<br /> ONE-STAGE HYPOSPADIAS REPAIR USING PREPUTIAL MUCOSAL GRAFT FOR<br /> URETHROPLASTY. EXPERIENCE ON 300 CASES.<br /> Tran Ngoc Bich * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 13 - Supplement of No 6 - 2009: 158 - 163<br /> Objectives: There are many techniques for hypospadias repair. Since 1989 we have performed one stage<br /> hypospadias repair using preputial mucosal graft for urethroplasty. Objectives: To present the surgical technique<br /> and the results.<br /> Methods: Methods: Descriptive, prospective study. Subjects: patients diagnosed with hypospadias were<br /> operated on at Viet-Duc Hospital from July 2000 to July 2009.<br /> Results: Follow up in 7 months. For the penile hypospadias: Good in 88.6% (187/ 211 BN), fistula 9.5 %<br /> (20/211 BN), stenosis: 1.9% (4/211). For the perineo-scrotal hypospadias: Good 86.5 % (77/89 BN), fistula 10.1<br /> % (9/89 BN), stenosis: 3.4% (3/89 BN). A long term following up is carrying.<br /> Conclusion: We have performed one stage hypospadias repair using preputial mucosal graft for<br /> urethroplasty in 300 cases. This technique is easily performed, gives a good result and should be selected to treat<br /> hypospadias<br /> Key words: Hypospadias.<br /> <br /> ĐẶT VẤN ĐỀ<br /> Cho tới nay, dị tật lỗ đái lệch thấp (LĐLT) đã được mổ chữa bởi rất nhiều phương pháp, với nhiều loại<br /> * Bệnh viện Việt-Đức<br /> Địa chỉ liên lạc: PGS.TS. Trần Ngọc Bích<br /> <br /> ĐT: 0912047958 Email: tnbich@hn.vnn.vn<br /> <br /> 159<br /> <br /> chất liệu khác nhau để tạo hình niệu đạo như: Vạt niêm mạc bao qui đầu có cuống mạch hoặc tự do, mảnh<br /> ghép da tự do, mảnh niêm mạc bàng quang, niêm mạc miệng...(1,2, 3,4,5,10,6,9) .<br /> Từ 1984, chúng tôi bắt đầu mổ một thì chữa các thể bệnh LĐLT(6). Lúc đầu, chúng tôi chỉ dùng các vạt<br /> da hoặc vạt niêm mạc có cuống mạch để tạo hình niệu đạo. Về sau, do có nhiều bệnh nhân không còn đủ<br /> chất liệu tại chỗ để tạo hình niệu đạo, nên chúng tôi buộc phải dùng mảnh ghép tự do như da dày tự do,<br /> niêm mạc bàng quang để tạo hình niệu đạo. Từ 1989 tới nay, song song với các kỹ thuật mổ đã nêu trên,<br /> chúng tôi đã sử dụng mảnh ghép niêm mạc bao qui đầu tự do để tạo hình niệu đạo trong mổ chữa thể<br /> dương vật và đã có đánh giá kết quả sớm(9) và lâu dài của kỹ thuật này(7). Từ 9 năm nay, chúng tôi đã dùng<br /> kỹ thuật này mổ chữa cho cả thể bìu và đáy chậu vì những ưu điểm của nó.<br /> <br /> Mục tiêu nghiên cứu<br /> Với mục đích đánh giá khả năng ứng dụng của mảnh ghép niêm mạc bao qui đầu tự do trong tạo<br /> hình niệu đạo, chúng tôi thực hiện đề tài này với 2 mục tiêu sau:<br /> Mô tả kỹ thuật mổ chữa LĐLT thể dương vật- bìu- đáy chậu, dùng mảnh ghép niêm mạc bao qui<br /> đầu tự do tạo niệu đạo<br /> Đánh giá kết quả<br /> <br /> PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU<br /> Phương pháp nghiên cứu<br /> Mô tả, tiền cứu<br /> <br /> Đối tượng nghiên cứu<br /> Là những BN bị LĐLT thể đáy chậu - bìu - dương vật, được mổ một thì, được tạo niệu đạo bằng<br /> mảnh ghép niêm mạc bao qui đầu tự do. Các BN này được mổ từ tháng 7-2000 tới hết tháng 7-2009 do<br /> một phẫu thuật viên mổ (Bs Trần Ngọc Bích).<br /> <br /> Các tiến hành nghiên cứu<br /> Cách mổ<br /> Với lỗ đái lệch thấp thể dương vật<br /> Sau khi dã làm thẳng dương vật, tạo niệu đạo thiếu bằng mảnh ghép niêm mạc bao qui đầu tự do.<br /> Đặt sonde qua niệu đạo vào bàng quang.<br /> Với lỗ đái lệch thấp thể bìu - đáy chậu<br /> Tuỳ theo độ dài của đoạn niệu đạo thiếu mà có hai cách tạo niệu đạo:<br /> Tạo niệu đạo một ống<br /> Lấy mảnh ghép niêm mạc-da tự do của bao qui đầu ở độ dài tối đa để tạo ống niệu đạo mới, nối<br /> với lỗ đái thấp mà không bị căng.<br /> Tạo hai ống niệu đạo<br /> Sau khi đã lấy mảnh ghép niêm mạc bao qui đầu có độ dài tối đa để tạo niệu đạo mà chưa đủ độ<br /> dài cần có thì phải tạo thêm ống niệu đạo bìu bằng vạt da ở giữa bìu từ lỗ đái thấp lên rồi nối hai ống<br /> niệu đạo mới tạo với nhau. Miệng nối niệu đạo có hình ovan để giảm nguy cơ hẹp miệng nối.<br /> Nếu da ở bìu từ lỗ đái thấp lên phía gốc dương vật không đủ độ dài để tạo niệu đạo bìu cần có thì<br /> phẫu tích lấy hai vạt da bìu ở hai bên rồi khâu lại để tạo thành một vạt. Như vậy ống niệu đạo bìu sẽ có<br /> hai đường khâu: Một ở vị trí 6 giờ và một ở vị trí 12 giờ.<br /> Hoặc niệu đạo bìu được tạo bằng một vạt da bao qui đầu hoặc da dương vật hình đảo.<br /> <br /> 160<br /> <br /> Sau khi đã tạo được ống niệu đạo thiếu thì vấn đề quan trọng không kém còn lại là chuyển vạt da<br /> để che phủ ống niệu đạo mới và phần thiếu da ở bụng dương vật. Với lỗ đái thấp thể bìu- đáy chậu, da<br /> ở bụng dương vật rất thiếu. Do vậy, chúng tôi thường phải dùng hai vạt da cân bìu có chân nuôi xoay<br /> lên để che phủ phần thiếu da.<br /> <br /> Điều trị sau mổ<br /> - Kháng sinh:<br /> Gentamicine hoặc Amikacine kết hợp Augmentin hay Zinnat uống.<br /> -Thay băng: Lần đầu vào ngày thứ 5 sau mổ.<br /> -Rút sonde niệu đạo: Vào ngày thứ 9,10 sau mổ. Trước khi rút sonde, có cặp sonde ngắt quãng. Ra<br /> viện ngày 9-11 sau mổ. Bệnh nhân được hẹn khám kiểm tra định kỳ.<br /> Đánh giá kết quả:<br /> Chúng tôi phân loại kết quả theo các mức độ sau:<br /> Tốt: Các mục tiêu mổ đều đạt được kết quả tốt. Không phải mổ lại.<br /> + Dương vật thẳng khi cương và không đau.<br /> + Đái ra lỗ đái ở đỉnh qui đầu, đái dễ, tia to.<br /> + Không rò - hẹp niệu đạo.<br /> + Da phân phối đều quanh dương vật.<br /> + Bảo tồn cảm giác của qui đầu.<br /> Trung bình: Đạt được phần lớn mục tiêu mổ, còn phải mổ bổ sung nhưng mức độ mổ nhẹ hơn so<br /> với lần mổ đầu tiên.<br /> + Dương vật thẳng khi cương, không đau.<br /> + Đái ra lỗ đái ở đỉnh qui đầu.<br /> + Có rò niệu đạo hoặc hẹp miệng nối niệu đạo.<br /> Xấu: Không đạt được mục đích mổ, phải mổ lại từ đầu, mức độ mổ khó gần bằng hoặc tương<br /> đương hoặc khó hơn lần mổ ban đầu.<br /> + Dương vật còn cong, xoay trục<br /> + Hẹp niệu đạo đoạn dài, phải mổ thay thế bằng một đoạn niệu đạo mới.<br /> + Niệu đạo tạo hình toác và dương vật cong<br /> Thời gian theo dõi kết quả<br /> Kết quả sớm: Đánh giá khi ra viện và trong 6 tháng đầu sau mổ.<br /> Kết quả qua theo dõi: Từ 7 tháng - 3 năm.<br /> <br /> KẾT QUẢ<br /> Số bệnh nhân và lứa tuổi: 300 BN<br /> ≤ 2 tuổi<br /> <br /> :25 BN (8,3%).<br /> <br /> Từ 3-5 tuổi :159 BN (53 %).<br /> Từ 6-11 tuổi<br /> <br /> :51 BN (9,5 %).<br /> <br /> Từ 12-16 tuổi<br /> <br /> :39 BN (17 %).<br /> <br /> Trên 16 tuổi<br /> <br /> :26 BN (8,7%).<br /> <br /> Bệnh nhân cao tuổi nhất là 38 tuổi, có lỗ đái ở đáy chậu.<br /> <br /> 161<br /> <br /> Nhiễm khuẩn: Có 38 BN có mủ rỉ ra ở niệu đạo khi rút ống thông niệu đạo.<br /> Kết quả sớm ngay sau ra viện và qua theo dõi: Để đánh giá kết quả cho đúng với thể bệnh và loại<br /> kỹ thuật mổ, chúng tôi phân làm 2 nhóm bệnh nhân: thể dương vật, thể bìu-đáy chậu.<br /> <br /> Kết quả ở nhóm BN bị LĐLT thể dương vật<br /> Kết quả<br /> Thời gian<br /> Ra viện<br /> 1- 7 tháng<br /> <br /> Tốt<br /> 196<br /> (92,8%)<br /> 187<br /> (88,6 %)<br /> <br /> Trung bình<br /> Tổng số<br /> BN<br /> Hẹp NĐ Rò NĐ<br /> 15 (7,2%) 211 (100%)<br /> 4 (1,9%) 20 (9,5%) 211 (100%)<br /> <br /> Trong 211 BN trên, có 19 BN phải làm thêm kỹ thuật Nesbit để làm thẳng dương vật và chuyển da<br /> bìu lên che phủ phần khuyết da ở bụng dương vật là 32 BN<br /> Trong số 20 BN bị rò niệu đạo trên, có 3 BN vừa bị rò niệu đạo vừa bị hẹp niệu đạo qui đầu, và 2<br /> BN rò niệu đạo và hẹp miệng nối.<br /> <br /> Kết quả ở nhóm BN bị LĐLT thể bìu-đáy chậu<br /> Kết quả<br /> Thời gian<br /> <br /> Tốt<br /> <br /> Ra viện<br /> <br /> 81 (91%)<br /> <br /> 1 - 7 tháng<br /> <br /> Trung bình<br /> Hẹp NĐ<br /> <br /> Rò NĐ<br /> <br /> Tổng số<br /> BN<br /> <br /> 8 (9%)<br /> <br /> 89 (100%)<br /> <br /> 77<br /> 3 (3,4%) 9 (10,1%) 89 (100%)<br /> (86,5%)<br /> <br /> Trong số 89 BN trên, có 25 BN có LĐLT ở 1/2 sau bìu và 64 BN có LĐLT ở 1/2 trước bìu. Có 22 BN<br /> khi mổ phải tạo 2 ống niệu đạo và 67 BN chỉ tạo một ống niệu đạo. Có 22 BN phải làm thêm kỹ thuật<br /> Nesbit. 75 bệnh nhân được áp dụng kỹ thuật chuyển da bìu lên để che phủ phần thiếu da ở bụng<br /> dương vật. Rò niệu đạo ở 5 BN được mổ tạo 2 ống niệu đạo và ở 4 BN được mổ tạo một ống niệu đạo.<br /> Hẹp miệng nối niệu đạo ở 3 bệnh nhân.<br /> <br /> Kết quả chung cho cả hai thể bệnh<br /> Lúc ra viện: KQ tốt: 92,3% (277/300 BN), KQ trung bình: Rò niệu đạo là chủ yếu: 7,7% (23/300<br /> BN).<br /> Qua theo dõi trong 7 tháng: KQ tốt: 88% (264/300 BN), KQ trung bình: 12% (36/300 BN).<br /> Nhận xét kết quả qua theo dõi.<br /> Rò niệu đạo: 29 BN.<br /> Vị trí lỗ rò: Rãnh qui đầu: 8 BN, bụng dương vật: 7 BN, miệng nối niệu đạo: 9 BN, ở bìu 5 BN.<br /> Trong số BN bị rò niệu đạo, có 3 BN bị hẹp NĐ qui đầu kèm theo.<br /> Kích thước lỗ rò: Nhỏ, nên bệnh nhân vẫn đái ra đỉnh qui đầu.<br /> Hẹp niệu đạo: Có 7 BN bị hẹp miệng nối niệu đạo.<br /> <br /> Điều trị<br /> - Mổ khâu lỗ rò đơn thuần: 19 BN, còn 8 BN có lỗ rò nhỏ theo chân chỉ, nên chưa mổ lại, để theo<br /> dõi thêm.<br /> - Hẹp niệu đạo kết hợp rò niệu đạo: 2 BN.<br /> <br /> Xử trí<br /> Mổ khâu rò niệu đạo và nong niệu đạo qui đầu: 2 BN.<br /> - Hẹp lỗ đái ở đỉnh qui đầu, nong dễ, có kết quả tốt: 4 BN.<br /> <br /> 162<br /> <br /> - Hẹp miệng nối: 7 BN. Hai bệnh nhân đã được nong miệng nối 4 lần, sau đó mổ mở thông niệu<br /> đạo chỗ miệng nối ra da. 5 bệnh nhân được nong và đặt stent lưu 2 tuần với kết quả tốt.<br /> <br /> BÀN LUẬN<br /> Mảnh ghép niêm mạc bao qui đầu tự do được Presman (1953) dùng để tạo hình niệu đạo lần đầu<br /> tiên và được Devine-Horton (1961)(2) phát triển kỹ thuật này. Chúng tôi bắt đầu dùng mảnh ghép niêm<br /> mạc bao qui đầu tự do từ 1989(8). Qua 20 năm mổ với chất liệu này, chúng tôi thấy được ưu nhược<br /> điểm của kỹ thuật với kết quả theo dõi sớm và lâu dài, chúng tôi xin bàn luận về một số vấn đề sau:<br /> - Kỹ thuật mổ chữa LĐLT thể dương vật – bìu - đáy chậu, dùng mảnh ghép niêm mạc bao quy đầu<br /> tự do tạo niệu đạo.<br /> - Đánh giá kết quả sớm và xa của kỹ thuật này.<br /> <br /> Về kỹ thuật mổ dùng niêm mạc bao qui đầu tự do tạo niệu đạo<br /> Ưu điểm<br /> Kỹ thuật lấy mảnh ghép niêm mạc bao qui đầu tự do thực hiện dễ dàng, có thể lấy được chiều dài<br /> mảnh ghép tối đa cho nên chiều dài mảnh ghép luôn đủ để tạo niệu đạo dương vật,và còn có thể tạo<br /> thêm niệu đạo bìu ít nhất cũng được tới 1/2 trước bìu. Chúng tôi đã có 67 BN có LĐLT ở bì nhưng chỉ<br /> cần tạo một ống niệu đạo giống như LĐLT ở thể dương vật.Việc phẫu tích tổ chức dưới da dương vật<br /> ít, chỉ cần phẫu tích tới giữa lưng dương vật nên ít gây thương tổn mạch máu. Mảnh ghép này khi<br /> được khâu tạo ống niệu đạo mới không gây xoay trục dương vật. Điều này khác với phẫu tích lấy vạt<br /> niêm mạc bao qui đầu hình đảo thì phải phẫu tích lấy cuống mạch dài để tránh xoay trục dương vật.<br /> Mảnh ghép niêm mạc bao qui đầu tự do là niêm mạc, trơn nhẵn, không mọc lông, có độ chun giãn nên<br /> thích hợp cho tạo niệu đạo. Một ưu điểm nữa của niêm mạc bao qui đầu là không có tuyến bã bên<br /> trong.<br /> Sau tạo ống niệu đạo thì việc chuyển đủ da để che phủ niệu đạo tạo hình và phần thiếu da ở bụng<br /> dương vật là rất quan trọng.<br /> Vạt da bao qui đầu được chuyển xuống che phủ ống niệu đạo mới còn nguyên tổ chức dưới da<br /> giàu mạch máu nên vạt ghép tự do này đã được nuôi dưỡng bằng thẩm thấu và tái lập tuần hoàn<br /> nhanh chóng đảm bảo sự sống và sự phát triển sau này.<br /> Trong những trường hợp thiếu da ở bụng dương vật, chúng tôi phải chuyển vạt da từ bìu lên<br /> để che phủ theo kỹ thuật vạt xoay có chân nuôi.<br /> Nhược điểm<br /> Mảnh ghép tự do sẽ bị hoại tử nếu không có nền nhận có cấp máu tốt, có máu tụ và nhiễm<br /> trùng.<br /> Để tránh nhược điểm này, khi mổ, chúng tôi đảm bảo không có máu tụ, hạn chế dùng đốt điện<br /> cầm máu và khâu da thành 2 lớp. Nếu tổ chức dưới da dương vật thiếu thì chúng tôi chuyển một vạt<br /> tổ chức dưới da bìu lên để che phủ niệu đạo mới. Nguyên lý này được thực hiện cho các mảnh ghép tự<br /> do tạo niệu đạo trước và cả niệu đạo sau. Điều này khác với kỹ thuật vạt niêm mạc bao qui đầu hình<br /> đảo, chỉ khâu da được một lớp mà da này ít mạch máu. Sau mổ, chúng tôi đã băng ép nhẹ dương vật,<br /> và thay băng lần đầu ngày thứ 5 sau mổ để đảm bảo sự hàn gắn và tái lập tuần hoàn mới cho vạt ghép<br /> tự do tạo ống niệu đạo. Chính vì vậy, tất cả các vạt ghép đều sống.<br /> <br /> Đánh giá kết quả mổ<br /> Về kết quả sớm và xa của niệu đạo tạo hình:<br /> <br /> 163<br /> <br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2