YOMEDIA
Các thao tác phẫu thuật (Kỳ 1)
Chia sẻ: Barbie Barbie
| Ngày:
| Loại File: PDF
| Số trang:5
110
lượt xem
27
download
Download
Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ
Thuật ngữ phẫu thuật (surgery) có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp là cheirergon, có nghĩa là “công việc của bàn tay”. Một phẫu thuật viên luôn phải nhớ rằng: nếu không hết sức cẩn thận thì bàn tay của mình có thể gây nên những hậu quả đáng tiếc cho người bệnh. Bên cạnh sự đồng cảm với những lo lắng của người bệnh và gia đình họ, người phẫu thuật viên còn phải giữ cho mình đủ tỉnh táo để tìm ra giải pháp phẫu thuật thích hợp nhất cứu chữa cho người bệnh.
1. Đường rạch da:...
AMBIENT/
Chủ đề:
Nội dung Text: Các thao tác phẫu thuật (Kỳ 1)
- Các thao tác phẫu thuật
(Kỳ 1)
Thuật ngữ phẫu thuật (surgery) có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp là
cheirergon, có nghĩa là “công việc của bàn tay”. Một phẫu thuật viên luôn phải
nhớ rằng: nếu không hết sức cẩn thận thì bàn tay của mình có thể gây nên những
hậu quả đáng tiếc cho người bệnh. Bên cạnh sự đồng cảm với những lo lắng của
người bệnh và gia đình họ, người phẫu thuật viên còn phải giữ cho mình đủ tỉnh
táo để tìm ra giải pháp phẫu thuật thích hợp nhất cứu chữa cho người bệnh.
1. Đường rạch da:
Nguyên tắc cơ bản để chọn đường rạch da là phải đảm bảo bộc lộ thoả đáng
cơ quan bị bệnh đồng thời sẹo mổ phải ít ảnh hưởng nhất đến chức năng và thẩm
mỹ.
Vì vậy cần phải tính toán trước về hình dáng, hướng, kích thước... của
đường rạch. Nói chung, đường rạch nên đi theo các nếp da bình thường. Trong các
trường hợp mổ lại, cần cố gắng sử dụng đường rạch lần trước. Phải đảm bảo mép
- đường rạch không bị gấp khúc, độ sâu đường rạch da vừa đủ và đều đặn, vách của
đường rạch thường phải vuông góc với mặt da.
2. Bóc tách tổ chức:
Bóc tách tổ chức theo các lớp tự nhiên là cách ít gây chấn thương nhất.
Ngón tay trỏ là phương tiện tự nhiên nhất dùng để bóc tách. Đôi khi có thể dùng
gạc thấm nước hoặc bông cầu để bóc tách các tổ chức dính nhiều. Kéo đầu tù cũng
là phương tiện bóc tách rất tốt đối với các lớp tổ chức quá chắc không thể bóc tách
bằng ngón tay hay bông cầu được. Đối với các tổ chức sẹo quá xơ dày thì có thể
dùng kéo nhọn.
Gần đây một kỹ thuật bóc tách mới đã được phát triển cùng với phương
pháp phẫu thuật nội soi, đó là bóc tách nội soi được theo dõi trên màn hình. Kỹ
thuật này ít gây tổn thương tổ chức, ít bị nhiễm trùng và sẹo mổ rất nhỏ.
3. Cắt lọc vết thương:
Cắt lọc vết thương nhằm lấy bỏ tổ chức đã bị ô nhiễm nặng, các tổ chức
chết hoặc các dị vật, tránh nguy cơ nhiễm trùng lan rộng. Tưới rửa vết thương với
áp lực cao cũng có thể làm sạch hoặc giảm được số lượng các vật thể nhỏ và bùn
đất trong vết thương.
Việc xác định chính xác giới hạn của vùng cần cắt lọc thường không dễ
dàng. Để xác định cơ còn sống hay không, ngoài việc xem màu sắc còn phải kích
- thích để xem nó còn co bóp hay không. Các tổ chức khác như màng cứng, cân và
gân có thể sống sót nếu được che phủ ngay bằng các vạt tổ chức lành giàu mạch
máu nuôi, do đó nói chung chúng nên được để lại.
4. Cầm máu:
Mục đính của cầm máu là làm giảm lượng máu mất, tạo trường mổ sạch và
không để hình thành bọc máu tụ sau mổ (các bọc máu tụ dễ bị nhiễm trùng, cản trở
sự xâm nhập của các nguyên bào sợi, cản trở sự hình thành các mao mạch mới, do
đó làm chậm liền vết thương).
Đối với các mạch máu nhỏ chỉ cần duy trì lực ép trong 15 - 20 giây thì các
cục đông sẽ hình thành ở đầu của chúng nhờ đó không bị chảy máu tiếp nữa. Đối
với các mạch máu lớn thì phải cầm máu bằng các mối chỉ thắt, mối buộc hoặc kẹp
clip kim loại.
5. Đóng vết mổ:
Các vết thương có hơn 105 vi khuẩn trong một gam tổ chức thì không nên
đóng kín ngay kỳ đầu vì tỉ lệ nhiễm trùng sau mổ sẽ là 50 - 100%. Các vết thương
ít ô nhiễm hơn thì thường liền kỳ đầu, trừ khi có những yếu tố khác làm giảm khả
- năng đề kháng của bệnh nhân. Trong một số trường hợp có thể đóng kín kỳ đầu
chậm (từ ngày thứ tư sau bị thương trở đi) khi cơ thể đã có thời gian để phát động
được cơ chế đề kháng với nhiễm trùng.
Không được để lại các khoảng trống trong vết thương vì dịch sẽ tiết vào và
đọng lại, tạo môi trường cho vi khuẩn phát triển. Trong các trường hợp vết mổ mất
da rộng, khâu thông thường sẽ gây căng và dẫn tới hoại tử mép da, có thể dùng các
thiết bị đặc biệt có thể điều chỉnh được độ căng của các mối chỉ khâu để kéo giãn
da ra dần dần, tránh được tình trạng hoại tử mép da vết mổ.
6. Các mối khâu vết mổ:
+ Mối khâu rời đơn: là loại mối khâu thường được dùng nhất. Nó có thể
khép kín các mép vết mổ, sửa chỉnh mọi so le và chênh lệch của đường khâu. Các
mối khâu da cần phải càng sát mép vết mổ càng tốt. Đường xuyên kim phải lấy
được đến lớp hạ bì của da để làm các mép da hơi được nâng cao lên tạo điều kiện
thuận lợi cho quá trình liền vết thương. Các mối khâu bằng chỉ nhỏ gần nhau sẽ có
đường khâu chắc hơn so với các mối khâu chỉ to cách xa nhau. Với một lực kéo
nhất định thì các mối khâu rời vuông góc với đường mổ sẽ ít gây căng vết mổ
nhất.
Thêm tài liệu vào bộ sưu tập có sẵn:
Báo xấu
LAVA
ERROR:connection to 10.20.1.98:9315 failed (errno=111, msg=Connection refused)
ERROR:connection to 10.20.1.98:9315 failed (errno=111, msg=Connection refused)
Đang xử lý...